Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu". Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho lẫm cần cho người làm nghề nông. Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng. Mọi lợi nhuận đều thu vào kho. Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng. Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm. Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định. Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34). Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy. Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho. Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay. Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới. Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này. Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15). Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân. Ðừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích. Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi tất cả. Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn. Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. -------------------------------
Tiền bạc của cải là mối bận tâm lớn của con người. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. HIện nay hệ thống tài chính nắm quyền sinh sát thế giới. Trong nền sản xuất công nghiệp phát triển, cần rất nhiều nguyên liệu và nhiên liệu. Ai có nhiều tài nguyên này sẽ giầu có. Sẽ có thế lực. Sẽ điều khiển thế giới. Vì thế ai cũng lo chiếm hữu nhiều tài nguyên. Để có nhiều tiền bạc của cải.
Nhưng nếu chỉ bận tâm về tiền bạc của cải sẽ rất nguy hiểm. Cần có ý thức về những giá trị lớn hơn, cao hơn, bền vững. Nên Chúa Giê-su cảnh báo: “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Kể dụ ngôn ông nhà giầu xây kho. Toan tính rất hợp lý, có vẻ chắc chắn và lâu dài. Nhưng biết một mà không biết mười. Chúa chỉ cần đưa ra một câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai”? Tất cả sụp đổ tan tành. Điều quan trọng là bảo đảm được mạng sống. Mạng sống đời này. Nhưng nhất là mạng sống đời đời. Điều đó không nằm trong tầm tay con người. Cần có kho khác và của cải khác bền vững hơn.
Thư Rô-ma cho biết ta tìm thấy điều đó trong Chúa Giê-su Ki-tô. Như tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa. Dám bỏ quê hương tài sản ra đi khi tuổi đã cao. Dám hiến tế cả đứa con trai duy nhất dù chẳng hi vọng sinh con được nữa. Chỉ giữ đức tin vào lời hứa. Tin vào một Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin. Tin cả khi không còn gì để tin. Nên tổ phụ đã được tất cả mọi ân sủng do lời hứa của Thiên Chúa đem lại. Cũng thế, khi ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô ta cũng được tất cả. Vì Chúa Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Đã từ bỏ tất cả. Để rồi được lại tất cả. Chúa trở nên kho tàng của ta. Tin vào Chúa ta sẽ nên công chính như tổ phụ Áp-ra-ham. Sẽ được lại tất cả (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô giải nghĩa sâu xa hơn. Kho tàng chúng ta có không do công sức của ta. Nhưng do lòng nhân hậu của Chúa. Chúng ta đã sống theo xác thịt. Theo thế gian. Đáng phải chết. “Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Đó là kho tàng không bao giờ hư nát. Vì đó là kho tàng không phải do ta làm ra. Nhưng nhờ tin vào Chúa Ki-tô, ta được thụ hưởng: “Ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (năm chẵn).
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau:
Ngày kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:
Tôi muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm đất thuộc về anh.
Con người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giầu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy. Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại và reo lên: "Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho tương lai". Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con người.
Nỗi khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?
Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.
Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. "Cái khó không những bó cái khôn", mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.
Dù phải lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” (Lc. 12, 15)
Đức Giêsu đến thế gian để lo thực hiện công việc của Cha Người: “Của nuôi Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công việc của Ngài”. Người loan báo nước trời đã đến rồi, phải sám hối trở về kẻo quá trễ. Thời giờ gấp lắm rồi.
Có một người đến xin Đức Giêsu bảo anh mình chia gia tài cho mình. Chúng ta tất cả cũng giống như anh đó thường xin Người giúp đỡ cho những nhu cầu của chúng ta hàng ngày. Đức Giêsu không được Thiên Chúa sai đến để lo giải quyết những công việc đời này. Thánh ý Thiên Chúa là muốn Người loan báo Tin mừng cứu độ cho người nghèo khổ. Đó mới là khẩn thiết! Người không để bị phân tán về những việc theo đuổi của cải thế gian. “Coi chừng!” đời sống đời đời của mỗi người không được của cải bảo đảm đâu. Thay vì trì hoãn để tham lam thu góp giàu sang thế gian, hãy lo chuẩn bị đón nhận nước trời.
Chúng ta đều biết tất cả mọi của cải dễ gây rắc rối bấn loạn. Những người tham quyền, tham giàu, tham danh, hưởng lạc, tự do buông thả, của cải dù bất chính hay chính đáng không bao giờ thỏa mãn dục vọng cho đã, cho sung sướng, vui chơi thỏa thích đâu. Họ không lo đến ngày mai. Họ muốn tất cả, do đó chắc chắn bằng bạo lực hay bằng sức cố gắng riêng và kiệt lực đến bất nhẫn. Họ thật vô phúc như sách Khôn ngoan nói: Chúng bôn ba vội vã hưởng lạc nhờ của hiện có và phung phí của thiên tạo như thời thanh xuân trác táng. Đức Giêsu bảo: “Đồ ngốc, đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi”, và sau đó còn gì …?
Lúc thuận cũng như lúc nghịch, Đức Giêsu thường nhắc tới tính chất mỏng dòn của đời sống, đặc biệt đối với kẻ tưởng mình được ổn định. Cái chết thường xuyên xẩy đến, nhất là lúc chúng ta không ngờ. Cần phải tích trữ những kho tàng trên trời bằng sám hối, cầu nguyện, ăn chay và bố thí trước kẻo quá trễ.
Của cải là nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Không có tiền, chúng ta khó có thể đáp ứng nhu cầu căn bản như cơm ăn, áo mặc. Tuy nhiên, của cải là con dao hai lưỡi, nó có thể trở thành đầy tớ tốt cho những ai biết sử dụng và trở thành ông chủ tồi nơi những kẻ thượng tôn nó.
Trong thực tế, rất nhiều người cảm thấy an tâm vì cho rằng: “Có tiền mua Tiên cũng được”! Đây là một quan niệm sai lầm căn bản.
Chính vì thế, nên Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh báo những kẻ bám vào của cải vật chất như là cứu cánh của mình rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Thật vậy, kho tàng của chúng ta có đồ sộ đến thế nào thì cũng chẳng hề đảm bảo được mạng sống. Nó cũng chẳng đem lại cho chúng ta hạnh phúc thật và không bao giờ có chuyện hứa hẹn cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Thấy được mối nguy hại của vật chất, và thấy được sự ràng buộc cho những ai muốn theo Chúa để làm môn đệ mà lại vướng bận vào của cải, nên Đức Giêsu nói tiếp: "Ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Khi dạy như thế, Đức Giêsu không muốn nói là không được chiếm hữu của cải, bởi vì bản chất của nó không phải là xấu hay tội. Vì thế, Đức Giêsu không hề có thái độ kết án người giàu, mà chỉ kết án những kẻ giàu nhưng không biết sử dụng đồng tiền cách khôn ngoan. Ngược lại, họ lại trở thành kẻ ích kỷ như nhà phú hộ giàu có đối xử với Lazarô nghèo khổ không bằng con chó trước cửa nhà ông.
Như vậy, khi nói từ bỏ của cải là Ngài muốn nói đến việc biết xử dụng của cải như thế nào cho có ích nơi mình và người khác. Sử dụng tiền theo tinh thần của Đức Giêsu chính là biết chia sẻ cho những người túng thiếu, biết giúp đỡ cho Giáo Hội để lo cho người nghèo và phát triển Giáo Hội... Nói chung là biết dùng đồng tiền hữu hạn để mua lấy sự vô hạn là Nước Trời qua công việc bác ái, từ thiện của mình.
Thật vậy, ngang qua cách sử dụng tiền của, chúng ta dễ dàng nhận ra người đó đang thuộc về ai! Người môn đệ của Chúa thì sẽ sử dụng nó như là tôi tớ và phục vụ cho lợi ích của Giáo Hội cũng như người nghèo. Còn những người làm đồ đệ cho tiền của thì sẽ lo giữ của cho riêng mình và chỉ lo phục vụ điều bất chính nơi mình mà thôi. Họ coi đồng tiền như là chúa tể của họ và ảo tưởng cho rằng nó sẽ đem lại cho mình hạnh phúc thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sử dụng đồng tiền cho đúng ý Chúa, hầu qua đó, chúng con sẽ được hạnh phúc mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Sứ điệp: Lòng ham muốn, thu góp và chiếm hữu tiền bạc của cải, là một trong những trở ngại lớn nhất ngăn cản đường vào Nước Trời. Ta hãy lo làm giàu trước mặt Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần Chúa đã nhắc nhở chúng con đừng lo đắm mình trong cuộc sống trần gian. Thật vậy, cuộc sống con người chưa chấm dứt với cái chết, mà phần sau của cuộc sống trần gian mới là cuộc sống đích thực. Và hạnh phúc đời sau không lệ thuộc vào của cải vật chất đời này, tiền bạc không bảo đảm cho con người sống mãi.
Lạy Chúa, trong thế giới hôm nay, người ta coi tiền bạc là quyền lực tối thượng, là chìa khóa vạn năng để mở cánh cửa danh vọng và hạnh phúc. Con cũng không muốn bị khinh bỉ vì nghèo. Con muốn được trọng vọng, được sung sướng, nên cũng không ngại chạy theo tiền bạc, và bằng đủ mọi cách thu góp càng nhiều càng tốt. Nhưng rồi có bao giờ tâm hồn con được bình an đâu, vì lòng ham muốn không khi nào được thỏa mãn. Quả thật, con là kẻ điên rồ như người phú hộ trong dụ ngôn.
Lạy Chúa, cuộc sống của con vẫn cần cơm bánh, và sự nghèo đói vẫn là một mối bận tâm lớn. Nhưng như Lời Chúa dạy, còn có cái cần thiết và chính đáng hơn mà con phải tìm kiếm, phải tích lũy, đó là làm giàu trước mặt Thiên Chúa, làm giàu cho cuộc sống mai sau.
Xin cho con trong cuộc sống hiện tại biết lo phát triển đời sống đức tin, lo thu tích những việc lành do lòng bác ái và quảng đại. Xin dạy con biết sử dụng tiền bạc của cải để biểu lộ tình yêu thương chia sẻ với anh em cách chân thành. Những việc lành phúc đức sẽ là hành trang nhỏ bé giúp con tiến về Nước Trời mai sau. Amen.
Ghi nhớ: “Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”
Tại một tiệm bán thực phẩm cho các loài chim, chủ tiệm khi bắt được con phượng hoàng, vì muốn thu hút khách hàng nên đem phượng hoàng nhốt vào cái lồng lớn đặt trong tiệm.
Một hôm, có hai ông cháu từ miền núi xuống thành phố mua đồ. Khi đi ngang qua tiệm, vừa trông thấy con chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, ông động lòng thương hại, liền ngỏ ý với ông chủ tiệm xin mua con chim ấy. Không để mất cơ hội, ông chủ tiệm đòi giá tiền thật cao.
Không một lời trả giá, người khách hàng đi thẳng tới ngân hàng rút số tiền cần thiết và trở lại tiệm mua con chim phượng hoàng. Ông già miền sơn cước vui mừng ẵm con chim trên tay bước ra khỏi tiệm. Vừa bước chân tới quãng đường vắng, ông liền mở tay ra để chim được tự do bay bổng giữa bầu trời mênh mông.
Ngạc nhiên trước việc làm của ông, đứa cháu tò mò lên tiếng hỏi: “Thưa ông nội, tại sao ông lại sẵn sàng hy sinh một số tiền lớn như vậy để chuộc và trả tự do cho con chim phượng hoàng”. Ông vui vẻ đáp: “Cháu hãy ghi lòng tạc dạ điều này: Trên đời, giàu sang không chỉ căn cứ trên những gì mình có thể chiếm đoạt được mà thôi, nhưng chính là trên những gì mình cần phải cho đi, để có thể thực hiện được điều tốt lành cần phải làm” (Theo Radio Veritas).
Suy niệm
Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ mà Chúa Giêsu đã trình bày trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng, ông đã tìm ra giải pháp là phá kho cũ và làm kho mới lớn hơn, rồi đưa tất cả hoa màu, của cải nhập kho, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm. Với những cái kho lớn chứa đầy hoa màu và của cải, người phú hộ tha hồ vui chơi, ăn uống chè chén say sưa. Ông thấy mình có tất cả dư thừa vật chất nên chẳng sợ đói và cần nhờ vả đến ai, đến Chúa cũng chẳng cần và sợ nữa. Vì tất cả của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc, không thiếu thốn cả đời, nơi đó ông đặt lòng mình (Lc 12,34). Nhưng thật ra có bền vững hay không? Trộm cắp, cướp bóc, bão lụt, hỏa hoạn… có thể làm tiêu tan những gia tài của ông. Dù ông có giữ được bên mình với cái kho đầy rẫy của cải, khỏi những phong ba cuộc đời, ông cũng đâu ngờ rằng cái chết sẽ làm cho ông ra đi trắng tay tất cả.
Dụ ngôn thật sâu sắc truyền cho chúng ta sứ điệp: Lo lắng cho kho vật chất của mình là việc phải làm nhưng đó không phải là mục đích của sự hiện hữu của con người trong cuộc sống. Còn một mối bận tâm khác là kho tàng trên trời như thánh Phaolô đã khai triển cụ thể: “Anh em hãy tìm những sự trên trời” (Cl 3,2), nghĩa là làm giàu trước mặt Thiên Chúa, vì có đầy của cải mà không lo đời sau thì cũng bằng không trước Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”, tức là của cải đầy rẫy trong kho nhưng ra đi vẫn cứ hai bàn tay trắng trước mặt Thiên Chúa. Vâng, tất cả chỉ là: “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không” (Gv 1,2), như lời sách Giảng Viên vang vọng.
Hãy lo “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Sự giàu có lâu bền, vĩnh cửu; chứ không phải của đời này chóng qua, phù vân và bấp bênh. Sự giàu có là sống trọn vẹn với quy luật của “Kho Nước Trời”: “Đón nhận và mở rộng ban phát”. Ban phát như nguồn nước từ mưa và từ rừng thượng nguồn, rồi nguồn nước ban phát nước cho những con suối mang chia sẻ cho đồng ruộng và cuộc sống con người.
Xin cho mọi cố gắng của tôi, của bạn trong đời sẽ mãi như là những giọt nước mãnh liệt không khép kín trong hồ, nhưng luôn tuôn trào trong hành trình về với biển cả.
Ý lực sống
“Cho là nhận… khi chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô d’Assise).
Trong lúc Đức Giêsu đang giảng, có một người trong đám đông lên tiếng xin Người xử việc hai anh em ruột tranh nhau phần gia tài. Đức Giêsu không xử vì điều đó không thuộc sứ mệnh của Người. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ giàu có lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm. Người bảo họ là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc, để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
Tin mừng hôm nay thuật lại sự việc hai anh em tranh chấp gia tài, không thoả đáng nên nhờ Đức Giêsu can thiệp. Nhân dịp này, Chúa dạy dân chúng đừng ham mê của cải đời này quá đáng, vì của cải không phải là nguồn mạch sự sống mà Thiên Chúa mới là nguồn mạch sự sống. Hơn nữa, của cải vật chất có sức lôi kéo mạnh mẽ làm cho con người ta dễ dàng đi tới chỗ ích kỷ và tìm hưởng thụ để thoả mãn mọi khoái lạc trần thế. Đức Giêsu không ngăn cấm chúng ta làm giàu, vì của cải cần thiết cho đời sống, đồng thời khi nỗ lực làm giàu là chúng ta cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, làm cho trái đất sinh nhiều hoa lợi để phục vụ nhân loại. Nhưng Chúa chỉ cảnh giác chúng ta phải biết sử dụng của cải vật chất để làm giàu cho sự sống đời đời (5 phút Lời Chúa).
Giầu của cải không đảm bảo cho sự sống đời đời
Dụ ngôn Đức Giêsu kể về một người giàu có an thân thoả mãn trên đống của cải trong kho lẫm, rồi tự cho phép linh hồn mình được “nghỉ ngơi”, nhưng nếu Chúa gọi bất thình lình, thì “tay trắng hư không” ra đi vào cõi diệt vong. Thật vậy:
Khi chúng ta đi về nơi an nghỉ Những gì thu góp chẳng còn chi Sẽ mất hết những gì ta xài phí Chỉ còn lại những gì đã cho đi.
Ham mê của cải như ông phú hộ trong dụ ngôn là chỉ lo làm giàu trước mặt người đời, lo tích trữ của cải đời này, mà không lo cho phần rỗi đời sau. Của cải vật chất tự nó không xấu, siêng năng làm việc để có của cải luôn là điều tốt. Thế nhưng, chúng ta không được phép dừng lại ở đó để hưởng thụ và an thân bám víu vào nó, mà phải biết chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình.
“Ta chỉ giàu có nhờ những gì cho đi, và chỉ nghèo do những gì ta từ chối” (Triết gia Emerson). Trong từ điển của ông phú hộ trong câu chuyện Tin mừng không có từ “cho đi”. Ông từ chối Chúa và người lân cận, vì lo chất thóc lúa cho đầy kho lẫm, cũng như đầy “kho” ăn uống vui chơi, hưởng thụ cho mình. Không lạ gì ông trở nên nghèo nàn trước mặt Chúa. Hẳn ông đã quên bài học cơ bản này: làm giàu trước mặt Chúa bằng cách cho đi, chứ không phải qua việc tích trữ; bằng cách hướng về Chúa và người khác, chứ không phải chỉ qui về mình. Coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam là điều ai trong ta, giàu hay nghèo, phải ghi nhớ mỗi ngày.
Hãy biết chia sẻ
Chúa dạy chúng ta: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì.
Antoine de Saint-Exupéry nói: “Khi giờ cuối cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”.
Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau:
a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
b) Dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp.
Truyện: Rồi sao nữa?
Ngày xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzaro, một sinh viên Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spazzaro hớn hở báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời:
- Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì? - Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án. - Rồi sao nữa? - Con sẽ có nhiều tiền. - Rồi sao nữa? - Con sẽ lập gia đình. - Rồi sao nữa? - Con sẽ sống hạnh phúc. - Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Rồi... rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác. - Rồi sao nửa?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để bảo đảm cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khoác áo tu trì.
1. Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
2. Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
3. Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
B.... nẩy mầm.
1. Gc 4,13--5,6: Thánh Giacôbê đã hiểu đoạn Tin Mừng này như thế nào?
2. Con người có khuynh hướng tạo an toàn cho mình, bằng tiền bạc, bằng bảo hiểm, bằng dự trữ v.v. Nhưng tất cả những thứ mà con người tưởng là an toàn ấy có thể sụp đổ tan tành trong một sớm một chiều. Như thế sự an toàn của con người không nằm trong tầm tay của con người. Nó nằm trong bàn tay của Chúa. Do đó an toàn nhất là “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (câu 21).
3. Có hai cách xài tiền đưa đến hai kết quả khác nhau:
a/ Xài một cách ích kỷ cho riêng mình; kết quả: không bảo đảm cho sự sống đời đời;
b/ Dùng tiền để “làm giàu trước mặt Chúa”: kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
4. Tiền:
Người công nhân đồ mồ hôi để có được nó Kẻ hoang phí thì đốt nó Chủ ngân hàng đem nó cho vay Đàn bà xài nó Kẻ lưu manh làm giả nó Nhân viên thuế vụ lấy nó Người hấp hối lìa bỏ nó Kẻ thừa kế tiếp thu nó Người tiết kiệm để dành nó Người keo kiệt thèm khát nó Kẻ ăn trộm chộp lấy nó Người giàu gia tăng nó Người cờ bạc bị mất nó Phần tôi thì dùng nó (Quote)
5. Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói: “Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất. Ông già nghèo đem con ngỗng vào nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ông mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một trứng ngỗng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái. Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho tới hết tuần mới có được 7 trứng. Ông muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ông vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại, và nói: “Trước đây tôi đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả” (Aesop).
6. Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi mới nghĩ bụng rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,16.19-20)
Trong mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của Ngài... Con ước ao chết đi bởi vì con phó thác vào tình Chúa vô bờ bến. Nhưng lạy Chúa Giêsu, con là của Ngài, con sẵn sàng làm việc cho Ngài lâu hơn nếu Chúa cho con sức mạnh. Con không muốn chết để chạy chốn đau khổ... Lạy Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen”
Tôi thật cảm động và khó quên trước cái chết của những người đang sống đẹp, sống tốt. Và tôi thật khâm phục trước cái chết của những người sẵn sàng với giờ chết, vì thấy mình đã sống trọn vẹn cho đời.
Giêsu ơi, như ngài đã dạy chúng con, chết không phải là hết, nhưng chỉ là đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Xin giúp con biết sống trọn vẹn ở đời này. để con khỏi ngỡ ngàng trước phúc Thiên Đàng Chúa đang chờ con. (Hosanna).
1. Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh giành gia tài.
Đức Cha Tiamer Toth trong cuốn sách viết cho giới trẻ có khuyên các bạn trẻ như thế này: “Thưa bạn, tôi muốn nói rằng, bạn phải có con mắt tinh tường để nhận xét giá trị đồng tiền. Đành rằng, không có tiền, ta không sống nổi, nhưng chỉ sống vì tiền thì thật là không xứng với con người một tí nào. Tiền bạc chỉ là phương tiện để tìm cho ta những thứ cần dùng cho đời sống của ta. Ngày xưa, con bò vàng được người Do Thái thờ lạy giữa đám sa mạc, ngày nay người ta cũng chỉ biết kính trọng những người có ô-tô bóng nhoáng, có những đồn điền phì nhiêu, những cửa hàng lộng lẫy, những bộ quần áo đỏm dáng. Hỡi bạn, tôi xin bạn hãy nhìn những con người theo phẩm giá của họ mà thôi!” Rồi ngài nói tiếp:
Ngày kia, một nhà tỷ phú trên giường chết đã phải tuyên bố: Trong 40 năm trời, tôi đã làm việc như người nô lệ để chất đống của cải lên; sau đó tôi lại phải coi giữ như một thám tử và tất cả những của cải đó đã cho tôi cái gì? Thức ăn, nhà ở và quần áo, chỉ có thế chứ không còn gì hơn nữa.
Thánh Bernard đã nói: Người ta kiếm tiền một cách vất vả, giữ nó một cách lo lắng, rồi người ta mất nó một cách đau đớn.
Tiền tài, danh vọng, xa hoa không đem lại hạnh phúc cho ta được. Cũng như một đại dương mênh mông không có gía trị bằng dòng suối nhỏ trước mắt người khát nước.
2. Vậy ta phải xài tiền như thế nào?
Có hai cách xài tiền đưa đến hai kết quả khác nhau:
a/ Xài một cách ích kỷ cho riêng mình; kết quả: không bảo đảm cho sự sống đời đời.
Tại một Hội Thánh Tin Lành kia, đến Chúa Nhật, vị mục sư quyết định mở một cuộc lạc quyên để sửa lại mái nhà thờ, các rui mè đã mục nát, các viên ngói hay rớt xuống, sợ nguy hiểm cho các tín hữu.
Sau khi trình bày, ông chọn một người để “khai sổ”. Để có người làm gương cho những người khác, mục sư liền mời một tín đồ vốn là một thương gia giàu có đang ngồi ẩn mình phía sau một cây cột. Ông này giàu nhưng nổi tiếng keo kiệt, ông đứng lên hứa: - Tôi xin dâng 5 đô-la.
Vị mục sư thật buồn quá, ông nhà giàu này mà “Mở hàng” như thế thì chắc cuộc lạc quyên hôm nay sẽ chẳng được bao nhiêu. Thình lình, một viên ngói trên mái rơi xuống trúng ngay đầu ông tín đồ giàu mà keo kiệt. Tưởng bị Chúa phạt, ông vội la lớn: - Không, tôi xin hứa dâng 500 đô-la.
Người ta nghe tiếng cầu nguyện tha thiết vang lên trong nhà thờ:
- Rớt nữa đi Chúa, rớt nữa đi Chúa!
b/ Dùng tiền để “làm giàu trước mặt Chúa”: kết quả là đời này được bình an và đời sau có sự sống đời đời được bảo đảm.
Đời nhà Châu có người họ Doãn, chỉ chăm làm giàu. Tôi tớ trong nhà vất vả, thức khuya, dậy sớm, khó nhọc vô cùng.
Có một tên đầy tớ già, sức yếu, nhưng lại phải làm nhiều, ban ngày làm không kịp thở, ban đêm mệt đừ người, ngủ say không biết đầu đuôi. Nhưng đêm nào cũng nằm mộng thấy mình làm vua một nước, đứng đầu cả muôn dân, ở lầu son gác tía ăn toàn của ngon vật lạ, muốn gì được nấy, sung sướng không ai bằng! Sáng bừng mắt thì vẫn hoàn là tên tớ già, làm không kịp thở... Có người thấy lão vất vả quá, đem lời an ủi.
Lão nói:
- Đời người trăm năm có ngày có đêm. Ta ban ngày, chỉ là một tên tớ già, kể ra cũng khổ thực! Nhưng ban đêm lại làm vua một nước, vui sướng không ai bằng! Vậy thì, còn ân hận gì nữa?
Họ Doãn trái lại ban ngày là một tay giàu có, nhưng lại lo lắng ruột tan, gan nát, mệt cả tâm thần; đến đêm mệt ngủ, thì lại nằm mộng thấy mình đi làm tôi tớ người ta, việc gì cũng phải làm, lại còn gặp chủ cay nghiệt, hành hạ đủ điều. Thức dậy, lòng thổn thức, bèn đem chuyện kể với bạn.
Bạn bảo:
- Được cái địa vị như anh, giàu có hơn người, ban ngày sung sướng vẻ vang biết bao, đêm đến là nằm mơ đi làm đầy tớ người ta. Như vậy thì sướng khổ đắp đổi nhau. Nếu lúc thức, lúc ngủ đều muốn được sướng cả, thì thế nào được!
Họ Doãn nghe bạn nói tỉnh ngộ. Từ hôm đó không còn hà khắc tôi tớ trong nhà nữa. Và nhờ vậy mà bớt lo, bớt nghĩ, lòng thấy nhẹ nhàng. Và bệnh mỗi ngày một bớt lần.
Trong mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con xin chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của Ngài... Nhưng lạy Chúa Giêsu, con không muốn chết để chạy trốn đau khổ... Lạy Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho mãi đến muôn đời. Amen”.
Tiền bạc, của cải, nó là vật chất mà vật chất là hư không trên các sự hư không, mọi sự đều là hư không (Gv 1, 2). Do đó khi con người chúng ta ham mê tiền của, Chúa sẽ bảo chúng ta là một tên đầy tớ ngu dại (Lc 12, 20).
Ngày xưa khi xuống thế làm người, Chúa sống rất thân thiết với con người chúng ta. Lúc đi đó đây rao giảng Tin Mừng, Chúa là người rất dễ tiếp xúc, dễ thưa chuyện, cho nên ai cũng gần gũi với Chúa. Sở dĩ con người chúng ta được như vậy là do Chúa thương chúng ta. Vì thế mà có một người trong đám đông theo Chúa, người này có chuyện trục trặc về phân chia tài sản trong gia đình, nên anh ta mới đến xin Chúa nói anh của ảnh là chia gia tài cho ảnh. Anh rất gần Chúa, xem Chúa như là người thân trong nhà, nên anh mới dám đến thưa Chúa như vậy.
Chúa đến trần gian, Chúa cứu chuộc con người chúng ta, Chúa rao giảng lời Chúa để con người chúng ta nhờ đó mà thay đổi lối sống, làm đẹp lòng Chúa hơn. Nhưng mà con người chúng ta có hồn, và có xác, vì vậy, Chúa chẳng những quan tâm đến đời sống đạo (tinh thần) và cả đời sống vật chất (phần xác) nữa. Do đó, ngoài việc rao giảng Tin Mừng, Chúa còn làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng theo Chúa, Chúa làm phép lạ chữa lành nhiều bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Vì thế, qua việc người đến xin Chúa nói người anh của anh chia gia tài cho anh, Chúa dạy chúng ta với dụ ngôn trong bài Tin Mừng, và chúng ta rút ra được bài học:
-Chúng ta hãy dùng khả năng Chúa ban để chúng ta làm ra của cải vật chất một cách chính đáng, lương thiện, đúng thánh ý Chúa thì chúng ta không có tội. Còn nếu chúng ta xảo trá, gian dối để làm ra nó, chúng ta sẽ vi phạm vào điều răn thứ bảy và thứ mười của Chúa. Anh trong bài Tin Mừng này làm ra của cải bằng ơn Chúa ban, không vi phạm luật Chúa.
-Việc sử dụng của cải:
+Chỉ biết vun vén, thu tích, lo cho bản thân, hưởng thụ, ăn chơi: Đối với những người trần gian thì họ cho rằng người có tiền của sử dụng của cải của họ như thế nào là quyền của họ. Chúng ta không dám đụng chạm đến phần riêng tư của những người này. Nhưng đối với Chúa, Chúa không chấp nhận, vì của cải trên trần gian này là của Chúa, tất cả mọi người đều được hưởng như nhau, chẳng qua mình có điều kiện, có khả năng hơn cho nên chiếm hữu nhiều hơn. Vì mình chiếm hữu phần của người khác mà lẽ ra họ được hưởng, cho nên mình phải chia sẻ lại thì mới đúng ý Chúa muốn (St Gioan Kim Khẩu). Vì thế, khi chúng ta có của ăn của để mà không biết chia sẻ, cho đi, giúp đỡ những người nghèo túng, khổ sở thì đó là một trọng tội (xLc Lc 16, 19 – 31). Chúa chê trách anh trong bài Tin Mừng này là như vậy.
+Khi chúng ta có của cải, chúng ta biết lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta chia sẻ, cho đi, giúp đỡ những người đói khát, cơ hàn, nghèo túng, rách rưới, bần cùng, khốn khổ, kém may mắn…. trong cuộc sống thì đó là chúng ta biết sử dụng của cải vật chất theo ý Chúa. Nếu chúng ta biết chúng ta có được của cải là do ơn Chúa ban, chúng ta biết ơn Chúa, và biết chia sẻ giúp đỡ Giáo Hội, giúp đỡ mọi người thì Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta đời sau và cả đời này nữa.
Lạy Chúa, xin Chúa thương giúp chúng con biết lột bỏ con người cũ của chúng con với biết bao nhiêu là tội lỗi: tham lam, ô uế, gian dâm, hà tiện, dục vọng, nói dối…và biết mặc lấy con người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Chúa, là Đấng đã tạo thành nên chúng con (Cl 3, 1- 5. 9 – 11), đó là chúng con luôn nghĩ về Chúa, về những sự trên trời để chúng con sử dụng của cải, những gì chúng con có theo ý Chúa muốn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách can đảm thuộc về Chúa, dù cho, có bị thế gian thù ghét, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Étte cho thấy: Dân Dothái bị đe dọa. Tính kiêu ngạo của quan Haman bị tổn thương là lý do thật khiến ông dự tính tiêu diệt dân Dothái, nhưng, ông lại vịn vào cớ của hết mọi thời đại: Dân này không như các dân khác. Chúa Giêsu sẽ nói: Thế gian ghét anh em, vì anh em không thuộc về thế gian. Đối với Hội Thánh cũng như đối với dân Dothái, đó là khởi đầu của muôn vàn cuộc bách hại. Lạy Chúa, Chúa là Vua toàn năng, Chúa nắm quyền điều khiển vũ trụ. Khi Chúa muốn, nào ai đương đầu nổi với Ngài. Vì danh Chúa, xin giải thoát chúng con. Xin nghe lời chúng con nguyện cầu, cảnh tang tóc chúng con, xin biến thành hoan lạc.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách không ngừng khao khát Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Chúng ta hãy luôn khao khát cuộc sống hạnh phúc đến từ Thiên Chúa là Chúa, và chúng ta hãy cầu nguyện luôn. Những lời cầu nguyện nhắc nhở cho chúng ta mục đích mình khao khát hướng tới, kẻo khi lòng khao khát bắt đầu ra nguội lạnh, sẽ nguội lạnh hẳn và tắt lịm đi, trừ phi được nung nấu thường xuyên hơn… Lạy Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, trước Thánh Nhan, đêm ngày con kêu cứu. Nguyện cho lời kinh vọng tới Ngài. Hồn chúng con khát vọng Thánh Danh, và ước mong tưởng nhớ đến Ngài.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách đơn sơ, nghèo khó, tin tưởng, đợi trông mọi sự từ Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 99, vịnh gia cho thấy: Chính Chúa dựng nên ta, và ta thuộc về Người. Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kể dụ ngôn ông phú hộ: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Nếu chúng ta thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu thích chúng ta, nhưng, chúng ta thuộc về Đức Kitô, vì thế, thế gian thù ghét chúng ta. Thuộc về thế gian, chúng ta sẽ trở nên giàu có với những của cải thế gian, nhưng, lại nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Thuộc về Đức Kitô, chúng ta sẽ trở nên giàu có về mọi phương diện, nhưng, sẽ bị thế gian thù ghét. Những ai có tâm hồn nghèo khó, khao khát ân sủng của Thiên Chúa, sẽ trở nên giàu có, bởi vì, Chúa sẽ đổ đầy tràn ơn thánh của Người cho những ai khao khát cậy trông. Tha thiết cầu nguyện là lấy lòng con thảo mà kiên trì gõ cửa Đấng chúng ta cầu xin. Niềm khao khát của chúng ta được thực hiện bằng những tiếng thở than, rên rỉ, hơn bằng: những tiếng nói ồn ào, chát chúa; bằng những tiếng lòng âm thầm, nức nở, hơn bằng: những lời lẽ hùng hồn, cao ngạo, bởi vì, Thiên Chúa sẽ lấy vò mà đựng nước mắt chúng ta, và tiếng chúng ta than thở, làm sao Chúa chẳng tường? Thiên Chúa là Đấng đã dùng Lời mà tác thành vạn vật, chẳng lẽ, Người lại cần đến những lời lải nhải của phàm nhân? Ước gì chúng ta biết làm giàu trước mặt Chúa, bằng cách trung tín và quảng đại, mà nhiệt thành phụng sự Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời? Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra những con số khá chính xác. Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ? Có thứ chờ tính được bằng thời gian. Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng. Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, những người yêu chờ nhau. Trong một vở kịch của Samuel Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969, có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên là Godot. Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra. Vậy mà họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến. Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến cái phi lý của đời người. Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra. Đức Giêsu dạy các môn đệ biết chờ đợi trong cuộc sống. Chờ như những đầy tớ chờ chủ mình đi ăn cưới về. Đám cưới ngày xưa hay vào ban đêm để tránh cái nóng. Chủ có thể về trễ, nên phải chịu khó chờ, nghĩa là phải tỉnh thức, không được ngủ quên. Nhưng chờ lại không phải là thái độ ngồi yên, thụ động. Chờ là đặt mình trong tư thế sẵn sàng phục vụ. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng” (c. 35). Người đầy tớ sẵn sàng bắt tay vào việc, vì chiếc áo đã được vén lên gọn gàng, và trong đêm, ngọn đèn được châm dầu vẫn luôn cháy sáng. Có một giây phút quan trọng, giây phút ông chủ về. Sự chờ đợi, sự tỉnh thức, sự sẵn sàng, tất cả hướng đến giây phút này. Lỡ giây phút này là lỡ tất cả. “Để khi chủ về tới, gõ cửa thì mở ngay” (c. 36). Mở ngay vì mình đang chờ, đang thức, đang sẵn sàng, áo đã được vén lên để chuẩn bị phục vụ, đèn đã được thắp sáng để soi trong bóng đêm. Chủ sẽ ngỡ ngàng vì sự mau mắn như vậy của các đầy tớ. Nhưng các đầy tớ còn ngỡ ngàng hơn nhiều. Chính khi các anh chuẩn bị phục vụ chủ, thì chủ lại phục vụ các anh. “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (c. 37). Rõ ràng đã có một sự đổi vai bất ngờ: chủ đã thắt lưng, phục vụ như đầy tớ. Đầy tớ đã trở nên trọng hơn chủ, vì Thầy ở giữa anh em như người hầu bàn. Đó là mối phúc dành cho người tỉnh thức vào giờ lẽ ra đang yên ngủ. Canh hai, canh ba, là đã quá nửa đêm về gần sáng (c. 38). Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến. Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn. Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm. Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi. Xin mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa phục vụ con người. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ. Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào. (gợi hứng từ Madeleine Delbrêl).
Dụ ngôn người đầy tớ tỉnh thức nói về Nước Trời. Ta sống ở trần gian trong thao thức chờ đợi đến ngày được vào Nước Trời. Thao thức được diễn tả bằng việc chờ đợi trong đêm. Chủ về muộn nên đầy tớ phải chờ đợi. Thái độ chờ đợi được Chúa diễn tả bằng 3 hoạt động. Thao thức. Thắt lưng. Cầm đèn. Tất cả không chỉ nói lên sự tận tâm. Mà còn cả tình yêu mến. Yêu mến nên khao khát mong chờ. Yêu mến nên không thể ngủ được khi chưa gặp được ông chủ. Yêu mến nên có thể thức cho đến sáng. Chỉ khi gặp ông chủ mới thôi thao thức. Nhưng yêu mến được bày tỏ trong thái độ phục vụ. Thắt lưng gọn gàng, Sẵn sàng làm việc. Bất cứ việc gì. Lúc nào cũng trong tư thế phục vụ. Để làm đúng nhiệm vụ được trao. Yêu mến nên lo xa. Lúc nào cũng cầm đèn. Lúc nào đèn cũng sáng. Để đèn sáng đương nhiên phải chuẩn bị dầu sẵn sàng. Để chủ về thì không phải chờ một phút nào. Để soi đường đón chủ ngay. Không phải mất giờ đốt đèn. Không sợ lật đật vấp ngã. Lòng yêu mến. Sự phục vụ. Tầm nhìn xa. Không uổng công. Sẽ được đền đáp. Một đền đáp quá lớn lao. Một cuộc đổi đời. Không còn là đầy tớ nữa. Được làm chủ. Được ngồi vào bàn ăn. Lại được chính ông chủ phục vụ.
Thư Rô-ma cho biết ta được như vậy là nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Vì tội A-đam mọi người chịu thân phận nô lệ. Nhưng nhờ Chúa Ki-tô mọi người được tự do. Vì tội A-đam mọi người phải chết. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được sống. Vì tội A-đam mọi người chịu luỵ phục. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được thống trị. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho biết ta được thừa hưởng ân sủng do công cuộc cứu độ đem lại, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô đã phá bức tường ngăn cách người Do thái với dân ngoại. Cho ta được từ xa lạ nên gần gũi. Từ người dưng nên họ hàng vì thuộc gia tộc Thiên Chúa. “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su”. Chính đá góc tường liên kết tất cả (năm chẵn).
Đó là niềm hi vọng lớn lao. Thay đổi cả cuộc đời. Thay đổi cả số phận. Đáng cho ta thao thức. Phục vụ. Và nhìn xa. Để mong chờ không ngơi trong suốt cả đời.
Trong quyển truyện có tựa đề: "Con Ðức Mẹ" xuất bản tại Hà Nội dạo tháng 8/1990, tác giả đã miêu tả sinh hoạt của một giáo xứ miền Bắc một cách ấu trĩ như sau: Tình yêu giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái đôi khi không cần thiết, không thiêng liêng cho bằng mối tình đối với Ðức Maria. Lòng tôn sùng đối với Ðức Mẹ chỉ là một thứ bịa đặt lừa bịp của Giáo Hội. Sinh hoạt giáo xứ chỉ là những biểu dương bề ngoài, cuồng tín, người giáo dân càng sùng đạo, thì càng là thành phần bất hảo trong xã hội.
Bất cứ độc giả nào cũng có thể nhận thấy giọng điệu bôi bác ấu trĩ của tập truyện. Tuy nhiên, với thái độ tỉnh thức mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi, người Kitô hữu hãy nhận lấy một phần trách nhiệm trong việc gây ngộ nhận nơi nhiều người ngoài Kitô giáo. Sự thiếu sót giữa niềm tin và cuộc sống hằng ngày; sự hăng hái sinh hoạt giáo xứ, nhưng lại bỏ qua những đòi hỏi của công bằng, bác ái, tình liên đới; đó là những hình ảnh méo mó mà chúng ta tạo ra cho Giáo Hội.
"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức. Có lẽ chúng ta rất tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Kitô giáo không phải là đạo ru ngủ, nhưng luôn thức tỉnh chúng ta, bởi vì đạo là đường để đi. Người chăm chú đi đường không thể ngủ gật, trái lại luôn mở mắt để nhìn thấy cảnh trí chung quanh, để nhận ra hướng đi của mình, để đồng hành với người khác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh táo để nhận ra Nước Trời đang đến trong từng giây phút. Chúng ta hãy sống thế nào để đạo lý và Giáo Hội không bị hoen ố, nhưng được trình bày bằng những hình ảnh cao đẹp nhất của công bằng, bác ái, yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe về những dụ ngôn báo trước hạnh phúc của nước Trời. Ngài kêu gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cho giây phút Chúa Cha gọi chúng ta về nhà Người và Ngài đã dùng hình ảnh của ông chủ và người đầy tớ. Thật ra, không bao giờ Thiên Chúa muốn coi chúng ta là đầy tớ đâu, nhưng ở đây hình ảnh này được sử dụng để giúp cho chúng ta dễ nhận ra sứ điệp của lời Chúa mà thôi. Dĩ nhiên, tự bản chất thụ tạo, chúng ta bất trung và chúng ta chỉ xứng đáng là đầy tớ nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta là con như Chúa Giêsu là Con của Chúa Cha. Vì là con nên chúng ta biết mình có chỗ trong nhà Cha, là con nên chúng ta biết mình không thể đi hoang, là con nên chúng ta biết dù gì đi chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được thụ hưởng gia tài của người cha.
Trong một câu chuyện cổ tích nọ, người cha già muốn cho các con mình ra đi để cứu nhân độ thế và ước mơ của ông là các con ông làm được nhiều việc thiện, nhiều việc tốt để mang lại lợi ích cho nhiều người, để sau khi kết quả trở về trong hân hoan vì những thành quả của các con mình.
Thiên Chúa sai chúng ta đến với mọi người trong trần gian này cũng với một sứ mệnh tương tự như sứ mệnh của những người con trong câu chuyện cổ tích trên. Chúng ta hãy sống yêu thương, bác ái để làm cho cuộc sống anh chị em của mình được hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã đến trần gian để mong mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Thiên Chúa,
Xin giúp chúng con luôn ý thức sẵn sàng như những người đầy tớ khôn ngoan luôn chờ đợi chủ. Sự đợi chờ của chúng con được thể hiện bằng tất cả nỗ lực mang tình yêu thương của Cha đến cho mọi người, với ước mơ được cùng tất cả anh chị em con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Cha trên quê trời.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.” (Lc. 12, 35-36)
Trong đời sống con người, Đức Giêsu tự tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau xuyên qua những biến cố. Kitô hữu phải luôn sẵn sàng nhận ra Người, đón rước và đi theo Người. Người dẫn ta đi đâu, đến đâu ta không biết. Như Thiên Chúa đã nói với tổ phụ Áp-ra-ham: Con hãy đứng dậy, lìa bỏ tất cả và sẽ đi đến xứ sở Ta chỉ cho con. Ông đi đến hết chỗ này qua chỗ khác hướng về nơi không biết. Ước chi Kitô hữu học lấy bài học tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng theo thánh ý Chúa như ông Áp-ra-ham.
Sẵn sàng đón rước Chúa đến:
Đức Giêsu bảo các môn đệ phải luôn luôn thắt lưng để lo phục vụ, nghĩa là sẵn sàng làm việc hay chuẩn bị lên đường trong mọi hoàn cảnh. Luôn luôn sẵn sàng lên đường như dân Do thái chuẩn bị hành trình trở về đất hứa để mừng lễ Vượt qua, lễ đón mừng Đấng Thiên sai cứu thế.
Đức Giêsu còn nói hãy cầm đèn cháy sáng để mở ngay cho chủ lúc chủ đi ăn cưới về, dù chủ có về trễ. Đó là lời khuyên bảo phải luôn luôn mau lẹ đáp lại tiếng Chúa gọi trong mọi biến cố, mọi cảnh ngộ. Trong Thánh kinh, trong kinh nguyện, mọi nơi, mọi lúc, Chúa đều thông dịch cho chúng ta hiểu qua hành động, qua dấu chỉ thời đại, vì Người luôn luôn bước tới ngày quang lâm để dẫn đưa chúng ta đi với Người.
Phúc cho những ai chủ thấy vẫn tỉnh thức, những ai chiến đấu kiên cường chống lại những dục vọng và những ươn hèn của xác thịt đang ru ngủ họ trong u mê tăm tối. Và đặc biệt hạnh phúc hơn nữa cho những ai vẫn luôn luôn sẵn sàng chờ đợi dù còn lâu Chúa mới đến.
Lãnh nhận phần thưởng:
Mỗi lần gặp Chúa là mỗi lần Kitô hữu được bình an và hạnh phúc, nhờ đó họ càng tỉnh thức, sống tỉnh táo hơn. Phần thưởng sau cùng là được mời vào tham dự tiệc nước trời. Những người vẫn luôn luôn tỉnh thức tới cùng sẽ được mời vào đồng bàn với Chúa, được Chúa chia sẻ vinh quang của Ngài đến muôn đời.
Những trận mưa lớn kèm gió to tại nơi này hay nơi kia đã khiến bao người nhiều phen ú tim với "những cái chết không báo trước” do những cây cổ thụ đổ xuống hay do sạt lở đất đè lên người...
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu căn dặn các môn đệ về sự tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Tinh thần đón chờ này được ví như người đầy tớ đón chờ ông chủ đi ăn cưới về. Người đầy tớ không hề biết bao giờ ông chủ về, vì đám cưới của người Do thái thường kéo dài có khi buổi sáng, có khi cả ngày hay tới đêm khua... hoặc cũng có thể kéo dài lên tới vài ngày. Tuy nhiên, sự chờ đợi của họ không phải chỉ có ngồi và chờ, nhưng phải thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Như vậy, họ phải luôn trong tư thế làm việc, sẵn sàng. Tại sao vậy? Thưa! Vì sự xuất hiện của ông bất thình lình đến độ như tên trộm.
Như vậy, tỉnh thức mà Đức Giêsu nói đến ở đây chính là mỗi người cần có thái độ sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến; chờ đợi cái chết của chính mình trong tinh thần của kẻ tỉnh thức với đầy đủ đèn, dầu trong tay là những hy sinh, những việc đạo đức...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để sống trong ơn Chúa. Muốn được sống trong tâm tình con Chúa, phải luôn có thái độ sám hối, ăn năm, làm việc lành phúc đức. Cần thanh tẩy đời sống hằng ngày. Nêu gương sáng cho tha nhân.
Làm được điều đó, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng là hạnh phúc đời đời trong cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tinh thần tỉnh thức qua cuộc sống thường ngày bằng những công việc làm cụ thể trong sự hướng thiện, để một khi Chúa đến với mỗi người chúng con bất cứ giờ nào, chúng con đều sẵn sàng ra đi nghênh đón Chúa. Amen.
Sứ điệp: Ta phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa trở lại bằng cách chu toàn bổn phận của một đầy tớ phục vụ Chúa. Nhưng khi Chúa đến, Chúa sẽ nâng ta lên cao và ân thưởng bội hậu cho ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn yêu thương con hơn con đáng được, và luôn ban cho con những ân huệ hơn con dám mơ ước. Con là phận một đầy tớ, làm sao dám nghĩ rằng Chúa là Thầy và là Chúa của con, mà lại trở nên người phục vụ hầu hạ con. Làm sao con có thể hình dung được rằng Chúa là Thiên Chúa mà lại trở nên đầy tớ của con. Nhưng Chúa đã quả quyết như vậy và dám sống như vậy. Ở đời này Chúa là người rửa chân cho môn đệ, là kẻ tôi tớ hy sinh vì người khác, vì thế khi trở lại, Chúa cũng vẫn muốn là người đầy tớ đi lại phục vụ, trong lúc con được ngồi ăn trong bàn tiệc Nước Trời.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã nâng con lên địa vị cao trọng. Chúa không còn gọi con là đầy tớ, nhưng gọi con là bạn hữu. Xin Chúa giúp con biết sống xứng đáng với tình thương Chúa. Xin cho con biết quý trọng tình thân mật này. Chúa là Chúa mà đã chẳng ngần ngại phục vụ con, thì xin cho con là phận đầy tớ biết tận tụy phục vụ Chúa trong hân hoan. Dù có phải hy sinh để làm theo Ý Chúa, dù có phải vất vả để chu toàn bổn phận với Chúa, thì cuộc đời làm tôi phụng sự Chúa vẫn chẳng sánh được với những hồng ân mà Chúa đã và sẽ dành cho con. Xin Chúa giúp con trung thành phụng sự Chúa.
Và lạy Chúa, xin giúp con nhìn vào gương Chúa để con biết phục vụ anh chị em. Xin dạy con sống khiêm tốn và biết tôn trọng họ. Xin cho con được luôn mang lấy tâm tình của người đầy tớ như Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tuỳ sinh mộng tử”, nghĩa là con người sống trên đời như người say và khi chết như người đi trong mộng.
Đời sống con người luôn trong trạng thái không tỉnh thức vì say sưa nhiều thứ: say sưa danh vọng, say sưa với của cải vật chất, say sưa với những toan tính hơn thiệt và nhất là say sưa với những hận thù…
Suy niệm
Lời của Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta hãy “thức dậy” từ những cơn say, ý thức con người phải luôn thức tỉnh nếu không muốn “tuỳ sinh”, sống như say xỉn. Thức tỉnh là một ý niệm quan trọng trong Tin Mừng, các Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày giáo huấn “tỉnh thức” theo nhiều góc cạnh: Maccô nhắc đến lời kêu gọi luôn tỉnh thức của Chúa Giêsu (x. Mc 13,33); còn Matthêu ghi nhận giáo huấn tỉnh thức của Đức Giêsu qua các dụ ngôn mười cô trinh nữ đợi chàng rể (x. Mt 25,1-13) và dụ ngôn nén bạc với sự chuyển tải sứ điệp: Phải tỉnh thức và sẵn sàng (x. Mt 24,36-44) và Tin Mừng thánh Luca trình bày tư thế tỉnh thức sẵn sàng như đầy tớ cần mẫn lao công đợi chủ về: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” (Lc 12,35). Lời Chúa Kitô luôn kêu gọi chúng ta trong đời: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Thánh Phaolô triển khai giáo huấn tỉnh thức của Thầy (x. Ep 6,18) và kêu gọi đừng quá say giấc trong giấc ngủ mê của cuộc đời (x.1Tx 5,6).
Người tỉnh thức được coi là người có phúc như những người sống phúc trong tám mối phúc của Hiến chương nước Trời như Chúa Giêsu đã phán qua hình ảnh đầy tớ thức tỉnh: “Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức... chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình” (Lc 12,36-44).
Tỉnh thức có nghĩa là ý thức mình không “say mê”, hay không để mình say trước những phù du hão huyền, để mình phụ thuộc, thậm chí làm nô lệ với những thực tại trần thế: Vật chất danh vọng làm xa rời Thiên Chúa, hay say mê trong bát đồ trận của cảm xúc, của ý nghĩ chủ quan. Tỉnh thức là không “say” nhưng ý thức với cuộc sống, với công việc mà trong sâu thẳm của trái tim tôi và bạn tin rằng chính Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta thực hiện, nên gắn bó hết lòng: Đó là tư thế sẵn sàng, thắt đai và cầm đèn sáng trong tay chờ chủ về. Thức tỉnh là biết mình đang làm gì trong đời đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở và nhịp đập của trái tim yêu thương và phục vụ.
Thật thế, thức tỉnh không chỉ là ý niệm thiêng liêng là chờ đợi ở đời sau, là cuộc sống ở trên trời nhưng tinh thần thức tỉnh bắt đầu từ hôm nay, từ những điều cơ bản tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày, có thể nói chính tinh thần thức tỉnh xuyên suốt đời sống tự nhiên đến siêu nhiên là bắc cầu xuyên suốt giữa hai con đường của hai thế giới thành một “Con đường Thiên ý cho con người”. Đó là lựa chọn, định hướng cho cuộc sống được làm trong giây phút hiện tại, định đoạt số phận hiện tại với cuộc sống chúng ta đang hiện diện và hơn nữa với cuộc sống vĩnh hằng của mình sau này.
Xin cho con luôn lo tìm kiếm kho tàng trên trời bằng tinh thần tỉnh thức chuyên cần làm việc…
Ý lực sống
“Tôi thức tỉnh và tôi sống, một cuộc sống chỉ phục vụ, tôi phục vụ và tôi hiểu rằng phục vụ là niềm vui” (Rabindranàth Tagore).
“Tỉnh thức” là hệ luận rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng: mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời. Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt Nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Công Trứ). Cho nên Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng!”.
Hôm nay, Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta phải luôn sẵn sàng cho giờ từ giã cõi đời này, để bước vào sự sống đời sau. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần cụm từ “Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về mà tỉnh thức”. Qua hình ảnh ẩn dụ đó Chúa Giêsu nói đến sự trở về bất ngờ của ông chủ là cái chết của mỗi người. Giờ chết luôn là một sự bất ngờ, không ai biết rõ. Nên phúc cho ai tỉnh thức trước giờ chết của mình. Muốn tỉnh thức chúng ta phải xa tránh tội lỗi, chăm lo làm những việc lành phúc đức. Cuộc sống luôn đầy rẫy những cám dỗ hấp dẫn, chúng dễ ru ngủ ta làm ta lơ là không đề phòng nên dễ sa ngã. Hãy tỉnh thức bằng đời sống cầu nguyện, bác ái, yêu thương, siêng năng lắng nghe Lời Chúa để luôn sẵn sàng cho giờ chết (5 phút Lời Chúa).
Vậy tỉnh thức và sẵn sàng là gì?
Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi. Hãy tỉnh thức chờ đợi. Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong tỉnh thức. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.
Chúa phán: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” (Lc 12,35).
Đây là lối ăn mặc của người đang làm việc theo phong tục của người Do thái.
Theo nghĩa bóng là phải sẵn sàng, tức là loại bỏ tất cả những gì làm cản trở sức sống thiêng liêng của ta: như các đam mê theo dục vọng bất chính. Và điều này thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: phải tỉnh thức và tiết độ (1Pr 5,8).
“Thắp đèn cho sẵn” là thái độ tỏ lòng mong đợi Đấng Cứu Thế (Xh 12,11), nghĩa bóng là có một đời sống đức tin cậy mến sáng chơi, để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết của mình. Về điểm này thánh Phaolô có nói: “Phải là một lính chiến, can đảm chống lại mọi mưu chước của ma quỷ, thế gian, xác thịt với khí giới của Thiên Chúa: lấy chân lý làm đai lưng, lấy công chính làm áo giáp, lấy nhiệt thành với Tin mừng làm giầy trận, lấy đức tin làm thuẫn, lấy ơn cứu độ làm mũ và lấy lời Chúa làm gươm” (Ep 6,14-17) (Lm. Trần Hữu Thành).
Đời sống là một chuỗi những ngày tháng mong đợi. Anh bảo vệ mong cho hết ca trực, chị công nhân mong cho đến giờ tan ca, em học sinh mong thi đậu, đứa bé mong mẹ đi chợ về. Trong câu chuyện dụ ngôn, người đầy tớ không phải là người thợ làm công ăn lương; trái lại, người đầy tớ ấy ở tại nhà của chủ như người trong nhà. Vì thế, dù phải thức đến canh hai hoặc canh ba, người đó vẫn chờ để mở cửa khi chủ trở về. Đó là hạnh phúc của anh. Hạnh phúc cho ai biết phụng sự Chúa như người tôi tớ trung thành. Khi ấy, chính Chúa sẽ phục vụ và chăm sóc họ như ông chủ trong câu chuyện. Người sẽ đưa họ vào Nước trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.
Truyện: Vườn hoa xinh đẹp
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi:
- Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi? - Khoảng 40 năm rồi. - Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà? - Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi. - Ông có thư từ gì với cụ không? - Không, ông ta bận lắm. - Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ? - Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này. - Thế tội gì cụ phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu? - Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chờ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
- Dụ ngôn minh họa sự tỉnh thức: như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở do thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy “thắt lưng cho gọn” (tư thế sẵn sàng làm việc), và “thắp đèn cho sẵn” (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thì dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
- Tỉnh thức để làm gì? Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
B.... nẩy mầm.
1. 1 Pr 1,13-16: Thánh Phêrô giải thích thế nào là tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đề nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”.
2. “Lời Chúa được ngỏ với con người xuyên qua cuộc sống mỗi ngày, nên cũng luôn mang tính bất ngờ. Chính trong những cái thường nhật, nhỏ bé, độc điệu mỗi ngày, con người được mời gọi để nhận ra lời ngỏ của Chúa. Chính trong những cái bất ngờ của cuộc sống mà con người được mời gọi để nhận ra tiếng Ngài... Xin Ngài cho chúng ta luôn có đôi mắt rộng mở để nhìn thấy Ngài trong từng biến cố cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta đôi tai tinh tường để biết lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài trong từng phút giây cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta quả tim và đôi tay rộng mở để biết chia sẻ cho tha nhân là hiện thân của Ngài” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. “Thái độ cơ bản của người kitô hữu, đó là tỉnh thức. Người kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. Tỉnh thức là luôn luôn ở trong tình trạng đang làm nhiệm vụ. Lời của một bản thánh ca: “Con Linh mục, con muốn chết ở bên bàn thờ”.
5. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, hãy thắp đèn cho sẵn”. (Lc 12,35)
Nghe ai đó quảng cáo: “Nấm tróc ăn ngon lắm” bạn tôi liền trổ tài nấu bếp. Trong ngày sinh nhật của nó, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon. Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố: sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi”. Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lạy Chúa, nếu mỗi người chúng con đều biết tỉnh thức để sắm sẵn cho mình sự sống đời đời, chắc hẳn thế giới này đã tươi đẹp hơn. (Hosanna).
1. Theo thánh Phêrô thì tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”. (1 Pr 1,13-16).
Tại sao phải tỉnh thức? Thưa, vì “Lời Chúa được ngỏ với con người xuyên qua cuộc sống mỗi ngày, nên cũng luôn mang tính bất ngờ. Chính trong những cái thường nhật, nhỏ bé, độc điệu mỗi ngày, con người được mời gọi để nhận ra lời ngỏ của Chúa. Chính trong những cái bất ngờ của cuộc sống mà con người được mời gọi để nhận ra tiếng Ngài... (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn sau:
Một cụ già cuốc đất trồng cây. Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói: - Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây…Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.
Ông cụ trả lời:
- Chắc gì lão chết trước, chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với già có khác chi nhau về phương diện đó.
Thời gian qua, ba cậu vì công việc, đi lính, kinh doanh, hoặc vì ngộ nạn, đều chết cả.
Cụ già được tin buồn, khóc thương ba trẻ.
Câu cửa miệng vẫn nói: tre già, măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời?
Trời hay, Trời biết hết chứ. Nhưng có điều cho xảy ra như vậy để con người không ai biết giờ mình chết. Có như thế con người mới lo tỉnh thức.
Bởi thế, “Thái độ cơ bản của người Kitô hữu, là tỉnh thức. Người Kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng, mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Tỉnh thức còn là luôn luôn ở trong tình trạng đang làm nhiệm vụ.
Lời của một bản thánh ca: “Con Linh mục, con muốn chết ở bên bàn thờ”.
Chuyển kể rằng, một thầy dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nước, trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được.
Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những đói khát, giá rét không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỗ nói thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau thì sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ là cánh cửa sẽ mở ra và người sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng trời đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng, thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả. Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết, tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin, phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước khi nào ngày giờ đó sẽ xảy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tác hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lỳ trong con đường tội với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng, đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.
Cuộc đời này có rất nhiều những thú vui giả trá, những cuốn hút của cơm áo gạo tiền, bon chen, tranh dành bổng lộc, quyền cao chức trọng, chỗ đứng trong xã hội….Tất cả những điều sẽ lôi kéo chúng ta trong vòng xoay lẫn quẫn của nó để rồi làm chúng ta quên đời này là chóng qua, là tạm thời, là trạm dừng chân, là quán trọ, là hư vô, nhất là quên Chúa là Đấng mà chúng ta tôn thờ, cùng đích của đời người, và sau đó là chúng ta sống lơ là, dửng dưng, ỷ y, không còn chuẩn bị tân hồn để đón Chúa đến thăm chúng ta nữa.
Trong thực tế của cuộc sống, có rất nhiều người trong chúng ta đã rơi vào trường hợp này rồi, ngày xưa cũng giống như vậy. Vì thế mà qua mọi thời đại, Chúa luôn luôn lên tiếng nhắc nhở tất cả con người chúng ta, không phân biệt một ai cả, là hãy sống tỉnh thức, làm việc và cầu nguyện trong khi chờ Chúa đến: “Các con hãy thắt lưng và cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về” (Lc 12, 35).
-Hành động “Thắt lưng” là một việc làm để lo cho bản thân, lo cho cuộc sống, đây cũng là một việc làm như là kiêng khem, giữ mình bằng kỷ luật, nề nếp, sống không buông thả mà là có nguyên tắc, có quy định trong cuộc sống nhân thế.
-Hành động “Cầm đèn cháy sáng“ là một hành động luôn luôn tận mọi thời cơ Chúa ban mà làm các việc lành phúc đức theo lời Chúa dạy. Những việc lành phúc đức đây nó sẽ như là ánh sáng của ngọn đèn dầu chiếu soi vào thế giới bóng đêm đầy tội lỗi hầu anh chị em chúng ta thấy đường để đi đến với Chúa.
Quả thật, khi chúng ta làm như Chúa dạy trên đây, chúng ta sẽ được Chúa cho chúng ta là những người tỉnh thức trong lúc chờ Chúa đến, chắc chắn Chúa sẽ cho chúng ta vào nước Chúa khi Chúa đến thăm viếng chúng ta: “… để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ hắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba chủ trở về và gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy” (Lc 12, 36 – 38). Đây là phần thưởng Chúa ban cho chúng ta và chúng ta cảm thấy rất là hạnh phúc vì được Chúa yêu thương, không bỏ rơi chúng ta trong cuộc sống đời này và mai sau.
Ngược lại, nếu chúng ta cứ để cho cuộc đời nổi trôi này lôi kéo chúng ta vào vòng quay của nó, chúng không biết tìm cách thoát ra, chúng ta không biết cầu xin Chúa cứu giúp mà buông xuôi, bỏ mặc cho đời vô thường này định đoạt, chắc chắn chúng ta không trở tay kịp khi Chúa bất thình lình đến thăm viếng chúng ta. Khi đó số phận chúng ta sẽ bị trầm luân, bị đau khổ đời đời, chẳng một ai có thể cứu giúp chúng ta được cả.
Lạy Chúa, Chúa luôn mở rộng tấm lòng hải hà, nhân hậu, từ bi để cho chúng con được sống, được phụng thờ Chúa, được làm việc và luyện tập các nhân đức trong cuộc sống trần gian trong lúc chờ đợi Chúa đến thăm viếng chúng con. Vì Chúa đến với chúng con một cách bất ngờ, chúng con không biết thời gian Chúa đến lúc nào, sáng, trưa, chiều, tối hay lúc đêm khuya, vì khi nào Chúa thấy thuận tiện là sẽ Chúa đến, Chúa không có báo trước chúng con. Giờ phút này và mãi về sau, chúng con xin Chúa thương cho chúng con biết tỉnh thức sẵn sàng. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Étte cho thấy: Quan Haman dự tính tiêu diệt dân Dothái. Để cứu dân mình, hoàng hậu Étte phải liều mạng. Bà chấp nhận vì tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện, của việc giữ chay cũng như của sự nâng đỡ tinh thần của anh em đồng bào. Trung thành với Chúa, tin vào ơn trợ giúp của Người, và hãm mình đền tội là những phương thế hữu hiệu để Thiên Chúa chạnh lòng thương dân Người. Lạy Thiên Chúa Ítraen, ngoài Chúa ra, con không hề đặt hy vọng vào ai khác. Chúa giận nhưng Chúa sẽ xót thương, và tha tội cho những người lâm cơn khốn khổ. Lạy Chúa là Thiên Chúa tạo thành trời đất, xin nhìn đến phận hèn của chúng con.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách cầu xin và làm theo những gì Chúa mời gọi trong Kinh Lạy Cha, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Vì dù chúng ta có đọc bất kỳ lời kinh nào khác, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong Kinh Lạy Cha… Xin Chúa là Thiên Chúa của anh em nhậm lời anh em cầu nguyện, và cho anh em được hòa giải với Người. Xin Người đừng bỏ mặc anh em trong buổi gian nan. Xin Người cho tất cả anh em hết một lòng thờ phượng Người, và làm theo ý Người.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách quy hướng về Đức Kitô, Đấng đã dùng thập giá để ban ơn bình an và ơn hòa giải cho chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Chính Đức Kitô là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên thành một. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 84, vịnh gia cho thấy: Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức đứng vững trước mặt Con Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thật là phúc cho những đầy tớ khi chủ về mà thấy đang tỉnh thức. Phúc cho người đầy tớ tỉnh thức, tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của ông chủ, cho dẫu, ông đang ở xa: ông đang hiện diện, hơn là, đang có mặt ở nhà với anh. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, sẽ khiến cho chúng ta được bình an, đứng vững trước mọi gian nan thử thách. Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An, đã dạy cho các môn đệ của mình và dạy cho mỗi người chúng ta: Kinh Lạy Cha, Kinh Bình An, Kinh Thức Tỉnh. Chiêm niệm, ước muốn, và làm theo từng lời Đức Giêsu dạy, chúng ta sẽ luôn ở trong tình trạng thức tỉnh, bình an vì luôn ý thức được sự hiện diện, tình yêu quan phòng của Chúa bao bọc, gìn giữ chúng ta, cho dẫu, thực tế trước mắt thật là nghiệt ngã đối với chúng ta. Nhờ thập giá của Đức Kitô, mà chúng ta được ơn hòa giải, ơn bình an, vì thế, bình an mà Chúa ban tặng cũng không giống như bình an của thế gian. Như đứa bé khi được tung lên cao, em vẫn vui cười thích thú, bởi vì, em biết có đôi tay của bố em đang chờ đỡ lấy em. Thức tỉnh luôn ở trong sự hiện diện của Chúa khiến chúng ta can đảm đón nhận tất cả những gì Chúa gửi đến: vui buồn, sướng khổ, vinh nhục, được mất, hơn thua… chẳng có gì làm chúng ta phải nao núng, chẳng có gì làm chúng ta phải bất an. Thức tỉnh, ý thức có Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta, sẽ giữ chúng ta khỏi những cạm bẫy của kẻ thù: kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan, ước gì chúng ta biết kính sợ Chúa như Cha hiền, biết trung tín, quảng đại, và nhiệt thành phụng sự Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo trước, bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say. Đức Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm, chỉ vì Ngài giống anh ta ở nét bất ngờ (cc. 39-40). “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.” Ông chủ có thể trở về khi trời gần sáng, lúc canh ba. Sẵn sàng là mở cửa ngay cho chủ, vì vẫn còn thức, còn chờ, còn đèn sáng. Thiếu sẵn sàng là ngủ mê, không nghe được tiếng gõ cửa. Ngủ mê làm chủ nhà không biết kẻ trộm đang khoét vách. Thiếu tỉnh thức để đón Chúa Giêsu, cũng đem lại hậu quả khôn lường. Tỉnh thức sẵn sàng là thái độ cần có của chủ nhà, của người lãnh đạo. Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu xem dụ ngôn trên áp dụng cho ai (c. 41), cho dân chúng hay cho nhóm Mười Hai là những người lãnh đạo, Ngài đã kể cho họ một dụ ngôn khác về người quản gia. Vì ông chủ đi vắng nên anh được ông đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà, tuy anh vẫn là một đầy tớ giữa những đầy tớ khác (c. 43). Chính sự vắng nhà của ông chủ đã làm lộ ra thực chất của người quản gia. Người quản gia trung tín sẽ chăm chỉ làm tròn bổn phận được giao. Việc quan trọng là cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c. 42). Anh này chẳng để ý gì đến chuyện khi nào chủ mình về. Khôn ngoan đối với anh là làm theo đúng ý của chủ. Anh chỉ tập trung vào việc phục vụ những người được chủ giao phó, và phục vụ đúng giờ. Hẳn anh sẽ được ông chủ khen ngợi và đặt ở một vị trí cao hơn, nếu bất ngờ ông về mà thấy anh đang phục vụ chăm chỉ. Nhưng quản gia lại có thể là một người thiếu trách nhiệm. Thời gian ông chủ vắng nhà cũng là thời gian anh ta có quyền. Anh đã tận dụng quyền hành có trong tay để áp chế các đầy tớ khác, và sống một cuộc sống buông thả, vô độ. “Anh bắt đầu đánh đập các tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa” (c. 45). Lý do hư hỏng của anh này rất đơn giản. Anh nghĩ “chủ ta còn lâu mới về”, nên ta cứ thoải mái ăn chơi. Anh chỉ cố làm sao khi chủ về, chủ thấy anh đang làm việc tử tế. Tiếc thay chủ về sớm hơn anh nghĩ, “vào ngày anh không ngờ, vào giờ anh không biết” (c. 46). Sự thật ê chề được phơi bày không thể chối cãi. Những đầy tớ bị anh hành hạ và bỏ đói, những phung phí tài sản, là bằng chứng cho sự thất tín của anh. Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo, sẽ bị phạt nặng hơn những người không biết. Những nhà lãnh đạo được trao quyền hành và trách nhiệm cũng phải trả lời trước mặt Chúa về cách phục vụ của mình. Chúng ta đều sợ khi nghe những lời này của Đức Giêsu: “Ai được cho nhiều, sẽ bị đòi nhiều. Ai được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới, nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời. Chúng con phải đối diện với bao thách đố của cuộc sống, của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình, của nghề nghiệp chuyên môn. Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực, nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu, lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng; biết xoay xở nhưng không mưu mô; lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ. Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc, giữa những xâu xé trước bao lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để múc lấy ánh sáng và sức mạnh, để mình được thật là mình trước mặt Chúa. Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen. ---------------------------------
Việc chờ đợi của chúng ta không giản đơn là tỉnh thức. Nhưng còn là có trách nhiệm. Vì trong khi Chúa vắng nhà Chúa trao cho ta quyền quản gia. Nhiệm vụ của quản gia được Chúa định nghĩa là trung tín và khôn ngoan. Khôn ngoan là “cấp phát lúa gạo đúng giờ đúng lúc”. Có của cải nhưng phải biết dùng đúng nơi, đúng lúc, đúng cách, mới sinh hiệu quả tối đa. Làm lợi cho kho tàng của chủ. Đó là người quản gia khôn ngoan. Ta quản chính con người mình với những tài năng của thân xác, trí tuệ và linh hồn. Làm sao phân phát lương thực đúng thời đúng lúc cho chúng phát triển? Trung tín là ta không được gian tham chiếm đoạt của chủ. Trong Tin Mừng Chúa cho biết sự bất trung đó là: “Người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Còn lâu chủ ta mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gài và chè chén say sưa”. Dùng những gì Chúa ban để thoả mãn dục vọng. Và tệ hơn, không làm phát triển anh em. Nhưng bóc lột anh em. Đó là bất trung, gian tham.
Thư Rô-ma cho biết bất trung xảy ra vì ta làm nô lệ cho thân xác. Nô lệ cho thân xác tội lỗi sẽ phải chết. Hãy làm nô lệ cho Thiên Chúa ta sẽ nên công chính và được sống. “Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính”. Thánh nhân khuyên nhủ ta: “Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho thấy việc quản lý cao quí nhất chính là quản lý Tin Mừng. Vì thế việc phục vụ cao quí nhất cũng là phục vụ Tin Mừng. Và phải phân phát lương thực Tin Mừng cho mọi người đúng nơi đúng lúc. Thánh Phao-lô hãnh diện vì nhiệm vụ đó: “Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô….Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa cho ta được làm quản gia của Chúa. Và đã trao cho ta kho tàng quí giá nhất là Tin Mừng cứu độ. Nhưng bổn phận phân phát Tin Mừng đúng nơi đúng lúc là nhiệm vụ vô cùng cấp bách và khó khăn. Biết bao linh hồn đang khao khát Tin Mừng cứu độ. Tôi làm nhiệm vụ phân phát thế nào? Có xứng đáng là quản gia trung tín và khôn ngoan không?
Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có một cây sồi cao, chung quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ. Một hôm, từ trên nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung quanh, vì chúng làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi loại hết mọi cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày kia, một trận cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt gió, cây sồi ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm.
Số phận của những người chà đạp người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây. Người ta thường nói: "Trèo cao, té nặng", bởi vì để lên cao, họ đã đạp đổ tất cả người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ họ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ. Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì "cho thì có phúc hơn là nhận". Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
Với thắc mắc của tông đồ Phêrô: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay chỉ về cho mọi người", Chúa Giêsu khai triển thêm về chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng, và có vẻ như trong lần khai triển này Ngài nhắm đến những người có trách nhiệm trong cộng đồng.
Chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng được nối tiếp với những giáo huấn của Chúa Giêsu dành cho giới có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Và dĩ nhiên trước tiên là những người có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa, họ phải gương mẫu trong thái độ tỉnh thức và sẵn sàng vì không những là sự tỉnh thức, sẵn sàng cần thiết cho ơn cứu độ của bản thân họ mà họ còn phải tỉnh thức và sẵn sàng để người khác có được ân sủng của Chúa nữa.
Công việc của một người có trách nhiệm trong dân Chúa thì muôn vẻ, muôn mặt và thường là những công việc không tên, không tuổi. Họ sống cho dân Chúa và ở giữa dân Chúa để mọi người có thể thấy Chúa qua họ. Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài liên tục kiếm tìm, khuyên lơn, an ủi, thánh hóa và giải cứu cho con người. Ngài không có thời khóa biểu cho công việc của mình mà trọn vẹn Ngài sống là cho đi, là trao ban, là sứ mệnh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi hỏi những người có trách nhiệm của chúng ta làm như Chúa Giêsu được, nhưng đòi hỏi phải tỉnh thức và sẵn sàng hơn những người khác để xứng đáng là môn đệ, xứng đáng là những người gần Chúa hơn, hầu có thể đem Chúa đến cho mọi người, vì dù sao đi nữa thì các vị ấy cũng được gọi và bản thân của họ tình nguyện để đi theo Chúa.
Anh chàng thanh niên khi nghe Chúa nói: "Anh hãy về bán của cải cho người nghèo rồi hãy đến theo Ta". Anh đã lẳng lặng bỏ đi vì anh không thể làm được chuyện ấy. Chúa Giêsu có buồn đôi chút nhưng Ngài tôn trọng tự do của anh, nếu anh vẫn sống trọn vẹn các giới răn như anh đã thưa với Chúa thì anh vẫn là người rất tuyệt. Thế nhưng, theo rồi mà không dành tất cả cho Chúa và cho anh chị em của mình như Chúa dạy thì thế nào cũng bị Chúa khiển trách. Thỉnh thoảng, có những vị phân bua: "Là gì đi chăng nữa thì cũng phải có những khoản riêng cho mình chứ, có những thứ thuộc đời tư của mình chứ". Không đâu, quí vị không còn đời tư nữa, quí vị không còn gì là riêng rẽ nữa. Tất cả đã là của Chúa và của anh chị em mình, ban cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều; giao phó cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều hơn.
Lạy Cha,
Tất cả chúng con đều là những đầy tớ phải biết thức tỉnh và sẵn sàng, nhưng hôm nay thì Chúa Giêsu, Con Cha, nói về những vị đầy tớ đặc biệt. Ðiều đó quá đúng, vì dù sao thì trong một tổ chức, một cơ cấu, cũng có nhiều công tác khác nhau, và mỗi người đều có một cách phục vụ tùy theo chỗ đứng, tùy theo công việc được giao phó. Chúng con cầu nguyện cho những người được giao cho những trách nhiệm đặc biệt ấy, để các ngài năng giống Con Cha hơn, không có thời khóa biểu cho riêng mình nhưng có thời khóa biểu để phục vụ Cha nơi những anh chị em được trao phó.
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc. 12, 39-40)
Đức Giêsu tiếp tục khuyên nhủ các môn đệ phải luôn luôn tỉnh thức chờ ngày Chúa trở lại. Điều chắc chắn: Đức Giêsu sẽ trở lại. Nhưng khi nào? “Vào giờ các bạn không ngờ”, không được thông báo trên đài phát thanh. Thông báo được người ta chờ đợi rất vắn và là tin cuối cùng, nếu người ta không luôn luôn lắng nghe, người ta sẽ bỏ lỡ.
Đầy tớ trung tín:
Phê-rô và phần lớn Kitô hữu, được rửa tội, giữ đạo đều đều, không làm hại ai. Vậy họ sẽ được bảo đảm ơn cứu độ. Thế mà tại sao Đức Giêsu vẫn liên tục nhắc nhở họ phải tỉnh thức chờ Người trở lại một cách bất ngờ? Như đài ra-đa luôn luôn chờ nghe những tin báo khẩn cấp. Thế thì việc gì Đức Giêsu phải nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, Cha các con hảo tâm ban cho các con nước trời rồi”.
Nếu Thầy chí thánh trao cho chúng ta nhiệm vụ quản gia, chúng ta phải có trách nhiệm lo phân phát của ăn thiêng liêng cũng như lương thực tạm thời. Chúng ta càng nhận biết thánh ý Chúa, chúng ta càng phải có trách nhiệm hướng dẫn gia đình sao cho mọi sự được trật tự, không bị một trục trặc sai trái nào, để bất kỳ lúc nào chủ về xem xét và thấy hài lòng trọn vẹn. Lúc đó, chủ an tâm về chúng ta đã được Ngài chọn lựa tốt và cho chúng ta được đời sống phong phú đời đời.
Không tha cho kẻ chè chén say sưa:
Nếu chúng ta không lo tỉnh thức, lại lạm dụng địa vị để say sưa chè chén lãng phí, chủ bất ngờ trở về, chúng ta sẽ bị băm ra trăm miếng, như tập tục của người Ba-tư đối với đầy tớ bất trung. Sự tuyển chọn ban đầu không che chở chúng ta khỏi những xét xử đó, vì chúng ta đã sống vô trách nhiệm, nên hoàn toàn phải chịu tội. Mức độ bị xử phạt tùy theo sự hiểu biết về thánh ý Chúa và chức quyền đã được trao phó. Lỗi của chúng ta là thiếu đức tin, đức cậy, đức mến đối với lời kêu gọi liên tục mà Chúa rất nhân từ quảng đại ban cho chúng ta được phúc sống trước tôn nhan Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối hôm qua. Tuy nhiên, cùng một đề tài về sự tỉnh thức. Nhưng nếu hôm qua, Đức Giêsu nhắm đến đối tượng chính là các môn đệ nói chung, thì hôm nay, Ngài trực tiếp để ý đến những người quản lý, hay nói đúng hơn là những người lãnh đạo.
Thật vậy, qua dụ ngôn này, Đức Giêsu nhắm đến sự trung thành, tận tụy với công việc được giao. Ngài nói: không được chè chén say sưa, ngược đãi người khác. Nếu không làm được điều này thì ắt sẽ bị đòn nhiều: “Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Mỗi người chúng ta, một cách nào đó, hẳn đều là những người lãnh đạo. Có thể là chủ công ty, xí nghiệp, trưởng hội này, nhóm kia, hoặc ít ra là cha là mẹ trong gia đình. Nhìn rộng ra thì hết thảy ai ai cũng đều được Chúa trao cho những nén bạc như: sự sống, tài năng, sức lực... Khi được trao ban như thế, ấy là lúc Chúa tin tưởng và trao phó trách nhiệm cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh, môi trường, chức nghiệp, chúng ta phải làm vinh danh Chúa và lợi ích cho phần rỗi của mình cũng như anh chị em.
Làm được điều đó, chúng ta được Chúa ví như một quản gia trung thành và khôn ngoan.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng để chu toàn bổn phận được trao. Hãy luôn nghĩ đến giờ chết của mình để chuẩn bị sẵn sàng trong tư thế của người môn đệ là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Cần nhạy bén với ơn Chúa và các dấu chỉ để ý thức chu toàn bổn phận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng, để biết chu toàn bổn phận của mình cách trung thành. Xin cho chúng con luôn biết ý thức mình sẽ chết, để từ đó biết sám hối và canh tân đời sống ngay trong giây phút hiện tại. Amen.
Sứ điệp: Tỉnh thức đón chờ Chúa đến là chu toàn bổn phận đối với những người và những công việc đã được trao phó. Thưởng hay phạt đều theo đó mà định đoạt.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi người trong chúng con đều là tôi tớ của Chúa, được Chúa trao phó cho một số công việc để chu toàn.
Con muốn sống cho bản thân mình, muốn xây dựng cuộc sống và lo lắng cho tương lai của mình. Nhưng Lời Chúa hôm nay còn cho con hiểu rằng: con thuộc về Chúa và là tôi tớ của Chúa, nên Chúa muốn con đảm nhận công việc mà Chúa trao cho. Chúa đã trao cho con công việc để thực hiện, và con có sứ mệnh hoàn tất công việc ấy. Nếu con ốm đau, bệnh tật của con có thể phục vụ Chúa. Nếu con đau khổ, nỗi đau của con có thể phụng sự Chúa.
Việc của người đầy tớ có lẽ không có gì là lớn lao, to tát. Điều mà người đầy tớ thực hiện chỉ vì đó là do chủ muốn như vậy. Con muốn phục vụ Chúa trong kẻ khác, tại gia đình con, tại trường học, tại nơi làm việc, ở chợ búa.
Sống cho kẻ khác, phục vụ kẻ khác trong những chuyện lớn lao, có lẽ không được dành cho con, nhưng còn nhiều việc nhỏ bé hằng ngày: một lời an ủi, một giúp đỡ nhỏ, một sự cảm thông …, những điều ấy ở trong tầm tay và khả năng của con.
Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức con là tôi tớ của Chúa. Xin giúp con sống cho Chúa và thực thi Ý Chúa, để con sống cho kẻ khác, giúp đỡ và yêu thương mọi người. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều”.
Tại Thụy Sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn.
Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”
- Khoảng 40 năm rồi. - Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà? - Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi. - Ông có thư từ gì với cụ không? - Không, ông ta bận lắm. - Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ? - Hằng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này. - Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu? - Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
Suy niệm
Tiếp tục giáo lý tỉnh thức, Chúa Giêsu nhấn mạnh tỉnh thức như người đầy tớ trung thành với chủ, biết chăm sóc và bảo vệ tài sản của chủ mình. Thái độ của người đầy tớ trung tín gợi cho chúng ta hãy luôn mang tinh thần thức tỉnh trong cuộc sống. Tỉnh thức có nghĩa là ý thức mình không “say mê”, hay không để mình say trước những phù du hão huyền, đưa mình phụ thuộc thậm chí làm nô lệ với những thực tại trần thế: Vật chất danh vọng làm xa rời Thiên Chúa, hay say trong bát đồ trận của cảm xúc, của ý nghĩ chủ quan. Tỉnh thức là không “say” nhưng ý thức với cuộc sống với công việc mà trong sâu thẳm của trái tim, tôi và bạn tin rằng chính Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta thực hiện, nên gắn bó hết lòng: Đó là tư thế sẵn sàng, thắt đai và cầm đèn sáng trong tay chờ chủ về. Thức tỉnh là biết mình đang làm gì trong đời đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở và nhịp đập của trái tim yêu thương và tinh thần phục vụ của mình như nhà thơ Tagore chia sẻ tâm tình: “Tôi thức tỉnh và tôi sống, một cuộc sống chỉ phục vụ, tôi phục vụ và tôi hiểu rằng phục vụ là niềm vui”. Chính vì phục vụ và niềm vui cuộc sống này làm nên bao điều kỳ diệu cho mình và cho người bên cạnh. Như nhà Phật có dạy: “Phải sống tỉnh thức, an trú trong giờ phút hiện tại để thấy giá trị cuộc sống và những điều mầu nhiệm đang xảy ra với mình”.
Thức tỉnh không chỉ là ý niệm thiêng liêng là chờ đợi ở đời sau, là cuộc sống ở trên trời nhưng tinh thần thức tỉnh bắt đầu từ hôm nay, từ những cơ bản tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày, có thể nói chính tinh thần thức tỉnh xuyên suốt đời sống tự nhiên đến siêu nhiên đã bắc cầu xuyên suốt giữa hai con đường của hai thế giới thành một “con đường Thiên ý cho con người”.
Cho nên, sự thức tỉnh là lựa chọn định hướng cuộc sống mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận hôm nay trong hiện tại với cuộc sống chúng ta đang hiện diện và hơn nữa với cuộc sống vĩnh hằng của mình sau này.
Ý lực sống
“Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không?” (Sách Gương Phúc).
Sau khi dạy dân chúng về việc phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ giờ Chúa đến, Đức Giêsu quay sang dạy các môn đệ về tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng. Đức Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác dạy về bổn phận những người có trách nhiệm trong Hội thánh. Mỗi người chúng ta, tùy theo công việc và địa vị đều có trách nhiệm phải chu toàn những bổn phận Chúa trao. Như đầy tớ trung thành với chủ, họ biết chăm sóc và bảo vệ tài sản của chủ mình, chúng ta cũng có bổn phận phải xây dựng và bảo vệ Hội thánh, để chuẩn bị đón Đức Giêsu trở lại trong vinh quang.
Trong bài Tin mừng hôm nay, một lần nữa, Đức Giêsu nhắc lại việc phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Ngài sẽ đến trong ngày Quang lâm và ngày sau hết của đời mỗi người.
Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiến, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói: “Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ: ‘Quá muộn’”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ. Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La Mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh: “Si vis pacem, para bellum”: nếu muốn được bình yên phải chuẩn bị chiến tranh.
Và thời xưa người Trung Hoa đã từng có tư tưởng như vậy: “Bình thời luyện vũ, loạn thế độc thư”: Thời bình thì phải lo luyện võ, thời loạn thì phải lo đọc sách. Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị cho chiến tranh, để khi chiến tranh xảy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra.
Dụ ngôn thứ hai hôm nay nói về “một người quản lý trung thành” (Lc 12,41-48). Dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Theo Luca thì người lãnh đạo là một người được Chúa trao cho việc coi, hay nói theo từ ngữ mà Luca thích dùng đó là người “quản lý” giáo đoàn (Lc 16,1.3.8). Vì được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ lãnh đạo cho nên người đó phải “trung thành” phục vụ mọi người cho tới khi Chúa quang lâm. Nếu trung thành sẽ được trọng thưởng. Trái lại, nếu nghĩ rằng: Chúa chậm quang lâm, rồi lợi dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái), thì khi đến ngày Chúa quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chức vụ càng cao thì hình phạt càng nặng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào? Đang thức hay ngủ mê? Có biết chu toàn nhiệm vụ được trao phó không?
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là tận thế không: nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Chúng ta nên lưu ý: đừng bao giờ nghĩ mình còn trẻ, còn khoẻ mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp: “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng đoán được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời. Đó là quyền phép trong tay Chúa, vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Hơn nữa, Chúa còn bảo chúng ta phải luôn khôn khéo sử dụng các ơn lành Chúa ban. Chúng ta là những người quản lý được Chúa trao vốn, người nhiều người ít. Nhiều hay ít không quan trọng, nhưng phải biết trung tín và khôn ngoan, để thi hành đúng ý chủ là làm lợi ra với số vốn đó. Bởi vì chúng ta sẽ phải trả lời và tính sổ với Chúa khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Truyện: Người quản gia trung thành
Vào năm 1981, tờ Nữu Ước Thời báo, là nhật báo nổi tiếng Hoa Kỳ có đề nghị rằng: chính phủ Hoa Kỳ nên trả lương hưu trí và gắn huy chương cho ông cụ người Trung Hoa 73 tuổi. Ông cụ không phải là một nhà chính trị, quân sự, kinh tế hay là một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, mà chỉ là một người lao công, làm việc cho một lãnh sự quán Hoa Kỳ tại một thị trấn nhỏ ở Trung Hoa.
Khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc ngoại giao với Trung Hoa, lãnh sự quán này bị đóng cửa và trong suốt 35 năm, ông cụ mỗi ngày vẫn đến quét sân vườn và lau sàn nhà một lần.
Tờ Nữu Ước Thời báo viết: “Một người thiếu trung tín chắc chắn sẽ lập luận rằng: Thôi, cần chi quét là cây mỗi ngày cho mệt, có ai biết đâu? Lá cây đâu có biết nói mà sợ? Nhưng ông cụ này trung tín làm bổn phận suốt 35 năm, mặc dù không nhận được lương và không có ai kiểm soát”.
1. Dụ ngôn chủ nhà tỉnh thức (39-40): Dụ ngôn này không so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến và tên trộm đến cũng bất ngờ như nhau. Vì bất ngờ nên phải tỉnh thức. Ý chính là tỉnh thức.
2. Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ “quản lý” để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16,1.3.8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người đó sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
B.... nẩy mầm.
1. Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Vésuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
2. Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
3. “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40)
Con mưa chiều 28-7-1996 đã làm cho cây me cổ thụ trước nhà số 100A đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1 tróc gốc ngã đè ba xe gắn máy. Em Hà Chí Thanh, 17 tuổi, học sinh, nhà ở số 444/20 đường cách mạng tháng 8 quận 3, đi xe Kawasaki Neo Max chết ngay tại chỗ. Bảy người khác bị thương phải chở đi cấp cứu. Theo kỹ sư Phạm Thanh Sơn, phó giám đốc Công ty Công viên cây xanh thành phố, cây me trên đã được tỉa cành, ngọn, khống chế chiều cao và... đã có giấy phép đốn hạ vào ngày 29-7-96. Trước tình trạng cây cổ thụ ngã hàng loạt trong mùa mưa có gió mạnh này, ông Sơn cho biết công ty sẽ huy động toàn lực lượng nhanh chóng đốn hạ khoảng 80 cây cổ thụ đã có giấy phép xin đốn bỏ. Em Thanh đâu có ngờ, chiều hôm ấy mình là nạn nhân. Ông Sơn đâu có ngờ, cây đổ trước một ngày có giấy phép đốn hạ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa, khi Người đi ngang qua đời con và cất tiếng gọi mời. (Hosanna).
* Dụ ngôn thứ nhất nói về một chủ nhà tỉnh thức (Lc 12,39-40): Dụ ngôn này không so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến và tên trộm đến đều bất ngờ như nhau. Vì bất ngờ nên phải tỉnh thức.
Ý chính của dụ ngôn này là tỉnh thức.
* Dụ ngôn thứ hai nói về một người quản gia trung thành (Lc 12,41-48). Dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Theo Luca thì người lãnh đạo là một người được Chúa trao cho việc coi hay nói theo từ ngữ mà Luca thích dùng đó là người “quản lý” giáo đoàn (Lc 16,1.3.8). Vì được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ lãnh đạo cho nên người đó phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa quang lâm. Nếu trung thành sẽ được trọng thưởng. Trái lại, nếu nghĩ rằng, Chúa chậm quang lâm, rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến ngày Chúa quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chức vụ càng cao thì hình phạt càng nặng.
Ý chính của dụ ngôn này là phải trung thành trong nhiệm vụ được giao.
2. Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Một linh mục chính xứ kia, được Chúa Giêsu báo cho biết trước là Ngài sẽ đến thăm giáo xứ vào Chúa nhật tới. Nghe tin đó, mọi người trong giáo xứ đều háo hức tề tựu ở nhà thờ để chào đón Chúa. Khi Chúa đến, ai cũng muốn được nghe những lời giảng dạy của Ngài, thế nhưng Chúa chỉ gật đầu mỉm cười mà không nói một lời nào. Dĩ nhiên là sau đó linh mục chính xứ đã mời Ngài vào nghỉ tại nhà xứ, nhưng Chúa Giêsu cho biết là Ngài chỉ thích ở lại trong nhà thờ mà thôi.
Sáng hôm sau, mọi người cũng tới nhà thờ để tiếp tục chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã biến mất từ lúc nào không ai biết. Nhưng có một sự việc mà cả linh mục cũng như giáo dân đều kinh ngạc, đó là trong nhà thờ chỗ nào cũng thấy hai chữ “coi chừng” được viết ở khắp nơi. Từ cửa sổ, trần nhà, bàn ghế và ngay cả quyển Kinh Thánh và Nhà Tạm, nơi nào cũng thấy hiện lên hai chữ “coi chừng” được viết bằng đủ mọi màu sắc. Nhưng “coi chừng” điều gì thì không ai biết. Và vì là chữ viết của Chúa Giêsu cho nên không ai dám xoá.
Thế rồi mọi người không ai bảo ai, mỗi khi bước vào nhà thờ ai cũng cảm thấy mình bị đánh động bởi hai chữ “coi chừng”, và họ cảm thấy mình phải sống ý tứ hơn. Và thật là một điều hết sức kỳ diệu. Từ đó, mỗi người thấy phải coi chừng đối với việc lắng nghe Lời Chúa. Họ không còn lắng nghe một cách hời hợt, nhưng nghe để rồi đem ra thực hành trong cuộc sống. Họ cũng coi chừng đối với việc lãnh các Bí tích. Họ không còn dám lãnh các bí tích như một thói quen, nhưng đã cố gắng lãnh các bí tích một cách ý thức hơn.
Cả linh mục chính xứ cũng thế. Ngài cũng đã phải coi lại cách sống của mình để biết sống khiêm tốn, dấn thân hơn trên con đường phục vụ dân Chúa. Người người ai cũng coi chừng, coi chừng cung cách cầu nguyện, coi chừng đối với cả cách họ vẫn nghĩ xưa nay về Thiên Chúa. Thiên Chúa mà họ phải tôn thờ không phải là Thiên Chúa chỉ ở trong bốn bức tường của nhà thờ, mà còn phải nhận biết Ngài trong mọi cảnh huống của cuộc sống nữa. Cuối cùng, nhận thấy ý nghĩa và ích lợi quá lớn của hai chữ coi chừng mà Chúa Giêsu đã viết trong nhà thờ, người ta còn cho bắt thêm những ngọn đèn điện lớn được xếp thành hai chữ “COI CHỪNG” trên nóc giáo đường để mọi người thấy rõ hơn.
3. Câu chuyện chúng ta vừa nghe chỉ là một câu chuyện giả tưởng nhưng quả thực nó cũng có một ý nghĩa nào đó cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta cũng phải biết coi chừng.
Trong bài giảng nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm được bầu vào chức vụ chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ, Đức Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội, đó là ngài đã khiêm tốn làm một cuộc tra vấn lương tâm trước mặt mọi người. Ngài nói như sau:
- Sau hai mươi năm phục vụ trên quan tòa Phêrô, hôm nay tôi không thể không tự đặt ra cho mình một số câu hỏi:
a. Ngươi có làm tròn sứ vụ được giao phó không?
b. Ngươi có chuyên cần và tỉnh thức trong chức vụ thầy dạy đức tin của Giáo Hội không?
c. Ngươi có cố gắng đưa con người ngày nay đến gần công cuộc vĩ đại của Công đồng Vaticanô II không?
d. Ngươi có quan tâm đến những chờ đợi của các tín hữu trong Giáo Hội, cũng như nỗi khát khao chân lý trong thế giới bên ngoài Giáo Hội không?
Ước gì mối quan hệ và trách nhiệm đối với tha nhân luôn là điểm xét mình hàng ngày của chúng ta. “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Amen.
Người chủ nhà mà Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Chúa, còn những người đầy tớ là chính mỗi người chúng ta. Mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa là mối quan hệ giữa Chủ và nô lệ (nhưng Chúa thương cho chúng ta là tôi tớ Chúa rồi), giữa Tạo Hóa và thụ tạo, giữa Thầy và trò, giữa Cha và con, nhưng quan trọng hơn hết Chúa cho chúng ta là bạn hữu của Chúa, chúng ta hết lòng tri ân cảm tạ Chúa.
Chúng ta là con cái Chúa, Chúa muốn chúng ta phải sống đúng đạo làm con để chúng ta khỏi phải hư mất đời đời. Vì thế, Chúa nói chúng ta trong khi chờ Chúa đến viếng thăm, chúng ta không được ỷ y, dửng dưng, lơ là, buông thả bất kể một phút giây nào trong cuộc sống. Chúng ta phải tỉnh thức, cầu nguyện, lo chu toàn các công việc Chúa trao phó với vai trò là một người con trong nhà của Chúa khi Chúa đi xa.
Chúa rất vui khi chúng ta nghe lời của Chúa, làm tốt các công việc Chúa trao phó, dặn dò. Một khi Chúa trở về một cách thình lình bất ngờ, Chúa biết chúng ta đã sẵn sàng rồi, Chúa sẽ không trách cứ chúng ta. Các công việc chúng ta làm, đó là sống đạo Chúa, dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện, luyện tập các nhân đức, phân phát lúa thóc cho gia nhân…, khi đó, Chúa lại ban thêm ơn cho chúng ta, thưởng công chúng ta,xem chúng ta là đầy tớ không ngoan, đặt chúng ta lên coi sóc nhà của Chúa.
Ngược lại, khi chúng ta sống dửng dưng, ỷ lại, mê đắm ngủ say, không biết lo cho ngày mai, chỉ biết sống cho hiện tại, sống không cần Chúa, sống hưởng thụ, khoái lạc, chơi bời như là đánh đập tớ trai, tớ gái, ăn uống say sưa, bài bạc, trai gái, hút chích…Chúa sẽ đến bất ngờ, chúng ta không kịp xoay sở. Chúa sẽ loại trừ chúng ta, cho chúng ta cùng chung số phận với những kẻ bất trung, bất hảo. Nếu chúng ta biết không làm theo lời Chúa dạy thì sẽ dẫn đến hậu quả này mà vẫn làm, vẫn cố chấp, chúng ta sẽ bị trừng phạt nặng hơn, Chúa sẽ thu hồi ơn Chúa lại. Còn khi chúng ta vì một lý do gì mà chúng ta chưa có thấm nhuần lời Chúa cho lắm, may ra chúng ta sẽ nhẹ đòn hơn. Vì thế, trong vai trò là người đầy tớ, người học trò, người con, người bạn hữu, chúng ta phải cố gắng sống lời Chúa dạy, đừng để Chúa thất vọng vì chúng ta sống không ra gì.
Lạy Chúa, chúng con là con cái ở trong gia đình Chúa, chúng con kêu cầu Chúa mọi nơi mọi lúc, vì Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, con tin tưởng vào lời Chúa nói với chúng con là chúng con phải luôn tỉnh thức sẵn sàng chờ Chúa đến. Như vậy, lúc này với ơn Chúa ban, xin Chúa cho chúng con biết hành động, biết làm theo thánh ý Chúa. Trong khi chúng con làm theo thánh ý Chúa, chúng con không sợ hãi gì cả, vì chúng con có Chúa ở bên cạnh, để phù trì, đỡ nâng, giúp chúng con tỉnh thức. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách khẩn thiết kêu cầu Chúa với một tấm lòng nát tan, nức nở, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Étte cho thấy: Lời cầu nguyện của hoàng hậu Étte. Trong những áng văn của thời hậu lưu đày, người lành thánh khi cầu nguyện bao giờ cũng có một nhận thức sắc bén về tội lỗi của dân và mình phải liên đới. Lạy Thiên Chúa quyền uy dũng lực trên hết thảy mọi người. Xin giải thoát chúng con khỏi tay những kẻ độc ác, xin giải thoát con khỏi cơn sợ hãi này… Lạy Vua các thần minh, Đấng thống trị mọi kẻ cầm quyền, xin ban cho con lòng dũng cảm, và dạy con biết nói lời êm tai. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con dịp may để hối cải, và đừng khóa miệng những người ngợi khen Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách cầu xin những gì Chúa muốn chúng ta cầu xin, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Nếu bạn điểm qua hết mọi lời cầu xin lành thánh, theo tôi nghĩ, bạn sẽ chẳng tìm thấy lời nào mà không được chứa đựng hay thâu tóm trong kinh Lạy Cha… Lạy Chúa, xin nghe lời con cầu khẩn, tiếng con kêu, mong được thấu tới Ngài. Vì Chúa chẳng khinh thường lời dân bị bóc lột nguyện xin. Dám xin Ngài lắng tai để ý, nghe lời con tha thiết nguyện cầu.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, với thái độ của con thơ kính sợ Cha hiền, chứ không như người đầy tớ khiếp sợ ông chủ, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Mầu nhiệm Đức Kitô nay đã được mặc khải; các dân ngoại được cùng thừa kế điều Thiên Chúa hứa. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Isaia nói: Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai được giao phó nhiều, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. Phải canh thức sẵn sàng, giờ phút không ngờ, Chúa sẽ trở lại; được giao nhiều, sẽ bị đòi lại nhiều. Không phải Chúa cố tình trở lại bất ngờ để bắt quả tang, “bắt tận tay day tận mặt”, cũng không phải Chúa cho bao nhiêu sẽ đòi lại bấy nhiêu, cách sòng phẳng. Tình yêu và ân sủng của Chúa là hoàn toàn nhưng không, đền đáp lại cho Chúa chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng, đem lại ơn cứu độ cho chúng ta; càng trung thành, càng quảng đại phụng sự Chúa, Chúa sẽ không bao giờ chịu thua lòng trung thành và quảng đại của chúng ta; càng kính sợ Chúa, càng ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình chẳng phút nào ngơi nghỉ, chúng ta sẽ càng cảm nhận được sự bình an, hạnh phúc. Chúa biết hết mọi sự, biết cả những khát khao thầm kín của chúng ta, nhưng, chúng ta phải cầu xin, không phải để Chúa biết, nhưng là, để chúng ta biết những khát vọng của mình, biết chúng ta đang cần gì. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất; tất cả những ước nguyện của chúng ta đều đã được Chúa soi sáng và chỉ dạy trong Kinh Lạy Cha. Hạnh phúc thay dân nào được Chúa Trời làm Chúa: chúng ta là thân dân của Vua Trời, là con cái của Cha Trên Trời, trong Vương Quốc của Người, chúng ta được chiêm ngưỡng và được sống mãi với Người. Hiện tại, lòng tin cậy mến sẽ đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa, sẽ giúp chúng ta canh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Ước gì chúng ta luôn biết trung tín, quảng đại, và nhiệt thành phụng sự Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Ðó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người. Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông. Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lãnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người. Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên. Ngọn lửa Ðức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng. Chúng ta cần được ngọn lửa của Ðức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới. “Phải chi lửa ấy đã bùng lên!” Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau. Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Ðức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau. Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu... Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình, Bóng tối ở ngay trong lòng tôi. Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt. Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa, Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Chân phước Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Lời của Chúa hôm nay là lời của lửa. Hành động của Chúa là hành động của lửa: ném lửa xuống mặt đất. Cuộc đời của Chúa là cuộc đời lửa cháy. Cháy lên tình yêu mãnh liệt. Lửa tình yêu bừng cháy thanh luyện. Đó là phép rửa cuối cùng của Chúa. Đó là tình yêu lớn lao hơn mọi tình yêu. Đã biến cuộc đời Chúa thành một thứ vàng ròng tinh khôi.
Chúa ước mong lửa đó cháy lên. Cháy lên trong mỗi người chúng ta. Để ngọn lửa đó thanh luyện trái tim ta. Để chỉ yêu mến một mình Thiên Chúa. Để thanh luyện khỏi những gì thuộc trần gian. Gây nên mối chia rẽ lớn lao. Như lửa tách tạp chất ra khỏi vàng. Tình yêu mến Chúa tách ta khỏi những gì thuộc trần gian. Dù đó là những gì thân thiết nhất. Như ước vọng, đam mê. Những người thân thiết nhất. Như cha mẹ, anh em, vợ chồng. Những gì thâm sâu nhất. Như chính bản thân mình. Tất cả phải được tách lìa. Phải được thanh luyện. Thành vàng ròng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni. Đó là phép rửa cuối cùng. Ngọn lửa tách biệt cái tôi khỏi thánh ý Chúa Cha. Khiến Chúa đau đớn toát mồ hôi pha máu. Chúa đã trở thành vàng ròng. Để trên thánh giá chỉ còn “phó linh hồn trong tay Chúa Cha”.
Thư Rô-ma cho biết lửa thanh luyện ta khỏi tội lỗi của con người xưa cũ. Để sống cho con người mới trong ân sủng. Cùng là chi thể nhưng cách sử dụng khác nhau: “Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô diễn tả cuộc thanh luyện cuối cùng sẽ giúp ta nên vàng ròng tinh tuyền. Để kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi. Được tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (năm chẵn).
Xin cho đời ta cháy bừng ngọn lửa yêu thương. Để ta cũng ném lửa. Gây nên đám cháy tình thương trên khắp mặt đất này.
Bình an chỉ có thể đạt được bằng giá của chiến đấu liên lỉ chống lại tư lợi và khuynh hướng xấu trong con người. "Nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh". Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi.
Vai trò của các vua chúa trong Cựu Ước là võ trang và chuẩn bị chiến tranh. Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.
Thật ra, thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.
Chúng ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.
Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.
Mới thoáng nghe những gì Chúa Giêsu nói, chúng ta cảm thấy khó chịu và có lẽ nhiều người và có lẽ nhiều người nghe Chúa Giêsu cũng cảm thấy khó chịu như chúng ta. Thế nhưng thực tế là như vậy. Sự lựa chọn quyết liệt để sống và trung thành với giáo huấn của Tin Mừng sẽ gây khá nhiều những mâu thuẫn giữa những người thân thương trong gia đình và cả với những người chung quanh của chúng ta nữa. Lý do là vì khôn ngoan theo Tin Mừng khác với khôn ngoan theo tinh thần của thế tục. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không biết thế nào là khôn ngoan theo tinh thần thế tục.
Thiên Chúa muốn chúng ta khôn ngoan lựa chọn quyết liệt để sống theo khôn ngoan của Tin Mừng, vì Chúa cho lửa tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau được bùng lên và bốc cao trên mặt đất này vì đó là cách để Ngài dẫn chúng ta về với Chúa Cha, khi đã tập cho chúng ta biết yêu nhau như con cái của Thiên Chúa.
Lạy Cha là Thiên Chúa chúng con.
Hơn bao giờ hết trong lúc này, chúng con mới nhận thấy được rõ ràng thế nào là khôn ngoan theo Tin Mừng và thế nào là khôn ngoan theo thế tục. Chỉ tiếc có một điều là chúng con vẫn chưa đủ can đảm để cộng tác với Chúa Giêsu, Con Cha khởi lên. Chúng con yếu đuối quá.
Lạy Cha,
Xin Cha ban cho chúng con Thánh Thần của Cha, để chúng con cố gắng can đảm loại bỏ những khôn ngoan thế tục, dù có bị chính những người thân yêu của chúng con phản đối hay ghét bỏ.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong chi lửa ấy đã bùng lên, Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc. 12, 49-50)
Sự dữ, sự xấu là con bệnh ung thư xâm nhập càng ngày càng sâu vào con tim nhân loại, đến một mức độ nó bắt con người phải nô lệ và làm đen tối mọi khả năng con người. Tâm lý học chiều sâu đã chứng minh điều đó. Trước nhà tâm lý trị liệu Freud rất xa, Thiên Chúa biết tận đáy những con tim. Chỉ có tình yêu của Ngài mới có thể giải phóng những ràng buộc của sự dữ. Theo thánh ý Ngài, Đức Giêsu đã đến bộc lộ tình yêu của Thiên Chúa cho thế nhân. Sự cứng lòng từ chối của dân Do thái đối với lời Ngài càng ngày càng thấy phải chữa trị tận căn cho nhân loại.
Thanh tẩy sự dữ:
Những ngôn sứ đã tiên báo cho dân Ít-ra-en rằng Thiên Chúa sẽ đến đòi nợ của Ngài trong cơn giận bừng bừng lửa cháy. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối không trưng dẫn lời ấy của ngôn sứ I-sai-a nói về ngày báo oán. Người chỉ đến trong tình yêu, không phải để tiêu hủy, nhưng để chữa lành nhờ tình yêu. Người đem lửa đến mặt đất để thanh tẩy, thổi nóng con tim sôi lên làm cho những vi khuẩn nhơ bẩn không còn nữa. Trước sự bành trướng của sự dữ, sự xấu đang vây bọc con tim nhân thế, Đức Giêsu khắc khoải mong ước cho lửa ấy cháy lên, mong ước cho sứ mệnh cứu thế và giải phóng của Người sớm hoàn thành.
Đó là phép rửa Đức Giêsu phải chịu trong đau khổ để mở ra con đường giải thoát tội lỗi và tiếp tế ơn tha thứ. Đó chính là lửa Thánh Thần được Đức Giêsu đem đến thấu tận con tim nhân loại, như gươm hai lưỡi đâm chia rẽ ra hồn với xác, tinh thần với vật chất, đã luôn luôn gây cấn với nhau, như con trai với cha nó, như con gái với mẹ nó, như mẹ chồng với nàng dâu, mới mong chữa trị khỏi cơn bệnh ung thư cho loài người để được sống mạnh mẽ dồi dào.
Sự phân chia này là một vết mổ tận căn ở thân xác gia đình con người. Ai tuân phục lời Chúa và Thánh Thần phải cam kết theo Đức Kitô và cắt đứt những mối dây liên lạc đó, dù là thứ yêu quý nhất, chặt chẽ nhất, vì những thứ dây này kéo ghì họ lại với thế gian. Như thế, họ sẽ thấy hòa bình của Đấng cứu thế rất khác với thứ yên ổn dễ đổ vỡ của thế gian hay của cái chết. “Đối với các ngươi, kẻ kính sợ danh thánh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên chiếu ánh sáng đến chữa lành các ngươi” (Ml. 3, 20). Mặt trời công chính này chính là Đức Kitô đã yêu thương hy sinh chịu chết để chữa lành tận căn con bệnh của nhân thế.
Những trang Tin Mừng trước, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thái độ tỉnh thức và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp phải sự đau khổ, bất hạnh, bởi vì chính lúc không ngờ, Con Người sẽ đến. Sang bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết, đồng thời cũng xác định những hệ quả của những người đón nhận Tin Mừng.
Trước tiên, Đức Giêsu muốn tiên báo về chính cái chết của mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: không phải Đức Giêsu đến để đem hòa bình theo kiểu trần gian, mà là một nền hòa bình của Thiên Chúa và chỉ dành cho những ai xây dựng đời mình từ nền tảng Tin Mừng mà thôi. Hòa bình này là một thứ mà tiền không mua được, quyền cao chức trọng cũng chẳng có. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ có thể nhận được sau khi đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Còn những ai không yêu mến, trung thành và tuân giữ thì sẽ không bao giờ gặp được bình an thực sự. Nhưng ngược lại, họ sẽ bất hạnh và chống đối lại hòa bình của Đức Giêsu nơi anh chị em khác.
Thật vậy, trong thực tế, chúng ta thấy rất rõ sự mâu thuẫn này ngay từ trong gia đình. Cha chống lại con, con chống lại cha; nàng dâu, mẹ chồng chống đối nhau; anh chị em phản bội lẫn nhau là chuyện bình thường. Tất cả khởi đi từ những lựa chọn thuộc về giá trị sống. Những người chọn Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài làm lẽ sống, chắc hẳn sẽ bị những người trong nhà không ưa, không thích bởi vì những người đó, họ đối lập hoàn toàn với những người môn đệ của Đức Giêsu, nên họ chọn cho mình sự đảm bảo nơi tiền, quyền và những thứ vui khác...
Trong số 118 thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta, hẳn có quá nhiều người bị chính con ruột hay người thân trong huyết tộc bán đứng bằng cách báo với vua quan để nhận tiền thưởng, hay thăng quan tiến chức, hoặc thỏa mãn cơn giận... nhiều khi chỉ vì những lời dạy dỗ của các ngài dựa trên Tin Mừng của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con bình an của Chúa. Xin cho chúng con cam đảm đón nhận và giữ gìn sự bình an đó trong cuộc sống của chúng con mãi mãi, để chúng con được hạnh phúc thật. Amen.
Sứ điệp: Con người có nghĩa vụ tôn thờ Chúa. Tôn thờ Chúa chính là yêu mến Chúa hết lòng, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Chúa đã thông ban tình yêu cho con và gọi con bước theo Chúa trên con đường yêu thương. Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con chợt ngỡ ngàng: sao Chúa lại đến để gây chia rẽ. Con biết Chúa dạy con thương yêu mọi người, Chúa không muốn con hận thù chia rẽ. Chúa chỉ muốn con chọn Chúa trên hết mọi sự.
Gia nhập vào hàng ngũ của Chúa, con phải chống lại tất cả những ai cản trở con theo theo Chúa, thưa “vâng” với Chúa chính là nói “không” với Xa-tan. Chọn lựa con đường về Trời, tức là con phải can đảm dứt bỏ những gì ở trần gian lôi cuốn con xa Chúa.
Chúa dạy con phải yêu thương cha mẹ, thương anh chị, mến mọi người. Đồng thời, Chúa dạy con phải tôn thờ Chúa và yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Con nhớ Lời Chúa dạy: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng với Ta. Ai cầm cày mà còn ngoái cổ đằng sau thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng vì tình cảm mà nhẫn tâm xúc phạm đến Chúa, đừng vì nể nang cha mẹ, họ hàng thân thích, mà làm ngơ trước những bất công; đừng vì ham chơi, ham công việc, mà bỏ bổn phận tôn thờ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, bỏ kinh nguyện sáng tối. Xin giúp con đừng vì ham tiền bạc vật chất mà lãng quên hoặc chối bỏ Chúa.
Xin cho con luôn chọn Chúa trên hết mọi người và mọi sự, dù khi chọn Chúa con phải hy sinh từ bỏ cả những gì con yêu quý nhất. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Đêm Phục sinh, không gian thật tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự đêm khuya...
Bỗng một ánh lửa bùng lên và một tiếng hát cất cao vang vọng: “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng thanh vang rền “Tạ ơn Chúa”.
Ánh lửa bập bùng xuất phát từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Chúa Kitô khải hoàn, bắt đầu được lan tỏa đến từng người tay cầm nến trong thánh đường. Ngàn ánh nến lung linh rực sáng xua đuổi bóng tối...
Suy niệm
Ba hình ảnh rất mạnh và ấn tượng được Chúa Giêsu nói đến: lửa, phép rửa bằng máu và sự xung đột, chia rẽ, như tuyên bố về thân phận của người tin phải trải qua, từ các ngôn sứ, với tiêu biểu thân phận của Giêrêmia xuyên qua Chúa Giêsu và đến mỗi chúng ta, những người đón nhận lửa tình yêu, lửa niềm tin từ trời. Giêrêmia được chọn làm ngôn sứ, đem lửa Lời Chúa đến cho dân: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt” (Gr 20,9), ông nói lời Thiên Chúa, lời chân lý đối kháng lại những gì xa rời sự thật, xa rời Thiên Chúa. Vì thế, Giêrêmia đã trở thành tường đồng chống lại cả dân tộc quốc gia, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. Gr 1). Ông đã bị bách hại bởi chính dân tộc ông và cuộc sống bị đày ải đến chết. Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc tử nạn, phép rửa máu của Đức Kitô.
Trong ngữ cảnh của đoạn Tin Mừng, tất cả những xung đột, chia rẽ mà Đức Giêsu đề cập, là hình ảnh biểu tượng những sự việc xảy ra trong quá trình thập giá tiến về phục sinh để đưa tới hiệp nhất và bình an. Các ngôn sứ cũng nói về biểu tượng chia rẽ của ngày sau hết, thời kỳ Mêssia: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch” (Mk 7,6).
Trong thời kỳ Mêssia, Đức Kitô cũng đã phải trải qua sự xung đột nội tâm, chia rẽ ý chí và thánh ý của Thiên Chúa Cha nơi Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài khủng hoảng trước con đường sắp phải đi, thao thức lo sợ trước chén đắng sắp phải uống và phép rửa máu sắp lãnh nhận (x. Mt 26,36-46; Lc 22,39-45), đến nỗi Ngài muốn từ bỏ: “Xin cất chén này khỏi con” (Lc 22,42) nhưng vì Ngài muốn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng lên và tỏa sáng, đốt cháy mỗi vết nhơ nhân loại, như ông Dacaria đã được linh hứng trước về sứ mạng của Đức Kitô: “Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79), giữa những giằng co xung đột, Ngài đã đặt quyết tâm mạnh: “Xin theo ý Cha đừng xin theo ý con” (Lc 22,42b).
Chia rẽ, xung đột còn xảy ra giữa Đức Kitô và những người liên hệ. Chúng ta thấy rõ nhất là thầy trò chia ly, môn đệ phản Thầy, bán Thầy, môn đệ chối Thầy, mẹ con chia ly trong máu và nước mắt.
Từ kinh nghiệm của Chúa Kitô gợi lên cho chúng ta, người Kitô hữu khi đối diện trước xung đột nội tâm, chia rẽ, những cảnh tang thương... Chúng ta hãy chiêm ngưỡng nội tâm bị chia rẽ và đang tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục chiến đấu, vượt qua xung đột hầu lửa tình yêu và bình an được đốt lên trong tâm hồn.
Ý lực sống
“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).
Chúng ta nghĩ thế nào khi nghe Đức Giêsu nói: “Thầy đến để gây chia rẽ” (Lc 12,51)). Một câu nói xem ra nghịch lý, khó chấp nhận. Nhưng nếu phân tích sâu xa thì câu nói đó lại là một chân lý tuyệt vời. Hoà bình đích thực chỉ có sau khi đã quyết liệt chiến đấu để chọn lựa. Hoà bình chỉ có khi đã phân rẽ sự ác khỏi điều thiện, bóng tối ra khỏi ánh sáng... Nhờ ngọn lửa thanh tẩy, bợn nhơ được loại bỏ để chỉ còn lại sự tinh tuyền trọn hảo.
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Các con tưởng Thầy đến đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hoà bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài: Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hoà bình đến (x.Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng hòa bình. Nhưng Ngài cần thấy phải giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng: Ngài đến thế gian không phải để đem hoà bình kiểu thế gian, mà là thứ hoà bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được, sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng gia đình.
Cuộc sống của người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng. Trận chiến mà chúng ta tham dự là trận chiến chống lại sức mạnh của ác thần. Vương quốc Chúa Giêsu thiết lập là một vương quốc luôn trong tình trạng chiến tranh, Giáo hội của Ngài luôn trong tình trạng thánh chiến. Thánh chiến ở đây không có nghĩa là chiếm lại Thánh địa, các nơi thánh hay bất cứ lãnh thổ trần gian nào, nhưng là chống lại sức mạnh của tối tăm, hận thù, tội lỗi và chết chóc.
Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng gây nên chết chóc đau thương. Hoà bình mà nhân loại đạt được lắm khi là giá của rất nhiều mạng người. Người Kitô hữu cũng đeo đuổi một cuộc thánh chiến, nhưng là để đạt được bình an trong tâm hồn. Sự bình an ấy, chúng ta chỉ có thể đạt được bằng giá của một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi và khuynh hướng xấu trong chính bản thân. Vì thế, người Tây phương có câu ngạn ngữ: “Si vis pacem, para bellum”: nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi (R.Veritas).
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”
Một đạo sĩ Ấn độ dạy các đệ tử: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Ánh sáng mặt trời, mặt trăng giúp ta thấy rõ sự vật, nhưng không thể biến một người xa lạ thành người anh em của chúng ta. Vậy thứ ánh sáng kỳ diệu ấy từ đâu? Ánh sáng ấy phát xuất từ trái tim. Thứ ánh sáng ấy toả ra từ khắp các trang sách Tin mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng ấy đã bừng lên. Ánh sáng đó khiến hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em. Ta hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng cháy, đẩy lui bóng tối hận thù, ích kỷ; mở rộng tâm hồn đón nhận và trao tặng yêu thương, để mọi người nhìn nhận nhau như là anh em đích thực. Bấy giờ, đêm sẽ tàn, ngày mới sẽ bắt đầu, bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, và ánh sáng tỏa rạng từ các trái tim chan hòa yêu thương.
Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật ở Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu cùng 6 anh em khác lập Hội Bác Ái Vinh Sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề: “Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Ozanam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những công nhân nghèo khổ.
Ngày nay, Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
1. Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
2. Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2,35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).
B.... nẩy mầm.
1. Lời Chúa Giêsu nói về sứ mạng của Ngài cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Ngài: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là thứ bình an mà họ phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân nhưng không cùng niềm tin với mình. Phaolô và Barnabê đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
2. Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẽ”:
a/ Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác;
b/ Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau.
3. “Nếu trong tương lai, chúng ta không ký kết được những hiệp ước vững chắc và thành thật bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân loại, hiện đang gặp nguy cơ trầm trọng dù có một nền khoa học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng sẽ tiến đến cách thảm khốc tới một giây phút mà nhân loại sẽ không biết hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của chết chóc” (Gaudium et Spes, số 82).
4. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49)
Báo tuổi trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh Nguyễn Đức Minh như sau:
“... Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa giải phẫu của trường ĐHYD rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có ba điều ước mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ học tập của câu lạc bộ Bừng Sáng và một người bạn cùng cảnh mù.
Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi ý...”
Mong ước của anh Minh giúp tôi nhận ra được những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy - ngọn lửa yêu thương mà Ngài đã ném vào mặt đất - cháy bùng lên!”
Giêsu ơi, con cũng muốn sống những thao thức của Giêsu, bằng cuộc sống yêu thương, và dấn thân cho tình yêu. Xin giúp con Chúa nhé! (Hosanna).
Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53). Nhiều người nghĩ rằng, Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (Is 9,5). Chúa Giêsu xác nhận rằng, đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng, Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Như vậy, hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẽ”:
Một nữ tu đang phục vụ trong chương trình phát thanh bằng tiếng Đại Hàn, của đài phát thanh chân Lý Á Châu, đã có lần đã cho biết, gia đình của chị là một gia đình chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách hết sức sâu đậm. Lòng hiếu thảo chi phối mọi quyết định và sinh hoạt của con cái trong gia đình.
Thế nhưng ngày kia, niềm tin Kitô đã đến với người anh của chị. Điều này đã làm cho gia đình của chị xáo trộn. Người cha già của chị đã cực lực phản đối việc trở lại Công giáo của người con trai duy nhất của ông.
Sự phản đối còn đi xa hơn nữa, khi ông ta được biết, người con trai của ông lại còn quyết định đi tu làm Linh Mục. Như thế là gia đình ông không còn người nối dõi tông đường.
Nhưng chưa hết. Sau khi người anh của chị quyết định đi tu, thì lại đến lần chị, chị cũng trở lại Công giáo và cũng xin đi tu.
Những điều này đã làm cho người cha của chị buồn phiền đến nỗi ông muốn từ hai đứa con của ông và ông đã căm thù đạo Công giáo, đến độ ông gọi Thiên Chúa của đạo Công giáo là một ông thần xấu, vì đã cướp đi của ông hai người con.
Trước cảnh chia rẽ của gia đình như thế, chị và anh của chị chỉ biết cầu nguyện, để cho người cha của họ hiểu được lý do mà chị và anh chị trở lại Công giáo. Và lời cầu xin của họ đã được Chúa nhậm lời. Vào giờ phút chót của cuộc sống tại thế, chính người cha của họ đã xin trở lại.
2. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49)
Vâng, lửa phải cháy bùng lên.
Một bữa tối tại sân vận động trường Los Angeles – Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông Keller- được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to: “Đã thấy!”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên! Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông Keller kết luận:
- Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hoà bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để xây dựng hoà bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và cái ác. (Theo The Love and Life).
Chúa nói Chúa đến đem lửa xuống trần gian, lửa đó là phép rửa Chúa sẽ chịu sau này, phép ở ở đây là cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Chúa để Chúa cứu con người chúng ta. Chúa khắc khoải biết bao cho đến khi Chúa hoàn tất là vì yêu thương và để chúng ta được nhờ. Như vậy là Chúa đem cái chết xuống trần gian. Chết không ai thích cả, nhưng nó là đệnh mệnh của con người. Là người ai cũng phải chết. Do đó mà có người nói sinh ra là để chuẩn bị cho cái chết. Cuộc đời này có sinh, có tử. Nó là một quy luật của Tạo Hóa cho con người chúng ta. Vì thế, Chúa xuống thế làm người, Chúa cũng chấp nhận cái chết như bao người. Nếu ai mà có tư tưởng là Chúa đến trần gian, Chúa sẽ đem lại cơm no áo ấm, ăn sung mặc sướng, tiền của tràn trề, hoan lạc cuộc sống là không bao giờ có đâu. Chúa đến để chịu chết cứu chuộc con người chúng ta. Bởi vậy mà Chúa nói rằng các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Chúa nói không phải thề đâu, Chúa đến để đem sự chia rẽ (Lc 12, 51).
Sự chia rẽ trong gia đình, ngoài xã hội thể hiện ở chỗ, người thì nghĩ rằng theo Chúa thì sẽ được ơn lộc, được ưu đãi, và khi không được ý thì họ quay lại chống đối Chúa, chống đối những người theo Chúa. Nhưng có người theo Chúa vì tin Chúa, nên bị người khác xăm xỉa, làm cho họ đau khổ, ngay trong gia đình, người thì muốn theo Chúa, người là không muốn, người thì nói xấu Chúa, người thì không chấp nhận điều này: “Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba, cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha, mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ, mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 52 – 53). Vì thế, sự chia rẽ này là do chúng ta mà ra.
Như vậy, chúng ta thấy nếu con người chúng ta theo Chúa thì sẽ được bình an, ổn định. Nhưng đây, vì có nhiều người không theo Chúa, cho nên họ đã gây ra bao bất ổn, phức tạp cho cuộc sống. Khi chúng ta thực hiện lời Chúa, theo Chúa thì chúng ta có sự bình an. Bình an này Chúa ban cho chúng ta khi Chúa sinh xuống thế làm người: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14), và ngày sống lại, Chúa hiện đến và ban bình an cho các tông đồ: “Bình an cho các con” (Ga 20, 19). Tất cả bình an này có được do cái chết và sự phục sinh của Chúa để rồi sau đó Chúa mới ban cho chúng ta: “Nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 19 – 20).
Chúa đến trần gian với chúng ta, Chúa đem lửa xuống trần gian, lửa tình yêu, sự bình an, và Chúa mong ước chúng ta hãy hết lòng cộng tác với Chúa để làm cho lửa ấy bùng lên. Chúng ta hãy nổ lực làm theo ý Chúa, là chúng ta hy sinh, dấn thân, sống đạo tốt để mang tình yêu, sực bình an của Chúa cho anh chị em của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con trông cậy vào Chúa, xin Chúa thương kéo chúng con ra khỏi vũng nhơ tội lỗi, cho chúng con được sống trong ân tình của Chúa, chúng con nguyện sẽ hết mình phục vụ Chúa, loan truyền Chúa cho anh chị em của chúng con, để họ cũng trông cậy vào Chúa như chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để giải cứu chúng ta, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Étte cho thấy: Sau bữa tiệc của hoàng hậu Étte, Haman bị treo cổ. Haman bị treo cổ như chính y định làm cho đối thủ của y. Đó là đề tài cổ điển của các sách Khôn Ngoan: Kẻ ác sớm muộn gì cũng sẽ rơi vào cạm bẫy do nó bày ra. Hiển nhiên là có bàn tay Chúa can thiệp, dù tác giả không trực tiếp nói ra. Ítraen đã kêu cầu Đức Chúa, và Đức Chúa đã cứu dân Người. Đức Chúa đã giải thoát Ítraen khỏi tất cả mọi tai hoạ, đã làm những điềm thiêng dấu lạ chưa từng xảy ra nơi các dân tộc. Hãy cất tiếng reo hò, loan tin ấy cho mọi người nghe: Đức Chúa đã chuộc Giacóp tôi tớ Người.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, Chúa biết điều gì là tốt nhất cho chúng ta, và Người sẽ ban tất cả cho chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Khi không được nhậm lời, vì có lẽ người ấy xin một điều, mà nếu được, sẽ làm cho mình đau khổ dữ dằn hơn; hoặc vì được thành đạt, mà ra, hư hỏng đến nỗi sụp đổ hoàn toàn. Vậy trong những trường hợp như thế, chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải… Anh em cứ xin thì sẽ được; vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, để nghiệm thấy tình yêu cao cả Chúa dành cho chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Được bén rễ sâu và xây dựng trên đức ái, anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 32, vịnh gia cho thấy: Tình thương Chúa chan hòa mặt đất. Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Tôi chấp nhận mất hết, và coi tất cả như rác rưởi, để được Đức Kitô, được kết hợp với Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thầy không đến để ban hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ. Đức Giêsu nói Người đến không để ban hòa bình, nhưng đem sự chia rẽ, điều này khiến không ít người thắc mắc, nhưng, những ai được kết hợp với Đức Kitô thì sẽ nhận biết tình thương của Người, là tình thương vượt quá sự hiểu biết, khiến họ thà chấp nhận mất hết tất cả, để có được Đức Kitô, nghĩa là, được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa, là Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới. Nếu có gì xảy ra trái với điều chúng ta cầu nguyện, thì nhờ kiên nhẫn chịu đựng và biết tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, chúng ta tin chắc rằng điều đó là do ý Chúa hơn là theo ý chúng ta, như Đức Giêsu đã từng nói: xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha. Nhờ chấp nhận uống chén đắng với tư cách là một con người, Đức Giêsu đã làm cho ý muốn nhân loại nơi mình được biến đổi, và thế là, nhờ sự vâng phục của một người, mà nhiều người được nên công chính. Đức Giêsu đã chấp nhận mất hết tất cả để vâng theo thánh ý Chúa Cha, để sinh ơn cứu độ cho chúng ta, đến lượt mình, chúng ta cũng phải chấp nhận mất hết tất cả để có được Đức Kitô, được kết hợp với Người, chấp nhận đứng về phía Đức Kitô cho dẫu bị thua thiệt. Đức Giêsu đến để gây chia rẽ giữa những người muốn thuộc về Đức Kitô với những người muốn thuộc về thế gian. Ước gì chúng ta dám chấp nhận thuộc về Đức Kitô, chấp nhận trả giá, để luôn trung tín, quảng đại, và nhiệt thành phụng sự Chúa. Ước gì được như thế!
Dấu Chỉ Của Thời Ðại. 25/10 – Thứ Sáu tuần 29 thường niên. "Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?"
Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết. Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra. Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão. “Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.” Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự. “Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải. Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54). Khi thấy gió từ phương nam thổi đến, luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập, người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55). “Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần. Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai. Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất. Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ đang diễn ra trước mắt họ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống. Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm. Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng. “Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56). Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia? Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay. Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ. Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó. Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất. Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài. Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao, một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước. Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên. Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở. Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân, và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước. Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ. Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn, để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng. Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu, vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài. Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa. Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng. Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó, cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn. Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc. Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin. Con mơ ước những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em. Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Biết nhìn ra dấu chỉ thật quan trọng. Biết nhìn thời tiết sẽ sắp xếp công việc hợp lý. Đặc biệt là công việc đồng áng. Để cầy cấy cho đúng thời vụ. Đem lại lương thực cho đời sống thân xác. Nhưng biết nhìn dấu chỉ thiêng liêng còn quan trọng hơn. Vì giúp lo liệu công việc cung cấp lương thực thiêng liêng. Cho sự sống đời đời.
Chúa mắng những người Do thái là giả hình. Vì họ không thể không biết những dấu chỉ về Đấng Cứu Thế: kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người nghèo được nghe Tin Mừng. Chính Chúa đã thực hiện những điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa. Họ giả hình. Vì biết mà không tin. Có lẽ họ sợ phải thay đổi đời sống. Hay là sợ mất quyền lợi khi phải tin theo Chúa. Giả dối. Tâm thần phân liệt.
Chúa cảnh báo họ. Nếu không có phán đoán chính xác. Nếu không thay đổi thái độ để có hành xử đúng đắn. Họ sẽ lãnh lấy hậu quả tai hại. Sẽ bị trừng phạt vì sự thiếu khôn ngoan đó: “Kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục”.
Chứng tâm thần phân liệt được thánh Phao-lô nhận biết ngay trong bản thân mình. Ngài nhận thấy sự bất lực của mình trong đời sống thiêng liêng: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”. Và ngài nhận biết mình bị tội lỗi trói buộc. Không sao thoát ra được. Ngài nhận biết chỉ mình Chúa Ki-tô mới có thể cứu ngài thoát sự nô lệ tội lỗi đó: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Ngài nhận biết thế giới này xung đột chia rẽ. Và sự chia rẽ xuất phát ngay từ nội tâm con người. Đó là do tội lỗi. Cần thống nhất đời sống. Cần thống nhất thế giới. Chỉ có một phương thế: Chịu phép rửa nhân danh Chúa Ki-tô. Như thế “chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người”. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải cứu thế giới. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể duy nhất đời sống. Nhờ Chúa Giê-su Ki-tô (năm chẵn).
"Sinh ngày mùng 4 tháng 7", và "Bàn chân trái của tôi", đó là tựa đề của hai cuốn phim Mỹ hay nhất năm 1990. "Sinh ngày mùng 4 tháng 7" kể truyện một thanh niên Mỹ bị động viên sang VN và trở thành kẻ tàn tật suốt đời. Bất mãn, hận đời, người thanh niên gia nhập phong trào phản chiến ở Mỹ. Còn cuốn phim "Bàn chân trái của tôi" cho thấy hình ảnh một con người phấn đấu với những bất hạnh của mình để đạt thành công. "Bàn chân trái của tôi" nêu bật bài học về lạc quan tin tưởng trong cuộc sống.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát, Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta lại dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điềm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Chỉ với một bàn chân trái, một người tàn tật có thể vươn lên. Chúng ta hãy tự nhủ: những mất mát, khổ đau, thử thách là cơ may Thiên Chúa ban để giúp chúng ta vươn cao trong niềm tin. Chúng ta hãy nói lên niềm tin vào Ðấng luôn có mặt trong cuộc sống chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta yếu hèn tội lỗi.
Chúng ta rất quen với những thời tiết trong một năm và quen như vậy thì chúng ta mới biết tính toán trong công việc làm ăn, canh tác. Thiên Chúa, Cha chúng ta, Người là Ðấng vô hình và Người tạo dựng nên chúng ta hữu hình. Vì thế, Người nói chuyện với chúng ta về tình yêu của Người bằng dấu chỉ. Mục đích Người muốn cho chúng ta nhận ra được ý muốn của Người và phục vụ ý muốn đó với tất cả tấm lòng của người con hiếu thảo. Chỉ tiếc một điều là chúng ta quen thuộc với những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa để rồi thành công trong công việc làm ăn và nuôi sống cho thân xác, nhưng lại không muốn quan tâm đến những dấu chỉ tình yêu vô cùng cần thiết cho đời sống chúng ta. Chúng ta có vẻ lo lắng cho của cải vật chất của mình mà quên rằng chúng ta còn cuộc sống làm con cái của Thiên Chúa, con cái của Ðấng Tạo Hóa. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta biết nhận ra dấu chỉ ngôn sứ để có thể có được một đời sống đời đời. Những dấu chỉ ấy, Thiên Chúa Cha đặt để khắp mọi nơi, mọi chốn trong cuộc sống mỗi người qua giáo huấn của Kinh Thánh, qua giáo huấn của Giáo Hội, qua những cơ cấu tổ chức của xã hội, những khoản lề luật để đảm bảo trật tự trong cộng đồng, những biến cố lớn nhỏ trong lịch sử của một đời người, một dân tộc và toàn thế giới. Vấn đề là chúng ta biết nhìn ngắm, biết nhận ra và biết vâng phục yêu mến Thiên Chúa khi Người cho chúng ta những dấu chỉ và những dấu chứng ấy.
Dấu chỉ, dấu chứng lớn nhất là chúng ta có một Thiên Chúa là Cha. Người đã làm được tất cả những gì làm được cho chúng ta, kể cả việc trao ban cho chúng ta Người Con yêu dấu duy nhất của Người, để chúng ta được hòa giải với Người và hòa giải với nhau trong tình anh chị em. Vì thế, chúng ta phải xử với nhau như anh chị em. Hơn nữa đối với Chúa Giêsu, trần gian này chẳng qua là nơi Thiên Chúa giáo huấn cho chúng ta, làm cho chúng ta nên cao cả qua những việc mình làm mỗi ngày để mang lại hạnh phúc cho nhau. Một mai đây khi đến thời đến buổi chúng ta cũng sẽ cùng nhau về với Cha. Sống ở đời này với ưu tiên một là Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể mong được về hưởng hạnh phúc với Người.
Lạy Cha yêu thương,
Cha thật là tuyệt vời khi nói với chúng con về tình yêu bằng dấu chỉ và bằng ngôn ngữ. Cha muốn cho chúng con đọc được những dấu chỉ ấy, những hình thức ngôn ngữ ấy để chúng con cảm nghiệm được tình Cha, sống tình Cha và chia sẻ tình Cha với anh chị em chúng con, khi chúng con cùng nhau hành trình về nhà Cha. Thật ra thì dấu chỉ Cha dùng, ngôn ngữ Cha sử dụng rất rõ ràng, hiển nhiên và dễ hiểu, có chăng là tại chúng con cố tình làm như không hiểu. Dưới sự nhắc nhở của Chúa Giêsu, chúng con cố đào sâu hơn nữa những dấu chỉ và chúng con cũng biết tôn thờ Cha bằng những dấu chỉ nghiêm túc của phụng vụ, của các hoạt động tông đồ giáo dân, để dẫn đưa tất cả anh chị em chúng con về với Cha.
Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? (Lc. 12, 56-57)
Một trong những ơn Chúa Thánh Thần cần thiết nhất cho con người suy xét và biết rõ, phân biệt rõ, bản dịch xưa kia gọi là ơn suy biết, nay gọi là ơn minh luận. Đối với việc đời, người ta tự khoe mình có cảm thức rất rõ, giúp người ta phán đoán mọi tình cảnh, lượng định đánh giá để hành động thích hợp, như Đức Giêsu đã nói với đám đông: “Các ngươi biết nhận xét bộ mặt trời đất”.
Thế mà “thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét”. Thời đại nước trời đã đến, được Gio-an loan báo và được Chúa tuyên bố với những dấu chỉ toàn năng của Thiên Chúa?
Thứ điếc nhất là không muốn nghe
Khi Người nói phải biết phân biệt lấy điều phải để theo, người ta lại không muốn nghe, họ không muốn nhận xét tự mình, vì lương tâm họ có thể sẽ chỉ cho họ phải theo con đường mà họ không thích. Ăn năn trở lại là nói đến thay đổi hướng đi, từ bỏ những thói quen xấu đã gắn bó với mình, nhận ra tội lỗi mình, chấp nhận mình đã bất trung, họ cự tuyệt với hành động hạ mình xuống, quả quyết từ chối nghe tiếng lương tâm của họ. Họ hoàn toàn điếc không sợ súng.
Mỗi thế hệ ở một thời điểm nhất định và tương lai tùy thuộc vào phán đoán của mình về thời đại đang sống. Ngày nay Thiên Chúa vẫn hoạt động trong đời sống chúng ta, Ngài nói với chúng ta qua những biến cố, qua những người mà chúng ta gặp. Hãy lắng nghe lời Ngài, Ngài khẩn thiết gọi ta trở về với tình yêu của Ngài. Rất nhiều khi chúng ta quay lỗ tai điếc ra nghe. Chúng ta từ chối bồi đắp cho cuộc đời mình. Chúng ta sống quá thoải mái bởi những tiện nghi.
Cố chấp hay ngu đần
Thủ tục tố tụng của đế quốc La-mã xưa rất khắc nghiệt. Một khi khởi tố phải theo những thủ tục rất bất nhân. Cho nên Đức Kitô nhắc nhở và khuyên cố gắng giải quyết với đối phương trước khi phải ra tòa án xét xử. Ngày phán xét cũng sẽ không khoan nhượng và rất khắc nghiệt. Chúng ta hãy lo ăn năn trở lại trước đi, kẻo quá trễ. Người ta lầm tưởng rằng Thiên Chúa rất tốt lành, Ngài không thể để ai bị kết án và Ngài sẽ bãi bỏ công lý. Sự cố chấp, ngoan cố làm chúng ta không muốn nghe lời Chúa, chẳng những là thứ ngu đần mà còn là một trọng tội đẩy ta đến chỗ chết đời đời.
Khi nói về dấu chỉ của thời tiết, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy, Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”.
Hay:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khen ngợi những người Dothái về khả năng tiên đoán điềm trời của họ. Tuy nhiên, Ngài lại khiển trách họ chỉ biết dự báo về điềm trời, còn không biết dùng khả năng vốn có của mình để sử dụng vào lãnh vực cao hơn là những dấu chỉ ơn cứu độ. Ngài trách: “Hỡi những kẻ giả hình, các người biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi lại không tìm hiểu?”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn xác định rằng: sự xuất hiện của Ngài ngang qua các hành động và những lời giáo huấn cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, đến để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi chết phần hồn và đem lại cho nhân loại hạnh phúc thật. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại, cả thể, nhằm loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại thì họ lại không tin, không nhận ra.
Tại sao vậy? Thưa! Họ mong đợi nơi Đấng Cứu Thế phải là một người hùng, đánh đông dẹp bắc bằng vũ lực; phải là Đấng giải phóng dân tộc Dothái khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phải là người giỏi giang về binh đao và xuất xứ của Đấng ấy phải là quyền quý, cao sang.
Tuy nhiên, điều họ mong chờ ấy đã không phù hợp với bản chất của Đấng Thiên Sai, nên họ đã bị tối mắt và lu mờ lương tâm khi Đức Giêsu xuất hiện trong một gia đình nghèo, tầm thường. Hơn nữa, Ngài đến trong thân phận là người tôi tớ của Giavê, để phục vụ và đứng về phía người nghèo, tội lỗi, người không có tiếng nói... Đường lối cứu độ của Ngài lại là con đường khổ giá, khiêm nhường và hiền hậu. Sự nghiệp giải phóng của Ngài không chỉ dành riêng cho một quốc gia, dân tộc nào, mà là cho hết mọi người. Tất cả những điều đó họ đã không nhận ra, nên họ đâu màng chi đến những dấu chỉ về sự hiện diện của Đức Giêsu! Vì thế, họ không sám hối cũng chẳng cần thay đổi đời sống...!!!
Nơi xã hội hay trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa khi phỏng chiếu một vị Thiên Chúa phải đứng về phe mình, mặc cho điều mình làm có đúng hay sai? Cũng vẫn còn đó những người luôn có khái niệm: “Tự nhiên có”, mà không hề nhận ra rằng: Chúa đang yêu thương, bao bọc ta và những thứ ta có là do lòng nhân từ của Chúa ban. Đôi khi có những bất chắc trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, ốm đau... chúng ta đã được Chúa thương cứu sống cách nhiệm mầu. Ấy vậy mà khi chúng ta được chữa lành, thay vì tạ ơn Chúa, cải hóa đời sống và trung thành với Chúa, thì lại vui vẻ cho rằng mình gặp may... Rồi cũng không thiếu những lúc ta ích kỷ đến độ không hài lòng với người anh chị em của mình khi họ gặp điều thuận lợi hơn ta...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy nhạy bén với ơn Chúa để nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi chính Lời của Ngài trong Tin Mừng. Đồng thời, luôn nhận ra tình thương của Chúa qua sự quan phòng kỳ diệu trong cuộc sống nơi các biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại của chúng ta. Mặt khác, hãy lo sám hối, cải thiện đời sống và quay trở về với Thiên Chúa một khi đã nhận ra tình thương của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Xin cho chúng con nhận ra tình thương của Chúa và biết sám hối, ăn năn, cải thiện đời sống để xứng đáng trở thành con Chúa và anh chị em của nhau. Amen.
Sứ điệp: Từng biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống là những dấu chỉ chứng tỏ Thiên Chúa vẫn đang làm chủ lịch sử và thực hiện việc cứu độ nhân loại. Khi nhận ra những dấu hiệu ấy, chúng ta cần phải xác định lập trường sống một cách dứt khoát.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cuộc sống của con được đan dệt với những vui buồn sướng khổ, may mắn và thất bại. Con nhận biết rằng Chúa đang can thiệp vào những biến cố ấy. Ngày nay không thiếu những dấu chỉ chứng tỏ Chúa vẫn đang hiện diện trong cuộc đời con.
Ngày xưa Chúa đã trách người Do thái vì họ không biết đọc những dấu chỉ thời đại. Họ sáng suốt đoán trước thời tiết qua những hiện tượng thiên nhiên, nhưng họ lại mù tối không nhận ra được những dấu chỉ mà Chúa đang ngỏ với họ qua các phép lạ và giáo lý của Chúa. Chúa mời gọi những ai theo Chúa hãy đọc và hiểu dấu chỉ ơn cứu độ của Chúa đang thực hiện giữa loài người.
Lạy Chúa, xin cho con được đôi mắt sáng của đức tin, để thấy được bàn tay yêu thương của Chúa đang dẫn dắt con trong từng biến cố. Con cũng cần Chúa cho đôi tai tỉnh thức, để sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa đang mời gọi con đáp lại tình Chúa thương yêu. Và giữa những thất bại khổ đau, xin cho con nghe được tiếng Chúa vẫn không ngừng kêu gọi sống vui tươi lạc quan và tin tưởng phó thác.
Xin cho con nhận ra những dấu chỉ của Chúa, luôn biết can đảm dứt khoát từ bỏ thói hư tật xấu, cương quyết sửa những lỗi lầm, để cuộc sống của con cũng trở thành một dấu chỉ sống động của Chúa cho những người khác. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?”
Nhà nông Việt Nam qua kinh nghiệm của ông cha từ xa xưa, họ có những quan sát đoán biết thời tiết để gieo trồng cho đúng thời đúng vụ và đạt năng suất cao, ví dụ qua các câu ca dao sau:
Đêm trời lạnh, trăng sao không tỏ, Ấy là điềm mưa gió tới nơi. Đêm nào sao sáng xanh trời, Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày. Những ai chăm việc cấy cày, Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.
Hay:
Kiến đen tha trứng lên cao, Thế nào cũng có mưa rào rất to. Đoán biết thời tiết để tiên liệu cho công việc, cho cuộc sống là điều cần thiết.
Suy niệm
Mọi dân tộc đều trân trọng truyền thống, kinh nghiệm sống của cha ông ví dụ như những bài học áp dụng từ lao động, từ thiên nhiên, người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng vậy, họ đón nhận kinh nghiệm từ cha ông họ, biết nhìn cảnh sắc đất trời để có những cách đối phó, ứng xử: Nhìn mây đoán được mưa, thấy gió đoán được trời sẽ oi bức...
Nhưng họ lại không nhận biết được dấu chỉ của thời đại: Không nhận ra Chúa Giêsu, Đấng phải đến loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh tật cho người đau yếu, trừ quỷ cho người bị quỷ ám và làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mù được thấy… như lời các ngôn sứ loan báo, nhưng họ lại không nhận ra đó là dấu chỉ của nước Thiên Chúa đang đến.
Cho nên, Đức Giêsu đã khiển trách họ chỉ biết “nhận xét cảnh sắc đất trời” trong vũ trụ tự nhiên, nhưng lại không nhận biết những dấu lạ của Con Người đang hiện diện.
Ðức Giêsu kêu gọi hãy nhận ra dấu chỉ thời đại qua sự hiện diện của Ngài, mà tỏ lòng sám hối. Khi bất hòa với anh em, phải biết đi tìm sự hòa giải với anh em trước khi đến với tòa xét xử của Thiên Chúa, vị Thẩm Phán Tối Cao, Ngài sẽ xét xử chúng ta theo tình yêu thương mà chúng ta đối xử với anh em.
Thật thế, chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô trong thời đại hôm nay, cần phải tỉnh táo để nhận ra những dấu chỉ, những ý định của Chúa qua từng biến cố hằng ngày để sám hối, canh tân biến đổi chính mình mỗi ngày.
Ý lực sống
“Anh em đừng phạm tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.
Đức Giêsu giáo huấn dân chúng: Người trách họ, vì họ biết đem điềm trời mà đoán được thời tiết, nhưng lại không biết cách xét các việc đang xảy ra để nhận biết thời giờ cứu rỗi. Người khuyến dụ thính giả hãy để ý đến các dấu hiệu của thời đại mà lo tính công việc của mình trước ngày thẩm phán.
Người cũng nhấn mạnh đến sự cần kíp phải làm hoà với anh em, nghĩa là phải chấm dứt càng sớm càng tốt tình trạng gây hấn, oán hờn trước khi đến với quan toà xét xử. Người cũng là vị Thẩm phán tối cao sẽ xét xử chúng ta về tình yêu đối với anh em. Thế nên đừng chần chừ kéo dài cơn giận như lời giáo huấn của thánh Phaolô: “Anh em đừng phạm tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng” (Ep 4,26-27).
Khác với ngày nay với máy móc hiện đại về khí tượng thuỷ văn, có thể dự báo trước về thời tiết và phát hiện được những cơn bão từ xa mà phòng tránh; người xưa thì đúc rút những kinh nghiệm xảy ra, từ đó đoán biết những hiện tượng thiên nhiên sắp xảy đến, như:
Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa, Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa...
Dân Do thái thời Đức Giêsu vốn từ du mục qua định cư, họ có nhiều kinh nghiệm về đoán biết thời tiết như vậy:
Mây kéo lên phía tây, mưa đến ngay tức khắc, Khi gió nồm thổi tới, trời oi bức bắt đầu.
Đức Giêsu trách những người Do thái giỏi đoán biết về hiện tượng thiên nhiên, để phòng tránh hay đón mùa, nhưng lại không nhận ra những lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm để đón nhận đó chính là dấu chỉ của Đấng Messia, và để canh tân đời sống (Hiền Lâm).
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn xác định rằng: sự xuất hiện của Ngài ngang qua các hành động và lời giáo huấn cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, đến để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi chết phần hồn và đem lại cho nhân loại hạnh phúc thật. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại, cả thể, nhằm loan báo Triều đại Thiên Chúa đến và đang hiện diện giữa nhân loại thì họ lại không tin, không nhận ra. Tại sao vậy? Thưa, họ mong đợi nơi Đấng Cứu Thế phải là một người hùng, đánh đông dẹp bắc bằng vũ lực; phải là Đấng giải phóng dân tộc Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phải là người giỏi giang về binh đao và xuất xứ của Đấng ấy phải là quyền quý, cao sang...
Cha ông ta ngày xưa muốn dự đoán thời tiết thì dựa vào kinh nghiệm mà đặt ra những “công thức” đại loại như: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”. Ngày nay với những phương tiện như vệ tinh, đài khí tượng thủy văn, người ta có thể dự báo được thời tiết xa hơn và chính xác hơn. Chính nhờ những dự đoán thời tiết như vậy, con người có thể phòng tránh được thiên tai, cũng như sắp xếp công việc của mình sao cho đạt kết quả cách tốt đẹp nhất. Tiếc thay khoa học tự nhiên phục vụ con người trong những lĩnh vực thuộc cuộc sống đời này có những bước tiến nhảy vọt, còn khoa học tâm linh giúp đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu thì sao mà èo uột, khập khiễng!!! Chúa than phiền về những người biết nhận xét cảnh sắc đất trời mà không biết nhận xét dấu hiệu của thời đại này, và Ngài gọi họ là người “đạo đức giả” (5 phút Lời Chúa).
Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát, Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điểm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, thua thiệt, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Nhìn ra dấu chỉ
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Câu chuyện tình này kể về gã lang thang và một cô gái mù bán hoa.
Một nhà tỉ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Và một ngày kia, gã lang thang là chàng Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô bán hàng tưởng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã nối kết hai tâm hồn lại với nhau. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng hết lòng yêu nàng, cố gắng làm việc để kiếm tiền giúp nàng chữa bệnh, với hy vọng nàng sẽ được khỏi tật mù lòa.
Nhưng vì một sự ngộ nhận, cảnh sát bắt chàng. Sau thời gian cầm tù, chàng được tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm cô gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Cô gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: “Cô đã thấy được rồi sao?”... Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc... nàng từ từ nhặt chiếc hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: “Anh đấy sao?”
Những lời này Chúa Giêsu nói cho những người do thái thời Ngài nghe. Ý chính là khuyên họ hãy sáng suốt nhận ra những dấu chỉ thời đại:
- cc 54-56: họ rất giỏi nhìn những dấu chỉ thiên văn để đoán trước trời sẽ mưa hay sẽ oi bức. Tại sao họ không nhận ra ý nghĩa của những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm để biết rằng đã đến thời cuối cùng của lịch sử cứu độ?
- cc 57-59: bằng dụ ngôn hai người đưa nhau ra tòa, Chúa Giêsu khuyên hãy gấp rút lo hòa giải với nhau trước khi bị tòa kết án.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cơ thể ta mang thêm một chứng bệnh, khi một phần cơ thể ta yếu đi... tất cả đều là những tín hiệu cho biết trước ngày lìa thế của ta càng lúc càng gần. Tại sao nhiều người không nhận ra những tín hiệu ấy và sống như sẽ không bao giờ chết?
2. “Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài la lớn trong những cơn đau của chúng ta” (C.S. Lewis).
3. Khi biết chắc mình không còn nhiều thời giờ, người ta phải giải quyết nhiều vấn đề một cách rất gấp rút. Đối với những vấn đề quan trọng, thì cho dù không biết chắc thời giờ của mình còn lại nhiều hay ít, người khôn ngoan cẩn thận cũng lo giải quyết sớm. Điều chắc chắn: số phận đời đời là một vấn đề quan trọng. Điều ta không nắm chắc: thời giờ của mình còn lại bao nhiêu.
4. “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này sao các ngươi không biết nhật xét?” (Lc 12,56)
Đất nước đã thay đổi rất nhiều. Tôi nhận ra điều đó ở trang phục của người dân thành phố. Người ta bỏ ra nhiều thời gian hơn để mua sắm, may mặc. Các mode áo quần xuất hiện liên tục rồi thay đổi liên tục. Có những kiểu lịch sự, sang trọng làm người mặc trở nên duyên dáng, đáng yêu. Nhưng cạnh đó cũng có những kiểu hạ thấp giá trị người mặc. Vật chất giúp người ta sống thoải mái và xứng đáng hơn; nhưng cũng chính nó làm cho kẻ yếu lòng đánh mất phẩm giá cao quí của con người. Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, tôi cảm thấy trao đảo trước những biến đổi của xã hội. Các chuẩn mực đạo đức văn hoá dường như đang lung lay. Đâu là ranh giới giữa đời sống thoải mái và một đời sống quá phụ thuộc vào vật chất, đâu là ranh giới giữa hạnh phúc và lầm lạc?
Lạy Cha, xin cho biết sáng suốt nhận ra con đường đúng đắn cho cuộc đời. (Hosanna).
1. Những lời chúng ta vừa nghe là những Lời Chúa Giêsu nói cho những người Do Thái thời của Ngài. Ngài muốn khuyên họ hãy sáng suốt để nhận ra những dấu chỉ thời đại.
Ca dao Việt Nam có rất nhiều những câu tiên đoán về thời tiết, chẳng hạn như:
Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy, Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi.
Hay:
Ráng vàng thì nắng Ráng trắng thì gió Ráng đỏ thì mưa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nêu lên khả năng tiên đoán thời tiết rất chính xác của người Do Thái, nhưng Ngài lại chê họ vì họ không biết sử dụng những khả năng ấy vào một lãnh vực cao hơn. Ngài nói: “Hỡi những kẻ giả hình, các người biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi lại không tìm hiểu?” (Lc 12,56)
2. Vâng! Hãy cố mà hiểu những gì đang xảy ra chung quanh chúng ta. C.S. Lewis: “Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài la lớn trong những cơn đau đớn của chúng ta”.
Công Đồng Vaticanô II nói: “Dân Thiên Chúa, nhờ Đức tin mà tin rằng, mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao trùm vũ trụ hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ thực về sự hiện diện và ý định của Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và mọi ước mong mà họ dự phần với những người đương thời” (G.S. 11).
Hãy cố mà “nhận biết” thời đại ta đang sống! Thiên Chúa là Đấng làm chủ lịch sử và đang đưa dẫn lịch sử đến chỗ vẹn toàn của nó. Hôm nay, Người vẫn đang hoạt động!
Vậy thì thay vì than phiền trong sự tiếc nuối Giáo Hội hôm qua, thay vì mất giờ mơ mộng về Giáo Hội ngày mai, tốt hơn, theo lời mời gọi của Đức Giêsu, ta cần nhận biết thời đại ta đang sống.
Thời đại mà tôi đang sống là thời gian duy nhất, thực sự có tính quyết định đối với tôi.
3. Chúa bảo phải “Tự mình xét xem”... không ai, không một ai khác ngoài tôi có thể thay thế tôi trước sự lựa chọn cơ bản này.
Tác giả nổi tiếng về giáo dục nhân cách là ông Norman Vincent Pearle, người Mỹ, có kể lại kinh nghiệm sau:
Một hôm, có một người đàn ông tìm đến với ông, vẻ mặt thiểu não, chán chường; người đàn ông cho biết ông ta không còn muốn sống nữa. Tác giả Norman Vincent Pearle mới đề nghị với kẻ chán đời một liều thuốc:
- Sáng mai, khi thức giấc, ông hãy tự nhủ đây là ngày cuối cùng, trong đời ông, ông hãy vươn vai và tự nhủ: đây là lần cuối cùng ta bước ra khỏi chăn êm nệm ấm; ông hãy đi chuẩn bị thức ăn sáng và nhớ rằng, đây là bữa điểm tâm cuối cùng. Ông hãy xin vợ ông chuẩn bị cho ông những món mà ông thích nhất; đừng đọc báo, như ông vẫn có thói quen khi ăn điểm tâm, nhưng ông hãy nói chuyện với vợ ông cứ như đó là lần cuối cùng trong đời; trên đường đi đến ga xe lửa, ông hãy đi chậm rãi và nhìn kỹ đến ngôi nhà của ông cũng như thành phố, hãy nhìn đến những người hàng xóm của ông lần cuối cùng. Ngồi trên xe lửa, ông hãy nghĩ đây là chuyến đi cuối cùng của ông, hãy nhìn những gì ông không ưa thích, bởi không bao lâu nữa, ông sẽ chẳng còn thấy lại những thứ ấy.
Người đàn ông lắng nghe những lời khuyên của tác giả Norman Vincent Pearle, ông hứa sẽ làm theo lời khuyên của tác giả và sẽ kể lại kết quả. Thế nhưng, ông không chờ đến ngày mai, ngay tức khắc ngồi trên chuyến xe lửa trở về nhà, thay vì đọc báo như thường lệ, ông ta nhìn qua cửa sổ, ánh sáng ban đêm của đô thị và cảnh vật ban đêm chung quanh tự nhiên thu hút ông, ông ta cảm thấy chuyến đi vô cùng lý thú. Ra khỏi xe lửa, ông đi chậm rãi để ngắm trăng và bầu trời trong sáng. Về đến nhà, thay vì dùng chìa khóa để mở cửa ra, người vợ đã từng sống với ông bao nhiêu năm qua xuất hiện trong một ánh sáng kỳ diệu và với một nụ cười khó tả; và kẻ đã từng chán đời kết luận: từ lúc đó, tôi quyết định phải sống và sống cho tới ngày Chúa còn cho tôi được sống.
Mỗi ngày, mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một thời lượng như nhau. Từ Đức Giáo Hoàng cho đến một người ăn mày, mỗi người cũng chỉ được Chúa ban cho 24 tiếng đồng hồ, không ai được hơn một giây, không ai kém ai một tích tắc. Muốn được hạnh phúc mỗi người phải biết tận dụng những giây phút Chúa thương ban.
Người Rôma hồi xưa có một câu nói rất hay để diễn ý này. Đúng ra là hai tiếng “Carpe diem” phải hiểu là “Vui ngày hôm nay đi”. Phải nắm lấy ngày hôm nay và tận hưởng cái thú của nó đi.
Thi hào Horace 30 năm trước Thiên Chúa giáng sinh đã viết:
Ai kia sung sướng suốt đời Vững lòng nói được “Của tôi ngày này” Ngày mai, mặc kệ: mai ngày, Vì tôi đã sống hôm nay, đủ rồi”. Amen.
Ngày xưa, thời mà khoa học kỷ thật chưa phát triển, người dân chúng ta thường hay vận dụng đầu óc suy nghĩ của mình để đọc những gì xảy ra trong trời đất thiên nhiên đây, và điều này nó kéo từ đời này sang đời khác để rồi con người chúng ta có những đúc kết, chẳng hạn như đúc kết về thời tiết cũng tương đối chính xác: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (TN VN). Còn như trong bài Tin Mừng hôm nay thì Chúa nói: “Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa, và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế” (Lc 12, 54 – 55). Việc này nó thể hiện kinh nghiệm sống của con người chúng ta qua mọi thời đại, nên không có gì là xấu cả.
Điều quan trọng mà Chúa muốn nói ở đây là tại sao các người biết dùng trí óc của mình mà tìm hiểu diện mạo đất trời, đang khi đó Chúa ở đây với họ, cả đất được được đổi thay, lòng người được hân hoan vui mừng vì các ơn lành Chúa ban qua các phép lạ Chúa làm để chữa lành bệnh tật, trục xuất ma quỷ, nhất là con người đón nhận Tin Mừng Chúa trao, tìm được hướng đi cho cuộc sống, mà họ vẫn cứ phứt lờ, ù lỳ, không quan tâm, không chịu xét mình, không nhìn nhận tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối trở về với Chúa. Quả thật, họ là những kẻ giả hình, giả bộ, lừa lọc người khác, bỏ qua các cơ hội Chúa ban cho họ.
Mặt khác, thời gian Chúa ban cho con người chúng ta ở thế trần này không có nhiều đâu. Chúng ta chỉ sống có một thời gian ngắn ngủi, vì tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian nan khốn khó, cuộc đời thấm thoát đã qua rồi (Tv 89, 10). Vì thế, phải nghe lời Chúa dạy, phải cố gắng tận dụng thời gian ngày giờ năm tháng Chúa ban để lo cho cuộc sống đời sau. Chúng ta đừng bị ảnh hưởng bởi học thuyết vật chất, xem chết là hết. Không phải đâu, vì chúng ta có sự sống đời đời. Chúng ta hãy chuẩn bị để khi chấm dứt cuộc sống đời tạm bợ này, chúng ta được Chúa đón nhận và cho vào đó để chung hưởng niềm vui với Chúa và với các thánh, bởi các thánh là những người đã giặt và tẩy sạch áo mình trong máu Con Chiên. Nghĩa là chúng ta phải là sống đạo Chúa, xa tránh các tội lỗi, luyện tập các nhân đức, sống bác ái yêu người, phục vụ, giúp đỡ anh chị em của chúng ta theo khả năng Chúa ban cho chúng ta…: “Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi tìm hiểu diện mạo trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tim hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi các ngươi cùng với đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố liệu cho ổn thỏa với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan tòa, và quan tòa trao ngươi cho lý hình, và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi nơi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng” (Lc 12, 56 – 59). Vậy chúng ta hãy cố gắng sống theo lời Chúa dạy để sau này chúng ta không phải hối tiếc, ân hận.
Lạy Chúa, Chúa cho chúng con có những nghĩ suy hiểu biết, xin Chúa ban cho chúng con biết sử dụng để học hỏi về Chúa, để nhờ đó, chúng con biết Chúa nhiều hơn, sống gắn bó với Chúa hơn (Hữu tri đắc đạo) và đứng vững trước những gian nan thử thách trong cuộc sống của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách tha thiết khẩn cầu lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Barúc cho thấy: Lời cầu xin tha thiết của người lưu đày. Những người Dothái hải ngoại khá thành công trong công việc làm ăn, nhưng, vẫn xem tình trạng của mình như hậu quả của tội lỗi cha ông, như bằng cớ Thiên Chúa chưa hoàn toàn tha thứ cho họ. Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta. Nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chúng ta đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã ăn ở bất chính, ngược với mọi điều Người truyền dạy.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách cậy nhờ Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Chúa phán: Ngày ấy Ta sẽ đổ thần khí xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và thiết tha cầu nguyện.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách nhìn nhận quyền chủ tể của Chúa trên tất cả muôn vật muôn loài, và không ngừng tìm kiếm thánh nhan Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 23, vịnh gia cho thấy: Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Cảnh sắc đất trời thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét. Nhìn thấy mây phía tây, biết trời sắp mưa; thấy gió nồm nổi lên, biết trời sẽ oi bức. Trí khôn của con người có thể biết được cảnh sắc đất trời: biết trời mưa, trời nắng, nhưng, lại bất lực trước mầu nhiệm Nước Trời, và một nghịch lý là, những người bé mọn thì lại được mặc khải cho biết mầu nhiệm cao cả. Những người bé mọn là những người thành tâm phụng sự Chúa: tha thiết khẩn cầu lòng thương xót của Chúa; ý thức mình hèn kém không biết phải cầu xin thế nào cho phải, nên phải cậy nhờ Thần Khí cầu thay nguyện giúp; chỉ biết tin tưởng vào Chúa, không ngừng tìm kiếm thánh nhan Chúa, và bền chí trông chờ mọi sự từ Chúa; kính sợ Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền, nhìn nhận Chúa là Cha và mọi người là anh chị em con cùng một Cha, biết ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, bác ái với nhau, thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau, bởi vì, chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng. Ước gì chúng ta luôn ý thức rằng: chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa; chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người, để chúng ta biết trung tín, quảng đại, và nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em mình. Ước gì được như thế!
Nếu không ăn năn hối cải, thì… 26/10 – Thứ Bảy tuần 29 thường niên. "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy". Người còn nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo hai lần (cc. 3, 5). “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” Đức Giêsu đi từ những chuyện đau thương chết chóc của một số người ở Galilê và Giêrusalem, để nhắc nhở người nghe ra khỏi sự tự mãn của mình mà sám hối. Dụ ngôn cây vả sẽ cho thấy thế nào là sám hối theo cái nhìn của Ngài. Đơn giản sám hối là sinh trái. Trái là điều ông chủ có ý nhắm đến khi trồng cây vả giữa vườn nho. Ông không trồng vả để lấy củi hay bóng mát. Cây vả có chỗ trong khu vườn và cũng có chỗ trong tâm trí ông. Ông có một người làm vườn. Hẳn người này đã hết sức chăm bón cho cây vả để nó sinh trái. Ba năm trôi qua, cứ đến mùa vả, ông chủ lại đến, tìm trái và không thấy. Những hành vi này được lặp lại như một điệp khúc mỗi năm (cc. 6-7). Ông chủ đi từ hy vọng đến thất vọng. Cái háo hức khi lần đầu đến cây tìm trái chẳng còn. Ông đã kiên nhẫn, đã chờ, không phải một năm, mà ba năm. “Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất” (c. 7). Rõ ràng quyết định này không do sự tàn ác hay nóng nảy. Chặt đi khi chẳng còn gì để hy vọng, khi chờ đợi đã mỏi mòn. Cây vả đã lấy màu mỡ của đất trồng nho, mà không sinh trái. Nó không đáp ứng ước mơ tự nhiên của ông chủ, người đã cho nó hiện hữu ở trong khu vườn này. “Xin cứ để cho nó lại năm nay nữa” (c. 8). Lời xin của người làm vườn, người đã chăm sóc cây vả từ nhiều năm. Người ấy xin cho cây vả một cơ hội, cơ hội duy nhất và cuối cùng để tránh cái chết chắc chắn. “Tôi sẽ vun xới, bón phân. May ra sang năm nó có trái…” Cây vả cằn cỗi vẫn còn được hy vọng, còn được chăm sóc. Không thấy ông chủ phản đối, chắc ông đồng ý chờ thêm một năm. Cả ông chủ cũng nuôi lại niềm hy vọng. Cuối cùng cây vả cằn cỗi này có ra trái không, có bị chặt không? Dụ ngôn không cho ta câu trả lời. Vì câu trả lời nằm ở chính tôi. Tôi chính là cây vả ấy. Tôi đã được trồng, được yêu, được hy vọng, được chờ, được chăm bón. Bao điều lớn nhỏ Chúa làm cho đời tôi từ trước đến nay. Hoa trái của cây vả đời tôi có tương xứng với những gì Chúa ban không? Tôi suy nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa và cả sự thất vọng của Ngài nữa. Chúa vẫn muốn cho tôi tiếp tục sống trên đời. Mỗi ngày sống là quà tặng của lòng thương xót. Còn sống là còn cơ hội để sinh trái, để bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Dù sao câu kết của người làm vườn tốt bụng vẫn là một đe dọa. “Nếu không ông cứ chặt nó đi!” (c. 9). Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt. Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. ---------------------------------
Con người thường sống theo xác thịt. Phán đoán theo xác thịt. Gắn bó với xác thịt. Vì thế khi xác thịt phải chết thì lấy làm đau xót. Và cho đó là hình phạt do phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su cho biết cái chết thân xác là bình thường. Ai cũng đều phải chết. Có thể do thiên tai. Hoặc do bất cẩn. Nhưng cái chết của linh hồn mới đáng sợ. Đó là cái chết đời đời. Và do tội lỗi. Chính vì thế cái chết thân xác nhắc nhở mọi người đều phải sám hối. Thay đổi đời sống. Đó là điều cấp bách. “Nếu các ông không sám hỗi, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Như cây vả phải sinh hoa kết quả. Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Và tạo cơ hội cho con người sám hối. Tuy nhiên thời gian cũng có hạn. Nếu không sám hối chắc chắn sẽ phải chết phần linh hồn.
Chúa Giê-su đã chịu chết trong thân xác để ta được sống trong Thần Khí. Sám hối là từ bỏ nếp sống theo xác thịt. Để sống theo Thần Khí. Được Thần Khí hướng dẫn. Sẽ tới sự sống và bình an. Sống trong Chúa Ki-tô sẽ có Thần Khí của Người. Và Thần Khí đã làm cho Người từ cõi chết sống lại cũng sẽ làm cho thân xác của ta có sự sống mới. “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dẫu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (năm lẻ).
Cuộc sống mới trong Chúa Ki-tô làm ta nên viên mãn. Chúa đã xuống thẳm sâu để rồi vươn lên đến tuyệt đỉnh. Người mang theo chúng ta là chi thể của Người. Đầu tiến đến đâu chi thể tiến đến đấy. Và chúng ta sẽ “đạt tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô”. Khi đó ta không còn bị xác thịt chi phối. Không còn ngây thơ bị các lý thuyết sai lạc mê hoặc. Ta sẽ “sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu” (năm chẵn).
Hãy mau chóng sám hối. Từ bỏ con người xác thịt. Sống trong Chúa Ki-tô. Để ta được Thần Khí của Chúa. Sẽ có sự sống. Sẽ viên mãn.
Cùng một biến cố, nhưng người ta có thể nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Bệnh AIDS (SIDA) chẳng hạn, các nhà Y học coi đó như một thách đố cho việc tìm tòi, một số kỹ nghệ gia coi đó là dịp để tung ra các sản phẩm phòng ngừa, các nhà đạo đức thì coi đó như là chiếc roi của Thiên Chúa trừng phạt nhân loại, còn người có đức tin thực sự lại nhận ra ở đó khởi điểm của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu đã nhắc đến phản ứng rất thông thường của người Do thái và có lẽ cũng là của nhiều Kitô hữu, đó là qui trách cho Thiên Chúa mọi sự trừng phạt. Khi Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì là những kẻ tội lỗi. Khi tháp Silôê đổ xuống làm một số người chết, người ta cũng bảo là họ bị Chúa phạt.
"Chúa phạt", đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai họa cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác.
Ước gì hoa trái của yêu thương, phó thác, tha thứ trổ bông trong tâm hồn và tràn ngập trong ánh mắt chúng ta.
Trong bài Phúc Âm của ngày hôm qua chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: "Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy".
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Ðừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: "Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy".
Lạy Chúa.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn thức tỉnh chúng con, mời gọi chúng con sám hối, canh tân. Chúng con muốn vượt ra khỏi những vòng nô lệ của tật xấu và tội lỗi. Xin thương ban ơn thánh Chúa, thanh luyện giúp chúng con trở thành những con người mới, sống theo mẫu gương của Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.
Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn mấy người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc. 13, 2-3)
Đức Giêsu đã nói với đám dân chúng về những dấu chỉ thời đại để kêu gọi họ sám hối, kẻo quá trễ. Ngày phán xét đến bất ngờ. Phải gấp lợi dụng thời giờ hiện tại này. Ai từ chối sẽ bị cắt bỏ như cỏ dại bị ném vào lửa.
Tin Ít-ra-en
Nhiều người kể lại tin vừa xảy ra: “Ngài đã nghe tin về vụ Phi-la-tô làm ô uế đền thờ không? Tin gì? Ông ta đã thọc tiết nhiều người xứ Galilê đang dâng tế vật mừng lễ vượt qua và đã lấy máu họ hòa lẫn với máu sinh tế! Chao ôi! Tội phạm thánh. Nhưng chính Gia-vê đã liệng bỏ các tế vật đó. Trời ơi, việc đó đã không xảy ra cho những người công chính như chúng ta!”
Đức Giêsu luôn sẵn sàng dùng những sự kiện khác nhau để dạy dỗ họ biết từ bỏ cái quan niệm hẹp hòi như thế. Nhưng Người không chối có sự tương quan giữa tội lỗi và hình phạt. Hình phạt không chỉ do sự tàn ác của loài người mà còn do những tai họa tự nhiên, như tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết mười tám người. Phải chăng Thiên Chúa dùng những sự kiện đó khiến cho con người phải suy nghĩ. Những sự kiện này chỉ cho thấy Đức Giêsu có lý khi nói về ngày phán xét xảy ra chính lúc chúng ta không ngờ. Chúng ta đều có tội và sẽ bị hủy diệt cùng cách đó nếu chúng ta không ăn năn trở lại.
Những kẻ vô ích bị chặt bỏ:
Đức Giêsu cũng dùng lịch sử dân tộc để chứng tỏ về điểm này. Đó là ba năm nữa chờ cho cây vả sinh trái. Thế mà sau ba năm tưới bón chờ đợi, chủ ra hái trái, nó vẫn không sinh trái. Thứ cây đó quá cứng lòng, quá khô cằn, nó chỉ lo ăn uống và sinh cành lá rườm rà dưới ánh nắng ấm áp để nó bay phất phới nhởn nhơ thoải mái! Nó kéo lê cuộc sống vô ích đối với nước trời, và thà rằng chặt bỏ nó đi còn hơn.
Lịch sử cứu độ tới ngày kết thúc. Đức Giêsu đã đến dâng cho nhân loại một kỳ hạn chót. Nhờ lời Người giảng dạy và sự mạc khải tình yêu Thiên Chúa giúp ta dễ dàng ăn năn sám hối để sinh hoa trái tốt lành bằng cải thiện đời sống và làm việc lành phúc đức. Chúng ta có cố gắng lợi dụng tốt thời giờ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta không?
Đứng trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, hẳn chúng ta thấy có rất nhiều cách nghĩ từ những cái nhìn khác nhau.
Ví dụ như căn bệnh thế kỷ Sida chẳng hạn:
Có người thì dè bửu và cho rằng đây là do ăn chơi trác táng nên mới bị. Có người thì cho rằng do tội lỗi nên bị Chúa phạt. Lại có người rất cảm thông, luôn tìm cách nâng đỡ, đồng hành, hầu giúp cho người bệnh vượt qua đau khổ về tinh thần và thể xác. Hay ngang qua căn bệnh đó, cũng có những người nhận ra dấu chỉ Thiên Chúa cảnh tỉnh nhân loại về sự kiêu ngạo...
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc những người Do thái khi chứng kiến cảnh những người Galilê bị Philatô giết, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh, hay như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Khi chứng kiến như thế, họ cho rằng những người này do tội lỗi ngập đầu nên bị Chúa phạt chết cách bất đắc kỳ tử như vậy.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dạy cho họ bài học sám hối qua các sự kiện đó, vì: nếu không lo sám hối, cải tà quy chính thì họ cũng sẽ chết và bị hủy diệt y như vậy.
Trong đời sống đạo, rất nhiều lần chúng ta có thái độ khinh miệt những người tội lỗi. Có khi sẵn sàng gán cho những người ốm đau bệnh tật, hay gặp những cảnh éo le trong cuộc sống là do Chúa phạt vì những tội lỗi của họ gây nên. Điều này cũng có thể đúng, vì Chúa có thể dùng cách thức đó để lay tỉnh lương tâm của họ để họ cải tà quy chính mà được cứu độ. Tuy nhiên, phần chúng ta, chúng ta đừng dành quyền xét đoán đó của Thiên Chúa.
Tưởng cũng nên nói thêm: mỗi khi chúng ta coi thường người khác, ấy là lúc chúng ta tự coi mình tốt lành, đạo đức hơn người ta. Nhưng thực ra, có thật thế hay không, hay chỉ là thói đạo đức giả như những người Pharisêu khi xưa?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người tội lỗi, như Chúa đã từng yêu thương và hiến mình vì chúng ta. Đồng thời nhận ra rằng: nếu Chúa không để cho mình có thời gian sám hối, hầu quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh chị em thì mình cũng đâu khác gì người anh chị em kia...
Sự kiên trì trong yêu thương của Thiên Chúa phải làm cho chúng ta nhận ra mình bất toàn, yếu đuối. Vì thế, ngay lúc này, phải lo sám hối để trở nên con cái Chúa thực sự. Khi nhận ra điều đó, chúng ta nên có cái nhìn cứu độ của Đức Giêsu, đến để cứu những gì đã mất. Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi cách đặc biệt. Dụ ngôn đồng bạc đánh mất; hay dụ ngôn người Cha nhân hậu; hoặc con chiên thất lạc cho thấy bản chất của Thiên Chúa là tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Chúa trên chúng con. Đồng thời nhận ra sự kiên trì chờ đợi của Chúa khi mong mỏi chúng con sám hối trở về. Xin Chúa cũng cho chúng con luôn có cái nhìn cảm thông với anh chị em chúng con như Chúa đã từng cảm thông và yêu thương chúng con. Amen.
Sứ điệp: Thử thách, đổ vỡ và cả những sa ngã…, tất cả như là những dấu chỉ mời gọi chúng ta ý thức đến thân phận mỏng manh yếu đuối của con người. Vì thế, mỗi người luôn phải biết sám hối để canh tân cuộc sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, dù chỉ là một phút hồi tâm và đặt mình trước mặt Chúa, con đã có thể cảm nghiệm được những cay đắng, thất bại, tội lỗi của con trong cuộc đời. Không chỉ là một lần mà biết bao lần con đã ăn năn, quyết tâm chừa bỏ những sai lỗi, để rồi với thời gian, con lại bất lực trước những cám dỗ của tiền tài, danh vọng, lạc thú. Con bị cuốn hút vào đó mà sức con vô phương cưỡng lại.
Lạy Chúa, dù vậy, Chúa vẫn ban ơn cho con lớn lên, Chúa vẫn dẫn con đi thêm một đoạn đường mới. Con nhận ra rằng những biến cố đời con là những lời mời gọi âm thầm của Chúa, để thức tỉnh con và dẫn đưa con đến với Chúa là Đấng đầy lòng thương xót.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho con về tất cả những vong ân bội nghĩa trước tình yêu của Chúa. Xin Chúa đừng để con bao giờ chán nản thất vọng và đóng kín mình trong tội lỗi, nhưng biết sám hối, biết mở lòng hướng nhìn lên Chúa. Xin cho con biết thường xuyên điều chỉnh cách nghĩ và lối sống, để con biết loại ra khỏi cuộc đời những kiểu sống vô tâm, vô trách nhiệm trong cuộc sống cộng đoàn gia đình, giáo xứ và xã hội.
Lạy Chúa, ước gì con biết hy sinh sống cho Chúa, ước gì con biết nhận ra Thánh Ý Chúa nơi những gì xảy đến cho con, để cuộc sống con được sinh hoa kết trái, hoa trái cho tình yêu Thiên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Khi còn ở Bruxelles, Bỉ, tôi có một cây phong lan để bên cửa sổ, cây chỉ còn một hoa. Mỗi lần ngắm hoa, tôi hơi tiếc cái hoa duy nhất sắp tàn. Một lần ngắm hoa, tôi phát hiện dưới hoa sắp tàn ấy hình như có chồi non mới xuất hiện, tôi liền cắt tỉa những lá dư thừa để nó có sức nuôi phần chồi non mới. Dù chỉ cần tưới lan một tuần một lần là đủ, nhưng hằng ngày tôi đều ngắm nghía chồi non. Tôi thấy rõ ràng từ lúc tôi cắt tỉa cho lan, mỗi ngày chồi non ấy lớn nhanh hơn và xuất hiện thêm hai chồi non mới, có lẽ sẽ ra hoa mới, tôi nghĩ và hy vọng như thế. Tôi cảm thấy rất vui vì lan sắp trổ thêm hoa, tôi hài lòng với công sức của mình khi chăm sóc cắt tỉa, góp phần làm thêm xanh và kết tinh những nụ hoa mới.
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả để truyền đạt cho chúng ta một sứ điệp: Con người sống ở đời phải ra hoa kết trái bằng đời sống của mình.
Người chủ đến thăm vườn khi thấy cây vả không kết trái: “Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” (Lc 13, 7). Lời của chủ vườn xem ra lạnh lùng, không gắn bó với những thành quả công sức mà mình và các cộng sự đã bỏ ra để vun trồng, chăm sóc. Nhưng xét theo chuyên canh, lời ông thật có lý: Để cây vả lại trong tình trạng “điếc” thì chỉ làm hại đất, và tốn sức lao động. Nhưng người thợ đã can thiệp: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi!” (Lc 13,8-9). Lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa qua hình ảnh người chủ vườn nho, vẫn chờ đợi để có ngày cây vả ra trái. Còn tình yêu dành cho con người qua Đức Giêsu ẩn dụ dưới người làm vườn luôn cuốc xới, nhổ cỏ và bón phân, làm tất cả để chăm sóc với ước mong con người đều sinh hoa quả tốt, ngay cả nơi mỗi tội nhân. Ngài vẫn luôn chờ đợi sự trở lại của những tâm hồn khiếm khuyết, những tâm hồn sống vô vọng chưa sinh hoa trái. Thiên Chúa, luôn mong mỏi con người sống cho tròn trịa với kiếp người, phải đơm bông kết trái. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng Thiên Chúa luôn cương quyết đòi hỏi phải có hoa trái.
Cây muốn ra trái, trước hết phải được chăm sóc vun trồng, phải nhổ những cụm cỏ dại bên cạnh chiếm đất hay những cây dại leo lên thân cây làm đời tầm gửi ăn bám hút hết nhựa sống của cây. Chính những cây dại đó làm cho cây mất hết sức sống. Cho nên, trước khi tưới nước bón cây, chúng ta phải chú ý nhổ cỏ và những cây dại chung quanh. Chúng tuy nhỏ bé nhưng đầy tai hại cho sự sống của cây, chính chúng làm chậm tiến trình đơm bông kết trái của cây, làm cho cây bị “điếc” không thể kết trái ra bông.
Cây vả dù ở trong tình trạng an toàn: Cây vẫn xanh tươi, không làm hại các cây khác nhưng yếu tố kết thành bản án đó là cây “không sinh trái”. Thế nên, sám hối không chỉ là sửa chữa những lối sống tiêu cực, những lầm lỗi khiếm khuyết nhưng còn là tích cực tô điểm tâm hồn những hoa trái thiêng liêng bằng những hành động đẹp, những việc làm phục vụ yêu thương chia sẻ với anh em, hàng xóm, đồng nghiệp… Như người chủ vườn nho đến thăm vườn đòi hỏi hoa trái từ cây, Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả cuộc đời ta với những trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả đó chính là cách sống tích cực trên đời sống mình.
Chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi sám hối ăn năn trở về với Chúa để được hưởng nhờ lòng Chúa xót thương. Tâm hồn tràn đầy sự thống hối, nhổ bỏ những cụm cỏ dại của cách sống tiêu cực, của lỗi lầm, lúc đó sẽ mang một con tim quay trở lại từ lỗi lầm và được cứu độ. Con tim trở lại là con tim đã được nhổ bỏ những cụm cỏ dại, được chăm sóc để đời sống tích cực sinh hoa kết trái, người mới, người tràn đầy yêu thương.
Ý lực sống
“Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt!” (Lc 13,5).
Đoạn Tin mừng hôm nay có ý kêu gọi mọi người hãy ăn năn hối cải. Lời giảng và dụ ngôn của Đức Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa khoan dung, kiên nhẫn chờ đợi con người sám hối và hoán cải. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng: những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Đức Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác, nhưng mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm của mình để lo sám hối.
Sám hối là điều kiện cần thiết để chúng ta được Thiên Chúa tha thứ. Và cũng qua dụ ngôn cây vả, chúng ta phải biết nhận ra giới hạn của mình và tích cực sửa đổi, để được Thiên Chúa đón nhận và yêu thương.
Người Do thái thường quan niệm rằng: mọi tai hoạ là hậu quả của tội lỗi. Những người được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay bị chết như thế là do tội lỗi của họ. Nhưng Đức Giêsu không nghĩ như vậy. Ngài giải thích kiểu khác: những tai họa, thảm nạn không phải là hình phạt của Thiên Chúa mà là dấu chỉ cho một lời mời gọi, để kêu gọi mọi người hoán cải. Như vậy, việc những người bị giết chết do bàn tay của Philatô hay bị tháp Siloe đổ xuống đè chết không được coi là cớ để ta xét đoán và kết án người khác, mà phải được coi là dịp để “duyệt xét lại đời sống” của chính mình bằng tâm tình sám hối, để trở về với đường ngay nẻo chính. Chỉ có cách đó con người mới xứng đáng với diễm phúc làm con cái Chúa.
“Chúa phạt”, đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai hoạ cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu mến người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhân hai sự kiện thời sự - những người nổi loạn bị tống trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Siloe đè chết - Đức Giêsu cảnh báo người đương thời phải sám hối. Điều lạ lùng là một đàng, Chúa dạy phải mau mau sám hối; đàng khác, Chúa lại kiên trì chờ đợi con người sám hối qua dụ ngôn “người làm vườn và cây vả”. Hoãn binh chi kế thông thường là thủ thuật của kẻ dưới nhằm có thời giờ đối phó với người trên. Còn Thiên Chúa, luôn luôn là người trên, đồng thời là Đấng “chậm giận và giàu tình thương”, lại chấp nhận “phương án” hoãn binh, không phải như cơ hội cho con người mưu tính, song là để chúng ta nhận ra lòng thương xót của Ngài. Thay vì trừng phạt ta “ở đây và ngay lúc này”, Ngài lại kiên nhẫn đợi chờ. Ngài dành cho chúng ta thời gian sửa đổi, nhận ra lỗi lầm của mình, cũng như cảm nghiệm được ý muốn nhân từ của Ngài. Một khi nhận thức được thâm ý của Chúa, sự hoán cải đổi đời của ta sẽ có giá trị bền vững (5 phút Lời Chúa).
Qua hai sự kiện - quan Philatô ra lệnh giết và tháp Siloe đè chết người - dù muốn hay không, chúng ta phải công nhận cái chết là một thực tại mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày. Cái chết là một biến cố không ngừng tra vấn con người. Khi nói đến cái chết và kêu gọi sám hối, Đức Giêsu không chỉ kêu gọi con người chuẩn bị để đón cái chết vốn đến một cách bất ngờ, Ngài còn muốn nhắc nhở con người về một điều cơ bản hơn, đó là thân phận mỏng manh bất toàn của con người. Chấp nhận thực tại của cái chết là chấp nhận cái thân phận bất toàn ấy, có nghĩa là chấp nhận sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa (R.Veritas).
Sự kiên trì trong yêu thương của Thiên Chúa phải làm cho chúng ta nhận ra mình bất toàn, yếu đuối. Vì thế, ngay lúc này, phải lo sám hối để trở nên con cái Chúa thực sự. Khi nhận ra điều đó, chúng ta nên có cái nhìn cứu độ của Đức Giêsu, đến để cứu những gì đã mất. Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi cách đặc biệt. Dụ ngôn đồng bạc đánh mất, hay dụ ngôn người Cha nhân hậu, hoặc con chiên thất lạc cho thấy bản chất của Thiên Chúa là tình yêu.
Truyện: Hãy kịp thời thống hối
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn.
- cc 1-5: người do thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ “ác giả ác báo”. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
- cc 6-9: Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
B.... nẩy mầm.
1. “Hãy sám hối”, đó là câu nói được khẩn thiết kêu gọi rất nhiều lần bởi Gioan Tiền hô, bởi Chúa Giêsu, bởi các tông đồ và bởi Giáo Hội. Tại sao? Vì con người luôn đi lệch đường. Sám hối là nhận ra mình đang lệch đường và mau mắn quay về đường chính.
2. “Tôi sẽ vun xới, bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không ông sẽ chặt nó đi”. Hôm nay, tôi dám nói câu này với Chúa không?
3. Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
4. “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy.”
“Sám hối”. Vâng, tôi đã hơn một lần sám hối, thế mà cuộc đời tôi vẫn thế. Và hôm nay Chúa lại mời gọi tôi sám hối, mời gọi tôi hãy làm cuộc cách mạng tận căn mà lấy Lời Chúa làm chuẩn mực, một cuộc cách mạng dựa trên nền tảng của tình yêu thương, không đố kỵ. không ghen ghét, để nơi con có được tình yêu mà Chúa đã đem đến nơi thế gian này.
Lạy Chúa, xin giúp con sám hối, xin biến đổi tâm hồn con, để mọi việc con làm, mọi điều con suy nghĩ đều dựa trên tình yêu. (Hosanna).
1. Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối:
Sám hối là một chủ đề rất quan trọng trong Kinh Thánh. Khi đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy từ đầu tổ tông loài người đã phạm tội. Suốt thời gian Cựu Ước, các tiên tri thường xuyên mời gọi ăn năn sám hối. Lịch sử cứu độ là một bi kịch giữa sự phản bội của dân và sự tha thứ liên tục của Thiên Chúa. Đọc Tân Ước, chúng ta thấy thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu đã rao giảng, mời gọi mọi người sám hối. Chúa sai các môn đệ đi rao giảng sự ăn năn, kêu gọi mọi người sám hối. Vì thế, ta thấy được việc sám hối là quan trọng biết chừng nào, bởi lẽ Chúa và Giáo Hội hằng quan tâm đến như vậy.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy, Chúa Giêsu mời gọi mọi người ăn năn thống hối tội lỗi mình. Nhưng tại sao lại phải ăn năn thống hối? Có nhiều người bỏ xưng tội lâu năm; khi có ai đó khuyên họ đi xưng tội, họ thường trả lời rằng: tôi chẳng có tội gì cả: không trộm cướp, không giết người, không tà dâm..., có tội gì đâu mà phải xưng tội? Họ đâu có nghĩ rằng, sống bất hòa bất thuận trong gia đình là có tội, sống ích kỷ là có tội, không chia sẻ giúp đỡ là có tội, sống không có ích như cây vả không trái là có tội…
Người Do Thái xưa thường quan niệm rằng, mọi tai họa là hậu quả của tội lỗi. Những người được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay bị chết như thế là do tội lỗi của họ.
Chúa Giêsu đã không nghĩ như vậy. Ngài giải thích kiểu khác: những tai họa, thảm nạn không phải là hình phạt của Thiên Chúa mà là dấu chỉ cho một lời mời gọi để kêu gọi mọi người hoán cải. Như vậy, việc những người bị giết chết do bàn tay của Philatô hay bị tháp Siloe đổ xuống đè chết không được coi là cớ để ta xét đoán và kết án người khác, mà phải được coi là dịp để “duyệt xét lại đời sống” của chính mình bằng tâm tình sám hối, để trở về với đường ngay nẻo chính. Chỉ có cách đó con người mới xứng đáng với diễm phúc làm con của Chúa.
2. Gương thống hối.
Khi thánh Phanxicô Assisi cư ngụ tại Rivo-Torto, thì có một con chó sói to lớn hung dữ xuất hiện, quấy nhiễu và gieo rắc sợ hãi cho mọi người. Mỗi lần đi ra ngoài, ai cũng phải trang bị khí giới để sẵn sàng giao chiến với con thú dữ, có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà.
Ngày nọ, thánh Phanxicô quyết định đến chạm trán với con chó sói. Ngài làm dấu Thánh Giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến đến trước mặt con thú. Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng thánh nhân vẫn không lùi bước, ngài lại gần, làm dấu Thánh Giá và gọi nó lại. Ngài nói với nó:
- Này anh sói, lại đây, nhân danh Chúa Kitô, tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa.
Như một phép lạ, con sói hung dữ ngoan ngoãn khép miệng lại và đến quấn quít bên chân thánh nhân. Thánh nhân tiếp tục bài thuyết giảng:
“Này anh sói, anh đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại cho vùng này, anh đã giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép của Ngài, không những anh đã sát hại súc vật, mà còn giết cả con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Anh đáng bị trừng phạt vì tội giết người. Ai cũng ca thán rên la về anh, nhưng tôi, tôi muốn giảng hòa giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa”.
Thánh nhân vừa nói xong những lời đó, con chó sói vặn mình vẫy đuôi ra chiều sám hối và chấp nhận đề nghị của ngài. Thánh nhân nói tiếp:
- Này anh sói, hẳn anh thích làm hòa với mọi người, tôi hứa rằng, bao lâu anh còn sống, anh sẽ không còn phải đói khát nữa. Anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không?
Con vật cúi đầu như đoan hứa. Thánh nhân đặt tay lên nó và long trọng cam kết điều ngài vừa hứa với nó.
Truyện kể tiếp rằng, con chó sói đã sống hai năm tại Rivo-Torto, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào như chính nhà của nó, nó không còn hãm hại ai và cũng chẳng ai làm hại nó.
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Ðấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Và đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.
Trong cuộc sống, chúng ta thường hay nói từ đôi này”Tai họa“, chúng ta tách thành ra hai chữ khác nhau, “Tai “là “Thiên tai“, như là động đất, sóng thần, núi lửa, mưa lụt, gió bão…, những điều này là do thiên nhiên mà ra, khi chúng ta biết nó thì chúng ta tránh đi chứ không dám đối diện, vì chúng ta hay phải thiệt mạng vì các thiên tai này. Còn “Họa “là “Nhân họa“ là do con người chúng ta gây ra như xây nhà, nhà sập đè chết người, con người chế tạo xe hơi, chạy xe hơi cán chết ngươi, con người chế tạo súng đạn, dùng súng đạn bắn chết người…
Như vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, hai sự kiện xảy ra trong xã hội Do Thái: Thứ nhất là việc quan Philatô giết một số người Galilêa vừa mới đây, và thứ hai là ngày xưa tháp Silôê đổ xuống đè chết mười tám người, đây hoàn toàn là nhân họa, chứ không phải là thiên tai. Vì thế, con người chúng ta không thể đổ tội cho Chúa về vấn đề này. Chúng ta phải coi lại cuộc sống con người chúng ta, cách sống của con người chúng ta, chúng ta gây họa cho nhau, gây đau khổ cho nhau. Nguyên nhân là do tội lỗi của con người chúng ta. Một cách cụ thể là ngày hôm nay, người ta chế tạo được bom nguyên tử, dùng bom nguyên tử giết chết hàng loạt, hoặc là nghiên cứu vi khuẩn, tạo ra dịch bệnh, vũ khí sinh học, gây dịch bệnh giết chết người vô số.
Trước nhân họa, con người làm khổ, giết chết nhau, Chúa nói tất cả chúng ta đừng làm như vậy, đừng dùng trí não mình gây họa cho người khác, Chúa dạy chúng ta phải ăn năn sám hối, biết mình tội lỗi, bỏ đi sự độc ác của mình, xin Chúa tha thứ và cố gắng sống hoàn lương, sống tốt theo ý Chúa thì sẽ không gây họa cho người khác. Thay vì làm hại anh chị em của mình thì mình sẽ là phục vụ anh chị em của mình.
Do đó, Chúa ví mỗi người chúng ta như cây vả trong vườn nho là Giáo Hội của Chúa. Khi chúng ta không làm theo ý Chúa mà làm theo ý riêng mình. Chúng ta sống gian ác, lừa lọc, giả hình, tham lam, xảo trá, lăng loàn, mưu mẹo…lẽ ra Chúa sẽ tru diệt chúng ta, không cho chúng ta có cơ hội sống đâu, vì chúng ta sống thì sẽ gây họa, gây đau khổ, chết chóc cho người khác. Thế nhưng Giáo Hội đang thay mặt Chúa lo lắng cho chúng ta. Giáo Hội sẽ cầu xin Chúa cho chúng ta có cơ hội, có thời gian để Giáo Hội giúp chúng ta sửa lại cuộc sống. Giáo Hội sẽ cầu nguyện cho chúng ta. Giáo Hội tận dụng hết các phương tiện Chúa ban là lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa, các bí tích để giúp chúng ta ăn năn sám hối, luyện tập các nhân đức, để rồi nếu mà chúng ta từ chối, không cộng tác với Giáo Hội, không lo hoán cải, lúc đó là Chúa sẽ tru diệt chúng ta. Vì thế, chúng ta phải tận dụng tất cả những gì Chúa ban mà lo cho cuộc sống vĩnh cửu sau này: “Kìa đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì! Nhưng anh ta đáp rằng: Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 8 – 9).
Lạy Chúa, chúng con rất sung sướng vì được ở trong nhà Chúa, được Chúa yêu thương ban ơn, gìn giữ, chở che chúng con, xin Chúa giúp chúng con biết cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người tội lỗi để họ cũng như chúng con luôn sống tốt, sống đẹp lòng Chúa, nhất là giúp nhau nên thánh, nên chứng nhân Tin Mừng của Chúa trong cuộc sống hàng ngày của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 29 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa tạo cho chúng ta một tấm lòng trung tín và quảng đại, để chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách đếm tháng ngày mình sống, nhờ đó, tâm trí được khôn ngoan để nhận ra tình thương và lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Barúc cho thấy: Đức khôn ngoan là đặc ân của dân Ítraen. Trong tâm tình biết ơn, người Dothái đạo đức suy gẫm về ân huệ Chúa ban là Lề Luật, vừa như là nguồn gốc, vừa như là đỉnh cao của mọi lẽ khôn ngoan. Chính nhận thức này đem lại sự nâng đỡ cho người tín hữu, sống trong một thế giới được tổ chức mà không có Chúa, hay thậm chí chống lại Người. Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Chỉ mình Đấng Toàn Tri mới biết đức khôn ngoan, chính Người đã soi sáng cho Ítraen, kẻ Người yêu quý.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách tin tưởng vào Đức Kitô, Ngôi Lời, sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã trở nên người phàm, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Phêrô Kim Ngôn nói: Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống.
Nhiệt thành phụng sự Chúa, bằng cách quy tụ về bên Đức Kitô, để tất cả được hiệp nhất nên một trong Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Đức Kitô là Đầu. Chính Người làm cho toàn thân lớn lên. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 121, vịnh gia cho thấy: Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa, và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Chúa phán: Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Người đã dựng nên chúng ta là để chúng ta được tận hưởng nguồn hạnh phúc viên mãn của Người. Tuy nhiên, chúng ta thường sử dụng tự do của mình để khước từ Chúa, mà chạy theo những ảo ảnh phù du, Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ chúng ta quy về bên Chúa, Chúa không ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy chúng ta tự lao đầu vào chỗ chết. Lời kêu gọi sám hối là lời rao giảng đầu tiên của mọi ngôn sứ, chỉ có sám hối quay về với Chúa, chúng ta mới được sống, và sống dồi dào. Vì đã được tái sinh theo hình ảnh Chúa chúng ta, lại được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử, chúng ta hãy mang lấy hình ảnh của Đấng yêu thương chúng ta, và nỗ lực để trở nên giống như Người về lòng trong trắng, đơn sơ, dịu dàng, kiên nhẫn, khiêm tốn, xót thương, hòa thuận, nhờ đó, chúng ta được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ước gì chúng ta biết sám hối quay về với Chúa: trung tín, quảng đại, và nhiệt thành phụng sự Chúa, để chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Ước gì được như thế!