Bổn phận với đồng loại. 11/11 – Thứ Hai tuần 32 thường niên. –, giám mục. Lễ nhớ. "Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".
Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không hay nào đó bị coi là gây sốc hay phản cảm. Có những chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan. Xì-căng-đan gốc là một từ Hy Lạp dùng trong Tân Ước (scandalon) để chỉ một viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9), hay một duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41). Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan. Nơi bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng về những xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu. Ngài nhìn nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1). Nhưng Ngài lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó. Cột cối đá lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi thì tốt cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội cho một trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2). Những kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của Chúa. Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người. Tuy hiền lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng với những kẻ làm gương xấu khiến người khác phạm tội. Ngài muốn bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh. Ngài không muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ, khiến họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến. Trong bài diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô, thánh Phaolô đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên, “giảng dạy những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30). Làm cớ cho người khác phạm tội là một tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú. Chúng ta cho mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng. Nhưng khi làm như vậy, chúng ta lại không để ý đến những thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm của những người anh em yếu đuối trong cộng đoàn, cũng như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13). Thánh Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô. Không thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em đã được Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11). Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay, cái tốt và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng. Một biến cố mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết. Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn, khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề. Làm thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây? Làm thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã? Mong có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai khi tiếp thu đủ thứ thông tin từ mọi nguồn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt. để khi thấy con, người ta phải nói: “vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”. Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế, con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều. “Chớ chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!” Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói: “Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!” Amen. (Chân phước Charles Foucauld)
Con người thường sống theo xác thịt. Chỉ biết có mình. Dễ với mình. Khó với người. Hôm nay Chúa dậy ta sống theo Thần Khí. Một chân trời mới mở ra. Người ta ngặt nghèo với bản thân. Không dám làm điều gì xấu. Không chỉ là làm điều xấu cho tha nhân. Thậm chí không được làm gương xấu nữa. “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã”. Nhưng đối với tha nhân lại phải rất rộng lượng. Phải tha thứ mãi mãi. “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha cho nó”. Ta chỉ đạt tới cảnh giới đó khi có đức tin vững mạnh. Mọi sự sẽ theo sự điều khiển của ta. Ta có đức tin vững mạnh khi hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Khi đó ta có sức mạnh của Thiên Chúa. Nhìn người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Đối xử bằng tấm lòng của Thiên Chúa. Yêu thương bằng trái tim của Thiên Chúa.
Sách Khôn ngoan dạy ta đạt tới cảnh giới đó bằng một tiến trình. Yêu chuộng đức công chính. Thành tâm kiếm tìm Chúa. Khiêm nhường và tuyệt đối tin tưởng. Không lý luận quanh co. Không thử thách Thiên Chúa.Không sống theo xác thịt. Tránh xa thói lọc lừa gian dối. Khi ta thanh tẩy tâm hồn rồi, ta sẽ được Đức Khôn Ngoan. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở trong ta. Thần Khí sẽ ngập tràn cõi đất. Sẽ “bảo toàn mối hợp nhất giữa muôn vật muôn loài. Sẽ thấu hiểu mọi lời mọi tiếng” (năm lẻ).
Khi đạt tới cảnh giới đó Nước Trời hiển trị. Muôn người sẽ sống trong hạnh phúc. Đó chính là trách nhiệm của đạo Chúa. Vì thế những người môn đệ phải rèn luyện bản thân. Sao cho có đức tin vững mạnh. Sao cho hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để có tấm lòng Thiên Chúa. Nghiêm ngặt với bản thân. Rộng lượng với tha nhân. Đó chính là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ người môn đệ Ti-tô. Và căn dặn ông phải đào tạo người như thế: “Thật vậy, giám quản với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối” (năm chẵn).
Chỉ khi đạt tới Thiên Chúa ta mới hoàn toàn làm chủ bản thân. Mới thấu hiểu và yêu mến anh em thật tình.
Trong tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: "Tôi có phải là người giữ em tôi đâu!"
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không có liên hệ đến người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.
Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông". Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách nhiệm".
Trong một buổi lễ qui tụ hàng ngàn người chống đối ông Estrada, Ðức Hồng Y Sin, tổng giám mục Manila, cũng đã thách thức nhà lãnh đạo Phi lúc đó rằng: "Liệu ông có thể nhìn thẳng vào nhân dân Phi, nhất là giới trẻ, và nói với họ rằng ông là một con người gương mẫu cho họ không". Người dân Phi nào cũng biết rằng ông Estrada đã và đang dan díu với nhiều phụ nữ cũng như cờ bạc và rượu chè thâu đêm suốt sáng. Nhà lãnh đạo của một quốc gia được trao phó cho trách nhiệm phục vụ công ích. Công ích ấy không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế, nó còn bao hàm cả những giá trị tinh thần và đạo đức. Do đó, ngoài tài năng, nhà lãnh đạo nào cũng còn được đòi hỏi phải có tác phong đạo đức. Nói cách khác, ông được đặt vào vị trí cao nhất trong nước để trở thành ngọn đèn pha cho nhiều người. Trong cụ thể, ông phải là một mẫu người đáng được đề cao về tư cách làm người, về đời sống gia đình, v.v... Ðây cũng là trách nhiệm mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Thật ra, đây không phải là trách nhiệm dành riêng cho những môn đệ của Chúa Giêsu mà là trách nhiệm làm người. Ðã làm người thì ít hay nhiều, cách này hay cách khác, ai cũng phải có trách nhiệm với những người anh chị em của mình.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp cụ thể về trách nhiệm đối với tha nhân: một là phải tránh làm gương mù cho anh em, hai là phải tha thứ cho anh em. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu làm cho chúng ta nhớ lại câu hỏi mà Thiên Chúa đã đặt ra cho Cain sau khi Cain đã sát hại em mình là Aben: "Cain, em của ngươi đâu?" Cain đã trả lời: "Tôi có phải là người đã giữ em tôi đâu". Câu trả lời của Cain là lời thú nhận về một trách nhiệm mà ông muốn chối bỏ. Thái độ của Cain vẫn thường được lập lại trong cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu chúng ta. Làm thiệt hại người anh em bằng nhiều cách khác nhau đã đành, đối xử với người anh em như một phương tiện đã đành, chúng ta cũng thiếu trách nhiệm đối với người anh em bằng thái độ dửng dưng. Mặc ai sống chết, chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng chúng ta.
Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ chỉ bị xét xử dựa trên cách cư xử của chúng ta đối với người anh chị em của chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đồng hóa với mỗi tha nhân. Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được tỉnh thức để nhận ra Ngài trong mỗi một tha nhân và đối xử với người ấy như với chính Ngài.
Đức Giêsu nói: “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.”
Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bẩy lần, rồi bẩy lần nó trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc. 17, 1b+4-5)
Đức Giêsu ban cho các môn đệ mấy quy tắc về cách cư xử của các phần tử trong Giáo hội.
Loại bỏ gương mù:
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không dựa vào sự khôn ngoan loài người. Kẻ xấu dùng gương mù để bóp nghẹt đức tin và khiêu khích sự chống đối, có khi nổi loạn chống cả Thiên Chúa. Những người nhỏ bé như người nghèo khó, bị áp bức, bị khinh chê, rất dễ xúc động khi gặp những người giàu, những luật sĩ phản đối và gây cho họ sa ngã, mất tin tưởng và hy vọng. Con người ta dễ gây ra gương mù và mắc vào tội lỗi đáng chịu hình phạt nặng nề. Người ta không thể tha thứ gương mù trong Giáo hội, như thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô.
Toa thuốc tha thứ:
Giáo hội là một cộng đồng anh chị em tội lỗi đang được thánh hóa. Khi ai phạm tội và gây lây lan cho những người khác, người ta phải lo giúp họ ăn năn trở lại. Lòng thương người phải noi theo lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, phải biết tha thứ, dù bảy lần trong một ngày, nếu là cần thiết.
Sự tha thứ chân thực do lòng yêu mến. Người ta chỉ có thể giúp anh chị em mình và hướng dẫn họ ăn năn nếu có ý thức hiểu biết cảnh ngộ cùng khốn và đau khổ của họ, cần có lòng tốt vô vị lợi và xả kỷ.
Sức mạnh của lòng tin:
Ý thức rõ ràng về lời kêu gọi của Đức Giêsu, các tông đồ cầu nguyện Người ban thêm lòng tin cho mình. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các ông thấy lòng tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức rất mạnh mẽ. Lòng tin tự phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa đem lại can đảm và sức mạnh để có lòng tha thứ. Và đồng thời, còn làm cho kẻ tội lỗi ăn năn trở về.
Sự phó thác này tăng thêm tình yêu cho các phần tử của Hội thánh và rất cần để chống lại những ảnh hưởng chia rẽ của tội lỗi. Và tình yêu có sức hoạt động mạnh mẽ và hữu hiệu để tăng thêm lòng tin của các phần tử của Hội thánh.
Xem thêm CN 26 TN B và thứ Năm tuần 7 TN -CN 23 và 24 TN A - thứ Ba tuần 3 MC, thứ Tư và thứ Năm tuần 19 TN
Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”. Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại, không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!
Thật thế, Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đề cao đời sống chứng nhân nơi người môn đệ khi Ngài dùng phương pháp phản biện để làm toát lên tính quan trọng của gương sáng. Ngài nói: “Vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này”. Nêu gương xấu là điều tắc trách, nhưng gây nên cho những trẻ nhỏ, những người bé mọn, người kém đức tin là một tội ác vì tính chất nguy hiểm khôn cùng của nó!
Gương xấu được ví như một thứ ôn dịch và có nguy cơ lây lan rất cao.
Gương sáng thì khó làm, khó sống, nhưng gương xấu thì quá dễ làm, dễ bắt trước. Làm gương sáng cần phải có một sự cố gắng cao với nhiều hy sinh, từ bỏ. Nó được ví như một người leo núi với tất cả sự cố gắng, hy sinh... Còn gương xấu thì thực sự chẳng khác gì một người buông mình xuống núi, chúng ta không cần phải cố gắng thì vận tốc rơi xuống cũng sẽ nhanh chóng...
Như vậy, với bản tính của con người, chúng ta dễ hướng chiều về điều xấu hơn điều tốt. Dễ làm điều bất chính hơn điều thiện. Vì thế, tội lỗi luôn có cơ hội len lỏi vào trong suy nghĩ và hành động của chúng ta hơn là điều tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần nhớ lại ánh sáng đức tin ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để sống cuộc đời nhân chứng cho xứng đáng với ơn đã lãnh nhận. Cần làm cho hình ảnh Đức Kitô hiền lành, dễ thương, giàu lòng thương xót ngay trong cuộc sống, qua lời nói, hành động và việc làm của chúng ta.
Tuy nhiên, để sống được điều đó, chúng ta cần phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Bởi vì nếu không có đức tin, chúng ta khó có thể tha thứ, kiên trì, tôn trọng và nâng đỡ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con đã trở nên những người gây ra gương mù gương xấu cho người khác. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con can đảm, trung thành sống cuộc đời chứng nhân. Amen.
Sứ điệp: Khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành phần tử dân Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta phải làm chứng cho sự thánh thiện: không làm gương xấu và giúp nhau sửa lỗi lầm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con người có tính xã hội. Chúng con không sống đơn độc, nhưng lệ thuộc lẫn nhau. Khi con sống, là con sống với nguời khác, sống cho và sống nhờ người khác. Cách riêng trong đời sống tinh thần, người trên phải hướng dẫn giáo dục người dưới, người đi trước chỉ đường cho kẻ đến sau. Anh em bạn bè phải giúp nhau nên tốt. Tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm về nhau trong tình huynh đệ.
Lạy Chúa, được gia nhập Hội Thánh, chúng con phải chịu trách nhiệm giúp nhau sống thánh thiện hơn. Con có bổn phận lo cho chính minh và còn có trách nhiệm với tha nhân đang sống chung quanh con, nhất là đối với trẻ nhỏ. Thế mà, suốt bao năm tháng qua, không biết được mấy lần con là ngọn đèn dẫn dắt người khác bước đi theo con đường của Chúa. Và có lẽ cũng không thiếu những lúc con đã trở nên chướng ngại vật cản đường anh em đến với Chúa, vì đã làm gương xấu cho họ. Con đã dửng dưng truớc lỗi lầm của tha nhân vì chưa biết khích lệ nhau nên thánh.
Lạy Chúa Giêsu, con sợ lời cảnh báo của Chúa. Xin Chúa giúp con sống đời chứng nhân bằng những gương sáng, bằng cuộc sống thánh thiện trong môi trường hằng ngày. Xin giúp con thay vì thúc đẩy lôi kéo nhau đến tội lỗi, thì trái lại, biết dẫn đưa nhau tới đời sống thánh thiện bằng lời nói, bằng việc làm, và bằng cả cuộc sống. Amen.
Ghi nhớ: “Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó”.
1. Hôm nay Đức Giêsu dạy các tông đồ những đức tính phải có trong đời sống cộng đoàn: chúng ta không được làm gương xấu, xúi giục hay nên cớ cho người khác phạm tội bằng bất cứ hình thức nào vì đời sống của chúng ta ảnh hưởng đến anh chị em chung quanh. Chúng ta phải biết góp sức xây dựng cho nhau trong yêu thương, quảng đại và tha thứ. Khi chúng ta đối diện với cuộc sống, điều quan trọng là phải có đức tin vững mạnh để chiến đấu với thử thách cam go. Đức tin càng lớn mạnh, con người càng làm được những điều phi thường.
2. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói đến hai bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không thành cớ vấp phạm cho người khác; hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh thánh đã nói đến tính liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adong đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”.
3. Đừng nên cớ vấp ngã. Chúng ta có thể hiểu “Cớ vấp ngã”có thể là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chết có lẽ không xấu, nhưng do ở trong một hoàn cảnh nào đó không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Ví dụ như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì nó sẽ thành cớ khiến nhiều người vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể có nhiều người, tất nhiên không thể không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy “đề phòng” đừng trở thành cớ vấp ngã, nhất là đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho người khác. Đức Giêsu phán xét rất ngặt đối với chúng ta về vấn đề này.
4. Tha thứ không giới hạn. Chúng ta thường nói “quá tam ba bận”, như thế đã là hiểu, ấy thế mà trong Tin Mừng Chúa dạy phải tha thứ tới bảy lần. Hơn nữa, theo ngôn ngữ Do thái, con số 7 là con số đủ, tha đến 7 lần có nghĩa là không đưa ra một hạn định nào cho sự tha thứ. Đức Giêsu trên Thập giá đã “kêu xin Chúa Cha” tha thứ cho người đóng đinh mình; thánh Têphanô khi bị ném đá cũng “cầu xin Chúa” tha thứ cho những kẻ bách hại... Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ.
5. “Quá tam ba bận” đã là quá nhiều để có thể thông cảm cho người lầm lỡ. Ấy vậy mà Đức Giêsu dạy ta tha thứ không chỉ có thế. Thử tưởng tượng, một người làm việc một ngày tám tiếng mà lỗi phạm đến bảy lần, mà cứ mỗi lần như thế ta lại phải tha thứ!!! Hành động tha thứ chỉ phát xuất được từ chính “tâm nhân hậu”. Tâm nhân hậu không chỉ là yêu thương thế nào cũng được, mà là yêu bằng một trái tim thật lớn, đến độ không sự xúc phạm nào có thể làm quị ngã; và là yêu bằng một tình yêu sung mãn đến độ tha thứ luôn mãi mà không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ bị nghèo đi. Tâm nhân hậu như thế chỉ có nơi Đức Giêsu. Nhưng ta có thể xin Ngài cho ta được điều đó (5 phút Lời Chúa).
6. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta đối với đời sống đức tin của người anh em chúng ta. Sống đức tin là trở thành người trách nhiệm đối với tha nhân. Sống đức tin thiết yếu là là ràng buộc vào số phận của người anh em mình. Không có cuộc sống đức tin nào, dù âm thầm đến đâu mà không tạo nên một ảnh hưởng nơi người khác. Không có một biểu lộ đức tin nào mà không là một củng cố và nâng đỡ cho người khác. Đức tin của người Kitô hữu chính là ngọn đuốc soi sáng và sưởi ấm lòng người, do đó, khi đức tin ấy trở thành nguội lạnh thì chắc chắn sẽ có biết bao người chìm trong tăm tối lầm lạc (R.Veritas).
7. Truyện: Tuyên xưng đức tin trong cuộc sống.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng; trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vỉ sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao”?
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca gom chung 3 lời dạy của Chúa Giêsu. Tất cả đều rất thực tế cho cuộc sống chung trong tập thể:
1. Cớ vấp ngã: Cớ vấp ngã là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chất có lẽ không xấu, nhưng do nó ở trong một hoàn cảnh không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Cũng như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì sẽ khiến người ta vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể nhiều người, tất nhiên không thề không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy đề phòng đừng trở thành cớ vấp ngã cho người khác.
2. Việc sửa lỗi anh em: Trong tập thể thì đương nhiên cũng có nhiều khi một người nào đó xúc phạm tới mình. Khi đó ta hãy nói thẳng với người đó. Nếu người đó hối hận thì ta phải tha thứ. Cho dù sau đó người ấy lại lỗi phạm nữa thì cũng vẫn phải tha thứ nữa.
3. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
B.... nẩy mầm.
1. Được làm và nên làm: Có những việc tôi có thể làm, nhưng tôi không nên làm, bởi vì làm trong hoàn cảnh cụ thể nào đó và làm trước hạng người nào đó thì việc đó sẽ trở thành một cớ vấp phạm. Bởi đó tuy được làm nhưng tôi không nên làm.
2. Nếp sống của ta sẽ gây ảnh hưởng trên người khác, dù ta cố ý hay không. Ảnh hưởng về phạm vi thể lý lẫn tinh thần: ‘Hữu xạ tự nhiên hương’, ‘Gần mực thì đen gần đèn thì sáng’. Đây là vấn đề trách nhiệm đối với tha nhân trong cuộc sống. Do đó cần lưu tâm tới những ảnh hưởng tốt xấu ta gây nên trong cộng đoàn.
3. Tha thứ là gì? Là mùi thơm mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
4. Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ: đây cũng là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.
5. Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?
-........
6. Đức tin: một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
7. “Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng không có không có những cớ làm cho người ta vấp ngã, nhưng khốn cho những kẻ làm cho người ta vấp ngã”. (Lc 17,1)
Nghe tin thằng “Hiền bụi đời” sắp về lại cái xóm nhỏ này sau thời gian khá dài trong trại giam, thỉnh thoảng người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục, cưa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo. Hôm ấy hắn trở về với khuôn mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp. Dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm bán hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bắt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười gượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “… Vì muốn trả thù đời”.
Mỗi ngày của tôi cũng có không ít những cái liếc mắt, bỉu môi trước niềm vui khám phá của người bạn, những cái cười mỉa mai, không phục…
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức điều con đang làm. (Hosanna)
Trong tác phẩm: “Hãy giúp nhau làm lại cuộc đời”, xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẩu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời sự tàn tạ của mình. Điển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẩu xuống các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm, năm đó đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi chiếc xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Eva; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”.
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nếp sống của ta sẽ gây ảnh hưởng trên người khác, dù ta cố ý hay không. Ảnh hưởng về phạm vi thể lý lẫn tinh thần: “Hữu xạ tự nhiên hương”, “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.” Đây là vấn đề trách nhiệm đối với tha nhân trong cuộc sống. Do đó cần lưu tâm tới những ảnh hưởng tốt xấu ta gây nên trong cộng đoàn.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Đó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta 3 điều. Tất cả đều rất thực tế cho cuộc sống chung hay cho đời sống tập thể:
1. Trước hết, Chúa nói về cớ vấp ngã: Cớ vấp ngã có thể là một câu nói, một thái độ hay một hành động nào đó, tự bản chất có lẽ không xấu, nhưng do ở trong một hoàn cảnh nào đó không thích hợp nên nó gây ảnh hưởng tai hại. Ví dụ như một tảng đá, tự nó không có gì xấu, nhưng nếu nó nằm giữa đường thì nó sẽ thành cớ khiến nhiều người vấp vào mà bị ngã. Sống trong một tập thể có nhiều người, tất nhiên không thể không có cớ vấp ngã, nhưng mỗi người hãy đề phòng đừng trở thành cớ vấp ngã, nhất là đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho người khác. Chúa sẽ phán xét rất ngặt đối với chúng ta về vấn đề này.
Vào khoảng giữa thế kỷ trước, có một vị Linh mục già thánh thiện sống ở Wimpfen, vùng Westphalie. Mỗi tối, khi mặt trời lặn, Ngài có thói quen đi ra nghĩa địa và ở đó lần một chuỗi cầu cho các linh hồn ở luyện ngục. Ngày kia, một người bạn của Ngài hỏi lý do việc tối nào ngài cũng đi ra nghĩa địa như thế, và đây là câu trả lời:
- Tôi đã làm cha sở họ đạo này lâu năm, và biết đâu do lỗi của tôi khi không làm gương tốt, khi không chu toàn những gì tôi phải làm, tôi đã mang lỗi với những người bây giờ đang nằm dưới lòng đất lạnh này. Tôi sợ phải trả những khoản nợ ấy sau khi chết, do đó mỗi ngày tôi phải lần hạt cho những người đang nằm ở đây, để nhờ hành vi bác ái này cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, đền bù các thiếu sót mà tôi có thể đã phạm...!
Không nên than trách kẻ khác, nhưng hãy tự kiểm điểm đời sống mình.
2. Thứ hai, về việc tha thứ và sửa lỗi anh em: Sống trong tập thể khó mà tránh khỏi những va chạm gây nên những phiền hà cho nhau. Người ta thường nói: Chung thì đụng mà đụng thì đau mà đau thì khổ. Chúng ta phải can đảm tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Châm ngôn Trung Hoa có câu: “Tha thứ là mùi thơm mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát”.
Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.
Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?
Anh không trả lời.
3. Cuối cùng, là về đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin cho mình và cho nhau. Nếu có lòng tin thì mọi sự sẽ tốt đẹp và sẽ làm được những điều phi thường.
Cuộc sống đức tin sẽ có ảnh hưởng rất tốt đối với đời sống cộng đoàn.
Ðây là câu châm ngôn Mẹ Têrêsa để lại như linh đạo cho các Nữ tu thừa sai bác ái, như nền tảng của các hoạt dộng của Tu hội”. Thành quả của sự yên lặng là lời cầu nguyện - Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của phục vụ là hòa bình”.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao?”
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh Giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xảy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ rằng, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
Bởi con người chúng ta là những kẻ yếu đuối, tội lỗi, bất xứng, nên chúng ta thường hay lạc xa đoàn chiên của Chúa. Thật sự chúng ta không dám nói chứ chúng ta là những cây cỏ dại trong cánh đồng lúa tốt của Chúa. Vì thế mà Chúa nói với các tông đồ và cả chúng ta: “Không thể nào mà không có gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu” (Lc 17, 1). Nghĩa là chúng ta là kẻ tội lỗi, bất toàn, yếu đuối, chúng ta không phủ nhận điều đó. Nhưng đừng vì dựa vào những lý do đấy, không kiểm soát được bản thân mình mà làm liều, làm bựa ra, gây ảnh hưởng đến người khác, đến môi trường sống, bằng các gương mù, gương xấu, làm rối loạn cuộc sống, làm hư đốn người khác là Chúa không chấp nhận. Do đó, Chúa nói rất nặng nề với chúng ta: “Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này” (Lc 17, 2). Rồi Chúa nói tiếp chúng ta hãy đề phòng: “Các con hãy đề phòng “, chúng ta đừng có phạm các tội gây gương mù gương xấu như thế, ví dụ như các tội: Bài bạc, rượu chè, hút chích, trai gái, rối vợ rối chồng,…
Vì chúng ta có tội với Chúa và có lỗi với nhau. Tội với Chúa thì khi chúng ta ăn năn sám hối, xưng thú, Chúa sẽ tha thứ, và tha nhưng không cho chúng ta. Còn lúc anh chị em của chúng ta có lỗi với chúng ta vì một lý do nào đó, Chúa cũng dạy chúng ta cũng phải hành động giống như Chúa là tha thứ cho anh chị em của chúng ta, tha thứ vô điều kiện, cho dù anh chị em của chúng ta có phạm đến chúng ta bao nhiêu lần đi chăng nữa: “Nếu có anh em con lỗi phạm con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha cho nó, cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần, nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó” (Lc 17, 3 – 4). Ngược lại, nếu chúng ta có lỗi với anh chị em của chúng ta, chúng ta cũng biết hạ mình xuống xin lỗi họ nữa thì mới đẹp lòng Chúa.
Việc không nên làm gương xấu, gương mù và việc tha thứ cho người khác khi họ có lỗi đến chúng ta, nói thì dễ, nhưng thực hành thì quá khó, vì chúng ta có cái bản ngã của chúng ta. Vì thế mà các tông đồ mới xin Chúa giúp các ngài, khi các ngài nói: “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Tức là khi có đức tin, thì Chúa mới ban cho có một trái tim đầy tình yêu như Chúa thì các ngài và cũng như tất cả chúng ta mới trở nên giống Chúa, mới cảm thông cho nhau, tha thứ cho nhau và giúp nhau nên thánh theo ý Chúa muốn. Thật sự phải có ơn Chúa giúp thì chúng ta mới thực hiện lời Chúa dạy hôm nay đây.
Chúa biết chúng ta cần ơn Chúa vô cùng, nhưng cần như thế nào, cần bao nhiêu, cần ở mức độ nào để mới có thể thực hiện được việc xa tránh tội lỗi và tha thứ cho người khác, chúng ta chẳng biết nữa. Như Chúa nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: Hãy trốc rể lên và xuống mọc dưới biển, nó liền vâng lời các con” (Lc 17, 6). Vậy là chúng ta chỉ cần Chúa thương xót, nhìn đến và ban ơn cho chúng ta, dù ơn đó nhỏ bé thôi cũng là đủ cho chúng ta, để chúng ta thực hiện lời Chúa dạy hôm nay.
Lạy Chúa, tất cả mọi sự trên trần gian này là của Chúa, và Chúa đã ban cho chúng con để chúng con được làm chủ, được hưởng nhờ, xin Chúa cho chúng con luôn được ở trong nhà Chúa bằng cách chúng con sống tha thứ cho nhau, sống xa tránh tội lỗi và chỉ làm gương sáng đạo đức cho anh chị em chúng con noi theo trong đời sống đạo mà thôi. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Máctinô, Giám Mục, hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Xưa thánh Giám Mục Máctinô đã làm vinh danh Chúa khi còn sống cũng như lúc qua đời, nay xin Chúa cũng ban cho chúng ta những hồng ân kỳ diệu, để dù sống dù chết, chúng ta chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ. Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập Đan Viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm Giám Mục Giáo Phận thành Tua (năm 372), người thành lập nhóm Đan Sĩ Truyền Giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ, để được vào hưởng vương quốc mà Chúa đã hứa ban cho ta, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Pho tượng kỳ quái: Nhìn qua các diễn biến lịch sử, ta thấy một loạt đế quốc dẫn đến ách thống trị của Hylạp, cứng như sắt, nhưng mỏng manh vì chia rẽ. Rồi sẽ đến triều đại vĩnh cửu của Đấng Thiên Sai, vương quốc Người sẽ trải rộng khắp cùng thế giới. Ta phải vừa kiên trì chờ đợi, vừa cương quyết chống lại sự dữ. Thiên Chúa sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy sẽ đập tan và tiêu diệt hết mọi vương quốc khác. Vương quốc của Thiên Chúa sẽ đứng vững muôn đời. Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường; ai ngã xuống đá này, sẽ tan xương nát thịt.
Chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ, để dù sống hay chết, ta cũng thuộc trọn về Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thư của sử gia Xunpixiô Xêvêrô nói: Thánh Máctinô, con người khó nghèo và khiêm tốn, đã biết trước giờ ra đi của mình từ lâu… Phúc thay vị thánh không nói lời xảo trá, không hạch tội, không kết án người nào. Thánh nhân có mở miệng là để rao giảng Đức Kitô, để cầu chúc bình an, bày tỏ lòng nhân ái. Nói sao về vị thánh không quản ngại gian lao, có chết cũng chẳng nề; người không từ chối sự sống, cũng không sợ cái chết.
Chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ, với niềm khát khao tìm kiếm Chúa khi chu toàn sứ vụ Chúa trao, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói ông Titô: Hãy đặt những kỳ mục như tôi đã truyền cho anh. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 23, vịnh gia cho thấy: Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Chúa. Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Giữa thế gian, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ lời ban sự sống. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu một ngày bảy lần nó trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó. Giữa một thế giới đầy tràn những hận thù chia rẽ, ta được mời gọi hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời. Tha thứ là đặc nét làm cho ta trở nên giống Chúa nhất, bởi vì, Người không bao giờ mệt mỏi thương xót và tha thứ cho ta. Khát khao tìm kiếm Chúa là khao khát nên giống Chúa: Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trên thập giá chất chứa một tình yêu thương tha thứ vô bờ: tha thứ cho cả những kẻ bắt bớ, làm khổ, và đóng đinh mình. Chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ, là chẳng bao giờ để mình đi ra khỏi lòng thương xót của Chúa, để từ đó, ta cũng biết thương xót và tha thứ cho những người đã xúc phạm đến ta. Thánh Giám Mục Máctinô đã làm vinh danh Chúa khi còn sống cũng như lúc qua đời, ước gì Chúa cũng ban cho ta những hồng ân kỳ diệu, để dù sống dù chết, ta chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ. Ước gì được như thế!
Đúng vị trí, làm điều phải làm. 12/11 – Thứ Ba tuần 32 thường niên. – Thánh Giôsaphát, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ. "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 1580 tại U-cơ-rai-na, trong một gia đình theo chính thống giáo. Nhưng người lại sớm gắn bó với giáo hội U-cơ-rai-na hiệp nhất với Rôma. Năm 1617, người làm tổng giám mục Pô-lốc và dấn thân phục vụ dân tộc mình không so đo tính toán, nhất là cố gắng lo cho việc hiệp nhất Hội Thánh. Thành công trong hoạt động tông đồ của người đã khiến cho các kẻ thù của Hội Thánh công giáo căm ghét người. Người bị giết ở Vi-tép trong lúc đang viếng thăm các tín hữu, năm 1623.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không. "Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng. Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21). Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập, và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do. Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn. Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27). Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ. Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ, năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2). Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55). Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ. Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos). Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công. Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì. Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác. Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ. Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi, nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước. Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc, sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7), liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không? Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không. Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối. Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi, thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn, thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8). Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống. “Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?” Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không. Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ. Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ. Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi. Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay, những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ. Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29). Chúng ta làm điều phải làm (c. 10), nhưng không như người làm công chờ lương, cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ. Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62), chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27). Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng, không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả. Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm, siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức, đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa. Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn. Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7). Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27). Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37). Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen. ---------------------------------
Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.
Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.
Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).
Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).
Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời...! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển...
Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ... Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.
Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão... Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ...
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và hy vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.
Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.
Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao?”.
Suy niệm
Người tôi tớ Chúa dù mọi hoàn cảnh: Thành công đứng trước mặt Thiên Chúa luôn nhận mình là người đầy tớ vô dụng vì đó là sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Ngay cả lúc gian nan nhất, nơi người tôi tớ có đức tin hạt cải, Thiên Chúa luôn ở cùng và với mình làm cuộc dời non lấp biển phong ba cuộc đời.
Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi và bạn luôn nhận mình vô dụng, để sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Dù trong cương vị nào, chúng ta cũng là tôi tớ của Thiên Chúa, người tôi tớ đòi hỏi chính mình luôn khiêm cung nhỏ bé, tin tưởng phó thác vì Thiên Chúa dùng mình làm việc, còn bản thân chỉ là người tôi tớ vô dụng. Người tôi tớ phải tin vào Thiên Chúa, vì chính Ngài làm việc nơi chúng ta, dù giữa bao gian truân thử thách. Chính vì tin vào Thiên Chúa nên chúng ta tin vào bản thân: Chúa ở nơi tôi và tôi có thể “dời non lấp biển”. Tin vào bản thân không phải là tự phụ coi mình là hơn tất cả, nhưng bản thân có đức tin hạt cải tin vào Thiên Chúa, cùng Ngài tôi sẽ vượt qua tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Ngay cả nơi những khiếm khuyết thể lý và tâm linh: “Tôi ý thức tôi mong manh. Đồng thời, tôi ý thức là tôi đang hành trình gian khổ trên đường độc đạo theo chân Chúa Kitô. Đức tin điều trị vết thương tâm linh nơi tôi” (Theo Nguyễn Văn Thành).
“Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, vô duyên hơn tất cả, vô duyên hơn tất cả… Nhưng con tin Chúa chân thành... tin Chúa chân thành...”.
Ý lực sống
“Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. (Ga 15,5).
1. Tiếp tục chương 17, Đức Giêsu đã dựa vào dụ ngôn người đầy tớ của ông chủ để dạy các Tông đồ tinh thần khiêm nhường trong phục vụ. Đức Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác đều là bổn phận. Chúng ta không nên huênh hoang, tự đắc với những gì mình làm được vì tất cả mọi sự đều do Chúa ban. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên phải có thái độ khiêm tốn khi phục vụ.
2. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một ông chủ hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí... là những việc lành mà Thiên Chúa buộc phải thưởng bội hậu cho họ. Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Đức Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác mà thôi (Hiền Lâm).
3. Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ánh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Đức Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi”. Đầy tớ là người làm tất cả mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Đức Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã không xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha sao (R.Veritas)?
4. Người đầy tớ trong câu chuyện cũng hữu dụng đấy chứ. Vì hữu dụng, ông chủ mới nuôi đầy tớ trong nhà. Quả thật, hằng ngày người ta làm việc đủ thứ việc nào là đồng áng, nào là chăn chiên; lại còn phục vụ bàn ăn cho chủ. Nhưng người đầy tớ của Chúa thì vừa vô dụng, vừa hữu dụng. Vô dụng bởi vì Chúa là Đấng hoàn hảo vô cùng. Chúng ta có làm công kia việc nọ gọi là làm cho Chúa thì cũng không vì thế mà Chúa được hoàn hảo hơn. Nhưng hữu dụng ở chỗ Ngài muốn chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa ngõ hầu “làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn”, trong đó mưu ích cho chính chúng ta nữa (5 phút Lời Chúa).
5. Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường. Bởi vì tất cả những khả năng, những thành công, những việc lớn nhỏ chúng ta làm được đều do Chúa ban, không có Chúa chúng ta không làm gì được và cũng không làm được gì. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên không được huênh hoang tự đắc, nếu huênh hoang đề cao cái tôi, khuếch đại giá trị của mình, tự cho mình là có công trạng hay không có mình thì không xong hay không hoàn thành được. Đó là kiêu ngạo mà thôi. Xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn biết làm việc trong ý hướng ngay lành và nhất là trong tinh thần khiêm nhường.
6. Truyện: Khiêm tốn là một điều khó.
Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi”.
Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?
Ông liền trả lời: “Có”. Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi”.
Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
B.... nẩy mầm.
1. 1Cr 4,7: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của mình” đều không phải là của mình thực:
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư?: cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
2. Trong một tập thể, nếu ai cũng coi mình là đầy tớ của người khác thì việc chung sẽ chạy đều. Còn nếu ai cũng muốn làm kẻ chỉ huy thì sẽ thế nào?
3. Quan niệm ‘sống đạo để lập công’: quan niệm của Pharisêu, của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
4. Ta sống tốt chỉ có giá trị nhằm gợi lên lòng thương xót và sự nhân hậu của Chúa, ta không có quyền đòi hỏi gì; hoặc nếu có đòi, thì hãy đòi trong tâm tình của đứa con nhỏ vòi vĩnh trong tình thương. - Thân phận ta, về một khía cạnh nào đó, có thể ví như thân phận người đang chờ án tử hình, nay vì tin vào lòng nhân hậu Chúa, ta làm tốt để cố vớt vát lấy lòng Chúa và cố đền bù những thiệt hại tan hoang mình đã gây ra.
5. Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
6. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận ấy thôi” (Lc 17,10b)
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên. Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…
Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?
Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).
Chúa Giêsu có 4 lời khuyên dành cho các môn đệ. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói đến ba điều: Không được làm gương mù, phải tha thứ, phải có lòng tin. Hôm nay, chúng ta nói đến điều cuối cùng: phục vụ trong khiêm tốn.
1. Chúa Giêsu đã tuyên bố công khai: Con người đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng để phục vụ mọi người, (Mt 21,33t). Toàn thể cuộc đời của Chúa lúc nào cũng xoay quanh chân lý duy nhất này, đó là “làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha “ (Mt 26,21; Lc 24,26). Bởi vậy, những môn đệ của Chúa cũng phải theo chân Chúa mà phục vụ như thế. Phục vụ xong thì nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, chúng tôi làm việc mình phải làm” (Lc 17,10).
Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của ta” đều không phải thực là của mình.
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư? Cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi: “Nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế?” Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên Đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng, Ta sử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).
2. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.
Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10b)
Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,-- nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào”.
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và còn là một bác sĩ thừa sai.
Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng của thế kỷ”.
Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.
Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá thư ấy lập tức bị phản đối ngay.
Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan tính”.
Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.
Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:
- Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.
- Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.
- Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.
- Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn tràn trề sinh lực.
Người đầy tớ là người làm công, phục vụ cho chủ của mình và được ông chủ cho ở một chỗ nào đó, có thể là một góc nhỏ, một xó xỉnh trong nhà của ông, thì người đầy tớ đó là hạnh phúc rồi.
Trước khi được Chúa nhận chúng ta vào nhà của Chúa là Giáo Hội đây, để làm đầy tớ cho Chúa, chúng ta được ví như những đứa bé bị vứt ngoài đường, máu me đầy mình, người đi đường qua lại chẳng một ai thèm ngó đến, chúng ta có khóc lóc, chúng ta có kêu la van xin, cũng vô vọng. Thế nhưng Chúa cứu chúng ta bằng cách Chúa lượm, Chúa đưa chúng ta về nhà Chúa để Chúa nuôi dưỡng, chăm sóc, nâng niu chúng ta, cho chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của Chúa (Tư tưởng của tiên tri Êzêliel 16). Hiện tại bây giờ, qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, Chúa lại cho chúng ta trở thành con của Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp nước Trời, vì thế mà chúng ta phải luôn dâng lời tạ ơn Chúa.
Vì chúng ta là những người đầy tớ, cho nên chúng ta phải biết vị trí của chúng ta và sống đúng vị trí đó trong chương trình cứu độ của Chúa. Chúa sẽ thương xót và Chúa sẽ tiếp tục phù hộ, giúp sức cho chúng ta. Bằng không, nếu chúng ta sống kiêu ngạo, khoe khoang, khoác lác, Chúa sẽ bỏ rơi chúng ta.
Những công việc mà chúng ta làm trong vai trò là người đầy tớ: “Cày bừa, chăn súc vật, dọn bữa tối, thắt lưng, hầu hạ …” cho ông chủ, nghĩa là chúng ta phải lo chu toàn các công việc Chúa trao phó hàng ngày như là lo giữ đạo Chúa, làm lành lánh dữ, xa tránh các tội lỗi, chia cơm sẻ áo, cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù rạc, chăm sóc ủi an những những đau khổ bệnh hoạn tật nguyền….. Chúng ta làm các công việc đó trong bổn phận đầy tớ một cách đàng hoàng tử tế là để chúng ta được công phúc cho đời này và đời sau, chứ chẳng phải để cho Chúa hưởng lợi lộc gì cả, hoặc là Chúa trục lợi trên xương máu của chúng ta. Vì thế mà Chúa chẳng có mang ơn gì khi chúng ta làm những điều có lợi cho bản thân chúng ta: “Ai trong các con có người đấy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa, mà trái lại không bảo nó rằng: Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thấy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi đã làm” (Lc 17, 7 – 10). Do đó, khi chúng ta đi tham dự thánh lễ, rước lễ, đọc kinh cầu nguyện, chay tịnh, bác ái… Chúng ta cần mặc lấy tâm tình của một đầy tớ bất xứng để thưa với Chúa là chúng ta vẫn là những người vô dụng, vô lại của Chúa để rồi chúng ta sống khiêm nhường trước nhan Chúa và cố gắng xin ơn Chúa mà làm cho tốt để Chúa thưởng công chúng ta sau này: “Thánh ý Chúa, trọn bề tuân giữ, hồn mến yêu hâm mộ chẳng rời. Đường con Chúa rõ mười mươi, huấn lệnh, thánh ý, con thời vâng theo” (Tv 118, 167 – 168).
Lạy Chúa, chúng con tin tưởng vào Chúa, chúng con trông cậy vào Chúa, xin Chúa ban ơn giúp chúng con làm các điều lành thánh, tránh các điều dữ, để chúng con được Chúa quan tâm, lo lắng, yểm trợ và cho chúng con được ở mãi trong nhà của Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Giôsaphát, Giám Mục, Tử Đạo hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho thánh Giám Mục Giôsaphát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo Hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng ta hằng biết noi gương người, không ngại xả thân vì anh chị em. Thánh nhân sinh khoảng năm 1580 tại Ucơraina, trong một gia đình theo Chính Thống Giáo, nhưng người lại sớm gắn bó với Giáo Hội Ucơraina hợp nhất với Rôma. Năm 1617, người làm Tổng Giám Mục Pôlốc và dấn thân phục vụ dân tộc mình không so đo tính toán, nhất là cố gắng lo cho việc hợp nhất Hội Thánh. Thành công trong hoạt động tông đồ của người đã khiến cho các kẻ thù của Hội Thánh Công Giáo căm ghét người. Người bị giết ở Vitép trong lúc đang viếng thăm các tín hữu, năm 1623.
Không ngại xả thân vì anh chị em, nếu biết xả thân vì Chúa và hằng đặt niềm tin tưởng nơi Người, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Người Dothái bị tố cáo và bị kết án. Tất cả thái độ của các vị tử đạo của hết mọi thời được tóm tắt một cách tuyệt diệu trong câu chuyện ba thiếu niên: vì tin Chúa có quyền giải thoát, nên người tín hữu gắn bó không điều kiện với Lề Luật của Người. Thiên sứ của Đức Chúa đã xuống trong lò cùng lúc với Adaria và các bạn và đã đẩy ngọn lửa ra khỏi lò, khiến cho lửa không hề đụng tới họ, cũng chẳng gây phiền hà đau đớn. Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đã sai thiên sứ đến giải thoát những ai đã tin và phụng sự Người.
Không ngại xả thân vì anh chị em, để tất cả hiệp nhất nên một trong Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Thông Điệp Hội Thánh của Thiên Chúa của Đức Giáo Hoàng Piô XI nói: Trong khi đặc biệt quan tâm đến việc giúp cho những người đồng hương của mình liên kết với Tòa Thánh Phêrô, thánh Giôsaphát đã tìm mọi lý lẽ để cổ võ cũng như để củng cố mối liên kết ấy… Đức Giêsu cầu nguyện rằng: Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con; để họ được Hoàn toàn nên một, và thế gian nhận biết là chính Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con.
Không ngại xả thân vì anh chị em, để cùng giúp nhau sống thánh thiện, công chính trước nhan thánh Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Phải sống đạo đức, vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 36, vịnh gia đã kêu xin: Người công chính được Chúa thương cứu độ. Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. Ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, tuy nhiên, trong tay Thiên Chúa, ta sẽ trở nên thật hữu dụng. Nếu ta biết yêu mến Chúa, xả thân vì Chúa, thì ta cũng sẽ biết yêu mến và xả thân vì anh chị em mình, hầu, tất cả chúng ta được nên một trong Chúa. Ân sủng của Chúa luôn đổ tràn trên ta, giúp ta từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Ước gì ta luôn biết tận dụng ơn thánh Chúa ban, để sinh ơn cứu độ cho chính mình và cho người khác. Ước gì được như thế!
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng. Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình. Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng. Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời, nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn. Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho: cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc… Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn, tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa. Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài. Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn, mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ. Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo. Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng. Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài. Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa. Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13). Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức, như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16). Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế để cho thấy là mình đã khỏi rồi. Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh. Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại. Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu. Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18). Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn. Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được. Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình. Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ. Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành. Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu. Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh. Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18). Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn. Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện. Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban. Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được. Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn. Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui. Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại. Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa. Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được, thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi. Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên. Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng. Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn. Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. -------------------------------
Tạ ơn là một hành vi nhân văn cao đẹp. Phát xuất từ một nhận thức đúng đắn. Nhưng trong đời sống thiêng liêng tạ ơn còn đem đến ơn cứu độ. Nên hành vi tạ ơn còn cao sâu hơn nhiều. Phát xuất từ nhận thức nền tảng. Thiên Chúa là tất cả. Ta không là gì hết. Thiên Chúa có tất cả. Ta không có gì hết. Sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Hành vi tạ ơn vì thế vừa sâu xa vừa hân hoan vô vàn. Người bệnh phong ngoại đạo nhận thức được ân huệ lớn lao đó. Bệnh phong bị lên án tử. Sống cũng như chết. Được khỏi bệnh là được lại sự sống. Hơn nữa anh lại là người ngoại đạo. Nên hồng ân thật không kể xiết. Vì anh không xứng đáng. Nhưng lại được ơn trọng hậu. Một niềm vui khôn tả dâng lên trong tâm hồn. Anh vội vàng chạy lại tạ ơn. Anh phủ phục vì nhận thức Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống. Nhận thức đó đưa anh đến một ân huệ lớn lao hơn. Được làm con Chúa. Được ơn cứu độ.
Được ơn Chúa phải biết tạ ơn. Phải biết sử dụng ơn Chúa xứng đáng. Đó là điều những người quyền thế trên trần gian thường quên lãng. Hay cậy quyền cậy thế. Hay tự cao tự đại. Hay áp bức bất công. Đó thực là thiếu khôn ngoan. Sách Khôn ngoan khuyên họ nên ý thức ân huệ Chúa ban. Chính họ phải tuân giữ luật Chúa. Để biết sử dụng quyền thế cho đúng thánh ý Chúa. Để phục vụ nhân loại. Vì cuối cùng họ sẽ bị xét xử nghiêm nhặt hơn thường dân vì quyền hành đã được trao cho họ. “Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước. Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta phải tuân phục thế quyền. Vì đó là quyền Chúa ban. Nhưng trên hết phải tuân phục Thiên Chúa. Thánh nhân tạ ơn Chúa vì ân huệ sự sống thiêng liêng nhờ bí tích Rửa tội. Đó là ân huệ nhưng không. Nhưng lại vô cùng cao quí. Vì ban cho ta sự sống đời đời: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (năm chẵn).
Ý thức hồng ân sự sống. Ý thức sự bất xứng bất toàn. Ý thức tình yêu thương vô cùng và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lòng ta sẽ không ngừng dâng lời tạ ơn. Đó là hành vi phải lẽ. Đem lại niềm vui cho cuộc đời. Đem lại ơn cứu độ cho ta.
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
Chờ đợi Chúa đến là một trong những chủ đề trọng tâm của Kinh Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc sống đều là kết quả của thái độ vội vã của chúng ta. Chúng ta thường không chờ đợi cho cây trái được chín muồi nhưng lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng Chúa muốn chúng ta phải mất nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng ta được mời gọi để tiến bước với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm rãi. Thật ra, không phải chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng ta. Lắm khi chúng ta không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta không muốn đến với Ngài. Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những bước đi đầy tin tưởng. Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ đợi sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ Abraham để thấy rõ điều đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể nhưng chắc chắn không một lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ Canđê. Abraham phải lên đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở và dấn bước vào cuộc hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì có thể xảy ra. Hành trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và lòng tin tưởng của ông.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là người đã chữa trị cho mười người phong cùi, nhưng khác với những phép lạ khác, ở đây thay vì sờ vào những người phong cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ đi trình diện với các tư tế theo như luật Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều năm tháng chiến đấu hy sinh của chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn lao, một căn bệnh bất trị, bao nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có điều gì chúng ta làm được mà không là hồng ân của Chúa, và ngay cả những thất bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng đều là những cơ may của muôn ơn lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta. Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa. Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ có một người biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải là điều tự nhiên của con người. Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ lúc con người vừa bập bẹ biết nói và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình cảm mến tri ân cũng cần phải được trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho chúng ta". Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn được sống trong tâm tình ấy.
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc. 17, 12-13)
Vẫn còn trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi qua làng biên giới Sa-ma-ri, Người gặp những kẻ bị loại ra khỏi xã hội vì mắc bệnh ngoài da, người ta gọi là phong cùi.
Một thứ bệnh mất hết vẻ đẹp.
Những người cùi hủi đứng đàng xa đón gặp Người. Họ kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu”. Như thế họ đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng tỏ quyền phép và lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ xin Người thương xót. Người không thể từ chối trước lời van xin này, vì Người đến để giải thoát những kẻ bị ngược đãi, áp bức bởi bệnh tật và xã hội.
Đức Giêsu nhìn họ với ánh mắt bốc lửa tình yêu và đầy thương cảm. Người bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế, để chứng nhận cho họ đã sạch như luật buộc. Trong khi đi thì họ được lành bệnh”.
Chín người là Do thái, rất thỏa thích vì họ đã lại được thuộc về dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Họ cho mình là đáng được Thiên Chúa trả công. Sự lành bệnh của họ đã trả lại quyền cho họ.Nhưng chỉ có một người được hưởng niềm vui nhất trong tâm hồn.
Chỉ có người thứ mười là dân Sa-ma-ri thấy mình được khỏi, là kẻ tội lỗi đáng thương, bị Do thái khinh tởm, anh thấy mình được lành sạch nhất là trong tâm hồn mình, anh ý thức Thiên Chúa đang ngự trong con tim anh, vì anh đã nhận được sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu. Anh trở lại và sấp mình xuống chân Người mà tạ ơn, vì Thiên Chúa đang hiện diện trước mặt anh. Gặp gỡ được Thiên Chúa, lòng anh xúc động khôn tả, ăn sâu vào tận căn tính của anh, tận bản chất hữu thể của anh, anh chỉ có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cất cao lời xin thương xót tha thứ tội lỗi của anh với hết lòng khiêm tốn. Đó là một bài ca giải phóng, một bài ca trong sáng phát ra từ đáy con tim. “Anh đứng dậy đi về! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Lòng tin nhờ lời Người gọi anh, nhờ ánh mắt Người nhìn anh làm bừng dậy đức tin này. Đức tin này đã cứu chữa anh cả thân xác lẫn tâm hồn anh.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh nhận.
Ngược lại, chúng ta thường chạy đến với Chúa, Mẹ và các thánh để xin cho mình những ơn như: giàu sang, chức vị, sức khỏe... Xin những điều đó là tốt, tuy nhiên, xét về cấp độ trong ân sủng thì ơn đức tin là cao trọng nhất, vì nếu có đức tin, chúng ta dễ dàng an vui và hạnh phúc trong hoàn cảnh hiện tại, miễn sao danh Chúa được cả sáng và thánh ý Chúa được thực hiện.
Thật vậy, khi có đức tin, chúng ta sẽ nhận ra tất cả là hồng ân, vì thế, cần phải tạ ơn Chúa và yêu thương anh chị em mình.
Lời Chúa hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy mẫu gương đức tin của người phong cùi xứ Samaria. Chính nhờ lòng tin mà ông được chữa lành. Cũng nhờ lòng tin mà tâm tình đầu tiên của ông là tạ ơn Chúa. Thái độ này của người Samaria ngược lại hẳn với 9 người cùng bị phong cùi Dothái. Họ đã được lành bệnh, nhưng không một ai quay lại để cám ơn Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ yêu mến Thiên Chúa, tin tưởng vào Ngài. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: nếu những người trong Tin Mừng hôm nay đã mắc phải những căn bệnh ghê sợ là bệnh cùi, thì hẳn mỗi người chúng ta cũng có những căn bệnh cùi tâm linh đáng sợ hơn rất nhiều, vì cùi tâm linh nó có thể hủy diệt cả tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, nhờ đức tin, chúng ta có hy vọng được lòng nhân từ của Thiên Chúa chữa lành và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Tuy nhiên, khi được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta phải biết cám ơn Ngài và thay đổi đời sống nhờ hồng ân đức tin soi dẫn.
Thực ra, Thiên Chúa đâu cần con người phải cám ơn thì Ngài mới được vinh dự, nhưng việc chúng ta tạ ơn Ngài lại đem lại ơn cứu độ cho mình và mọi người nữa. Đồng thời, khi cám ơn Chúa, chúng ta đón nhận được lòng khiêm tốn và tôn nhận Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Như vậy, khi ta biết tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì “ơn lại thêm ơn”. Còn khi không biết cám ơn Chúa, thì “ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” vì đã không biết sử dụng ơn Chúa cho hữu ích...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con ơn sám hối để đáng được Chúa chữa lành bệnh cùi tâm linh của chúng con. Amen.
Sứ điệp: Lòng biết ơn cảm tạ Chúa xuất phát từ việc nhận ra ơn phúc Chúa ban. Không nhận ra hồng của Chúa, không những đưa đến sự vô ơn mà còn ngăn cản chúng ta đến với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, “quen quá hóa nhàm”; “gần chùa gọi bụt bằng anh”: đó là những thái độ làm cho con người trở nên xơ cứng khô cằn, không còn bén nhậy tinh tế với những gì xảy đến cho mình.
Mười người cùi được Chúa chữa lành, thế mà chỉ có một người thấy được ơn cao trọng Chúa ban, mà người đó là người Samaria, một người bị coi thường, bị hạ giá. Con thấy những người thấp hèn, kém cỏi, có lẽ cảm nhận được ơn huệ hơn là người cao sang quyền quý.
Riêng con, nhiều lần con đã vong ân đối với Chúa, nhiều lần con không nhận ra được hồng ân và tình yêu thương Chúa dành cho con. Đời sống con được tràn ngập đầy hồng ân Chúa, cả tâm hồn lẫn thể xác. Con có được sức khỏe, có một gia đình ấm cúng, con được tham dự thánh lễ, được lắng nghe Lời Chúa và rước Chúa mỗi ngày… Biết bao nhiêu điều may lành, hạnh phúc phủ ngập đời con, nhiều khi con biết được, nhưng lắm khi con quên rằng tất cả đều do Chúa ban. Thật sự con đã uống nước mà quên nguồn!
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho những vong ân bội nghĩa của con. Xin cho con nhận ra hồng ân và tình thương của Chúa, để con đến với Chúa, để con đền đáp tình yêu bao la của Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con mỗi ngày biết dâng lên Chúa lời tạ ơn. Amen.
Ghi nhớ: “Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.
Kurt Emmerich - bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga:
Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh: “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận và rồi với nụ cười mỉm đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ: “Cám ơn” (Theo Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr. 343).
Suy niệm
Tin mừng Luca 17,11-19 gợi lại trong tâm hồn chúng ta tâm tình sống nhớ ơn, tạ ơn. Tinh thần này không chỉ là nét đẹp trong đời sống nhân văn mà còn là giá trị cao quý của tâm tình đức tin: Chúa Giêsu đánh giá cao lòng biết ơn qua biến cố Ngài chữa lành mười người bị phong hủi nhưng chỉ có người Samaria ngoại đạo quay lại tạ ơn Ngài và ca tụng Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu luôn sống trong tâm tình tạ ơn: Mỗi khi làm việc, Ngài cũng tạ ơn chúc tụng Chúa Cha, Ngài tạ ơn Chúa Cha khi làm cho Ladarô phục sinh (x. Ga 11,41-42), Ngài tạ ơn Cha khi làm phép lạ bánh (x. Mt 15,36; Mc 8,6...). Chúa Giêsu trở nên gương mẫu cho chúng ta về đời sống tâm tình tạ ơn mỗi ngày. Thánh Phaolô học tập gương Thầy Chí Thánh thể hiện qua các thư gửi các giáo đoàn, Ngài luôn tạ ơn Thiên Chúa, Ngài nhớ ơn sự quảng đại các cộng đoàn đã quảng đại giúp đỡ Ngài trên đường sứ vụ và Ngài cũng mời mỗi người tín hữu sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa với Ngài.
Sống tâm tình tạ ơn trong đời sống là một nét đẹp nhân bản và tác động của tâm tình đức tin. Tôi và bạn có được ngày hôm nay là do công lao của biết bao bàn tay và tâm hồn đưa chúng ta vào đời. Trước hết phải kể đến ơn tạo dựng của Thiên Chúa, không lạ gì khi Kinh Thánh có rất nhiều Thánh Vịnh, bài ca ca tụng Thiên Chúa, cụ thể như những câu Thánh Vịnh: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?” (Tv 116,12); “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở” (Tv 117,1)... Chúng ta phải mang bổn phận biết ơn, vì “Từ nguồn sung mãn của Người (Đức Giêsu), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những gì chúng ta có được trong đời, dù rằng như Kinh Tiền tụng trong thánh lễ nhấn mạnh: “Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời” (Kinh Tiền tụng IV). Sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, chính lời tạ ơn trở nên hoa trái ân sủng cho chúng ta như phương pháp “Hồi tâm” của thánh Ignaxiô, nhấn mạnh đến tâm tình tạ ơn, tâm tình này giúp con tim chú ý đến những món quà mà chúng ta nhận được trong ngày. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta với thiên nhiên, với anh chị em, với bạn bè và thế giới xung quanh, đặc biệt với Thiên Chúa sẽ được sung mãn và dồi dào hơn trong tình yêu.
Hãy ghi nhận và biểu lộ lòng biết ơn với những người thân quen sống bên ta... Lòng biết ơn gắn kết chúng ta trong tình yêu, như là những bông hoa nhỏ chớm nở xua đuổi mùa đông băng giá nơi tình người và bắt đầu nảy nở “mùa xuân” trong cuộc sống mỗi ngày.
Ý lực sống
“Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm. Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao”. (Tv 9,2-3)
1. Trên hành trình của Đức Giêsu về Giêrusalem, khi qua biên giới hai miền Samari và Galilê thì có mười người phong cùi đến xin Chúa chữa cho mình. Đức Giêsu không trực tiép chữa mà chỉ bảo họ đi trình diện với các tư tế để chúng tỏ mình đã được sạch. Họ tin lời Chúa, đang khi đi trên đường họ đã được khỏi bệnh. Nhưng sau khi được lành thì chỉ có một người trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín ngưới kia thì không. Còn chúng ta, có nhận ra ơn lành Chúa ban và biết dâng lời cảm tạ Người hay không?
2. Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nhắc nhở chúng ta phải có tinh thần biết ơn. Đức Giêsu đã chữa lành 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người quay trở lại để cám ơn Ngài, mà người đó lại là người Samaria, một người ngoại giáo. Những người có đạo lại trở thành ngoại đạo, vì họ không biết nói lời cám ơn, không biết sống tình người. Trong khi đó, dưới cái nhìn của Đức Giêsu, một người ngoại đạo lại trở thành có đạo vì đã biết sống tình người. Đức Giêsu đã nói với người Samaria:”Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Lòng tin ở đây là biết trở lại tìm Đức Giêsu và nói lên niềm tri ân của mình. Người Samaria ra về được lành không những trong thân xác, mà nhất là được chữa lành trong tâm hồn. Từ nay tâm hồn của ông được mở ra vì đã biết sống tình liên đới với tha nhân. Trong khi đó 9 người Do thái kia được hồi phục trong thân xác, nhưng vẫn tiếp tục cắt đứt tâm hồn họ khỏi mọi liên đới và ràng buộc với tha nhân, và đó chính là sự cùi hủi đáng thương nhất của con người (Mỗi ngày 1 tin vui).
3. Tin Mừng kể lại việc 10 người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Sở dĩ, 9 người Do thái được chữa lành không trở lại tôn vinh Thiên Chúa, có lẽ vì họ quá chú trọng đến việc thi hành lề luật là đi trình diện tư tế, để được công nhận đã khỏi bệnh và được hòa nhập vào cộng đoàn trở lại. Cũng có thể vì quá vui mừng tìm đến gia đình bạn hữu mà quên Đấng đã cứu mình. Nhưng dù lý do nào đi nữa, thì sự thật vẫn là những người được ơn đã quên mất Đấng là mọi nguồn ơn lành.
4. John Hughes là một tài xế taxi nại Nữu ước. Một sáng nọ, trong khi lau chùi xe, ông bắt gặp một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo trên xe. Ông cố nhớ xem chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một người phụ nữ đã mang theo rất nhiều tiền. Sau hai ngày tìm kiếm, ông gặp lại người phụ nữ và hồi hộp trả lại chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta cũng chẳng nói một lời cám ơn. Sau đó, ông John Hughes nói:”Tôi rất mừng vì dù sao cũng đã gặp được bà ta. Đó là việc tôi phải làm”.
5. Mười người đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn chúa. Tỉ lệ 1/10 thật là đáng buồn. Vì thế có người nói rằng: “Con người ta thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn và mau quên ơn Đời là thế: Lẽ ra phải
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Ăn cây nào rào cây ấy, Uống nước phải nhớ nguồn,
Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, còn kẻ biết ơn, hàm ơn, thì lại quá ít, và số người này lớn quá (Phạm văn Phượng).
6. Truyện: Nhật ký của một bà già.
Đây là những lời của một bà già viết trong Nhật ký:
Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa, Chúa cho tôi đôi mắt, để tôi nhìn ngắm bao kỳ công, Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh, Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười, Chúa ban cho tôi hai tay, để tôi bưng chén cơm, cầm bút, Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp nẻo đường, Chúa cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư, Mà đã có lần nào tôi nhớ đến những thứ ấy để cám ơm Chúa chưa? Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
1. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
2. Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay - Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
3. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
B.... nẩy mầm.
1. Cám ơn là gì ? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca không ghi lại lời cám ơn của Người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta: anh “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài”. Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều. Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sự nhận thấy tình thương Chúa, thức đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinh Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa nữa.
2. Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...
Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà” ? (Frank Mihalic).
3. Tâm lý chung:
- Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).
- Ta dễ vụ lợi, ích kỷ, vô ơn: ‘Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất’, ‘Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi’.
4. Người Á đông chúng ta có thói quen trọng sự biết ơn: Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo ông bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ biết ơn chỉ ngừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, ‘Ơn đền; oán trả’, và đi đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.
5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ? - Tôi có nói gì đâu. - Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu: - Magnificat - Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).
7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư…
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen. (Hosanna).
1. Bài Tin Mừng này được đọc nhiều lần trong năm. Mỗi lần đọc câu chuyện này tôi lại cảm thấy có cái gì đó xót xa trong lòng. Xót xa vì số người “biết ơn” trên cõi đời này ít quá. Người Á đông chúng ta rất trọng sự biết ơn, nhất là đối với những bậc sinh thành: Biết ơn ông bà tổ tiên. Lòng biết ơn ấy đã được nâng lên thành một đạo: Đạo ông bà.
Bởi vậy, thái độ vô ơn sẽ là một thái độ khó hiểu trong cuộc sống.
Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói một tiếng nào. Cậu bé hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế? - Tôi có nói gì đâu. - Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
2. Lòng biết ơn là giá trị cốt yếu nhất của một đời người, vì nó nhắc nhở cho con người về chân lý nền tảng của cuộc sống, đó là sự sống không tự nhiên mà có. Tôi không tự mình mà hiện hữu, tôi không tự mình mà nên người. Tôi không thể sống mà không cùng sống với người khác. Tôi không thể hạnh phúc mà không cần nhờ đến người khác. Nếu tôi là con người có suy nghĩ một chút, tôi sẽ không thoát khỏi câu hỏi: Tôi bởi đâu mà ra? Và nếu tôi là người thành tâm đi tìm giải đáp cho vấn đề nhân sinh thì cuối cùng, tôi sẽ thấy rằng, tôi không thể là một con người biết ơn mà lại có thể là một người vô thần.
Đây là những lời của một bà cụ già viết trong Nhật ký:
Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa Chúa cho tôi đôi mắt, để tôi nhìn ngắm bao kỳ công Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười Chúa cho tôi hai tay, để tôi bưng chén cơm, cầm bút Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp mọi nẻo đường Chúa cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư Mà đã có lần nào tôi nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa chưa,
Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
3. Thật là cảm động khi người trở lại cám ơn Chúa lại là một người ngoại đạo! “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15).
Hồi còn học Trung Học, có một cuốn sách tôi rất thích đọc đó là cuốn “Những Tấm Lòng Cao Cả” của Edmondo Amicis. Trong tác phẩm này tôi thấy có rất nhiều chuyện hay. Và đây là một trong những chuyện đó. Chuyện kể rằng:
Có một thầy giáo nọ ở tỉnh Torino nước Ý được phân công đến dạy học cho những người tù trong suốt mùa đông.
Để giảng bài, ông đứng giữa một căn phòng hình ống, chung quanh là tường cao trần trụi có rất nhiều những ô cửa sổ nhỏ gắn chấn song sắt: Mỗi ô cửa là một xà lim, bên trong những ô cửa đó là những khuôn mặt hốc hác, râu tóc bù xù và những ánh mắt hết sức dữ tợn của những tội nhân với nhiều loại tội khác nhau, hay là những khuôn mặt của những tội nhân đang bị dày vò bởi những lỗi lầm đã trót phạm của mình...
Thầy giáo cứ thế giảng bài, đi đi lại lại quanh phòng, còn học sinh thì áp sát cuốn vở vào song sắt mà hí hoáy ghi chép.
Trong đám tù có một người mang số 78 là chăm chỉ chuyên cần nhất. Anh nhìn xuống thầy giáo với đôi mắt cung kính mến phục. Anh còn trẻ. Trước đây làm thợ mộc. Trong một lần bị oan ức, anh đã tức giận ném mạnh cái bào gỗ vào đầu tên chủ xưởng khiến hắn bị tử thương. Anh bị kết án 20 năm cấm cố. Chỉ trong ba tháng học mùa đông, người tù ấy đã biết đọc biết viết khá thông thạo.
Một hôm, buổi học vừa xong, anh đưa tay ra hiệu mời thầy giáo lại gần ô cửa sổ của anh. Anh buồn rầu báo tin rằng, hôm sau anh sẽ phải chuyển đi trại giam khác. Anh ngỏ lời từ biệt và xin được hôn lên đôi bàn tay thầy giáo. Thuyết phục nài nỉ mãi, anh mới được toại nguyện. Người thầy khi rút tay lại thì thấy tay mình đẫm nước mắt...
Thời gian thấm thoát trôi qua, chợt một hôm, thầy giáo ra mở cửa thì thấy một người lạ mặt quần áo nghèo túng, râu tóc đã bắt đầu muối tiêu. Người ấy nghẹn ngào tự giới thiệu:
- Thầy ơi, con chính là người tù số 78 mà thầy đã dạy cho con biết đọc biết viết trong một mùa đông giá lạnh cách đây 6 năm. Bây giờ thì con đã được mãn hạn tù, con đến xin thầy vui lòng nhận cho một vật nhỏ mà tự tay con đã làm ra trong tù, con chỉ thành tâm muốn biểu lộ lòng biết ơn vô hạn của con đối với thầy.
Thầy giáo lại một lần nữa xúc động đỡ lấy món quà, ông nhận ra ngay đó là một chiếc bình mực làm bằng gỗ, trên mặt có khắc tỉ mỉ hình một quyển tập và một dòng chữ nắn nót trân trọng: “BIẾT ƠN THẦY...”
Mười người bị phong cùi hôm nay khẩn xin Chúa thương xót họ khi Chúa đi lên Giêrusalem, ngang qua biên giới Samaria và Galilêa. Chúa đã thương và chữa lành họ, và rồi sau đó Chúa dạy họ hãy đi trình diện với các tư tế để minh chứng mình được lành sạch.
Lời khẩn cầu của mười người phong cùi xuất phát từ sự cùng cực thẩm sâu, như đang ở tận cùng đáy xã hội, bị mọi người xa tránh, bị vùi dập của xã hội, nỗi đau của sự bỏ rơi, cô đơn, cùng với niềm ước mơ, hy vọng, dù rất là nhỏ mọn, và Chúa thương xót và Chúa đã nghe lời, đã chấp nhận, đã cứu chữa họ.
Chúa ban ơn cho mười người phong cùi, người có đạo cũng như người không có đạo. Chúa ban ơn nhưng không. Chúa không đòi hỏi một điều kiện nào cả. Qua đó chúng ta thấy Chúa yêu thương tất cả mọi người, cách riêng là những người đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền, đói khát, cơ cực, bần cùng…. Chúa nghe và Chúa nhận lời chúng ta khẩn xin. Sự khẩn xin của chúng ta xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống. Nhất là những lúc chúng ta đau khổ, cùng cực, bị vùi dập bởi cuộc sống. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta, Chúa không để chúng ta thất vọng.
Mười ngươi phong cùi dâng lời cầu khẩn lên Chúa khi Chúa đi ngoài đường lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, chứ không phải họ cầu nguyện với Chúa trong hội đường, hay ở Đền thờ, hoặc lúc Chúa đang rao giảng Tin Mừng, hay là Chúa đến dùng bữa ở nhà những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão mời Chúa. Chúa làm phép lạ ở ngoài đường đi. Nghĩa là Chúa làm phép lạ mọi nơi mọi lúc, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào trong cuộc đời này. Do đó, chúng ta cần phải cầu nguyện với Chúa mọi nơi, mọi lúc và bất cứ ở nơi đâu, bất cứ khi nào, chỗ nào. Chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa trong nhà thờ, ở nơi hành hương, tại gia đình, khi đi ngoài đường, lúc đang làm việc trong công xưởng, nhà máy, xí nghiệp, trên nương đồng, rẩy ruộng, vườn tược, khi đang ngủ, lúc thức dậy. Chúng ta cầu nguyện với Chúa bất kể lúc nào, nơi nào, vì Chúa ở khắp mọi nơi, Chúa nghe chúng ta và Chúa sẽ đáp ứng cho chúng ta,
Bổn phận của chúng ta khi chúng ta được ơn Chúa rồi, Chúa ước muốn chúng ta hãy trở về với cuộc sống hàng ngày, sống chẳng những cho mình và cho người khác nữa để cùng nhau xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn. Chín người có đạo đi về với cuộc sống, chúng ta không biết họ có biết ơn Chúa hay không, nhưng chúng ta không thấy họ trở lại cám ơn Chúa. Có lẽ họ biết ơn Chúa nhưng họ không có thay đổi đời sống theo ý Chúa là bao. Còn người ngoại giáo quay trở lại tạ ơn Chúa, nghĩa là anh thay đổi lối sống của anh, anh theo đạo Chúa, trở về với Chúa, anh sống sống những điều Chúa dạy bảo, anh xa tránh các tội lỗi, anh làm việc bác ái giúp đỡ mọi người, và anh dấn thân loan báo cho mọi người biết các ơn Chúa ban cho anh vì thương anh, để mọi người cùng ca ngợi, tôn vinh Chúa như anh.
Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con, Chúa nuôi dưỡng và ban ơn cho chúng con. Chúng con rất an tâm vì có Chúa là nguồn sống và là Đấng bảo vệ chúng con, dù cho cuộc đời chúng con có rơi vào nỗi đau, nỗi cùng cực nỗi mất mát nhất. Chúng con tin rằng, Chúa sẽ cầm tay dẫn dắt chúng con đi và đi qua những nỗi khó khăn trong cuộc sống để làm cho cuộc đời chúng con không mắc nạn. Đây là điều an ủi chúng con rất nhiều trong cuộc đời làm con Chúa của chúng con. Chúng con chúc tụng Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 32 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, nếu biết khiêm tốn, quy hướng mọi sự về Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Qua bữa tiệc của vua Bênsátxa, những kẻ quyền thế ở đời này có thể xem thường của thánh và chống đối đạo. Đối với Thiên Chúa, số phận của họ đã được an bài. Có thể là chỉ mai kia thôi, họ sẽ không còn nữa. Ngay đêm ấy, Bênsátxa, vua dân Canđê, bị giết chết. Sau đó, ông Đariô, người Mêđia, lên ngôi vua năm sáu mươi hai tuổi… Chớ dương oai ngạo nghễ với Trời, vì chỉ Thiên Chúa mới là thẩm phán, Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ kia. Này tay Chúa cầm chén rượu, rót cho bọn gian ác trên đời, tất cả đều phải uống. Ai thờ Con Thú và lạy tượng nó, thì sẽ phải uống chén rượu là cơn lôi đình của Thiên Chúa.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, nếu cứ bền tâm vững chí bước đi theo đường lối Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Bài Giảng của một Tác Giả ở Thế Kỷ II nói: Anh em thân mến, chúng ta hãy thi hành thánh ý Chúa Cha; Người đã kêu gọi chúng ta, để chúng ta sống và nhiệt thành hơn trên đường nhân đức… Anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích. Hãy làm việc thiện, đừng nản chí sờn lòng.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, nếu biết quay về với Chúa, để được Chúa bồi dưỡng chăn nuôi, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Chúng ta đã lầm lạc, nhưng vì Thiên Chúa thương xót, nên Người đã cứu chúng ta. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 22, vịnh gia đã cho thấy: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy tạ ơn trong mọi Hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? Tất cả những gì Chúa gửi đến đều là quà tặng tình yêu Chúa dành cho chúng ta, chỉ có Chúa mới biết điều nào tốt nhất cho chúng ta, phần chúng ta, hãy tạ ơn Chúa trong mọi Hoàn cảnh. Hãy giữ vững niềm trông cậy vào Chúa: Cho dẫu, ngay lúc hiện tại, chúng ta đang bị thua thiệt, lép vế, nhưng, hãy vững dạ an lòng, Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để giải cứu chúng ta. Chúa chính là mục tử chăn dắt chúng ta, có Chúa bảo vệ, chúng ta sẽ chẳng phải lo chi. Hãy quay về với Chúa, tìm nương tựa nơi Chúa, đừng tìm Chúa nơi những gì hư ảo: chín người kia vào đền thờ gỗ đá, để thờ phượng Chúa theo truyền thống cha ông; chỉ có người ngoại bang quay trở lại, tôn vinh, thờ phượng Đức Giêsu, chính là Đền Thờ đích thực, không do tay người phàm làm ra. Chúa chính là cứu cánh, là cùng đích cuộc đời chúng ta, mọi thứ khác chỉ là phương tiện, chúng ta chỉ sử dụng phương tiện bao lâu, chúng giúp chúng ta đạt tới Chúa, còn khi, chúng cản trở chúng ta, thì dù là đó là những truyền thống đạo đức lâu đời do các Kinh Sư và những người Pharisêu thiết lập, chúng ta cũng hãy can đảm gác lại, để quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa, Đấng luôn chờ đợi chúng ta đến với Người, để Người cho chúng ta được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng. Ước gì Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
Từ sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan, Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc. Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ. Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa. Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng. Trải qua bao triều vua của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước, từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia. Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa. “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21). Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến. Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20). Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ. Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu. Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha, khi con người được biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu, khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng. Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa. Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian. Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên, như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng, Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn. Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt. Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm để Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất. Ngày nào trên thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công, ngày nào nhân loại còn bệnh tật nghèo đói, còn nô lệ cho vật chất, ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu. Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu, chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người, nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10). Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian. Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, chúng ta còn bề bộn công việc phải làm. Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt. Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta. Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng. Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời. Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất. Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui, quy tụ mọi người từ bốn phương, xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc. Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin. Con mơ ước những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em. Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ. Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.Amen ---------------------------------
Từ bao đời người Do thái luôn mong đợi “Bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến”. Họ ẫn tưởng Triều Đại Thiên Chúa đến rất hoành tráng. Một vị hoàng đế tài ba như Đa-ít sẽ xuất hiện. Đưa dân tộc lên đài vinh quang. Thống trị thế giới. Thật bất ngờ húa trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Vừa gần gũi. Vừa ẩn giấu.Như kho tàng chôn giấu ngay trong ruộng nhà. Như hạt cải vùi chôn dưới đất. Như nắm men vùi trong thúng bột. Phải tinh tế lắm mới nhận ra. Khi nhận ra thì thật rõ ràng: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Nhưng Triều Đại Thiên Chúa chỉ đến sau những gian nan đau khổ.
Để nhận ra Triều Đại Thiên Chúa đang ẩn giấu trong những gì bình thường của cuộc sống, cần có sự Khôn Ngoan. Nhưng Khôn Ngoan ở đây có ba bước tiến. Bước thứ nhất là nhìn thấu suốt sự vật. Xuyên thấu tâm can. Để khám phá ra những kho tàng chôn giấu. Những viên ngọc trong đá. Rồi đến bước thứ hai. Người thấm nhập Khôn Ngoan sẽ là hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từ bi. Rồi đến giai đoạn thứ ba. Người Khôn Ngoan trở thành bạn hữu của Thiên Chúa. Trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa. Cộng tác với Thiên Chúa làm cho Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng như thế có nghĩa là phải cùng Thiên Chúa đi vào cuộc chiến đấu chống lại bóng tối. Người Khôn Ngoan sẽ sáng hơn ánh sáng. Vì ánh sáng phải rút lui khi bóng tối vây phủ. Trái lại Người Khôn Ngoan sẽ không lùi bước trước sự ác. Chính mỗi người phải hoạt động để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển trị ngay trong đời mình (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên môn đệ Phi-lê-môn làm cho Triều Đại Thiên Chúa đến. Khi cho người nô lệ Ô-nê-xi-mô được tự do. Ô-nê-xi-mô là kho tàng giấu trong ruộng. Là viên ngọc nằm trong đá. Là tự do bị vùi chôn trong nô lệ. Anh đang ở giữa Phao-lô và Phi-lê-môn. Khi thánh Phao-lô bị tù. Phi-lê-môn gửi Ô-nê-xi-mô đến phục vụ. Và thánh Phao-lô đã cho anh được tự do. Ngài thuyết phục Phi-lê-môn hãy đồng ý điều này. Như thế là được chứ không mất. “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”(năm chẵn).
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa tôi. Tôi có đủ Khôn Ngoan để nhận ra. Và nhất là có đủ dũng khí đế thực hiện. Dù điều đó có hại vật chất. Để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển hiện không?
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến". "Chúa lại đến", đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Ðó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được". Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. (Lc. 17, 20-21)
Ngay thời ngôn sứ Đa-ni-en, dân Do thái đã bàn tán về ngày nước Thiên Chúa đến và sự chờ đợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Ít-ra-en. Người ta khảo sát các điềm trời và các tai họa xảy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo về ngày giờ tận thế. Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên của con người, nên biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu bao giờ triều đại Thiên Chúa đến.
Triều đại Thiên Chúa đã đến rất êm ái
Câu trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã đến và biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ đóng kín, câm lặng, chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về nước Chúa đã đến vì Người nhờ ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ, và lời Người đang sưởi nóng con tim của những kẻ khốn cùng. Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu, không thể nhận biết được nước Thiên Chúa.
Khi trả lời những kẻ không tin, Đức Giêsu quay lại phía các môn đệ, các ông biết Đức Giêsu đã đến phục hưng lại nước Thiên Chúa và Người phải trở lại để hoàn tất mọi sự. Người đã tiên báo cho các ông rằng trước ngày quang lâm xảy ra những khốn khổ, những ngày khủng khiếp làm mọi người xao xuyến lo âu. Lúc đó, họ không còn kiên nhẫn chờ đợi ngày Con Người trở lại và họ sẽ bị thôi thúc tìm dấu chỉ và tin những tiên tri giả. Họ sống giữa những cảnh buồn sầu khổ sở lớn lao rồi lại để mình bị loại bỏ.
Người đến như ánh chớp chói lòa chiếu sáng.
Con Người đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử, bom khinh khí và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột ngột như các tai họa đổ xuống loài người và luôn luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc nào.
Trước khi biến cố này xảy đến, Đức Giêsu phải chịu xỉ vả, hạ nhục, phản bội bởi thế hệ này và các thế hệ kế tiếp. Tình yêu chắc chắn chiến thắng. Nhưng trước khi chiến thắng hận thù và chia rẽ, Người phải hành động để thuyết phục chứ không dùng bạo lực. Giáo hội cũng phải chịu khổ nhục một thời và các Kitô hữu phải biết kiên trì giữ vững đức tin luôn luôn sẵn sàng đón tiếp Con Người đến.
Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?”. Lúc đó, có một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật...!”. Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình, sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự”.
Ngày xưa, người Do thái đương thời với Đức Giêsu cũng luôn mong đợi một Đấng Thiên Sai oai phong lẫm liệt, Ngài đến để thiết lập một triều đại hùng cường, mở mang bờ cõi và đem lại cho dân tộc họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc theo kiểu bề ngoài.
Niềm hy vọng như thế đã làm chủ suy nghĩ của họ, nên khi Đức Giêsu đến, họ không nhận ra Ngài và khước từ những đặc tính của Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo. Nguyên nhân sâu xa chính là lòng dạ sắt đá của họ. Sự cứng lòng tin đã làm cho tâm hồn họ trở nên u tối, mê muội, nên khó chấp nhận ánh sáng là chính Đức Giêsu. Vì thế, họ đã đang tay giết luôn cả Đấng mang Nước Trời đến cho mình.
Vì biết rõ tâm hồn họ, nên Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến". Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo ở đây không thể hiểu theo nghĩa vật lý, tức là mắt thấy, tay sờ được... Nhưng Nước Trời ở đây là chính Ngài. Thực hành những lời Đức Giêsu dạy chính là đi vào mối tương quan thân tình với Ngài và được ở trong Ngài. Sống lời Ngài dạy và đem ra thực hành chính là làm cho Nước ấy được lan rộng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta muốn được nhận ra Chúa thực sự thì phải trở nên nhỏ bé, khiêm nhường. Cần phải lột bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới với những suy nghĩ và hy vọng mới theo tinh thần Tin Mừng thì mới có thể gặp được Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu và yêu thương để được Nước Chúa làm gia nghiệp. Amen.
Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Chỉ cần đón nhận Chúa Giêsu là gặp thấy triều đại Thiên Chúa. Ta hãy sống trọn giây phút hiện tại để đón chờ Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, tuy con đang sống ở quê hương dưới đất này, nhưng quê trời mới là quê thật của con. Cuộc sống con hôm nay, với những sinh hoạt hàng ngày để xây dựng cho quê hương trần thế, đều là những nỗ lực để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trên quê trời.
Thế nhưng, có những lúc con để công việc cuốn hút mình như một cơn lốc. Tâm trí con quên mất Chúa, cõi lòng con khô khan nguội lạnh. Nhìn lại quá khứ, con thấy mình trắng tay, chẳng có công nghiệp gì ngoài tội lỗi. Con chưa sẵn sàng để đón chờ ngày của Chúa.
Lạy Chúa, quá khứ lầm lỗi đã qua rồi. Tương lai sắp tới còn nằm trong vòng tay yêu thương của Chúa. Chỉ còn hiện tại, từng giây từng phút của cuộc sống hôm nay, là thuộc quyền sở hữu của con. Con sẽ được hạnh phúc vĩnh viễn hay con sẽ bị đau khổ đời đời là tùy cách sử dụng những giây phút hiện tại của con.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng vĩnh cửu đã sống trọn thân phận làm người, là triều đại của Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng con. Mỗi ngày sống hôm nay đều mang tính chất đời đời nếu con biết sống liên kết với Chúa. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc sống và kết hiệp với Chúa trong mọi công việc. Xin giúp con trong từng giây phút hiện tại biết sống trọn vẹn cho Chúa, để con được thực sự sống trong Nước Trời ngay từ hôm nay, và cho đến mai sau muôn đời. Amen.
Một cha sở kia khuyên bổn đạo: “Hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa một ngày trước khi chết”. Bổn đạo chưa hiểu rõ lời khuyên của cha có ý nghĩa gì...
Cha cắt nghĩa: “Không ai biết mình chết khi nào. Có lẽ tối nay chăng? Có lẽ ngày mai chăng? Bởi thế, muốn cho chắc chắn, hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay là một ngày trước khi chúng ta có thể chết mà chúng ta không biết”.
Suy niệm
Nhìn những chiếc là vàng rơi, những làn gió lạnh buốt tràn về, ai cũng có thể nhận ra tín hiệu của thời gian báo hiệu mùa thu đã tới và chuẩn bị bước vào mùa đông lạnh giá...
Những tín hiệu của tiết trời báo cho chúng ta những khoảng thời gian cụ thể trong một năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa Giêsu cũng nói về những tín hiệu sẽ xảy ra trong thời gian để nói về ngày Ngài sẽ đến: Sẽ xuất hiện một ánh sáng chói ngời vinh quang là hình ảnh của Đấng ngự trên mây trời mà đến, Đấng ấy đến xét xử muôn dân. Đó như là tín hiệu báo trước về ngày quang lâm vĩnh cửu của Thiên Chúa để mọi người nhìn nhận và chuẩn bị đón Người như người tôi trung đợi chủ về.
Thiên Chúa không chỉ đến trong ngày quang lâm, tận cùng của thế giới mà Ngài đang đến và đứng trước ngõ cuộc đời mỗi người qua những tín hiệu cụ thể trong đời sống như Ngài đã nói: “Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13,28-29).
Trong đời sống của tôi của bạn luôn có những tín hiệu của sức khỏe, của gia đình, của những biến cố cuộc đời nhắc tôi và bạn cùng suy nghĩ về một Đấng đang đến gần. Thật thế, tất cả những biến cố trong cuộc đời, dù vui dù buồn đều là những tín hiệu của Thiên Chúa báo cho tôi. Khi tôi gặp những khó khăn đau khổ, đó là tín hiệu báo cho tôi cần sự can trường trong đức tin cần bám víu vào Chúa và trung kiên đến cùng. Khi tôi tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, đó là tín hiệu báo trước cho tôi về một nước Trời cần phải nhớ đến vì niềm vui hiện tại chỉ là tín hiệu báo trước về hạnh phúc bất tận nơi vương quốc vĩnh cửu. Ngài đang ở trước ngõ của cuộc đời tôi, nhưng những tín hiệu đó không được tôi và bạn đón nhận như là những sứ điệp về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, tôi phải vững vàng bước đi để đạt được niềm vui bất tận đời đời.
Ý lực sống
“Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13,25-26).
1. Người Do thái rất quan tâm đến Ngày mà Thiên Chúa thiết lập triều đại của Ngài. Họ nghĩ rằng đó là một biến cố trọng đại , đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và cho dân tộc họ. Nhưng Đức Giêsu nói với Người Do thái:”Triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông”. Ngài muốn nói triều đại Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Ngài. Để nhận ra Nước Thiên Chúa, nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, chúng ta không thể dùng giác quan tự nhiên, mà phải nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Nước Trời hiện diện ngay trong cuộc sống trần gian này. Vì thế, cuộc sống của chúng ta sẽ là bằng chứng sống động cho sự hiện diện của Nước Trời.
2. Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn là thao thức của con người. Nhờ người Do thái nôn nào chờ đợi Nước Thiên Chúa, nhưng dù có thao thức, có chờ đợi, họ cũng không gặp, dù rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Đức Giêsu đã giải thích lý do:”Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình, thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài. Người Do thái chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa theo sở thích của họ, do đó, họ khước từ hay giết chết kẻ mang nước Chúa đến cho họ. “Ngài đã đến nơi nhà Ngài, nhưng người nhà đã không đón tiếp Ngài “vì họ chỉ mơ ước một nước trần thế”(R.Veritas).
3. Thực ra, triều đại Thiên Chúa là một biến cố trọng đại, nhưng không phải trọng đại theo cặp mắt loài người. Với sự xuất hiện của Đức Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là “tin” và “theo” Đức Giêsu. Ai muốn thuộc về Nước ấy cần phải chấp nhận điều kiện Ngài đề ra, đó là sống vâng phục và yêu thương như Ngài. Nơi nào con người cố gắng sống như Ngài , nơi đó Nước Thiên Chúa được thể hiện.
4. Có thể nói, loan báo “Triều đại Thiên Chúa” là chính sứ mạng của Đức Giêsu khi Ngài nhập thể. Ngay từ những lời đầu tiên khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã rao giảng:”Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”(Mc 1,15). Ngài quả quyết thời đại hồng ân mà tiên tri Isaia tiên báo nay đã thành hiện thực: ”Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quí vị vữa nghe”(Lc 4,21). Thế mà tiếc thay, người ta lại mải mê đi tìm một thứ “triều đại” khác, “ở chỗ này, ở chỗ kia” “như một điều có thể quan sát được”. Hôm nay, Đức Giêsu nói trắng ra:”Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Ngài chính là “Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết”(Ga 1,26). Chỉ khi nhìn lên thập giá người ta mới có thể nhận ra Triều đại của Thiên Chúa đã đến nơi chính con người Đức Giêsu, như người trộm sám hối đã tuyên xưng:”Ông Giêsu ơi! Khi nào vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi” (5 phút Lời Chúa).
5. “Chúa lại đến”. Đức Giêsu nói rằng thực tại thần linh này không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Một điều chắc chắn là có chung kết lịch sử, có ngày Đức Giêsu quang lâm, nhưng không một ai từ hàng chư thánh, các thiên thần đến loài người được biết thời gian ngày tận thế. Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một điểm mà không ai biết trước được vào ngày Đức Giêsu sẽ quang lâm. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nảy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi; không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa đến, nên đòi hỏi các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi (Hiền Lâm).
6. Qua cuộc sống của Ngài, Đức Giêsu đã vạch cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Đức Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
7. Truyện: Chúa ở đâu Thiên đàng ở đó.
Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà cậu cảm thấy và niềm ao ước được về với Chúa Giêsu.
Cậu bé nói:
- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức Giêsu và ở với Ngài mãi mãi.
Nhà truyền giáo đáp:
- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng , con sẽ làm gì?
- Con sẽ đi theo Người.
Nhà truyền giáo lại nói:
- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?
Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên nét mặt , cậu bé đáp:
- Ồ, ở đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng.
1. Triều đại Thiên Chúa: Người do thái rất quan tâm đến Ngày mà Thiên Chúa thiết lập triều đại của Ngài. Họ nghĩ rằng đó là một biến cố trọng đại, đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và cho dân tộc họ. Họ rất mong ngày đó mau đến, nhất là khi họ đang phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của Rôma. Họ muốn biết khi nào và ở đâu ngày ấy xảy ra. Bởi thế hôm nay người pharisêu hỏi Chúa Giêsu: “Khi nào thì Triều đại Thiên Chúa đến?” Thực ra Triều đại Thiên Chúa tuy cũng là một biến cố trọng đại như người do thái nghĩ, nhưng không phải trọng đại nhìn theo cặp mắt loài người (vinh quang, chiến thắng v.v.). Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Bởi đó Chúa Giêsu nói “Triều đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta không thể nói “Ở đây” hay “ở kia”, vì này Triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông”. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là Tin và theo Chúa Giêsu.
2. Ngày của Con Người: Ngày của Con Người tức là lúc Chúa Giêsu quang lâm, khi đó Triều đại Thiên Chúa sẽ hoàn thành trọn vẹn. Cũng như bao người khác, các môn đệ cũng mong ngóng Ngày đó. Nhưng Chúa Giêsu cảnh cáo: đừng quan tâm nghiên cứu về địa điểm và thời gian của ngày đó. Vô ích thôi, vì đặc tính của Ngày ấy là đến một cách nhanh chóng và bất ngờ.
B.... nẩy mầm.
1. “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”. “Ở giữa” có nghĩa là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho nên muốn xây dựng Nước Chúa thì phải xây dựng ngay trong lòng mình. “Ở giữa” cũng có nghĩa là một người âm thầm phục vụ giữa một tập thể nhiều người. Chính bởi vì Nước Thiên Chúa “ở giữa anh em” như thế nên Chúa Giêsu nói “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được”.
2. “Vào thời Nga hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau: “Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến”. Nghe thế người thanh niên dõng dạc trả lời: “Thưa ông tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. Con người sống không tương lai là con người thiển cận khô héo, nhưng con người chỉ sống với tương lai là con người hão huyền.
- Hãy biết kết nối giữa tương lai và hiện tại, giữa hy vọng và thực tế.
- Đừng chỉ hướng mắt về tương lai xa vời huyền ảo, hãy nhìn vào tờ lịch ngày hôm nay, nhìn vào đồng hồ với việc bổn phận của ta lúc này. Một nhà thiên văn vừa bước đi vừa dán mắt vào những ngôi sao thăm thẳm xa vời có thể sẽ rơi tọt xuống cái hố ở sát chân mình.
4.. Đừng mong chờ Trời mới Đất mới theo kiểu ‘ngồi chờ sung rụng’, ‘ngồi mát ăn bát vàng’, nhưng hãy biết dấn thân, tham dự vào công cuộc đồng-sáng-tạo với Chúa.
5. “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21)
- Sa mạc thật đẹp… Cái để tô điểm cho sa mạc – ông hoàng nói nhỏ – là nó ẩn dấu một cái giếng ở nơi nào đó (Hoàng tử bé. Antoine de Saint-Exupéry)
Và thế giới cũng đẹp bởi vì ở giữa mỗi con người ẩn chứ tình yêu của Thiên Chúa. Từ khi Cha đóng dấu ấn yêu thương bằng máu Con mình trên mặt đất, mỗi con người không còn là hạt cát khô rát úa rũ giữa sa mạc. Đấy, con nhìn thấy Thiên Chúa giữa anh em, trong thiên nhiên. Con thấy bàn tay Chúa giang rộng khắp địa cầu, xoa dịu khổ đau từng giây phút.
Lạy Cha, con hạnh phúc biết bao khi biết rằng Cha đang ở giữa chúng con cùng với triều đại của Ngài. Và con mãi mãi tạ ơn Cha về điều đó. (Hosanna).
1. Nước Thiên Chúa - Nước Trời hay Triều đại Thiên Chúa: Đây là đề tài chủ yếu trong Kinh Thánh. Cùng với niềm mong đợi Đấng Thiên Sai, người Do Thái tưởng tượng ra một vương quốc thịnh vượng, hùng cường mà Thiên Chúa sẽ thiết lập ngay trên lãnh thổ của họ. Vào thời Chúa Giêsu, một niềm hy vọng như thế bừng cháy lên một cách mãnh liệt trong tâm hồn mọi người.
Nước Trời hay Nước Chúa cũng là đề tài chủ yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Ngài đã khai mở sứ vụ bằng lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Nhưng trái với niềm hy vọng của người Do Thái, Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo không phải là một lãnh thổ có thể quan sát, đo đạc hay khoanh vùng trong những ranh giới. Nước ấy giống như một hạt giống được âm thầm gieo vào lòng đất. Nước ấy giống như men được cho vào bột để làm cho bột ấy dậy lên.
Vì người Do Thái quan niệm Nước Thiên Chúa như một vương quốc trần thế, có lãnh thổ, có binh lính, có quyền lực cho nên họ rất mong ngày đó mau đến, nhất là khi họ đang phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của Rôma. Họ muốn biết khi nào và ở đâu ngày ấy xảy ra. Bởi thế, hôm nay người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu: “Khi nào thì Triều đại Thiên Chúa đến?” (Lc 17,20)
Thực ra triều đại Thiên Chúa là một biến cố trọng đại nhưng không phải trọng đại theo cặp mắt loài người. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là tin và theo Chúa Giêsu. Ai muốn thuộc về Nước ấy cần phải chấp nhận điều kiện Ngài đề ra, đó là sống vâng phục và yêu thương như Ngài. Nơi nào con người cố gắng sống như Ngài, nơi đó Nước Chúa được thể hiện.
Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà cậu cảm thấy và niềm ao ước được ở với Đức Giêsu.
Cậu bé nói:
- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức Giêsu và ở với Người mãi mãi.
Nhà truyền giáo đáp:
- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng, con sẽ làm gì?
- Con sẽ đi theo Người.
Nhà truyền giáo lại nói:
- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?
Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên nét mặt, cậu bé đáp:
- Ồ, đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng”. Đó là ý thứ nhất.
2. Ý thứ hai: Ngày của Con Người: Ngày của Con Người tức là lúc Chúa Giêsu quang lâm, khi đó Triều đại Thiên Chúa sẽ hoàn thành trọn vẹn. Cũng như bao người khác, các môn đệ cũng mong ngóng ngày đó. Nhưng Chúa Giêsu cảnh cáo: đừng quan tâm nghiên cứu về địa điểm và thời gian của ngày đó. Vô ích thôi, vì đặc tính của Ngày ấy là đến một cách nhanh chóng và bất ngờ.
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em” (Lc 17,21). “Ở giữa” có nghĩa là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho nên muốn biết Ngày của Con người đến hay chưa thì đừng đi tìm ở đâu mà hãy đi vào ngay cõi lòng của mình. “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được”. Nước Thiên Chúa “ở giữa anh em”, ở ngay trong lòng con người.
Vào thời Nga Hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau:
- Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến.
Nghe thế, người thanh niên dõng dạc trả lời:
- Thưa ông, tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Nếu hiểu được như vậy, thì chúng ta không thể mong Nước Trời đến như mong chờ kiểu ‘ngồi chờ sung rụng’, nhưng phải biết dấn thân, tham dự vào công cuộc đồng-sáng-tạo với Chúa và phải làm những công việc đó ngay từ hôm nay, ngay từ giây phút này.
Hãy nhìn vào tờ lịch ngày hôm nay, nhìn vào đồng hồ với việc bổn phận của ta lúc này mà bước đi những bước thật vững vàng trên con đường phục vụ, chúng ta sẽ được sống trong Nước Thiên Chúa.
Những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão ngày xưa hỏi Chúa là khi nào nước Thiên Chúa đến? (Lc 17, 20). Qua câu hỏi này của họ, chúng ta thấy, ngày hôm nay chúng ta cũng giống như họ, chúng ta vẫn tự đặt câu hỏi cho riêng bản thân mình, và với nhau “Bao giờ đến ngày tận thế?”.
Nước Thiên Chúa chính là Chúa. “Bao giờ nước Thiên Chúa đến?”, nghĩa là bao Chúa đến? Bao giờ Đấng Cứu Thế đến? Đấng mà muôn dân đang đợi chờ hàng bao ngàn năm nay.
Chúa đang ở đây với họ, tức là nước Thiên Chúa đây rồi “Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông” (Lc 17, 21), họ cũng như con người chúng ta không cần phải đi tìm Chúa ở đâu xa. Chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy dỗ, hãy làm theo thánh ý của Chúa mà lo sửa đổi cuộc sống cho tốt, cho phù hợp với những điều Chúa muốn là tốt rồi.
Thế nhưng họ chối từ Chúa, không nghe lời Chúa, chống phá Chúa, và họ lại mơ tưởng, đi tìm một Chúa khác, tìm Đấng Cứu Thế theo suy nghĩ, theo ý riêng, theo thêu dệt của họ. Vì thế, Chúa đến, không phải để cho họ và con người chúng ta tò mò và phao tin nước Chúa ở chỗ này chỗ kia mà đổ xô đi tìm để thỏa mãn cho tính hiếu kỳ của chúng ta.
Có biết bao nhiêu con người chúng ta trước đó mơ ước được thấy Chúa của ngày hôm nay mà không có thấy, vì thời viên mãn chưa đến. Vì thế mà con người chúng ta luôn sống hy vọng, chờ đợi. Có lẽ tuy họ đã qua đời rồi, nhưng họ vui và chúc mừng cho con người chúng ta được diễm phúc có Chúa đang ở với chúng ta. Con người chúng ta phải quý trọng giây phút này, thời đại này. Nếu con người chúng ta biết như thế, thì chúng ta chớ đi tìm, chớ tìm kiếm khi mà nhân loại thế gian phao tin cho rằng: “Này Người ở nơi đây, và này Người ở nơi kia” (Lc 17, 23). Chúng ta phải vững tin vào Chúa, cậy trông phó thác vào Chúa, cho dù cuộc đời này có đổi thay như thế nào đi chăng nữa.
Chúa đang hiện diện ở trần gian, đừng có viễn vông mà trông đợi một Chúa nào khác nữa. Thời kỳ đã mãn rồi, đến lúc Chúa đã định rồi, nước Chúa đã đến, Chúa ở với con người chúng ta đây, đừng tìm Chúa ở đâu, nơi xa xôi cả, và Giáo Hội mà chúng ta được ở trong đó, là chúng ta an tâm rồi: “Người ta sẽ bảo các con: Này Người ở đây và này Người ở kia, các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người sẽ chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi” (Lc 17, 24 – 25). Tức là tuy Chúa ở đây, nhưng Chúa lại nói về ngày quang lâm, ngày trở lại trần gian của Chúa. Nhưng để cho ngày đó xảy ra, Chúa phải đi vào cuộc khổ nạn, Chúa chịu chết vì tội lỗi chúng ta, rồi Chúa sống lại và sau đó Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, ngày tận thế Chúa sẽ lại đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và kẻ chết (Kinh Tin Kính). Do đó chúng ta đừng sống lơ là trong lúc chờ Chúa đến.
Lạy Chúa của con, Chúa luôn luôn phù trợ chúng con, chúng con tin tưởng bám chặc vào Chúa, dù có ai nói ngả nói nghiêng, lòng chúng con vẫn vũng như kiềng ba chân vào Chúa và tiếp tục đi theo sự hướng dẫn của Chúa, chúng con sẽ được sống muôn đời. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 32 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, với tâm tình sám hối xin Chúa phục hồi, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Lời các ngôn sứ sẽ thành hiện thực như thế nào? Đó là câu hỏi luôn làm cho độc giả Sách Thánh phải bận tâm. Khi nói đến bảy mươi tuần, ngôn sứ không có ý đặt triều đại Thiên Chúa vào một thời điểm nhất định, cho bằng, thiết lập một mối tương quan: một bên là, bảy mươi năm lưu đày, và tiếp theo sau là thời phục hưng; bên kia là, phần còn lại của lịch sử Dân Thiên Chúa, sau khi Đền Thờ bị tàn phá: lịch sử sẽ kết thúc bằng cuộc chiến thắng cuối cùng, chiến thắng tội lỗi. Lạy Đức Chúa, từ thánh điện Ngài, xin đoái nhìn, xin nghĩ đến chúng con và ghé tai nghe. Lạy Thiên Chúa của con, xin lắng tai nghe, xin ghé mắt nhìn cảnh hoang tàn của chúng con. Lạy Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con; xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, với một quyết tâm hoán cải đời sống, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Bài Giảng của một Tác Giả ở Thế Kỷ II nói: Hội Thánh sống động là thân thể Đức Kitô. Nếu chúng ta không thi hành ý muốn của Chúa, thì lời Kinh Thánh sau đây sẽ được áp dụng cho chúng ta: Nhà Ta đã thành sào huyệt bọn cướp… Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Ítraen phán: Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi; Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. Anh em hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho sạch, hãy tẩy luyện tâm can.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, với lòng yêu thương, bênh vực, chở che những ai đang cần được giúp đỡ, như Chúa vẫn luôn phù hộ chở che ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói với ông Philêmôn: Xin anh hãy đón nhận nó, không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 145, vịnh gia đã cho thấy: Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ. Chúa là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông. Chúng ta là những ngành nho tháp nhập vào trong thân nho là chính Chúa; ở lại trong Chúa, chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái. Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, chúng ta là những công dân Nước Trời, ở lại trong Nước Trời, chúng ta cũng sẽ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp, làm cho chính mình và cho người khác được sống trong bầu khí yêu thương, hoan hưởng, và nếm trước hạnh phúc Nước Trời ngay tại trần thế này. Cành lìa cây sẽ khô héo, và không thể tháp nhập lại được với cây, nhưng, Lòng Thương Xót của Chúa có thể tháp nhập chúng ta lại với Người, và Chúa sẽ có cách để phục hồi chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Chúa. Ước gì chúng ta biết tin tưởng cậy trông vào Chúa, chính Chúa sẽ gìn giữ, chở che và giải cứu chúng ta khỏi mọi cơn khốn khó ngặt nghèo. Ước gì Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người. "Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện. "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó. "Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại". Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó".
Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada. Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á. Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng, cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh. Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng. Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh. Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ. Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra. Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý. Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết. Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay. Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống? Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ, vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi. Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại. Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức. Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi. Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào, người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến. Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ. Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội. Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn. Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả, có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra. Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê, khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.” Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy. Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời, thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán, họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28). Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại. Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường. Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng. Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo. Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè. Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới. Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35), nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau. Có người được đem đi, có người bị bỏ lại. Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)? Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.Amen ---------------------------------
Cùng thân phận. Cùng điều kiện. Cùng cảnh ngộ. Nhưng kết cục khác nhau. Hai người cùng nằm trên một giường. Hai phụ nữ cùng xay một cối bột. Hai người đàn ông cùng cày cuốc trên ruộng. Nhưng một người được đem đi. Người kia bị bỏ lại. Tại sao? Thưa hơn kém nhau do tầm nhìn cao hơn, xa hơn và do sức lực mạnh hơn.
Bà Lót có tầm nhìn thấp. Nhìn xuống thấp để luyến tiếc của cải đã bị thiêu rụi. Nhìn xuống thấp nên hành động theo xác thịt. Ông No-e có tầm nhìn cao. Nhìn lên Thiên Chúa. Làm theo ý Chúa.
Bà Lót có tầm nhìn gần. Nhìn những gì đã qua. Nhìn những gì trước mắt. Ông No-e, trái lại. Bỏ qua hiện tại để nhắm đến tương lai. Không nhìn bằng đôi mắt phàm trần những gì của trần gian. Nhưng nhìn bằng ánh mắt Thiên Chúa để thấy xa hơn những gì con người phàm tục có thể thấy.
Bà Lót thật yếu đuối. Không thoát khỏi trần gian và dục vọng. Ông No-e thật mạnh mẽ. Nên chiến thắng cả một thế hệ. Để đi vào thánh ý Thiên Chúa. Vì thế bà Lót bị bỏ lại. Ông No-e được đưa đi.
Sách Khôn ngoan gọi những người nhìn thấp và gần là ngu si. Vì họ chỉ dừng lại ở vật chất mà không vươn lên đến Chúa. “Những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng HIện Hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công”. Họ yếu đuối. Nhưng không thoát khỏi bị trừng phạt vì sai lầm đó. “Họ đã để cho cái vỏ bề ngoài mê hoặc…Tuy nhiên, không vì thế mà chúng được thứ tha”(năm lẻ).
Thư 2 Gio-an khuyên ta hãy tỉnh thức. Đừng bị thế gian và những lý lẽ của nó mê hoặc. Phải vượt qua thế gian để ở lại trong Chúa Ki-tô. Để được ở lại trong Chúa Cha. Đó là phần thưởng cao quí. “Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian…Đó là kẻ mê hoặc và là tên Phản Ki-tô. Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng”(năm chẵn).
Đó thực là một cuộc chiến đấu. Đi ngược dòng đời. Ngược với thế gian. Và khó nhất là ngược với chính những dục vọng thấp hèn trong bản thân mình.
Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim: "Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất". Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.
Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn, thường được gọi là thực tại cánh chung. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa không những nói về con người, mà còn nói với con người về chính con người. Kinh Thánh nói với con người: nó từ đâu đến? sẽ đi về đâu? Cứu cánh hay cùng đích của con người là một trong những mạc khải nền tảng của Kinh Thánh. Do đó, bằng một lối văn đặc biệt, Kinh Thánh thường dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại cánh chung ấy.
Cũng theo truyền thống ấy, khi nói về những thực tại cánh chung, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.
Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cor: "Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi". Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Giáo Hội đang làm chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội đang làm chứng cho thời cánh chung, nghĩa là sống trong ngày của Chúa. Dấu chứng ấy khả tín hay không là tùy ở cuộc sống có khả tín hay không của các Kitô hữu. Cuộc sống lương thiện, công bằng, yêu thương, phục vụ, quảng đại của các Kitô hữu chắc chắn sẽ tạo một dấu cho mọi người thấy rằng họ là những tạo vật mới, rằng Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong họ.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh sống trong chúng ta và hướng dẫn mọi tâm tư hành động của chúng ta.
Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ. Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh. Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa của sân bay. Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng khủng khiếp". Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.
Dĩ nhiên, sau bất cứ một tai nạn nào, người ta cũng cố gắng tìm ra cho bằng được nguyên nhân, bởi vì không có tai nạn nào mà không có nguyên nhân, dù nguyên nhân ấy vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Tựu trung, nguyên nhân nào cũng gắn liền với những giới hạn của con người. Khoa học, kỹ thuật dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể xóa bỏ được những hàng rào dựng lên bởi chính thân phận bất toàn của con người. Ðây hẳn phải là chân lý có thể nuôi dưỡng những suy tư và cầu nguyện của các tín hữu Kitô chúng ta trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn này.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong những ngày cuối năm phụng vụ dường như cũng hướng tâm tư chúng ta về ý tưởng ấy và trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến ngày của Con Người. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Nhớ đến những người quá cố, suy tưởng về sự chết không hề là một thái độ bệnh hoạn hay bi quan mà là tư thế tỉnh thức tích cực của người môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói đến tính cách bất ngờ của ngày của Con Người để kêu gọi các môn đệ mặc lấy thái độ tỉnh thức. Thời ông Nôê, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn.
Ý nghĩ về sự chết hướng con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy, con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảnh khắc của cuộc sống.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lẽ khôn ngoan và tinh thần tỉnh thức đích thực ấy.
Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng xảy ra như vậy, thiên hạ ăn uống cưới vợ lấy chồng, mãi cho đên ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. (Lc. 17, 26-27)
Biết chắc phải chết, nhưng người ta vẫn thích ăn chơi cho đã đời. Ăn uống, cưới hỏi, mua bán, gieo gặt, xây cất … cuồng nhiệt hoạt động đến mức sống tràn trề thỏa mãn trước khi tận diệt.
Phải lo tiên liệu
Ngày Con Người đến không chỉ là ngày ân thưởng, mà còn là ngày đe dọa xao xuyến sợ hãi. Người ta không thấy hạn kỳ ấn định, không ai biết được mình còn sống, không biết được đời sống tương lai. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự ăn năn sám hối và mong đợi Chúa đến hàng ngày của mình.
Vậy phải coi chừng lo chuẩn bị trước: lịch sử cứu độ để lại cho chúng ta ít nhất là hai biến cố đầy ấn tượng mạnh mẽ. Đại hồng thủy thời ông No-e và lửa sinh diêm đốt thành Sô-đô-ma. Nước và lửa ai cũng biết là sức mạnh tàn phá kinh khủng. Biết bao lần nước và lửa tiêu hủy một cách tàn bạo bất ngờ. Vậy phải luôn luôn tỉnh thức phòng cháy, thoát lụt.
Ai có thể được cứu thoát?
Ngày ấy, phải bỏ lại tất cả bất cứ cái gì dù cần thiết cho đời sống. Vợ ông Lót miễn cưỡng đi theo chồng, nhưng lòng luôn luyến tiếc những cái phải bỏ lại. Bà là thứ tâm hồn không có lòng tin. Bất cứ lúc nào, ai không có thể từ bỏ của cải vật chất đời này, chắc chắn hư mất đời đời.
Chỉ có một điều cần thiết cho ngày ấy để có thể đứng trước mặt Chúa trong ngày phán xét là những ai làm việc hàng ngày với con mắt hướng nhìn lên Chúa, “không nhìn lại đàng sau” như vợ ông Lót, mới “thích hợp với nước Thiên Chúa”. Kẻ ru ngủ mình trong chè chén say sưa, chỉ nghĩ tìm những điều theo dục vọng “thì sẽ mất”. Cũng vậy, người đàn bà xay bột chỉ nghĩ đến tấm bánh ngon, thì sẽ bị thiêu đốt.
Các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, ở đâu vậy?”, cũng giống như câu hỏi của biệt phái hỏi bao giờ triều đại nước Thiên Chúa đến. Đức Giêsu cũng trả lời các môn đệ tương tự như trả lời biệt phái.
Ngày đó sẽ là ngày phán xét tất cả. Tất cả vũ trụ sẽ bị phán xét và người ta không thể trốn đi bất cứ đâu được. Không còn phao, xuồng cấp cứu nữa!
Mỗi khi nói đến ngày chung thẩm, ngày Chúa đến với mọi người, ngày phán xét, hẳn đã làm cho nhiều người lo sợ. Lo sợ vì họ đang sống trong cảnh sa đọa, nên ngày đó đến, họ sẽ gặp phải sự bất hạnh. Nhưng ngược lại, nhiều người lại hân hoan vui mừng. Tại sao vậy? Thưa những người vui mừng chính là họ đang sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất cả mạng sống mình vì Nước Trời.
Tuy nhiên, muốn có được niềm vui thực sự, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Giờ của Chúa có thể đến như kẻ trộm, như ông chủ đi xa về, như tia chớp từ trời xuống, như trận lụt thời ông Noe...
Ngày hôm nay, con người ưa sống trong cảnh nhung lụa, ăn chơi, trần tục. Họ luôn bám vào những giá trị trần gian mà quên đi thực tại Nước Trời với những giá trị của Nước này. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi con người trong xã hội hôm nay vẫn nhởn nhơ và ung dung sống trong tội. Không màng chi đến công bằng, nhân ái và tình thương...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, hãy tỉnh thức trong tâm tình cầu nguyện và làm những việc lành, hy sinh và bác ái.
Luôn biết gắn bó cuộc đời của mình trong sự an bài quan phòng của Thiên Chúa. Thực thi Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày. Nhất là luôn biết tỉnh thức trong đời sống cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc sống của chúng con với Chúa. Luôn sống trong tâm tình cầu nguyện để tìm gặp Chúa trong cõi sâu thẳm của lòng chúng con. Amen.
Sứ điệp: Đời sống con người không phải là chuyện tầm thường, không phải chỉ là vui chơi giải trí, nhưng mang một tầm mức vĩnh cửu. Và việc chuẩn bị cho cuộc sống trường tồn ấy, cần phải khẩn cấp ngay hôm nay, từ bây giờ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con thấy bất cứ sự gì trên đời đều có hồi kết thúc. Và mỗi lần kết thúc xảy đến là một báo hiệu và là một lời cảnh giác cho con. Khi một người thân yêu chết, thì đó là một báo động con cũng sẽ phải chết. Khi một tòa nhà lớn bị phá đổ thì đó là một dấu chỉ mọi sự đều rất mong manh. Khi một tai nạn giao thông cướp đi mạng sống con người, thì đó là lời cảnh giác: sự kết thúc sớm hơn thời gian có thể xảy tới bằng bất cứ cách nào.
Lạy Chúa, con nhận ra rằng lụt đại hồng thủy, lửa từ trời đốt cháy thành phố Sôđôma, và thành phố Giêrusalem bị sụp đổ: đó là bằng chứng của sự kết thúc. Những biến cố ấy thôi thúc con quan tâm đến tầm quan trọng của cuộc sống và tích cực gia tăng chuẩn bị chu đáo. Chúa gợi lên sức mạnh của nước và lửa để giúp con ý thức rõ sự nhỏ bé và bất lực của bản thân con. Vâng lạy Chúa, trước lũ lụt và cơn hỏa hoạn, cho dù nỗ lực tối đa, mọi phương tiện cứu chữa nhiều lúc cũng trở nên trò cười.
Lạy Chúa, tất cả vũ trụ này sẽ qua đi và mọi thứ con đang có đều tiêu tan. Chỉ có tình yêu sẽ tồn tại mãi trong đời sống vĩnh cửu. Xin Chúa giúp con luôn biết tỉnh thức sẵn sàng, luôn biết sắm sửa hành trang cho chính mình bằng đời sống thánh thiện, nhất là bằng nghĩa cử yêu thương, như một đảm bảo con sẽ là người được Chúa đem đi vào Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện”.
Thánh Hiêrônimô tin rằng, Thánh Địa là nơi sẽ xảy ra cuộc phán xét chung, vì thế, ngài hy sinh qua ở ngay tại Thánh Địa, đêm ngày ăn chay, cầu nguyện. Suy niệm Lời Chúa, nhớ đến ngày tận thế, ngày Chúa phán xét chung, để nhắc nhở mình phải luôn luôn sống trong sự ăn năn thống hối và đền tội.
Suy niệm
Trong những ngày cuối năm phụng vụ Giáo hội cho chúng ta lắng nghe những bản Tin Mừng nhấn mạnh chủ đề cánh chung để hướng tâm tư chúng ta về ngày của Con Người đến phán xét, ngày cánh chung. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang.
Suy nghĩ về sự chết hay khi nhớ đến những người quá cố, là tư thế tỉnh thức tích cực chờ đợi của ngày giờ Thiên Chúa đến xét xử, thời điểm mà chúng ta không biết rõ thời gian, không gian của ngày phán xét, nhưng luôn hy vọng trong niềm tin chờ đợi vào ngày cánh chung như: Thời ông Noe, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn. Cho nên, để được cứu cần phải sống trong tinh thần chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng như Ngài dạy: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Ý nghĩ về sự chết gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và hướng con người tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống theo những giá trị vĩnh cửu của nước Trời mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Cho nên, tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, nhưng là ngày hôm nay trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Ý lực sống
“Người tín hữu hiện tại không biết và sẽ không biết ngày giờ phán xét chung, cho nên người Kitô hữu phải trung thành mỗi ngày; họ luôn kính sợ bởi vì luôn hy vọng” (Văn sĩ Tertullianô).
1. Sau khi nói về ngày khai mạc và kết thúc Nước Trời ở trần gian, Đức Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, tức là ngày tận thế. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu đã bảo đừng mất công tìm hiểu khi nào và dấu nào cho biết ngày ấy đến. Điều quan trọng là phải sẵn sàng. Lời cảnh cáo của Đức Giêsu cho thấy đó là ngày đáng sợ, không ai có thể thoát. Nhưng đó là ngày hân hoan hạnh phúc cho những ai ở đời này đã sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất mạng sống mình. Mọi người tín hữu phải có thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày ấy trong từng giây phút hiện tại của mình.
2. Các môn đệ khi nghe Đức Giêsu nói đến việc Ngài lại đến, đã tò mò muốn biết lúc nào, tại đâu và như thế nào? Nhưng trong cách trả lời của Chúa, chúng ta nhận thấy điều quan trọng đáng quan tâm không phải là biết thời giờ và ở đâu, mà là thái độ sẵn sàng của mỗi người. Người Kitô hữu cần ý thức rằng cách tốt nhất để chuẩn bị đón Chúa đến, là không thụ động ngời chờ, nhưng tích cực hướng về Chúa và dấn thân phục vụ.
3. Đức Giêsu không mạc khải về thời giờ cụ thể của ngày ấy, Ngài chỉ nói có ngày tận thế và ngày ấy đến rất là nhanh chóng và bất ngờ như “ánh chớp chói lòa ánh sáng từ phương trời này đến phương trời kia”. Và để minh họa cho tính bất ngờ của ngày tận thế ấy, Đức Giêsu dùng hai sự kiện cụ thể trong thời Cựu Ước, đó là Lụt Đại Hồng Thủy và Lửa thiêu hủy Sôđôma thời ông Lót để mời gọi mọi người phải có thái độ sẵn sàng cho ngày ấy. Ngay tận thế sẽ đến bất ngờ và nhanh chóng, và cái chết cũng đến với mỗi người chúng ta bất ngờ như vậy. Vì thế, cần luôn tỉnh thức cầu nguyện và chuẩn bị hành trang thiêng liêng là làm việc lành phúc đức, để khi Chúa đến, Ngài sẽ gặp thấy chúng ta là những người đầy tớ trung thành và khôn ngoan và triều đại Thiên Chúa sẽ thuộc về chúng ta.
4. Ngày tận thế, khi cuộc phán xét chung diễn ra, đó là lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất, là ngày mà từng người đối mặt với vấn đề thiết yếu nhất của mình: được cứu độ hay không được cứu độ:”Ai sẽ được đem đi và ai bị bỏ lại”. Lúc này, những người cùng trong một hoàn cảnh, sẽ được đối xử bằng cách đối nghịch nhau. Trong bối cảnh này, việc phân biệt đối xử giữa họ sẽ được dựa trên việc họ sẵn sàng như thế nào để đón chào Chúa đến. Ngày kẻ lành được thưởng công và kẻ dữ bị tiêu diệt. Chính vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong tâm thế sẵn sàng đón Chúa quang lâm, trong khi vẫn dấn thân xây dựng trần thế tốt đẹp theo ý Chúa. Việc sẵn sàng đối diện với Ngày Chúa đến không phải là tích trừ đèn nến hay lương thực để đối phó (vì chỉ vô ích) mà hãy lo chuẩn bị tâm hồn trong sạch để xứng đáng với Ngày Vua Công Chính ngự đến (Hiền Lâm).
5. Cơn bão số 9 mang tên Ketsana hồi cuối tháng 9 năm 2009 được dự báo sẽ theo hướng tây bắc đổ bộ vào Quảng Trị, bỗng bất ngờ chuyển hướng tây nam ập vào Quảng Ngãi khiến nhiều ghe tầu trở tay không kịp. Giống như thế, ngày cánh chung cũng được báo trước và chắc chắn sẽ đến, thế nhưng tính bất ngờ vẫn còn nguyên. Vì thế, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức, sẵn sàng. Cưới vợ, lấy chồng, làm ăn, trồng trọt, xây cất... không phải là điều xấu. Thế nhưng mải mê lo toan những điều đó mà quên đi mục đích tối hậu là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” thì lời cảnh cáo thời ông Noe vẫn còn hiện thực trong thời của chúng ta (5 phút Lời Chúa).
6. Nhân đây, chúng ta hãy nghĩ về sự chết của từng người. Ý nghĩ về sự chết hướng con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy, con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảng khắc của cuộc sống.
7. Truyện: Cứ từ từ, đừng vội!
Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế hoạch cám dỗ loài người.
Con quỉ thứ nhất nói: - Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa.
Con quỉ thứ hai nói: - Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.
Satan trả lời: - Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ loài người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.
- Con quỉ thứ ba nói: - Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì, cứ từ từ.
Satan đáp: - Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số loài người bằng cách đó.
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền đoạn hôm qua về “Ngày của Con Người” tức là ngày quang lâm. Trong đoạn hôm qua, Chúa Giêsu đã bảo đừng mất công tìm hiểu xem khi nào và dấu nào cho biết Ngày ấy đến. Điều quan trọng phải làm là luôn sẵn sàng. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh để giải thích rõ hơn điều đó:
- Trước hết Ngài dùng 2 chuyện Cựu Ước về ông Nôê và ông Lót để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (“ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, “ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất”). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng đã nói ở trên là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi Ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
- Tiếp theo là một số hình ảnh giúp dễ hiểu:
a/ Người đang ở trên sân thượng thì đừng xuống nhà để lấy đồ đạc; người đang ở ngoài ruộng cũng đừng trở về nhà (để lấy đồ đạc): vì khi đó của cải vật chất không còn quan trọng nữa. Cái quan trọng lúc đó là “sự sống”. Trong câu này chữ “sự sống” có 2 nghĩa: sự sống dựa trên “đồ đạc” chỉ là một giá trị phù du, không đáng tiếc rẻ; sự sống đáng trân trọng chính là sự sống với Chúa. Kẻ khôn ngoan là kẻ đám bỏ sự sống phù du kia để đổi lấy sự sống vĩnh cửu.
b/ Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người nằm chung một giường, hai người đàn bà cùng xay một cối bột, hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Kết thúc bài nói chuyện là một câu hỏi ngớ ngẩn của các môn đệ: “Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Các ông vẫn còn lẩn quẩn trong những thắc mắc về thời gian và nơi chốn! Do đó Chúa Giêsu trả lời như thể không trả lời: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó”: Nghĩa là khỏi cần thắc mắc, vô ích. Hãy lo lúc nào cũng sẵn sàng.
B.... nẩy mầm.
1. Theo cách viết của Luca, những người thời ông Nôê chẳng làm điều gì có tội, chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ lấy chồng” (câu 26). Những người thời ông Lót cũng thế: “Ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất” (câu 28). Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt và cơn mưa diêm sinh. Không phải vì họ làm gì tội, mà vì họ không làm những việc phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả.
2. “Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà thì đừng xuống lấy” (câu 31): Tới ngày chết, tất cả mọi đồ đạc của cải đều vô dụng. Khi đó chỉ còn mỗi một điều quan trọng thôi là phần rỗi đời đời.
3. “Hai người cùng nằm một giường... hai người cùng nhau xay bột... hai người đang ở ngoài đồng, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại” (các câu 34-36): những người bề ngoài hoàn toàn giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
4. ‘Hãy mài sắc cảnh giác’: (một kiểu nói mà xã hội thường dùng tới). Sự cảnh giác phải thường xuyên mài giũa, nếu không nó sẽ tự động cùn nhụt đi. Giống như trường hợp một con dao bén bằng sắt, nếu ta đem cất đi, chỉ một thời gian sau dù ta không làm điều gì sai quấy, con dao vẫn tự động lụt đi do tác động của không khí làm rỉ sét. Việc trông chờ nước Chúa cũng vậy, cần mài sắc hoài.
5. Tính trì-trệ (inertie) (còn gọi là ỳ-tính, noạ-tính) của vạn vật. Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ nằm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh nổi sự trì trệ kiểu đó.
- Sự nguội lạnh, phai lạt: Một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng, và trở thành lạnh ngắt. Sự Nhiệt thành của ta đối với nước Trời cũng vậy.
- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honda chạy mãi mà không được châm thêm, xăng sẽ vơi dần và cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi bổ thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: ‘Quì lâu, chầu mỏi’.
6. Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).
7. Mục sư King nổi tiếng với giải Nobel hoà bình năm 1964 nhờ tài lãnh đạo của ông đối với cuộc đấu tranh bất bạo động cho quyền bình đẳng của người da đen. Ông đã ấu tranh cho họ trên xe buýt, nơi trường học, tại thùng phiếu… Và chính trong cuộc đấu tranh ngày 4-4-1968, ông đã bị bắn chết tại Memphis tiểu bang Tennessi.
Sự hy sinh tính mạng vì tình thương của mục sư King đã mang lại nhiều quyền cho người da đen. Phần tôi, tôi đã làm gì cho những người anh em bên cạnh tôi, khi xung quanh tôi còn bao người khốn khổ, bao người cần sự bênh vực nâng đỡ?
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ tính ích kỷ và khép kín, khi còn chưa dám hy sinh tính mạng vì anh em con. (Hosanna).
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền đoạn hôm qua về "Ngày của Con Người" tức là ngày quang lâm. Ngày hôm qua, Chúa Giêsu đã bảo đừng mất công tìm hiểu xem khi nào và dấu nào cho biết Ngày ấy đến. Điều quan trọng phải làm là luôn sẵn sàng.
1. Theo cách viết của Luca, thì những người thời ông Nôê chẳng làm điều gì có tội. Họ chỉ làm những việc bình thường. (Lc 17,26). Những người thời ông Lót cũng thế: Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt và cơn mưa diêm sinh vì họ không cảnh giác và không làm những việc phải làm.
Lịch sử chính thức ghi chép rằng, Thế chiến thứ 2 bắt đầu vào ngày 1.9.1939, khi quân Đức tấn công vào nước Balan nhưng thực ra, quốc trưởng Hitler của Đức đã có kế hoạch tấn công Balan trước đó 6 ngày, tức là vào ngày 26-8-1939. Mười sáu đại đơn vị đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng có vài diễn biến chính trị vào giờ chót đã làm Hitler ra lệnh hoãn cuộc tấn công.
Lệnh hoãn chiến được cấp tốc truyền đến mọi đơn vị lớn nhỏ. Nhưng có một đơn vị do trung úy Henher chỉ huy lại không nhận được lệnh kịp thời, nên đã nổ súng, kéo qua biên giới tiến vào lãnh thổ Balan, chiếm một ngọn đồi chiến lược với một nhà ga xe lửa và bắt một tù binh.
Khi gọi điện thoại về báo cáo chiến công, trung úy Henher được lệnh phải thả tù binh và rút quân về tức khắc.
Mặc dù Đức đã nổ súng và đã chiếm đóng mấy địa điểm chiến lược trên lãnh thổ Balan vào ngày 26.8.1939, nhưng khi đại binh Đức ồ ạt tấn công qua biên giới, quân đội Balan vẫn bị đánh bất ngờ. Sự thiếu cảnh giác và không làm những việc cần phải làm nhiều khi cũng đem lại những thảm họa thật không lường trước được.
Những người thời ông Noê và ông Lót quả đã làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng đã không làm gì trước những lời cảnh cáo của Chúa cho nên họ đã phải chịu những thảm họa thật thảm thương.
2. Chúng ta hãy nghe những lời cảnh giác của Chúa về tính cách bất ngờ trong Ngày của Con Người.
"Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà thì đừng xuống lấy" (Lc 17,31): Tới ngày chết, tất cả mọi đồ đạc của cải đều vô dụng. Khi đó chỉ còn mỗi một điều quan trọng thôi là phần rỗi đời đời.
"Hai người cùng nằm một giường... hai người cùng nhau xay bột... hai người đang ở ngoài đồng, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại" (Lc 17,34-36): những người bề ngoài hoàn toàn giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
"Hãy mài sắc cảnh giác": (một kiểu nói mà xã hội thường dùng tới). Sự cảnh giác phải thường xuyên mài giũa, nếu không nó sẽ tự động cùn nhụt đi.
Nói tóm lại là phải luôn sống trong tình trạng nhiệt tình và sẵn sàng, có như thế khi Chúa xuất hiện Ngài sẽ vui và rồi Ngài sẽ ôm lấy trọn cuộc đời của ta trong vòng tay yêu thương của Ngài
Nhạc sỹ nổi tiếng nào trên thế giới cũng để lại cho đời một số giai thoại. Augustignasi Vadovaski là nhạc sỹ kiêm chính trị gia nổi tiếng của Balan vào đầu thế kỷ XX cũng thế. Người ta kể lại rằng:
Một người đàn bà nọ có một đứa con đang tập tễnh đánh bài vỡ lòng trên đàn dương cầm. Muốn động viên cậu bé hăng say hơn nữa trong việc học tập, ngày kia, bà mẹ mua vé đưa cậu đến dự buổi độc tấu dương cầm của nhạc sỹ Vadovaski. Để cho cậu con trai có thể thấy rõ, cũng như chiêm ngưỡng được nhà nhạc sỹ đại tài, bà mẹ đã cố gắng mua cho được hai chỗ gần sân khấu.
Giữa lúc bà mẹ đang bận chuyện trò với một người bạn thì cậu bé biến mất! Thì ra cậu bé đã trốn mẹ để lên tận sân khấu, và khi đến giờ trình diễn, đèn trên sân khấu bừng sáng, màn được kéo ra, và người ta thấy cậu bé đã ngồi chễm chệ trước cây đàn dương cầm từ bao giờ! Chưa hết ngạc nhiên, mọi người đã nghe vang lên tiếng đàn ngập ngừng của cậu qua bài học vỡ lòng. Lúc tiến ra sân khấu, nhạc sỹ Vadovaski mỉm cười nói với cậu bé:
- Cháu cứ tiếp tục đi.
Rồi ông bước tới, đứng đàng sau cậu bé, dùng bàn tay trái của mình đệm bè thêm cho bản nhạc. Một lúc sau, ông sử dụng luôn cả bàn tay phải ôm trọn lấy cậu bé và đệm luôn phần trên của bản nhạc. Bốn bàn tay quyện vào nhau. Nhà nhạc sỹ đại tài và cậu bé đã tấu lên được một trong những khúc nhạc du dương lạ thường. Khán giả hôm ấy đã không ngớt vỗ tay tán thưởng.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta sẵn sàng để Đức Kitô ôm trọn chúng ta trong vòng tay yêu thương của Người, và nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng mời gọi cổ vũ của Người: "Đừng bỏ cuộc, nhưng hãy tiếp tục" thì chúng ta có thể tấu lên được những khúc hát tươi vui cho cuộc đời của chúng ta.
Ngày Chúa đến trần gian để phán xét kẻ sống và kẻ chết cũng sẽ giống như hai sự kiện ngày xưa xảy ra trong lịch sử dân Chúa, đó là ngày lụt đại hồng thủy, và ngày thành Sôđôma bị thiêu rụi bởi lửa diêm sinh từ trời xuống. Sở dĩ hai sự kiện đau thương này xảy ra là do tội lỗi của con người chúng ta. Chúa không chịu được vì những kinh tởm, bẩn thỉu tội lỗi của con người chúng ta gây ra, và con người chúng ta phải lãnh lấy hậu quả tàn khốc khủng khiếp là như vậy.
Qua hai bài học lịch sử đó, Chúa muốn chúng ta biết rằng ngày Chúa đến là khi nào, đến lúc nào là quyền của Chúa. Có một điều rất quan trọng là chúng ta đừng sống buông thả mà chung số phận như những người xưa. Nghĩa là trong cuộc sống đời này mà chúng ta chẳng chịu nghe và thực hành lời Chúa dạy. Chúng ta cứ sống theo những đam mê xác thịt, tìm kiếm danh lợi thú, nuông chiều thể lý quá đáng, cứ ăn uống nhậu nhẹt, bài bạc, hút chích, cưới vợ gả chồng, mua bán, trồng tỉa, xây cất, mãi mê thế sự mà quên mất Chúa, quên mất cuộc sống đời sau. Vì thế mà chúng ta phải nhận hậu quả thích đáng cho lối sống kiểu vật chất, vô tín ngưỡng của chúng ta.
Chúa đến một cách bất ngờ, Chúa muốn chúng ta sống phải biết hướng đến tương lai, hướng đến ngày mai sau này của chúng ta. Nhưng chúng ta không được dửng dưng với giây phút hiện tại. Chúng ta phải sống giây phút hiện tại này thật trọn vẹn ý nghĩa, phải làm theo ý Chúa. Đừng bị lôi cuốn bởi những tiên tri giả hiệu, đừng chạy theo những học thuyết sai lầm, độc hại, làm hư hoại, đôi khi nó giết chết đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta đang sống ở môi trường nào thì chúng ta hãy sống ở môi trường đó cho thật tốt, cho xứng danh là Kitô hữu của Chúa, chớ có nghe các tin đồn nhảm nhí mà chạy đầu này, quẹo qua nơi kia để tìm kiếm Chúa. Nhất là đừng bao giờ bám vào vật chất, tiết nuối vật chất hư vô trần gian này. Chắc chắn tất cả những điều Chúa nói trên sẽ xảy ra trong cuộc sống chúng ta, chúng ta không tránh khỏi được đâu: “Xác ở đâu, diều hâu tựu lại đó” (Lc 17, 37).
Chúng ta cứ sống theo thánh ý Chúa và chu toàn các công việc Chúa trao phó trong khi chờ Chúa đến. Còn việc Chúa cất ai về với Chúa trước, Chúa để lại ai sẽ sống thêm thời gian nữa rồi mới về với Chúa sau là do Chúa quyết định, chúng ta đừng vì việc Chúa làm như vậy mà chúng ta nao núng, hoảng loạn, sợ hãi mất đức tin. Hãy cứ làm theo ý Chúa, còn tất cả những việc khác của cuộc sống, những việc liên quan đến tương lai vận mệnh của chúng ta, chúng ta cứ trao vào tay Chúa, tùy Chúa lo liệu định đoạt và chúng ta cứ thế mà theo Chúa, dù bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống đời này.
Lạy Chúa, cuộc đời của chúng con như hoa kia sáng nở chiều tàn. Xin Chúa cho chúng con ý thức cuộc đời chúng con mong manh, hư vô, tro bụi để chúng con đừng bám víu trần gian mà chỉ tựa nương vào Chúa để Chúa cứu chúng con trong ngày Chúa đến. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 32 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, khi biết kêu cầu Chúa trợ lực, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Cũng như, trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, ở đây, trời cũng trực tiếp tham dự vào cuộc chiến của con người: cuộc chiến giữa một bên là Micaen, thiên thần hộ thủ của dân Ítraen và của Hội Thánh, với bên kia là các thiên thần tượng trưng cho các dân ngoại, những cuộc chiến đó tượng trưng cho bao thử thách và đau khổ của Dân Thiên Chúa. Ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và vì chính những lời ấy mà ta đến. Hỡi Đanien, đừng sợ, ta sắp báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, khi biết sám hối quay về với Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Bài Giảng của một Tác Giả ở Thế Kỷ II nói: Chúng ta hãy trở về với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta. Hãy hết lòng sám hối để đừng một ai trong chúng ta phải hư mất… Anh em hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa; hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, khi biết đề phòng tên Phản Kitô, để không lạc xa giáo huấn của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 118, vịnh gia đã cho thấy: Hạnh phúc thay người noi theo luật pháp Chúa Trời. Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Chúng ta hãy giữ vững lòng trông cậy nơi Chúa, Chúa sẽ đến giải cứu chúng ta; hãy từ bỏ lối sống cũ, tỏ lòng sám hối, để được Chúa xót thương. Chúng ta hãy trở về với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta. Nếu chúng ta từ bỏ lạc thú và chiến thắng được chính mình, tức là, không để cho lòng chiều theo những dục vọng xấu xa, chúng ta sẽ được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nâng đỡ nhau, để dẫn đưa những người yếu đuối về với đường lành, sao cho tất cả chúng ta đều được hưởng ơn cứu độ. Chúng ta hãy giúp nhau trở về với Thiên Chúa và hãy sửa bảo nhau. Có những kẻ không tin nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người, họ là những tên Phản Kitô. Chúng ta phải coi chừng, để khỏi đánh mất những gì chúng ta đã được lãnh nhận; ai đi quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Kitô, thì không có Thiên Chúa, còn ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con. Nếu chúng ta bước đi theo đường lối Chúa, thì khi Chúa đến, ắt hẳn chúng ta sẽ đứng thẳng và ngẩng đầu lên mà đón chào Đấng Cứu Độ của chúng ta. Ước gì Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: "Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù". Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: "Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc". Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Một trong những lý do khiến người ta bỏ cầu nguyện, đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa, nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe. Thiên Chúa có hiện hữu không? Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách? Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man. Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ. Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành? “Phải cầu nguyện luôn luôn và không được nản chí” (c. 1). Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc. Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa. Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng. Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công. Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý. Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt. “Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2). Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu. Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa. Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5). Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây. Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8). Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối, nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than. Trong thế giới hôm nay, sự dữ vẫn làm mưa làm gió. Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện. Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công. Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng. Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới. Nhiều khi con người cảm thấy mình yếu đuối và bất lực. Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày! Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8), dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức. Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài. Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy. Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời, để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới. Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái, đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta. Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ, nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng. Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng. Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa. Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen ---------------------------------
Công lý là của Thiên Chúa. Nhưng công lý cũng phải có góp phần của con người. Con người còn mang nặng thú tính. Nên dù có biết bao lý thuyết hay về phẩm giá con người. Những hứa hẹn tràn đầy ảo tưởng, không tưởng. Nhưng công lý vẫn là chiếc bánh vẽ. Lý thuyết thật hay. Nhưng con người không thể thực hiện. Vì thú tính còn nhiều. Tuy vậy cũng có những tiến bộ khi người dân ý thức và đòi hỏi. Giống như bà goá kia. Cứ kiên trì đấu tranh bằng phương pháp nhẹ nhàng. Rồi cũng có kết quả. Hãy tin tưởng. Thiên Chúa còn công minh hơn ông quan toà bất lương kia. Và Thiên Chúa thực sự yêu thương con người. Vì thế hãy cầu nguyện. Rồi Thiên Chúa sẽ ra tay. Trong thế kỷ hai mươi có hai lý thuyết lớn sụp đổ. Chúa đã ra tay. Vì chẳng ai làm gì được. Nhưng cũng để con người ý thức về sự xấu xa giả dối của chúng. Mà tha thiết muốn thoát khỏi. Chúa cần sự cộng tác của con người. Cầu nguyện phải có hành động.
Dân Do thái đã có kinh nghiệm đó trong quá khứ. Khi bị nô lệ bên Ai-cập họ đã kêu cầu lên Chúa. Chúa đã nghe tiếng dân ai oán kêu lên thấu đến trời. Và đã giải thoát họ. “Người ta thấy mây che phủ doanh trại; nơi trước kia là nước, đất khô ráo nổi lên, một lối đi thênh thang lộ ra từ Biển Đỏ…Có tay Ngài che chở, toàn dân đã đi qua và chứng kiến bao điềm thiêng dấu lạ”. Chúa đã ra tay làm những điềm thiêng dấu lạ. Nhưng dân phải cộng tác. Bằng tha thiết cầu nguyện. Và bằng quyết tâm ra đi (năm lẻ).
Như phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chính Chúa hành động. Nhưng con người phải góp phần nhỏ bé của mình. Phải có năm chiếc bánh và hai con cá. Thiên Chúa sẽ ban công lý cho thế giới. Nhưng con người phải góp phần. Đó là điều thư 3 Gio-an khích lệ Gai-ô. Khi ông đón tiếp và giúp đỡ những người đi loan truyền sự thật của Chúa. Chính những người này làm chứng cho sự thật. Khi họ không nhận trợ giúp của những người còn sai lạc chưa biết sự thật. Vì thế cần phải có sự đóng góp của người của Chúa. Để sự thật được loan truyền mau chóng và rộng rãi. (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin ngự đến. Và đem lại công lý cho thế giới. Và ban cho con sức mạnh. Để con kiên trì cầu nguyện. Và tích cực hoạt động cho công lý hiển trị.
Tuần báo Công Giáo Dân Tộc số ra ngày 15/10/1995 ở Mục Trong Tuần, có ghi một sự kiện như sau: Trong 4 năm thực hiện pháp lệnh tối cao của công dân được Hội Ðồng nhà nước ban hành ngày 7/5/1991, riêng tại Thành phố Sàigòn có 36 đơn vị chức năng đã nhận được 11,635 đơn từ, trong đó có tới 81.5% đơn từ tố cáo khiếu nại về nhà cửa, đất đai. Theo số liệu chưa đầy đủ, đơn từ tố cáo khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết là 6,520 đơn. Bài báo đưa ra đề nghị: "Ðể có thể giải quyết rốt ráo những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của mọi người dân khi quyền lợi chính đáng của mình bị xâm phạm, quyết định cuối cùng của Ủy ban nhân dân các cấp chưa đủ thuyết phục, cần có một tòa án xét xử công minh".
"Cần có một tòa án xét xử công minh", lời kêu gọi trên đây không biết có nhắm đến những trường hợp quan trọng hơn, trong đó không chỉ có cái nhà mảnh đất, mà chính sự sống còn của biết bao người bị trù dập mà chẳng hề được đem ra xét xử hay không? Cần có một tòa án xét xử công minh, thiết tưởng đó là tiếng kêu cầu bình thường của người dân mỗi khi quyền lợi của họ bị vi phạm. Quả thật, công lý vẫn tiếp tục kêu la cho tới khi nào được thực thi. Nhưng đối với biết bao nạn nhân, nhiều khi người ta chỉ còn biết kêu Trời, mà Trời thì có thấu chăng? Nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi vì những tiếng kêu cầu của chúng ta: Thiên Chúa dường như vẫn câm lặng trước những bất công mà những kẻ vô tội trên khắp thế giới đang phải gánh chịu.
Chúa Giêsu thấu hiểu được tâm trạng ấy của chúng ta, cho nên trong Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa. Lý luận của Ngài trong dụ ngôn về một quan tòa bất công thật đơn giản: nếu quan tòa bất lương đến độ không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta, mà còn phải chịu thua trước lời van vỉ của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa, Ðấng trọn hảo và yêu thương con người. Chúng ta tưởng Thiên Chúa câm lặng và vô cảm trước nỗi khổ đau và lời kêu cầu của con người; thật ra, công lý của Thiên Chúa không phải là công lý của loài người, lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa không phải là lẽ khôn ngoan mà chúng ta có thể thẩm định được theo tiêu chuẩn của loài người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người. Quyền năng và tác động của Ngài vượt trên mọi tính toán, cân lường, suy tưởng và chờ đợi của chúng ta.
Ðó là ý tưởng chúng ta cần nhận ra trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu mà con người không thể hiểu thấu được, do đó, không có tâm tình và thái độ nào phải đạo hơn là phó thác cho Thiên Chúa. Phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là biết đón nhận ý muốn của Thiên Chúa, ngay cả và nhất là khi phải trải qua nghịch cảnh, thất bại, khổ đau; phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là luôn tin rằng từ những mất mát, đổ vỡ và ngay cả từ tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt đẹp cho con người.
Nguyện xin Chúa đừng để chúng ta phải rơi vào thất vọng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiên trì trong sự cầu nguyện.
Trong một lớp học nọ, một học sinh trung học không bao giờ để cho cô giáo của cậu được yên, lúc nào cậu cũng tìm cách quấy phá cho cô tức giận. Một buổi sáng nọ, trước giờ lớp cô giáo đang ngồi loay hoay viết thì cậu học sinh xuất hiện. Không một chút kính nể, cậu hỏi cô:
- Cô đang làm gì đó?
Cô giáo trả lời:
- Tôi đang cầu nguyện với Chúa.
Liếc mắt thấy những dòng chữ bằng tốc ký, cậu học sinh tấn công:
- Chúa mà cũng biết đọc được tốc ký à?
Cô giáo vừa xếp tờ giấy cho vào cuốn Kinh Thánh vừa trả lời:
- Chúa có thể làm được mọi sự, ngay cả nhậm lời cầu xin của tôi.
Thừa lúc cô giáo chuẩn bị để bắt đầu lớp học, cậu học trò lanh tay rút tờ giấy từ quyển Kinh Thánh và cho vào cuốn sách của mình.
Hai mươi năm sau, người học trò ngổ ngáo ngày xưa nay đã là giám đốc của một công ty. Một hôm, anh tình cờ xem lại cuốn sách của thời trung học, mẫu giấy của cô giáo mà anh đã đánh cắp và cho vào cuốn sách của mình giờ đây đã nhạt màu, anh cho mẩu giấy vào trong ví của mình. Trở lại văn phòng, anh xin cô thư ký đọc giùm mẩu giấy được viết bằng tốc ký, mẩu giấy có chứa đựng một lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, với sự chọc phá của Bill, chắc con không thể nào tiếp tục dạy ở lớp này nữa. Xin Chúa hãy biến đổi tâm hồn em, em có thể là một người rất tốt mà cũng có thể là một người rất xấu".
Vài tuần lễ sau đó, Bill truy tìm chỗ ở của cô giáo ngày xưa, anh cám ơn cô vì đã cầu nguyện cho anh. Lời cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời ngoài sự mong đợi của cô: "Hãy xin thì sẽ được. Khi các con cầu nguyện và xin bất cứ điều gì, hãy tin rằng mình sẽ nhận được thì các con sẽ được ban cho điều các con cầu xin".
Với tất cả những ai tin tưởng cầu xin, lời hứa của Chúa Giêsu luôn được thực hiện. Triết gia Pascal của Pháp đã nói: "Lời cầu nguyện là một trong những cách thế mà Chúa đã chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài cho chúng ta, cũng như Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người biết suy tư. Cũng thế Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người cầu nguyện. Không phải tất cả mọi người đều có thể dùng tư tưởng của mình để tạo ảnh hưởng trên người khác, nhưng ai cũng có thể tạo ảnh hưởng trên người khác bằng lời cầu nguyện của mình. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải như những kẻ bàng quan trước quyền năng sáng tạo của Ngài, mà như những kẻ chia sẻ quyền năng của Ngài. Ðây chính là ý nghĩa của kiểu nói "được tạo thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa". Bác sĩ Alexis Carell, người đã từng được trao giải thưởng Nobel y khoa hồi năm 1912 đã tóm tắt về sức mạnh của sự cầu nguyện như sau: "Cầu nguyện là một năng lực mãnh liệt nhất mà con người có thể làm phát sinh được". Ảnh hưởng của lời cầu nguyện trên tâm trí và thân xác con người là điều có thể chứng minh được qua các hạch nội tiết trong cơ thể.
Cầu nguyện là một sức mạnh cũng có thực như chính sức hút của trái đất, đó là sức mạnh mà Chúa Giêsu nói đến qua hình ảnh của người đàn bà góa kiên trì trong Tin Mừng hôm nay. Ông quan tòa đứng ra xử án không phải vì lòng công bình hay vì lòng tốt mà chỉ vì không chịu đựng nổi sự quấy rầy của bà góa. Thiên Chúa nhậm lời con người không phải vì sợ con người quấy rầy mà chỉ vì lòng tốt đối với con người mà thôi. Nói đến sức mạnh của lời cầu nguyện là tuyên xưng lòng nhân từ của Thiên Chúa vậy. Kiên trì trong lời cầu nguyện cũng là ân huệ của Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được kiên trì trong sự cầu nguyện và cảm nhận được những điều chúng ta cầu xin.
Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. (Lc. 18, 1)
Ngày Con Người trở lại cần chờ đợi, cần sẵn sàng. Trong thời gian đó, môn đệ phải đương đầu với thế gian thù ghét, lòng tin và lòng trông cậy liều mình suy sụp. Vậy để kiên trì cho đến cùng, Đức Giêsu khuyên các ông cầu nguyện không ngừng, không mệt mỏi.
Với kẻ bất lương: phải quấy rầy.
Những quan tòa bất lương và tham tiền, họ không kính sợ Thiên Chúa, chẳng nể người ta. Có đầy rẫy trong Kinh thánh, nhất là đối với các bà góa và cô nhi càng bị họ bỏ rơi và cũng chẳng có thể được luật nào bảo vệ, Đức Giêsu đưa ra một trường hợp cổ điển về một quan tòa gian ác từ chối trả lại công lý cho một bà góa. Chắc bà có một số tài sản, còn quan tòa không muốn xử vì không nhận được quà cáp, rượu chè theo thường lệ, người ta thấy bà góa chắc được kiện, nên bà đến kêu quan tòa mọi ngày để gián đoạn những vụ xử khác ở pháp đình, bà khăng khăng kêu nài công lý xử cho bằng được. Sau cùng, quan tòa thấy bà bướng bỉnh cố chấp, để yên chuyện và khỏi bị quấy rầy, quan phải trả lại công lý cho bà.
Với Thiên Chúa: phải cầu nguyện không ngừng.
Ở đây, Đức Giêsu muốn, không chỉ nêu gương cần thiết phải kiên trì cầu nguyện, mà còn cho thấy cuối cùng lời cầu nguyện chắc chắn sẽ được nhận lời. Nếu quan tòa chẳng sợ Thiên Chúa, chẳng coi ai ra gì và chỉ vì lý do ích kỷ bị quấy rầy, còn lo xử cho bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, lại không rung cảm trước những tiếng kêu thống thiết của những kẻ Ngài đã tuyển chọn sao! Vậy phải liên tục cầu nguyện ngày đêm không dứt, vì lời cầu nguyện kiên trì của kẻ được tuyển chọn, của chi thể Hội thánh, luôn luôn được thương xót. “Chính Ngài sẽ mau chóng bênh vực những kẻ Ngài đã chọn”, nên sẽ rút ngắn những ngày khốn khó cho họ.
Nếu Thiên Chúa hình như để kẻ được tuyển chọn phải chờ đợi, chính là để thử thách đức tin và sự kiên trì của họ trước những xô đẩy bỏ đạo xảy ra trong thời kỳ cuối cùng. “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Thiên Chúa luôn trung tín, nhưng con người dù gặp thử thách còn vững tin cho đến cùng không? Đó là sự thách đố mà Đức Giêsu tung ra cho các môn đệ để nhắc nhở các ông về sự nguy hiểm, đồng thời kích thích các ông phải quyết tâm giữ vững đức tin cho đến cùng.
Cầu nguyện là điều cần thiết trong cuộc sống. Không cầu nguyện, chúng ta không thể có sự sống thần linh trong tâm hồn. Cầu nguyện được ví như cá cần nước, con người cần hơi thở, như cành cần nhựa sống từ thân cây... Tuy nhiên, điều ta cầu xin đôi khi cũng phải xem lại vì có những lời cầu xin của chúng ta không đẹp lòng Chúa. Hoặc cũng có đôi khi Chúa muốn kéo dài thời gian để tăng thêm niềm trông cậy của chúng ta...
Lời Chúa hôm nay đề cao sự kiên trì trong cầu nguyện. Hình ảnh bà góa nghèo toát lên thái độ đó khi bà xin ông thẩm phán xử oan cho bà. Mặc cho ông thẩm phán có lạnh nhạt, bất công và không sợ gì ai hết, nhưng cuối cùng, ông ta sợ sự kiên trì của bà góa...
Thái độ này cho chúng ta thấy kết quả của niềm tin và phó thác vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ bỏ qua lời con cái nài xin. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không kiên trì đủ hay cũng có khi lời cầu nguyện của chúng ta không đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế Ngài không ban cho đúng ý ta xin hoặc Ngài ban những ơn khác tốt đẹp hơn, và đôi khi Ngài muốn kéo dài thời gian để củng cố sự kiên trì của chúng ta, bởi vì: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”; “Ai trung thành đến cùng sẽ được cứu”.
Trong thực tế, nhiều khi chúng ta trách móc Chúa dường như không màng chi đến những lời cầu nguyện của chúng ta. Nhưng chúng ta đâu biết rằng: công lý của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác xa tâm tưởng của con người. Sự khôn ngoan của Ngài vượt trội suy đoán và vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Tư tưởng của Ngài thì toàn diện, nên không bị giới hạn vào không gian hay thời gian... Nhưng chung quy lại thì Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta cách đặc biệt bằng một thứ tình yêu cao cả. Phần còn lại của chúng ta là kiên trì, trung thành, khiêm tốn để để đón nhận ơn lành của Ngài trong lòng mến cũng như biến cải đời sống hằng ngày cho tốt hơn mà thôi.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Người luôn trung thành với lời đã hứa và luôn luôn nhận lời những ai cầu xin với lòng tin tưởng vững chắc. Xin lắng nghe tiếng van xin của chúng con, nhất là trong cơn thử thách của cuộc đời trần thế này. Amen.
Sứ điệp: Khi cầu nguyện, con người phải kiên trì. Thời gian sẽ giúp con người luyện đức cậy trông, bởi vì có hết lòng cậy trông, con người mới đáng Chúa ban ơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con không có cảm tình với vị thẩm phán trong bài Tin Mừng. Lòng ông ta như gỗ đá mà lại còn ngạo mạn chẳng biết kính sợ ai. Chúa kể một nhân vật như vậy để cho con thấy sức mạnh của sự kiên trì.
Chúa là Cha yêu thương con vô vàn. Chúa thấu hiểu những khó khăn của con hơn chính bản thân con. Chúa chẳng vui gì khi thấy con cái Chúa khổ đau và thiếu thốn. Chúa dạy con kiên trì cầu nguyện để con hết lòng hướng về Chúa và chỉ hướng về Chúa mà thôi. Chúa muốn con xác tín rằng: chỉ có Chúa là chốn con tựa nương. Con hết lòng cậy trông vào Chúa để con đáng được Chúa ban ơn.
Lạy Chúa, Chúa luôn đề cao thái độ trẻ thơ. Trẻ thơ phó thác đáng được Chúa thương. Kiên tâm cầu nguyện là con đang trở thành con thơ trong tay Chúa, Chúa sẽ săn sóc gìn giữ con như người Cha che chở con cái mình.
Lạy Chúa, tuy thế, có nhiều lần con đã nản chí vì xin hoài xin mãi mà dường như Chúa chẳng nghe lời con cầu xin. Nhưng ơn Chúa cho con hiểu rằng có nhiều điều con muốn nhưng lại không tốt cho con. Chúa nhân lành sẽ ban cho con điều tốt nhất mà con không ngờ. Xin Chúa nâng đỡ đức tin yếu kém của con. Xin cho con đừng mất lòng trông cậy nơi Chúa mà vội tin nhảm nhí nơi những thần tượng do trí khôn con người nắn đúc ra.
Con nguyện sẽ là con thơ trong tay Chúa và hết lòng cậy trông tín thác nơi Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
Nhắc đến cuộc đời của cha Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, người ta không thể quên câu chuyện người nông dân xứ Ars cầu nguyện:
Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về, anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai ai cũng nể và kính phục về sự chuyên cần lao động và cầu nguyện của anh. Nhưng người ta không biết anh nói gì trong lời cầu nguyện của mình.
Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế ?”
Anh nông dân trả lời: “Tôi nói chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
Suy niệm
Thiên Chúa là Cha ở trên trời luôn hướng về chúng ta, lắng nghe và chia sẻ. Vì thế, hãy đến với Ngài qua những tâm sự, sẻ chia được gói ghém trong tâm tình phó thác, tin tưởng và kiên trì như Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ và cho chính chúng ta, Ngài đã minh họa bằng một dụ ngôn về ông quan tòa khó tính, chẳng kính sợ Thiên Chúa và cũng chẳng coi ai ra gì nhưng vì sợ bị quấy rầy bởi sự kiên trì kêu cứu của bà góa mà xử công minh cho bà.
Sự kiên trì trong lời cầu của bà đã đem lại kết quả như mong muốn. Đức Giêsu đúc kết dụ ngôn khi lý luận với môn đệ: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ”. Ngài là Cha, một người Cha nhân ái lại không đoái hoài đến tình trạng của con mình sao ?
Chính vì thế, hãy kiên nhẫn trong lời cầu. Ngay cả những lúc cam go nhất của cuộc đời như dân Chúa đứng trước cuộc chiến đấu sinh tồn với dân Amalech, Thiên Chúa luôn hiện diện và sát cánh, Ngài sẽ chiến đấu cùng chúng ta để con người được những gì tốt nhất cho cuộc đời mình. Bạn và tôi hãy vững tin dù những lúc thử thách nhất, thử thách đó chẳng phải là “hòn đá”, “rắn rết” hay “bọ cạp” mà trong chúng ta cứ nghĩ là của Chúa gửi cho mình khi chúng ta đã cầu nguyện hết mình mà vẫn cứ khó khăn khổ đau (x. Lc 11,11-12). Hãy kiên vững trong lời cầu thì Ngài sẽ hiện diện và cùng chúng ta vượt qua đồi Canvê mà tiến tới Phục sinh cùng với Đức Giêsu.
Hãy kiên trì và luôn trông cậy vào Cha trên trời như người láng giềng xin bánh giữa đêm khuya để tiếp khách (x. Lc 11,5-8). Như ông quan tòa không vì lòng kính sợ ai nhưng vì bị phiền lòng nên làm toại nguyện bà góa, chủ nhà cũng không vì lòng nhân nhưng vì bị quấy rầy nên phải thức dậy mà cho bánh anh láng giềng. Cha chúng ta, Ngài không phải là ông quan tòa khó chịu, cũng không phải là người chủ nhà khó ưa, Ngài là cha nhân từ không để chúng ta thiếu thốn kia mà. Cho nên, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Theo gương Thầy Chí Thánh giáo huấn, thánh Phaolô khuyên chúng ta: Phải cầu nguyện luôn đừng nhàm chán (x. Rm 1,10; 12,12; Ep 6,18...). Qua lời cầu nguyện, tôi và bạn sống thân mật với “Thiên Chúa thành tín, chậm bất bình và giàu lòng thương xót” (x. Xh 34,6). Nhờ cầu nguyện trong đời thường, chúng ta là những người con, người môn đệ mới có sức gắn bó với Thầy mình vác thập giá cuộc đời, thập giá mà Thiên Chúa dành cho mình vác (x. Lc 14,25-27), và diệu kỳ hơn nữa là ta sẽ cảm nghiệm được chính Ngài đang cùng vác với chúng ta.
Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn, tôi ý thức và tôi chuyên cần, kiên trì trong lời cầu mỗi ngày bằng những tâm tình đơn sơ như những tâm sự với cha mình.
1. Nhân nói về ngày Chúa sẽ trở lại thế gian và các thử thách mà các Tông đồ và các tín hữu sẽ gặp, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện để được Thiên Chúa phù hộ cho. Ngài đã dùng dụ ngôn quan tòa bất nhân và người đàn bà góa để dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn không được nản chí. Một người bất nhân như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
2. Người ta thường nói :”Hữu chí cánh thành” : có chí thì nên. Kinh nghiệm trường đời cho chúng ta thấy muốn thành công, bất cứ ai, bất cứ công việc gì cũng đòi phải có ý chí, lòng kiên nhẫn bền tâm để vượt qua khó khăn. Chúng ta thấy thanh niên hay hát một bài rất có ý nghĩa :
Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng khôn bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí cũng làm nên.
Kinh nghiệm này không những đúng cho đời sống vật chất và tinh thần, nhưng còn đúng cho đời sống tâm linh nữa. Chúa là Cha nhân từ thương xót sẽ nghe lời con cái kêu xin.
3. Qua dụ ngôn này, không phải Đức Giêsu dạy chúng ta cứ mãi mãi nài ép buộc Chúa cực chẳng đã, đành ban cho chúng ta điều chúng ta muốn. Nhưng nhắm tới một sự kiên trì cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện phải cần đến niềm tin và hy vọng, và niềm tin cần đến sự thử thách và niềm hy vọng cần đến sự vững vàng kiên nhẫn. Thiên Chúa là Cha hiểu thấu chúng ta cần gì và điều gì tốt cho chúng ta. Người sẵn sàng ban những ân huệ cần thiết, nhưng Người cần sự khao khát, phó thác và tâm tình của một người con thân thưa với Người. Khấn cầu liên lỉ liên kết con người với Thiên Chúa cách khăng khít hơn, khiến con người phải ý thức hơn về tình trạng bất lực của riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.
4. Khi cầu nguyện phải có đức tin. Đức tin cho chúng ta một bảo đảm : Thiên Chúa là người cha nhân hậu, nhưng Người chỉ ban những điều tốt lành thật sự mang lại hạnh phúc đích thực. Lắm khi chúng ta xin những điều không tốt lành thực sự, những hạnh phúc không bền vững, và lúc đó, Thiên Chúa có quyền đáp ứng điều chúng ta xin theo cách Người muốn và theo cách tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa ban điều tốt lành hơn chúng ta mong đợi. Giống như trường hợp đứa bé đòi uống nước ngọt có ga, nhưng mẹ lại cho uống sữa, vì bà biết sữa sẽ tốt hơn cho sức khỏe, còn nước ngọt dễ làm bé đau bụng, dù sữa không làm cho bé khoái khẩu. Cũng thế, Thiên Chúa ban cho ta điều tốt cho ta , dù trước mắt chúng ta cảm thấy không thỏa mãn (Hiền Lâm).
5. Viên quan tòa trong dụ ngôn có thể là một viên chức ăn lương của Hêrôđê hoặc Philatô, vốn khét tiếng là “bất chính”, dám tự nhận mình “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Ngược lại, người đàn bà kia đã góa bụa lại nghèo túng, bị người ta thưa kiện mà không có gì để tự bênh vực, bảo vệ. Thế nhưng đã có một võ khí mà viên quan tòa ấy cũng phải sợ : đó là sự kiên trì dai dẳng đến mức lì lợm khiến ông ta phải đáp ứng để khỏi bị quấy rầy. Bằng biện pháp tương phản, Đức Giêsu đã chứng minh một cách hết sức thuyết phục về hiệu quả của việc kiên tâm cầu nguyện: Nếu một người xấu như thế còn chịu thua lời van xin thì Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu vô cùng còn ban cho ta dồi dào hơn điều ta cầu xin biết chừng nào ?(5 phút Lời Chúa)
6. Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhận lời có lẽ sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho con người.
7. Truyện : Ông có muốn vào không ?
Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi :
- Ông có muốn vào không ?
- Muốn vào không ư ? Tôi đã kêu cửa muốn khản cả cổ rồi đây này.
- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cửa cho ông (Bruno Hagspiel)..
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai:
- bà góa: trong xã hội do thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
- thẩm phán: lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”.
B.... nẩy mầm.
1. “Nhiều người có thói quen xưng thú một cách máy móc “Con có chia trí lo ra trong khi đọc kinh xem lễ”. Để việc xưng thú một cách ý thức hơn, có lẽ chúng ta nên nói “Con thiếu tin tưởng và kiên trì trong khi cầu nguyện”... Chúng ta cầu xin, nhưng không tin đủ rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời chúng ta” (trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Chúng ta đã từng kinh nghiệm, có nhiều điều ta cầu xin mãi mà chẳng được như ý. Nhưng đừng vội kết luận rằng: Hễ lần nào xin mà không được như sở thích, là chứng tỏ Chúa không tốt với tôi. Thử suy nghĩ mà xem: - Ai cũng xin trúng số độc đắc ( độc đắc: chỉ một người duy nhất trúng) - Đứa trẻ nằng nặc đòi được ở nhà chơi không chịu đi học (thường không được như ý, còn bị thêm roi vọt). - Nước nào đang bị chiến tranh cũng quen cầu xin theo kiểu ‘Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam, trời u ám chiến tranh điêu tàn…’, nhưng ý Chúa quan phòng chưa muốn thế…
3. Việt Nam ta có câu truyện truyền thuyết về ‘ông già Ba Tri’ kiên trì gan góc. Ông lặn lội tới tận triều đình Huế, gõ trống trước cung điện vua để kêu nài, và cuối cùng đã được nhận lời.
4. Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới 6 đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh thêm đứa thứ 7. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ. Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay. Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết “Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle”. Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã 3 ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy lớn có ghi rõ “Người nhận: Beppo Sala, Arcorle. Người gởi: Rovingo”. Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên bảo nhân viên bưu điện trả về người gởi. Nhưng không có địa chỉ người gởi nên cậu bé đành mở thùng ra coi. Trong thùng toàn là quần áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa. Thì ra một người nào đó tên Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay Chúa gởi quà cho em của cậu.
Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ. (Pastor Paterno).
5. Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi:
- Ông có muốn vào không ?
- Muốn vào không ư ? Tôi đã kêu cửa muốn khàn cả cổ rồi đây này.
- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe thấy ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cho ông. (Bruno Hagspiel).
6. “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ?” (Lc 18,7)
“Khi tạo dựng nên ta Thiên Chúa không cần hỏi ý ta, Người không thể cứu rỗi ta nếu ta không cộng tác với Người”.
Chuyện kể về thánh Vincent Ferrier sau khi gặp các tội nhân cứng lòng, khuyên bảo mấy cũng không chịu trở lại. Ngài đã gia tăng việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện.. Ngài than thở, năn nỉ cùng Chúa ban ơn để cứu các linh hồn ấy khỏi sa hoả ngục.
Nhưng Chúa ơi, được ích gì nếu lời cầu nguyện ấy không có sự cộng tác, đồng ý của đối tượng cần được cứu rỗi ?
Vâng, đã hơn một lần con đặt ra câu hỏi đó, vì nghi ngờ. Con đã đòi hỏi Chúa phải làm cho con điều này, thực hiện cho con điều nọ… Và con thất vọng khi không đạt được điều con muốn.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhặt lên những mảnh vụn của mọi biến cố, mọi rủi ro, thất vọng mà trao lại cho Chúa Giêsu trong niềm tin, niềm xác tín, để con được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong suốt cuộc đời con. (Hosanna).
1. Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này: “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).
Một vị linh mục kia đã đưa ra một câu chuyện ngụ ngôn trong bài giảng của mình như sau:
Hôm đó, quỷ vương tổ chức một bữa tiệc mừng sinh nhật thật lớn, trong đó, những đặc phái viên của quỷ đều tụ tập về để báo cáo lại kết quả mà chúng đã thu hoạch được trong việc bày ra những chước cám dỗ của chúng đối với loài người.
Một tên quỷ nói:
- Trong một đoàn người Công giáo đi hành hương, tôi đã thả những thú vật hoang dã của sa mạc ra tiêu diệt họ, và hiện nay hàng đống xương của họ vương vãi trắng xóa trên cát.
Quỷ vương hồi hộp theo dõi:
- Rồi sao nữa ? Hãy tường trình tiếp đi ?
Tên quỷ than phiền:
- Nhưng mấy người Công giáo này cứ kiên trì cầu nguyện cho đến lúc bị lũ thú dữ ăn thịt, vì thế linh hồn của bọn họ đều được cứu rỗi.
Quỷ vương thở dài chán nản.
Một tên quỷ khác nói:
-Tôi đã cho một luồng gió Tây thổi mạnh vào một con tàu chở đầy người Công giáo, và tất cả bọn họ đều bị chết đuối.
Quỷ vương nôn nóng:
- Rồi sao nữa ? Thành công chứ ?
Tên quỷ này cũng phàn nàn: Cũng giống như trường hợp trên, linh hồn của tất cả bọn họ đều được cứu rỗi.
Tên quỷ thứ ba báo cáo:
- Trong suốt 10 năm, tôi đã cố gắng cám dỗ một người Công giáo, chỉ một người thôi. Tôi đã làm cho anh ta lơ là trong việc bổn phận và tôi đã thành công. Bây giờ, anh ta đã trở thành một con người luôn sao lãng bổn phận.
Quỷ vương la lên vui mừng:
- Thế là hỏa ngục có thể ca hát mừng rỡ được rồi.
2. Phải luôn kiên trì, nhưng thế nào là kiên trì ?
Một ẩn sĩ sống trên núi để suốt ngày cầu nguyện và thinh lặng.
Một sáng kia, có một thanh niên thăm ông.
- “Cheikh” (Tiếng A-rập có nghĩa là một người hiểu biết, một nhà hiền triết) “Cheikh, xin dạy con cầu nguyện”.
Vị ẩn sĩ đang chiêm niệm nên không ngước mắt lên.
Và người thanh niên buồn rầu ra đi. Ngày hôm sau anh trở lại:
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Nhưng lời yêu cầu của anh cũng không được đáp trả, giống như hôm trước. Tuy nhiên, vì rất tha thiết, anh trở lại một lần thữ ba.
Lúc ấy vị ẩn sĩ đang chuẩn bị bữa ăn đạm bạc của mình: chắc là anh may mắn hơn.
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Nhưng lời yêu cầu cũng không được phúc đáp
- Chẳng lẽ câu hỏi không quan trọng gì nên ngài không buồn nghe sao ?
Bấy giờ vị ẩn sĩ ngước mắt lên nhìn với ánh mắt đầy nhân hậu, nhưng, cũng giống như các ngày trước, ông vẫn làm thinh.
Được ánh mắt khuyến khích, ngày hôm sau, chàng trai lại đến, hy vọng sẽ được ông trả lời
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Trước sự im lặng kiên trì của vị ẩn sĩ, anh nổi giận.
Cuối cùng, vị ẩn sĩ mới nói với anh:
- Tôi không trả lời vì muốn thử xem anh có thực sự khao khát không. Vì lòng khao khát của anh tự nó đã là một lời cầu nguyện rồi. Thiên Chúa chẳng đòi hỏi gì khác hơn là anh tìm kiếm Người. (Truyện cổ Ảrập)
Trong một cuộc chuyện trò với một nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức về ơn gọi Linh Mục, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie nói.
“Tôi biết rất rõ một cậu bé nghèo thật nghèo, chào đời nơi một ngôi làng gần thành Chartres. Cậu bé nghèo ấy rất ước ao trở thành Linh Mục nhưng song thân quá nghèo lại sớm lìa bỏ cõi đời khiến cậu trở thành đứa trẻ mồ côi. Vào một ngày Lễ Ba Vua, cậu bé bước vào nhà thờ Chính Tòa Poitiers. Cậu bé ngỡ ngàng và vô cùng xúc động khi theo dõi buổi cử hành Phụng Vụ. Thánh Lễ quá đẹp và quá trang trọng khiến cậu bé cảm thấy cổ họng nghẹn cứng và không cầm được nước mắt. Cậu bé bước ra khỏi thánh đường với khuôn mặt dàn dụa nước mắt.
Nơi công trường trước nhà thờ Chính Tòa có một phụ nữ bán hoa đang ngồi đó. Trông thấy cậu bé khóc, bà động lòng trắc ẩn và âu yếm cất tiếng hỏi:
- Sao con lại khóc ? Bé cưng của bà ?
Cậu bé mếu máo trả lời:
- Con muốn trở thành Linh Mục nhưng con lại quá nghèo!
Người phụ nữ có quả tim vàng trả lời ngay:
- Chính bà sẽ giúp con, con an tâm!
Giữ lời hứa, người phụ nữ nghèo ấy, đêm ngày thức thật khuya dậy sớm để làm việc. Bà làm việc thật vất vả nhưng kiếm đủ số tiền đóng cho đứa con trai bà nuôi đang theo học nơi Chủng Viện.
Nói đến đây, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie với đôi mắt đẫm lệ, nghẹn ngào kết thúc câu chuyện với nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức:
- Thưa quý bà, người phụ nữ nghèo tốt lành ấy nay đã qua đời. Nhưng cậu bé nghèo kia đã kiên trì trong ơn gọi, đã thụ phong Linh Mục, rồi Giám Mục và nay là Hồng Y. Cậu bé nghèo ấy chính là tôi đây, người đang nói chuyện với quí bà và là Hồng Y của quí bà đây!
Ông quan đã nghe lời kêu van thống thiết của bà góa từ ngày này sang ngày khác, và để rồi ông đã quyết định ra tay minh oan cho bà, để bà đừng có đến quấy rầy ông nữa, đó là hình ảnh của Chúa mà chúng ta đang tôn thờ đây.
Hàng ngày, con người chúng ta dâng lên Chúa biết bao nhiêu là lời cầu xin khẩn nguyện với Chúa. Tất cả những lời cầu xin khẩn nguyện của chúng ta đều xuất phát từ nhu cầu thiết thực, cần kiếp của chúng ta. Có lẽ Chúa là người rất bận rộn vì hàng ngày Chúa phải tiếp nhận và giải quyết tất cả các lời cầu xin này. Có những điều chúng ta cầu xin, chúng ta thấy mình được Chúa ban cách nhãn tiền, mau lẹ, không phải chờ đợi. Nhưng có những điều chúng ta xin, chúng ta chờ đợi, có thế là rất lâu, lâu lắm mà chúng ta chẳng thấy Chúa ban ơn. Những lúc như thế, chúng ta cảm thấy mình chán nản, buông xuôi, muốn bỏ cuộc. Vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta phải kiên trì, không được nản lòng. Vì:
-Chúng ta xin Chúa điều gì, Chúa đều nghe, Chúa đều nhậm lời, Chúa không bỏ ngoài tai lời cầu nguyện của chúng ta đâu. Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta. Thế nhưng Chúa ban khi nào, ban lúc nào, ban ra làm sao là quyền ở Chúa.
-Bổn phận của chúng ta là phải theo ý Chúa, chứ không phải là bắt Chúa theo ý chúng ta. Chúng ta phải theo ý Chúa, nghĩa là chúng ta phải đợi chờ. Đợi chờ lâu hay mau là tùy ơn chúng ta xin có phù hợp với chúng ta theo suy nghĩ của Chúa hay không. Giả như chúng ta nghĩ rằng ơn này rất cần cho chúng ta lúc này, nhưng đối với Chúa thì chưa cần. Chúa chưa ban ơn đó, nhưng Chúa lại ban ơn khác để chúng ta nhờ hơn, hữu ích cho chúng ta hơn. Đó là sự khôn ngoan của Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta cần phải vâng theo Chúa.
-Một điều rất có lợi cho chúng ta khi chúng ta chờ đợi Chúa ban ơn là Chúa sẽ làm cho chúng ta vững tin vào Chúa hơn. Chúng ta sẽ trưởng thành trong đời sống đạo. Gian nan thử thách trong đời sống đức tin, chúng ta dễ vượt qua, dễ đứng vững, dễ trung thành với Chúa. Khi chúng ta chờ đợi ơn Chúa ban, chúng ta thêm lòng khao khát ơn Chúa, chúng ta có thời gian chuẩn bị chu đáo hơn, để rồi một khi ơn Chúa ban xuống, chúng ta sẽ đón nhận cách kính cẩn, quý trọng hơn, và sẽ sử dụng hiệu quả ơn Chúa hơn, ơn Chúa sẽ làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn nhiều trong cuộc đời chóng qua hay thay đổi này.
Một điều quan trọng mà Chúa mong muốn chúng ta, dù trong bất kể hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn trung thành với Chúa. Trung thành với Chúa thì sẽ được ơn cứu độ mà chúng ta xin Chúa mỗi ngày đây: “Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kiếp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng trên mặt đất nữa chăng” (Lc 18, 7 – 8).
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con và Chúa không bao giờ thay đổi tuy chúng con phản bội Chúa, xin Chúa thương nhận lời chúng con khi chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa ban ơn nâng đỡ, giúp chúng con sống mỗi đẹp lòng Chúa hơn, và xin cho chúng con biết luôn dùng miệng lưỡi chúng con mà ca khen, chúc tụng Chúa không ngừng. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 32 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, với lòng tin tưởng vững vàng sẽ được Chúa giải cứu, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Đanien cho thấy: Thời gian cuối cùng, những cuộc chiến dữ dằn của Dân Thiên Chúa sẽ chấm dứt, cũng như cuộc bách hại thời đế quốc Hylạp đã chấm dứt sau ba năm rưỡi. Sẽ đến ngày phục sinh, khi những người đã chiến đấu trong suốt lịch sử sẽ nhận được phần thưởng. Đó là niềm hy vọng của Hội Thánh. Hãy đi cho tới cùng. Ngươi sẽ được an nghỉ, rồi sẽ đứng lên lãnh phần dành cho ngươi khi thời gian chấm dứt... Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không thể chết nữa; vì được ngang hàng với các thiên thần và là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: vì đối với Người, tất cả đều đang sống.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, cho dẫu, bị thua thiệt, mất mát, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Bài Giảng của một Tác Giả ở Thế Kỷ II nói: Hãy sống công chính, để đến thời sau hết chúng ta được cứu độ. Chúng ta đừng rối trí khi thấy kẻ bất lương được giàu có, còn các tôi tớ Thiên Chúa thì cứ bị khốn khổ long đong... Hãy làm lành lánh dữ; bởi vì Thiên Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung. Bạn đừng nổi giận vì quân gian ác, chớ phân bì với kẻ bất lương.
Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa, cùng cộng tác với nhau và giúp nhau hưởng ân lộc Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 111, vịnh gia đã cho thấy: Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thiên Chúa minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người. Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Thiên Chúa dùng Tin Mừng để kêu gọi chúng ta hưởng vinh quang Chúa. Tin Mừng cứu độ, Tin Mừng giải cứu, phần của chúng ta là, tin tưởng, cậy trông, khao khát ơn cứu độ của Chúa bằng cách tha thiết kêu xin Người; chắc chắn, Người sẽ ban ơn cứu độ cho chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải thất vọng bao giờ. Nếu chúng ta giữ vững lòng tin mà bước theo đường lối, những thánh chỉ của Chúa, chúng ta sẽ đạt tới ơn cứu độ mà Chúa dành sẵn cho ta. Chúng ta đang lâm chiến, và đang chiến đấu cho Thiên Chúa hằng sống ở đời này để được ân thưởng đời sau. Xưa nay không có người công chính nào hái trái trước mùa, tất cả họ đều phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa ban thưởng ngay cho những người công chính, thì hóa ra, chúng ta làm chuyện bán buôn chứ đâu phải đạo đức gì, bởi vì, bề ngoài có vẻ như công chính, nhưng thật ra, chúng ta chẳng kiếm tìm đạo đức mà chỉ chạy theo lợi lộc. Người công chính luôn bị bách hại, bị làm khổ, nhưng, họ sẽ được ban thưởng mai sau, tuy nhiên, khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Ước gì Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, ta được Hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa. Ước gì được như thế!