Chọn Lựa Của Chúa. 28/10 – Thứ Hai tuần 30 thường niên – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính. “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
* Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ. Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng.
Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18). Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29). Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34). Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện. Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài. Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi. Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn. Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha trước khi đi đến một quyết định quan trọng, quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ, để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ. Đức Giêsu không chọn theo ý mình. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12). Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng. Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện, để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây. “Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6). Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha. Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn, Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13). Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu. Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời. Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình. Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa. Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm. Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao “không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu, và tương tự như thế đối với mọi sự khác.” Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn. Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha. Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ. Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ. Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng con chẳng thể nào từ chốiviện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó. Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen. ---------------------------------
Sứ điệp: Các tông đồ là những người được Chúa tuyển chọn. Chúa tự do chọn lựa cả những người bình thường, và Ngài cũng để con người tự do đáp trả.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa. Cuộc sống chứng nhân của các Ngài đáng ngưỡng mộ và là những tấm gương sáng cho mỗi tín hữu chúng con. Trong danh sách mười hai tông đồ, con thấy có người chối Chúa, có kẻ bán Chúa. Điều này chứng tỏ Chúa không chỉ chọn lựa những người đã hoàn toàn thánh, nhưng Chúa chọn lựa là để mời gọi các Ngài trở nên thánh thiện.
Các Ngài được gần gũi Chúa, lắng nghe Chúa dạy bảo, được cùng Chúa đi khắp các xóm làng, lên núi cao, vào nơi thanh vắng, bên bờ hồ, bên bờ giếng, rao giảng Nước Trời và chữa lành bệnh tật. Các Ngài được sống bên Chúa, gần kề với sự thánh thiện và kết hợp với Chúa, để được Chúa biến đổi nên thánh thiện hơn.
Lạy Chúa, hôm nay con cũng được diễm phúc nghe Chúa dạy bảo, được Lời Chúa uốn nắn, và con cũng mong muốn được hiến dâng lên Chúa thiện chí tông đồ của con. Con muốn được qui tụ bên Chúa, lắng nghe Chúa nói, được tình yêu và ơn thánh Chúa biến đổi, để cùng Chúa dấn thân giữa đời. Con tin rằng Chúa vẫn ở bên con, nâng đỡ con và thánh hoá con.
Lạy Chúa, lời mời gọi của Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn con, con muốn trở thành một tông đồ như thánh Simon và Giuđa, chứ nhất định không là một Giuđa phản Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho những ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
Một số chi tiết đáng lưu ý:
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu ”cầu nguyện”: Chúa Giêsu trong Lc là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Trong những lúc quan trọng, Ngài cầu nguyện tha thiết hơn nữa (Lc 3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện ”suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm (tuyển chọn 12 môn đệ làm tông đồ) là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Con số 12 là con số các chi tộc Israel bị tản lạc khắp nơi sau biến cố lưu đày. Vậy khi Chúa Giêsu chọn con số 12, ý Ngài muốn cho biết là đã đến lúc Ngài quy tụ một dân Israel mới.
- Trong số 12 tông đồ, có vài vị nổi bật:
“Simon mà Ngài gọi là Phêrô”: trong Thánh Kinh, ai đặt tên mới cho một người nào thì có quyền hành trên người đó (2 V 23,34 24,17); người đặt tên cũng xác định một định mệnh mới cho kẻ mang tên mới.
Bộ ba Phêrô, Giacôbê và Gioan lại là một nhóm nhỏ đặc biệt hơn nữa trong nhóm lớn 12 (Lc 8,51 9,28). Họ sẽ đóng những vai trò quan trọng trong quyển Công vụ.
- Sau khi đã tuyển chọn nhóm 12, Chúa Giêsu cùng họ xuống núi và đến một cánh đồng. Dân chúng rất đông từ khắp nơi tuôn đến để nghe Ngài giảng và để được Ngài chữa bệnh.
B....nẩy mầm
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm: Dù là con Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn cảm thấy cần cầu nguyện thường xuyên, nhất là trước những việc khó khăn, quan trọng. Ngài cũng khuyên môn đệ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ”. Phêrô đã sa cám dỗ chối Thầy vì trước đó trong vườn Cây Dầu, ông đã ngủ thay vì cầu nguyện. Giuđa, sau bữa Tiệc Ly, đã bỏ ra ngoài đang khi Chúa Giêsu và các tông đồ khác cầu nguyện. Cho nên Giuđa đã sa ngã nặng nề.
- Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (“Mỗi ngày một tin vui”).
4. Một thanh niên thời đại mới lên một chiếc đò của một ông cụ già. Hai mái chèo của chiếc đò này rất đặc biệt: một mái có ghi chữ “Pray” (cầu nguyện), mái kia ghi chữ “Work” (làm việc). Chàng thanh niên mỉa mai: “Ông ơi, ông lỗi thời quá rồi. Khi người ta đã làm việc thì sẽ có đủ mọi thứ, cần chi đến cầu nguyện nữa?”. Cụ già chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng buông bỏ mái chèo “cầu nguyện”, chỉ còn chèo mái “làm việc” thôi. Kết quả là con đò cứ xoay vòng vòng, chẳng tiến được chút nào (Đức Cha Tihamer Toth).
5. Một cha xứ nọ muốn dạy trẻ nhỏ một cách dễ hiểu về sự cầu nguyện. Cha có sáng kiến dùng một chiếc máy diện thoại: - Chúng con biết chiếc máy điện thoại rồi chứ. Khi ta nói chuyện với ai bằng điện thoại, mặc dù ta không thấy mặt người đó nhưng ta vẫn tiếp xúc được với người đó. Cũng thế, dù chúng con không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tiếp xúc được với Ngài nhờ cầu nguyện. Đúng không?
Tất cả đều thưa đúng.
Nhưng một đứa đưa tay hỏi: Thế số điện thoại của Chúa là số nào? (Arthur Tonne).
Ta hãy thay cha xứ trả lời cho câu hỏi trên.
6. Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi ông hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi Ngài gì cả.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao Thầy buồn thế?
- Người bạn của Thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ cần để sống nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi. (Đức Cha Tihamer Toth).
7. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền Hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”, cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.
Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay, nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).
Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: “Dạ con đây!”, rồi chạy lại với Thầy Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi”. Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”…
Được sự hướng dẫn của thầy Êli, Samuel nhận ra tiếng Chúa và đáp trả: “Xin Chúa hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đức Chúa ở với cậu, và cậu không để một lời nào của Chúa ra vô hiệu (x. 1Sm 3,10.19). Samuel đã biến đổi nhờ Lời Chúa, đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại trong lịch sử Israel…
Suy niệm
Thầy Giêsu gọi và chọn mười hai môn đệ không chỉ là những người học trò nhỏ lắng nghe lời Thầy nhưng trở nên người bạn hữu với Thầy (x. Ga 15), người bạn hữu tiếp tục sứ mạng của Ngài khi mang nhiều hoa trái (x. Ga 15) trong sứ vụ đem Tin Mừng cho nhân gian, đó là sứ vụ đem ánh sáng cứu độ mà Chúa Kitô được ủy thác khi Ngài đến thế gian.
Ngài gọi các môn đệ “Các anh hãy theo Thầy” (Mt 4,19) một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Thầy và chia sẻ thao thức của Thầy: Lên đường cùng Thầy chung tay gánh vác sứ vụ mang ánh sáng tình yêu cứu độ.
Người môn đệ theo Chúa bỏ lại cái an toàn êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên nghề nghiệp trong khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới như trường hợp của Giacôbê và Gioan, chấp nhận ra khơi, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, trong sự tận tụy chu toàn sứ mệnh loan báo nước Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa vẫn gọi tôi và bạn trở nên môn đệ, bạn hữu trong bất cứ vị trí nào của cuộc sống: Người linh mục, tu sĩ, làm người môn đệ qua ơn gọi thánh hiến cuộc sống cho sứ mạng, là bạn hữu và là người môn đệ đem ánh sáng Tin Mừng cho anh chị em. Người tín hữu Chúa Kitô trong bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao một ngọn nến cháy sáng, ánh sáng đó trong thời gian trở nên sáng rực trong tinh thần nghe tiếng gọi và từ bỏ bước theo…
Ý lực sống
“Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,22).
Tân ước ngoài việc đặt thánh Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu “nhiệt thành” (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần tử thuộc nhóm quá khích Do Thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là “Cana”. Điều này giải thích tại sao các thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã “bỏ rượu”, bỏ lễ cưới để theo Chúa Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào nói tới việc này.
Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ thánh Simon là một trong các “anh em của Chúa” (Mc 6,3). Nhưng người ta không thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị anh mình làm Giám mục Giêrusalem.
Chúng ta không thu lượm được chi nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng: Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania.
Những tường thuật này không có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai Cập và cuối cùng ở Ba Tư. Truyền thống này đáng tin hơn. Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho rằng Ngài chịu tử đạo ở Ba Tư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với thánh Giuđa. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.
Thánh Giuđa
Vị tông đồ này mang nhiều tên khác nhau như Tađêô (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuđa (Lc 6,16; Cv 1,13).
Chính Ngài là vị tông đồ trong cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian?”
Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là: “Giuđa, nô lệ của Đức Giêsu Kitô, anh em với Giacôbê” (Gl 1) không? Thực sự tiếng Hy Lạp phải đọc câu văn này như ở Lc 6,16 là: “Giuđa, con của Giacôbê”. Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính lục của bức thư. Có thể nói, tác giả “anh em với Chúa” (Mc 6,3) không phải là tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo Hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).
Thánh Giuđa tông đồ, theo truyền thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamin và chịu tử đạo ở đó. Một thời Ngài được tôn kính như đấng bảo trợ cho các trường hợp “vô vọng”. Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì Ngài trùng tên với Giuđa phản bội.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh Simon được gọi là Simon người Cana, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.
Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotamia. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.
Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!
2. Bài học
Bài Tin Mừng được Giáo Hội chọn đọc trong thánh lễ hôm nay nói về việc Chúa tuyển chọn những người để cộng tác với Chúa mà Ngài đặt tên cho họ là “Tông Đồ”, chúng ta thấy:
* Trước khi chọn, Chúa đã cầu nguyện
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng. Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (Lc 3,21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (Lc 9,18). Ngài cầu nguyện khi ở trên núi, trước khi Ngài được hiển dung (Lc 9,29). Ngài cầu nguyện trong xao xuyến khi đứng trước cái chết gần kề (Lc 22,41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (Lc 23,34).
Cầu nguyện đối với Chúa đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý. Việc tìm ý Chúa Cha, không phải lúc nào cũng là việc dễ dàng. Chính vì thế mà có những lần Chúa đã phải thức thâu đêm để cầu nguyện, để tìm xem ý Cha muốn gì. Thí dụ hôm nay Chúa cầu nguyện để xem Chúa Cha muốn chọn ai trong số những môn đệ ở đây để họ trở thành những người mà Ngài gọi là tông đồ.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6)
Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.
* Tiêu chuẩn để được Chúa chọn là tông đồ
Ðọc lại tiểu sử của các thánh, chúng ta thấy khi chọn gọi ai, Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn của người đời. Người đời khi tuyển chọn ai thì thường người ta phải dựa trên những tiêu chuẩn như thế giá, học thức, địa vị xã hội, trải nghiệm vễ cuộc sống vv.
Còn Chúa thì Ngài hoàn toàn khác. Nhìn vào danh sách những người được tuyển chọn làm tông đồ hôm nay, chúng ta thấy họ chỉ là những con người bình thường. Bình thường chứ không tầm thường như nhiều người nghĩ. Họ không phải là những người xuất chúng, giàu có, có học thức, có chỗ đứng cao trong xã hội. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Dĩ nhiên là Chúa có sự khôn ngoan của Ngài. Khi chọn những người như thế, hẳn Chúa đã nhìn thấy ở nơi họ những phẩm chất cần cho một người được trao cho một nhiệm vụ phải hoàn thành.
* Chúa gọi họ là tông đồ nghĩa là những người được sai đi
Đây là những lời rất cảm động của Chúa Giêsu:
Người lại nói với các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (Mc 6,7).
Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi (Ga 13,16).
Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt 11,16).
Rồi Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).
Như vậy công việc của các tông đồ là tiếp nối công việc của chính Chúa Giêsu, tiếp nối mãi cho đến ngày tận thế.
Bao lâu còn con người trên trần thế thì bấy lâu Chúa còn sai các sứ giả tức là các tông đồ của Ngài đến với con người.
Đây là một câu chuyện tưởng tượng nhưng nó cũng có một ý nghĩa của nó:
Khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, người trở về trời và được thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
- Ta đã chọn mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và một vài người phụ nữ - Chúa đáp -. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: - Nhưng nếu số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác không?
Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên người vẫn quả quyết:
- Ta không dự tính một chương trình nào khác cả, ta tin vào họ!
Vâng mỗi người chúng ta hãy cố gắng để trở nên tông đồ của Chúa. Amen.
Ðọc lại tiểu sử của các Vị Thánh, có thể mọi người sẽ cảm thấy thật bất ngờ vì Chúa chọn các Ngài vượt trên những tiêu chuẩn của người đời, vượt trên những suy nghĩ của con người. Môsê trong Cựu Ước là một con người ăn nói ngọng nghịu, không trôi chảy, không lưu loát. Ðavít, cậu bé có mái tóc hoe hoe vàng, thua sút anh em. Nhiều ngôn sứ cũng ấp a ấp úng khi được Thiên Chúa chọn lựa. Mười hai tông đồ trong Tân Ước cũng thế. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Ngài chọn lựa họ thật bất ngờ.
Thánh Simon Tông Ðồ
Hai Ðấng thánh này cũng đã được Chúa tuyển chọn sau nhiều giờ cầu nguyện, sau những phút giây Chúa Giêsu hỏi ý Thiên Chúa Cha. Việc cầu nguyện để nói lên tính cách quan trọng của sự chọn lựa. Vì không có Chúa, con người chả là gì cả, con người chỉ là không không. Ðiều nay đã cho nhân loại hiểu: Phêrô, vị lãnh đạo Giáo Hội cảm thấy sức mình quá yếu đuối khi chối Chúa ba lần dù rằng trước đó ông cương quyết yêu mến Chúa. Các môn đệ, thân tín của Chúa, nhưng đã sớm ca bài tẩu thoát khi Thầy mình gặp khốn khổ trong cuộc thương khó đi về núi Sọ. Giuđa đã hoàn toàn thất vọng khi cậy vào quyền lực và sức riêng của con người. Quả thực không có Chúa, con người không làm được gì cả. Thánh Simon sinh tại Cana, còn được gọi là Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Thánh Simon đi rao giảng Tin Mừng tại Ai Cập, thánh Giuđa tại Mésopotamia. Hai thánh tông đồ đã gặt hái được rất nhiều kết quả trong việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đã đem được nhiều người quay trở về với Chúa Giêsu, với Giáo Hội. Ðược thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, với lòng nhiệt tình truyền giáo, thánh Simon và thánh Giuđa đã ra đi loan báo Tin Mừng tại Ba Tư. Tại xứ sở Ba Tư, vì ghen ghét các Ngài, các Ngài đã như mọi tông đồ khác được phúc tử vì đạo để làm chứng cho Chúa Kitô.
Thánh Giuđa Tông Ðồ
Theo Thánh Truyền, thánh Giuđa đã cương quyết chống lại những nhà thông thái, trí thức chống báng Tin Mừng của Chúa Kitô. Ngài không hề sợ đau khổ, không hề sợ chết, với ơn Chúa ban, Ngài đã chiến thắng các người trí thức luôn khích bác Tin Mừng và Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh Si-mon luôn trung thành với Giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Vì sự cương quyết, lòng can đảm của hai tông đồ Simon và Giuđa, người ta đã âm mưu ám hại hai Ngài. Họ đã bắt bớ, đánh đòn và làm cho hai Ngài phải chết. Thánh Simon và thánh Giuđa đã can đảm đổ máu mình ra để tô điểm Giáo Hội. Chính dòng máu của các Ngài đã làm cho nền tảng Giáo Hội Chúa Kitô vững chắc ở trần gian này. Hai thánh Simon và Giuđa đã hân hạnh được lãnh nhận triều thiên nước trời.
Xin Chúa ban cho mọi người chúng con lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng trong niềm tin, cậy, phó thác vào tình thương và vào giáo lý chân chính của Chúa.
Trong danh sách nhóm 12, Simon Nhiệt Thành được xếp vị trí thứ 10 (con số 10 tròn trịa). Gọi là Simon Nhiệt Thành để phân biệt với Simon Đá Tảng, tức là Simon Phêrô, vị Tông Đồ Cả. Còn Giuđa Thađêô được xếp thứ 11, nghĩa là gần cuối. Hai vị Tông Đồ này luôn luôn được xếp gần sát nhau. Có lẽ vì thế mà các ngài được Giáo Hội mừng chung một ngày, 28.10.
Có điều là Kinh Thánh lại nói rất ít về hai vị Tông Đồ này. Đặc biệt đối với thánh Simon Nhiệt Thành, dường như ngài đã bị các Thánh Sử lãng quên. Ngài chỉ được nhắc đến vài ba lần, khi liệt kê danh sách các Tông Đồ. Theo Thánh Truyền thì Simon Nhiệt Thành chính là người phụ rể tại tiệc cưới Cana (Cana cũng chính là quê quán của ngài), và sau khi chứng kiến phép lạ nước hoá thành rượu, ngài đã đi theo Chúa Giêsu. Ngài cũng là người được mệnh danh là nhiệt thành, nhiệt thành đến độ cực đoan (Zêlot). Dĩ nhiên là nhiệt thành cho sứ mạng giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Ngài thấy Chúa Giêsu có những phẩm chất của một vị lãnh tụ đáng tin cậy, có khả năng đánh đuổi đế quốc Rôma đô hộ và tái lập vương quốc Israel hùng cường. Chúa Giêsu không ngần ngại chọn gọi ngài và hướng sự nhiệt thành của ngài, thay vì lo kiến tạo một vương quốc trần thế, thì lo xây dựng một vương quốc trời cao, vương quốc mà chính Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này. Quả vậy sau này chính ngài đã hết mình cho Tin Mừng Nước Trời đến độ hiến dâng cả mạng sống mình. Truyền thuyết cho biết ngài đã chết trên thập giá, cái chết giống Thầy mình. Một tình yêu đối với tổ quốc, với đồng bào được Chúa Giêsu nâng lên thành tình yêu phổ quát, tình yêu đối với mọi dân, mọi nước. Một mộng tưởng phục vụ cho một quốc gia Do Thái bé nhỏ được Chúa Giêsu nâng lên thành lý tưởng phụng sự cho một quốc gia không biên giới, đó chính là Nước Trời.
Còn thánh Giuđa Thađêô thì sao? Chúng ta cũng không biết gì nhiều ngoại trừ chi tiết ngài là em của thánh Giacôbê hậu, và là bà con của Đức Giêsu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Người chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Nếu thánh Simon được gọi với cái tên là Simon “nhiệt thành” thì có lẽ thánh Giuđa phải được gọi là Giuđa “trung thành.” Ngài đã trung thành trong tình yêu mến, để bù lại cho một Giuđa khác, Giuđa Isacriôt, kẻ bất trung bội phản trong tình yêu. Tin Mừng cho thấy có lần ngài đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy lại tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian” (Ga 14,22). Chúa Giêsu trả lời ngài rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14,23). Khi trả lời như thế, Chúa Giêsu muốn gián tiếp nói với Giuđa Thađêô rằng khi các con yêu mến Thầy, các con sẽ hiểu được câu hỏi tại sao. Và khi các con yêu mến Thầy, các con sẽ hiểu được các mạc khải cao trọng hơn thế nữa. Có “Cha Thầy và Thầy ở cùng” lẽ nào lại không hiểu được! Quả thật, sau này ngài đã hiểu, vì ngài đã yêu mến Thầy mình thực sự. Ngài đã yêu mến Thầy mình cho đến cùng. Dù có trải qua bao phong ba bão tố của cuộc đời, ngài vẫn không bỏ cuộc, không bội phản như Giuđa Iscariôt. Tương truyền cho biết ngài cùng với thánh Simon Nhiệt Thành hăng say rao giảng Tin Mừng đến tận miền Ba Tư và trung kiên làm chứng cho Chúa đến hơi thở cuối cùng.
Ở Việt Nam, người ta ít biết về ngài, và cũng ít người chọn ngài làm thánh Quan Thầy. Thế nhưng ở Mỹ, ngài là một vị thánh rất được sùng kính. Rất nhiều nhà thờ ở Mỹ đặt bàn thờ dâng kính ngài. Lý do thánh Giuđa được sùng kính ở Mỹ như thế là vì ngài nổi tiếng là một vị thánh hay cứu giúp người ta, cả những người lương dân, trong những trường hợp khó khăn, trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng.
Chuyện kể rằng có một người phụ nữ gặp hoàn cảnh khó khăn về tài chính. Bà đã đến một nhà thờ ở New York làm tuần Cửu Nhật cầu khấn thánh Giuđa, xin ngài giúp cho bà một số tiền là 10.000 đôla để bà giải quyết một vấn đề quan trọng. Mỗi ngày bà đến cầu nguyện trước tòa kính thánh nhân. Sang đến ngày thứ chín, bà thấy trên bàn thờ vị thánh có một chiếc phong bì, mở ra thì bà thấy trong đó có 10.000 đôla, đúng với số tiền mà bà xin. Bà mừng quá, chạy vào nhà xứ kể cho cha xứ nghe sự việc, tin rằng đây là tiền của thánh Giuđa cho bà. Tuy nhiên, cha xứ cho biết ngài vừa nhận được cú điện thoại của một người báo tin cho hay ông ta cũng vừa được thánh Giuđa ban cho một ơn như ý, và để tỏ lòng biết ơn, ông có dâng kính thánh nhân 10.000 đôla. Nhưng vì không gặp được cha xứ, nên ông ta đặt số tiền đó trên bàn thờ thánh nhân, trong một phong bì, và xin cha ra lấy và cất giữ. Như vậy, theo cha xứ, số tiền kia là của giáo xứ, bà ta phải đưa lại cho giáo xứ; còn người đàn bà thì lại quả quyết tiền đó là của thánh Giuđa giúp bà. Vì vậy, để phân xử, hai người quyết định đưa nhau ra toà.
Người ta theo dõi vụ kiện qua báo chí và lấy làm thú vị về sự việc hi hữu này. Họ không biết tòa sẽ phải giải quyết bằng cách nào trước một sự việc vừa mang tính pháp lý vừa mang tính thiêng liêng như thế này? Đột nhiên, cha xứ tuyên bố rút đơn kiện, đồng ý để số tiền cho bà kia. Bà ta bình thản nói rằng bà đã biết chắc chắn số tiền sẽ thuộc về bà, vì thánh Giuđa sẽ giúp bà cho đến cùng.
Thiết nghĩ thánh Giuđa không làm một phép lạ tỏ tường, nhưng ngài đã muốn dùng số tiền người ta dâng kính ngài, để tặng lại cho người phụ nữ trong lúc gặp sự khốn khó đã hết lòng tin tưởng chạy đến cùng ngài.
Chúng ta có thêm một địa chỉ nữa để chạy đến kêu xin sự trợ giúp, khi ta gặp gian nan khốn khó. Câu chuyện vừa kể giúp ta có thêm niềm xác tín. Dĩ nhiên không chỉ đơn thuần là xin ngài giúp tháo gỡ những khó khăn về cuộc sống vật chất, mà còn là những khó khăn về đời sống đức tin, đời sống đạo. Đặc biệc xin ngài giúp chúng ta có được lòng nhiệt thành và trung thành như ngài: nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, đồng thời trung thành bền chí đi theo Đức Kitô đến cùng. Amen.
Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.
Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.
Lạy Cha,
Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.
Chúng ta được biết rất ít về hai thánh tông đồ vì hình như các ngài chỉ được Chúa Giêsu chọn như những người “phụ tá”. Trong Phúc âm, thánh Máccô (Mc 3,18) và thánh Matthêu (Mt 10,4) xếp thánh Simon đứng thứ 11 và thánh Luca (Lc 6,15) ghi tên ngài vào hàng thứ 10 trong số các tông đồ. Còn thánh Giuđa, chúng ta đọc thấy đứng thứ 11 trong Phúc âm thánh Luca và mang tên là Thađêô, đứng thứ 10 trong Phúc âm thánh Maccô và Matthêu. Sự kiện về ngôi thứ của hai thánh nhân gợi cho chúng ta hình dáng những người thợ được thuê vào lúc 5 giờ chiều (Mt 20,6), và những khách mời hèn mọn (Lc14,10) mà Chúa nói trong Phúc âm. Vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn sơ rằng sở dĩ các ngài có một chỗ ngồi kém quan trọng trong số các tông đồ, có lẽ vì đã theo Chúa sau cùng hay vì còn trẻ tuổi.
Thánh Simon mang tên hiệu là Cananêan. Theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là “nhiệt thành”; nó nhắc cho chúng ta lời tiên tri Êlia: “Sự nhiệt thành với Chúa Giavê đã nung nấu tôi” (III Reg 29,10). Riêng về cuộc đời giảng đạo và cuộc tử nạn của ngài, chúng ta có nhiều sử liệu khác nhau. Theo ông Nicêphorê Callistô, một tác giả thời danh vào thế kỷ XIV, thì thánh nhân giảng đạo ở Phi châu và miền Granda Britania. Ý kiến này phù hợp với sự quyết đoán của nhiều sử gia Hy lạp, tuy nhiên ít được coi là chính xác. Vì theo thánh Fortuna, Giám mục thành Poitiers và ở cuối thế kỷ thứ VI, chúng ta biết thánh Simon và thánh Giuđa được mai táng tại Ba tư. Tác giả cuốn “Dã sử về các tông đồ” cũng chép: Hai thánh nhân lãnh phúc tử đạo tại Suanir thuộc Ba tư. Đàng khác, và ở thế kỷ IX, tu sĩ dòng Êpiphanô trong cuốn “Tiểu sử thánh Anrê tông đồ” lại viết: Tại Nicopsis, một tỉnh nhỏ gần miền Caucasie, người ta còn giữ được hài cốt thánh Simon. Cũng nơi đây và ở quãng thế kỷ thứ VII, nhiều giáo hữu Hy lạp đã góp tiền xây một nhà thờ kính thánh nhân. Sau hết, từ xưa, trong đền thờ cổ kính thánh Phêrô tại Rôma, vẫn có một bàn thờ kính riêng hai thánh Simon và Giuđa. Vậy phải chăng căn cứ theo những sử liệu trên mà trong cuốn “tử đạo” của dòng thánh Giêrônimô, người ta đã quyết hai thánh tông đồ tử đạo ngày 01 tháng 07, và kính lễ các ngài vào ngày 28.10.
Thánh Giuđa, mặc dầu được nhắc đến nhiều hơn trong Phúc âm, cũng không cho chúng ta biết rõ mấy về dòng tộc, cuộc đời rao giảng và cuộc tử đạo của ngài. Tuy nhiên, điều chắc chắn, ngài là một trong mười hai vị tông đồ, mang tên hiệu là Thađêô và đã được thánh Giêrônimô tặng khen là “Người có bản lĩnh”. Trong bữa tiệc ly, chính ngài đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ ra cho thế gian?” (Ga 14,22); và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai mến Thầy sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến họ, và chúng ta sẽ đến với họ và chúng ta sẽ ở lại nơi họ... (Gn 14,23).
Thánh Giuđa sung sướng vì là người đầu tiên được biết cách sống thân mật với Thiên Chúa cách hoàn hảo và thân tình hơn ông Giakêu. Hơn thế, theo Phúc âm (Mt 13,55; Mc 6,3), thánh Giuđa là người làng Nagiarét, con ông Clôpas và bà Maria, anh em với Chúa Giêsu, thánh Simon và thánh Giacôbê sau làm giám mục thành Giêrusalem. Về sau, ông Ôrigênê tìm được một bức thư nhỏ của thánh Giuđa; nhờ đó, người ta có thể đoán rằng thánh Giuđa cùng đi rao giảng Phúc âm với “Những anh em Chúa Giêsu” (x. 1Cr 9,5). Tuy nhiên không biết rõ ngài đi rao giảng những nơi nào!
Vì theo thánh Giêrônimô, thánh Giuđa giảng Tin mừng tại Osrosênê, và theo ông Nixêphôrê Callistô, ngài truyền bá Phúc âm tại Mêsôpôtamia. Đàng khác, thánh Paulinô Nola lại chủ trương thánh Giuđa là tông đồ xứ Libia. Riêng về cuộc tuẫn giáo của thánh Giuđa, hiện nay không có một sử liệu nào xác thực. Tuy nhiên cho đến bây giờ các sách “tử đạo La tinh” vẫn giữ ý kiến của thánh giám mục Phôtuna cho rằng xác thánh tông đồ đã được mai táng tại Ba tư.
Sau hết, để bổ khuyết vào những sử liệu trên, chúng ta cùng với tác giả Tillemont kết luận rằng: “Không gì chắc chắn hơn trong sự kiện này là thú nhận chúng ta không hiểu chi về những điều thực sự chúng ta không biết và hãy hãm dẹp tính tò mò, ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng muốn dùng đời sống mai ẩn của các vị đại thánh dạy chúng ta ăn ở khiêm nhường, ẩn dật, trước mặt nhân loại hầu được hiển sáng hơn trong vinh quang của Người.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh Simon được gọi là Simon người Ca-na, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.
Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotami-a. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.
Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!
2/ Simon - Tông đồ nhiệt thành:
- Ông là người Ca-na-an.
- Thánh Mác-cô gọi là Simon Nhiệt Thành, Thánh Luca gọi là Simon thuộc nhóm Quá Khích. Lý do vì ông thuộc một đảng phái chính trị: Họ là những người ái quốc cuồng nhiệt, họ là một nhóm người Do-thái tin tưởng ở sự độc lập của Ít-ra-en và không hợp tác với Rô-ma.
- Chúng ta không biết ông theo Chúa trong hoàn cảnh nào. Có giả thuyết cho rằng ông tin Chúa là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến giải phóng dân Ít-ra-en, Đấng sẽ đem độc lập đến cho dân tộc Do-thái.
- Chúa Ki-tô phục sinh đã thay đổi suy nghĩ của ông và dùng “sự nhiệt thành” của ông để mở rộng Nước Trời cho mọi người.
- Giả thuyết cho rằng Si-môn đã chịu chết trên thập giá. Chỉ có thể mô tả ông: một người quả quyết, hăng say, dám nghĩ, dám làm, một người nóng bỏng nhất trong các Tông Đồ.
3/ Giu-đa Ta-đê-ô - Tông đồ trung kiên:
- Ông được Phúc Âm nhắc đến chỉ một lần duy nhất: Trong phòng Tiệc Ly, sau bữa ăn, ông đã hỏi Đức Giêsu: "Bấy giờ, Giu-đa, không phải Ít-ca-ri-ốt, hỏi Người: "Thưa Thầy, làm sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà lại không tỏ ra cho thế gian?" (Ga 12, 22).
- Ông được kể như một Tông đồ trung thành với Chúa suốt 3 năm đi rao giảng. Sự trung kiên ấy càng mạnh mẽ hơn khi Chúa xác quyết: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy…”
- Tân Ước nói nhiều về lòng trung tín và bền đỗ, đây là điểm chính yếu trong Thư của Giu-đa.
- Giu-đa đã trung tín đến cùng, Giu-đa rao giảng về Chúa đến cùng, Giu-đa rao giảng Lời Chúa hết sức nhiệt tình... Về cuối đời, ông rao giảng ở vùng Odessa, Arménia và Persia. Truyền thống cho rằng ông tử đạo ở Persia.
Bí quyết cầu nguyện mà thánh Luca tường thuật lại mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trên con đường truyền đạo của Đức Giêsu cho chúng ta thấy cuộc linh thao của Người đi sâu vào tình liên kết với Chúa Cha, một bí quyết liên kết độc nhất và siêu việt để cho chúng ta được thông hiệp với Người: “Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi”. (Rm 8, 15). Nhưng lời cầu đó chẳng đáng gì vì lời cầu của Đức Giêsu bao bọc và gói gém mọi lời cầu của mọi người. Chỉ có Người mới có thể nói được: “Cha chúng con” với toàn diện sự thật. Chỉ có Người biết được Chúa Cha vì Người bởi Cha mà ra. Chỉ có Người sở hữu được thần khí vô lượng vô biên”. (Ga 3, 34)
Cầu nguyện
Sự liên kết độc nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha là một sự cầu nguyện huyền nhiệm đã trở nên nền tảng cho mọi cầu nguyện khác. Chúng ta được nối kết với sự cầu nguyện ấy khi Đức Giêsu dạy chúng ta thưa: Lạy Cha! chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Chúa Cha, hay lại cầu nguyện sai lầm. Chúng ta phải nhớ rằng trung tâm của sự cầu nguyện chân chính là chính Đức Giêsu chứ không phải chúng ta. Chính Người đem lại ý nghĩa cầu nguyện cho chúng ta. Chính Con Người thâu nhận mọi lời than van kêu khấn của mọi người. Không phải vì độc đoán tự phụ cho riêng Người, nhưng là đem lời cầu nguyện của Đức Giêsu vào trong lòng chúng ta để chúng ta tiếp tục lời cầu nguyện của Người. Được như thế là vượt lên mọi cảm tình cá nhân, là từ bỏ mọi sự mà gắn bó với đức tin.
Tin
Tin là điều kiện độc nhất của lời cầu nguyện có giá trị. Chúa không đòi chúng ta phải lên hoàn hảo, Người chỉ đòi chúng ta tin vào Người. Nhiều người cầu nguyện nhiều, tuy không có gì trách mình, nhưng họ tưởng xin còn ít nên lời cầu của họ hình như không được nhận lơi. Họ tưởng họ tin nhiều, thực ra họ còn thiếu đức tin. Chúng ta tưởng chính ra phải được nếm thử sự đời đời trong lời cầu nguyện của chúng ta thì lại chỉ được nếm sự nghèo khó.
Hãy xem những người tội lỗi trong Tin Mừng đã được Chúa đoái thương vì họ có lòng tin. Niềm tin đó cho họ thấy họ chẳng đáng giá gì dưới đôi mắt của Đức Giêsu, nhưng họ chỉ tin vào giá máu của Người.
Ta cần nhớ thánh Simon mà ta mừng lễ hôm nay khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô, và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha.
Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi.
Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Chúa Giêsu xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Chúa Giêsu và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Chúa Giêsu giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người. (c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Chúa Giêsu tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Kitô.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Mừng kính thánh Simon và Giuđa Tông Đồ hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta cũng ý thức mình được gọi và chọn làm môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng đi trên hành trình với Chúa. Chúng ta luôn “nói với Chúa” khi lên núi cầu nguyện mỗi ngày; và chúng ta luôn “nói về Chúa” trong tiến trình hoạt động ngày sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết ngưỡng mộ từ tâm của Chúa, cứu giúp những ai khổ đau đang cần được cứu chữa. Ước gì chúng ta cũng biết đi theo con đường kỷ luật Chúa đã đi là “luôn nói với Chúa và nói về Chúa”.
Theo chỉ dẫn của sách Breviarium Apostolorum – mở đầu Sách Tử đạo của thánh Hiêrônimô –, lễ hai thánh tông đồ Simon và Giuđa mừng vào ngày 28 tháng 10; người ta đã thấy lễ này được ghi trong các sách bí tích của người Franc vào thế kỷ VIII, và ở Rôma vào thế kỷ X. Một nhà nguyện được dâng kính các ngài trong vương cung thánh đường cổ Thánh Phêrô ở Vatican. Các Giáo Hội phương Đông mừng riêng lễ thánh Simon ngày 10 tháng 5, và thánh Giuđa ngày 19 tháng 6.
Trong danh sách 12 Tông đồ, thánh Simon và Giuđa luôn đi chung với nhau, thánh Simon ở vị trí thứ mười và thánh Giuđa ở vị trí mười một (Mt 10, 3-4; Mc 3, 18; Lc 6, 14-16; Cv 1, 13).
Thánh Simon, “thuộc nhóm quá khích” trong Mc và Lc; “người Canaan (=người thuộc nhóm quá khích)” trong Mt, có lẽ là một cựu thành viên của phong trào quá khích chống đối quyết liệt sự cai trị của Rôma. Theo truyền thống phương tây, có thể ngài đã đi rao giảng ở Ai Cập và Lưỡng Hà Địa, nhưng người ta không biết gì đích xác về cuộc đời ngài. Người ta nói ngài chịu tử đạo, và đôi khi người ta vẽ hình ngài bị các đao phủ cưa dọc thân thể làm đôi.
Thánh Giuđa, tông đồ thứ mười một trong danh sách nhóm Mười hai, được kể tên trước Giuđa Iscariot. Trong tiếng Hi Lạp, tên ngài viết giống hệt Giuđa Iscariot, nhưng để phân biệt, người ta xác định thêm là con hay anh của Giacôbê–(Lc 6, 16) hay không phải Giuđa Iscariot (Ga 14, 22). Ngài cũng được gọi là Lebbée trong một số thủ bản của Mt, và Thaddéô trong Mt và Mc, và đôi khi còn gọi là Giuđa, người thuộc nhóm Quá khích (Zélote). Không nên lẫn tông đồ Giuđa với người cùng tên có họ với Chúa Giêsu và với tác giả của Thư thánh Giuđa.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời Nguyện của ngày nhắc nhớ lời giảng của các tông đồ dẫn ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu, và Giờ Kinh Sách trích dẫn một đoạn chú giải của thánh Cyrille thành Alexandria về Tin Mừng Gioan, minh hoạ sứ mạng của các tông đồ: “…Các ngài có nhiệm vụ kêu gọi người tội lỗi hối cải, chăm sóc người bệnh tật thể xác hay tâm hồn; trong nhiệm vụ là những người quản lý, các ngài không được tìm cách làm theo ý riêng, nhưng theo ý của Đấng sai các ngài; sau cùng, cứu rỗi thế giới bằng cách giúp thế giới đón nhận lời dạy của Chúa.”
Ca hiệp lễ lấy lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Giuđa khi ngài hỏi Chúa: “Lạy Thầy, tại sao thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không cho thế gian?” Câu trả lời của Chúa Giêsu không trực tiếp, nhưng chứa đựng mạc khải về một trong những mầu nhiệm cao siêu nhất của đức tin chúng ta: “Nếu ai yêu mến thầy, thì sẽ giữ lời thầy; Cha thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Chúng ta không gặp Thiên Chúa như gặp một nhân vật có chức vị, nhưng bằng việc gắn bó với Lời Người trong tình yêu. Chính đây là sự thể hiện niềm khát vọng của các tín hữu trong Cựu Ước: “… Này Ta đây, ta đến cư ngụ ở giữa ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa (Da 2, 14). Ta sẽ đặt thánh điện Ta ở giữa chúng đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là Dân của Ta” (Ed 37, 26-27).
Ơn gọi là một cái gì huyền nhiệm. Bất cứ ai sinh ra trên thế giới này, một cách nào đó đều nghe được một tiếng mời gọi âm thầm nào đó trong cuộc đời của mình và rồi, con người đi theo tiếng gọi. Chúa Giêsu không chọn bất cứ ai mà không cầu nguyện lâu giờ và không đi vào cõi thâm sâu để hỏi ý Thiên Chúa Cha. Chúa cầu nguyện, chúng ta không biết Chúa nói gì, không biết Chúa trao đổi, bàn luận gì với Đức Chúa Cha, nhưng có một điều chúng ta nhận thấy Chúa luôn luôn làm theo ý Cha của Ngài. Thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ không nằm ngoài dự định của Chúa Giêsu. Ơn gọi của các Ngài cũng na ná trường hợp của các tông đồ khác. Chúa đi ngang nơi nào đó, Ngài kêu gọi, các tông đồ nhận ra tiếng gọi của Chúa và họ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô.
Chúa tuyển chọn các Ngài và gọi các Ngài là “ Apostoloi “, nghĩa là người được sai đi. Nhưng, trước khi gọi các Ngài là Apostoloi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha. Ngài chọn các tông đồ là do sự nhưng không, do ân huệ tuyệt vời của Ngài. Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường dùng để chọn hoặc cất nhắc một nhân vật nào đó như trình độ, tri thức, vóc dáng bề ngoài, cao, lớn, mập, gầy vv…Chúa tuyển chọn các tông đồ hoàn toàn do ý định của Ngài, không ai có quyền đòi Ngài phải chọn hay không chọn, Ngài tuyển chọn là do tình thương của Ngài.
Thánh Simon còn có biệt hiệu Simon người Cana, hay Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Sở dĩ Hội Thánh mừng thánh Simon và Giuđa cùng một ngày là vì có sự trùng hợp trong việc loan báo Tin Mừng và trong việc tuyên xưng đức tin, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Giêsu. Và thực tế, thánh Simon người Cana hoàn toàn khác với thánh Simon Phêrô, vị tông đồ trưởng và là người làm đầu Giáo Hội tiên khởi. Theo thánh truyền, thánh Simon và thánh Giuđa đi truyền giáo ở hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thánh Simon rao giảng, loan báo Đức Kitô tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại miền Mésopotamia. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sau khi gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc rao giảng, hai thánh Simon và Giuđa đã cùng sang giảng đạo tại xứ Ba Tư. Chính tại nước Ba Tư, hai vị thánh này đã được phúc tử đạo làm chứng cho Chúa như các tông đồ khác.Thánh Giuđa rất trung thành với lời rao giảng, với lời Chúa nên Ngài không sợ hãi mà luôn chống lại những kẻ có thái độ khích bác Tin Mừng.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Lạy thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh quang sống lại. Amen.
Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).
Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:
- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25: Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).
- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).
Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau:
- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành. - Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê. - Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9) Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói: “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19: Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc: ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói: “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20: Bài đọc).
Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh: người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng: Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô: “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.
Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ, trong đó có thánh Simon Nhiệt Thành và thánh Giu-đa Ta-đê-ô mà chúng ta mừng kính hôm nay. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi; và mọi ơn gọi khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.
Đức Giê-su lên núi
“Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện,
và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (c. 12).
Trong lịch sử cứu độ, núi là biểu tượng của nơi Thiên Chúa hiện diện:
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong Nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài. (Tv 15)
Con yêu mến Ngài Lạy Chúa, là sức mạnh của con,
Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. (Tv 18)
Với câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở trên, núi còn là một tên gọi của Đức Chúa: “Người là Núi Đá”. Trong cuộc sống, chúng ta cũng cần một nơi diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trước đó, Đức Giêsu ở trong hội đường giảng dạy và chữa bệnh; bây giờ Ngài lên núi để cầu nguyện.
Đó chính là hai chiều kích làm nên chính cách sống của Đức Giê-su, chiều kích hoạt động (hay làm việc) và chiều kích cầu nguyện.
Và đó cũng là hai chiều kích làm nên đời sống của tất cả những ai đi theo Đức Giê-su trong ơn gọi gia đình, và nhất là trong ơn gọi dâng hiến, dù đan tu hay Tông Đồ. Và quả thực, hàng ngày chúng ta vẫn sống theo nhịp sống của Đức Giê-su: hoạt động và cầu nguyện đan xen nhau mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi giai đoạn huấn luyện và cả đời sống Ki-tô hữu và đời sống dâng hiến của chúng ta.
Đôi khi, nhịp sống này đối với chúng ta trở thành nặng nề, nhất là cầu nguyện. Nhưng dưới ánh sáng cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là một ơn huệ, ơn huệ được trở nên giống Chúa ở mức độ đơn sơ nhưng thiết yếu nhất. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng đi vào tâm tình tạ ơn và làm trổ sinh hoa trái trong đời sống của chúng ta.
Đức Giêsu chọn các Tông Đồ
Mỗi lần Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và cầu nguyện suốt đêm, chính là để chuẩn bị làm một việc hệ trọng. Giống như chúng ta đi tĩnh tâm, trong những thời điểm quan trọng trong hành trình làm người và nhất là trong hành trình ơn gọi. Trước khi Đức Giê-su chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông Đồ, có thể nói Người đã “tĩnh tâm” trước.
Điều này có nghĩa là, ơn gọi của các Tông Đồ và ơn gọi của chính chúng ta, không phải là một chuyện may rủi, hay do nỗ lực “trụ lại bằng mọi giá”, nhưng là một việc hệ trọng đối với Chúa, Chúa phải chuẩn bị bằng một đêm cầu nguyện trên núi với Thiên Chúa Cha. “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại Giê-su gọi mười hai môn đệ lại và chọn lấy mười hai ông” (c. 13)
Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa.
Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời sống ơn gọi của chúng ta như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời sống ơn gọi của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.
Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời; nhưng theo Thánh Phao-lô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời. Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống ơn gọi mà chúng ta đang sống (Tv 139; Gl 1, 15). Và Chúa gọi đích danh từng người: Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt…(c. 14-15)
Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi: ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi.
Ghi nhớ lòng tin “muôn ngàn đời” của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã “là gì”, thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi “là gì” rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.
Đức Giêsu xuống núi cùng với các Tông Đồ
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Đức Giê-su xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Đức Giê-su và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Đức Giê-su giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người.(c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Đức Giê-su tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Ki-tô.
Nhưng thật ra, Ngài vẫn đến “đụng chạm” chúng ta hằng ngày ngang qua Lời của Ngài và Thánh Thể của Ngài. Xin cho chúng ta biết để cho Chúa “đụng chạm”, như khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ (x. Tv 139, 13-16) và cảm nhận được, từ nơi Ngài, xuất phát một sức mạnh chữa lành tất cả và tái sinh chúng ta cho sự sống và cho Gia Đình Nhân Loại mới của Chúa.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Simon và Thánh Giuđa hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dùng lời các thánh Tông Đồ rao giảng mà cho chúng ta được nhận biết danh Chúa, xin Chúa nhậm lời hai thánh Tông Đồ Simon và Giuđa cầu nguyện, mà cho Hội Thánh được phát triển không ngừng khắp nơi trên thế giới. Tông Đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ, còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Tađêô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian? và ông đã nhận được lời Chúa hứa: Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.
Nhận biết danh Chúa, nhờ lời rao giảng của các Tông Đồ, là những người được Chúa chọn, để trở nên những bạn hữu của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô nói: Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa... Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu của Thầy. Vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Anh em được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời; mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe.
Nhận biết danh Chúa, và làm cho mọi người nhận biết Chúa, là sứ mạng của các Tông Đồ và của mỗi người chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Syrilô Alêxanria nói: Các thánh môn đệ là cột trụ và điểm tựa của chân lý. Chúa nói rằng Người đã sai các ông đi như chính Người đã được Chúa Cha sai đi… Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái.
Nhận biết danh Chúa, là trở thành người nhà của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha và tất cả mọi người là anh chị em con cùng một Cha trên trời, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Anh em là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 18A, vịnh gia cho thấy: Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu. Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa. Lạy Chúa, bậc Tông Đồ đồng thanh ca ngợi Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đức Giêsu đã từng nói: Người sai các ông đi, như chính Người đã được Chúa Cha sai đi, vì thế, những ai được sai đi cũng phải có chung một tâm tình với Đức Giêsu: đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn hối cải; đến không phải để làm theo ý mình, nhưng, để làm theo ý Đấng đã sai mình. Các thánh Tông Đồ đã thi hành sứ mạng: kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải, chữa lành những ai đau yếu thể xác cũng như tinh thần, và các ngài đã thi hành nhiệm vụ của những người quản lý, không theo ý mình, nhưng, theo ý của Đấng đã sai mình. Chúa đã dùng lời các thánh Tông Đồ rao giảng mà cho chúng ta được nhận biết danh Chúa, xin Chúa nhậm lời hai thánh Tông Đồ Simon và Giuđa cầu nguyện, mà cho Hội Thánh được phát triển không ngừng khắp nơi trên thế giới. Ước gì được như thế!
Việc Chúa chọn nhân sự để xây dựng Hội Thánh của Chúa ở trần gian là việc hết sức quan trọng, cho nên hôm nay Chúa lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Chúa cầu nguyện với Chúa Cha (Lc 6, 12).
Chúa cầu nguyện với Chúa Cha là để Chúa lãnh nhận ý kiến của Cha, để Chúa Cha cùng với sự tác động của Chúa Thánh Thần soi sáng cho Chúa phải chọn người nào mà Chúa muốn để Chúa thành lập nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian này.
Cầu nguyện xong, sáng ngày Chúa gọi các môn đệ theo Chúa đến, để Chúa chọn riêng ra mười hai tông đồ. Tên của mười haivị tông tồ được thánh sử Luca ghi lại như là hình thức rao tên các ngài trước mặt chúng ta để chúng ta cầu nguyện cho Hội Thánh Chúa. Hội Thánh của Chúa với những con người được Chúa tuyển chọn, nhưng cũng có những yếu đuối, lầm lỗi, giới hạn, thiếu sót…để rồi qua đó chúng ta thấy tình thương của Chúa đối với Hội Thánh và cách riêng là với những người được chọn, và vì vậy chúng ta cần cảm thông và giúp đỡ Hội Thánh chu toàn nhiệm vụ Chúa trao phó.
Chúa chọn các tông đồ và liền sau đó bài học đầu tiên mà Chúa dạy các ngài là bài học yêu thương và phục vụ mọi người: “Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người” (Lc 6, 17 – 19). Mặt khác, mẹ thánh Têrêsa Calcútta cũng nói: “Hoa quả của đức tin là sự cầu nguyện, hoa quả của cầu nguyện là lòng mến. Hoa quả của lòng mến là sự phục vụ”. Các tông đồ của Chúa đã nằm lòng bài học đầu đời này, và các ngài đã thực hiện một cách hoàn hảo khi mà các ngài sống trọn vẹn cho Chúa và tha nhân, không do dự, tính toán trong việc phục vụ, cho đi tất cả những gì các ngài có trong công cuộc mở mang nước Chúa.
Trong mười hai vị tông đồ, có tên của thánh Simon và thánh Giuđa mà Hội Thánh mừng kính hôm nay. Thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ trước khi theo Chúa, các ngài là những con người có biệt danh là nhiệt thành, nồng nhiệt, đôi lúc trở thành quá khích, gây khó chịu cho những người khác, nhưng các ngài đã bỏ ý riêng khi đi theo làm tông đồ của Chúa, các ngài đã hết lòng chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và cuối cùng là chấp nhận cái chết tử đạo để trung thành với Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin được cùng với thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ hôm nay tạ ơn Chúa trong thánh lễ này, bởi vì tình thương mà Chúa đã chọn các ngài làm tông đồ mặc dù các ngài chẳng xứng đáng. Đồng thời qua thánh lễ đây, chúng con cũng cầu nguyện cho các Đức Giám mục là những người được Chúa chọn để kế vị các thánh tông đồ mà tiếp công việc của Chúa ở trần gian được đầy lòng yêu mến Chúa và nhiệt thành hăng say phục vụ đoàn chiên trao trao phó, chúng con cầu xin Chúa nâng đỡ các ngài, gìn giữ các ngài trong tình yêu, ân sủng, bình an của Chúa. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó". Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng. Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo. Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người. Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp. Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé. Ông có ước mơ mong mỏi gì không? Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây. Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19). Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời. “Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt. Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên, để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến. Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn. Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu. Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột. Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men. Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết. Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành. Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong. Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy. Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ. Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay. Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới. Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại. Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật, khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua, khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng, khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới. Kitô giáo có tương lai không?Kitô giáo có thể bị tàn lụi không? Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng. Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan. Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay, đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa. Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta. Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón. Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột, đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng. Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt? Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới. Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. ---------------------------------
Thật đời thường. Thật kỳ diệu. Nhưng cũng thật thâm sâu. Như hạt cải và nắm men Nước Trời khởi đầu thật bé nhỏ. Hạt cải li ti chẳng ai nhìn thấy. Nắm men nhỏ bé chẳng ai quan tâm. Hạt cải gieo xuống chìm sâu trong đất. Nắm men biến mất trong thúng bột khổng lồ. Tan biến đi. Nhưng không tàn lụi. Mà phát triển mạnh mẽ không ngờ. Cây cải mọc lên cao lớn. Chim chóc tìm đến trú ẩn. Cả thúng bột dậy men. Trở thành bánh thơm ngon cho người đời.
Có một biến đổi sâu xa. Nhỏ bé trở thành lớn lao. Yếu đuối trở thành mạnh mẽ. Có những đau xót âm thầm. Hạt cải vùi chôn và mục nát. Nắm men phân huỷ tan tành. Không còn là mình nữa.. Mất chính thân mình. Mất căn tính mình. Chẳng còn hiện diện. Không còn hạt cải. Không còn nắm men. Đem lại lợi ích lớn lao. Không cho mình nhưng cho tha nhân. Cho chim chóc đến trú ngụ. Cho người đời có bánh ăn.
Thư Rô-ma giải nghĩa hiện tượng chuyển hoá bằng thời kỳ người phụ nữ chuyển dạ. Cả thế giới đang chuyển dạ. Muôn vật đang rên siết đau đớn. Hạt cải và nắm men đang mục nát tan biến. Muôn loài phải trải qua kinh nghiệm hư vô. “Cho đến bây giờ, muôn loài htuj tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng”. Hạt cải Thần Khí đã gieo vào lòng ta. Đã gieo vào lòng thế giới. Để con người xác thịt tan biến đi. Để thế giới được Thần Khí hoá. Đau đớn lắm. Nhưng thánh Phao-lô xác quyết “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (năm lẻ). Qua đau khổ sẽ đến hạnh phúc. Qua tủi nhục sẽ hưởng vinh quang.
Từ bỏ chính mình vì người khác. Hạt cải tan biến để chim chóc có chỗ nương thân. Nắm men tan biến để con người có tấm bánh thơm ngon. Con người cũng phải sống mầu nhiệm Nước Trời. Huỷ mình vì người khác. “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Đó là mầu nhiệm tự huỷ mà Chúa Giê-su đã làm gương. Chúa Giê-su đã là hạt cải gieo vào lòng đất. Đã là nắm men vùi vào thúng bột thế giới. Chúa đã trở nên bé nhỏ. Đã tan biến đi. Trở thành cây cao bóng cả cho chúng ta trú ngụ. Trở thành tấm bánh thơm ngon nuôi sống chúng ta (năm chẵn).
Chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa. Hãy chịu rên siết đớn đau. Để sinh ra một thế giới mới. Để Nước Trời ngự trị. Đó là vinh quang ta hằng ngong ngóng đợi chờ.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta Suy niệm hai dụ ngôn về Nước Trời: hạt cải và nắm men. Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được. Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi. Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi: Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không? Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không? Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
Hôm nay Giáo Hội chúng ta được mời gọi Suy niệm các câu 18-21 của chương 13 Phúc Âm theo thánh Luca, kể lại hai dụ ngôn ngắn của Chúa Giêsu về Nước Trời giống như hạt cải và giống như men được trộn với bột. Cả hai dụ ngôn đều làm nổi bật điểm khởi đầu khiêm tốn nhỏ nhoi của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn về hạt cải nhấn mạnh đến sự phát triển theo chiều ngang, theo thể lượng từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây có cành lá to lớn đến nỗi chim trời có thể đến đậu vào được; và dụ ngôn thứ hai về chất men được đem trộn vào bột, nhấn mạnh đến chiều sâu, đến phẩm chất sâu xa của Nước Chúa từ chất men có thể làm dậy cả thúng bột.
Cả hai đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong dòng lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn cuối cùng sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn trên của Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi chúng ta phải đương đầu với những trở ngại, những thử thách trong đời sống đức tin, khi chúng ta nhìn thấy những điểm tiêu cực không ngừng xảy ra trong Giáo Hội, trong Nước Chúa.
Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới càng ngày càng bị trần tục hóa, càng ngày càng nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa hay không? Chất men lời Chúa có đủ sức mạnh thu hút con người và biến đổi con người trở nên tốt hơn hay không? Gần hai ngàn năm rồi, kể từ khi Con Thiên Chúa xuống thế thực hiện công việc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên thập giá và sống lại nhưng thử hỏi, nhân loại ngày hôm nay có tốt hơn ngày xưa không? Nếu suy luận theo cái lý tự nhiên, theo những toan tính phàm trần có thể chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào thất vọng. Nhưng lời dạy của Chúa Giêsu qua dụ ngôn trên không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng, chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ hoàn tất như thế nào nhưng hàng ngày chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân làm tất cả những điều mình có thể với ơn Chúa soi sáng.
Lạy Chúa,
Xin mở rộng đôi mắt niềm tin chúng con để chúng con được nhìn thấy những tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hàng ngày. Xin thương ban cho chúng con được kiên trì trong những thử thách và luôn luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.
Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc. 13, 19-21)
Sau khi nói về ngày nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu muốn dân chúng hiểu rằng triều đại nước Chúa không phải là tai biến lớn của vũ trụ như các ngôn sứ loan báo. Ngày phán xét như Người đã nói trên, nhưng bắt đầu triều đại Thiên Chúa thì giác quan không thể thấy được. Đức Giêsu chỉ giới thiệu nước Thiên Chúa bằng những hành động chữa lành các bệnh tật và giải thoát khỏi thần dữ. Đó là những dấu chỉ nước trời. Qua dấu chỉ đó cho ta biết triều đại Thiên Chúa chính là sự sống đời đời trong con người và trong Giáo hội. Sự sống lành mạnh, không còn bệnh tật, đau khổ, chết chóc, sự sống thánh thiện, không còn dấu vết của sự dữ, của quỷ thần xấu xa tội lỗi.
Phát triển của sự sống nước trời
Hạt cải đen sấp sỉ lớn bằng đầu mũi kim khâu, ở bờ hồ Giê-nê-sa-rét. Cây nó cao lớn từ hai mét năm mươi đến ba mét (8-9 bộ). Lúc đầu, nó nhỏ nhất, bé bỏng nhất, lớn lên thật đáng ngạc nhiên, nếu vườn được trồng cấy quang đãng và tưới bón kỹ.
Đời sống đời đời trong mỗi Kitô hữu như hạt cải nhỏ bé được lớn lên nhờ ánh sáng lời Chúa, sức nóng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa và nước hằng sống của Thánh Thần, như thế, nó có thể lớn lên tới mức cho “chim trời đến làm tổ trú ẩn”. Nghĩa là cho các nhân đức sinh sôi nảy nở, được chở che và nuôi sống.
Sự sống dậy men, lan rộng
Ban chiều, bà nội trợ lấy nắm men trộn vào ba mươi ký lô bột (ba đấu). Sáng hôm sau, tất cả khối bột đã dậy men và chuẩn bị đặt vào lò.
Hành động của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng thế: Không thể thấy, không thể cảm được, lời Đức Giêsu thông ban sự sống cho mọi người qua nắm tay của các môn đệ cũng không thể thấy, không thể cảm được. Những người đó đang phát triển theo quyền năng biến đổi của men hằng sống và truyền thông sức mạnh đó sang người khác. Và cứ thế lan rộng, không gì có thể ngăn cản khối người đang phát triển đó. Chính vì thế, nước Thiên Chúa tiếp tục lớn mạnh, nhưng chẳng trông thấy sức sống mạnh mẽ đó từ khi khởi đầu cho đến tận thế. Chỉ có người đã nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa nhờ đức tin, trong khiêm tốn và phó thác cho hành động của lời Chúa, mới có thể am tường được nước trời đã đến và ngày giờ đút lò sắp tới.
Xem thêm CN 11 TN B (Mc 4,26-34), thứ Sáu tuần 3 TN (Mt 13,31-32), Và thứ Hai tuần 17 TN
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế cũng đâu cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé Xin người chớ xem thường Trong em có chất liệu Của một bậc đế vương”.
Hay là:
“Hãy nhìn một đốm lửa Xin người chớ xem thường Dù nhỏ bằng đầu đũa Đốt cả rừng lẫn nương”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến sự lớn mạnh của Nước Trời qua dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Thật vậy, hạt cải của vùng Palestine là một loại hạt nhỏ bé nhất trong những loài thảo mộc, nhưng khi nó đã lớn, thân cây của chúng cao to, có thể là nơi chim trời về làm tổ trong những tán lá xum xuê. Còn khi nói Nước Trời như một nắm men, Đức Giêsu cho thấy Nước ấy cũng sẽ lớn mạnh như men làm cho bột dạy lên thế nào thì Đạo Thánh mà Ngài thiết lập cũng sẽ lan rộng như vậy.
Thật thế, ngày nay, nhìn ra thế giới, chúng ta nhận thấy rất rõ sự lớn mạnh này. Khởi đi từ một nhóm môn đệ ít ỏi và lại gặp biết bao thử thách từ trong trứng nước như: cấm cách, bắt bớ và giết chết bằng những hình thức hết sức tàn bạo, dã man... Tuy nhiên, càng thử thách bao nhiêu, càng phát triển bấy nhiêu, đôi khi có lúc âm thầm, nhưng như than hồng rực nóng hơn nhiều lần ngọn lửa thế nào thì Đạo của Chúa cũng mạnh mẽ và mãnh liệt như vậy. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam của chúng ta cũng chứng minh rất rõ điều đó!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết cậy dựa và đặt niềm tin nơi Chúa. Tin tưởng rằng mình chẳng là gì, rất bé nhỏ, nhưng một khi đã gắn kết với Chúa trong sự khiêm tốn thì chắc chắc Chúa sẽ dùng vào những chuyện lớn lao cho chương trình của Ngài. Ví dụ như Phêrô; Phaolô; Âu tinh...
Khiêm tốn chính là vũ khí để chống lại những kẻ kiêu ngạo đang ngang ngược chống phá Giáo Hội. Chúng ta vững tin, sẽ có ngày chỉ một nắm men nhỏ, chúng ta sẽ làm cho cả khối bột dạy men nhờ ơn Chúa.
Điều quan trọng là hạt cải phải mục nát đi, men phải được hòa tan trong bột thế nào thì đời sống của người Kitô hữu cũng phải như vậy, tức là đời sống đạo của chúng ta phải chan chứa tình Chúa, tình người, sống công bằng, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại... Có thế, chúng ta mới làm cho hạt cải của niềm tin sống động làm chỗ dựa cho người khác. Làm cho men yêu thương lan tỏa để nhiều người yêu mến Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và trung thành gắn bó với Chúa để can đảm ra đi làm chứng cho Chúa bằng khả năng nhỏ mọn đơn sơ nhưng chân thành. Xin Chúa đón nhận và làm cho đóng góp của chúng con được hữu hiệu trong tình yêu Chúa. Amen.
Sứ điệp: Nước Thiên Chúa hiện nay tuy nhỏ bé, nhưng vẫn không ngừng lớn lên và đang âm thầm biến đổi thế giới. Người Kitô hữu phải biết hy vọng và góp phần làm cho Tin Mừng ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hai nghìn năm đã qua từ ngày Chúa đến trần gian để thực hiện công việc cứu độ. Thế mà con thấy kết quả dường như quá nhỏ bé. Bất công hận thù vẫn còn đó, tội và đau khổ vẫn gia tăng. Dường như Nước Thiên Chúa đang bị thu hẹp, và Tin Mừng chưa biến đổi được thế giới. Đôi lúc lòng tin của con chẳng còn vững vàng.
Lời Chúa hôm nay đã khơi dậy trong con niềm hy vọng vào tương lai. Chúa đã mở mắt con để con nhận ra Nước Chúa vẫn đang tăng trưởng, dù âm thầm, nhưng rất mạnh mẽ. Lời Tin Mừng mà Chúa gieo vào trần gian, ban đầu còn hạn hẹp nơi nhóm Tông đồ, nhưng nay đã được công bố khắp nơi, hơn nữa đang thấm nhập vào đời sống con người và biến đổi thế giới. Tình yêu của Chúa, hoạt động cứu độ của Chúa, ban đầu chỉ là những việc nhỏ bé, nhưng nay đã ăn sâu trong lòng người và đang lớn dần trong xã hội.
Lạy Chúa, xin Chúa giữ lòng con luôn tin tưởng, xin đừng để con thất vọng và mất kiên nhẫn. Xin giúp con biết góp phần làm dậy men Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho con biết sống Tin Mừng hằng ngày. Con tin rằng những việc tốt con làm, dù chỉ là việc âm thầm nhỏ bé, nhưng sẽ lan rộng và biến đổi gia đình con và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Xin Chúa giúp con can đảm sống Tin Mừng. Dù Tin Mừng có bị người đời chê là bảo thủ, khe khắt, ngược đời, nhưng con tin rằng Tin Mừng sẽ là niềm hy vọng cho nhân loại. Muôn dân sẽ đến núp bóng và làm tổ trên cành cây của Nước Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to”.
Báo Tuổi trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú: Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống.
Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.
Suy niệm
Hai dụ ngôn ngắn gọn về hạt cải và men trong bột mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại nước Trời nơi tấm lòng của kiếp nhân sinh được Thiên Chúa cứu độ: Nếu có niềm tin nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho cuộc sống, niềm tin này giúp con người luôn vươn lên phát triển tâm hồn. Hạt giống đức tin có những khả năng không ngờ: Khi được gieo xuống đất, hạt giống bé tí xíu, bé nhất trong các loại hạt, nhưng khi nó mọc lên phát triển thành một cây to chim trời có thể làm tổ. Thật ra, tác nhân chính của sự việc, đó là Thiên Chúa. Chính Người làm nảy sinh điều bất ngờ. Cộng với niềm tin nhỏ bé được nuôi dưỡng, con người có men của lòng mến nước Trời, lòng mến sẽ biến đổi bột, kiếp nhân sinh một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những tấm bánh thơm ngon cho nhân gian và làm của lễ dâng lên cho Thiên Chúa.
Với sức mạnh của ân sủng đức tin và lòng mến lan tỏa sẽ biến cánh đồng nhân sinh thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng như trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ánh sáng đẩy lùi bóng tối: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
Với sự nhẫn nại của Đức Kitô và niềm tin của Ngài nơi con người, qua hai dụ ngôn đức tin hạt cải và lòng mến dậy men: “Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại” (Thánh Âugustinô). Tôi và bạn đừng lo nguyền rủa bóng tối, cỏ lùng trong đời, hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của niềm tin, niềm tin hạt cải, nến ánh sáng của tình yêu, bóng tối trong tôi bị đẩy lùi, cỏ lùng trong tôi bị tiêu hủy...
Đức tin lớn mạnh và đức mến dậy men sẽ diệt được bóng tối trong cuộc đời… Thật thế, nếu đức tin bằng hạt cải và mến như nắm men nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước Thiên Chúa cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả.
Ý lực sống
Dẫu lòng mến của con “nhỏ hơn” nắm men, đức tin con nhỏ như hạt cải, con cũng nguyện xin Chúa cho con can đảm sống tin và sống vì yêu thương.
Để dân chúng hiểu cách tổ chức và sinh hoạt trong Nước trời, Đức Giêsu thường dùng những dụ ngôn mà người ta quen gọi là “Dụ ngôn Nước trời”. Sự phát triển của Nước trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng được nảy mầm và lớn lên phi thường. Cũng vậy, như nắm men vùi vào ba đấu bột, nắm men có sức mạnh làm dậy tất cả đấu bột. Hạt cải và nắm men tuy nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước trời cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả như vậy.
Sự tăng trưởng của Nước trời
Chúa ví Nước trời như hạt cải. Cải là một thứ rau bên Thánh địa có nhiều. Hạt cải rất nhỏ. Để nói về sự bé nhỏ của vật gì, người ta thường ví: nó to bằng hạt cải! nghĩa là vật ấy nhỏ lắm. Đức Giêsu cũng có lần nói đến sự bé nhỏ của hạt cải: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải...”. Nhỏ bé thế mà gieo vào đất tốt, cây cải mọc cao lớn, cành lá xum xuê, chim trời đến đậu và có thể làm tổ được.
Hạt cải nhỏ bé thật nhưng có sức sống mãnh liệt bên trong, nhờ có sức sống bên trong, nó có thể mọc lên thành cây lớn. Hình ảnh cây cải ở Palestina chắc chắn khác cây rau cải ở Việt Nam, hạt cải thuộc lớp hạt rất nhỏ khi gieo xuống, nhưng khi mọc lên cây cải cao lớn, mà chim trời có thể đến nương náu dưới tán của nó được.
Đức Giêsu có ý nói: Nước trời ban đầu thật nhỏ bé trên dưới vài chục người với Đức Giêsu và các môn đệ quanh quẩn trong xứ Palestina nhỏ bé, nhưng trải qua lịch sử thăng trầm, đến bây giờ Hội thánh có trên một tỷ người có mặt khắp nơi trên thế giới. Chức năng của Nước trời, của Hội thánh, của Dân Chúa là phải lớn lên và trở thanh bóng mát cho đời, cho mọi người nương ẩn giữa bão táp mưa sa của cuộc đời.
Sự thấm nhập của nắm men
Dụ ngôn “Men trong bột” nói lên sức men thấm nhập toàn thúng bột, làm cho bột dậy men. Chúa không chú trọng đến số men dùng, mà chú trọng đến sức mạnh dậy men. Cũng như men pha vào bột làm cho nó dậy men có hương vị thì giáo lý Nước trời cũng sẽ thâm nhập vào thế giới làm cho nó sẽ trở nên tốt hơn và làm cho mọi người có khả năng nhận biết Tin mừng.
Tinh thần Bác ái Công giáo dạy chúng ta không nên khơi dậy sự tiêu diệt, sự trả thù mà hãy nghĩ đến việc hoán cải như thứ men nhỏ bỏ vào hũ bột. Tất cả bột sẽ dậy men. Như vậy, bổn phận người Kitô hữu là đem Tin mừng vào mọi cơ cấu gia đình và xã hội của mình, phải vận động để ảnh hưởng Tin mừng được thể hiện trong luật pháp, đoàn thể cũng như quốc gia và mọi sinh hoạt của xã hội.
Với dụ ngôn hạt cải và nắm men, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta đi vào cái nhìn của Thiên Chúa. Một hạt cải nhỏ bé trở thành một cây lớn đến độ chim trời có thể nương náu được, một ít men có thể làm dậy cả khối bột. Sức mạnh của cái nhỏ bé, sức toả lan của cái âm thanh, đó là sức mạnh của chính Giáo hội Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng, nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các Tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng, nhưng đó đã là sức mạnh nhào nặn Giáo hội từ 2000 năm qua (Mỗi ngày một tin vui).
Cả hai dụ ngôn hạt cải và nắm men đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa. Một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này Đức Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn, cuối cùng.
Truyện: Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá... Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi: “Thưa Chúa, vậy thế giới xong chưa ?” Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ: “Ta mệt rồi, Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: “Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của Ta”.
Có những điều mà chúng ta có thể làm và phải làm, Thiên Chúa không làm điều đó thay chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần việc của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
Chúng ta có nhiệm vụ truyền bá Nước Thiên Chúa cho người ta trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như không thuận tiện, cho những người muốn nghe cũng như cho những người không muốn nghe. Phần chúng ta cứ việc gieo Lời Chúa và để cho Lời Chúa âm thầm mọc lên.
Đây là 2 dụ ngôn mà các chuyên viên gọi là những dụ ngôn sinh đôi, nghĩa là cùng một ý nghĩa.
- Hai hình ảnh: hạt cải được gieo xuống vườn, nắm men được vùi vào thúng bột.
- Những chi tiết có ý nghĩa:
a/ Nhỏ trở thành lớn;
b/ quá trình phát triển tuy âm thầm nhưng chắc chắn.
Những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa này được Chúa Giêsu nói liền sau phép lạ chữa một phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-21) nên cũng có liên hệ với nhau: Hiện tại xem ra Nước Thiên Chúa còn quá nhỏ bé, nhưng vì nó có sức phát triển nội tại nên chắc chắn sau này nó sẽ lớn mạnh. Việc giải thoát một người con cháu Abraham hôm nay là dấu chỉ cho việc Nước Thiên Chúa sẽ giải phóng tất cả mọi người sau này.
B.... nẩy mầm.
1. “Chúng ta chỉ nghe cây rừng đổ ngã mà không nghe được tiếng thì thầm của những mầm non đang mọc lên. Chúng ta tính toán dựa trên những con số mà không thẩm định dựa trên phẩm chất (...) Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng. Nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Nhưng đó đã là sức mạnh nhào nắn Giáo Hội từ 2000 năm qua” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Tuy nhiên ta phải nhớ rằng hạt cải không tự động nẩy mầm, nắm men không tự động làm bột dậy lên. Muốn sinh hiệu quả, hạt cải phải được “gieo xuống” lòng đất và nắm men phải được “vùi vào” thúng bột.
3. 1 Cr 3,6: Phaolô nói “Tôi trồng. Apollo tưới. Nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên”.
4. “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được”. (Lc 13,19)
Có anh thanh niên nọ được sinh ra trong một gia đình giàu có, sung túc chẳng thiếu thứ gì, nhưng anh vẫn cảm thấy buồn và cuộc sống dường như tẻ nhạt. Một hôm anh ta bắt gặp ngay đoạn Tin Mừng: “Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, rửa chân cho Phêrô, Giuđa,... “ và anh đã đọc được Lời Chúa nhắc bảo: “Các con hãy rửa chân cho nhau”. Chính hình ảnh ấy và câu nói đó đã thôi thúc anh ra đi phục vụ cho người khác. Anh xin tới những vùng xa xôi, những trại tỵ nạn để phục vụ. và chính lúc phục vụ anh đã tìm thấy niềm vui và cản thấy đời đáng sống hơn. Cuối cùng anh ta đã xin gia nhập đạo.
Lạy Chúa Giêsu, một khi con được Chúa cho thấm nhuần đời sống Tin Mừng thì con sẽ làm được những chuyện phi thường. Nguyện xin Chúa cho con biết đón nhận và sống lời Chúa. (Hosanna).
Với hai dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu muốn nói đến sự phát triển của Nước Trời.
1. “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.” (Lc 13,19)
Tại một nghĩa trang bên Đức, có một ngôi mộ rất được chú ý đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới được xây bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có nhưng không tin có Chúa cũng chẳng tin có sự sống lại. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mồ.
Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố, thế nhưng một hôm, tình cờ có một hạt giống từ một con chim bay trên trời rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây và rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng, làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Hạt cải cũng tương tự như hạt giống kể trên. Nó thật nhó bé nhưng có một sức sống mãnh liệt bên trong. Khi ví Nước Trời như hạt cải vô nghĩa kia, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sức sống bên trong của nó. Nhờ có sứ sống bên trong mà nó có thể trở thành một cây lớn, đến độ chim trời có thể đến ẩn náu dưới bóng nó được.
Nhìn vào con số ít ỏi những tín hữu ngày hôm nay trên thế giới (thí dụ tại Châu Á mới chỉ có chừng 2,8%) nhiều khi chúng ta thấy thất vọng. Chúng ta thất vọng vì chúng ta thường tính toán dựa trên những số lượng mà không để ý đến phẩm chất. Ngày xưa, lúc khởi đầu cũng như thế nên Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng. Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa.
Các tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Các ngài đã làm xong công việc của mình. Ngày nay trong Giáo Hội, Thiên Chúa cũng đang dùng những tâm hồn bé nhỏ, những nhóm Kitô hữu nhỏ làm hạt giống. Họ là những tâm hồn khiêm tốn nhưng siêng năng cầu nguyện; họ là những nhóm nhỏ trong giáo xứ đang cùng nhau học hỏi và sống Lời Chúa. Và chuyện quan trọng ở đây không phải nhỏ hay lớn, mà là sức sống. Sức sống ấy chính là Chúa Giêsu sống trong Giáo Hội: “Thầy sẽ ở với chúng con cho đến tận thế” (Mt 28,20).
2. Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc 13,21)
Dụ ngôn “Men Trong Bột” nói lên sức men thấm nhập toàn thúng bột, làm cho bột dậy men. Chúa không chú trọng đến số men dùng, mà chú trọng đến sức mạnh dậy men. Cũng như men pha vào bột làm cho nó dậy men có hương vị thì giáo lý của Nước Trời cũng sẽ thấm nhập vào thế giới làm cho nó sẽ trở nên tốt hơn và làm cho mọi người có khả năng nhận biết Tin Mừng. Tinh thần bác ái Công giáo dạy chúng ta không nên khơi dậy sự tiêu diệt, sự trả thù mà hãy nghĩ đến việc hoán cải như thứ men nhỏ bỏ vào hũ bột. Tất cả bột sẽ dậy men. Như vậy, bổn phận của người Kitô hữu là đem Tin Mừng vào mọi cơ cấu gia đình và xã hội của mình, phải vận động để tinh thần Tin Mừng thể hiện được trong luật pháp, đoàn thể cũng như quốc gia và mọi sinh hoạt của xã hội.
Ernest Gordon cô viết cuốn sách nhan đề “Ngang qua thung lũng sông Wai”, trong đó ông mô tả những chuyện có thật xảy ra tại trại tù binh Nhật dọc bờ sông Wai trong thế chiến thứ hai. Tại đây 12 ngàn tù binh chết vì bệnh tật, vì bị đối xử tàn nhẫn trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Họ làm việc cực nhọc dưới nắng nóng gần 50 độ, đầu trần, chân đất, quần áo tả tơi!..
Nhưng điều đau khổ nhất không phải do lao động mà do họ cư xử xấu với nhau. Họ chỉ điểm nhau, trộm cắp của nhau, đánh đập chửi mắng nhau như cơm bữa!...
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức học hỏi Kinh Thánh với các tù nhân khác. Nhờ đó, họ khám phá Chúa Giêsu đang sống giữa họ, thông cảm với họ, vì Người đã từng chịu đói khát, phản bội, đòn vọt đến chết và chết treo trên khổ giá. Từ đó họ không còn chỉ điểm nhau, thù ghét nhau. Họ hoán cải rõ rệt và bắt đầu cầu nguyện cho nhau. Cả trại biến đổi lạ thường. Không còn tiếng than van oán trách mà chỉ còn lời ca tiếng hát vui vẻ, mặc dầu vẫn phải lao lực cực khổ hằng ngày.
Mỗi người trong chúng ta từ xa xưa, chúng ta là loài hư vô, tro bụi. Chúng ta được sinh vào đời với tình yêu và quyền năng của Chúa, để rồi chúng ta mới đầu chỉ là một hạt cải quá bé nhỏ, không một ai để ý tới, nó chẳng mang ích lợi gì cho đời. Thế nhưng, với sự khôn ngoan của Chúa, khi Chúa đã quyết gieo chúng ta vào thế giới vô thường đổi thay, chóng qua này và với các nguồn ơn thánh Chúa ban để rồi qua đó chúng ta lớn lên từng ngày tháng, thành một cây cải, có ích cho xã hội, cho Giáo Hội và cho Chúa.
Chúng ta có ích cho xã hội khi chúng ta sống ở đâu, chúng ta là niềm vui, là bình an, là hạnh phúc cho anh chị em của chúng ta. Chúng ta có ích cho Giáo Hội khi chúng ta đóng góp cả tinh thần lẫn vật chất để xây dựng Giáo Hội. Chúng ta có ích cho Chúa khi chúng ta là chứng nhân cho Chúa, rao truyền Chúa cho mọi người, mở mang nước Chúa lan rộng tới mọi nước, mọi dân, mọi tâm hồn, để cho nước Chúa được ngày càng lớn mạnh. Nhất là qua đời sống giữ đạo, các việc lành phúc đức chúng ta làm, các việc từ thiện bác ái chúng ta phục vụ anh chị em của chúng ta, người khác thấy Chúa trong cuộc đời của chúng ta, thấy chúng ta được ở trong nước Chúa để họ được ơn trở về với Chúa và ở trong nước Chúa như chúng ta.
Đàng khác, Chúa cũng nói khi chúng ta sinh vào đời, chúng ta là men cho cuộc sống, nơi môi trường chúng ta đang cùng nhau sinh hoạt, làm việc… Trần gian này được ví như ba đấu bột của Chúa. Đành rằng khi Chúa đến trần gian, một mình Chúa, Chúa có thể là muối ướp cả trần gian, Chúa là men để vực dậy thế giới tối tăm, ngụp lặn trong tội lỗi này qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Chúa. Chúa có thể làm một mình, Chúa không cần chúng ta giúp đỡ Chúa. Thế nhưng, Chúa lại thương chúng ta, cho chúng ta cộng tác với Chúa để chúng ta tạo công phúc, tạo nghiệp cho chính bản thân của riêng mình mai sau. Vì thế, Chúa cần mỗi chúng ta là men trong cuộc sống này để giúp anh chị em chúng ta nhận biết Chúa, trở về với Chúa khi chúng ta sống giữa họ và với họ. Chúng ta là men khi mà nơi nào có hận thù, chúng ta phải sống yêu thương, nơi nào có lăng nhục, chúng ta hãy sống tha thứ, nơi nào có tranh chấp, chúng ta đem lại an hòa, nơi nào tối tăm lầm lạc, chúng ta đem Chúa là chân lý đến, nơi nào có nghi nan ngờ vực, chúng ta đem niềm tin đến, nơi nào có thất vọng, buông xuôi, chúng ta mang sự cậy trông đến, nơi nào âm u sự chết, chúng ta mang ánh sáng Chúa đến, nơi nào sầu não buồn phiền, chúng ta mang niềm vui của Chúa đến, nơi nào thiếu thốn, cơ hàn, chúng ta hãy chia sẻ và cho đi….Chúng là là men của Chúa khi chúng ta thực hiện tốt những điều mà lời kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô đã nói đến ở trên, để rồi chúng ta cộng tác với Giáo Hội của Chúa, rao giảng Tin Mừng, đem tình yêu của Chúa đến với muôn người, mở mang nước Chúa, đẩy lùi những tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, tham sân si, tội lỗi, giúp nước Chúa phát triển, lớn mạnh ngay tại trần gian này,
Lạy Chúa, chúng con là con cái của Chúa, được ở trong Giáo Hội của Chúa, chúng con nghe theo lời Chúa dạy bảo, chúng con làm các việc lành phúc đức trong cuộc sống để nhờ đó mà chúng con trưởng thành hơn trong đời sống đức tin và cũng qua đó, chúng con làm sáng danh Chúa, cao rao Chúa cho mọi người trên dương thế, để họ trở thành con ngoan của Chúavà họ cũng trở thành men, thành muối, hạt cải của Chúa và Chúa sẽ cho hạnh phúc sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 30 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng xứng đáng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khôn Ngoan cho thấy: Người công chính rực sáng như tia lửa bén nhanh. Sự sống đích thực là sự sống muôn đời, mà linh hồn người công chính sẽ được hưởng, sau này, Chúa Kitô sẽ dạy chúng ta rằng cả thân xác nữa. Chân lý này chiếu một luồng ánh sáng chói lòa lên tất cả mọi vấn đề do thân phận con người đặt ra. Mọi nỗi bất hạnh của con người sẽ tìm thấy ở đây lời giải thích cũng như cách giải quyết. Chúa đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng. Vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn. Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, chúng ta sẽ không bị thiệt bao giờ, bởi vì, Chúa luôn trung thành với những gì Người đã hứa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Cơlêmentê I nói: Chúng ta hãy hết lòng gắn bó với Người là Đấng trung thành trong các lời Người hứa và công minh trong các phán quyết của Người. Người đã cấm nói dối thì chính Người lại càng không nói dối… Lạy Chúa, Chúa là Vua toàn năng, Chúa nắm quyền điều khiển vũ trụ. Khi Chúa muốn, nào ai đương đầu nổi với Ngài. Vì danh Chúa, xin giải thoát chúng con. Chính Ngài đã tạo dựng trời đất, và thực hiện mọi kỳ công dưới bầu trời.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, Chúa sẽ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta và chúng ta sẽ luôn được bình an, hạnh phúc, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 127, vịnh gia cho thấy: Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Hạt cải lớn lên và trở thành cây. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ, như nắm men âm thầm, không ai nhìn thấy, nhưng, khi lớn lên thành cây và cả khối bột đều dậy men, thì mọi người mới ngỡ ngàng kinh ngạc. Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, thực hành từng chút một, mặc dù, chúng ta không thấy có gì thay đổi cả, nhưng, sau một thời gian, chắc chắn, chúng ta sẽ nhận được một kết quả không thể ngờ tới. Cứ tin tưởng, cậy trông vào Chúa, cho dẫu, ngay lúc hiện tại, chúng ta có thiệt thòi mất mát, nhưng, giao ước đã lập ra muôn đời Chúa nhớ mãi, Chúa luôn thành tín với những gì Người đã hứa. Không có gì Thiên Chúa không làm được, ngoại trừ, việc nói dối. Vì thế, chúng ta hãy khơi dậy niềm tin vào Người, và hãy ý thức rằng: mọi sự luôn ở trong tầm tay của Chúa. Người sẽ làm mọi sự, khi Người muốn, và theo cách Người muốn. Mọi sự đều ở trước nhan Người và không gì ẩn khuất trước ý định của Người. Chúng ta hãy đến cùng Người với tâm hồn thánh thiện: yêu mến Người là Cha nhân từ và hay thương xót chúng ta, Đấng đã tuyển chọn chúng ta cho chính Người. Ước gì chúng ta biết hết lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp. Cửa hẹp khi thi vào đại học. Cửa hẹp khi đi xin việc làm. Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới. Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp. Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều. Cửa hẹp mà vào được mới quý. Nếu thiên đàng có cửa, thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi. “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14). Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình, nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham vọng. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em. Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại. Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4). Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp. Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa và đòi vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy. Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến!” Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm... Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa. Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại. Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận. Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên: “Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.” Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa. Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.Amen
Cửa vào thiên đàng rất hẹp. Có lần Chúa nói nó còn hẹp như lỗ kim. Muốn qua phải trở nên bé nhỏ. Làm thế nào để trở nên bé nhỏ? Có những người đã “từng được ăn uống trước mặt” Chúa, và Chúa “cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của” họ. Nhưng thật lạ lùng khi Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu tới. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chúa không biết họ từ đâu tới. Vì họ không xuất phát từ Chúa. Họ làm điều bất chính. Vì họ làm theo ý riêng. Vì thế cần từ bỏ tất cả. Từ bỏ chính mình. Để xuất phát từ Chúa. Làm theo ý Chúa. Sẽ đến với Chúa. Đó là tấm gương của tổ phụ Áp-ra-ham. Hoàn toàn từ bỏ chính mình. Nên ông trở thành gương mẫu của những ai muốn vào qua cửa hẹp. Khi đã từ bỏ chính mình. Cửa lại trở thành rất rộng. Vì bất cứ ai từ đông, tây, nam, bắc, làm theo ý Chúa đều được đón nhận.
Điều này không dễ. Thư Rô-ma dạy ta phải xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần cầu nguyện cho ta. Thánh Thần giúp ta từ bỏ ý riêng để làm đúng ý Chúa. Như Chúa Giê-su. Một đời dương thế sống theo Thánh Thần. Hoàn toàn từ bỏ ý riêng. Luôn vâng phục ý Cha. Nên đã trở thành anh cả của chúng ta. Người đã trở nên bé nhỏ. Đã mở cửa trời. Đi theo Người ta đi trong thánh ý Chúa. Mà “những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (năm lẻ).
Vậy thì không cần phải làm những việc lớn lao. Không cần phải đi xa xôi để tìm cửa thiên đàng. Ở đâu ta từ bỏ ý riêng. Ở đó là cửa thiên đàng. Ở đâu ta làm theo ý Chúa. Ở đó có Nước Trời. Ở bậc nào sống cho tốt ở bậc ấy. “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo….Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”…. “Kẻ làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ…Ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em. Người ngự trên trời và không thiên vị ai” (năm chẵn).
Chỉ khi từ bỏ chính mình. Để Chúa ngự trị. Làm theo ý Chúa. Như Chúa hướng dẫn. Ta mới trở nên bé nhỏ. Mới vào qua cửa hẹp.
Câu hỏi mà một người vô danh đặt ra cho Chúa Giêsu đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đó cũng là câu hỏi thông thường nơi các trường phái của các vị thông luật thời Chúa Giêsu, và là câu hỏi như muốn giới hạn số lượng những người vào Nước Chúa: "Thưa Thầy, phải chăng ít người được cứu thoát?" Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không nhằm đến số lượng nhưng là hướng tới một bình diện khác, tức là phẩm chất của những kẻ muốn vào Nước Chúa: họ phải qua cửa hẹp và cố gắng vào đúng lúc, khi còn thời giờ thuận tiện, đừng cậy dựa vào những liên hệ hời hợt bên ngoài với Chúa. Ơn cứu rỗi được Thiên Chúa trao ban cho mọi người: những kẻ trong dân Chúa chọn và cả những kẻ ở ngoài, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để dẹp bỏ mọi hàng rào ngăn cách, thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa.
Ðặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi không được hiểu theo phạm trù số lượng, nghĩa là không phải mọi người tự động đều được cứu rỗi. Sự cộng tác từ phía con người là điều cần thiết. "Hãy vào qua cửa hẹp", hẹp, vì nó đòi con người phải từ bỏ nhiều. Hình ảnh cậu bé Charlie trong phim hoạt hình, đứng trước cửa, ôm trên người rất nhiều thứ; cậu muốn bước ra ngoài chơi với bạn bè, nhưng lại không muốn bỏ những thứ đang chồng chất trên người mình; cậu bé bực tức nói lớn: "Làm sao tôi có thể bước qua cửa này được?". Nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng có thể hành xử như vậy: vừa muốn vào Nước Chúa, vừa muốn giữ lấy mọi thứ không phù hợp với Nước Chúa; muốn vào Nước Chúa, nhưng lại không thực hành giáo huấn của Ngài, không canh tân đời sống của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Xin cho chúng ta biết từ bỏ những gì không cần thiết, nhất là những gì mất lòng Chúa, để chúng ta có thể bước qua cửa hẹp trở về Nhà Chúa.
Chính phủ Nam Phi mới đây đã quyết định cho đúc bức tượng cao ba mươi tầng lầu của nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền là cựu tổng thống Nelson Mandela. Theo dự trù, tượng đài kỷ niệm ông Mandela sẽ cao một trăm mười thước và được đặt tại hải cảng Elisabeth để cho những du khách tới Nam Phi qua đường biển phía đông chiêm ngưỡng người lãnh tụ khả kính này.
Song song với dự án bức tượng này, chính phủ Nam Phi sẽ làm một con đường đi bộ dài khoảng sáu trăm thước dẫn tới tượng đài. Con đường đi bộ này được đặt tên như trong bảng tóm lược đọc lên khi ông Nelson Mandela nhận giải Nobel Hòa Bình như sau: "Con đường dẫn đến tự do". Ông Nelson Mandela được trả tự do sau hai mươi bảy năm bị chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi cầm tù. Ông đã được bầu là tổng thống Nam Phi năm 1994.
Con đường dẫn đến tự do cho cá nhân ông Nelson Mandela, cho dân tộc Nam Phi cũng như cho cả thế giới là một con đường dài đến hai mươi bảy năm, qua đó ông đã trải qua không biết bao nhiêu gian khổ trong chốn tù đày. Con đường dẫn đến tự do nào cũng là con đường hẹp, đầy chông gai. Qua hình ảnh con đường của nhà đấu tranh Nelson Mandela chúng ta hiểu được con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa thánh Luca lại đặt Chúa Giêsu trong tư thế lên đường tiến về Giêrusalem. Với cái nhìn của vị thánh sử này cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc hành trình về Giêrusalem mà điểm đến cuối cùng là Núi Sọ và vinh quang phục sinh.
Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng Tin Mừng ngoài đường, cuối cùng cũng chết ngoài đường. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc lên đường và ra đi không ngừng. Ngài kêu gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài lên đường và ra đi như thế: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ta". Trong lệnh lên đường ban bố cho các môn đệ, Ngài nói rõ với các môn đệ: "không mang theo giày dép, bao bị, túi tiền, vào nhà nào người ta cho ăn thứ nào hãy ăn thứ đó, ai không đón tiếp thì đi ra".
Tóm lại, ra đi và lên đường là tư thế đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Mệnh lệnh ấy ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị cho tất cả những ai muốn làm môn đệ để đi theo Chúa Giêsu. Sống đức tin là không ngừng ra đi và lên đường. Ra đi và lên đường không chỉ có nghĩa là rời bỏ một nơi này để đến một nơi khác. Cuộc ra đi và lên đường cam go nhất đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu nhất hẳn phải là ra đi và lên đường khỏi con người cũ của tội lỗi. Trước khi lên đường về nhà Cha, người con hoang đàng đã phải phấn đấu mãnh liệt để ra khỏi bản thân và đứng dậy lên đường. Ðây chính là cuộc ra đi và lên đường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước vào, đây chính là cánh cửa hẹp mà Ngài mở ra cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria
Ðấng đã vội vã lên đường để đến với người chị họ Elisabeth luôn đồng hành với chúng ta, Mẹ giúp chúng ta biết nhìn về phía trước và tiến bước trong hân hoan, tin tưởng và cậy trông.
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài những kẻ được cứu thoát thì ít có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc. 13, 23-24)
Đức Giêsu lên đường về Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Nhiều lần Đức Giêsu nói Giê-ru-sa-lem là thành nơi các ngôn sứ bị kết án chết. Lời kêu gọi của Đức Giêsu càng ngày càng khẩn cấp. Thời giờ gần hết, phải lo cải thiện kẻo quá trễ.
Kẻ không được vào
Trong dân Ít-ra-en, người ta tranh luận nhiều về ơn cứu độ, một số kẻ cho rằng tất cả con cái Ít-ra-en đều được cứu độ. Số khác nói chỉ có những kẻ còn sót lại thôi. Khi nghe Đức Giêsu nói về nước trời đã đến, người ta hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?”. Người không đáp thẳng. Người nhấn mạnh mọi người phải cố gắng để vào vì cửa nước trời rất hẹp, những kẻ kiêu ngạo bành trướng, những kẻ tham lam, nông nổi chạy theo những tham vọng xác thịt không thể vào được nước trời. Chỉ có những kẻ bé mọn, những kẻ kiềm chế được dục vọng xác thịt, mới có thể ép mình lại chui qua cửa hẹp để vào được dự tiệc thiên quốc.
Xã hội chúng ta chỉ thích tìm an nhàn thoải mái, sung sướng thỏa mãn và tiêu xài phung phá của cải trái đất, không nghĩ gì đến tương lai. Mọi người đều phì nộn cả thể xác lẫn tinh thần vì đã thỏa mãn những ham muốn thì những lớp mỡ béo bọc lấp con tim không còn chỗ cho lời Chúa thấm nhập nữa.
Trương phình do quá đầy đủ
Ngoài ra, đến lúc người ta không ngờ, cửa đóng lại và không ai có thể vào được nữa. Những kẻ đứng ngoài dù nói ngon ngọt hay lắm: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài và Ngài cũng từng giảng dạy trong những đường phố của chúng tôi. Chúng tôi còn là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham, thuộc gia đình thừa hưởng lời Chúa”. Chúng thích hiểu biết và giữ lề luật Chúa, nhưng không có con tim, tấm lòng mộ mến sống lề luật, nên tất cả những kẻ đó đều bị loại ra ngoài. “Tất cả các ngươi đều làm điều bất chính”.
Để thuộc về dân Thiên Chúa thật phải đón tiếp Đức Giêsu. Chính đức tin vào Đức Giêsu làm cho họ nhỏ bé, gầy gò đi để có thể vào cửa hẹp trước khi cửa đóng lại. Như vậy, con cháu của các tổ phụ là khách được mời trước nhất, lại tự thấy mình bị loại, trong khi lương dân đến sau đã sống theo lời Chúa, nên đã được nhận vào nước trời.
Một gia đình nọ có hai người con trai. Cha của hai anh em là một người nông dân bình thường. Mẹ là người nội trợ. Nói chung gia đình nghèo, cộng thêm chuyện ông bố lại thường xuyên đau bệnh. Hai anh em bàn tính với nhau, người anh nói với người em rằng: “Em ở nhà chăm sóc cha mẹ, anh đi kiếm tiền thật nhiều để về giúp mẹ cha tuổi già và lo thuốc thang cho cha”. Người em hỏi: “Anh định kiếm tiền bằng cách nào?” Anh trả lời: “Anh sẽ đi tham gia băng cướp, chỉ có cách này là nhanh có tiền để lo cho cha mẹ...”. Và cuối cùng thì người anh đã quyết định hành nghề đâm thuê, chém mướn. Lúc ban đầu tiền bạc đến với anh quá nhiều, đến nỗi không những có tiền lo cho gia đình, anh ta còn nổi tiếng về cách ném tiền qua cửa sổ nơi những cuộc ăn chơi trác táng, thâu đêm suốt sáng... Tuy nhiên, chẳng bao lâu, anh ta đã bị căn bệnh thế kỷ Sida và đã chết khi tuổi đời còn khá trẻ.
Câu chuyện trên đây chỉ là ngụ ngôn nhằm dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay để hiểu được giáo huấn của Đức Giêsu rằng: con đường hẹp là con đường dẫn đến sự sống. Còn con đường thênh thang là con đường dẫn đến diệt vong. Muốn có được sự sống đời đời, con người phải cộng góp vào hành trình tìm kiếm đó bằng những sự hy sinh, và đôi khi cả cái chết hữu hạn để đổi lấy sự sống đời đời. Trên hành trình tìm kiếm đó, thánh Phaolô đã ví mình như một vận động viên chạy đua. Phải dày công tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ... Vòng hoa chiến thắng chỉ được trao cho những ai đạt được thành tích xuất sắc sau những vất vả mà thôi.
Thật vậy, con đường theo Chúa của mỗi chúng ta sẽ gặp đầy thử thách chông gai. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường lên Golgotha. Con đường của thập giá. Nhưng nếu muốn được hạnh phúc thật thì hẳn chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung thành theo Chúa trên con đường thập giá. Con đường của yêu thương, phục vụ. Con đường đi đến với những người ốm đau, bệnh tật, những người nghèo... Con đường hy sinh của thập giá. Con đường đó là con đường hẹp. Con đường của tự hủy, hy sinh, từ bỏ chính mình để xây dựng hạnh phúc của tha nhân.
Đây là con đường khó và chẳng mấy ai đi! Tuy nhiên, nếu chúng ta trung thành đi trên con đường đó với tình yêu được lồng vào ngang qua hành động, cử chỉ của chúng ta, ắt chúng ta sẽ bình an và sẽ được phục sinh. Nếu không đi theo con đường đó, ngược lại, chúng ta cứ mải mê trong vũng lầy êm ái của tội, của thực dụng, của danh vọng, của quyền hành, thì đến ngày chung cuộc, chúng ta sẽ bị loại ra ngoài, nơi đó sẽ phải khóc lóc và nghiếm răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm đi theo Chúa trên con đường hẹp, để được sống đời đời. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha chung đã mời gọi muôn dân từ khắp bốn phương trời đến dự Bàn Tiệc Nước Thiên Chúa. Điều kiện để vào dự tiệc không phải là nại đến thân thế của mình, nhưng phải biết chiến đấu đi qua cửa hẹp mà vào.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những lời Chúa cảnh cáo người Do thái ngày xưa có thể là những lời cảnh giác cho chính con hôm nay. Con mang danh là một Kitô hữu, nhưng con đã làm gì để xứng đáng được tham dự vào Bàn Tiệc Nước Trời ? Có phần nào con giống người Do thái cứng lòng ngày xưa, khi con lãnh nhận các bí tích một cách máy móc, lười biếng, hay giữ đạo một cách hình thức, và tưởng rằng như thế là đủ cho con được ơn cứu rỗi. Con quên rằng Chúa luôn nhìn thấu suốt mọi tâm hồn và mời gọi con đóng góp những cố gắng hy sinh của chính mình. Chúa mời gọi chiến đấu để đi qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. Bởi vì Chúa đã khẳng định: “Không phải bất cứ ai nói: lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời đâu”. Vâng, lạy Chúa, cửa hẹp chính là con đường thập giá mà Chúa đã đi qua. Đi vào cửa hẹp là dấn thân từ bỏ chính mình, là biết hy sinh cho tha nhân, là vui lòng thực thi Thánh Ý Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết xác tín vào chân lý đó, để mỗi bước chân con đi trên con đường thánh giá, sẽ dẫn đưa con đến Bàn Tiệc Nước Chúa. Xin cho con trong suốt cuộc hành trình tiến về Quê Trời, sẽ không chọn cho mình những con đường rộng thênh thang của những khát vọng đam mê tội lỗi, nhưng xin cho con dám can đảm đi vào con đường hẹp, con đường dẫn đến núi Sọ, để rồi từ đó mở ra cho con Bàn Tiệc Phục sinh vinh quang. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa”.
1. Người Do thái hay quan tâm đến số lượng những người được cứu. Vì thế có một người hỏi Ngài rằng:”Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, có phải không”? Đức Giêsu thấy trước cái nguy của câu trả lời : nếu nói mọi người đều được cứu thì thái độ của họ sẽ là ỷ lại; còn nếu chỉ một số nhỏ được cứu thoát thì họ sẽ chán nản vì có cố gắng cũng uổng công. Nên Ngài không nói về số lượng mà chỉ nói đấn cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải “đi qua cửa hẹp”, nghĩa là phải cố gắng, phải chiến đấu.
Như thế, để chiếm được Nước Trời , để được cứu rỗi, chúng ta phải chiến đấu với bản thân, phải từ bỏ và phải chết đi cho những dục vọng, những thói xấu trong chúng ta.
2. Theo quy luật của cuộc sống, chẳng có gì đạt được mà không có nỗ lực cố gắng. Muốn giỏi thì phải học chứ không tự nhiên mà thi đậu, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi chứ không phải bỏ ruộng hoang để chờ có lúa gặt. Của cải không từ trên trời rơi xuống, tri thức cũng không tự nó toàn tri, hạnh phúc không tự có nếu không vun đắp xây dựng... Cũng thế, Nước Trời đã được Thiên Chúa dọn sẵn và dành cho bất cứ ai, nhưng không phải tự nhiên mà đạt tới, mà phải trải qua những gian truân khổ ải và hy sinh thì mới mong đạt tới.
3. Dựa trên tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng: ”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài, sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: ”Ta không biết các người từ đâu đến” (Lc 13,27).
4. Đức Giêsu kêu gọi: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ta”. Chúa ban bố lệnh lên đường cho những ai theo Ngài. Ra đi và lên đường, đó là tư thế đích thực của người môn đệ Đức Giêsu. Mệnh lệnh ấy ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị cho tất cả những ai muốn làm môn đệ để đi theo Đức Giêsu. Sống đức tin là không ngừng ra đi và lên đường. Ra đi và lên đường không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này để đến một nơi khác. Cuộc ra đi và lên đường cam go nhất đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu nhất hẳn phải là ra đi và lên đường khỏi con người cũ của tội lỗi. Trước khi lên đường về nhà Cha, người con hoang đàng đã phải phấn đấu mãnh liệt để ra khỏi bản thân và đứng dậy lên đường. Đây chính là cuộc ra đi và lên đường mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước vào, đây chính là cánh cửa hẹp mà Ngài mở ra cho chúng ta (R.Veritas).
5. Người Ai-len kể câu chuyện vào thiên đàng như sau: Một người đến trước cửa thiên đàng và xin thánh Phêrô cho mình vào. Ngài trả lời: ”Đương nhiên là được, chỉ cần con chỉ cho ta các vết sẹo của con”. Người ấy trả lời: ”Con không có vết sẹo nào”. Thánh nhân nói: ”Thật đáng tiếc vì chẳng có gì đáng cho con phải chiến đấu sao”? Đức Giêsu xác quyết với ta: Đường về Nước Trời là con đường Thập giá, vào cửa sự sống là đi qua cửa hẹp, phải chiến đấu “trầy da tróc vẩy” mới vào được. Những vết sẹo trong hành trình nỗ lực đấu tranh của ta với bản thân ươn lười, với mưu mô ma quỉ tinh vi, với môi trường xã hội nặng tính trần tục, nhất là xã hội đề cao tiện nghi, hưởng thụ cách ích kỷ như hiện nay (5 phút Lời Chúa).
6. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại :
- Nước chảy đá mòn,
- Kiến tha lâu đầy tổ,
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thì trên phương diện thiêng liêng cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta...hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng thế, nếu ở đời:”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !
7. Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da Đỏ ở Mỹ châu họ có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định...
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chằm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
1. c.23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.
2. c.24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh “đi qua cửa hẹp”.
- “Đi qua”: Động từ “qua” diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết “đi qua” (thay đồi cách sống) thì mới vào nhà được.
- “Cửa hẹp” diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19,24, Mc 10,25, Lc 18,25).
B.... nẩy mầm.
1. “Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (...) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Chịu ảnh hưởng của nền văn minh hưởng thụ, người thời nay có khuynh hướng làm cho mọi việc thành thoải mái dễ chịu, kể cả việc sống đạo. Thí dụ: trong nhà thờ ghế phải rộng và êm, phải có quạt máy, cha phải giảng ngắn... Những lời nhắc nhở của ĐGH về hôn nhân bất khả li, về luật cấm phá thai, về độc thân Linh mục v.v. bị coi là chói tai nên không được đáp ứng v.v. Cách sống đạo như thế không phải là đi qua cửa hẹp. Thánh Phaolô đã so sánh cuộc sống tín hữu như một cuộc chạy đua: để đạt huy chương, người lực sĩ nào cũng phải dày công khổ luyện.
3. Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào...” (Lc 13,24)
Đậu tốt nghiệp hạng ưu, thằng nhóc nó vui mừng hớn hở về báo tin cho tôi. Tôi đã đọc được niềm vui trong lòng nó, tôi tự nhủ rằng: “Cậu tú nhà tôi đậu được thủ khoa cũng đáng”, bao công lao thức khuya dậy sớm “dùi mài kinh sử” nó còn phải giã từ cả sân cỏ: không đá banh, không patin, cũng không bén mảng đến hồ bơi, nó bỏ hết những cuộc chơi.
Từ đó tôi nghiệm ra rằng thành đạt là kết quả của những cố gắng lâu dài mà con đường dẫn đến không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh và phấn đấu. Con đường tiến về quê trời cũng vậy, đòi hỏi tôi lực chọn đi qua cửa hẹp. Đó chính là điều Chúa Giêsu mời gọi hôm nay, như chính Ngài đã lựa chọn con đường của thập giá.
Lạy Chúa! Mỗi ngày trong cuộc sống của con, xin cho biết chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. (Hosanna).
Câu hỏi mà một người nào đó đặt ra cho Chúa Giêsu hôm nay, phản ánh mối quan tâm rất lớn của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản thất vọng, không chịu cố gắng.
Theo thánh Luca, Chúa đã không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng, Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu, đó là phải cố gắng. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ”đi qua cửa hẹp” để diễn tả ý tưởng này.
- ”Đi qua”: Động từ “qua” diễn tả sự thay đổi cách sống.
- ”Cửa hẹp” ở đây diễn tả sự cố gắng.
Thánh Thomas More (1478-1535) nguyên là Chưởng ấn của triều đình vua Henry VIII nước Anh, có nhiệm vụ duy trì công lý cho toàn vương quốc. Vua Henry VIII muốn ly di vợ mình là Catherine để kết hôn với Anne Boylen, người hầu của Hoàng Hậu. Vua hy vọng Thomas More sẽ giúp mình trong việc này. Nhưng vua đã phải thất vọng vì Thomas More cương quyết trung thành với luật Chúa hơn là nghe theo hành động sai trái của nhà vua.
Sau khi lấy Anne Boylen làm vợ, vua Henry VIII thành lập Giáo Hội Anh Giáo, ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo và giành cho mình quyền làm giáo chủ. Vua bắt thần dân phải thề trung thành với Hoàng hậu mới và chấp nhận quyền bính thiêng liêng của vua. Thomas More vì quyết trung thành với Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội Công Giáo nên bị tống ngục. Các bạn hữu Ngài đến thăm và khuyên:
- Ông cứ giả bộ trung thành và tuân phục vua đi, còn trong lòng ông cứ tự bảo mình chỉ tuân hành mệnh lệnh của Chúa Kitô là Vua Các Vua thì cũng có sao đâu.
Nhưng Thomas More đáp lại: - Tôi không thể thề gian như vậy. Tôi không thể lừa dối chính mình và lừa đảo người khác như thế được.
Ít lâu sau, vào ngày 06/07/1535, Thomas More bị chém đầu và 400 năm sau, người được Đức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong hiển thánh.
Vâng, đó là con đường hẹp nhưng lại là con đường dẫn tới vinh quang. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được can đảm bước vào con đường như thế, để mai sau được xứng đáng với vinh quang Nước Trời.
Nước Thiên Chúa mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, hiện tại là Giáo Hội. Giáo Hội do chính Chúa thiết lập, Giáo Hội không dành riêng cho một ai mà là cho tất cả mọi người, dù họ thuộc nước nào, dân tộc nào, thành phần nào, giai cấp nào, màu da nào trong cuộc sống … tất cả được Chúa mời gọi vào trong Giáo Hội của Chúa. Ở trong Giáo Hội của Chúa, chúng ta được Chúa thiết đãi tiệc hàng ngày là lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa diễn ra trong thánh lễ. Đàng khác, nước Thiên Chúa mà chúng ta đang hướng tới, là tương lai của chúng ta, đó chính là nước thiên đàng, nước trời. Tiệc mà Chúa thiết đãi chúng ta trong nước đó là bánh Chúa dưỡng nuôi các thiên thần, là chính con người của Chúa, là nguồn sống của chúng ta: “Và người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13, 28 – 30).
Để được vào nước Chúa mai sau, chúng ta cần phải vào nước Chúa hiện giờ là Giáo Hội đây qua bí tích Rửa tội. Chúng ta vào trong Giáo Hội của Chúa để chúng ta sống đạo Chúa, để chúng ta hy sinh, hãm mình, để chúng ta đi con đường hẹp, vác thập giá theo Chúa mỗi ngày và chuẩn bị hành trang vào nước Chúa vĩnh cửu. Vì thế, không phải vào Giáo Hội để chúng ta có đặc quyền, đặc lợi đâu. Vào Giáo Hội để chúng ta cởi bỏ con người cũ với những tội lội, đam mê xác thịt, tính hư tật xấu, đóng đinh vào thập giá Chúa để được sống lại với Chúa sau này. Do đó, có rất nhiều người ngại không muốn vào, muốn sống theo bản năng dễ dãi của mình, thích sao sống vậy, nuông chiều xác thịt, thì chắc chắn sẽ không vào được nước Chúa mai sau.
Thời gian không có nhiều trên trần gian này cho mỗi người để mà chúng ta khoan giãn, chần chừ, do dự. Chúa chỉ chờ đợi chúng ta có hạn, một khi Chúa vào rồi, Chúa sẽ đóng cửa tiệc nước Chúa lại, và Chúa sẽ không biết chúng ta là ai cả, cho dù chúng ta có theo Chúa khi còn sống: “Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: Thưa ngài xin mở cửa cho chún tôi. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: Ta không biết các ngươi từ đâu đến. Bây giờ các ngươi mới nói rằng: Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi. Nhưng chủ nhà sẽ trả lời các ngươi rằng: Ta không biết các ngươi từ đâu tới, hỡi những kẻ làm điếu gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacob và tất cả các tiên tri trong nước Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiên răng” (Lc 13, 25 – 28) .
Chúa từ chối nhận chúng ta vào nước Chúa, dù chúng ta có nói là khi còn sống chúng ta thuộc về Chúa mà. Vì người đời thường nói “Nhất thân nhì thế“ và có rất nhiều người hưởng bổng lộc ân huệ từ điều này. Nhưng trong đạo Chúa, chúng ta không có vậy đâu. Chúng ta có đạo, tức là chúng ta là những người tín hữu trên danh nghĩa thôi, còn khi nào chúng ta sống đạo, cố gắng đi con đường hẹp, con đường dấn thân hy sinh, đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá, thì chúng ta mới là những người tín hữu thật sự và Chúa muốn điều này. Chính vì thế mà các tông đồ mới nói với Chúa là phải chăng có một số ít người sẽ được cứu độ (Lc 13, 23).
Lạy Chúa, nước của Chúa là nước vĩnh cửu, trường tồn, bất biến, Chúa ban nước đó cho chúng con khi chúng con sống đạo tốt, xin Chúa ban ơn giúp chúng con biết cao rao vinh quang Chúa, và suy phục quyền năng của Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 30 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, sẽ trở nên khôn ngoan và được trị vì mãi mãi, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khôn Ngoan kêu gọi: Hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan. Người nào tôn trọng Đức Khôn Ngoan thì sẽ được trị vì mãi mãi. Khi trao ban Thần Khí, Thiên Chúa thực hiện lời hứa này. Đức Khôn Ngoan tôi đã thành tâm học hỏi được, xin truyền đạt hết, không dè sẻn chi. Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Vô phúc cho kẻ xem thường lẽ khôn ngoan, coi khinh lễ giáo; Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung sống với Đức Khôn Ngoan.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, để chúng ta được chung hưởng các hồng ân Chúa đã hứa, và được kể vào số những kẻ đợi trông Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Cơlêmentê I nói: Chúng ta sẽ được những điều đó, nếu chúng ta chuyên cần tìm kiếm những điều đẹp lòng Chúa, và thi hành những điều phù hợp với thánh ý Người… Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết; lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài. Chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ khổ cực.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, quy phục quyền tối thượng của Chúa qua việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng, như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144, vịnh gia cho thấy: Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chúa dùng Tin Mừng để kêu gọi chúng ta đến hưởng vinh quang, mọi người từ đông sang tây sẽ về dự tiệc Nước Trời. Ơn cứu độ là ơn phổ quát, Chúa dành cho tất cả mọi người. Nước Trời rộng mở chào đón tất cả mọi người, ấy thế mà, chỉ những ai khôn ngoan: mới khát khao tìm kiếm Nước Trời; chỉ những ai khôn ngoan: mới chiến đấu vào qua cửa hẹp, cửa hẹp không phải do cửa, nhưng, do lòng người quá cồng kềnh, vướng víu bởi những toan tính, quyến luyến thế gian; chỉ những ai khôn ngoan: mới đón nhận thập giá, bởi vì, khôn ngoan của thập giá sẽ giúp chúng ta trút bỏ được những gánh nặng, để nhẹ nhàng, thanh thoát tiến vào Nước Trời. Thật vậy, ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Xin Chúa cho chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu, chúng ta đáng được hưởng những gì Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!
Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Đây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem". "Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Đã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!"
Sống là bước đi mỗi ngày trong cuộc hành trình, phiêu lưu. Hơn ai hết Đức Giêsu đã sống phận người của mình như thế. Cuộc sống nay đây mai đó, không chỗ tựa đầu. Cuộc sống bấp bênh, sống nhờ lòng tốt của người khác. Hơn thế nữa, cuộc sống này còn bị đe dọa bởi quyền bính đạo đời. Trong bài Tin Mừng hôm nay, vài người Pharisêu báo tin cho Đức Giêsu về việc tiểu vương Hêrôđê muốn giết Ngài (c. 31). Họ khuyên Ngài nên ra khỏi vùng đất dưới quyền của Hêrôđê, vì chính ông này đã giết ngôn sứ Gioan Tẩy giả. Đức Giêsu lộ vẻ ung dung, không sợ hãi gì. Ngài gọi Hêrôđê là con cáo, một con vật ranh mãnh quỷ quyệt (c. 32). Đe dọa của ông ta không làm Ngài chùn bước. Ngài vẫn tiếp tục làm điều đã làm như trừ quỷ và chữa bệnh. Hôm nay, ngày mai, ngày mốt vẫn cứ như thế. “Tôi phải tiếp tục đi” (c. 33). Đức Giêsu biết rất rõ mình đang đi đâu và đến đâu. Ngài sẽ tiếp tục lên đường, không phải vì sợ quyền lực của Hêrôđê, nhưng vì Ngài chấp nhận ở dưới quyền của Thiên Chúa. Ngài hướng tới Giêrusalem, nơi nhiều ngôn sứ đã chịu bách hại. Đức Giêsu ý thức mình là một ngôn sứ của Thiên Chúa. Số phận của Ngài cũng chẳng hơn gì bao ngôn sứ khác. Cái chết đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem. Giêrusalem là nơi đáng sợ, nhưng cũng là nơi đáng thương. Đức Giêsu đã âu yếm gọi hai lần: “Giêrusalem, Giêrusalem!” Ngài tự ví mình như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh. “Đã bao lần Ta muốn… nhưng các ngươi lại không muốn” (c. 34). Một tình yêu bị từ chối nên thốt lên những lời thở than. Vị ngôn sứ Giêsu phải dừng bước khi con người khép lòng mình lại. Án phạt đến từ thái độ từ khước của con người, giống như đàn gà con không để cho gà mẹ chở che dẫn dắt. “Nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi” (c. 35). Thiên Chúa bỏ đền thờ, bỏ thành thánh Giêrusalem mà đi, để mặc cho quân thù vây hãm và tiêu hủy. Nhưng rồi sẽ đến ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang. Lúc ấy mọi người sẽ tung hô: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúng ta cũng có sứ mạng làm ngôn sứ như Đức Giêsu. Những đe dọa, đụng chạm đến an toàn là điều không tránh khỏi. Nhưng chúng ta vẫn được mời gọi đi đến cùng con đường của mình, với một tinh thần bất khuất, không gì lay chuyển. Vẫn phải trung thành với việc được Thiên Chúa giao, dù điều đó dẫn ta đến với cái chết. Trước một Giêrusalem thù nghịch, xin có được đảm lược của Giêsu. Trước một Giêrusalem từ khước, xin có được lòng nhân hậu. Để trái tim chúng ta biết kết hợp đảm lược với lòng nhân. Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái. ---------------------------------
Chúa Giê-su tiến hành cuộc chiến chống ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng toa rập nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không sợ hãi. Vì tình Chúa yêu thương con người quá lớn lao. Chúa muốn giang rộng vòng tay ôm ấp che chở con người: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”. Dù bị các thế lực ma quỉ âm mưu giết chết, Chúa vẫn không sợ hãi. Với tình yêu lớn lao, Chúa quan tâm lo lắng cho con người hơn cho sinh mạng của riêng mình: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, và ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiê, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được”.
Hôm nay con cái Chúa vẫn phải tiếp tục tiến hành cuộc chiến. Ma quỉ, xác thịt, thế gian vẫn toa rập nhau đàn áp con cái Chúa. Nhưng thánh Phao-lô khích lệ ta đừng sợ vì chúng ta sẽ thắng nhờ tình yêu Chúa Ki-tô. Tình yêu Chúa sẽ ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Cuộc chiến rất khốc liệt vì chúng ta phải chiến đấu với loài quỷ dữ. Nhưng thánh nhân khuyên nhủ ta đừng sợ. Hãy mang lấy vũ khí của Thiên Chúa, Ta chắc sẽ thắng. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khỉ của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối”. Vù khí đó là “lưng thắt đai chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi gày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa vì yêu thương con mà sẵn sàng chịu chết. Xin cho con tin vào tình yêu của Chúa để đứng vững trong cuộc chiến với bóng đêm tội lỗi.
Một diễn giả thuyết trình cho các bậc phụ huynh về thái độ phải luôn thông cảm với con cái, nhất là khi chúng còn nhỏ. Diễn giả vừa dứt lời, thì có một người mẹ phát biểu ý kiến: "Trong bài thuyết trình, ông đã nhiều lần nhắc đến những sai sót của cha mẹ không đủ kiên nhẫn để tỏ ra thông cảm với con cái. Phần tôi thì có kinh nghiệm ngược lại: tôi luôn luôn tìm cách thông cảm với con cái, nhưng chẳng những chúng không nghe lời tôi, mà còn chống lại tôi. Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết phải làm gì nữa để con cái nghe lời chúng tôi".
Kinh nghiệm của người mẹ trên đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào tâm tình của Chúa Giêsu đối với người Do thái và, đối với thành Giêrusalem như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Ðó là tâm tình yêu thương của Chúa trước sự khước từ của dân Chúa. Tác giả Gioan đã đưa ra nhận định chung về cuộc đời của Chúa Giêsu: "Ngài đã đến nơi nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận". Con người là tạo vật của Thiên Chúa, nhưng lại có quyền tự do từ chối Ngài, đó là cái bi thảm của cuộc đời.
Chúng ta sẽ càng cảm thông với những tâm tình của Chúa Giêsu, khi chúng ta biết rằng lúc đó Ngài đang tiến về Giêrusalem, tiến đến gần giây phút thực hiện cuộc Vượt qua của Ngài để đem ơn cứu rỗi cho mọi người, nhưng cũng chính lúc đó sự chống đối của các kẻ thù Chúa mỗi lúc một gia tăng. Những người Biệt phái, Luật sĩ, Tư tế trong dân, đang tìm cách loại trừ Chúa, ngay cả vua Hêrôđê Antipas cũng không ưa thích gì Ngài, chính ông ra lệnh chặt đầu Gioan Tẩy giả, đó là điềm không tốt cho Chúa Giêsu lúc đó đang có mặt trên phần đất thuộc thẩm quyền của ông.
Tuy nhiên, sự độc ác của con người không thể làm cho Thiên Chúa không yêu thương con người. Trái lại, Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên yếu hèn, bị khinh chê, Ngài vẫn yêu thương con người và yêu thương cho đến chết trên Thập giá. Tuy nhiên, cái chết của Chúa Giêsu không phải là một chiến bại vĩnh viễn, bởi vì rồi đây con người sẽ trở lại nhìn nhận Thiên Chúa. Lời tiên báo của Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng hy vọng: "Các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi nói: chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa". Ðây không chỉ là lời tiên tri về cuộc khải hoàn của Ngài vào thành Giêrusalem, nhưng còn là lời tiên tri về cuộc chiến thắng cuối cùng của Ngài vào thời cánh chung, khi Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.
Chúng ta hãy khiêm tốn nhận ra những giờ phút của ân sủng Chúa đến viếng thăm chúng ta. Ước gì chúng ta cảm nghiệm được tình yêu dịu dàng của Chúa để có thể nói lên lời tri ân chúc tụng Chúa.
“Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc. 13, 34)
Ngay từ đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu thành Na-gia-rét, người ta đã tìm cách giết Người. Giờ của Người chưa đến. Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người đi qua đất của Hê-rô-đê mới giết Gio-an tẩy giả. Có mấy người báo cho Đức Giêsu phải nhanh chóng rời bỏ đây ngay vì Hê-rô-đê đang muốn giết Người.
Vua chúa thế gian chẳng thay đổi được gì
Dân Na-gia-rét cũng như Hê-rô-đê không thể giết được Đức Giêsu. Hôm nay và ngày mai là thời giờ bày tỏ quyền phép và tình yêu của Thiên Chúa. “Tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật”, không gì có thể ngăn cản được Đức Giêsu thi hành thánh ý Thiên Chúa. Người đi theo con đường đưa tới cái chết hy sinh để hoàn tất nhiệm vụ của Người. Người không tìm cách trốn thoát, mà tự ý chấp nhận cái chết vì chính Người có quyền cho đi sự sống và lấy lại. Lời chứng của Người phải được loan truyền tới Giê-ru-sa-lem, vì Người là ngôn sứ và phải chịu chung số phận với các ngôn sứ. Hê-rô-đê không thể quyết định bắt Người chịu chết. Chính Người quyết định về ngày giờ. Sự đe dọa của Hê-rô-đê chỉ đáng giục sọt rác. “Các ngươi hãy đi nói với con cáo ấy!”
Giê-ru-sa-lem trung thành với cái bất trung
Lịch sử của Giê-ru-sa-lem là luôn luôn từ chối ý định của Thiên Chúa tới cùng. Dân Do thái đã bất trung với Thiên Chúa từ lâu đời. Các ngôn sứ đều cảnh cáo nhiều lần về sự bất trung đó và đều thất bại nặng nề. Nhiều lần Thiên Chúa đã phạt họ, từ bỏ đền thờ và trao nộp cho quân thù phá hủy.
Chính Đức Giêsu đã kêu gọi dân thành Giê-ru-sa-lem trở về kẻo không kịp. Họ vẫn bất trung, con tim họ chai đá và từ chối lắng nghe lời cảnh báo. Họ khinh chê quà tặng cứu độ, sự che chở và lòng thương xót của Thiên Chúa. Giờ đây, gần đến hồi kết thúc, Thiên Chúa sẽ bỏ mặc nhà Gia-cóp và dân Do thái không còn thấy Người nữa cho đến ngày phán xét. Ngày đó Ngài chỉ đón tiếp kẻ nào đến nhân danh Chúa Giêsu mà thôi.
Khi được hỏi: Thiên Chúa là Đấng nào? Hẳn không có câu trả lời nào trọn vẹn và ý nghĩa cho bằng lời khẳng định của thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
Thật vậy, bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu của Người cho nhân loại ngang qua sự chăm sóc, quan phòng của Người dành cho ta.
Có những lúc, Thiên Chúa được ví như người cha răn dạy con cái; như người mẹ yêu thương, an ủi, vỗ về; như người chồng yêu thương vợ; như người bạn luôn đồng hành...
Hôm nay, qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu làm toát lên hình ảnh của một Vị Thiên Chúa yêu thương con người như: “Gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Quả thật, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che chúng ta dưới bóng cánh của Người lúc mưa, lúc nắng, khi bão tố, hay khi bị kẻ thù tấn công. Người yêu thương ta bằng một tình yêu trọn vẹn. Người đã cho đi tất cả, kể cả người Con Một duy nhất chính là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thi hành sứ vụ của Chúa Cha trong tình yêu. Ngài đã yêu thương họ đến cùng và đã chết vì yêu.
Tuy nhiên, vì hiềm khích, tham lam và kiêu ngạo, con người vẫn đắm chìm trong tội, nên không thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Họ đã bị một lớp mây mù dày đặc của tội lỗi làm cho mắt họ không còn phân biệt được tốt - xấu. Hay đôi khi nhận ra, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì danh dự, vì chức quyền, họ đã nhắm mắt trước tình yêu của Ngài, và đã đi ngược lại với tiếng Lương Tâm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tâm tình của những người con đã được Thiên Chúa yêu thương. Nhận ra tình yêu của Người và chia sẻ tình yêu đó cho người khác. Khi đã lựa chọn Chúa là mục đích, lẽ sống, thì cũng đón nhận những lời giáo huấn dạy dỗ của Ngài như khuôn vàng thước ngọc, thi hành luật Chúa trong lòng mến. Tránh tình trạng như Hêrôđê luôn tìm cách loại trừ Đức Giêsu chỉ vì những điều tốt đẹp Ngài đã làm, hay như những người Pharisêu, vì sợ phiền hà, liên lụy, hay vì không chấp nhận chân lý của tình thương mà đã lợi gió bẻ măng, tiếp tay cho sự gian ác để đồng lõa loại bỏ Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con biết cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời luôn sống trong tình yêu đó bằng việc đón nhận Chúa như lẽ sống của cuộc đời và chia sẻ tình yêu đó cho người khác. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu yêu thương con người đến nỗi cho dù con người phản nghịch chống lại Ngài, Ngài vẫn tha thiết yêu thương như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để rao giảng về Nước Thiên Chúa cho con người. Nhưng phũ phàng thay, có biết bao nhiêu người đã bịt tai giả điếc làm ngơ trước Lời của Chúa. Thậm chí có người tìm cách triệt hạ Chúa như một Hêrôđê, như thành Giêrusalem, nơi bao ngôn sứ bị giết hại, và như chính con khi đã bao lần sã ngã phạm tội.
Lạy Chúa, thế mà Chúa vẫn tha thiết yêu thương và kiên nhẫn mời gọi con trở về sống trong ân tình của Chúa. Chúa sẵn sàng quên đi bao lỗi lầm thiếu sót của con, và Chúa chỉ muốn một điều là được bảo vệ con trong vòng tay yêu thương của Chúa.
Ôi lạy Chúa, xin cho con luôn cảm nhận được tình yêu bao la đó, để con yêu mến Chúa nhiều hơn, và để từ nay, con sẽ quyết tâm xa lìa con đường tội lỗi. Trong những khi gặp gian nan thử thách, hay những lúc yếu đuối tuyệt vọng, xin cho con biết tìm đến Chúa như nguồn sức mạnh đỡ nâng, như nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, con biết rằng Chúa yêu thương con như gà mẹ ủ ấp gà con dưới cánh. Xin đừng bao giờ để con trở thành kẻ bạc nghĩa vong ân phản nghịch chống lại Chúa, nhưng xin cho con luôn là người con chí hiếu, luôn biết vâng phục Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời. Amen.
Ghi nhớ: “Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem ?”
Một diễn giả thuyết trình cho các bậc phụ huynh về thái độ phải luôn thông cảm với con cái, nhất là khi chúng còn nhỏ. Diễn giả vừa dứt lời, thì có một người mẹ phát biểu ý kiến: “Trong bài thuyết trình, ông đã nhiều lần nhắc đến những sai sót của cha mẹ không đủ kiên nhẫn để tỏ ra thông cảm với con cái. Phần tôi thì có kinh nghiệm ngược lại: tôi luôn luôn tìm cách thông cảm với con cái, nhưng chẳng những chúng không nghe lời tôi, mà còn chống lại tôi. Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết phải làm gì nữa để con cái nghe lời chúng tôi”.
Kinh nghiệm của người mẹ trên đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào tâm tình của Chúa Giêsu đối với người Do Thái và, đối với thành Giêrusalem như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Ðó là tâm tình yêu thương của Chúa trước sự khước từ của dân Chúa. Tác giả Gioan đã đưa ra nhận định chung về cuộc đời của Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nơi nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”. Con người là tạo vật của Thiên Chúa, nhưng lại có quyền tự do từ chối Ngài, đó là cái bi thảm của cuộc đời (Theo Mỗi Ngày Một Tin Vui của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu).
Suy niệm
Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem để thực hiện thánh ý của Chúa Cha: Cuộc Vượt Qua Thương Khó đem ơn cứu rỗi cho mọi người. Lời rao giảng chân lý, sự thật làm cho những kẻ không muốn lãnh nhận chống đối Chúa mỗi lúc một gia tăng, nhất là những kẻ Ngài chỉ trích sự giả hình, cứng tin là người biệt phái, luật sĩ, tư tế trong dân, đang tìm cách loại trừ Chúa. Cả vua Hêrôđê Antipas, người bất chấp chân lý ra lệnh chặt đầu Gioan Tẩy giả, cũng không ưa thích gì Ngài, Đấng rao giảng công lý và sự thật làm cho nhà vua không vừa lòng. Người pharisiêu báo tin cho Đức Giêsu về việc Hêrôđê muốn giết Ngài (x. Lc 13,31) vì Chúa Giêsu lúc đó đang có mặt trên phần đất thuộc thẩm quyền của vua. Họ khuyên Ngài nên ra khỏi vùng đất dưới quyền của Hêrôđê. Nhưng Đức Giêsu không sợ hãi gì, Ngài gọi Hêrôđê là con cáo, một con vật biểu tượng sự ranh mãnh quỷ quyệt (x. Lc 13,32). Sự đe dọa của ông ta không làm Ngài chùn bước. Ngài vẫn thi hành sứ mạng thi ân cho người khổ đau hàng ngày như trừ quỷ và chữa bệnh… Ngài khẳng định: “Tôi phải tiếp tục đi” (Lc 13,33). Ngài vẫn tiếp tục lên đường hướng tới Giêrusalem, nơi nhiều ngôn sứ đã chịu bách hại và cũng là nơi cái chết đang chờ đợi Ngài, Giêrusalem nơi hoàn thành sứ mạng Đấng Cứu Thế.
Giêrusalem là nơi đáng sợ, nhưng cũng là nơi đáng thương khi nhìn trong viễn cảnh Giêrusalem sẽ bị tàn phá, Ðức Giêsu cảm thương dân chúng, Ngài buồn, Ngài than! Ðức Giêsu đau lòng khi thấy họ khổ. Vì lòng chai cứng của họ chối từ Con Thiên Chúa, nên tai hoạ đã giáng xuống trên họ. Thành Giêrusalem bị huỷ, dân chúng lầm than, Ngài đau lòng biết bao, vì Ngài thương họ như gà mẹ ủ con dưới cánh.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu cũng hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng hy vọng: “Các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi nói: chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa”. Lời tiên tri về cuộc khải hoàn của Ngài vào thành Giêrusalem, cũng là lời loan báo cuộc chiến thắng cuối cùng của Ngài vào thời cánh chung, vì Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.
Hôm nay, chúng con cũng như dân Do Thái năm xưa: Chúng con đã đón nhận biết bao ơn lành của Chúa nhưng chúng con vô ơn, sống bất xứng và cứng lòng cố chấp. Xin Chúa sửa dạy chúng con. Xin cho chúng con sớm nhận ra tình yêu của Chúa. Xin đừng để chúng con cứ mãi chai lì, khiến Chúa phải đau lòng.
Ý lực sống
“Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa” (Tv 109,26)
Đức Giêsu được mấy người biệt phái cho biết vua Hêrôđê muốn giết Ngài và khuyên Ngài nên lánh đi nơi khác. Lời khuyên Ngài trốn đi có vẻ khôn ngoan theo sự tính toán của người đời, bởi vì Hêrôđê là một tên gian hùng, dám khử trừ bất cứ ai mà ông không thích. Tuy nhiên, Đức Giêsu không theo sự khôn ngoan của thế gian, Ngài theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài biết việc lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết là kế hoạch của Thiên Chúa mà Ngài “phải” thực hiện cho xong.
Ngoài ra, Ngài cũng than tiếc cho Giêrusalem sẽ bị tàn phá, vì họ không chịu nghe lời rao giảng của Ngài để thống hối. Ngài đã xử với họ như gà mẹ ấp con dưới cánh, nhưng vô ích. Vì lòng chai dạ đá của họ, Thiên Chúa phải dùng bàn tay cứng rắn để sửa trị họ.
Qua bài Tin mừng chúng ta thấy thái độ của Đức Giêsu trước cái chết gần kề. Bình thường cái chết luôn là một đe dọa đối với con người. Lo sợ căng thẳng khi cái chết là một cực hình. Là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng không tránh khỏi những lo âu sợ hãi trước cái chết, như Ngài đã cho thấy điều đó trong cơn hấp hối tại vườn Giệtsêmani. Tuy nhiên, trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tỏ ra bình thản trước vua Hêrôđê đang tìm cách sát hại Ngài. Đức Giêsu bình thản đến độ dửng dưng và thách đố, và sở dĩ như thế là vì Ngài luôn trung thành tuyệt đối với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, cả cuộc đời Ngài là một tiếng xin vâng đối với thánh ý Thiên Chúa. Do đó, một khi biết rằng có một hiến lễ phải hoàn tất và hiến lễ ấy nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thì không gì phải làm Ngài bận tâm, ngoài việc chu toàn công việc được giao phó (Mỗi ngày một tin vui).
Tâm tình của Đức Giêsu trước viễn tượng thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ. Đã bao lần, xưa kia là các sứ giả của Thiên Chúa và bây giờ là Ngài, đã cố gắng tập họp họ lại như gà mẹ tập họp gà con, hầu che chở họ khỏi tai hoạ là cuộc phán xét của Thiên Chúa về các tội của họ. Nhưng, xưa cũng như nay, không bao giờ họ chịu nghe lời các tiên tri cũng như lời Ngài, trái lại, họ còn bách hại và giết chết các tiên tri, cũng như sắp giết chết Ngài. Mặc dầu biết trước như thế, nhưng Đức Giêsu vẫn thanh thản đi tới, không một điều gì có thể làm cho Ngài chùn bước. Vì giờ của Chúa Cha ấn định cho Ngài chưa tới. Có Cha thì Ngài chẳng có gì phải sợ.
Dù cho Hêrôđê có mưu đồ gì đi nữa, Đức Giêsu vẫn coi thường. Dù sống trong bầu khí đe dọa mạng sống: do những nhà lãnh đạo Do thái thù oán, và do sự ganh tị của Hêrôđê, Đức Giêsu vẫn tiếp tục sứ mạng cứu thế của Ngài, bằng những công việc trừ quỷ, chữa bệnh và rao giảng. Đức Giêsu nêu gương cho các Kitô hữu chúng ta: dù sống trong hoàn cảnh nào: khó khăn hay thuận tiện, chúng ta đều phải ra công làm việc cho phần rỗi của mình và của tha nhân.
Những người biệt phái trong Tin mừng hôm nay có cảm tình với Đức Giêsu, nên khi biết tin Hêrôđê muốn bắt Chúa, họ đã trình bày với Chúa và hiến kế giúp Ngài. Thế nhưng, thái độ Đức Giêsu rất cương quyết, Ngài không vì những đe dọa của thế quyền mà làm trì trệ thánh ý Chúa Cha. Ngài đã không để những đau khổ của con người qua đến ngày mai, nên nhiều lần Ngài đã chữa bệnh trong ngày Sabat. Trên Thập giá, thân xác đau đớn vì đòn roi, nhưng Đức Giêsu vẫn một lòng thực hiện thánh ý yêu thương và tha thứ của Chúa Cha cho tên trộm lành, cho những người đóng đinh Ngài và cho toàn thể nhân loại (5 phút Lời Chúa).
Cuộc sống là một ân huệ, nhưng cũng là một sứ mạng. Cũng như Đức Giêsu, con người phải nói lên ý muốn của Đấng đã sai phái họ và làm cho sứ mạng của họ được hoàn tất. Chỉ khác một điều là Đức Giêsu biết lúc nào sứ mạng của Ngài hoàn tất, còn con người thì không. Nhưng dù được gọi bất cứ lúc nào, con người vẫn có thể bình tĩnh, vì biết rằng mình đang lo chu toàn sứ mạng được giao phó. Xin Chúa cho chúng ta biết sống trọn từng giây phút hiện tại, nhờ đó chúng ta có thể an tâm và sẵn sàng bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta.
Truyện: Con vẫn tiếp tục chơi
Một lần kia, thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì ?” Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội dọn mình chết lành.
Riêng Đaminh Saviô điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục chơi”.
Vâng, đó là thái độ của những con người luôn biết sống theo thánh ý của Thiên Chúa, rồi thì không có gì có thể làm cho họ phải sợ và cũng chẳng có gì làm cho họ chùn bước trước những khó khăn trên đời.
Bối cảnh của đoạn này là có một số người báo tin cho Chúa Giêsu hay Hêrôđê muốn giết Ngài và khuyên Ngài hãy trốn đi nơi khác.
Đoạn này gồm hai ý:
1. Cảm nghĩ của Chúa Giêsu về cái chết sắp tới (cc 31-33): lời khuyên Ngài trốn đi có vẻ khôn ngoan theo sự tính toán của người đời, bởi vì Hêrôđê là một tên gian hùng, dám khử trừ bất cứ ai mà ông không thích. Tuy nhiên Chúa Giêsu không theo sự khôn ngoan của thế gian, Ngài theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài biết việc đi lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết là kế hoạch của Thiên Chúa mà Ngài “phải” thực hiện cho xong.
- Dù Hêrôđê có mưu đồ gì đi nữa, Chúa Giêsu vẫn coi thường. Do đó Ngài gọi ông là “con cáo”. Kiểu nói này đối với người do thái hàm ý coi thường (nếu hàm ý nể sợ, người ta sẽ gọi là “con sư tử”).
- Sở dĩ Chúa Giêsu coi thường là vì Ngài biết Hêrôđê chẳng thể làm gì được Ngài trước khi thời gian dành cho sứ mạng của Ngài kết thúc. Bởi đó Ngài nói: “Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi”. Kiểu nói này chỉ một thời gian ngắn, nên không được hiểu chính xác theo số học.
- “Ngày thứ ba, tôi hoàn tất”: “Hoàn tất” vừa có nghĩa thời gian là kết thúc, vừa có nghĩa sự nghiệp là đã đạt mục đích. Chúa Giêsu chắc chắn sự nghiệp Ngài sẽ hoàn thành trong một thời gian ngắn nữa, không ai và không gì ngăn cản được.
2. Lời Chúa Giêsu nhắn gởi dân thành Giêrusalem trước viễn tượng Ngài sắp chết (cc 34-35): Chúa Giêsu đặt đối chọi nhau 2 điều hiển nhiên: Đã bao lần Ngài (và xưa kia là các sứ giả của Thiên Chúa) cố gắng tập họp họ lại như gà mẹ tập họp gà con, hầu che chở họ khỏi tai họa là cuộc phán xét của Thiên Chúa về các tội lỗi của họ. Nhưng, xưa cũng như nay, không bao giờ họ chịu nghe lời Ngài (và lời các ngôn sứ), trái lại còn bách hại và giết chết các ngôn sứ, cũng như sắp giết chết Ngài. Vì thế, số phận của họ là sẽ bị Thiên Chúa bỏ mặc.
B.... nẩy mầm.
1. “Chúa Giêsu đã tỏ ra bình thản trước việc Hêrôđê đang tìm cách sát hại Ngài. Sở dĩ Ngài bình thản được như thế là vì Ngài luôn trung thành tuyệt đối với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, cả cuộc đời Ngài là một tiếng xin vâng đối với thánh ý Thiên Chúa. Do đó, một khi biết rằng có một hiến lễ phải hoàn tất và hiến lễ ấy nằm trong chương trình của Thiên Chúa thì không gì phải làm cho Ngài bận tâm, ngoài việc chu toàn công việc được giao phó... Xin cho chúng ta biết sống trọn giây phút hiện tại, nhờ đó chúng ta an tâm và sẵn sàng bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Hãy sống như sắp chết để có thể bình an chết như bước vào cõi sống.
3. Một tu sĩ nọ được giao nhiệm vụ may vá. Ngày kia Thầy ngã bệnh nặng. Trong lúc hấp hối, Thầy nói “Hãy đưa cho tôi chìa khóa thiên đàng”. Những người quanh giường bệnh bối rối nhìn nhau không hiểu Thầy muốn gì. Nhưng một người hiểu ý đưa cây kim cho Thầy. Tu sĩ ấy mỉm cười hài lòng. Cây kim mà Thầy dùng mỗi ngày để may vá cho mọi người trong cộng đoàn chính là chìa khóa mở cửa thiên đàng cho Thầy. (Drinkwater)
4. Có Mấy người Pharisêu đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông !” Người bảo họ, các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất.” (Lc 13,31-32)
Một lần Thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của Ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì ?” Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội dọn mình chết lành. Riêng Đaminh Savio điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi”.
Đứng trước mối đe doạ là cái chết, Chúa Giêsu vẫn chu toàn bổn phận người làm con.
Lạy Chúa, xin cho biết sống giây phút hiện tại để chu toàn sứ mệnh người làm con. (Hosanna).
Qua diễn tiến câu chuyện, chúng ta đọc được hai ý nổi bật này:
1. Ý thứ 1: Cảm nghĩ của Chúa Giêsu về cái chết sắp tới (Lc 13,31-33):
“Chúa Giêsu đã tỏ ra rất bình thản trước việc Hêrôđê đang tìm cách sát hại Ngài. Sở dĩ Ngài bình thản được như thế là vì Ngài luôn trung thành tuyệt đối với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, cả cuộc đời Ngài là một tiếng xin vâng đối với thánh ý Thiên Chúa. Do đó, một khi biết rằng, có một hiến lễ phải hoàn tất và hiến lễ ấy đã nằm trong chương trình của Thiên Chúa thì không gì có thể làm cho Ngài phải bận tâm, ngoài việc chu toàn công việc được giao phó (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
- Sở dĩ Chúa Giêsu coi thường là vì Ngài biết Hêrôđê chẳng thể làm gì được Ngài, trước khi thời gian dành cho sứ mạng của Ngài kết thúc. Bởi đó Ngài nói: “Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi” (Lc 13,22). Kiểu nói này chỉ một thời gian ngắn, nên không được hiểu chính xác theo số học.
Như vậy, chúng ta thấy lời khuyên Ngài trốn đi có vẻ khôn ngoan theo sự tính toán của người đời, bởi vì Hêrôđê là một tên gian hùng, dám khử trừ bất cứ ai mà ông không thích. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không theo sự khôn ngoan của thế gian, Ngài theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài biết việc đi lên Jêrusalem để chịu nạn chịu chết là kế hoạch của Thiên Chúa mà Ngài “phải” thực hiện cho xong. Dù Hêrôđê có mưu đồ gì đi nữa, Chúa Giêsu vẫn coi thường. Do đó Ngài gọi ông là “con cáo”. Kiểu nói này đối với người Do Thái hàm ý coi thường (nếu hàm ý nể sợ, người ta sẽ gọi là “con sư tử”).
2. Ý thứ 2: Lời Chúa Giêsu nhắn gởi dân thành Jêrusalem trước viễn tượng Ngài sắp chết (Lc 13,34-35). Chúa Giêsu đặt đối chọi nhau 2 điều hiển nhiên: Đã bao lần, xưa kia là các sứ giả của Thiên Chúa và bây giờ là Ngài, đã cố gắng tập họp họ lại như gà mẹ tập họp gà con, hầu che chở họ khỏi tai họa là cuộc phán xét của Thiên Chúa về các tội lỗi của họ. Nhưng, xưa cũng như nay, không bao giờ họ chịu nghe lời các ngôn sứ cũng như lời Ngài, trái lại họ còn bách hại và giết chết các ngôn sứ, cũng như sắp giết chết Ngài. Mặc dầu biết trước như thế, nhưng Chúa Giêsu vẫn thanh thản đi tới, không một điều gì có thể làm Ngài chùn bước. Vì giờ của Chúa Cha ấn định cho Ngài chưa tới. Có Cha thì Ngài chẳng có gì phải sợ.
Có một gia đình kia sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình mình.
Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi quá nên lại chạy trở lên lầu. Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa cao ngút tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:
- Con nhảy xuống đây!
Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu mình, liền trả lời: - Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!
Người cha trả lời giọng cương quyết: - Cứ nhảy đi, có cha trông thấy con là đủ rồi.
Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.
Chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu đặt cả cuộc đời của chúng ta trong tay Thiên Chúa là Cha. Tin tưởng và phó thác như thế, tất cả sự sợ hãi sẽ không còn chỗ đứng trong cuộc đời của chúng ta.
Một lần kia, Thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của Ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì ?” Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội dọn mình chết lành. Riêng Đaminh Savio điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi”.
Vâng, đó là thái độ của những con người luôn biết sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Đã sống theo thánh ý của Thiên Chúa rồi thì không có gì có thể làm cho họ phải sợ và cũng chẳng có gì làm cho họ chùn bước trước những khó khăn trên đời.
Hình ảnh “gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh” Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, là một hình ảnh tuyệt vời để mô tả cuộc sống tin yêu này.
Lạy Ðấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa! Amen.(Chân phước Elisabeth de Trinité)
Ông vua Hêrôđê cai trị dân vùng Giuđêa. Ông là một người độc ác chứ không có tốt lành gì đối với mọi người. Thoạt đầu Chúa đến Giêrusalem để Chúa thực hiện sứ mạng cứu thế, rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Nơi đây có đền thờ Giêrusalem nổi tiếng, là trung tâm tôn giáo, thủ đô của đức tin vào Chúa lúc bây giờ. Cũng tại nơi này, có rất nhiều người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, cho nên chúng ta xem đây là vùng đất của họ. Chúng ta có thể nói nặng hơn, đây cũng là vùng lãnh thổ làm ăn của họ, không một ai được xâm phạm vào. Thế mà Chúa lại hiện diện ở đây, ảnh hưởng của Chúa quá to lớn với dân chúng, người ta theo Chúa đông đảo, cho nên họ sẽ rất khó chịu, không muốn cho Chúa có mặt ở đây. Vì thế mà họ tìm cách bứng Chúa đi nơi khác. Ngày xưa thời tiên tri Amos, ngài quê ở miền Nam, Chúa sai ngài ra miền Bắc giảng lời Chúa, tư tế Amasia đuổi tiên tri về lại miền Nam chứ không cho rao giảng lời Chúa ở đó. Những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão không dám xua đuổi Chúa như thời xưa, vì làm như vậy thì mọi người sẽ xem họ là kém văn minh, ganh tỵ, nhỏ mọn, bần tiện, xấu xa, họ sẽ bị giảm uy tín trong dân, họ sẽ làm việc không hiệu quả. Vì vậy, họ dựa vào vua Hêrôđê để nói: “Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy” (Lc 13, 31), chứ họ không có tốt lành gì cả, bởi lòng dạ họ nham hiểm, thâm độc mà thôi.
Khi tiên tri Amos bị xua đuổi, tiên tri nói với Amasia là ngài chỉ là một người đi hái trái sung, chăn súc vật, Chúa bảo ngài làm như thế chứ không phải là tự ý ngài. Còn Chúa, chính Chúa thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng và chịu chết tại Giêrusalem để chuộc tội cho con người chúng ta, cho nên chẳng một ai có thể cản trở Chúa, chẳng một thế lực nào làm cho Chúa phải hoảng sợ, chùng bước. Chúa nói với họ là đi nói với Hêrôđê, là con cáo già: “Đây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri phải chết ngoài thành Giêrusalem” (Lc 13, 32 – 33), nghĩa là Chúa cũngnói trực tiếp cho họ biết sứ mạng của Chúa, cái chết và sự phục sinh của Chúa vì Chúa yêu thương con người chúng ta.
Riêng còn về phần họ, họ giết các tiên tri, ném đá những người được Chúa Cha sai đến, trong đó Chúa sẽ bị họ giết. Nhưng mà Chúa thương họ rất nhiều. Chúa thương họ, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Chúa muốn tụ họp họ lại bên Chúa để Chúa vỗ về họ, chăm sóc cho họ, đỡ nâng họ, ban ơn cho họ, nhưng họ từ chối, làm cho Chúa phải đau lòng để mà Chúa nói với họ rằng: ” Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng ta bảo các ngươi hay, các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi nói rằng: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đế” (Lc 13, 35). Như vậy, vì sự từ chối Chúa, tương lai của họ sẽ bấp bênh, vô định, mịt mù, đau khổ, lúc đó họ mới thấy Chúa rất cần thiết cho cuộc đời của họ, nhưng mà đã muộn rồi.
Lạy Chúa tình thương của chúng con, Chúa là núi đá cho chúng con nương ẩn, là thành lũy bảo vệ chúng con, là khiên che thuẫn đỡ lúc chúng con gặp nguy nan, xin Chúa cho chúng con biết luôn hát mừng ngợi khen, cảm tạ và sống xứng đáng là con của Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 30 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, để trở nên khôn ngoan và được hiệp thông với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khôn Ngoan cho thấy: Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu. Không nơi nào bằng ở đây, Kinh Thánh nói rõ với chúng ta rằng: Đức Khôn Ngoan chính là Thiên Chúa, đạt tới Đức Khôn Ngoan là hiệp thông với sự sống của Thiên Chúa. Khi trình bày Đức Khôn Ngoan như một ngôi vị, tác giả đã bắt đầu gợi cho ta mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo; vì trong Người, muôn vật được tạo thành, Người phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, Người là hình ảnh lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, để được Chúa đổ đầy ơn khôn ngoan, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Athanaxiô nói: Sự khôn ngoan ở trong thế gian không sáng tạo, nhưng, được tạo dựng trong các công trình của Chúa và nhờ sự khôn ngoan đó: Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm… Có Thần Khí nơi Đức Khôn Ngoan: Thần Khí tinh tường và thánh thiện, duy nhất và đa năng, tinh tế và minh mẫn, bất khuất và chuộng điều lành. Thần Khí làm được mọi sự và quan tâm đến mọi điều, thấu suốt mọi tâm can. Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.
Yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, để có Chúa là đồng minh, và được trang bị binh giáp vũ khí mà chiến đấu, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, Anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đối phó và đứng vững. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 143, vịnh gia cho thấy: Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn. Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, và vinh quang trên các tầng trời. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được. Đấng ngự đến nhân danh Chúa, là Đấng mang bình an và vinh quang đến cho chúng ta. Tuy nhiên, bình an Chúa ban tặng không như bình an của thế gian; và vinh quang phải kinh qua đau khổ mới đạt đến được, nhưng, chúng ta không cần phải lo lắng chi cả, bởi vì, chúng ta đã có Chúa là đồng minh, là núi đá cho ta nương ẩn, Chúa trang bị cho chúng ta những vũ khí tinh nhuệ: đai thắt lưng là chân lý, áo giáp là sự công chính, giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an, khiên mộc là đức tin, mũ chiến là ơn cứu độ, gươm Thần Khí là Lời Thiên Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ có thể chiến thắng mọi ác thần. Ngôn sứ không thể chết ngoài Giêrusalem. Giêrusalem đã giết các ngôn sứ và ném đá những người được sai đến. Muốn đón nhận bình an và vinh quang của Chúa, chúng ta phải cùng đồng phận với Chúa, như các ngôn sứ: phải chấp nhận bị ngược đãi, bị bách hại, và bị giết chết. Xin Chúa cho chúng ta được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu, chúng ta đáng được hưởng những gì Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!
01/11 – Thứ Sáu tuần 30 thường niên – CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó". * Đại lễ kính toàn thể các thánh nam nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng ha sa số những người đã được Chúa Kitô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
* Từ trưa ngày Lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày Cầu cho các tín hữu đã qua đời, ai viếng nhà thờ, nhà nguyện, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, thì được hưởng một ơn đại xá, với những điều kiện theo thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), nhưng phải nhường lại cho các linh hồn. Mỗi ngày được hưởng một lần mà thôi. Ai bị ngăn trở, có thể viếng nhà thờ, nhà nguyện, lãnh ơn đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. "Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh, hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng. Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong, mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời. Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt: giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp, hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình... Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna. Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein. Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia. Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ. Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh, vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai. Các mối phúc là con đường nên thánh. Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi. Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa, có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài. Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác, có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành, có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội, nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người. Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại. Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc. Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời. Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt. Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.” Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện. Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài. Nên thánh là đáp trả lời mời đó. Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì. Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống, là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân. Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại. Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao, là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình, dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa. Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em, là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình. Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng. với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại, với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối. Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi. Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Cha, con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha. Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn. Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả. Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa. Con trao linh hồn con về tay Cha. Con dâng linh hồn con cho Cha,
Lạy Chúa Trời của con, với tất cả tình yêu của lòng con, Vì con yêu mến Cha, vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên, vì Cha là Cha của con. (Chân phước Charles de Foucauld)
Trong Tông huấn về ơn gọi nên thánh Gaudete et Exsultate Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về các Mối Phúc (số 63-94).
Ngài viết: “Từ ‘hạnh phúc’ hay ‘được chúc phúc’ trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện” (số 64). Người được chúc phúc là người thánh thiện trước mặt Chúa. Vào lễ Các Thánh, ta luôn được nghe đọc về các Mối Phúc. Các Mối Phúc là những con đường nên thánh. Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã sống tận căn từng Mối Phúc này trong đời Ngài. Con Thiên Chúa đã thực sự sống đời nghèo khó. Khi xuống thế làm người, Ngài được quấn tã như bao trẻ thơ, lao động như một người thợ, và đi rao giảng không chỗ tựa đầu. Ngài hoàn toàn tay trắng khi bị treo trên thập giá. Đức Giêsu đã sống tinh thần nghèo khó suốt đời, khi phó thác đời mình cho Cha, và chỉ nương tựa vào Cha. Cuộc đời Ngài có những thử thách khiến Ngài phải sầu khổ. Nỗi đau lớn của Ngài là sự khép lòng của dân trước ơn cứu độ. Đức Giêsu đã mời người ta sống hiền lành như Ngài (Mt 11,29) Ngài hiền lành ngồi trên lưng lừa đi vào chỗ chết (Mt 21,5), và lặng lẽ khi bị tố cáo trước tòa án đạo đời (Mt 27,12). Đức Giêsu đói khát sự công chính của Thiên Chúa, khi luôn khát mong làm theo ý Cha, vâng phục cho đến chết. Ngài là Con yêu dấu, khiến Cha hài lòng (Mt 3,17;17,5). Đức Giêsu là hiện thân của lòng Chúa Cha thương xót nhân loại. Tinh thương của Ngài vượt trên mọi bức tường cách ngăn, để đến với những người bị xã hội ruồng rẫy, và tôn giáo xa lánh. Tình thương ấy xin tha cho cả kẻ đóng đinh Ngài (Lc 23,34). Đức Giêsu có trái tim trong sạch, trái tim không quy về mình, nhưng mở ra để dành trọn cho Cha và cho con người. Ngài đem lại bình an và hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, giữa các tín hữu với nhau, và giữa Hội Thánh với thế giới. Nhờ Máu Ngài đã đổ ra trên thập tự, đất trời giao hòa (Cl 1,20). Đức Giêsu đã sống triệt để mối phúc thứ tám và thứ chín. Bị bách hại và vu khống, Ngài đã trở thành vị tử đạo tuyệt vời. Đức Giêsu mời chúng ta sống các Mối Phúc như Ngài đã sống. Nhưng không phải chỉ có tám hay chín Mối Phúc trong Tin Mừng. Các mối phúc nằm giữa bao cảnh ngộ mỗi ngày của cuộc sống. Mẹ Maria được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (Lc 1,42) và còn có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói (Lc 1,45). “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,27). “Nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13,17). “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách…”(Gc 1,12). “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Mỗi người chúng ta đều có cảm nghiệm sâu về hạnh phúc khi quên mình, bỏ mình, để người khác được hạnh phúc, khi không coi mình là trung tâm, khi vượt qua cái tôi tính toán. Nhờ đó chúng ta tiến dần đến sự thánh thiện Chúa mời gọi. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,16), nên con người mang nơi mình khả năng nên thánh. Thiên Chúa ba lần thánh, mời chúng ta: “Hãy nên thánh, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các người, Ta là thánh” (Lv 19,2). Đức Giêsu là mẫu mực tuyệt vời của Thiên Chúa siêu việt. Nhờ nên một với Con mà ta nên thánh giống Cha trên trời. Khi mừng lễ các Thánh nam nữ trên trời, chúng ta nhớ mình được kêu gọi nên thánh (Rm 1,7; 1 Cr 1,2), được kêu gọi sống các mối phúc của Bài Giảng trên Núi. Như thế là được nếm hạnh phúc của trời cao ngay từ đời này. Với cuộc đời rất riêng của mình, mỗi người còn phải tìm ra và sống những mối phúc rất riêng, từ đó đi vào con đường rất riêng để nên thánh. CẦU NGUYỆN
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, Nhờ thế Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, Nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, Đến với Người trong mọi sự, Và dâng Người tình yêu trong mọi lúc. Chỉ mong tôi chẳng còn gì, Nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, Nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người Và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore) -------------------------------
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào? 2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào? 3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
(Bài giảng Lễ các Thánh nam nữ trên trời – năm 2014)
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy Suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
Một câu chuyện vui kể lại rằng, trong một lớp giáo lý, khi nữ tu hỏi một em nhỏ: con hãy nói cho sơ biết các thánh là ai? Em bé suy nghĩ một chút rồi trả lời: các thánh là những người được ánh sáng chiếu xuyên qua. Sự hiểu biết ngây thơ này đến từ việc có lần theo mẹ vào nhà thờ dự lễ, khi nhìn thấy những tấm hình người trên những cửa kính nhà thờ. Em đã hỏi mẹ đó là hình của ai, và mẹ em trả lời: đó là các thánh. Trong suy nghĩ đơn sơ của em, nhờ ánh sáng mặt trời chiếu qua mà làm hiện rõ nét những con người trên tranh kính. Đó là các thánh. Câu trả lời ấy cũng giúp chúng ta khám phá ra một trong những định nghĩa đơn sơ mà chân thực về các thánh: các ngài là những người để cho sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu toả. Nói cách khác các ngài đã đón nhận hào quang của Thiên Chúa rồi làm cho hào quang ấy lan toả mọi môi trường xung quanh, để rồi người khác nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi các ngài.
Ngôn sứ Isaia đã được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Ngài ngự trong vinh quang. Các thiên thần và kỳ lão không ngừng tung hô: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Lời tung hô được lặp lại ba lần có nghĩa Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Thị kiến mà ngôn sứ Isaia được nhìn thấy chính là phụng vụ thiên quốc, là vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa và cũng là khung cảnh thiên đàng. Nơi đây, niềm vui bất tận và hạnh phúc khôn cùng.
Khi sáng tạo, Thiên Chúa san sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài cho mọi tạo vật. Sự thánh thiện ấy lan toả trong thiên nhiên, thể hiện nơi khuôn mặt và cuộc đời của những người sống tốt lành trong tư tưởng, lời nói cũng như hành động. "Hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh!". Đó là lời mời gọi trong Cựu ước. "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện". Đức Giêsu đã tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, mời gọi con người hãy nên hoàn thiện. Làm sao hoàn thiện như Cha trên trời, vì Chúa Cha là Đấng vô hình, không ai có thể hiểu thấu? Đừng lo, nếu Chúa Cha là Đấng chí thánh và vô hình, thì Ngài đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để ở cùng chúng ta và làm gương mẫu cho chúng ta noi theo. Nhờ Chúa Giêsu, con người ở bất kỳ bậc sống nào cũng có thể nên thánh. Nên thánh là nên giống Chúa Giêsu. Các tác giả Tin Mừng kể lại cuộc sống của Chúa rất đơn sơ gần gũi mọi người. Mọi hành động, lời nói đều nhằm đem cho con người tình thương của Chúa Cha. Đức Giêsu cũng nỗ lực cố gắng để xây tình huynh đệ giữa con người với nhau, không phân biệt sang hèn, tuổi tác địa vị. Trong cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta làm những việc Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ nên giống Người và đang từng bước đạt tới sự trọn lành.
Giáo Hội là Dân Chúa đang lữ hành. Dân này không phải chỉ bao gồm một quốc gia, một dân tộc, nhưng là tất cả những ai đã được bí tích Rửa tội thanh tẩy. Tuy vậy, nói đến một dân tộc, tức là cũng nói đến một lịch sử hào hùng của dân tộc ấy. Dân Chúa, tức là Giáo Hội, suốt bề dày lịch sử đã sản sinh ra biết bao phần tử ưu tú. Họ là những người viết lên trang sử uy hùng của Giáo Hội, kể cả những lúc đen tối của lịch sử. Khởi đi từ Đức Maria, thánh cả Giuse, các thánh tông đồ và tất cả các thánh được Giáo Hội chính thức mừng kính hằng năm, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của một cộng đoàn đông đảo các thánh. Họ là những người cha, người mẹ. Họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ. Họ là những vua quan trong triều đình hoặc quân nhân ngoài chiến trận. Họ là những người giàu và những người nghèo khó. Họ là những người nam người nữ, người già người trẻ. Những người này là niềm tự hào của Giáo Hội. Họ cũng là hy vọng của các tín hữu, vì họ khẳng định với những ai tin Chúa rằng, Đức tin sẽ chiến thắng ba thù, lòng mến sẽ làm nên tất cả. Họ là những Đấng Thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Cũng giống như ngôn sứ Isaia, thánh Gioan, trong Sách Khải huyền (Bài đọc I) đã được nhìn thấy nghi thức phụng vụ thiên quốc: xung quanh ngai tòa của Chiên Con tức là Đức Giêsu, để cùng với Đức Giêsu dâng lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Tôn vinh Thiên Chúa, đó là hạnh phúc viên mãn tròn đầy của các thánh.
Hôm nay chúng ta cũng mừng kính đông đảo các tín hữu đã khải hoàn vinh thăng. Có thể họ là những người chúng ta đã quen biết và gặp gỡ và hôm nay họ đang chiêmn ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Bởi lẽ, tất cả những ai sống ngay chính và thánh thiện thì xứng đáng hưởng vinh quang nước trời. Đức tin vào phần thưởng và hạnh phúc của những người công chính sẽ đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Bởi lẽ, nếu ông bà, anh chị em thân thuộc của chúng ta đã được vinh quang Nước Trời, thì chúng ta cũng có thể hưởng vinh quang ấy và được gặp gỡ những người thân của chúng ta.
"Anh em hãy nên trọn lành, như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48). Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đã trở nên lý tưởng phấn đấu cho biết bao tín hữu. Họ đã chiến thắng gian khổ, vượt lên những khó khăn để sống một cuộc đời thanh tao giữa vũng lầy tội lỗi. Phụng vụ cho chúng ta nghe bài giảng trên núi của Chúa Giêsu, mà nội dung là tám mối chúc phúc của Người. Con đường nên thánh rất đa dạng và phong phú. Mỗi "mối phúc" là mỗi phương pháp ta có thể chọn để nên giống Chúa Giêsu. Những mối phúc này xem ra không hợp với những quan niệm của cuộc sống thông thường. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực thi với cái nhìn đức tin thì chúng ta sẽ tìm thấy hiệu quả đích thực trong cuộc sống. Nội dung của các mối phúc hướng chúng ta đến với Thiên Chúa và tha nhân, chứ không phải chỉ sống ích kỷ cho riêng mình. Nhờ sống vì Chúa, sống cho người khác mà chúng ta cảm nhận hạnh phúc thiêng liếng và đích thực, vì "Hạnh phúc lớn lao nhất mà ta cảm nhận là khi ta đem niềm vui cho tha nhân" (ngạn ngữ phương Tây).
Con đường nên thánh là con đường chung của mỗi chúng ta. Tuy vậy, cũng như mỗi vận động viên phải luôn luôn luyện tập gian khổ để hy vọng thành tài, người tín hữu muốn nên thánh cũng phải chấp nhận rèn luyện bản thân và sống theo lời dạy của Chúa. Các thánh là những người "đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Bài đọc I). "Lửa thử vàng, gian nan thử đức". Những khó khăn ta gặp phải trên đường đời chính là cơ hội để tôi luyện lòng trung thành trong đức tin.
Các Thánh không phải những nhân vật xa xưa như trong chuyện cổ tích. Cuộc đời của các Ngài gắn liền với ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Mỗi chúng ta đang được mời gọi cố gắng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu như các Ngài. Nên thánh là một điều có thể làm được, trong tầm tay của mỗi người. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã quả quyết với chúng ta: "Việc nên thánh là khả thi cho hết mọi người, mọi lứa tuổi và mọi lúc, vì mỗi người trong chúng ta đã lãnh nhận phần ân huệ thần linh của mình. Thiên Chúa yêu cầu chúng đón nhận ân huệ này và sống những đòi hỏi của nó. Chúng ta hãy để cho hoạt động của Thánh Thần của Ngài biến đổi chúng ta, để tuân theo thánh ý của Ngài. Theo chân các thánh nhân, chúng ta cũng hãy trở nên một phần của một bức tranh ghép thánh thiện vĩ đại mà Thiên Chúa tạo nên trong lịch sử". (Trích bài giáo lý trong cuộc tiếp kiến chung ngày 13-4-2011).
Trở lại với câu chuyện trên đây, chúng ta có thể kết luận: nên thánh đơn giản chỉ là để cho hào quang của Chúa chiếu soi. "Hào quang" ở đây chính là Lời Chúa, là lòng từ tâm bao dung bác ái. Khi chúng ta thực hiện những điều này, như Chúa nói trong sách ngôn sứ Isaia: "Ánh sáng" ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ được chữa lành, đức công chính của ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhậm lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: có Ta đây (x. Is 58,8,9). Những lời diễn tả hạnh phúc và niềm vui của người công chính mà chúng ta vừa nghe, chính là sự thánh thiện mà chúng ta đạt được qua lòng bác ái bao dung và tình huynh đệ đối với tha nhân.
Ngày lễ Các Thánh trước hết giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa, đồng thời tôn vinh các tín hữu đã được Thiên Chúa ban thưởng vinh quang quê trời, trong đó có những người thân của chúng ta. Ngày lễ này cũng khích lệ chúng ta về ơn gọi nên thánh của người Kitô hữu, đồng thời nhận ra xung quanh chúng ta có nhiều người tốt lành. Họ sẵn sàng chấp nhận cuộc sống bình dị, đơn sơ, nhưng thấm đượm nghĩa tình. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi họ là các “vị thánh ở kề bên ta”. Qua những con người đơn sơ này, Thiên Chúa, Đấng chí thánh, đang hiện diện giữa chúng ta. Khi tôn thờ và yêu mến Chúa, chúng ta được chia sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài.
Vâng, mỗi ngày sống trên đời, tôi đang cố gắng để làm cho ánh hào quang của Chúa chiếu toả và bao bọc trọn vẹn cuộc đời của tôi. Như thế, tôi sẽ được nên giống Chúa ngay khi còn sống ở đời này. Thiên đàng sẽ khởi đầu ở dưới thế và vương quốc tình yêu mà Chúa Giêsu loan báo sẽ được thực hiện.
Sứ điệp: Những ai sống đời chứng nhân cho Nước Trời theo tinh thần của Chúa Giêsu, sẽ được hạnh phúc thực.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã trình bày cho con nẻo đường đi đến cõi phúc muôn đời. Chúa đã đi trước để con bước theo Chúa. Chúa đã sống khó nghèo, khiêm nhu, hiền hòa, nhân hậu… Chúa đã hiến trọn cuộc đời cho Nước Trời. Cuộc đời của Chúa vẫn sáng ngời thuần khiết trước mặt con.
Bước chân Chúa đi đã có biết bao người theo. Lời kêu gọi của Chúa đã được bao người đáp lại. Cuộc sống của những người theo Chúa bị người đời cho là càn dở, là ngu dại, nhưng đó lại là con đường sống đời đời và dẫn đến hạnh phúc chân thực.
Con tin vào Lời Chúa, con muốn sống theo tiếng Chúa gọi mời. Xin cho con biết chọn lựa, chọn lựa dứt khoát cho suốt cả đời con. Xin cho con biết chấp nhận những thua thiệt trước mắt người đời để sống cho Chúa và vì Chúa. Xin cho con can đảm bước theo Chúa trên con đường gồ ghề chông gai của ơn cứu độ với thập giá trên vai, với những khuyết điểm và giới hạn trong cuộc sống.
Xin cho con biết nhận ra khuôn mặt cứu độ của Chúa trong cuộc sống con, biết lắng nghe tiếng gọi yêu thương của Chúa và can đảm bước theo tiếng Chúa.
Khi con hiện diện giữa đời và bước đi trên con đường của Chúa, lúc đó con đã là chứng nhân cho Chúa, con đã làm cho Chúa hiện diện trong con, và làm cho Nước Trời hiện diện trên thế giới này. Con ao ước trở nên một điểm hiện diện nhỏ bé của Nước Chúa. Xin Chúa chúc lành cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Hôm nay Mẹ Hội thánh hân hoan mừng các người con của mình đã chiến thắng vẻ vang trong cuộc chiến ở trần gian nay đã được vinh hiển trên thiên đàng. Hội thánh mừng chung tất cả các người con của mình trong một ngày, vì trong lịch Phụng vụ, chúng ta mới mừng một số thánh được tôn phong trên bàn thờ, trong khi đó còn biết bao vị thánh âm thần khác không được nhắc tới mà sách Khải huyền mô tả: “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc và ngôn ngữ” (Kh 7,9).
I. CÁC THÁNH TRÊN THIÊN ĐÀNG?
Đọc Thánh kinh chúng ta thấy Thiên Chúa đã cao giọng hứa cùng ông Abraham và ông Mai sen rằng: “Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông đúc như sao trên trời” (St 22,17; Xh 27,13). Lời hứa ấy cũng trùng hợp với thị kiến của thánh Gioan tông đồ: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm ngành lá thiên tuế” (Kh 7.9)
Họ là những người đã được nghĩa cùng Chúa, gồm đủ mọi dân nước trên thế giới, đủ mọi hạng người già trẻ lớn bé, màu da, sang hèn, trong đó có cả những người thân yêu trong gia đình, trong họ hàng chúng ta.
Họ đã làm gì?
Họ không phải là những con người hoàn hảo, toàn thiện, không vướng mắc lầm lỗi, thiếu sót hay tật xấu nào. Họ không phải là những siêu nhân, họ chỉ là những con người bình thường như mọi người, nhưng nhờ ơn Chúa trợ lực, họ cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Đức Kitô, mỗi người theo những điều kiện riêng của mình.
Họ đã trải qua những cuộc chiến đấu nội tâm trường kỳ, những bước tiến đầy cam go thử thách. Có những thành công rực rỡ, mà cũng có những thất bại ê chề. Họ cố gắng sống tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Cuối cùng họ đã đạt tới đích là nhờ đã cố gắng liên lỉ và đã biết hợp tác với ơn Chúa một cách kiên cường. Họ đã trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và họ đã được hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.
II. CHÚNG TA CÓ THỂ NÊN THÁNH KHÔNG?
Nhiệm vụ phải nên thánh
Chúa kêu gọi mọi người nên thánh. Ngay từ đạo cũ, quen gọi là đạo ông Maisen, Thiên Chúa đã truyền cho họ phải nên thánh: “Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh” (Lv 20,26). Thế rồi trong đạo mới, Chúa Giêsu cũng căn dặn chúng ta: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5,48). Còn thánh Phaolô tóm tắt tất cả trong câu: “Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho anh em nên thánh” (Ep 1,4). Ngài con khuyên bảo thêm: “Anh em phải sống xứng đáng là các vị thánh” (Ep 5,3)
Nên thánh là điều có thể
Chúa đã kêu gọi chúng ta phải nên thánh, việc mời gọi đó chứng tỏ nên thánh là điều có thể. Trong phạm vi triết học, chúng ta có nguyên tắc bất hủ này: “Nemo ad impossibile tenetur”: không ai bị buộc làm điều không có thể làm.
Theo nguyên tắc này, nếu ta không nên thánh được, thời hoặc là Chúa không buộc, điều đó không đúng; hoặc là Chúa buộc vào cổ ta một ách không thể vác được, điều đó trái với lòng lân mẫn và nhân hậu của Chúa, Đấng đã phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Điều đó còn trái với luân lý và phá huỷ trách nhiệm, vì ta chỉ có trách nhiệm khi nào điều ta có thể làm mà lại không làm.
Nói tới việc nên thánh, nhiều người có thái độ hoài nghi hoặc an phận, họ cho rằng: nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ, có nhiều điều kiện để nên thánh, còn giáo dân chúng tôi phải lo trăm công ngàn việc không có thời giờ để lo việc nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ phát xuất từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa lánh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp gì tới cuộc đời. Không phải thế, kinh Tiền tụng Thánh lễ hôm nay đã trả lời cho họ: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ân huệ của Chúa.
Vì thế, “nên thánh” là điều có thể đối với hết mọi người, không trừ ai. Chính vì vậy thánh Augustinô dám nói: “Sao ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi thì lại không”.
III. NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO?
Phải biết ước muốn mãnh liệt
Nên thánh là việc rất dễ nhưng cũng rất khó, vì nó đòi hỏi chúng ta phải cố gắng liên tục, giống như con thuyền lội ngược dòng nước, ngơi tay chèo thì con thuyền sẽ lui. Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ, một ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao. Tây phương có câu ngạn ngữ: “Vouloir c’est pouvoir”: muốn là được, thì trong việc nên thánh, với ơn Chúa giúp nếu chúng ta muốn là chúng ta có thể nên thánh.
Chúng ta phải ước muốn mãnh liệt chứ không phải chỉ là mơ ước. Muốn nghĩa là phải tiến tới hành động, phải thành công mới thôi. Thánh Phanxicô Salê nghe tin phong thánh cho Phanxicô Xaviê, liền nói: “Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn”. Quả vậy, bây giờ trong danh sách các hiển thánh, ngài là thánh Phanxicô thứ bốn.
Phải thắng được chính mình
Muốn nên thánh thì phải thắng chính con người mình, phải làm chủ được nó, bắt nó phải theo một kỷ luật và hướng nó vào một mục đích cao đẹp. Nhưng muốn thắng được mình thì trước tiên phải biết mình, biết sở trường sở đoản của mình để tiến tới sự thánh thiện.
Như vậy, muốn nên thánh là phải làm chủ được mình. Muốn làm chủ được mình là phải thắng bản thân mình với tất cả những khuyết điểm, những thiếu sót của nó. Thắng được mình là một chuyện rất khó. Chính hoàng đế Napoléon đã có kinh nghiệm này khi ông nói: “Thắng được cả Âu châu còn dễ hơn thắng được chính bản thân mình”. Nên thánh thì phải biết những nết xấu để sửa, biết những cái hay, cái tốt để tập luyện hay dinh dưỡng.
Thánh Phaolô thúc giục tín hữu Êphêsô nên thánh bằng cách làm một cuộc cách mạng bản thân. Ngài nói: “Anh em hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22-24).
Theo ý thánh Phaolô, chúng ta cần gột bỏ con người cũ tội lỗi mang đầy những tính hư nết xấu đang chi phối con người ta, làm cản bước tiến của ta, bắt ta làm nô lệ chúng, để chúng ta có thể tiến tới con người mới thánh thiện hơn.
Truyện: Thầy dòng dạy mãnh thú
Một buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
Cũng như các ngày khác, tu sĩ trả lời:
- Thưa cha, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu để rèn ý chí, thắng một con sấu, trị được con gấu và săn sóc cho một bệnh nhân.
Bề trên cười hỏi lại:
- Con nói gì thế? Những việc như thế làm gì có trong nhà Dòng?
- Thưa cha, thật đúng như thế! Hai con chim ưng tức là hai mắt của con, mà con phải giữ gìn luôn để khỏi nhìn những vật cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi từng bước đi, để nó khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức là hai bàn tay, con phải luôn luôn bắt nó làm điều phải. Con sấu tức là cái lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày, để khỏi nói những lời vô ích và thô bỉ. Con gấu tức là trái tim con, con phải trừng trị, để khỏi phải ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân chính là thân thể con, con phải canh phòng ráo riết, để cho nhục dục khỏi phải xâm nhập vào (Gm. T. Toth, Chí khí người thanh niên, 1957, tr 53).
Nên thánh bằng cách nào?
Nên thánh là một điều cần thiết và có thể, nhưng cách nên thánh thì không ai giống ai, mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người có một đường lối riêng. Nhưng dù sao, đường lối nên thánh của ta là đường lối thông thường của nhiều người, không cầu kỳ khó khăn.
Tránh kiểu nên thánh đặc biệt
Thời trước đây có một số người nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt, mà có lẽ chúng ta không học đòi được vì nó vượt quá sức ta. Ví dụ:
- Có người tự giam mình trong một nơi kín hằng mấy chục năm, chỉ sống nhờ vào lòng hảo tâm của dân chúng cung cấp cho ăn qua một lỗ hổng.
- Có người ẩn tu trong một ngôi mả hoang đào trên sườn núi, cạnh con sông hoặc mạch suối.
- Có một kiểu tu đặc độc đáo: Simong Cột leo lên cột đá cao dựng trên đỉnh chót vót, để chiêm nghiệm huyền nhiệm thần linh và giảng dạy cho dân chúng suốt 37 năm trường. Vì thế người ta mới gọi là thánh Simong Cột.
- Ngoài ra, có một số người sống một đời khắc khổ như mang trên mình xiềng xích nặng làm cho khó đi đứng, mặc áo nhặm thường xuyên, hoặc đứng yên một chỗ không xê dịch, hoặc chỉ ăn hoa quả, không hề động đến thịt, cá, trứng; hoặc đặc biệt hơn chuyên ăn thịt ươn, cá thối.
Nên thánh theo cách thông thường
* Theo thuyết Chính danh
Trong chương trình giáo dục thời xưa, chúng ta thấy Đức Khổng Tử có thuyết “Chính danh” và thuyết này có thể áp dụng vào đường lối nên thánh của chúng ta. Thuyết ấy là: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải xứng với bầy tôi, cha phải sống cho ra cha và con phải sống xứng phận làm con. Nếu ai cũng làm tròn trách nhiệm của mình trước mặt Chúa một cách trọn hảo thì có thể là thánh rồi.
Ngoài ra, thuyết chính danh cũng cần kèm theo với chương trình giáo dục theo từng bậc: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nhưng căn bản nhất vẫn là tu thân. Tu thân là sửa mình cho nên tốt, mà tu thân cần nhất phải được thực hiện ngay trong nhà mình, chứ không cần phải ở trong nhà Dòng, vào tu viện để tu thân:
Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Phải chăng tu tại gia, làm thánh ở trong nhà, trong gia đình thì khó lắm? Tại sao? Vì có những người đi ra khỏi nhà, ai cũng phải cảm phục về cách sống, về lối cư xử, về lời ăn tiếng nói của những người ấy. Thế nhưng khi về đến nhà thì những người trong nhà không sao chịu nổi lối sống của những người đó. Bởi ở trong gia đình mọi chân tướng đều được để lộ ra hết.
Nên thánh ở trong gia đình là một điều khó, nhưng đó là điều có thể và lại còn bắt buộc. Chúng ta có thể và còn phải trở thành một vị thánh, và trước hết là thánh nhân trong gia đình, không cần phải đi đâu.
Người giáo dân có thể nên thánh trong gia đình, nếu vợ chồng biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau, chu toàn mọi nhiệm vụ của mình, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho gia đình và con cái, biết dưỡng dục con cái cho nên tốt… Chúng ta đã có gương sáng của một vài gia đình, trong đó cả vợ chồng được Giáo hội phong thánh.
Truyện: Vợ chồng được phong thánh
Chúa nhật, ngày 28/10/2001, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng đầu tiên là Luigi Maria Beltrane Quattrochi thành Rôma kết hôn được 50 năm và có 4 người con, một người con qua đời và 3 người còn sống. Hai con trai là linh mục Philipphê và Césare đồng tế với Đức Giáo hoàng trong lễ phong chân phước cho cha mẹ họ, và còn một người con gái là Eurichetla. Đức Giáo hoàng đã ca tụng họ sống một đời thường rất phi thường. Ngài muốn nói rằng: sống trong đời đôi bạn gặp biết bao đau khổ, bao gian nan thử thách, họ cũng có thể làm thánh và giúp nhau làm thánh nữa.
Vào ngày 19/10/2008, Giáo hội phong chân phước cho cha mẹ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và phong thánh 18/10/2015 do ĐGH Phanxicô. Đó là ông Louis Martin và bà Zélie Guérin người Pháp. Cả hai đã từng có ý định đi tu, nhưng nhận thấy không có ơn gọi tu trì nên trở về và do sự quan phòng của Thiên Chúa họ đã kết hôn với nhau. Ông bà sống với nhau thật hạnh phúc và có 9 người con. Chết mất 4 và còn 5 người con gái đều dâng mình cho Chúa và cô con gái út đã làm thánh lớn, đó là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Phong thánh cho cả hai ông bà, Giáo hội muốn đề cao ơn gọi nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình. Dù gặp nhiều đau khổ và thử thách, nhất là giáo dục con cái, nhưng họ vẫn có thể làm thánh, nếu họ trông cậy vào ơn Chúa và chu toàn bổn phận hôn nhân vì mến Chúa.
* Đường thơ ấu thiêng liêng
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh, có lẽ vì thánh nữ đã khám phá ra một con đường nên thánh phù hợp với mọi người, nhất là trong thời đại chúng ta, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
Theo con đường này, nên thánh không cần phải làm những việc đại sự, phi thường hay kỳ diệu mà chỉ cần làm những việc nhỏ với một lòng mến lớn lao “Communia non communiter” (bình thường mà không tầm thường).
Con đường thơ ấu thiêng liêng này không cần những việc hãm mình khác thường, không đặc sủng siêu nhiên, không có phương pháp cầu nguyện riêng, không bận rộn nhiều công việc… nhưng có những điểm tích cực là làm việc với lòng mến cao độ, tín thác hoàn toàn trong tay Chúa, sống đơn sơ khiêm nhường như trẻ thơ và trung thành với các việc nhỏ mọn.
Nhờ con đường thơ ấu thiêng liêng này mà Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trở nên vĩ đại và trở nên phi thường trong những cái bình thường.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta mẫu gương sáng ngời của các thánh để khích lệ chúng ta trong việc nên thánh. Chúng ta quyết tâm phải nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện toả rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
1. Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên tiếng giảng trước đám đông dân chúng. Lần đầu tiên ngõ lời với dân chúng, Chúa Giêsu loan báo ngay một Tin Mừng hạnh phúc.
2. Những người hạnh phúc ấy là ai?
1/ “những người nghèo trong tâm hồn”: không nô lệ tiền của.
2/ “hiền lành”: Hiền lành nghĩa là vừa nhân từ vừa khiêm nhượng (xem Mt 11,29-30: Đức Giêsu tự xưng là “hiền lành” và “khiêm nhượng” trong lòng).
3/ “sầu khổ”: Mt 9,15 nói về việc các môn đệ sẽ “sầu khổ” khi phải xa cách “Tân lang” là Đức Giêsu. Như vậy người sầu khổ là người biết mình tội lỗi và do đó phải xa cách Chúa. Như vậy phần phúc Chúa hứa cho họ là họ sẽ được Thiên Chúa “an ủi” bằng cách tha tội cho.
4/ “khao khát nên người công chính”: Trong Tin Mừng Mt, “công chính” là biết làm theo ý của Thiên Chúa.
5/ “xót thương người”: Hôsê đã viết “Ta muốn lòng thương xót chứ không muốn lễ vật” (Hs 6,6). Mt đã trích dẫn câu này 2 lần (9,13 12,7)., và cả 2 lần Mt đều hiểu thương xót nghĩa là thứ tha để cứu vớt kẻ lầm lỡ.
6/ “tâm hồn trong sạch”: nghĩa là có lương tâm ngay thẳng, không gian dối, không mập mờ nửa trắng nửa đen, không một dạ hai lòng.
7/ “xây dựng hòa bình”: Hòa bình ở đây là hòa thuận (không xung khắc, không thù hận). Nên lưu ý rằng các mối phúc khác đều nhắm đến một thái độ nội tâm, còn mối phúc nầy nhắm đến hoạt động bên ngoài mà đối tượng là những mối liên hệ giữa người với người, và mục đích là làm cho người ta hòa thuận với nhau.
8/ “bị bách hại vì sự công chính”: Ta cũng phải hiểu chữ “công chính” ở đây theo nghĩa của c 6, nghĩa là “sống theo ý Chúa”. Vì sống theo ý Chúa mà bị người ta bách hại.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có thể quy tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:
- Mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác: không màng đến nước trần gian)
- Mặt tích cực: chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước Trời)
Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa.
2. Hạnh phúc là gì? Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.
3. Một hôm khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:
- Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: đâu là nơi hạnh phúc nhất?
- Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là một con số không.
- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng?
- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!
Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc. (Chờ đợi Chúa)
4. “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,11)
Ngày 19-6-1988, cả Giáo hội Việt Nam hân hoan vui sướng vì 117 vị tử đạo đã được phong hiển thánh. Những nỗi đớn đau tủi nhục vì Chúa Kitô của các ngài đã được chúc phúc.
Hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những khó khăn, đớn đau và tủi nhục trong cuộc chiến cam go loại bỏ tật xấu, dứt khoát với tội lỗi, hay những suy nghĩ tiêu cực nơi chính bản thân. Cuộc chiến ấy đòi hỏi chúng ta phải can đảm.
Xin các thánh tử đao Việt Nam thông truyền cho chúng con dòng máu bất khuất của các ngài và giúp chúng con biết chiếu toả tôn nhan Thiên Chúa nơi chính con người và cuộc sống chúng con.
5. Các thánh đều là những công dân Nước Trời, đều đang hưởng hạnh phúc Nước Trời. Mỗi một vị Thánh đều là một tấm gương cho chúng ta về một trong 8 mối phúc.
6. Có nhiều thứ người đời cho là nguồn hạnh phúc nhưng thực chất là nguồn đau khổ, và ngược lại...
7. Bất cứ thứ gì không đưa ta vào Nước Trời đều không phải là hạnh phúc thật.
8. Bác sĩ Tom Dooley thường cứu giúp những người khổ sở. Ông có một cách hiểu đặc biệt câu Tin Mừng Mt 5,5 “Phúc cho những ai sầu khổ”. Ông nói: “Sầu khổ không hẳn là bất hạnh, mà còn có nghĩa là quan tâm đến cảnh khổ ở đời hơn là cảnh sung sướng... Nếu bạn nhạy cảm với những cảnh khổ và cố gắng làm một điều gì đó để cho đời tươi sáng hơn, bạn sẽ thấy hạnh phúc” (Trích dẫn bởi Mark Link, Sunday homilies, Year C).
9. Đoàn cứu trợ đến căn nhà lụp xụp của một bà già. Họ hỏi thử bà:
- Nếu chính phủ cho bà 200 đôla. Bà sẽ làm gì?
- Tôi sẽ đem cho những người nghèo.
Bà cụ này chính là một trong những người mà Chúa Giêsu nghĩ tới khi nói “Phúc cho nhũng ai có tinh thần nghèo khó”; Từ những người có tâm hồn như bà cụ này đã xuất hiện những vị Thánh mà chúng ta tôn kính hôm nay; Và tấm gương của bà cụ này khuyến khích chúng ta trở nên những kitô hữu tốt hơn (Mark Link, Sunday homilies, Year C).
10. “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng danh cho anh em trên Trời thật lớn lao” (Mt 5,12)
Phêrô từng chối Chúa Rồi thống hối ăn nan Chúa thương thưởng thành thánh Cuối cùng cũng theo Ngài Ngài thương ban thành thánh. Một người từng ăn trộm Phút cuối biết quay về Chúa cho được làm thánh Têrêxa Hài đồng Người yêu Chúa tử bé Sống phục vụ yêu thương Trong Tình yêu của Ngài Thành thánh ngay trần gian Thánh Augustinô (Và còn nhiều thánh nữa)
Từng ăn chơi sa đọa Theo ơn gọi quay về Tích cực thành thánh ngay ………………………………….. Chúa luôn mời gọi con Hãy là thánh nghe con Vì Ta là Đấng Thánh. Cầu nguyện: Lạy Cha xin giúp con Trong từng giây phút sống Biết yêu thương trung thành Để được nên giống Cha. (Hosanna) -------------------------------
Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giàu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông hích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu”. Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giàu”. Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giàu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng nước Trời mà thôi, còn người giàu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giàu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giàu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu (Nguyễn Văn Thái, op, cit, tr 86-87).
Suy niệm
Niềm vui mà trong một thị kiến thánh Gioan thấy: Một đoàn người khác đông đảo không đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng: Tất cả những người đó đều “mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế chiến thắng” (x. Kh 7,2-9). Đó là hình ảnh loan báo các Thánh Nam Nữ trong nước Thiên Chúa. Các Ngài đã theo Chúa Giêsu - vì “Ngài là Đấng Thánh” và “giặt và tẩy áo trắng mình trong máu Con Chiên” (x. Kh 7,14).
Dù có cuộc sống khác nhau trên trần thế, nhưng các ngài đã đi theo tinh thần hiến chương của nước Thiên Chúa, tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,1-12), đó là bước đi trọn lành trong lời mời gọi của Thầy: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc: Hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình. Hơn nữa, lại là những khổ đau mà con người luôn tránh: tâm hồn nghèo khó, sầu khổ, bị bách hại. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: Họ hạnh phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian để trao cho con người chìa khóa để mở cửa hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Khi nghe giáo huấn về bát phúc, Ghandi - vị thánh và là cha già của dân tộc Ấn Độ đã tuyên bố: Không có bản tuyên ngôn nào trên trái đất đẹp bằng tám phúc của Chúa Giêsu, và ông nói: “Chính bài giảng trên núi này làm cho tôi yêu mến Đức Kitô”.
Hãy yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn và đi theo con đường bát phúc. Yêu mến Thiên Chúa, noi gương các thánh như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium (Hiến Ánh sáng muôn dân). có viết: “Các ngài tạo nên một toàn cảnh huy hoàng về những con người nam nữ, qua việc không mệt mỏi thực thi những công việc hằng ngày trong vườn nho của Chúa. Sau khi đã sống một cuộc đời âm thầm, chẳng ai biết đến, và có khi những người quyền cao mạnh thế hiểu lầm, các ngài đã được Thiên Chúa đón nhận. Các ngài là những người thợ khiêm tốn, nhưng vĩ đại đối với công việc phát triển nước Chúa.”.. (LG 40).
Mừng lễ các thánh, người tín hữu lắng nghe lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Chúng ta vui mừng lễ để tôn kính các Thánh. Kinh nghiệm ấy tương tự như những điều chúng ta cảm nghiệm trong gia đình đông đúc, nơi đó chúng ta cảm thấy tình thân thương như ở nhà”.
Ý lực sống
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1)
Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giàu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu”. Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giàu”. Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giàu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng nước Trời mà thôi, còn người giàu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giàu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giàu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu (Nguyễn Văn Thái, op, cit, tr 86-87).
Suy niệm
Niềm vui mà trong một thị kiến thánh Gioan thấy: Một đoàn người khác đông đảo không đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng: Tất cả những người đó đều “mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế chiến thắng” (x. Kh 7,2-9). Đó là hình ảnh loan báo các Thánh Nam Nữ trong nước Thiên Chúa. Các Ngài đã theo Chúa Giêsu - vì “Ngài là Đấng Thánh” và “giặt và tẩy áo trắng mình trong máu Con Chiên” (x. Kh 7,14).
Dù có cuộc sống khác nhau trên trần thế, nhưng các ngài đã đi theo tinh thần hiến chương của nước Thiên Chúa, tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,1-12), đó là bước đi trọn lành trong lời mời gọi của Thầy: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc: Hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình. Hơn nữa, lại là những khổ đau mà con người luôn tránh: tâm hồn nghèo khó, sầu khổ, bị bách hại. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: Họ hạnh phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian để trao cho con người chìa khóa để mở cửa hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Khi nghe giáo huấn về bát phúc, Ghandi - vị thánh và là cha già của dân tộc Ấn Độ đã tuyên bố: Không có bản tuyên ngôn nào trên trái đất đẹp bằng tám phúc của Chúa Giêsu, và ông nói: “Chính bài giảng trên núi này làm cho tôi yêu mến Đức Kitô”.
Hãy yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn và đi theo con đường bát phúc. Yêu mến Thiên Chúa, noi gương các thánh như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium (Hiến chế Ánh sáng muôn dân). có viết: “Các ngài tạo nên một toàn cảnh huy hoàng về những con người nam nữ, qua việc không mệt mỏi thực thi những công việc hằng ngày trong vườn nho của Chúa. Sau khi đã sống một cuộc đời âm thầm, chẳng ai biết đến, và có khi những người quyền cao mạnh thế hiểu lầm, các ngài đã được Thiên Chúa đón nhận. Các ngài là những người thợ khiêm tốn, nhưng vĩ đại đối với công việc phát triển nước Chúa.”.. (LG 40).
Mừng lễ các thánh, người tín hữu lắng nghe lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Chúng ta vui mừng lễ để tôn kính các Thánh. Kinh nghiệm ấy tương tự như những điều chúng ta cảm nghiệm trong gia đình đông đúc, nơi đó chúng ta cảm thấy tình thân thương như ở nhà”.
Ý lực sống
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1)
Hôm nay là ngày đầu tiên của tháng 11. Có lẽ trong suốt cả năm Phụng vụ không có thời điểm nào mà mầu nhiệm hiệp thông được Giáo Hội đề cao một cách sống động khác thường như là thời gian đầu tháng 11 này. Hôm nay Giáo hội cho chúng ta hướng nhìn về các thánh - tức là nhìn vào Giáo Hội chiến thắng. Ngày mai Giáo Hội hướng chúng ta về các đẳng linh hồn - hay là Giáo Hội đang đau khổ. Nhìn vào như thế để cho chúng ta đang sống trong Giáo hội tại thế mà tức là đang sống trong Giáo Hội chiến đấu biết tìm ra cho mình một hướng đi, đi thế nào để cho mai sau chúng ta cũng đạt được vinh quang như các thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay.
A. Các thánh là những người đã sống cuộc sống như thế nào?
Nhìn vào cuộc sống của các ngài, những con người - nói theo kiểu của Chúa Giêsu - đã “cướp được Nước trời” chúng ta thấy có các Ngài là những người có những nét đặc trưng sau đây:
1. Trước hết: Các Ngài là những người đã biết đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lời mời gọi này được nói lên một cách đơn sơ qua tiếng nói của lương tâm ngay lành - được biểu lộ một cách cụ thể qua 10 giới luật của Chúa trong Cựu Ước và nhất là được thúc bách cách triệt để hơn qua con đường Tám mối Phúc thật của Tin Mừng.
Một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ.
Vào khoảng năm 271 một thanh niên giàu có tới nhà thờ vào một buổi sáng Chúa nhật. Hôm đó vị Bài Tin Mừng được trích trong Mathêô 19,16-22: “Xảy ra là có một người thanh niên đến thưa với Chúa rằng: Lạy Thầy, tôi phải làm gì tốt để được sống đời đời?- Chúa đáp: “Nếu ngươi muốn vào cõi hằng sống, hãy giữ các giới răn” Người đó thưa: “Những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ, tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?” Chúa nói tiếp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”
Đó là một trong những lời mời gọi của Chúa. Người thanh niên đó bắt đầu suy nghĩ nhưng anh chưa thấy được con đường mà Chúa muốn cho anh đi là con đường nào.
Chúa nhật sau cũng trong khung cảnh của ngôi thánh đường quen thuộc đó, Lời Chúa lại vang lên: “Các người đừng lo cho ngày mai. Việc ngày mai để cho ngày mai lo. Khó khăn ngày nào có đủ cho ngày đó”(Mt 6,34)
Thế là con đường đã rõ, anh về bán tất cả tài sản do bố mẹ để lại, chia phần của cô em nhờ ông bác quản lý để lo cho em, còn của anh, anh bán tất cả và làm như lời Chúa dạy rồi anh vào trong rừng vắng sống cuộc đời tu trì ở trong đó. Đó là Thánh Antôn tu rừng, ông tổ của dòng tu chiêm niệm.
2. Đặc trưng thứ hai: Đó là những người đã cố gắng đem Lời Chúa áp dụng vào đời sống của mình.
- Đáp lại Lời Chúa mới chỉ là bước đầu. Việc quan trọng là phải sống Lời của Chúa một một cách đơn sơ, chân thành, không cầu kỳ, không gò bó.
Đức Cha Arthur Tone kể lại một câu chuyện rất cụ thể như sau.
Một gia đình ngài quen biết có hai vợ chồng và một đứa con. Một ngày kia không hiểu vì chuyện gì mà hai vợ chồng to tiếng với nhau. Hai người tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự phải lý của mình. Vì quá hung hăng trong việc lời qua tiếng lại mà hai vợ chồng không để ý đến cậu con trai tên là Bobbie con của hai người mới đi học về.
Bobbie thấy vậy liền nhảy lên bàn giơ hai tay lên và nói thật lớn: “Bình an - Hãy im lặng”
Cả hai vợ chồng nhìn con rồi phá lên cười. Sau đó người mẹ ôm con vào lòng vào âu yếm hỏi: “Con học được cái đó ở đâu thế?”
Cậu thưa: “Thưa con học ở trong sách Giáo lý - Chúng con đã học câu chuyện Chúa Giêsu dẹp yên bão tố - Chúa đã đưa tay ra và truyền cho sóng gió phải yên lặng”
Câu chuyện nhỏ nhưng nó cũng cho chúng ta thấy một trong những cách vận dụng đem lời Chúa vào cuộc sống hay như thế nào.
3. Cuối cùng đó là những người biết kiên trì, trung thành với sự chọn lựa của mình một cách đáng khâm phục.
Chúa đã từng khẳng định: Con đường của Chúa là con đường hẹp, nhiều khi hẹp đến kinh khủng. Nó đòi hỏi những ai đi trên con đường đó một sự cố gắng hầu như là liên lỉ và nhiều khi rất anh hùng. Chỉ có những ai kiên trì và can đảm mới có thể đi trên con đường đó.
Một Antôn tu rừng mà tôi vừa mới nói ở trên chẳng hạn. Đọc tiểu sử của Ngài chúng ta mới thấy. Bán hết mọi sự để theo tiếng Chúa gọi đó đã là khó. Nhưng sống theo Chúa còn khó hơn. Sau khi đã bán mọi sự, Antôn đi vào trong rừng vắng. Ma quỉ đã không để anh được yên. Chúng thi nhau tấn công anh, tấn công bằng mọi thủ đoạn kể cả những thủ đoạn tầm thường nhất. Chúng dùng đến cả những hình ảnh bẩn thỉu nhất để cám dỗ anh. Suốt cả cuộc đời là một cuộc chiến đấu. Nhờ kiên trì mà Antôn đã đã chiến thắng.
Một trong những bà thánh mà chúng ta hay nhắc tới như bà thánh Monica chẳng hạn. Chúng ta tưởng là bà đã nên thánh một cách dễ dàng sao? Không, hoàn toàn không! Không dễ dàng chút nào cả mà là đầy những cố gắng. Hơn 30 năm trời cầu nguyện hãm mình hy sinh mà mới thành công đem được người con của bà về với Chúa. Hơn 30 năm trời kiên trì trong âm thầm lặng lẽ mới đạt tới vinh quang. Đó không phải là một cái giá đã cao. Còn nhiều sự trả giá còn cao hơn nữa. Chỉ có những ai biết nhẫn nại kiên trì, những người ấy mới xứng đáng với vinh quang Nước Trời. Chúa Giêsu đã nói: “Nước trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy”(Mt 11,12).
B. Bây giờ về phần chúng ta. Đứng trước những tấm gương của các Ngài chúng ta phải có thái độ như thế nào?
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta mà lại không muốn làm thánh. Nên thánh là mục đích mà mọi người chúng ta nhắm tới. Thế nhưng con người của chúng ta thường yếu đuối. Nói như lời thánh Phaolô: “Điều tôi muốn tôi lại không làm, còn điều tôi không muốn tôi lại cứ làm”(Rm 7,19) Thân phận con người của chúng ta là thế. Chính vì vậy mà chúng ta phải xin với Chúa ơn can đảm.
* Một chàng thanh niên thuở xưa có tên là Salésio. Anh có tên thánh là Phanxicô. Một lần kia anh đọc lịch sử Giáo Hội, anh thấy trong Giáo Hội đã có 3 người mang tên Phanxicô đã làm thánh: Đó là thánh Phanxicô khó khăn, thánh Phanxicô đệ Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê, tự nhiên anh cảm thấy mình cũng phải làm gì để được nên thánh. Thế là anh đi tới một quyết định: Tôi sẽ là Phanxicô thứ 4. Anh đã giữ được quyết định đó và anh đã làm thánh. Đó là thánh Phanxicô Salésio.
* Gần đây chúng ta hay nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Tôi chắc chắn Mẹ đã biết trong lịch sử của Giáo Hội đã có hai vị thánh mang tên Têrêsa: Đó là thánh Têrêsa Avila, Têrêsa Hài đồng Giêsu. Tuy không nói ra nhưng tôi tin Mẹ cũng đã nguyện ước Mẹ cũng là một thánh Têrêsa khác. Và hôm nay, mẹ đã thành công. Giáo Hội đã tôn phong mẹ lên hàng chân phước. Chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ lên đến đỉnh vinh quang!
Xin Chúa giúp cho chúng ta biết can đảm. Trên con đường nên thánh, Thánh Augustinô đã gặp rất nhiều thử thách. Ngài đã dùng câu nói này như câu châm ngôn để vươn lên: “Ông kia bà nọ làm được tại sao tôi lại không?” Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn chúng ta cần. Người nọ kia nên thánh được tại sao tôi lại không? Hãy cố gắng. Chúa sẽ phù trợ cho chúng ta. Amen.
Trong màu nhiệm các thánh cùng thông công, hôm nay Giáo hội lữ hành trần thế hướng về Giáo hội khải hoàn thiên quốc là cùng đích và là quê hương vĩnh cửu của mỗi người ki-tô hữu, để mừng kính tất cả các vị thánh, những người đã biết chắc mình được cứu độ, được hưởng sự sống đời đời và hạnh phúc viên mãn bên Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Các thánh mà hôm nay Giáo hội lữ hành mừng kính, các ngài là những ai? Các ngài là những người nam người nữ, ‘con cái Thiên Chúa’ (x.1Ga 3.1) và là môn đệ Đức Ki-tô công khai cũng như ‘thầm kín’, ‘sống rải rác khắp nơi trên địa cầu, ở mọi nơi mọi thời, thuộc đủ mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngôn ngữ’ (Kh 7,9).
Các ngài từ đâu mà đến? Các ngài đến từ trần thế này, ‘sau khi trải qua những cơn thử thách lớn lao, đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’ (Kh 7,14).
Các thánh thật đông đảo! ‘đông không tài nào đếm nổi’! Ngoài những vị thánh đã được ghi tên trong sổ bộ và được mừng kính theo niên lịch phụng vụ của Hội thánh, các ngài còn là những vị thánh ‘vô danh’, nhưng đã từng:
Là những người sống ‘tinh thần trẻ thơ’ trước Thiên Chúa là Cha (x. Mc 10,15).
Là những người luôn sống theo ‘khuôn vàng thước ngọc’ của Đức Giê-su khi đối nhân xử thế: ‘Điều gì ngươi thích kẻ khác làm cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy’ (Mt 7,12).
Là những người dành cả đời phấn đấu, để mang lại hòa bình và công lý cho nhân loại theo đường lối bất bạo động, nói không với bạo lực chiến tranh và hận thù (x. Mt 5, 38-44).
Là những người sống triệt để các mối phúc Tin mừng trong cuộc đời giữa thế gian đầy đảo điên (x. Mt 5,1-12).
Là những người hàng ngày sống tinh thần ‘Kinh Lạy Cha’ của Chúa Giê-su (x. Mt 6,9-15).
Là những người phó thác đời mình cho sự quan phòng của Thiên Chúa như ‘chim trời, hoa huệ ngoài đồng’ và luôn ưu tiên ‘tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người’ trong đời sống của mình (x. Mt 6,25-33).
Là những người biết nhìn nhận sự công chính vô tội của Đức Giê-su và sự tội lỗi của mình như ‘tên trộm lành’ (x. Lc 23,40-42).
Là những người nghĩ rằng ‘mình chỉ là đầy tớ vô dụng, chu toàn bổn phận Chúa trao’ (Lc 17,10), ‘đời mình có là gì đều là hồng ân Chúa ban’ (x. 1Cr 15,10).
Là những người ‘quản gia, quản lý trung thành và khôn ngoan của Thiên Chúa, để cứ đến thời đến buổi phân phối thóc gạo cho gia nhân’ (Lc 12,42).
Là những người nghiệm ra được Thiên Chúa là ‘Cha nhân từ, giàu lòng xót thương’ mà mau mắn lên đường trở về như ‘người con hoang đàng’ mỗi khi sa ngã phạm tội (x. Lc 15,11tt).
Là những người sẵn sàng ‘từ bỏ mình và vác thập giá mình hàng ngày mà theo Chúa’ (x. Mt 10,38).
Là những người con hiếu thảo, luôn biết vâng lời Thiên Chúa và cha mẹ trong đời sống (x. Mc 12,29-31).
Là những người cha người mẹ mẫu mực, hết lòng yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ con cái, sống theo lương tâm, lề luật Chúa Ki-tô và Hội Thánh (Ep 6,4).
Là những người vợ người chồng sống trung thành, chung thủy với nhau theo tinh thần của Chúa ‘sự gì Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly’ (x. Mt 19,6).
Là những người luôn biết bảo vệ và tôn trọng sự sống của mình cũng như của người khác, luôn "nói không" với nạo phá thai, giết người dưới bất kỳ hình thức nào.
Là những người trong cuộc sống luôn ‘biết mình’ và ‘biết Chúa’. ‘Biết mình’ là kẻ tội lỗi, ‘biết Chúa’ là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót và hay tha thứ như người thu thuế (x. Lc 18,13).
Là những người nghèo khó, mẹ góa con côi, bị xã hội loại trừ, bỏ rơi... nhưng không một lời than thân trách phận, oán ghét hận thù...chỉ ước mơ một cuộc sống no đủ, hạnh phúc như ông La-da-rô ‘thèm được những thứ rơi vãi từ bàn ăn của ông nhà giàu mà ăn cho no’ (x. Lc 16,20-21).
Là những người luôn ‘chạnh lòng thương xót’ trước nỗi đau của người đồng loại như người Samaritano nhân hậu (x. Lc 10, 33-35), ‘vui với người vui, khóc với người khóc’ (x. Rm 12,15).
Tóm lại: Các thánh mà hôm nay chúng ta mừng kính là những con người như chúng ta. Không ai trong các ngài khi sinh ra đã là thánh. Các ngài là thánh, bởi các ngài đã cộng tác với Chúa Thánh Thần, làm sáng rõ ‘hình ảnh của Thiên Chúa’ và phác họa lại dung mạo của Đức Ki-tô trong cuộc đời mình bằng nhiều thể nhiều cách, nhất là cách sống yêu thương và chu toàn bổn phận.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: ‘Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con là Đấng hoàn thiện ở trên trời’. Các thánh là những người đã sống theo lời Chúa dạy. Xin cho chúng con biết noi gương các ngài mà lo sao cho mình cũng được nên hoàn thiện, nên thánh, để chúng con cùng được sum họp với các thánh ở trên trời với Chúa.
Lạy các thánh nam nữ, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: "mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình". Bài hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng... Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Hôm nay, Hội thánh mừng kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn bụi trần.
Như vậy, sẽ có bao nhiêu vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã tiền định: "Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện". Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ. Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giêsu đã lôi kéo bên Ngài những bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong ngày mai. Một Phê-rô, Simon... những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ...
Và hôm nay, những khuôn mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một cuộc đời mà người ta bảo rằng: "Người trồng cây phúc người chơi - Ta trồng cây hạnh để đời về sau".
Nguyện xin các thánh nam nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen.
Người ta nói thánh là người làm theo ý Chúa, không theo bọn ác nhân. Thánh là người hoàn toàn thuộc về Chúa từ trí óc tới con người. Họ là những con người luôn sống thanh sạch "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ có tâm hồn thanh khiết, nhờ đó mà họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi tha nhân và một cách trọn vẹn nơi thiên quốc. Như vậy sự thánh thiện hệ tại ở tâm hồn luôn ở trong Thiên Chúa. Họ thuộc về Chúa. Họ sống cho Chúa. Họ sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc, những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại . . .nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Họ đã chiến thắng số phận đầy oan khiên khi tìm được niềm an vui vì chọn Chúa là gia nghiệp trọn đời.
Chân dung của các vị thánh được Chúa Giêsu phác hoạ qua tám nét chính mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Họ sống giữa cuộc đời đầy sóng gió của sự dữ, của những vòng xoáy cuộc đời đầy đam mê truỵ lạc, của những thói đời hưởng thụ nhưng họ vẫn giữ mình luôn thanh khiết không hoen ố tội nhơ, không thoả hiệp sự dữ, không lao vào vòng xoáy của danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa. Họ có mặt trong mọi nơi, mọi chốn. Họ thuộc đủ mọi màu da, sắc tộc. Họ thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Có thể họ là những người mẹ đang bươn chải "một nắng hai sương", với quang gánh trên lưng còng cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình chén cơm, chén gạo mỗi ngày.
Có thể họ là những người cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.
Có thể họ là một ai đó đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ không bán rẻ nhân phẩm của mình. Họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.
Có thể họ là những người già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.
Có thể họ là những người trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.
Có thể họ là chính chúng ta, những con người đang khao khát sống đời trọn lành. Có thể vì sự khao khát nên trọn lành mà chúng ta đang đi ngược dòng với trào lưu tục hoá của thế gian. Chúng ta trở thành kẻ thù nghịch của thế gian. Chúng ta không đồng thuận với mưu đồ đen tối. Chúng ta không thoả hiệp với sự gian dối giả tạo. Chúng ta đang phải chiến đấu từng ngày để nói không với tội và trung thành với tin mừng nước Chúa.
Như vậy, các thánh không ở đâu xa. Ở ngay trong cuộc đời chúng ta. Họ đang sống với chúng ta. Họ đang dâng những hy sinh hằng ngày cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Theo đức tin ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày nên thánh thiện hơn. Amen.
Có một người đã hỏi một chuyên gia leo núi như sau:
- Nếu chúng ta ở lưng chừng núi đột nhiên gặp mưa lớn thì phải làm sao?
- Anh phải cố leo lên đỉnh núi!
- Tại sao không chạy xuống dưới? Gió mưa ở đỉnh núi chẳng phải lớn hơn sao?
- Đi lên đỉnh núi, cố nhiên mưa gió có thể lớn hơn, nhưng không đủ uy hiếp mạng sống của người. Còn chạy xuống dưới núi, xem ra khá an toàn, nhưng có thể gặp tuyết trượt bộc phát chôn sống.
Anh nói thêm: -... đối với mưa gió, chạy trốn nó, thì anh sẽ bị lũ cuốn trôi; đương đầu với nó, thì anh lại có cơ may sống sót!
Xem ra để sống sót trước khó khăn không phải là an phận“sống chung với lũ” mà phải “chiến đấu với lũ” để tồn tại. Và như vậy, quy luật chung để tồn tại là phải đối diện với khó khăn, với thử thách để vươn lên. Không lẩn tránh khó khăn. Không trốn chạy sự dữ. Nhưng phải tìm cách tồn tại trong những hoàn cảnh đầy khó khăn nhất.
Trong đời sống luân lý, lẽ thường cũng rất nhiều cám dỗ bủa vây. Cám dỗ như những cơn lũ muốn nhậm chìm chúng ta. An phận sống chung với chúng e rằng sẽ có ngày “mưa lâu thấm đất” khiến chúng ta cũng sa vào cám dỗ. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải chiến đấu với cám dỗ, phải chiến thắng cám dỗ và xua tan cám dỗ. Điều này chính Chúa Giêsu đã làm và đã chiến thắng trong cuộc cám dỗ 40 đêm ngày. Ma quỷ cũng đã bầy ra trước mặt Chúa những nhu cầu hưởng thụ rất đỗi bình thường của con người, nhưng chỉ với điều kiện là quay lưng lại với Thiên Chúa. Chúa đã Giêsu nhắc ma quỷ quy tắc là phải vâng lời Thiên Chúa, và điều quan yếu trong cuộc sống, không phải là sự đói khát thể xác mà còn tìm kiếm thỏa mãn cái đói của tâm hồn là chính Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh nam nữ, họ là những người con ưu tú của Giáo hội. Họ đã chiến thắng cám dỗ. Họ đã vượt qua thử thách để hôm nay cùng nhau cầm cành lá vạn tuế tung hô Chúa cửu trùng chí thánh. Họ đã đi qua những dòng đời vấn đục khác nhau nhưng lòng họ giống nhau ở chỗ luôn giữ lòng thanh khiết không chiều theo cám dỗ xác thịt. Họ sống giữa dòng đời đầy thị phi cùa sự bất công gian dối nhưng họ vẫn tỏa lan hương thơm của lòng bác ái, vị tha dấn thân phục vụ mọi người. Họ không để lòng tham trỗi dậy để rồi sống tham lam bất chính. Họ không để dục vọng thống trị để sống đam mê trụy lạc. Họ đã sống một đời yêu và yêu cho đến cùng, một tình yêu không toan tính thiệt hơn. Một tình yêu cho đi và cho đi mãi. Họ đã đối đầu với nghi nan, bách hại, tù đầy, tra tấn... nhưng vẫn một lòng trung thành sống theo thánh ý Chúa.
Điều quan yếu là họ đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh đời sống không bằng sức mình mà bằng cách cậy dựa vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa mới đủ sức cho họ vượt thắng nghi nan. Chỉ với ơn Chúa họ mới chiến thắng được những cám dỗ nằm sâu trong bản tính con người như tính kiêu căng, thói hưởng thụ... Họ đã biết cậy dựa vào ơn Chúa để làm chủ chính mình, để chiến thắng cám dỗ và dấn thân xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Hôm nay họ đang được ân thưởng hạnh phúc Nước trời nhờ một đời sống để ý Chúa thể hiện trong cuộc đời họ. Họ đã đạt được hạnh phúc viên mãn vì đã chiến thắng thế gian đầy cám dỗ bon chen này.
Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ. Cám dỗ hưởng thụ vật chất, hưởng thụ xác thịt. Cám dỗ ở ngay trong lòng mình khi tìm kiếm sự dễ dãi bản thân, tìm kiếm sự đồng lõa của dục vọng, của tính tham lam... Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực trước biết bao cám dỗ lôi kéo. Chúng ta cũng từng đứng dậy sau rất nhiều lần vấp ngã nhưng rồi vẫn ngã quỵ trước cám dỗ.
Mừng kính các thánh nam nữ là một dịp khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng về cuộc sống. Dầu cuộc sống có cám dỗ nhưng không đánh gục chúng ta nếu biết cậy dựa vào ơn Chúa. Dầu có những lần thất bại trước cám dỗ nhưng vẫn có thể đứng dậy để canh tân, để sửa đổi nhờ ơn Chúa. Chính nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa chúng ta sẽ mãi đứng vững và chiến thắng trong trận chiến nhiều cam go cám dỗ này.
Ước gì chúng ta luôn biết noi gương các thánh biết bám vào Chúa như cành liền cây để sức sống của Chúa mãi tuôn chảy trên chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ thất vọng về mình nhưng luôn biết đứng dậy làm lại cuộc đời nhờ ơn Chúa. Và xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn trong ơn thánh của Chúa. Amen.
Khát vọng lớn nhất, sâu xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các Thánh (Mat-thêu 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và một trong những đối tượng đó là người hiền lành: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp".
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29), "phúc cho những ai hiền lành", "hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu" (Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo như tre.
Trong cơn bão tố cuồng phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau thương.
Người hiền lành mềm mại như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có thể bào mòn đá cứng: "nước chảy đá mòn." Người hiền lành tuy mềm mỏng nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Họ hiểu được chân lý Chúa Giêsu dạy: "Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm" nên họ không dùng bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác, không theo luật "mắt đổi mắt răng đền răng" nhưng biết chế ngự tính nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"
Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"
Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng,
Chúa kêu mời "hãy học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền". Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: 'tôi đã thấy'.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
- Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta... (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa. Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội lỗi.
Trong ngày lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục mỗi người: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5, 14). Thế gian tăm tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân thật.
Đang khi nhân loại sống hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm tốt.
Sở dĩ người ta không nhận ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi người..." ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai cao điểm:
- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục. Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại không?
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad... không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chỗ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13). Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi Suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Khi tôi còn ở quê, lúc đó là một chú giúp lễ trong nhà thờ. Vào một buổi chiều, tôi đang ngồi chuẩn bị cho chương trình rước kiệu các thánh tử đạo Việt Nam. Có một ông trùm ở giáo xứ bên cạnh, là người đã quen biết tôi trước đó đến để gặp cha xứ. Trong lúc chờ đợi cha xứ đi kẻ liệt về, ông trùm kể cho tôi nghe chuyện giáo dân của làng ông bị bách hại trong thời kỳ cấm đạo, ông nói: lúc đó, quân lính bao vây làng, sau đó quan quân bắt hết mọi người ra đình làng trình diện và bắt phải bỏ đạo. Giáo dân trung thành với Chúa đã cương quyết không bỏ đạo, vì thế, họ bắt đi đầy, một số thì bị ghép sống với những người ngoài Công Giáo (phân sáp), số còn lại họ chôn tập thể, nhà của dân thì bị đốt sạch... Tôi nghe đến đây thì rất cảm phục. Điều mà tôi nghĩ trong đầu lúc này là những người giáo dân can trường đó, các ngài chấp nhận chết vì đạo Chúa cách trung thành như vậy, họ cũng là các thánh tử đạo. Thế nhưng, nếu rà soát trong danh sách 118 thánh tử đạo Việt Nam được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh chính thức vào ngày 19/6/1988 thì hoàn toàn không có các ngài.
1. Các Thánh là ai?
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể các thánh Nam Nữ. Lý do có ngày lễ này là vì trong Giáo Hội có rất nhiều những vị thánh không được phong và có ngày lễ mừng. Các ngày trong năm phụng vụ, Giáo Hội chỉ mừng những vị thánh đã được tôn phong cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có biết bao vị thánh vô danh, nhưng thực sự các ngài cũng là những vị thánh như các đấng được mừng trong lịch phụng vụ. Vì thế, Giáo Hội dành riêng một ngày để mừng kính chung các ngài.
Việc mừng kính các thánh hay không thì cũng chẳng thêm gì cho các ngài, bởi vì các ngài đã là thánh. Nhưng việc mừng kính các ngài là để tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi cuộc sống của các ngài. Đồng thời, tôn kính các ngài như là những mẫu gương cho chúng ta noi theo. Vậy con đường nên thánh của các ngài là gì? Cuộc sống của các ngài có phải là siêu quần bạt chúng, là phi thường không? Thưa là không! Con đường nên thánh của các ngài là một con đường hướng thiện, yêu thương, tha thứ và rất bình dân. Cuộc sống của các ngài cũng bình thường như ai, các ngài chính là những người cha, người mẹ gương mẫu, là người hàng xóm tốt bụng, là người chủ nhà sẵn sàng cho khách trú chân khi lỡ đường, các ngài là những người thợ mộc, thợ nề, thợ thủ công, là công nhân, nông dân, cũng có thể các ngài là những kỹ sư, bác sĩ.... lại có những vị thánh xuất thân từ một hoàng tộc, lại có những đấng sinh ra không ai biết, chết không ai hay, có những vị thánh trong hàng ngũ Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ. Tất cả họ là những bậc tổ tiên, cô bác, anh chị em với chúng ta lúc còn tại thế.
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng đều chung một mẫu số là các ngài làm mọi việc bình thường cách phi thường vì lòng mến Chúa và yêu người. Tất cả cuộc sống của các thánh được trở nên tốt lành và đẹp lòng Chúa là vì các ngài sống những giá trị Tin Mừng cách trung thành. Các ngài đã rập đời sống của mình theo gương mẫu Chúa Giêsu, đã để cuộc đời của mình cho ánh sáng Mặt Trời Công Chính chiếu qua. Các ngài thật giống chúng ta ở điểm khởi đầu, nhưng khác ở chỗ là đi đến cùng. Các ngài sống tinh thần thánh cách trọn vẹn chứ không như kiểu làm thánh “lâm thời” như chúng ta. Thật vậy, thánh “lâm thời” là khi phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện nguyên hình quỉ. (x. ĐHV, số 44). Các ngài là những người đã dám sống triệt để chân lý đã tin thay vì nửa vời. Và các ngài là những người: " từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". Các ngài chính là những người tin vào Đức Kitô Giêsu, và là những người sống tinh thần bản “Hiến Chương Nước Trời” cách trọn vẹn và suất sắc.
Thật vậy, các ngài là những người thuộc nằm lòng và sống trọn vẹn lời mời gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường vì ách của Tôi thì êm ái, gánh của Tôi thì nhẹ nhàng”; hay: “Hãy nên hoàn thiện như Cha Trên Trời” (Mt 5, 48), rồi cả cuộc đời của các ngài là những người đi theo Chúa trên con đường khổ giá vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương con người tha thiết. Đây chính là con đường Chân Phúc.
Có nhiều con đường để nên thánh, và có nhiều cách nên thánh. Hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Chân Phúc để như một lời mời gọi những ai muốn trở nên giống Chúa cách trọn vẹn hơn... Con đường đó được gọi là con đường hoàn thiện, hay một bản “Hiến Chương Nước Trời”.
Quả thật, các ngài là những người yêu mến tinh thần nghèo khó, sống hiền lành, biết thương cảm, vui với người vui, khóc với người khóc, luôn thương xót những người cơ bần, khao khát sống công chính, trong sạch, luôn xây dựng hòa bình, kiến tạo sự hiệp nhất và, các ngài là những người sẵn sàng vì Chúa mà quên thân mình. Sẵn sàng noi gương Chúa để sống và chết vì yêu. Các ngài là những người xứng đáng được Chúa ghi sổ vàng và hưởng lời chúc phúc của Chúa: “ Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" (Mt 25, 35).
2. Sống thánh trong đời thường
Khi mừng lễ các thánh Nam Nữ như vậy, trước tiên, Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở cho con cái biết rằng có một sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội: Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Thanh Luyện và Giáo Hội Chiến Thắng. Nói cách khác, có một mối liên hệ thiêng liêng hỗ tương giữa những người còn đang sống ở trên dương thế này với những linh hồn đang chịu thanh luyện trong Luyện Tội và với các thánh đang hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng (x. GLTYGHCG, số 195 & Lumen Gentium, số 49).
Thứ đến, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì ân sủng của Chúa tràn ngập trên cuộc đời các thánh, để từ ân sủng của Chúa, các ngài đón nhận và tỏa hương nhân đức trong cuộc sống, đồng thời lưu truyền lại cho con cháu hôm nay. Thật vậy, khi nói về sự ảnh hưởng của các thánh Tử Đạo, Tertuliano nhận xét: "Máu các vị Tử Ðạo là hạt giống trổ sinh nhiều tín hữu".Chúng ta có được đời sống đức tin như ngày hôm nay là do ơn Chúa ban và biết bao hy sinh của các bậc tiền nhân.
Tiếp theo là: noi gương các ngài để ngày càng tiến tới sự trọn lành. Thánh Augustino đã nói một câu thời danh: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?”. Sống thánh và làm thánh là bổn phận, trách nhiệm của chúng ta. Thánh Giêrađô đã nhất quyết phải làm thánh khi từ giã người mẹ của mình để lên đường theo các cha dòng Chúa Cứu Thế đi tu, ngài đã viết một mảnh giấy để lại rằng: "Mẹ ở lại, con đi làm thánh!”. Như vậy, việc nên thánh là trách nhiệm của chúng ta, và cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” ( Lêvi 19,2; 1 Tx 4,3; 1 Pr 1, 16…).
Cuối cùng, trong một xã hội đang chạy đua với kinh tế thị trường, coi thường đạo lý; một xã hội bất công lan tràn; thượng tôn hưởng thụ và khoái lạc dẫn đến tình trạng vô cảm, vô tâm, vô tình... Nên thánh trong thời đại của chúng ta ngày hôm nay chính là khẳng khái triệt để không sống theo lối sống sa hoa hưởng thụ, lối sống dẫm đạp lên nhau, lối sống nín thở qua cầu, nói chung lối sống chỉ biết lo cho cái bụng mà quên đi trái tim. Các thánh khi xưa là những người hoàn toàn khước từ những gì là mau qua chóng hết để tìm cho mình một kho tàng vĩnh cửu trên Trời là niềm vui, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Mừng lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy xin với các thánh là những bậc tổ tiên của chúng ta, xin các ngài nâng đỡ, bầu cử cho chúng ta để chúng ta cũng được hạnh phúc như các ngài trên Thiên Quốc. Và có lẽ không gì làm cho các ngài vui và Chúa được tôn vinh cho bằng chúng ta noi gương các ngài để nên thánh. Vì thế, trong việc giáo dục con em của mình, mong thay trong mỗi giáo xứ hay gia đình nên có những sách truyện, cuốn phim, tranh ảnh của các thánh, đây là những phương tiện bổ trợ rất hữu ích cho việc giáo dục Kitô giáo và cho đời sống đức tin nơi thế hệ mai sau.
Mong thay lời dốc quyết của thánh Giêrađô khi xưa: “Mẹ ở lại, con đi làm thánh!” cũng là sự quyết tâm của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không ngừng xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta vượt qua được những cám dỗ hầu tiến tới sự trọn lành như các thánh trên Trời.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì quyền năng và tình thương của Chúa trên các thánh. Vì lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, chúng con xin Chúa ban cho chúng con cũng được dồi dào ân sủng như các thánh mà hôm nay chúng con mừng kính, hầu mai ngày, chúng con được cùng các ngài xum họp để tôn vinh, thờ lạy và chúc tụng Chúa không ngừng. Amen.
Có bao giờ chúng ta đi tham dự một chương trình diễn nhạc trẻ hay chưa? Những âm thanh vang dội như kích thích hàng ngàn bạn trẻ, hò hát, nhảy nhót, có khi lăng quay xuống đất như những nhạc sĩ trình diễn. Có thể nói được rằng họ say sưa trong tiếng nhạc. Phải chăng đó là một hình ảnh đặc thù cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại của âm thanh, ánh sáng và vận tốc. Trái đất dường như chỉ còn là một trạm dừng chân, để rồi từ đó người ta khởi đầu chinh phụ vũ trụ.
Hằng ngày chúng ta ghi nhận biết bao nhiêu âm thanh hỗn độn. Từ những lời nói thương yêu đến những lời chửi bới. Từ tiếng nhạc êm dịu đến tiếng động cơ chát chúa. Từ những âm thành ồn ào ngoài phố chợ đến những lời quảng cáo, tuyên truyền trên truyền thanh truyền hình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiếng động vang lên tựa hồ như vô tận.
Thế nhưng, giữa một môi trường như vậy, liệu con người có còn nghe thấy được tiếng nói từ trời cao hay không? Chính vì thế mà thánh Phaolô đã xác định để chúng ta được thấy rõ ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta hãy nên thánh. Ý muốn ấy phải chiếm một địa vị ưu tiên, phải là nỗi ưu tư số 1 trong cuộc đời chúng ta.
Tuy nhiên, con người thời nay lại nhún vai coi thường, vì nên thánh là một cái gì quá lạ lẫm đối với họ. Vậy nên thánh là như thế nào? Trước hết tôi xin thưa: Nên thánh không phải là chạy trốn trần gian vì trần gian có nhiều tội lỗi xấu xa. Nên thánh cũng không phải là quỳ gối chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng xưng tội một cách máy móc, và tham dự những thánh lễ ngày Chúa nhật. Sự thánh thiện hệ tại việc chúng ta chấp nhận Chúa là mục đích của đời sống, là trọng tâm của mọi tư tưởng, lời nói và việc làm. Đó là điều chính yếu, còn những sự khác chỉ là phụ thuộc.
May thay thời buổi chúng ta vẫn còn có những vị thánh. Đời sống của họ là một rao giảng quý giá. Họ như muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa là mục đích duy nhất của cuộc đời. Còn tất cả chỉ là mờ nhạt và vô nghĩa. Đối với họ Thiên Chúa là tất cả. Nỗi ưu tư của họ là tìm biết thánh ý Chúa mà thôi. Mặc dù chúng ta không có ơn gọi vào dòng tu, nhưng tất cả chúng ta đều được kêu mời trở nên thánh. Nên thánh không phải là một bổn phận làm cho chúng ta sợ hãi. Nó không cấm cản chúng ta hưởng thụ những niềm vui chính đáng, vì Thiên Chúa không phải là kẻ thù, nhưng là suối nguồn của những niềm vui trong lành. Tuy nhiên, Thiên Chúa phải trổi vượt trên mọi thứ đó, Ngài chính là cùng đích của chúng ta. Cho dù bên ngoài có những âm thanh ồn ào, thì trong thẳm sâu cõi lòng, chúng ta vẫn phải lắng nghe tiếng Chúa, vì tiếng nói ấy sẽ chỉ cho chúng ta thấy con đường nên thánh. Bởi vì: Ai tuân giữ những giới luật của Ta thì người đó sẽ được Ta yêu mến. Thực vậy, con đường nên thánh là con đường nhỏ hẹp, nhưng chính con đường ấy sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nói tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.
Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?
Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia".
Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
Hai ngàn năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta. Điều gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm.
* Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
* Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
* Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:
- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết: - Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc… Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?.
Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.
Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:
- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá”. Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
– Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:
– Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải thích:
– Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:
– Còn về đức khó nghèo thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
– Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:
– Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.
Không có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
– Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
Một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại.
Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.
Làm sao có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về quê trời. Giáo hội cầm tay chúng ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan sách Khải huyền đã diễn tả:
- Thiên Chúa ngồi trên ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80 vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca mới: Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các Thánh. Giáo hội hướng dẫn chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về chúng ta. Giáo hội mong muốn chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã phán:
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên trời chúng ta thấy: Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta, bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô: Ông nọ bà kia lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
– Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:
– Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói:
– Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:
– Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen:
– Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
– Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Các Thánh hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng ta được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng ta tin tưởng nài xin Chúa cho chúng ta được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Đại Lễ kính toàn thể Các Thánh Nam Nữ hôm nay, cho chúng ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những người đã được Chúa Kitô cứu chuộc, đồng thời, cũng cho chúng ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Lễ này còn giúp chúng ta ý thức mối dây liên đới giữa chúng ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
Được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong, đó là phần thưởng dành cho tất cả những ai tin tưởng, cậy trông nơi Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền cho thấy: Đoàn người được cứu chuộc thuộc mọi chi tộc, quốc gia và ngôn ngữ. Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Đấng hiện có, đã có và sẽ đến, chúng con xin cảm tạ Ngài, vì Ngài đã lên ngôi hiển trị, và đã đến thời ân thưởng các bề tôi của Chúa cũng như muôn kẻ thuộc về Ngài. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài.
Được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong, đó là điều chúng ta hy vọng, và cũng là điều các thánh đang chờ đợi chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađô nói: Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thật ra, chúng ta kính nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài… Nào ca ngợi Thiên Chúa chúng ta, hỡi tất cả tôi trung của Chúa, hỡi những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Người. Vì Đức Chúa là Thiên Chúa toàn năng đã lên ngôi hiển trị. Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa. Kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
Được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong, đó là ơn cứu độ phổ quát, dành cho tất cả những ai khao khát tìm kiếm Chúa, và sẽ được gặp thấy Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Khải Huyền cho thấy: Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 23, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Thiên Chúa thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Cùng đích của cuộc đời chúng ta là được nghỉ yên trong Chúa, đó là phần thưởng lớn lao, mà các thánh đã vui mừng hớn hở đón nhận. Chúng ta hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, ao ước được hợp đoàn với các thánh, được chia sẻ hạnh phúc và vinh quang với các ngài. Sẽ có ngày Đức Kitô ngự đến, Đầu hiển vinh sẽ xuất hiện và, cùng với Đầu, các chi thể sẽ được chiếu sáng. Chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy, và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, chúng ta hãy nỗ lực sống các mối phúc mà các thánh đã sống, ngõ hầu, nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng ta tin tưởng nài xin Chúa, cũng ban cho chúng ta được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Ước gì được như thế!
-Ơn gọi ''Nên thánh" là ơn gọi chung cho tất cả các tín hữu chúng ta, vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). Do đó, với cặp mắt đức tin, chúng ta nhận thấy rằng trở nên thánh khởi đi từ Thiên Chúa, và khuôn mẫu của sự trở nên thánh cũng chính là Thiên Chúa. NhưngThiên Chúa là Đấng thánh thiện, tốt lành vô cùng, làm sao chúng ta có thể vươn tới được. Thánh Augustino đã nói với chúng ta rằng: “Ông kia bà nọ nên thánh tại sao tôi không nên thánh được”, và chính ngài cũng đã trở thành vị thánh nổi tiếng của Hội thánh. Vì thế, chúng ta cũng trở nên thánh được mà thôi một khi chúng ta biết sống như ngài đã sống.
-Trong Kinh cầu Đức Bà, Giáo Hội cho chúng ta thấy có rất nhiều vị thánh khác nhau: Các thánh Tổ Tông, các thánh Tiên Tri, các thánh Tông Đồ, các thánh Tử vì Đạo, các thánh Hiển Tu, các thánh Đồng Trinh, các thánh Nam cùng các thánh Nữ, hoặc nói như thánh Gioan tông đồ trong bài đọc một: “Tôi thấy một đoàn người thật đông, không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên” (Kh 7, 9)....Các ngài có cuộc sống như chúng ta, gần gũi với chúng ta, thậm chí có những vị thánh có một quá khứ chẳng tốt đẹp gì, đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi, và còn tệ hại hơn chúng ta rất nhiều nữa là khác. Các ngài cũng có những đam mê thế tục. Các ngài cũng có những ham muốn danh, lợi, thú, tham, sân, si, như là thánh nữ Madalena, thánh Augustino, thánh Inhatio....., tưởng như các ngài ngụp lặn trong bùn nhơ, không thể vượt qua được, nhưng rồi các ngài đã trở thành vị thánh: “Các ngài là những người đã đến sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Các ngài đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế các ngài được chầu trước nhan Thiên Chúa” (Kh 7, 14 – 15). Vì vậy, chúng ta cũng sẽ trở thành vị thánh như các ngài, nhưng mà chúng ta luôn nhớ rằng nên thánh trước hết là phải do tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, thứ đến là nổ lực cộng tác với tình yêu Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta bằng cách dìm mình chúng ta trong cuộc khổ nạn của Chúa: "Những người đói khát sự công chính, Chúa sẽ cho thỏa mãn và ban của dư đầy" (TcTm Kc t năm t2).
-Chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Các Thánh Nam Nữ trên thiêng đàng hôm nay. Chúng ta xin được hợp cùng với các ngài dâng lời tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho các ngài trở thành những vị thánh và đã đặt các ngài trên bàn thờ để để chúng ta chiêm ngắm và qua đó chúng ta ngợi khen, chúc tụng, tôn vinh tình yêu, lòng thương xót của Chúa đối với các ngài. Đồng thời, chúng ta sẽ thêm lòng tin tưởng, thêm phó thác, thêm phấn khởi, thêm nghị lực, thêm sức mạnh để tiếp nối theo bước chân của các ngài mà tiến lên, vác thập giá đời mình theo Chúa mỗi ngày,dù phải đối diện biết bao nhiêu gian nan thử thách trong cuộc sống lữ hành dương thế này.
Lạy Chúa, mỗi lần Giáo Hội dâng lễ mừng Các Thánh Nam Nữ, chúng con ao ước trông ngóng các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng con trước tòa Chúa,xin Chúa khơi lên, thôi thúc mãnh liệt trong chúng con niềm khao khát mong được họp đoàn với các ngài, được làm bạn với các ngài. Vì vậy "Chúng con hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới". Đồng thời chúng con mong ước với một niềm hy vọng tràn trề Chúa đã xuất hiện cho các ngài thấy thế nào thì Chúa cũng xuất hiện cho chúng con thấy như vậy một khi chúng con sống theo Lời Chúa dạy như các ngài là luôn thực hiện trọn vẹn Tám Mối Phúc Thật (Bản hiến chương Nước Trời).
Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ luôn là mẫu gương cho chúng con noi theo bắt chước trong cuộc đời tạm bợ, chóng qua, vô thường này. Xin Chúa thương nhận chúng con làm con dân nước Chúa và cho chúng con là người đồng hương với các thánh của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Amen.
02/11 – Thứ Bảy tuần 30 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI. “Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này). Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
“Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
“Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”. Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, CGS kêu lớn tiếng: “Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” CGS lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với CGS, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối. Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá. Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng. Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh. “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết. Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu. Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình. Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm. Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn, chết anh hùng hơn và chết lành hơn. Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại, đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa. Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con, một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời. Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi. Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất. Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu, vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn... Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo, điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã, mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ. Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi, nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa. Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta, vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng. Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc, và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa. Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công. Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế. Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ. Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể. Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời. Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được. Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo, nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn. Cái chết được chia đều cho mọi người. Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không? Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất? Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở. Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống. Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi, sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều. Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết. Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này thì thật là phiền toái. Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn vì phải chia tay với những người thân yêu, vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở. Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá, Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui, và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác, để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn. Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết. Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi, chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu. Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức. Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành đang trên đường về quê hương vĩnh cửu. Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con. Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối. Ngài bị liệt đồng hàng với phường trộm cướp Và ngay cả tên “trộm dữ” cũng không tin Ngài là Con Thiên Chúa Nó đã mỉa mai: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” Thế nhưng, niềm tin không loại trừ ai Mang tiếng là phường trộm cướp, nhưng tên “trộm lành” biết phân định: Ai mới thật sự là kẻ cướp, ai mới thật sự là người công chính, vô tội. Thậm chí hắn còn nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và hắn đã không bỏ lỡ cơ hội: Xin được một chỗ trú ngụ trong Nước của Ngài. Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất. Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu, vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn... Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo, điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã, mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ. Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi, nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa. Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta, vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì cũng vào thiên đàng. Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc, và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa. Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công. Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế. Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ. Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể. Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời. Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được. Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo, nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn. Cái chết được chia đều cho mọi người. Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không? Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất? Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở. Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống. Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi, sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều. Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết. Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này thì thật là phiền toái. Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn vì phải chia tay với những người thân yêu, vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở. Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá, Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui, và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác, để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn. Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết. Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi, chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu. Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức. Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành đang trên đường về quê hương vĩnh cửu. Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con. Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Sứ điệp: Chết không phải là hết, nhưng là ngưỡng cửa đi vào đời sau vĩnh hằng. Sự sống đời đời bắt đầu từ hôm nay khi ta tin Chúa và đón nhận Bánh Hằng Sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ khi bước qua ngưỡng cửa sự chết, con mới hiểu trọn vẹn được ý nghĩa của sự sống đời đời mà Chúa hé mở cho con trong Tin Mừng. Đây không còn là sự sống thể lý mà con có thể kinh nghiệm bằng cảm giác. Sự sống đây là chính sự hiện hữu với Chúa và trong Chúa. Chúa là Bánh mang Sự Sống từ Trời xuống. Do vậy, con hiểu rằng sự sống mai sau có được là nhờ sự sống mà con người đã bắt đầu ngay bây giờ nhờ ơn Chúa.
Hôm nay là ngày cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Các Ngài là những người khi sống trên trần gian này đã bắt đầu được sự sống đời đời nhờ kết hiệp với Chúa, sống với Chúa và sống trong Chúa.
Con là kẻ đi sau, đang được Chúa mời gọi bước vào sự sống của Chúa, sự sống mà các định luật tự nhiên không thể chi phối. Cái chết khi đó chỉ còn là cởi bỏ thân xác biến dịch và hữu hạn để tiếp tục bằng một sự sống trường tồn trong một thân thể vinh quang bất diệt.
Hôm nay, Chúa đang ban cho con Lời Chúa, Lời ban Sự Sống đời đời. Đồng thời Chúa đang ban cho con Thánh Thể Chúa là Bánh ban Sự Sống đời đời. Đó là những mầm sống đời đời Chúa gieo vào cuộc đời con. Con sẽ được hưởng nếm sự sống đời đời ngay tại trần gian nhờ được sống với Chúa và trong Chúa bằng cách thực thi Lời Chúa và lãnh nhận bí tích Thánh Thể.
Xin Chúa thêm đức tin cho con để con luôn biết tận hưởng sự sống Chúa ban và phát triển sự sống đời đời đó ngay trong cuộc sống hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào. Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ. Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi. Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng. Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa. Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh. Khám phá ra những hy vọng ứu độ. Khám phá ra chính mình. Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương. Gọi hãy chia sẻ. Gọi hãy trở về. Gọi hãy hiến dâng. Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ. Gọi hãy sám hối và tín thác. Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).
“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”.
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành”.
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
Những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy mọi người giàu nghèo sang hèn, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì, thì rồi cũng có ngày phải rời bỏ cõi đời này để trở về với thế giới bên kia, vì đây là án lệnh của Thiên Chúa đã ra cho loài người sau khi nguyên tổ Adong Evà sa ngã phạm tội: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” (St 4,19).
Thánh Phaolô cũng triển khai tư tưởng ấy trong thư gửi cho tín hữu Côrintô: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người đều liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15,21-22).
Không ai có thể phủ nhận được cái chết vì chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người chết trong những hoàn cảnh khác nhau. Người ta cố níu lấy sự sống mà không được, vì thần chết luôn rình rập chung quanh, như “thợ gặt không có ngủ trưa” (Cervantes). Mọi người đều phải chết, chỉ khác nhau ở chỗ là vui lòng đón nhận cái chết hay chấp nhận một cách miễn cưỡng.
Đứng trước thực tế của cái chết, trước cuộc đời vắn vỏi như bóng câu, nhiều người từ xưa đến nay đã nỗ lực tìm phương thế để kéo dài cuộc sống, thậm chí có thể đạt tới trường sinh bất tử. Nhưng cho đến nay mọi nỗ lực đã thất bại. Con người dù có sống đến ngàn năm rồi cũng chết. Không ai có thể chống lại được án lệnh của Thiên Chúa.
Truyện: Không tin sự sống lại
Tại một nghĩa trang bên Đức, có một ngôi mộ rất được chú ý, đó là mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới xây bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý, vì đó là một ngôi mộ của một người đàn bà giàu có nhưng không tin có Chúa, cũng chẳng tin có sự sống lại. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mồ. Trên mộ, bà xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ cậy mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố, thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nảy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ, để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Ngày hôm qua chúng ta đã mừng các thánh. Hôm nay chúng ta nhớ đến Giáo Hội đau khổ nơi những người anh chị em chúng ta đang cần được thanh luyện để được xứng đáng một phần nào với sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa. Hôm nay và cả trong tháng này chúng ta hãy dành tất cả những công phúc và những lời cầu nguyện để giúp các Ngài. Chắc là khi được về cõi vĩnh hằng các ngài sẽ không quên ơn chúng ta.
Giáo Hội tạo dịp để cho chúng ta nhớ đến những người đã ra đi, ra đi trong chiến thắng trọn vẹn như các thánh, hay ra đi mà chưa đạt được đích cùng như các đẳng linh hồn nơi luyện tội không phải Giáo Hội chỉ nhắc nhớ chúng ta nhớ đến bổn phận của chúng ta đối với những người đã chết nhưng Giáo Hội còn muốn chúng ta qua đó mà nhớ đến chính chúng ta nữa.
Nhớ cái gì?
1. Nhớ rằng cuộc sống này là cuộc sống có cùng có tận, và đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tiếp tục.
Bằng một câu chuyện rất đễ hiểu trong Tin Mừng của thánh Luca, câu chuyện về người phú hộ giầu có và Lagiarô khó nghèo, Chúa đã muốn bảo cho chúng ta rằng đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tồn tại.
Như vậy chết là một sự thật mà con người không thể không nghĩ tới.
Trong cái khoảng mênh mông vô vùng của thời gian và không gian chúng ta chẳng là cái gì cả.
Trong một bài về sự chết Đức Cha Bossuet đã nói: “Tôi sống được 80 năm hay có thể hơn nữa thí dụ 100 năm. Trở về với quá khứ, đã có lúc tôi không có. Nhìn về tương lai sẽ có lúc không còn tôi. Thời gian tôi sống chỉ là một khoảng thời gian rất hẹp trong cái khoảng mênh mông của thời gian. Tôi không là gì hết. Cái khoảng nhỏ hẹp không thể phân biệt tôi với hư vô và với nơi tôi phải đi tới”
Theo thống kê thì trung bình mỗi ngày có khoảng hơn 200.000 chết. Mỗi giờ hơn 8000 người. Mỗi phút hơn 130 và mỗi giây từ 2-3 người.
Quan Homidas người Ba tư, hồi đế quốc Ba tư còn giầu có vào hàng nhất nhì trên thế giới, một lần đi viếng Roma. Quan được chính vua Constantinô hướng dẫn đi tham quan một vòng kinh thành Roma. Nhà vua chỉ cho quan thấy những cảnh lộng lẫy và hy hoàng rực rỡ của kinh thành. Quả thực là Roma rất đẹp.
Sau cuộc tham quan Vua Constantinô muốn biết về cảm tưởng của quan, quan mỉm cười nói: “Điều tôi rất lấy làm lạ là ở một kinh thành lớn lao, đẹp đẽ và giầu có như thế này mà người ta cũng phải chết như ở những nơi khác”
Vâng chẳng có chỗ nào mà người ta không phải sự chết.
2. Nếu sự chết là như thế thì thái độ của chúng ta sẽ phải như thế nào?
a. Có nhiều người bi quan, bi quan đến mức độ muốn đầu hàng cái chết. Từ thái độ đó người ta bị dẫn đến một thái độ khác đó là người ta cho cuộc đời này là phi lý. Dù có sống như thế nào đi nữa rồi cũng kết cùng rồi cũng phải chết. Cuộc sống trở thành một thực tại phi lý hơn bất cứ một thực tại nào khác ở cõi đời này. Kết quả là một cuộc sống buông thả, muốn ra sao thì ra.
Đây quả là một thái độ nguy hiểm. Và chắc chắn đó không phải là thái độ của những người tin. Sống cuộc đời buông thả không những không thể đạt đến hạnh phúc đời đời như lời thánh Phaolô cảnh cáo mà ngay tại đời này cuộc sống như thế cũng đáng bị lên án một cách nặng lời.
b. Có người lại có thái độ khác. Họ dửng dưng trước sự chết. Họ không muốn nhìn vào sự chết như là một sự thật. Họ thản nhiên để cho cuộc đời của họ chìm sâu vào sự tận hưởng những giây phút của hiện tại mà không cần biết đến tương lai.
Đây cũng không phải là thái độ của những người tin như chúng ta.
Trên mộ của một người giầu có người ta đọc thấy một câu như thế này: “Đây là mộ của một người dại dột đã sống mà không biết tại sao mình sống”
Một trong những câu chuyện hay người ta thường kể để răn dạy người đời là câu chuyện ông vua giầu có với chú hề. Truyện như thế này: “Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như là không hề biết đến tương lai. Ông cũng chẳng màng đến thế giới mai sau. Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho ông mỗi khi ông cần tới. Theo nhà vua thì tên hề này là một người biết đem lại niềm vui cho những người khác nhưng lại là một người rất ngu đần. Một ngày kia không hiểu vì tức giận với anh ta truyện gì mà nhà vua cho gọi anh hề tới rồi trao cho anh ta một cây gậy gọi là thanh trượng quyền của nhà vua và nói với anh ta: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một người ngu hơn ngươi - trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.” Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm nhưng tìm mãi cũng không ra.
Thời gian qua đi. Tuổi già đến lúc nào nhà vua cũng không biết. Đến khi lực đã cạn, sức đã kiệt ông cảm thấy ngày ông gần đất xa trời không còn bao xa, ông cho gọi chú hề đến và tâm sự với anh ta:
- Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật xa.
- Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu cơ ạ. - Ta cũng không biết nữa. - Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua trở về? - Không bao giờ, không bao giờ con ạ.
Anh hề là một người ngu nhưng trong trường hợp này anh lại có một phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy mà trước kia nhà vua đã trao cho anh vào ngay bàn tay Đức Vua rồi thinh lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng và vui sướng vì đã tìm thấy được một người còn ngu hơn mình mà người đó lại là chính ông vua trước kia đã tự hào là mình thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần anh ta.
c. Vậy thì đâu là thái độ của chúng ta. Đây là thái độ mà chính Chúa Giêsu đã dậy: Hãy tỉnh thức.
Chúng ta không đầu hàng sự chết.
Chúng ta không lẩn trốn sự chết, coi nó như không có trong cuộc đời, nhưng chúng ta cam đảm đối diện với nó bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác của chúng ta nơi Tình yêu của Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu đã quả quyết với chúng ta: “Thiên Chúa không phải là Chúa của người chết nhưng là Thiên Chúa của người sống”(Mt 22,32).
Cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII để lại cho chúng ta nhiều câu chuyện rất cảm động. Một trong những câu chuyện đó là câu chuyện lúc Ngài sắp lìa đời. Theo lời kể của cha thư ký riêng của Ngài thì hôm đó trước khi Ngài nhắm mắt từ giã cuộc đời Ngài còn đủ nghị lực để nói với những anh em của ngài: Ông Xavier, Joseph. Alfred và bà Assunta:
“Đừng lo sợ cho tôi, Tôi sãn sàng, rất sẵn sàng. Ở trên trời chúng ta vẫn tiếp tục yêu thương nhau. Bây giờ không phải là lúc khóc. Đây là phút vui mừng và vinh quang. Tôi theo sát sự chết từng phút. Nó từ từ đang tới. Tôi rất bình an, ao ước được thoát ly khỏi xác thịt này và về cùng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Chúa ưa thích đến với con Như chân lý để dạy cho con biết tin Như sự sống để dạy cho con biết sống Như Ánh sáng để dạy con biết chiếu tỏa Như Tình yêu để dạy con biết yêu thương Như Niềm vui để dạy con biết ban phát Như Bình an dạy con biết sống chan hòa
*Nhưng lạy Chúa Giêsu
Có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề Có những lúc con muốn buông xuôi Để mặc cho dòng đời đưa đẩy Có những khoảng thời gian Con như mảnh đất khô khan cằn cỗi
* Xin cho con ánh sáng của Chúa
Để con biết lối mà đi Xin cho con tấm bánh của Chúa Để con đủ sức mà dấn bước Xin cho con Lời của Chúa Để con luôn vững một niềm tin Xin cho con sự sống của Chúa Để con lấy lại niềm hăng say, sự tươi tắn Niềm vui và sáng tạo
*Lạy Chúa Giêsu
Con thấy con cần Chúa Trong mọi giây phút của cuộc đời Ước gì cuộc đời của con Được rập khuôn cuộc đời của Chúa Để con biết sống như lòng Chúa ước mong Và sau cuộc đời này Con được hợp hoan Cùng với anh chị em con Trong Nhà Cha trên trời. Amen.
Là việc rất hợp lý, khi chúng ta mừng lễ các thánh ở trên trời ngày hôm qua, thì ngày hôm nay chúng ta lại kính nhớ các linh hồn ở trong luyện ngục. Ðó có thể nói chỉ là hai mặt của một mầu nhiệm, mầu nhiệm các thánh cùng thông công.
Chúng ta tin rằng tất cả những ai đã an nghỉ trong Chúa vẫn còn hiệp thông với cộng đồng các tín hữu Chúa đang sống ở đời này. Hết thảy mọi người còn liên kết với Ðức Yêsu, thì cho dù họ chết hay họ sống, họ vẫn ở trong Thân Thể mầu nhiệm của Người. Và vì thế họ vẫn liên hệ với nhau như các tế bào và bộ phận trong cùng một thân thể.
Mầu nhiệm hiệp thông này, cộng đồng Dân Chúa không bao giờ muốn quên. Ðặc biệt mỗi khi họp nhau cử hành phụng vụ, những người sống vẫn nhớ đến những anh em đã ra đi trước về đời sau. Trong số những người này, theo quan niệm thông thường, một phần giờ đây đang ở trên Thiên quốc, tức là đã xứng đáng ở trước mặt Chúa, diện đối diện; phần còn lại đang chờ được tinh luyện thêm để đáng được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa mà không phải hổ ngươi.
Người ta phân chia ra như vậy căn cứ vào lòng tin đánh giá rất cao sự thánh thiện của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người trong cuộc sống ở trần gian này. Nhưng chẳng ai có thể biết tỷ lệ giữa hai thành phần như thế nào. Chỉ biết đang khi Lời Chúa mạc khải về số các thánh trên trời thì nhiều không thể đếm được, chẳng có mạc khải nào về số các tín hữu ở trong luyện ngục. Ðó có thể là một điều phấn khởi cho chúng ta mỗi khi nghĩ đến số phận anh em đã ra đi trước chúng ta về đời sau.
A. Chúa Sẽ Tế Ðộ
Thật vậy, ngay Isaia cũng đã rao giảng cho Dân Chúa một niềm tin vô cùng phấn khởi. Có lẽ bấy giờ ông chỉ thấy Yêrusalem tiêu điều tang tóc vì bị quân thù tàn phá. Ông đã nói lên những lời tiên tri của Chúa để Dân đang khóc lóc tin tưởng vào Ðấng có thể tế độ. Ông nhìn thấy Chúa sẽ thết muôn dân một tiệc linh đình trên núi Sion. Các nước sẽ đổ về. Tiệc đầy cao lương. Rượu hãm từ lâu. Không còn thấy ưu sầu tang tóc nữa. Mọi người được lau sạch nước mắt. Dân Người hết mọi tủi nhục. Và đặc biệt nhất chính tử thần cũng bị vùi đi.
Như đã nói, có lẽ lúc đầu Isaia chỉ muốn đem lại cho con cái Yêrusalem một niềm tin vào sự thay đổi vận mạng trong một tương lai gần. Nhưng Thánh Thần đã đưa tâm trí ông đi thật xa và đã hướng dẫn tư tưởng ông về thời cánh chung, ông không nói riêng về vận mạng Yêrusalem nữa; nhưng đã nhìn thấy tương lai cuối cùng của moị dân tộc. Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Thánh của Người để tế độ mọi dân nước. Người làm như một hoàng đế lớn mở tiệc đãi muôn dân thiên hạ, vì chính Người đã giơ tay gỡ đi cái khăn liệm phủ khắp muôn dân và cái màn sô đan khắp các nước, đã từng che mắt con người khi còn sống và phủ lên thân thể họ khi đã chết. Người sẽ vùi dập tử thần, là kẻ thù cuối cùng của con người. Người sẽ ban lại cho nhân loại nhục nhã và khóc lóc vì tội lỗi, vẻ mặt hân hoan sáng sủa của dân được cứu độ.
Viễn tượng ấy thật là táo bạo. Người ta không thể nghĩ ra được. Ðó thật là mạc khải của Chúa. Người cho chúng ta thấy lòng thương bao la của Người. Và cả quyền năng cao cả của Người nữa, vì không oai hùng và kỳ diệu sau khi vùi dập được tử thần, nhấc được khăn tang che khắp mặt đất, làm cho nhân loại khóc than, tủi hổ được hân hoan tươi sáng? Chắc chắn Isaia có thể tin như vậy là vì ông biết Chúa là Ðấng tín thành sẽ giữ mọi lời giao ước. Ngay từ ngày gọi Abraham, Người đã chẳng hứa sẽ chúc phúc cho dòng dõi của ông và muôn dân thiên hạ sao? Quang cảnh thời cánh chung mà Isaia mô tả trong bài sách hôm nay đã tựa vào Lời Chúa và vào chính Người. Thế nên ông đã kết thúc bằng những câu:
“Trong ngày ấy, người ta sẽ nói: này đây Thiên Chúa của ta; chính nơi Người, ta trông cậy… Ta hãy hân hoan sung sướng trong ơn tế độ của Người”.
Tuy nhiên, đối với chúng ta hiện nay, niềm tin vào hạnh phúc mai ngày còn có những cơ sở rõ ràng và chắc chắn hơn nữa, mà bài Tin Mừng hôm nay là một. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa theo tác giả Yoan.
B. Người Ta Sẽ Ðược Sống Ðời Ðời
Theo mạch văn, hôm ấy Ðức Yêsu đang nói với người Do Thái về Bánh hằng sống… Họ đã đến tìm Người vì hôm trước thấy phép lạ Người nuôi mấy ngàn dân với 5 cái bánh và 2 con cá. Người bảo họ hãy tìm kiếm Bánh hằng sống chứ đừng chỉ lo có bánh ăn vào rồi lại đói. Họ xin Người giới thiệu thứ Bánh ban sự sống muôn đời đó. Và Người đã làm cho họ hiểu: Bánh đó là chính Người đã được Chúa Cha sai đến trần gian. Người đã nói lời hằng sống cho họ. Họ hãy tin và giữ Lời Người để được sống muôn đời.
Nhưng Bánh hằng sống cũng còn là chính Người nơi mầu nhiệm Thịt và Máu Người… Ðó là điều Người muốn tuyên bố trong đoạn Tin Mừng Yoan hôm nay.
Ðối với chúng ta đã có đức tin, những lời này thật là sáng sủa. Nhưng đối với người Do Thái thời bấy giờ và người chưa có đức tin ngày nay, đó là những lời rất sống sượng. Ai mà chấp nhận được? Trước hết, ai có thể lấy thịt máu mình cho người khác ăn? Họa chăng chỉ có nơi những bộ lạc man rợ ăn thịt người. Và cho dù có như vậy đi nữa, thì kết quả cũng chẳng thể nào có sự sống đời đời.
Thế nên, ở đây Ðức Yêsu đã không nói theo nghĩa đen. Chẳng bao giờ Người nghĩ đến chuyện có thể đem máu thịt trong thân thể hữu hình của Người cho người ta làm của ăn và của uống. Tuy nhiên khi nói như vậy, Người đã chắc chắn sẽ ban Thịt Máu của Người cho người ta. Và Người đã làm điều đó trong cuộc tử nạn. Người đã nộp mình và đổ máu ra vì phần rỗi của mọi người.
Cụ thể, việc ấy đã xảy ra một lần trong lịch sử, bởi vì Ðức Yêsu chỉ có một thân thể hữu hình thôi. Thân thể thịt máu ấy, Người đã ban cho nhân loại khi chấp nhận chịu nộp trong tay lý hình để chúng làm cho Người phải đổ máu ra cho đến giọt cuối cùng. Nhưng vì là Thiên Chúa, Người còn làm được việc mà chẳng con người nào có khả năng làm. Người có thể làm cho việc ban Thịt và Máu cho loài người vượt ra khỏi khuôn khổ thời gian và không gian.
Quả vậy, chiều tối trước ngày chịu nạn, Người đã ngồi bàn ăn với môn đệ. Và trong bữa ăn này Người đã cầm lấy bánh rượu đưa cho môn đệ và bảo họ hãy cầm lấy mà ăn mà uống vì đó là Mình và Máu Người sẽ bị nộp và sẽ đổ ra vì phần rỗi của loài người. Lúc ấy, Lời Người nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay mới rõ ràng. Người ta mới thấy làm sao Người có thể ban Thịt và Máu Người làm của ăn của uống. Và bí tích Thánh Thể này ban sự sống, vì Mình Máu Chúa ban nơi đây là để chịu nộp và đổ ra trong mầu nhiệm Thánh giá vì phần rỗi của loài người.
Chúng ta tin như vậy và không cần giải thích thêm. Chúng ta chỉ cần lưu ý một điểm: Chúa đã ban Thịt Máu Người không những cho người ta được sống, sống sự sống Thiên Chúa, mà còn cho được sống đời đời, là sống mãi mãi; không phải sống sự sống trần gian nhưng là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chính tư cách trường sinh này làm cho “Bánh hằng sống” của Chúa ban khác với mọi lương thực khác, kể cả manna mà người Do Thái đã được ăn nơi sa mạc, vì những kẻ ăn manna cũng đã chết; nhưng những người ăn Bánh của Chúa sẽ được sống muôn đời. Và để khẳng định rõ hơn, Người đã nói: Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết; nghĩa là Mình-Máu Chúa không giữ người ta trong sự sống ở đời này, mà chỉ đảm bảo sự sống đời đời của họ. Hiện nay sự sống ấy còn bị che giấu trong thân xác của họ, nhưng khi xác đất vật hèn này đã bỏ sự hư nát đi, sự sống ấy sẽ tỏ hiện và tồn tại muôn đời.
Ðó là niềm tin của chúng ta. Nó củng cố và giải thích niềm tin của Isaia cũng như của mọi người công chính. Ai ai cũng muốn sự sống đời đời và hạnh phúc trường sinh. Nhưng phải đợi Chúa Yêsu đến đem lại bảo chứng cho lòng trông đợi của người ta. Người thí mạng sống mình để tiêu diệt tội lỗi và sự chết. Việc phục sinh của Người làm chứng Thiên Chúa đã vùi dập tử thần và cất nhắc chiếc khăn tang trùm trên các nước. Người ban Thịt Máu Người cho chúng ta nơi Bí Tích Thánh Thể để chúng ta được sự sống đời đời ngay từ bây giờ. Chúng ta hãy đón nhận, giữ lấy và phát triển cho đến ngày đi vào cõi trường sinh. Bao giờ và thế nào?
Chúng ta hãy nghe lời thư Phaolô.
Với những tâm tình như vậy, chúng ta hôm nay hãy dâng lễ và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, đặc biệt cho bà con quyến thuộc và bằng hữu của chúng ta.
Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời được cử hành vào ngày 2 tháng 11 hằng năm, được thánh đan viện phụ Odilô của tu viện Cluny (994-1048) khai sáng.
Trong ngày đó, ngài ra lệnh các linh mục thuộc dòng Cluny phải dâng thánh lễ để cầu nguyện cho tất cả những người trong dòng và các ân nhân của dòng đã qua đời. Ngài ra lệnh cho các đan viện trực thuộc Cluny cũng thực hành như thế. Chúng ta còn giữ được văn kiện của thánh Odilô ghi vào năm 998.
Sau đó, lễ cầu cho các linh hồn phát triển rất nhanh và bung ra khỏi dòng tu. Từ thế kỷ XIV chúng ta đã gặp thánh lễ này trong phụng vụ Rôma. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Cựu Ước mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người bằng hình ảnh bữa tiệc (Cn 9,1-5). Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu cũng dùng ngôn ngữ của bữa tiệc như “ăn” và “uống”. Tuy nhiên bữa tiệc này rất đặc biệt vì thức ăn thức uống không phải là thực phẩm thông thường cho dù là cao lương mỹ vị đi nữa, mà là chính thịt máu Chúa Giêsu. Bởi đó hiệu quả của bữa tiệc này không phải chỉ là bồi dưỡng sức khoẻ tạm thời cho thể xác mà là cho con người được sống thật, sống muôn đời.
2. Các ngôn sứ Cựu Ước diễn tả ơn gọi của họ bằng hình ảnh “nuốt” lấy Lời Chúa (x. Gr 15,15-21; Êd 3). Nghĩa là các vị ấy rất thèm khát Lời Chúa, muốn tiêu hóa Lời Chúa, cho Lời ấy thấm nhập vào thân thể mình. Hiểu theo bối cảnh ấy, “Ăn” thịt Chúa Giêsu và “uống” máu Ngài nghĩa là khao khát được kết hợp rất thân thiết với Chúa đến nỗi có thể nói là đã trở nên một thịt một máu với Ngài.
3. Khi ghi lại những dòng này, thánh Gioan cũng nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Đó chính là bữa tiệc thịnh soạn mà Thiên Chúa dọn cho loài người, và đó cũng chính là nguồn sức sống cho loài người.
B.... nẩy mầm.
1. Hôm qua lễ Các Thánh, chúng ta nhớ đến những tín hữu ở thiên đàng. Hôm nay lễ các linh hồn, chúng ta nhớ đến các tín hữu trong luyện ngục. Còn chúng ta là những tín hữu hiện còn tại thế. Bài Tin Mừng Gioan về bữa tiệc sum họp cho chúng ta biết hạnh phúc tuyệt vời và tối hậu sau một đời sống ở trần gian là được kết hợp thân thiết với Chúa trong bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên đàng. Ngoài thứ hạnh phúc đó ra, không có gì là hạnh phúc thật cả.
2. Thánh Lễ là dịp chúng ta nếm trước hạnh phúc sum họp ấy. Trong thánh lễ chúng ta kết hợp với Chúa, chúng ta kết hợp với các thánh trên trời và những tín hữu trong luyện ngục, chúng ta cầu nguyện để cuối cùng chúng ta và tất cả những người thân của chúng ta đều được sum họp với Chúa và các thánh trong bàn tiệc vĩnh cửu.
3. Hãy hỏi các linh hồn. Họ sẽ cho chúng ta biết đâu là những giá trị thật của cuộc đời mà ta cần theo đuổi.
4. Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
5. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
Hằng đêm, mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về công sở, trường học...
Những bước chân hối hả qua lại...
Bên vệ đường, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi qua...
Và rồi, đôi chân con bước tới, ngập ngừng... rồi lại bước đi
Trên ti vi, người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định... rồi lại thôi!
Con là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên thánh giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi phục sinh, Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống.
Xin cho con luôn biết cho đi, cho đi mãi
không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
6. Đoạn kết của câu truyện người phú hộ giàu có và kẻ ăn xin nghèo khổ Ladarô khiến tôi phải suy nghĩ. Hai con người, hai cách sống, hai kết cộc khác nhau: người được ân thưởng, kẻ bị luận phạt. Thiên Chúa đã tách biệt họ ra như tách biệt người lành khỏi kẻ dữ, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Là chiên hay dê, tôi có quyền chọn lựa. Hôm nay tôi sống thế nào thì ngày đó tôi sẽ bị xét xử như vậy. Thiên Chúa là vị thẩm phán uy quyền nhưng cũng đầy tình thương. Ngài cho tôi thời gian để sống, để chọn lựa, để thực hiện vận mệnh đời mình. Để khỏi bị kết án như người phú hộ, tôi phải sống cho Chúa và cho anh em tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mỗi ngày như là ngày cuối đời con, để con luôn biết yêu thương giúp đỡ mọi người với những gì con có thể. (Hosanna)
Tháng 11 là đang giữa mùa thu, nếu bạn ở châu Âu hay ở miền Bắc Việt Nam, bạn sẽ thấy được toàn khung cảnh lá vàng rực mọi nơi, nhà thơ Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu đã diễn tả mùa thu:
“Em không nghe mùa thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
Một cơn gió thổi đến những chiếc lá vàng rơi tung bay, lá vàng rơi tung bay trong gió giữa thu trong tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu - Nguyễn Khuyến).
Lá thu rơi xuống làm trơ trụi lá cành, không còn sức sống trong băng giá của mùa đông (ở châu Âu), biểu tượng của thân phận các tín hữu đã qua đời đang thanh luyện cho ngày sum họp bên Chúa.
Mong trở về bên Chúa như cây cối đợi xuân sang: Tất cả đều trổ bông tươi nở với một sức sống mới như các thánh Nam Nữ đang được hưởng Nhan Thánh Chúa, nơi Chúa Giêsu hứa và dọn sẵn (x. Ga 14,2-4), Ngài xin cùng Chúa Cha cho chúng ta (x. Ga 17,24).
Suy niệm
Chúng ta thường tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính của các thánh tông đồ: ”Tôi tin các thánh cùng thông công”. Bởi lẽ đó, tin tưởng như vậy, ngày 1/11, đức tin chúng ta hướng về trời, chiêm ngưỡng các thánh Nam Nữ trên trời để tạ ơn, với tâm hồn quyết tâm noi gương các ngài - những người đã chiến thắng trên Thiên quốc được gọi là Giáo hội Chiến Thắng, xin các ngài phù trợ cho những người đang sống trên đường lữ thứ trần gian được gọi là Giáo hội Chiến Đấu, để được về trời gia nhập Giáo hội Chiến Thắng khi “nhắm mắt lìa đời”. Nhưng chúng ta cũng không thể quên hiệp thông với các linh hồn nơi luyện hình là Giáo hội Đau Khổ - “Các thánh đang còn lữ thứ”.
Việc cầu nguyện cho các tín hữu qua đời có nguồn gốc từ thời rất xa xưa: Bắt đầu ở thời Cựu ước xuyên qua Tân ước và là niềm tin của Giáo hội trải qua thời gian:
Trong Cựu ước, Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do Thái, đã dâng lễ tế đền tội cho những tử sĩ (x. 2Mc 12,38-46), ông xác tín rõ: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (2Mc 12,45).
Chúa Giêsu đề cập đến một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào vì một số tội: Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (x. Mt 5,26).
Theo thánh Phaolô, những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (x. 1Cr 3,13).
Chính vì thế Giáo hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464). Cho nên, Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về mầu nhiệm Giáo hội nói lên niềm xác tín: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.”...
Thật thế, bằng lời cầu nguyện và hy sinh của anh chị em đang sống, các linh hồn được gia nhập vào hàng ngũ Giáo hội Chiến Thắng và bầu cử lại cho anh chị em đang ở Giáo hội Chiến Đấu như thánh Công đồng tuyên tín: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha.”...
Giữa ba Giáo hội: Chiến Thắng - các thánh Nam Nữ, Chiến Đấu - chúng ta, những người đang sống lữ hành trần gian và Giáo hội Đau Khổ là các tín hữu đang thanh luyện, liên đới hiệp thông bằng tình yêu, tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính tình yêu thúc đẩy làm cho những người đang sống nhớ đến những người đã khuất, làm những hy sinh và cầu nguyện cho các đấng đang thanh luyện, được vào cõi hằng sống gia nhập Giáo hội Chiến Thắng, và cũng chính tình yêu, các thánh Nam Nữ nơi Giáo hội Chiến Thắng cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta những người đang sống chiến đấu. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người được bất tử khi nhớ tới nhau qua sự hy sinh với lời cầu nguyện hàng ngày.
Ý lực sống
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời (Ga 11,25-26)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao Việt Nam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta. - Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta. - Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót. - Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kìa! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng quá mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thứ ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì quá chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
---------------------------------
II. THÁNH LỄ II
– Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
---------------------------------
III. THÁNH LỄ III
– Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời” (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
“Ai về tôi gửi buồng cau, Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy. Ai về tôi gửi đôi giầy, Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
“Ơn hoài thai, to như bể! Công dưỡng dục, lớn tợ sông! Em nguyện ở vậy không chồng, Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con”.
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa, Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa. Mai sau cha yếu, mẹ già. Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.
Tháng 11 lại về, bầu trời như có chút u buồn, cái buồn của trời lập đông mau tối nồng thêm cái không khí se lạnh làm cho người ta cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về người cha, người mẹ đã không còn. Nghĩ về cuộc đời thật chóng qua như loài hoa sớm nở chiều tàn. Nghĩ về những người cha người mẹ mà công đức của họ quá cao vời khiến chúng ta ngậm ngùi tưởng nhớ và mong làm một chút việc gì đó có ích cho mẹ cha.
Thật chạnh lòng khi nhớ về những người đã khuất. Thật nuối tiếc về tình yêu mẹ cha dành cho ta nay đã không còn, chỉ đọng lại trong ta một nỗi buồn miên man.
Có một bạn trẻ hồi ức về tuổi thơ của mình. Một tuổi thơ mất mẹ khi còn quá nhỏ nên chẳng hiểu hết nỗi đau. Chỉ thấy vắng mẹ rồi đơn sơ hỏi cha rằng:
“Một ngày hỏi mẹ ta đâu? Cha buồn cố nén giọt sầu hôn con Bảo rằng mẹ đã lên non Suối vàng ở đó nhặt xong mẹ về
Đứa trẻ ngày lại ngày ngóng trông mẹ về mà sao cứ hun hút bóng mẹ. Suối vàng ở đâu mà mẹ nhặt mãi không về. Con ngày đêm mong nhớ. Mẹ vẫn biền biệt. Con tưởng rằng vì ham nhặt suối vàng mà mẹ chẳng chịu về. Khiến lòng buồn và lệ cứ rơi.
“Sớm chiều trông ngóng mẹ quê Ham chi giàu có mẹ ơi! con buồn Mưa tuôn nước đổ trên nguồn Lệ con tuôn mãi mỏi mòn tháng năm.
Rồi nỗi buồn lại nối tiếp nỗi buồn. Khi đứa trẻ mồ côi nhận ra nỗi đau vì mẹ đã về suối vàng là vĩnh viễn không về trần gian, thì cũng là lúc ngậm đắng nỗi đau của kẻ mồ côi cả mẹ lẫn cha.
“Nhớ nhung ngậm đắng âm thầm Thế rồi cha cũng bạc phần ra đi Lên non tìm mẹ làm chi? Giật mình …. con hiểu biệt ly – vô thường.
Cuộc đời thì vô thường, nay còn mai mất. Dẫu biết vậy, nhưng mất cha mất mẹ là một mất mát mà không có gì bù đắp được. Vì mẹ cha là một tác phẩm tuyệt đẹp về tình yêu con người, đó chính là bông hoa đẹp nhất của tạo hóa, là những nốt nhạc trầm bổng, những cung thanh cung điệu của bản nhạc giữa cuộc đời này. Tình yêu mẹ cha đã làm nên niềm vui và hạnh phúc cho con. Tình yêu ấy đã làm nên biết bao hình ảnh đẹp về tình người cho con cái.
Hôm nay, trong không gian nghĩa trang đang ấm dần bởi những nén hương, những ngọn nến của biết bao người con đang thắp lên trên phần mộ của những bậc sinh thành. Chúng ta cũng trào dâng niềm cảm mến tri ân về biết bao nghĩa cử cao đẹp mà cha mẹ đã làm cho chúng ta khi còn sống. Họ đã lặng im nơi chín suối hay dưới nấm mồ hoang lạnh. Điều họ cần nơi chúng ta không chỉ là một nén hương tỏ lòng tri ân, mà quan yếu là nhớ đến họ để cầu nguyện cho họ, để làm việc hy sinh phúc đức cho họ. Đây là bổn phận đối với Thiên Chúa mà họ phải làm khi còn sống, thế nhưng trong thân phận bất toàn họ đã thiếu sót. Họ đã không chu toàn đủ vì còn phải lao nhọc vì chúng ta. Họ còn phải hy sinh vì chúng ta. Nay họ cần được thanh luyện để xứng với tình yêu của Chúa. Thế nhưng, “lực bất tòng tâm”. Họ lại không còn cơ hội hay khả năng để lập công cho mình.
Vì thế, trong đạo hiếu Việt Nam luôn mời gọi con cái hãy biết đền ơn đáp nghĩa mẹ cha qua những thánh lễ cầu nguyện cho tổ tiên, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho cha mẹ chúng ta. Sách giáo lý Công Giáo đã viết:
“Chúng ta hãy cứu giúp và tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Nếu con cái ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của ông, thì tạo sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy? Vậy chúng ta đừng ngần ngại giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ”.
Ước mong tháng 11 sẽ là cơ hội để chúng ta tỏ lòng tri ân với cha mẹ, ông bà, anh em bạn hữu không chỉ bằng nén hương thắp lên trước phần mộ mà bằng cả tấm lòng mong muốn làm điều gì đó để đền bù cho họ vì những thiếu sót trong thân phận con người. Xin cho các linh hồn sớm được nghỉ yên trong tình yêu Chúa qua những lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta trong tháng dành cho các đẳng linh hồn này. Amen
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:
Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...
Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.
Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?
Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.
Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Lửa” luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.
Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.
Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.
Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:
“Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:
“Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:
“Mẹ già ở túp lều tranh, Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:
“Ai về tôi gởi buồng cau, Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy. Ai về tôi gởi đôi giầy, Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài “Ơn nghĩa sinh thành” để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.
“Uống nước nhớ nguồn Làm con phải hiếu Anh ơi hãy nhớ năm xưa Những ngày còn thơ Công ai nuôi dưỡng. Công đức sinh thành Người hỡi đừng quên Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời Nhớ công người sinh dưỡng Đó mới là hiền nhân Vì ai ta nên người tài ba Hãy nhớ công sinh thành Vì ai mà có ta. Uống nước...
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...”.
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
“Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ng