Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 401-442 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem

Thứ bảy - 09/04/2022 06:58
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 401-442 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 401-442 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 401-442 Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
----------------------------------
Mục Lục:

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm A: 2
Tin Mừng Kiệu Lá: Năm B: 2
Tin Mừng Kiệu Lá: Năm C: 3

Bài Thương Khó Năm A: 4
Bài Thương Khó Năm B: 9
Bài Thương Khó Năm C: 16

Suy niệm Lễlá-401: Bất an và Bình an. 22
Suy niệm Lễlá-402: Sự Thương Khó của Chúa. 24
Suy niệm Lễlá-403: Từ những nghịch lý. 28
Suy niệm Lễlá-405: Màu xanh hy vọng. 35
Suy niệm Lễlá-406: Chúa Nhật Lễ Lá. 40
Suy niệm Lễlá-407: Những đổi thay đến ngỡ ngàng. 42
Suy niệm Lễlá-408: Chúa Nhật Lễ Lá. 45
Suy niệm Lễlá-409: Chúa Nhật Lễ Lá. 47
Suy niệm Lễlá-410: Ai là bạn của tôi?. 50
Suy niệm Lễlá-411: Mặc khải 51
Suy niệm Lễlá-412: Tại làm sao Chúa chết?. 53
Suy niệm Lễlá-413: Người Đến Nhân Danh Đức Chúa. 56
Suy niệm Lễlá-414: Dáng đứng của tình yêu. 57
Suy niệm Lễlá-415: Những ngã rẽ nguy hiểm.. 60
Suy niệm Lễlá-416: Ta là ai trong cuộc Thương Khó. 63
Suy niệm Lễlá-417: CHIẾC LÁ CUỘC ĐỜI 66
Suy niệm Lễlá-418: VUA HOÀ BÌNH, VAI MANG THẬP GIÁ CỨU ĐỘ TRẦN GIAN   69
Suy niệm Lễlá-419: CHÚA KITÔ TRÚT BỎ MỌI VINH QUANG BẰNG LÒNG CHỊU CHẾT VÌ YÊU THƯƠNG.. 70
Suy niệm Lễlá-420: YÊU MẾN LÀ CHẾT ĐI 75
Suy niệm Lễlá-421: VÀO CUỘC YÊU.. 78
Suy niệm Lễlá-422: THIÊN CHÚA NHÂN TỪ và HAY THƯƠNG XÓT.. 81
Suy niệm Lễlá-423: CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ và HY VỌNG CỦA CHÚNG TA.. 83
Suy niệm Lễlá-424: VINH QUANG VÀ KHIÊM HÈN.. 86
Suy niệm Lễlá-425: CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊ-SU.. 88
Suy niệm Lễlá-426: Bị Bỏ Rơi Và Kêu Lớn Tiếng. 90
Suy niệm Lễlá-427: CON LỪA.. 91
Suy niệm Lễlá-428: CỐ LÊN, ĐỪNG SỢ.. 94
Suy niệm Lễlá-429: GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG.. 96
Suy niệm Lễlá-430: SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU.. 97
Suy niệm Lễlá-431: TÌNH YÊU LÀ MINH CHỨNG.. 100
Suy niệm Lễlá-432: CA VANG HOSANNA.. 101
Suy niệm Lễlá-433: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ_B.. 103
Suy niệm Lễlá-434: CÕI KHỔ.. 105
Suy niệm Lễlá-435: TỰ TIN TIẾN BƯỚC.. 111
Suy niệm Lễlá-436: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU.. 112
Suy niệm Lễlá-437: SỐNG VÌ YÊU, CHẾT CŨNG VÌ YÊU.. 114
Suy niệm Lễlá-438: VUA VINH QUANG: CHỊU ĐAU KHỔ TRÊN THẬP GIÁ.. 117
Suy niệm Lễlá-439: CON ĐƯỜNG THEO CHÚA.. 121
Suy niệm Lễlá-440: THIÊN CHÚA TIN TƯỞNG CON NGƯỜI 122
Suy niệm Lễlá-441: NGÀI ĐÃ LUÔN.. 124
Suy niệm Lễlá-442: Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá Năm B.. 126

--------------------------------
 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm A:


Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm B:


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)

“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”

Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Tin Mừng Kiệu Lá: Năm C:


Phúc Âm: Lc 19, 28-40
“Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Bài Thương Khó Năm A:


Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài)
C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:
S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?"
C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".
C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói:
J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".
C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người trả lời rằng:
J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!"
C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?"
C. Chúa đáp:
J. "Ðúng như con nói".
C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".
C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta,
Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".
C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô liền thưa:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".
C. Phêrô lại thưa:
S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy".
C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:
J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".
C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:
J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:
J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha".
C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy".
C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"
C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:
J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?"
C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép".
C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:
S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày".
C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?"
C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?"
C. Chúa Giêsu trả lời:
J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".
C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C. Họ đáp lại:
S. "Nó đáng chết!"
C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:
S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"
C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa".
C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"
C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:
S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".
C. Ông thề mà chối rằng:
S. "Tôi không biết người ấy".
C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".
C. Nhưng họ trả lời:
S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"
C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".
C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia".
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:
S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước".
C. Philatô trả lời:
S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.
C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

--------------------------

 

Bài Thương Khó Năm B:


C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47)
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:
S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"
C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".
C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:
J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".
C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người đáp:
J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".
C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".
C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:
J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô thưa Người:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không".
C. Chúa Giêsu bảo ông:
J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".
C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:
S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả đều nói như vậy.
Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".
C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".
C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:
J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi".
C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".
C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh".
C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:
S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".
C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:
S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông".
C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:
S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây".
C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?"
C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:
S. "Hãy đoán xem!"
C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét".
C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:
S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì".
C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:
S. "Ông này thuộc bọn đó".
C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".
C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:
S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó".
C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
 
Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39
C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"

------------------------------

 

Bài Thương Khó Năm C:


Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.

Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):

(C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu)
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:
J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa".
C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!"
C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".
C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:
J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!"
C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
C. Rồi Chúa nói:
J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin".
C. Ông thưa Người:
S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết".
C. Nhưng Người đáp:
J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy".
C. Và Người bảo các ông:
J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?"
C. Các ông thưa:
S. "Không thiếu gì cả".
C. Vậy Người nói:
J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất".
C. Các ông thưa Người:
S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây".
C. Và Người bảo:
J. "Ðủ rồi".
C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:
J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:
J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:
J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?"
C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?"
C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
J. "Thôi, đủ rồi".
C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
S. "Cả ông này cũng theo hắn".
C. Nhưng ông chối và nói:
S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy".
C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó".
C. Nhưng Phêrô đáp:
S. "Này anh, đâu có phải tôi".
C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa".
C. Phêrô đáp:
S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?"
C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:
S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó".
C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay".
C. Người trả lời:
J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng".
C. Mọi người đều hỏi lại:
S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?"
C. Người đáp:
J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".
C. Bấy giờ họ nói:
S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. "Ta không thấy người này có tội gì".
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người
làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ
dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. "Ông này quả thật là người công chính".
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

----------------------------------

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-401: Bất an và Bình an


(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Thành Sang)

Những nỗi ám ảnh bất an

 

Suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta lại nhớ lời tiên tri bí ẩn của cụ Suy niệm Lễlá-401


Suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta lại nhớ lời tiên tri bí ẩn của cụ già Si-mê-on từ những ngày đầu đời của con trẻ Giêsu: «Thiên Chúa đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng» (Lc 2,34). Đó là ơn gọi và vận mệnh cuộc đời Chúa Giêsu.

Nhưng vận mạng đó là gì? Giêsu là ai? Đã nhiều lần Chúa Giêsu muốn giữ kín bí mật Mêsia của mình, để cho người Do Thái mặc sức bình phẩm về căn tính của con người lạ lùng này: con bác thợ mộc, Gioan Tẩy Giả sống lại, một tiên tri lớn, một người sẽ khôi phục Israel, một người phi thường hay làm phép lạ, một người đến từ Thiên Chúa, một Đấng Mêsia?

Dòng đời cứ trôi, người Do Thái vẫn cứ ôm ấp những khát vọng và tham vọng trần thế như bao con người sinh vào thế trần: cơm áo gạo tiền, giàu có quyền uy, danh vọng tiếng tăm. Trong hoàn cảnh đất nước bị Đế Quốc Rôma thống trị, người Do Thái còn có một khát vọng chính trị mãnh liệt thể hiện bằng lòng thù hận: cầm gươm lên đánh đuổi bọn xâm lăng, giải phóng dân tộc. Bởi đó, vị cứu tinh của Ít-ra-en phải đến, vị minh vương từ hoàng tộc Đa-vít phải xuất hiện.

Đức Kitô, vị vua bình an

Hôm nay đây, vài ngày trước lễ Vượt Qua, chúng ta cầm nhành lá trong tay để cùng với những người Do Thái hoan hô Chúa Giêsu là «Con vua Đa-vít», là «Vua Ít-ra-en» và là «Đấng ngự đến nhân danh Chúa». Nhưng chúng ta phải làm điều đó với một tâm hồn sáng suốt, vì Chúa Giêsu không phải là vua của một vương quốc trần thế. Ngài không phải là một quân nhân. Ngài không tán dương chủ nghĩa dân tộc quá khích hay những ý thức hệ cực đoan. Ngài không bảo đảm cho quyền lực và vị trí xã hội của các nhà lãnh đạo tôn giáo là các thượng tế, kinh sư và pharisêu. Ngài không kích thích lòng thù hận chủng tộc gây chết chóc. Ngài không chủ ý vực dậy nền kinh tế quốc dân để thoả mãn cơm áo trần gian cho dân chúng… Tóm lại, Ngài không phải là Đấng thỏa mãn những nhu cầu trần thế của con người. Ngài không bị chi phối bởi những ám ảnh bất an của trần gian.

Thực ra, Ngài là Vua của vương quốc Thiên Chúa giữa trần gian: hiền lành và khiêm tốn, cưỡi trên một con lừa. Lừa là con vật vô hại của thời hòa bình, của những nẻo đường trên đó hành khách không phải vội vã. Ngài là vị Vua của tình yêu chiến thắng lòng thù hận, của niềm hy vọng vượt lên trên những tham vọng trần thế, của niềm tin vào sự sống vượt trên sự chết. Tuyên ngôn của Ngài là: ai dùng gươm sẽ chết vì gươm; ai phản bội rồi sẽ bị bội phản; ai thù oán rồi sẽ bị oán thù; ai giết người rồi sẽ bị người giết; ai tham vọng ích kỷ cho mạng sống mình rồi sẽ mất mạng; ai quảng đại trao ban mạng sống vì sự sống đích thực của tha nhân rồi sẽ được sự sống vĩnh cửu; ai yêu người thì sẽ được người yêu, và được Thiên Chúa yêu.

Bước vào đường nẻo bình an

Như thế chúng ta hiểu được lòng người đổi trắng thay đen đến ghê sợ. Tại sao chính quyền Rôma hành xử công lý lại vô lý kết án người vô tội? Tại sao những nhà lãnh đạo tôn giáo lại vô luân xúi giục đám dân đen đòi giết chết «Đấng ngự đến nhân danh Chúa»? Tại sao đám dân đen vừa tán dương vang dội, «Hoan hô con vua Đa-vít», lại vô tâm đổi giọng thành kết án, «Đóng đinh nó vào thập giá»? Tại sao sự ngưỡng vọng đầy nhiệt huyết đối với Chúa Giêsu lại chuyển thành một sự hung dữ chết chóc và vô cảm đến rợn người? Tại sao những kẻ bất chính lại có thể kết án một người công chính? Và tại sao con người lại có thể kết án Thiên Chúa ?

Chúa Giêsu đã đảm nhận lấy vận mệnh cuộc đời Ngài cách tự do, và Ngài trung tín cho đến cùng bằng cái chết tràn đau thương và đầy bất công trên thập giá. Chính trong sự trung tín đến cùng của Ngài mà nhiều người Ít-ra-en phải ngã xuống hay đứng lên. Chính trong cái chết trần trụi của Ngài trên thập giá, mà tâm can của mọi người được phơi bày trần trụi: vô tâm, giả tâm, nhẫn tâm, manh tâm, u tâm, ác tâm; hay thanh tâm, thành tâm, chính tâm, minh tâm, thiện tâm. Chúng ta đừng quên lời Chúa Giêsu nói về tâm can của Giu-đa: «Đã hẵn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!» (Mt 26,24).

Đang khi chúng ta bước vào Tuần Thánh thiêng liêng, nhân loại vẫn còn ngập tràn những nỗi ám ảnh trần gian đầy bất an: khủng hoảng Ukraine, bạo lực tại nhiều nước Trung Đông, xả súng tấn công tòa soạn báo Charlie Hebdo tại Paris và bảo tàng Bardo ở Tunisia vẫn còn những hệ lụy. Và hơn hết tất cả, nhóm tự xưng Nhà Nước Hồi Giáo (IS) đang phủ bóng ác thần khắp nơi. Sự ác vẫn đang hoành hành, chết chóc vẫn đang rình rập. Động cơ giết người : tham vọng ích kỷ, bất công xã hội, quyền lợi kinh tế, quyền hành chính trị, thù hằn dân tộc và chủng tộc, đối kháng văn hóa và tôn giáo ? Dù gì đi nữa, đã có những kẻ phán xét bất lương, và đã có những người vô tội bị giết cách bất công.

Đang khi chúng ta bước vào Tuần Thánh thiêng liêng, thế giới vẫn đang có những nhà khoa học miệt mài nghiên cứu và sáng tạo, những nhà chính trị theo đuổi những đường lối ngoại giao ôn hòa, những nhà lãnh đạo tinh thần và tôn giáo tiến cử những nẻo đường hòa giải và hòa bình... Tất cả họ đều muốn mang hết nhiệt tâm và trí tuệ để giúp nhân loại thoát khỏi khủng hoảng, đói khát, tai ương, bệnh tật, xung khắc, thù hận, chiến tranh. Dù nhân loại có ra sao, vẫn luôn còn đó những tâm hồn thành tâm thiện chí tìm kiếm sự thiện hảo.

Đấy chỉ là những minh họa điển hình của đời sống nhân loại trong thế giới hôm nay, với hai bộ mặt đối kháng, thiện và ác. Chúng ta có thể thêm vào vô số những sự thiện và sự ác đang diễn ra từng ngày, giữa lòng xã hội mình đang sống và trong cõi lòng mình. Cuộc sống vẫn tiếp diễn với những con người sinh vào trần gian và những con người ra khỏi gian trần. Những khát vọng chân-thiện- mỹ vẫn nuôi dưỡng lòng người. Và những ám ảnh trần gian tham-sân-si vẫn đang làm điên đảo nhiều tâm hồn. Vẫn có những người đang tiến bước trên những nẻo đường thiện hảo, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Và vẫn có những kẻ đang dấn sâu vào những mê lộ của sự ác, nơi có «ma đưa lối, quỷ dẫn đường».

Là Kitô hữu, chúng ta được gọi từ bỏ bóng đêm sự ác để bước theo ánh sáng sự thiện. Lời Chúa hôm nay đề nghị với chúng ta khả năng hoán cải những tham vọng và ảo vọng của bản thân, để đón tiếp Đấng Cứu độ duy nhất đáng tin-cậy-mến. Tuần Thánh này, chính trên những nẻo đường lệch lạc, xa cách sự thiện và quanh co trong sự ác của chúng ta, Chúa Kitô muốn đến đồng hành, chữa lành những thương tích của chúng ta. Tuần Thánh này, đang khi chúng ta còn lạc hướng và nghi nan, lang thang trên những nẻo đường bất hảo, thì Chúa Giêsu lại muốn tìm gặp chúng ta để dẫn chúng ta tìm về nẻo đường bình an. Tuần Thánh này, Thiên Chúa đang đến trong cuộc đời mỗi chúng ta.

«Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
Và trong bóng tử thần
Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an».
(Lc 1, 78-79)

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-402: Sự Thương Khó của Chúa


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được cả bốn thánh sử kể lại, mỗi người một ý hướng riêng, một chủ Suy niệm Lễlá-402


Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được cả bốn thánh sử kể lại, mỗi người một ý hướng riêng, một chủ đích riêng. Chúng ta thường muốn phối hợp cả bốn thánh sử lại để có một bản duy nhất, đầy đủ mọi chi tiết. Làm như thế, chúng ta không hiểu được ý hướng và chủ đích của mỗi tác giả.

Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu với thánh Máccô.

Trình thuật của thánh Máccô ngắn gọn hơn các thánh sử khác. Máccô nhấn mạnh đến những nhục nhã và thống khổ của Chúa Giêsu hơn tất cả những trình thuật khác. Máccô không sợ phơi bày hình ảnh của một Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị chối từ và bị ruồng bỏ…

Chúng ta hãy đọc lại từ từ… Chúng ta sẽ thấy rằng Máccô có dụng ý làm nổi bật vai trò cứu thế của Chúa Giêsu.

Nơi Máccô, chúng ta thấy hình ảnh của một con người đau khổ đến tột độ, nhưng Ngài vẫn hiên ngang tuyên bố khi Caipha, Thầy Thượng Tế hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng đáng chúc tụng không?” Ngài tuyên bố: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và ngự giá mây trời mà đến”.

Một lời tuyên bố long trọng giữa Hội Đồng Do Thái. Ngài biết rõ họ sẽ dùng chính lời của Ngài để buộc tội Ngài, nhưng Ngài vẫn hiên ngang, không rụt rè e ngại. Lời tuyên bố long trọng này, không ai chấp nhận và đã trở thành án tử hình cho Ngài, nhưng đó chính là vinh quang. Án tử hình đó thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Sau đó, Máccô chỉ nói ngắn gọn: “họ khạc nhổ vào Người, bịt mắt Người lại, vừa đánh đấm Người”.

Ngài đã trở thành nạn nhân của hận thù, của sự dã man của con người. Để cứu con người, Ngài đã trở thành nạn nhân của con người. Trong số đó có chúng ta không?

Trong đêm đó… Phêrô chối Thầy, các môn đệ đều bỏ Thầy…

Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn một mình…

“Linh hồn Thầy buồn đến chết được!”

Chúng ta có cảm thấy nghẹn ngào khi nghe tiếng nói đau thương này không?

“Buồn đến chết được!” Nỗi buồn như một làn sóng ào ạt trên tâm hồn Ngài, đến nỗi Ngài phải thốt lên một lời than thở não nuột như thế.

Chúng ta làm sao đo được chiều kích của một tâm hồn đang phải vật lộn với cả khối tội ác khổng lồ của thế gian?

Ba người đã nghe tiếng than đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhưng họ có hiểu không? Chúng ta có hiểu không?

Chắc họ cũng như chúng ta… Họ ngủ hết…
Chúng ta cũng ngủ hay vô tình. Vô can!

Ngài đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất và cầu nguyện …

Ngài chỉ còn một nơi nương tựa: Đó là Chúa Cha.
“Lạy Cha…xin cất chén này xa Con…” Ngài sợ chén Cha trao. Ngài sợ đến nỗi phải van xin, như bệnh nhân ung thư vừa được bác sĩ cho biết là không còn hy vọng.

Dưới ánh trăng lạnh của Tuần lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đối mặt với cơn thủy triều đau đớn… Trước mắt Ngài, hình ảnh cây thập giá đang hiện rõ… Phải đi tới cùng, không thể lùi bước: “Chính vì giờ này mà Con đến”. “Nhưng xin đừng làm theo ý con muốn, mà làm theo ý Cha muốn”.

Sự vâng phục can đảm không thể tưởng được! Vâng phục trong cơn sợ hãi lạnh người! Sự vâng phục tuyệt đối này đã đưa Ngài đi thật xa, đến sự bỏ mình, chấp nhận tất cả nhục hình và cái chết thống khổ.

Những khổ hình bên ngoài chỉ là dấu hiệu của một khổ hình đáng sợ hơn là cuộc khổ hình trong tâm hồn. Ngài gánh chịu tất cả khối tội ác của con người.

Đau khổ của Chúa Giêsu là một vực thẳm không ai dò thấu… Chúng ta cũng không thể hiểu với khả năng của con người. Chúng ta chỉ có thể hiểu được phần nào dưới ánh sáng của Thánh Thần Tình Yêu mà thôi. Xin Ngài dẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm đau thương này để thấy rằng chúng ta được “yêu đến tận cùng”.

Các thánh như Anphongsô, thánh Gioan Thánh Giá… khuyến khích chúng ta năng suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa để nhờ đó yêu mến Chúa hơn.

Philatô, một viên chức cao cấp của Rôma, sau khi tỏ ra hết sức ngay thẳng đã đầu hàng. Ông sợ cho chiếc ghế của ông và đứng trước áp lực của đám dân hò hét, ông đã nhượng bộ. Ông trao cho lính Rôma hành hình Chúa Giêsu, người mà ông cho là vô tội: “Ông ấy đã làm gì gian ác?” Đứng trước lợi lộc trần gian, chúng ta có lẽ cũng như Philatô thôi. Chúng ta cũng có thể bỏ quên lương tâm, bỏ quên công bằng, bác ái, bỏ quên cả phẩm chất thiêng liêng của chúng ta. Đừng vội lên án những con người yếu đuối, hãy nhìn vào con người thật của chúng ta. Hãy lên án chính mình trước.

Hành hình xong, bọn lính lại tiếp tục một trò chơi “lính tráng”, là tôn vinh Vua Do Thái. Họ biến Ngài thành một ông vua hề, để nhạo cười, lăng nhục Ngài. Vô tình, chắc hẳn là vô tình, bọn lính đã tôn vinh Chúa Giêsu với tước hiệu vua dân Do Thái. Dân Do Thái đã tố cáo Ngài là vua dân Do Thái. Philatô lặp đi lặp lại tước hiệu này hai lần. Bảng án ghi rõ: “Vua người Do Thái”. Khi Ngài đang chịu treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư cũng nhạo cười Ngài với tước hiệu vua đó: “Ông Kitô, Vua Israel”.

Vô tình hay hữu ý, họ đã tôn vinh Ngài là Vua. Thánh Maccô không vô tình khi viết lại điều này, vì đối với Maccô hay với chúng ta, Chúa Giêsu chịu chết với tước hiệu là vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài không phải như vương quyền nhỏ bé, mong manh của các vua trần thế. Vương quyền Ngài là vương quyền bất diệt, vương quyền của sự thật và sự sống. Ngài chấp nhận chết đau thương như thế vì Ngài phải chinh phục lại giang sơn của Ngài đã rơi vào tay “đầu mục thế gian”.

Hôm nay, chúng ta lên đồi Canvê với Ngài để nhìn Ngài chết.

Chúng ta nghĩ gì?

Cái chết nhục nhã của Ngài có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay?
Chúng ta ở đâu khi Ngài “buồn đến chết được”?

Chúng ta ở đâu khi Ngài bị đánh đòn, nhục mạ không thương xót? Khi Ngài bị bỏ rơi trên thập giá? Khi Ngài bị ngạo nghễ chà đạp?

Giờ đây, khi sống lại với Ngài những giờ phút đau thương tột đỉnh của Ngài, chúng ta có cảm thấy thương Ngài hơn không? Chúng ta có cảm thấy trách nhiệm của chúng ta không? Vì chúng ta mà Ngài đã trở nên “thân sâu bọ”, chịu đựng tất cả sự tàn ác dã man của con người.

Chúng ta vẫn ung dung chơi đùa vô tư, vẫn yêu mến tội lỗi của mình sao? Chúng ta hãy nhìn về “Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”.

Hãy tạ ơn Ngài mà thôi; vì chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được sự sống, chính nhờ Ngài mà chúng ta tìm thấy hy vọng được hạnh phúc. Cuộc sống hôm nay của chúng ta sẽ tươi đẹp hơn và chúng ta sẽ không sợ hãi trước cuộc sống và gánh nặng của nó.

Cuộc sống của chúng ta hôm nay sẽ là Chúa Kitô, mà là Chúa Kitô chịu đóng đinh như thánh Phaolô đã nói. Nhờ vậy, chúng ta sẽ can đảm hơn, hy sinh hơn.
Hôm nay, chúng ta đã tung hô Chúa và đón tiếp Ngài nồng nhiệt như dân Do Thái xưa, và sẽ yêu mến Ngài chân thành hơn, sâu đậm hơn, vì Ngài chẳng những chết cho chúng ta mà còn trở nên của ăn ban sự sống đời đời cho chúng ta nữa.
Hãy tiếp tục sống với ngày những ngày sống trần gian đầy lao nhọc này và làm cho Ngài được yêu thương hơn.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-403: Từ những nghịch lý


(Suy niệm của AM Trần Bình An)

 

Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt Suy niệm Lễlá-403


Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt thế gian. Không riêng gì với những người ngoài Ki tô giáo, mà có thể cả những tín hữu, con chiên của Chúa cũng cảm nhận như thế.

1. Nghịch lý từ quần chúng.

Sau khi tưng bừng hoan hỉ đón chào Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như vị minh quân đáng kính, tái hiện lại hình ảnh vua Salomon cưỡi con la cái của vua Đavit xuống Ghi khôn (1V 1, 38), dân chúng Israel lại sớm hùa theo các thầy thượng tế, Biệt Phái, quay lưng trở cờ lên án, kết tội Chúa và thậm chí còn quá khích, đòi đóng đinh Người.

Một sự phản bội trắng trợn đầy kịch tính và đau xót vô cùng. Nhớ lại một thuở dân chúng đã từng mê say, háo hức đi theo Chúa, vì thấy Người đầy quyền năng, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, nuôi ăn… Nay Chúa bị bắt, bị tra khảo, đánh đập, bị lăng nhục, thì quần chúng quay ra phỉ nhổ, khinh miệt và tố cáo. Dĩ nhiên họ chịu tác động từ các thầy thượng tế, Biết Phái cùng đồng bọn thù hằn với Đấng Cửu Thế.

Từ nghịch lý này gợi lên tính phù vân của quyền lực và vinh quang nay còn mai mất, chứng tỏ lòng dạ con người dễ thay đổi, bất trung, dễ dàng phản bội, lấy oán báo ân.

Từ nghịch lý này, tưởng chừng như bóng tồi đã che khuất hoàn toàn ánh sáng. Sự ác đã thắng thế trên thế gian. Nhưng làm sao thế gian biết được rằng sự tột cùng của cái ác lại nảy sinh ra Tình Yêu vĩ đại. Đó là chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhập thế, gánh hết tội lỗi, cứu rỗi mọi người, "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32).

2. Nghịch lý từ tình nghĩa thầy trò.

Người môn đệ được giao tay hòm chìa khóa, lại tráo trở, phản phúc, âm mưu, cùng đồng lõa với giới lãnh đạo tôn giáo đã thoái hóa, biến chất, để bán đứng Thầy mình, lấy 30 đồng bạc. Phải chăng Chúa đã lầm lẫn, không biết tuyển chọn kỹ càng các môn đệ, mới để Giuđa Iscariot cùng đồng hành suốt 3 năm?

Còn thêm một môn đệ nữa, cũng được Chúa Giêsu tin cậy, ưu ái, đã chối bỏ Chúa trước mặt đám gia nhân 3 lần trước khi gà gáy 2 lần. Mặc dù ông Phêrô đã được Chúa cảnh báo trước đó không lâu, cũng như ông đã từng thề thốt trung thành với Người. May thay ông còn kịp sám hối, ăn năn trở lại, vì còn tin cậy vào lòng Thương Xót của Chúa.

Từ nghịch lý này chứng minh lòng tham, lòng ham mê của cải vật chất, ham mê hưởng lạc, lòng bất trung, bất nghĩa, có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào, cho dù phải bán đi, hay gây đổ máu cả người thân, một khi xa lìa Chúa, đánh mất đi mối hiệp thông sâu xa và bền vững.

Từ nghịch lý này, cũng minh chứng cái bản năng sinh tồn còn mạnh mẽ hơn cả tình nghĩa thầy trò. Cái thói tham sống sợ chết có lẽ đã nằm trong gien di truyền của loài thọ tạo. Thế mà Chúa lại dạy: “Ai qúy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được.” (Ga 12, 25) Người đã hé mở cho thế gian biết đâu là hơn thiệt.

3. Nghịch lý từ công lý thế gian

Từ dinh thầy cả Caipha, sang dinh Hêrôđê, đến dinh tổng trấn Philatô, chẳng có bản án chính thức nào có thể buộc tội Chúa Giêsu. Đến nỗi quan tổng trấn Philatô thấy Người quá oan ức, chẳng có tội tình gì, đã toan tha bổng, nhưng chính cánh quần chúng tự phát cứ một mực đồng thanh la lên, đòi đóng đinh Chúa Giêsu.

Ôi! công lý của thế gian là thế đó, nó uốn cong theo sức mạnh quyền lực và tài lực, nó chỉ răm rắp thỏa mãn cái dã tâm của nhà cầm quyền, hay tập thể lãnh đạo nào đó. Chính nghịch lý này khiến cho con người bao đời luôn luôn đói khát tìm kiếm sự thật và công lý. Điều chỉ có ở Đấng Thiên Sai mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã công khai công bố: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Chỉ đến với Người, con người mới nhận được Công lý thật.

Lạy Chúa Giê su, mầu nhiệm cuộc Khổ Nạn còn biết bao điều kỳ diệu, mà con chưa thể khám phá và hiểu thấu đáo. Xin cho con được hiệp thông phần nào, qua những khó nhọc, đau khổ hằng ngày, hầu con được ơn cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân ái, xin chỉ dạy con ý nghĩa sự đau khổ, cho con sẵn lòng chấp nhận, hầu ăn năn sám hối tội lỗi, lánh xa dịp tội. Biết sống trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.

---------------------------------

Suy niệm Lễlá-404: Hành trình đau khổ

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải Suy niệm Lễlá-404


Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.

Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.

TÔI TỚ ĐAU KHỔ

Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).

Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.

Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:

Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:

Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ

Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?

Trong tác phẩm Authority: Its Use and Abuse (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), đáng để chúng ta noi gương: Mỗi Chúa nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không bao giờ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3. Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,...; ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.

Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.

Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên.

Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).

Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”.

Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Chân phước GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều.

Còn Chúa Giêsu, khi bị xét xử, dù không ai thấy Ngài có tội gì ngoài “tội làm điều tốt”, không hề có luật sư bào chữa. Phúc âm theo thánh sử Mác-cô ghi rõ rằng vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Ông Philatô hỏi Ngài: “Ông là vua dân Do Thái sao?” (Mc 15:2a). Chúa Giêsu trả lời: “Đúng như ngài nói đó” (Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói đó”, một câu nói đơn giản mà thâm thúy và khiêm nhường. Chúa Giêsu không hề tự nhận là Vua-dân-Do-Thái mà tại người ta nói vậy. Ngài chỉ tự nhận” là Con-Số-Không: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).

Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” (Mc 10:4). Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. Người hiểu thì không cần giải thích, người không hiểu thì giải thích cũng vô ích.

Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có tử tù “khét tiếng” Baraba đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do Thái không?” (Mc 10:9). Ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích Baraba. Bị áp lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái?”. Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông ta hèn nhát và sợ mất chức quyền, ông cù cưa: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (Mc 10:14a). Nhưng họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:14b).

Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng đinh vào thập giá. Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn tuế đức vua dân Do Thái!” (Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Ngài mặc áo lại như trước. Vải dính vào những vết thương sẽ rất đau đớn khi bị giật áo ra. Cảnh tượng thật hãi hùng!

Thường thì các tử tội được ân huệ sau cùng, nhưng Chúa Giêsu không hề được ân huệ cuối cùng nào, có chăng chỉ là chút giấm chua. Bị hành hạ đủ kiểu, thương tích đầy mình, thế mà Ngài còn phải tự vác thập giá đi lên đồi. Lúc ấy, có một người tên Simôn (gốc Kyrênê, từ miền quê lên) đi ngang qua đó. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Tới Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng Ngài không uống. Chúng đè Ngài xuống và đóng đinh vào thập giá, rồi đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba (khoảng 9 giờ sáng).

Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp. Ngài bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” (Mc 10:29-30). Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài như vậy, và kháo nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Rồi họ thách thức: “Ông Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng không biết thân mà còn nhục mạ Ngài.

Bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (khoảng 12 giờ tới 15 giờ). Một hiện tượng thiên nhiên bất thường, vô cùng kỳ lạ. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!” – nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không”.

Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Lại một sự kiện lạ lùng nữa. Chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 10:39). Thế là hoàn tất hành-trình-đau-khổ. Người không tin thì đó là thất bại ê chề của Đức Kitô, nhưng họ lầm to. Đối với những người tin Ngài thì đó là Ơn Cứu Độ. Giáo hội cùng chịu Đại Tang, không chỉ là quốc tang mà còn là thế giới tang!

Lạy Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên qua cái chết của Đức Kitô. Xin giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

********
(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử dụng và Lạm dụng quyền bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-405: Màu xanh hy vọng


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Hy vọng là khởi đầu ước mơ, là đường dẫn tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn Suy niệm Lễlá-405


Hy vọng là khởi đầu ước mơ, là đường dẫn tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn ý tưởng hay đối với cuộc sống: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn lên phía trước để có hy vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để thấy chính mình.

Màu xanh tượng trưng cho niềm hy vọng. Lễ Lá là khởi đầu Tuần Thánh, khởi đầu khoảng buồn thương vô tận, đầy tang tác và chết chóc, nhưng màu xanh của lá cho chúng ta niềm hy vọng tràn trề: Đức Kitô phục sinh.

Trước lễ Vượt Qua một tuần, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Thánh Gioan nói rõ: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!” (Ga 12:12-13).

Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Cũng vậy, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Đó là sự tất yếu, và cũng là Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm.

Trình thuật Is 50:4-7 là phần đầu của bài thứ ba trong số các Bài Ca Người Tôi Trung. Đó là nói về đau khổ của Người Tôi Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. Những động thái đó không phải là miễn cưỡng, nhưng là tự nguyện – vì yêu thương và thương xót những người mà Người Tôi Trung quý mến. Kẻ được yêu đó là chính mỗi tội nhân chúng ta.

Đau khổ lắm. Đau khổ đến tột cùng. Phàm ngôn không đủ lời để diễn tả. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một lòng tín thành và tín thác: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng”. Chẳng ai muốn khổ, chẳng ai mong sầu, nhưng có đau khổ mới biết thương người khác. Nếu chưa đau khổ, người ta không thể hình dung ra đau khổ thế nào. Chưa đi tù thì không thể hiểu hết cảnh tù đày, chưa hiểu hết nghĩa của sự tự do. Bị tù là bị khổ.

Có lẽ chúng ta nghe Kinh Thánh kể hoặc nghe nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu nhiều lần rồi, hầu như thuộc lòng, nhưng có thể nói rằng vẫn có chút gì đó “mơ hồ” nếu chưa xem phim “The Passion of Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson (1). Xem cảnh quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc rất tinh tế. Giỏi thật!

Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, và vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì cam chịu, tủi thân, có trách thì chỉ trách mình mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9). Buồn lắm, buồn đến chết được!

Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Chuỗi buồn này tiếp chuỗi sầu khác. Nước mắt không chỉ mặn, mà còn chua và cay. Cô đơn và lạc loài, thế mà đau khổ cứ tiếp tục chồng lên đau khổ: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20). Đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Dù là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải chịu đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải chịu đau khổ như Ngài. Nhân tính nơi Ngài cũng phải chịu đựng lắm, cả tinh thần và thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngay cả những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu!

Dù cô đơn, lạc loài, nhục nhã, đau khổ, nhưng Người Tôi Trung vẫn quyết vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương” (Tv 22:23).

Thánh Phaolô cho chúng ta biết về sự tự nguyện của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Dù là loại tình yêu nào thì cũng phải tiết ra “chất” hy sinh, nếu không có sự hy sinh thì không đáng gọi là tình yêu. Hy sinh cao nhất là “dám chết” vì người khác. Thật vậy, khi nói về tình yêu, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).

Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo. Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11).

Thật lạ, chuỗi đau khổ bắt đầu chính từ khoảnh khắc hiển hách. Trình thuật Mc 14:1-15 như một đoạn phim sống động, cho chúng ta thấy rõ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động”. Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Lúc đó, ngay tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Giữa lúc Đức Giêsu dùng bữa, có một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng (2) nguyên chất, thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Không biết cô có biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không, nhưng cô thực sự tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài thương xót. Niềm hy vọng của cô rất lớn, rất cao, rất rộng, rất sâu.

Đám bạn của ông Simon Cùi biết rõ cô nàng này, thế nên có vài người lấy làm bực tức và xì xầm: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”. Ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc của? Họ hy vọng điều gì? Chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay “phong cách” của chúng ta tinh vi hơn thời xưa. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này hoặc đoàn nọ mà xem. Chẳng oan uổng chi mô!

Tức trong lòng chưa đủ, họ còn thốt ra lời họ gắt gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người kinh khủng, thật đáng sợ! Nhưng Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”. Chúa Giêsu không thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói “dài hơi” một chút để những người có “óc bã đậu” (dốt thật hoặc cố chấp) có thể hiểu.

Nữ tội nhân này bị chúng ta khinh miệt và ghét bỏ, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”.

Điều gì sẽ đến rồi sẽ đến. Thánh sử Mác-cô kể ngắn gọn sang một cảnh khác: “Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc 14:10-11). Vì mê tiền, ông Giu-đa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại, và Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Lơ là một thoáng là chết chắc – bất kỳ ai!

Rồi đến hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”. Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, sẽ có một người mang vò nước đón gặp họ, và bảo họ cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho Ngài ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc.

Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy”. Tá hỏa tam tinh. Giòi trong xương giòi ra thật ư? Đáng sợ thật! Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Rất nguy hiểm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ thù!

Và rồi sau Bữa Tiệc Ly, qua việc chỉ điểm của ông Giu-đa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run thí mồ! Nhưng rồi Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt giết Con Thiên Chúa!

Đoạn phim buồn chưa khép lại ở “khoảng tối” này, và còn một “khoảng đen” khác, nhưng cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng. Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc...

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chấp nhận đau khổ với lòng tự nguyện, vì yêu Chúa, vì thương người, vì muốn cứu các linh hồn và để đền tội chính mình. Xin ban thêm lòng can đảm để chúng con đủ sức duy trì niềm hy vọng vào Danh Đức Giêsu Kitô cho tới hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

---------
(1) Phim lồng tiếng Việt:
https://www.youtube.com/watch?v=YthiJ07xRAs
(2) Cam tùng (tên khoa học là Nardostachys) là một chi thực vật thuộc họ Kim Ngân. Chi này gồm hai loại có thể gọi là cam tùng hoặc cam tùng hương, được sử dụng để chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, mùi rất thơm.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-406: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

THÔNG HIỆP CUỘC TỬ NẠN CỦA ĐỨC KI-TÔ

 

Một trong những tâm lý phức tạp của con người mà ít nhiều chúng ta từng trải nghiệm hằng ngày Suy niệm Lễlá-406


Một trong những tâm lý phức tạp của con người mà ít nhiều chúng ta từng trải nghiệm hằng ngày trong cuộc sống, đó là: tâm lý số đông. Mặc cho sự việc thế nào, hoặc chưa biết thực hư, chân tướng ra sao, cứ thấy nhiều người đồng thuận, thì chúng ta thường nghiêng theo không một chút mảy mảy cân nhắc, nhận định!

Trong thời điểm dịch bệnh vẫn đang tiếp diễn, có lẽ nhiều nơi không cử hành Lễ Lá, hay đơn giản tham dự Thánh lễ trực tuyến, nhưng lễ Chúa Nhật tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta điều gì, và mỗi lần chúng ta tham dự Lễ Lá (như chúng ta thường gọi) với tâm tình nào? Phải chăng chúng ta nghiêng về tâm lý số đông như dân chúng thời đó: cầm lá vạn tuế tung hô, đón Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, rồi sau đó cũng chính đám đông này la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (x. Mc 15, 13.14), hay chúng ta cùng hiệp thông, tham dự vào cuộc Thương Khó - Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu được thánh hoá và được nhận lấy vinh quang Phục Sinh của Ngài?

Trong Kinh Thánh, ít nhất ba lần, Đức Giê-su tiên báo cho các Tông đồ biết về thân phận và sứ mệnh của Ngài, đó là: người Tôi tớ trung tín của Thiên Chúa (x. Mt 16, 21-22; Is 50, 4-7). Hơn nữa, Ngài đã từng tỏ lộ rõ rệt: “Tôi đến thế gian không phải làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (x. Ga 6, 38). Trong mọi việc, Ngài hằng vâng phục, thực hiện theo chương trình cứu độ của Chúa Cha, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17), và “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11). Thật vậy, sứ mệnh của Đức Giê-su là hoàn tất ý định của Chúa Cha, cho dù “…bị đánh, bị giật râu, bị nhạo cười và bị phỉ nhổ. Nhưng vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn” (x. Is 50, 6-7). Ở điểm này, chúng ta khác hoàn toàn với người Tôi Trung của Chúa! Chúng ta bất tuân phục, chúng ta luôn tìm mưu cầu ích lợi riêng tư, cá nhân. Hầu như chúng ta muốn người khác làm theo ý mình, tệ hơn là bắt người khác tùng phục bản thân ta! Mỗi lần chúng ta cử hành Lễ Lá, chúng ta cùng nhau nhìn kỹ vào Đức Giê-su, học sống như Ngài: biết vâng phục và thực hiện Thánh ý Chúa nơi cuộc sống mình.

Hơn nữa, vì hết lòng yêu thương chúng ta, người Tôi Tớ tín trung của Thiên Chúa đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mà mặc lấy thân phận xác phàm yếu hèn của con người, hầu giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, cứu chuộc chúng ta khỏi sự huỷ diệt, và đưa chúng ta về với nguồn cội tình yêu là Thiên Chúa Cha, “…tuy là thân phận Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Ngài huỷ bỏ chính mình, nhận lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (x. Pl 2, 6-7). Ngược lại với A-đam nguyên tổ, Đức Ki-tô khiêm nhường, hạ mình, vâng phục Thiên Chúa đến nỗi tự nguyện chết trên thập tự, “Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8). Phải chăng, mỗi khi tham dự Lễ Lá, chúng ta được thông phần vào cuộc Thương Khó - Tử Nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nên soi lại mình đã sống khiêm hạ mỗi ngày chưa? Một trong bảy mối tội đầu dẫn đến nhiều tội lỗi khác như thể ‘tội mẹ đẻ ra tội con’, chính là: thói ngạo mạn, tính kiêu căng, lòng tự mãn. Chính tật xấu này mà thường đưa đẩy chúng ta tới sự bất tuân, không biết vâng phục Thánh ý Chúa, được thể hiện qua Giáo Hội và qua các giáo huấn của Giáo Hội.

Ước gì, Lễ Lá mỗi năm đều không trôi qua như một lễ hội bên ngoài, mà là cơ hội, thời khắc giúp chúng ta ngày càng được hiệp thông với cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu đón nhận ơn sủng cao quý thông phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài!

Lạy Chúa Giê-su lòng con
Tuy là Thiên Chúa, chẳng màng vinh quang
Tự huỷ chính mình vô hạn
Mặc lấy xác thân, cơ hàn thế nhân.
Vâng phục, khiêm hạ thánh ân
Chết treo thập giá, muôn phần vì con.
Do đó, Chúa Cha suy tôn
Ban cho danh hiệu muôn muôn đời đời. Amen!

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-407: Những đổi thay đến ngỡ ngàng


(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

 

Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần Suy niệm Lễlá-407


Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần cao điểm của năm Phụng Vụ, bởi vì đây là tuần cả Giáo Hội sống lại mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu cách đặc biệt.

Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu, khởi đi từ việc Ngài tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô vang lừng của dân chúng.

Tuy nhiên, sự tung hô, tôn vinh ấy chẳng được bao lâu, thì Ngài đã phải chết. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kiện đau lòng này chính là những sự đổi thay của lòng người!

1. Những đổi thay của lòng người

Ca dao Việt Nam có câu: “Dò sông, dò biển dễ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng!”. Chính vì lòng dạ con người như thế, nên người xưa, nhất là những người quân tử thường hay dùng người: cho ở xa để đem lòng trung, cho ở gần để đem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người!

Đức Giêsu cũng đã biết rõ lòng dạ con người nham hiểm, khó lường…, nên Ngài đã tìm mọi cách với hy vọng những gì mắt thấy, tai nghe, sẽ làm cho người môn đệ cũng như mọi người hướng thiện và sống tốt. Nhưng ai ngờ, do những tác động ngoại cảnh làm cho lòng người đổi thay theo, vì thế, cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng leo thang!

Người đổi thay đầu tiên được kể đến, chính là Giuđa. Ông là người Đức Giêsu yêu thương và tuyển chọn. Ngài cũng đã dạy dỗ ông nhiều điều, nhất là những bài học về từ bỏ, thanh thoát. Hơn nữa, còn tín nhiệm và trao cho ông chức vụ quản lý của Nhóm Mười Hai.
Tuy nhiên, thay vì coi đồng tiền là tôi tớ, là phương tiện, thì đằng này, ông đã coi nó là ông chủ, là mục đích. Vì thế, chính đồng tiền đã đè bẹp ông, khiến lòng dạ ông đổi thay. Chỉ với 30 đồng bạc, ông đã chấp nhận đánh đổi vị trí của mình: từ chỗ là môn đệ, thành kẻ phản bội khi bán Thầy của mình bằng cái hôn giả tạo và với giá rẻ mạt. Ôi một sự đổi thay đến đau điếng!

Thứ đến là sự thay đổi của Tông đồ trưởng Phêrô. Đức Giêsu rất thương Phêrô, bởi lẽ ông là một con người bộc trực, nhưng thẳng thắn, chân thành. Điều này lý giải cho việc tại sao Ngài thường đem ông và hai môn đệ khác đi riêng với mình để mặc khải cho ông những sự kiện quan trọng.

Khi ưu ái ông cách đặc biệt như vậy, ấy là vì Ngài muốn ông mục kích tận mắt và thấy tỏ tường quy luật: “Qua đau khổ mới tới vinh quang”. Hơn nữa, khi đưa ông vào trong mối tương quan thân tình với Ngài như vậy, đó là để có dịp tập cho ông những đức tính cần có của người lãnh đạo.

Tuy nhiên, sự hèn nhát, sợ hãi, đã làm tê liệt ngọn lửa mến nơi ông. Sự trung thành đã không còn nữa. Ông đã sẵn sàng chối Thầy của mình trước toán lính quèn đang sưởi khi chúng gặng hỏi thân thế và mối liên hệ giữa ông với Đức Giêsu. Ôi lại một sự đổi thay khó hiểu!!!

Tiếp theo là sự đổi thay của đám đông. Đám đông này là những người thụ ơn Đức Giêsu. Họ là những người đã được Ngài chữa bệnh, trừ quỷ, dạy dỗ, cho ăn no nê…. Vì thế, khi nghe tin Đức Giêsu vào thành, họ đã tuôn đến như thác lũ và vang tiếng tung hô dạy cả một vùng trời! “Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tuy nhên, sẵn trong lòng sự hưởng thụ, nên họ đã vẽ lên trong tâm tưởng một Đức Giêsu theo ý của họ: Ngài phải là vua thống trị và giải thoát bằng quyền uy cũng như đem lại cho họ sự giàu có vượt trội! Nhưng khi Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong muốn, thế là đám dân này đã đi vào vết xe đổ vô ơn của tổ tiên họ nơi sa mạc khi xưa. Vì thế, họ đã coi Ngài như một kẻ xa lạ, là tội đồ của dân tộc, và, họ đã không ngần ngại đả đảo Ngài tới cùng “Đem đi! Đóng đinh nó vào thập giá”. Ôi một sự đổi thay đến xót xa!
Cuối cùng là sự đổi thay của quan tổng trấn Philatô. Ông là một vị quan toàn quyền Rôma thời bấy giờ. Lẽ ra, ông phải là người cầm cân nảy mực, bênh vực người nghèo và bảo vệ công lý.

Thế nhưng, trước sức ép của đám đông, trước sự tấn công của các Thượng tế, Biệt phái…, ông đã không nghe theo tiếng Lương Tâm mách bảo, nhưng đã trở thành kẻ đê hèn đến độ thuận theo cái ác để trù dập, loại trừ sự thiện và chấp nhận để “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”. Ôi một sự đổi thay đầy nhục nhã!

Như vậy, qua các cuộc đổi thay của lòng người, ta nhận thấy một mẫu số chung, đó là:

“Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân”.

Và:

“Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng.
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng”.

2. Những đổi thay của chính chúng ta

Đọc và lắng nghe bài thương khó của Đức Giêsu hôm nay, nhiều người chúng ta không khỏi bức xúc trước thái độ đổi thay của lòng người thời Đức Giêsu!
Tuy nhiên, trải qua suốt dọc dài lịch sử nhân loại, những thái độ đó lại nhan nhản nơi xã hội hôm nay!

Nhưng điều đáng nói hơn cả, đó là những thái độ ấy lại đang hiển hiện lên thật rõ nét ngay nơi mỗi người chúng ta.

Thật vậy, nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Hình ảnh một Giuđa ham tiền, hám bạc, phản bội lại hiện lên trong tâm hồn tôi khi tôi vẫn còn ham hố và bất chấp, để sẵn sàng chạy đua trên cuộc đua kiếm tiền bằng mọi cách. Vì thế, nhiều lúc tôi đã “đánh lận con đen” để ngụy biện cho hành vi đen tối của mình.

Nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Một Phêrô thời hiện đại với đầy đủ sự hèn nhát, ham sống, sợ chết, đang ẩn hiện trong con người tôi khi tôi không dám can đảm tuyên xưng niềm tin nơi môi trường sống của mình. Tôi cũng đã thất trung với Chúa khi không trung tín giữ giao ước với Ngài.

Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và lựa chọn của đám đông xưa kia cũng chính là lựa chọn của tôi hôm nay. Thật vậy, đã biết bao lần, tôi theo và tin Chúa chỉ vì cái bụng, nên: “Khi vui thì vỗ tay vào, gian nan hoạn nạn thì lìa nhau ra”.

Đã có lúc, tôi tạo ra một vị Thiên Chúa theo ý mình, để rồi yêu cầu Ngài phải đáp ứng đúng như yêu sách mà tôi đã đặt ra! Khi không đạt được, tôi đã sẵn sàng bỏ Chúa để đi tìm đến với một vị thần nào đó…! Những lúc như thế, tôi thuộc hạng người “ba phải”.

Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và thái độ hèn nhát của quan Philatô đang ẩn hiện trong con người tôi, khi tôi sợ không dám bảo vệ cho sự thật, công lý. Không dám đứng về phía người nghèo để bênh vực họ. Nhiều khi tôi đã hùa theo “hiệu ứng đám đông” mà quên đi lẽ công bằng, tình yêu thương, bác ái với anh chị em. Có những lúc tôi đã nhắm mắt để nói “có” thành “không” và nói “không” thành “có”, nhằm vu vạ cáo gian cho anh chị em tôi. Những lúc như thế, tôi thật hèn nhát, vì tôi thuộc dạng người “sợ tiếng chửi, ăn mày tiếng khen…”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh và đi theo Chúa trên con đường khổ nạn với tâm tình của Mẹ Maria; của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến; của các Phụ nữ Giêrusalem; của ông Simong; bà Veronica và ông Giuse Arimathia….

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban ơn giúp sức, để chúng con trung thành đi theo Chúa đến cùng trên đường thương khó, ngõ hầu chúng con cùng chết với Chúa để được cùng Ngài sống lại trong vinh quang. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-408: Chúa Nhật Lễ Lá

 

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Trong cuộc sống, chắc hẳn ACE cũng được người khác ngưỡng mộ, tán dương hay thán phục, khen Suy niệm Lễlá-408


Trong cuộc sống, chắc hẳn ACE cũng được người khác ngưỡng mộ, tán dương hay thán phục, khen ngợi vì những việc mình đã làm được chăng? Nếu ai có được vinh dự đó, thì những việc đó là gì? đã làm khi nào? và làm cho ai? Ngày 11 tháng 4 năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có những lời nói, cử chỉ, hành động đã làm cho không biết bao nhiêu người ngỡ ngàng, tán dương, không những thế, Ngài đã làm cho tất chúng ta phải suy nghĩ và khó có thể tin được tại sao Ngài lại hành động như vậy. Sự việc là, khi Ngài mời bốn nhà lãnh đạo của nước Nam Sudan đến Vatican để tĩnh tâm, bàn thảo; với đôi tay chắp lại, Ngài đã nói với họ rất khẩn thiết: “Tôi thỉnh cầu, van xin quý vị với cả trái tim của tôi, xin quý vị hãy gìn giữ hòa bình”. Thật lạ lùng, dẫu rằng tuổi đã cao, đi lại khó khăn, nhưng Ngài đã tự quỳ xuống-đứng lên tới bốn lần trước từng người để hôn chân của họ. ĐTC Phanxicô đã làm như vậy, vì không còn cách thế nào tốt hơn để nói lên lòng ước nguyện, tâm tình của Ngài dành cho Nam Sudan, một đất nước luôn bị chiến tranh tàn phá, hằng trăm ngàn người phải thiệt mạng, nhiều người đang đau khổ, lầm than, đói khát, phải bỏ nhà cửa, xứ sở để ra đi lánh nạn… Ngài làm vậy để van xin họ, xin hãy vì Ngài mà bỏ đi những mâu thuẫn, bất đồng… để cùng nhau xây dựng hòa bình và sống yêu thương. Thật vậy, đây chính là những lời nói và hành động của khiêm hạ, hy sinh quên mình và đầy yêu thương của một người Cha. Chính vì lẽ đó mà nhiều người đã được thuyết phục, đã làm lay động không biết bao nhiêu triệu con tim.

Còn tuyệt vời gấp bội hơn những gì mà Đức Phanxicô đã làm, vì phụng vụ của Chúa Nhật hôm nay qua các bài đọc Lời Chúa, trình bày và giới thiệu cho chúng ta một nhân vật đã làm biết bao việc vĩ đại, cả thể, “độc nhất vô song” không có ai có thể làm cho những con người bất trung, phản bội, và tội lỗi. Đấng đó, chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Đã có rất nhiều người và chính chúng ta cũng đã thán phục, ngưỡng mộ, tôn vinh Chúa, muốn Chúa làm Vua của mình. Thế nhưng, để tin và chấp nhận cách thế mà Chúa Giêsu diễn tả, biểu lộ tình thương và ơn cứu độ của Ngài cho chúng ta thì khó để tin. Lại càng khó gấp bội để chấp nhận và làm theo những gì mà Ngài đã nêu gương. Tại sao lại như vậy?

Bài đọc Tin mừng để làm phép và kiệu lá, Thánh Marco đã trình bày cho chúng ta hình ảnh của “Vua Giêsu Kitô cưỡi trên con lừa con đi vào Thành Giêrusalem”. Đây chính là thái độ, cung cách và hành động của sự khiêm hạ mà chỉ có Đấng đến từ Thiên Chúa đem đến sự bình an và ơn thánh. Chính vì lẽ đó, dân chúng ta hoan hô, tôn vinh Ngài. “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi, kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.

Thế nhưng, liền sau đó không lâu, cũng theo tường thuật của Thánh Marco, khi Philatô hỏi dân chúng: “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” Họ đã thưa: “Ðóng đinh nó đi!”. Khi Chúa bị đem đi giết thì một số người lại chế nhạo Người: “Tâu Vua dân Do-thái”. Khi Chúa Giêsu bị kết án treo trên thập giá, thì các Thượng tế và Luật sĩ cũng chế nhạo Người: “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”. Thật vậy, nơi sứ vụ tình yêu và ơn thánh của Chúa Giêsu, biết bao nhiêu kẻ đã khen ngợi, chúc tụng, tán dương, khi được nghe Chúa giảng dạy như Đấng có uy quyền và chứng kiến những phép lạ cả thể mà Ngài làm. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu biểu lộ chính tình yêu thương cứu độ của Ngài cách cụ thể, thì họ lại không tin, không chấp nhận; họ đã khước từ, chối bỏ và tệ hơn là phỉ báng cách thức, hành động của Chúa.

Câu hỏi được đặt ra, tại sao Chúa Giêsu biết lên Giêrusalem là để bước vào cuộc khổ nạn và cái chết nhục nhã như vậy mà Chúa lại chấp nhận? Thưa, đây chính là cách duy nhất tuyệt hảo còn lại để Chúa diễn tả tình yêu thương, tha thứ cho chúng ta là những con người yếu đuối tội lỗi. Vì nơi cuộc khổ nạn và thập giá, Chúa muốn gánh hết những nặng nề, tội lỗi của chúng ta, để qua đó, tình yêu thương, tha thứ và ơn cứu sống được trao ban. Thật vậy, chỉ qua con đường thập giá và cái chết, Chúa muốn mỗi chúng ta, tất cả những ai có những gánh nặng của khó khăn, đau khổ và tội lỗi thì hãy trút hết cho Ngài, chứ đừng trút xuống trên đôi vai của ACE mình vì ai trong chúng ta cũng là những người yếu đuối tội lỗi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời những nhà lãnh đạo của Nam Sudan đến Roma để gặp gỡ, tâm sự và cầu nguyện cho họ, đặc biệt là Ngài đã đi bước trước khi Ngài minh chứng tình yêu với thái độ rất khiêm hạ. Chính tình yêu, sự hy sinh này đã làm lan tỏa tình yêu thương tha thứ của Chúa đến cho nhiều người dân Nam Sudan và cho nhiều người khác nữa. Hôm nay, Đức Kitô Giêsu cũng đang khao khát mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài tiến vào Giêrusalem, Ngài đã đi bước trước để nêu gương khiêm hạ, tự hiến, yêu thương, tha thứ và chết thay cho chúng ta. Vậy, chúng ta cũng hãy cùng với Chúa Giêsu để bước vào Tuần Thánh trong thái độ sống khiêm tốn, yêu thương, hy sinh và tha thứ cho anh chị em mình. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-409: Chúa Nhật Lễ Lá


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Chủ đề: Chúa Giê-su cứu chuộc nhân loại trong sự tự hiến-vâng phục thánh ý Cha.
Kính thưa quý anh chị em,

 

Cứu chuộc là một ý niệm diễn tả hoạt động giải phóng con người khỏi tình trạng nô lệ về một Suy niệm Lễlá-409


Cứu chuộc là một ý niệm diễn tả hoạt động giải phóng con người khỏi tình trạng nô lệ về một phương diện nào đó... Đây là những hoạt động có tính nhân văn cao nhằm thăng tiến phẩm giá con người.

Có rất nhiều con đường cứu chuộc để dấn thân hoạt động: tuyệt đại đa số chọn dùng sức mạnh trổi vượt, vũ lực, giải quyết mọi vấn đề xã hội. Phương pháp “lấy mạnh thắng yếu” có thể thu kết quả tức thời, nhưng không thể giải quyết triệt để cội rễ vấn đề, tình trạng bi đát, khốn cùng vẫn tồn tại dưới những vỏ bọc và nhãn hiệu mới.

Chúa Giê-su cứu chuộc bằng con đường tự hủy, tự hiến, vâng phục thánh ý Cha cho đến chết và chết trên cây thập tự, vì thế, Cha tôn vinh, cứu chuộc nhân loại trong chính sự tự hiến, vâng phục trọn vẹn của Ngài.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh một ý tưởng chủ đạo, đó là: Giê-su, trong tư cách con người thật, dãi dầu tự hiến học cho biết vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự, đã đạt đến mức thập toàn, trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, nói về người tôi tớ được Thiên Chúa huấn luyện kinh qua những đau khổ Người phải chịu.

Lời Chúa đã đào tạo nên người tôi trung biết lắng nghe và vâng phục trọn vẹn, không cưỡng lại hay thụ động tháo lui. Trung tín, vâng phục trong tự do hoàn toàn là đặc tính của con Thiên Chúa, được yêu thương như con rất yêu dấu của Người, trở nên mẫu mực cho cả toàn dân.

Người tôi trung không bỏ sót lời nào mà không đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương. Kinh Thánh dùng cụm từ “miệng lưỡi được huấn luyện”, để chỉ tính thống nhất trong tư tưởng và hành động Giê-su: nghe sao, thấy gì nơi Cha, thì mạc khải như vậy. Người là họa hình, là dung mạo của lòng thương xót Chúa Cha.

Là lời hằng sống, lời ban sự sống thật, Chúa Giê-su trở nên lời sáng tạo, lời nâng đỡ kẻ nhọc nhằn trong mọi hoàn cảnh, để  họ được sống và sống dồi dào. Giê-su là chốn cậy trông, là sự nghỉ ngơi, là sức mạnh đỡ nâng, bổ sức, cho tất cả những ai lao đao vất vả, gồng gánh nặng nề.

Thánh vịnh 22, 1-3: ca ngợi Chúa là mục tử, ứng nghiệm hoàn hảo nơi Chúa Giê-su: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, nên tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ xanh, Người cho tôi vào nghỉ ngơi. Người đưa tôi tới nguồn nước trong lành và bổ sức cho tôi. Tay Người hằng dẫn dắt tôi, đi trên nẻo ngay chính lộ. Chính vì uy danh, dù đi qua miền tăm tối. Lòng tôi không hãi vì Chúa ở cùng, Người gìn giữ tôi luôn” (Tv 22, 1-3).

Vậy, Thiên Chúa huấn luyện người tôi trung bằng cách nào ?

Thưa: bằng cách, để người trải qua đau khổ dữ dằn bất công, dù người chẳng có lỗi gì. Chỉ một lòng cậy trông vững vàng nơi Chúa, người đã tự nguyện đưa lưng cho kẻ đánh đập, đưa má cho kẻ giật râu, không che dấu mặt mày tránh những lời nhạo cười phỉ nhổ, bởi luôn biết có Chúa ở cùng đỡ nâng và phân xử.

Bài Phúc Âm liệt kê một loạt hình khổ Giê-su phải hứng chịu vì sự giận dữ của số đông bị kích động, lấy cớ: vi phạm ngày Sabat và phạm thượng xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa. Sự giận dữ đã đẩy đến tột độ và nó chỉ được lắng xuống khi bản án được thi hành: Giê-su chết treo thập giá như một tên gian phi.

Tuy nhiên, chính thời khắc nghiệt ngã: Giê-su trút hơi thở, phó thác Thần Khí trong tay Cha, lại là lúc thủ lãnh thế gian bị kết án, bị tống ra ngoài và “đức tin” được khai sinh nơi viên sỹ quan dân ngoại: “Thật, ông này là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 38).

Kể từ đây, lịch sử cứu độ sang trang mới với hiệu quả tức thời và rộng khắp: màn trong đền thờ bị xé toạc, chấm dứt sự kỳ thị phe nhóm, thể thức tế lễ trường tồn thay thế máu chiên bò thời Cựu Ước, kẻ chết đội mồ bước ra đi đón Chúa Kitô trên các tầng mây và được ở cùng Chúa luôn mãi.

Tại sao phải đau khổ mới có thể cứu độ ? Phải chăng kitô giáo tôn vinh, khuyến khích đau khổ ? Đừng nói gở! Kitô giáo không bao giờ chủ chương đau khổ như là phương thế cứu độ.

Cốt lõi của ơn cứu độ là tình yêu vâng phục thánh ý Chúa. Vì tuyệt đối vâng phục và suy phục chân lý, Giê-su được sai đến trần gian là để thi hành thánh ý Cha và làm chứng cho sự thật. Vì lẽ đó, Ngài phải chịu nhiều đau khổ, phải thiệt thân, vì cớ, người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng.

Bài đọc II, trích thư gởi giáo đoàn Philipphê, thánh Phao-lô đã quảng diễn chân lý này thật sâu sắc và ý nghĩa.

Vì yêu, Chúa Giê-su thực hiện hành vi “tự hủy”, tự hiến, đến cùng kiệt: trở nên người phàm, vâng phục Cha trong mọi sự, bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá.

Kết quả của sự vâng phục thẳm sâu là được Cha đón nhận như một hiến lễ duy nhất. Bằng hành động mạnh mẽ, Cha đã cho Người trỗi dậy từ trong cõi chết, đặt ngự bên hữu mình trên trời, tôn vinh và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, trở nên nguồn ơn cứu độ cho cả thế gian.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa Giê-su. Một tình yêu vô vị lợi, không so kèo tính toán. Tình yêu ấy được cụ thể nơi thái độ vâng phục thánh ý Cha cách tự do và mau mắn.

Ý Cha được cụ thể trong các giới răn “mến Chúa, yêu người”, trong bổn phận thuộc đấng bậc mình, trong tình liên đới, hiệp thông, trong nhẫn nại vui tươi đón nhận thánh giá hàng ngày vác theo Chúa, để dầu ăn uống hay nghỉ ngơi, sống hay chết, chúng ta luôn thuộc về Chúa, đáng hưởng tình yêu và sự sống thật, sự sống muôn đời. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-410: Ai là bạn của tôi?


(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

 

Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới Suy niệm Lễlá-410


Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành”.

Nhiều người vẫn tự hào có đông bạn bè, nhưng người thật sự hết lòng vì mình liệu có được mấy ai?

Có một người kể rằng vì vấn đề trong làm ăn nên anh đang cần gấp một số tiền. Anh liền gọi điện cho những bạn bè thân thiết của anh. Đều được trả lời là không thể giúp với nhiều lý do. Anh đã dựa vào độ thân thiết mà gọi 9 cuộc điện thoại kêu cứu, nhưng càng gọi về sau thì càng không có lòng tin. Cho tới cuộc gọi thứ 10 chỉ là thử vận may mà thôi, thế mà anh lại được một người bạn ít thân thiết sẵn lòng cho mượn.

Cuối cùng anh kết luận rằng: “Nếu không phải lần mượn tiền này, tôi còn tưởng rằng mình có rất nhiều bạn bè, bây giờ tôi mới hiểu thì ra tôi cô đơn đến như vậy!”

Đời người, gặp nhau là do duyên Trời, ấm áp bởi tình, tan rã bởi thiếu chia sẻ với nhau, tệ hơn là bạn bè nhưng lại chơi xấu nhau. Đời thị phi là vậy. Con người chỉ nghĩ đến lợi cho bản thân. Khi chơi với ai có lợi thì thân. Ngược lại khi mối lợi không còn thì tình thân cũng tan biến. Có khi còn vì bản thân mà đạp đổ danh dự của nhau...

Chúa Giê-su dường như cũng nếm trải nỗi đau của chơi xấu, của bỏ rơi nơi các môn đệ. Giu-đa môn đệ được tin tưởng giao cho làm thủ quỹ thì biển thủ, thì tham lam, cho tới khi có cơ hội lại bán Thầy với giả rẻ mạt chỉ 30 đồng thôi. Các môn đệ khác thì bỏ mặc Thầy trong nguy khó. Một mình Thầy cô đơn. Một mình Thầy trải qua cuộc thương khó. Có chăng Gioan và Phê-rô theo Thầy, nhưng chỉ lén lút đi trong đêm tối, và rồi khi đối diện với khó khăn, Phê-rô đã chối Thầy đến 3 lần.

Đúng như người ta nói: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Con người ta chỉ một lần sa cơ, mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình nhất. Điều mà thời gian lưu lại không phải là tài phú, không phải là vẻ đẹp, mà là sự chân thật dành cho nhau. Hoa nở rồi sẽ tàn, thời gian trôi đi sẽ không quay trở lại. Lâu ngày không hẳn sẽ sinh tình, nhưng nhất định sẽ thấy được lòng người chân thành hay chỉ là đãi bôi.

Quang cảnh lễ lá hôm nay cũng tương phản với hình ảnh thứ sáu tuần thánh nơi dân thành Giê-ru-sa-lem. Hôm nay họ trải lá lót đường đón Chúa. Ngày mai họ ném đá đòi đóng đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô Chúa là vua, ngày mai họ đóng đinh Ngài vào thập giá. Xem ra Chúa vẫn cô đơn trong tiếng reo hò của hàng ngàn người dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngày lễ lá họ reo mừng vì thấy Chúa là mối lợi cho dân tộc. Ngày thứ sáu họ kết án vì muốn lợi dụng Ngài “chết thay cho cả dân được nhờ”. Chúa vẫn cô đơn trong chính dân tộc của mình và ngay cả nơi nhóm nhỏ môn đệ thân tín của Ngài.

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong nhà thờ, vì người ta đến với Chúa chỉ vì thói quen, vì muốn tìm cái phao cứu mình khỏi khó khăn?

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong dòng đời, vì đâu mấy ai dám hy sinh cho Ngài khi phục vụ giúp đỡ người ốm đau, nghèo khó hay tật nguyền?

Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong các mái gia đình, vì còn mấy gia đình vẫn sáng lễ chiều kinh, nhưng họ chỉ dành thời gian cho công việc và nghỉ ngơi?

Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? Có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy tình thân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không!

Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy lợi nhuận để mà cân đo đong đếm tình yêu. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-411: Mặc khải

 

(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)

 

Nhìn vào lá cành người ta có thể học biết được nhiều điều. Dù không chuyên về thực vật học Suy niệm Lễlá-411


Nhìn vào lá cành người ta có thể học biết được nhiều điều. Dù không chuyên về thực vật học, nhìn vào lá cây, người ta cũng có thể biết được nhiều điều. Lá cây cho biết về thời tiết trong thời gian qua. Lá xanh, tươi tốt; mưa nhiều; lá khô, cằn cỗi, nắng hạn; lá rách tả tơi, cành cây sơ xác, bão tố vừa qua. Nhìn vào lá người ta còn có thể nói về tình trạng của cây. Lá xanh mát, tươi đẹp cây được chăm sóc cẩn thận, cắt tỉa đàng hoàng; lá cằn cỗi, già chát, cây thiếu nước, thiếu chăm sóc, lâu ngày không xén tỉa. Lá rỗ chằng, rỗ chịt cho biết cây bị sâu rầy phá hoại mà không ai chăm lo xịt thuốc sâu. Lá không những cần cho cây sinh sống, làm mát mắt, tạo sinh khí sống động cho khung cảnh mà còn sinh ích cho chim muông, sâu bọ và ngay cả cho con người dùng lá lợp nhà, che vách. Sau khi dùng xong lá bị vất rơi bên vệ đường.

Không phải ngẫu nhiên các trẻ em Do Thái bẻ cành lá đón Đức Kitô vào thành thánh Giêrusalem. Việc các em đón rước Đức Kitô cho biết 'giờ của Ngài sắp đến'. Vinh quang của Ngài sắp được tỏ hiện. Đây cũng là điềm báo trước 'giờ' các nhà lãnh đạo Đền Thờ âm thầm hội họp quyết định thi hành dã tâm mượn tay nhà cầm quyền lợi dụng chức vụ có trong tay đưa ra bản án bất công, ra tay tiêu diệt người vô tội vì chỉ muốn làm vừa lòng các nhà lãnh đạo đền thờ. Họ sẵn sàng để tay dính máu hòng làm vừa lòng người khác.

Thánh Marcô nhắc đến nhiều địa danh Đức Kitô đi qua như Galilê, Bêthania hoặc núi cây dầu cho biết dân chúng tung hô, chúc tụng Ngài là Đấng Cứu Thế. Những nông dân, công nhân, dù không có học thức nhưng khi nói đến đức tin họ sáng suốt nhận định; trong khi những nhà lãnh đạo Đền thờ, lãnh đạo đất nước tự nhận mình là người có học thức, có bằng cấp lại trở thành người không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và họ lại chống đối bằng cách ra tay giết chết, để tỏ ra nhóm họ có quyền sinh sát trong tay. Họ dùng luật hiện hành để thi hành bản án bất công nhưng pháp luật không thể làm gì được họ vì họ là kẻ cầm cán cân công lí, họ muốn cho cán cân nghiêng về bên nào thì bên đó thắng. Dân chúng đi trên đường may mắn cùng lúc Đức Kitô và các môn đệ Ngài tiến vào thành thành Giêrusalem và họ bẻ cành lá bên đường tung hô chúc tụng Đức Kitô- Hoan hô con Vua Đavít- Câu này chính là câu mà người mù từ lúc mới sinh ngồi bên vệ đường nghe tin Đức Kitô đi qua, anh lớn tiếng hô Hoan hô Con Vua Đavít, xin cứu đến con- Đức Kitô đã chữa sáng mắt anh. Người bên đường mắt sáng nhận ra Đức Kitô Luc 18,38; Anh đâu biết Đức Kitô đến cứu phần xác anh và cứu phần hồn nhân loại. Kẻ lãnh đạo hội đường tự nhận mắt sáng, họ nhìn thấy tiền buôn bán trong đền thờ nhưng tại tối mắt không nhìn thấy Đức Kitô. Họ mù quáng đến độ không nhìn ra Người mở mắt cho người mù đến nỗi chính người mù cũng thắc mắc làm sao Đấng mở mắt cho anh quyền phép thế mà các nhà lãnh đạo đền thờ lại không nhận ra Ngài. Thành thánh Giêrusalem là chặng đường cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô. Lúc 12 tuổi Ngài bắt đầu trả lời thắc mắc của các kinh sư và lãnh đạo đền thờ và họ đã kinh ngạc về giáo lí của Ngài. Hai mươi mốt năm sau cũng tại nơi đây họ kết án Ngài. Đối với các tông đồ Giêrusalem là nơi các Ngài khởi đầu hành trình rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, khởi đầu cuộc đời truyền giáo cho muôn dân. Các tông đồ trên đường Emaus cũng nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài bẻ bánh trên đường họ đi về quê. Điều này cho biết Đức Kitô là đường và ai đi cùng đường sẽ nhận biết Thiên Chúa và cuối đường sẽ được vào chung hưởng vinh quang Phục Sinh với Ngài.

Chúa Nhật lễ Lá cho biết vương quyển của Đức Kitô. Đối với xã hội trần thế kẻ thuộc quyền tổ chức dân chúng đón chào vua chiến thắng vinh quang trở về. Đối với Đức Kitô dân chúng trên đường gặp Ngài họ vui mừng đón tiếp, dân lời ca chúc mừng, ngọi khen. Họ đâu biết rằng việc họ làm tác động bởi Thánh Thần Chúa đón tiếp vị vua cao cả sắp sửa chiến thắng tội lỗi, dẹp tan sự chết, đè bẹp chúng, bắt chúng nhốt vào ngục tối còn Đức Kitô bước ra khỏi ngục tối, khỏi mồ, sống lại vinh quang. Vương quyền của Đức Kitô là phục vụ, là hy sinh, là hiến thân cho người mình yêu để làm hoà với họ và đón nhận họ vào trong nước Chúa. Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô, khi làm việc tông đồ cũng cần đi qua con đường đó, con đuờng dấn thân phục vụ có giá phải trả. Đức Kitô trả giá đó bằng chính mạng sống mình bằng vác thập giá, đổ máu mình ra; môn đệ Đức Kitô không phải đổ máu mình ra nhưng đổ mồi hôi và nước mắt làm chứng cho sự thật, đau khổ vì làm chứng cho công lí và bị thiệt hại và sống công bằng, nhân ái. Cái giá đó nhiều khi rất cao nhưng đâu sánh bằng được hưởng vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Vinh quang đó không mất mát trần gian nào có thể sánh bằng vinh quang Phục Sinh, sống muôn đời trong nhà Chúa Cha.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-412: Tại làm sao Chúa chết?


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo Suy niệm Lễlá-412


Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?

Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.

Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1); “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu: “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp:“Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14, 64).

Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.

Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp: “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.

Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15, 15).

Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).

Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.

Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa chết? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.

Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.

Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).

Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.

Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-413: Người Đến Nhân Danh Đức Chúa


(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Những sinh hoạt của Chúa Giêsu được kể lại trong đoạn 11,1-13,37: ngày thứ nhất Người vào Giêrusalem Suy niệm Lễlá-413


Những sinh hoạt của Chúa Giêsu được kể lại trong đoạn 11,1-13,37: ngày thứ nhất Người vào Giêrusalem (11,1-11), ngày thứ hai Người chúc dữ cây vả và đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ (11,12-19), ngày thứ ba những bàn luận khác nhau trong đền thờ (11,20-12,24), và diễn từ cánh chung (13,1-37). Đoạn mô tả Chúa Giêsu vào Giêrusalem gồm: dẫn nhập (c. 1), các môn đệ đi và đem về một con lừa (cc. 2-7), Người vào thành trong hò reo và vui mừng (cc. 8-10) và kết luận (c. 11).

Từ đầu phúc âm, Marcô đã trình bày Chúa Giêsu thực hiện mọi hành trình bằng chân đất; chỉ đôi khi Người dùng thuyền vượt qua bên kia bờ hồ Galilê. Lần nầy Người cỡi lừa vào thành Giêrusalem; chắc chắn đây là một dấu chỉ đặc biệt. Việc Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi đem lừa về tương tự như việc Người sai họ đi dọn một phòng trước lễ Bánh Không Men của người do thái (x.14,13-16). Người biết tất cả và chỉ dẫn cặn kẽ cho các môn đệ của Người. Lần nầy các ông chuẩn bị cho Người một con lừa để vào thành Giêrusalem như là Vua của dân Israel. Lần sau, họ chuẩn bị một nơi để Người cử hành lễ Vượt Qua của Người trước khi vào lại Giêrusalem cũng với tư cách là Vua, nhưng là để chết cho dân nầy.

Chúa Giêsu vào Giêrusalem trong chân dung của một vua thuộc dòng dõi Đavít. Giêrusalem là kinh thành của vua Đavít và dòng dõi ông. Việc hoan hô, trải áo và lót những cành lá trên đường nơi Người đi qua là việc dân chúng thường làm cho một vị vua.  Họ đã làm như thế cho Yêhu: “Yêhu là vua” (x. 2 Vua 9,13). Như thế người ta công nhận Người là Vua của họ. Phêrô cũng đã nhận ra và tuyên xưng Người là đấng Kitô, nghĩa là Vua (8,27-30). Tuy nhiên chân dung của Người là một vị vua hòa bình và khiêm tốn, được phác họa trong hình ảnh Người khiêm tốn ngồi trên lưng con lừa tiến vào Giêrusalem. Người chinh phục Giêrusalem không bằng gươm giáo và vũ lực, mà bằng sự chết của Người. Người sẽ thi hành vương quyền của Người trong khiêm tốn, công chính và hòa bình (x. Zac 9,9-10). Bởi đó, khi dân chúng tung hô: “Chúc tụng Đấng nhân Danh Chúa mà đến” (Tv 118,26), họ tin Người đến để loan báo Vương Quyền của Thiên Chúa (1,15) và qua đó họ bày tỏ niềm hy vọng vào Người. Nơi Người họ có thể tìm được phúc lành của Cha Người.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-414: Dáng đứng của tình yêu


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài Suy niệm Lễlá-414


Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau: mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.

Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói:  Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!.  Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược: vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-415: Những ngã rẽ nguy hiểm


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Đức Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem Suy niệm Lễlá-415


Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Đức Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy tư về ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông.

1. Ngã rẽ của đám đông.

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

2. Ngã rẽ của Giuđa

Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện những ngã rẽ nguy hiểm của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công… như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-416: Ta là ai trong cuộc Thương Khó


(Suy niệm của Huệ Minh)

 

Trong tuần thánh và đặc biệt trong Lễ Lá này! Chúng ta làm sống động lại cuộc đời của Chúa Giêsu Suy niệm Lễlá-416


Tin Mừng (Mc 14: 1;15: 1-39): Trong tuần thánh và đặc biệt trong Lễ Lá này! Chúng ta làm sống động lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Và chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, như chính là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.

Thời gian nó đi mãi, nó không chờ ai hết.

Ngày hôm nay, chúng ta bước vào Chúa Nhật Lễ Lá. Để cái Lễ Lá này đưa chúng ta vào tuần thánh.

Có thể nói: đây là tuần quan trọng nhất của suốt năm Phụng Vụ. Cũng như Chúa Nhật Phục Sinh chính là đỉnh của các Chúa Nhật.

Trong tuần thánh và đặc biệt trong Lễ Lá này! Chúng ta làm sống động lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Và chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, như chính là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Mỗi người chúng ta, cũng như người dân do Thái ngày xưa cũng đi vào đền Giêrusalem, tay cầm lá để rước Chúa Giêsu. Chúng ta sống lại sự kiện của Chúa Giêsu, chúng ta cùng đi vào Giêrusalem với Ngài.

Và hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta lắng nghe lại bài tường thuật Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Sự kiện này là một sự kiện lịch sử, sự kiện xảy ra trong 1 lịch sử của thế giới.

Để phản bác việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu khổ hình. Thì có một phong trào, người ta dựa vào quyển tiểu thuyết Bí Mật Da Vinci. Để rồi, người ta cố gắng người ta làm một cái phim để mà gây hoang mang, cũng như đánh mất đi ý nghĩa, cũng như niềm tin, nền tảng vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu, cũng như Kitô giáo. Và họ coi Kitô giáo như là một chuyện tưởng tượng thôi!

Và rồi sự kiện này chúng ta cử hành là một sự kiện lịch sử. Không chỉ dựa vào các sách Tin Mừng dựa vào các sử gia; ở ngoài Kitô giáo, chúng ta cũng thấy được cái sự kiện này. Sự kiện này đã diễn ra trong lịch sử của thế giới, và đặc biệt thế giới của Do Thái.

Khi đặt niềm tin vào lịch sử như thế! để chúng ta mới thấy niềm tin vào Đức Kitô của mỗi người chúng ta, niềm tin ấy không phải là một niềm tin vu vơ, không phải là một niềm tin vớ vẩn nhưng làm một niềm tin đích thực có thật chứ không phải là niềm tin tưởng tượng. Nếu chỉ dừng lại ở cái chuyện đi theo Chúa Giêsu vào Giêrusalem, như một viễn tượng của lịch sử thì không cần Kitô giáo.

Và rồi chúng ta bước đi trong tuần thánh này, khi chúng ta nghe lại cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu là chúng ta làm cho biến cố lịch sử đó trở nên không chỉ là bên ngoài mà là chúng ta nội tâm hóa cái biến cố lịch sử đó, trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói cách khác là chúng ta nội tâm hóa biến cố Lịch sử đó!

Khi chúng ta nghe lại cuộc trình thuật về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh khuôn mặt của Philatô, Phêrô, Giuđa và đặc biệt của dân chúng. Và qua hình ảnh Philatô, Phêrô, Giuđa và của dân chúng này. Chúng ta khám phá ra khuôn mặt của chúng ta trong đó, để chúng ta sống cái đời sống đức tin của chúng ta trong đó!

Có nghĩa rằng khi khám phá ra như vậy, chúng ta thấy được khuôn mặt của tham lam, của gian ác, của chối từ, của độc ác, của những người đó thấp thoáng đâu đó, cũng có khuôn mặt của mỗi người chúng ta trong đó! Chúng ta không ngừng lại biến cố đó như một biến cố Lịch sử, mà nội tâm hóa để trở thành thực tại sống động trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Chúng ta đọc Cuộc Thương Khó, chúng ta xem các phim không phải với thái độ bàng quan của chúng ta. Suy nghĩ, chúng ta coi coi có dính dáng tới đời của chúng ta hay không? Có ảnh hưởng đời của chúng ta hay không?

Tiếp cận với sự phẫn nộ những người lên án Chúa Giêsu, sự phản bội của Giuđa. Chúng ta không dừng lại ở sự bực bội nhưng nó có liên quan tới thái độ sống đức tin của chúng ta. Khi tiếp cận sự thương khó, mà nếu như không có tác động, thì chúng ta cảm thấy nó rất là vô cảm.

Và rồi khi xem phim với tất cả những cái kỹ thuật làm cho nhiều người chảy nước mắt nhưng mà liệu rằng cái dòng nước mắt đó có thay đổi gì tâm tư của người ta hay không?

Và đặc biệt với cái phim Cuộc thương khó Chúa Giêsu, nó không phải như những phim khác, người ta xem xong rồi người ta ra về, nhưng xem xong cái cuộc thương khó của Chúa Giêsu nhiều người còn nán lại. Bởi lẽ họ còn đánh đọng những cái tâm tư, hình ảnh và tình cảm của những người nhân vật trong đó và xem phim này họ lặng lẽ ra về trong sâu lắng.

Thế nhưng mà, cái tác động tình cảm nó không có dừng lại ở bên ngoài bằng những giọt nước mắt, bằng những lời nuối tiếc, nhưng nó phải đi sâu vào trong tâm hồn của người môn đệ, của người đi theo Chúa Giêsu.

Và rồi mỗi người Kitô Hữu chúng ta được mời gọi: gọi là hội nhập vào cái Cuộc Thương Khó đó! Và rồi, làm sao để mà hội nhập được, nếu như chúng ta không suy nghĩ và chúng ta không nghiên cứu, chúng ta không nhìn ở bên dưới của những hành động của những con người đó!

Chúng ta thấy trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu:
Một Philatô vô cảm: Ông ta đã rửa tay với cái chết của Chúa Giêsu. Dẫu rằng, biết rằng Chúa Giêsu vô tội. Vợ của ông ta cũng ra khuyên, ông ta đừng nhúng tay vào, vì đây là người công chính. Ông biết rằng, ông có thể tha đuợc Chúa Giêsu, thế nhưng ông đã không chịu được cái sức ép của dân chúng, của áp lực, của cộng đồng...để rồi ông sợ mất ghế, sợ mất quyền lợi, và ông đã rửa tay để cho Chúa Giêsu đi vào một cái chết.

Và rồi Chúng ta thử coi, cái bóng dáng của Philatô đó, có trong cuộc đời của chúng ta hay không? Khi chỉ vì tiền, quyền, lợi; chúng ta không dám nói ra sự thật. Chúng ta không chiến đấu với sự thật, chúng ta không sống với sự thật, với những người xung quanh chúng ta.

Với Giuda, chúng ta thấy: dấu hiệu của tình yêu. Giuda đã biến đổi thành dấu hiệu của sự phản bội.

Chúng ta xem coi chúng ta có phản bội vợ chồng của chúng ta chúng ta có phản bội cha mẹ của chúng ta chúng ta có thể phản bội anh chị em chúng ta hay không có thể chỉ vài 30 ngàn đồng bạc, 3 triệu đồng bạc 30 triệu thậm chí 3 tỷ bạc. Chúng ta có can đảm bán đứt cái tình nghĩa vợ chồng bạn bè họ hàng của chúng ta hay không?

Có đó chứ? Không nói ra thôi chứ! Nhưng mà có! Nhưng mà chúng ta có nhìn ra hình ảnh của chúng ta trong cái sự buôn bán đó hay không? Dám bán đứng thầy mình hay không?

Và với Phêrô chúng ta nhìn thấy đó là một con người rất là mạnh dạn: Ai bỏ Thầy chứ tôi đây không bỏ Thầy! Nhưng mà chỉ cần vài tiếng đồng hồ sau đó, đứng trước mặt của một đứa tớ gái thôi! một đứa tớ gái chỉ cần hắn giọng thôi Phêrô đã chấp nhận từ bỏ cái lời tuyên xưng đức tin của mình, về thầy mình và chấp nhận khước từ thầy, chối thầy.

Chúng ta cũng vậy, nhiều lần nhiều lúc khi ra khỏi nhà thờ. Lời tuyên xưng đức tin của chúng ta chưa khô họng. Nhưng, cũng chỉ vì những giá trị của trần gian chúng ta đã can đảm chối từ tuyên xưng đức tin. Bởi vì nếu tuyên xưng Đức tin, chúng ta không dám buôn gian bán lận, nói hành, nói xấu, hạ nhục người khác. Chúng ta đã chối bỏ Thiên Chúa một cách rất là dễ dàng! Chúng ta chối bỏ anh chị em chúng ta một cách rất là nhẹ nhàng!

Và ngày hôm nay, chúng ta cùng tham dự vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, không phải là tham dự bằng một cái cách bàng quan nhưng tham dự bằng cái cung cách hội nhập. Khóc lóc, ỉ ôi, sướt mướt đó cũng chỉ là cái thái độ bên ngoài thôi.

Nhưng điều Chúa cần nơi chúng ta, và chúng ta cần đó là chúng ta khám phá ra chính mình nơi vụ án Chúa Giêsu. Chúng Ta khám phá ra khuôn mặt của Giuda, của Phêrô, của Hêrôđê, của những người dân chúng hùng hổ đòi đóng đinh người vô tội, thì chúng ta mới cảm thấy tội lỗi và chúng ta Sám Hối. Có như thế chúng ta mới thay đổi cuộc đời của mình.

Và rồi trong cái cao điểm của tuần thánh: Ước gì chúng ta không cử hành tuần thánh như một nghi thức, như một hoài niệm biến cố Lịch sử, mà chúng ta sống lại cái Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong chính cuộc đời của mình: bằng Sám Hối, bằng sự trở về với Thiên Chúa là vua, là Chúa tình yêu của đời chúng ta. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-417: CHIẾC LÁ CUỘC ĐỜI

 

Nghi thức khai mạc Tuần Thánh được gọi là “Lễ Lá”. Tuy cành lá chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn Suy niệm Lễlá-417


Nghi thức khai mạc Tuần Thánh được gọi là “Lễ Lá”. Tuy cành lá chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong nghi thức, nhưng được dùng làm tên gọi cho Thánh lễ long trọng này. Thực ra, chỉ một chi tiết nhỏ trong Bài Thương Khó liên quan đến lá. Cả bốn tác giả Phúc Âm đều kể lại biến cố Đức Giê-su vào thành thánh. Thánh Mát-thêu và Mác-cô nhắc đến việc dân chúng rải lá trên đường để Đức Giê-su đi qua. Riêng thánh Gio-an lại tường thuật việc người dân cầm cành thiên tuế để đón Người. Những lời tung hô của người dân cho thấy, họ nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Na-da-rét hình ảnh của vua Đa-vít, một vị vua luôn là niềm tự hào của dân tộc Do Thái. “Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en”. Những người Do Thái hiểu biết lịch sử sẽ dễ dàng nhận ra, đó là bầu khí tưng bừng của dân chúng năm xưa, khi họ đón Đa-vít chiến thắng lẫy lừng trước người Phi-li-tinh và trở về trong vinh quang. Thánh Gio-an còn trích dẫn Ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9): “Hỡi thiếu nữ Si-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,15). Cả bốn tác giả đều trình bày việc Đức Giê-su vào thành thánh như một cuộc khải hoàn mang tính thiên sai. Qua cuộc tiến vào thành thánh, Đức Giê-su chứng tỏ Người là Đấng Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa và là Đấng muôn dân mong đợi.

Chúng ta hãy trở về với những cành lá được dùng trong ngày Đức Giê-su vào thành thánh. Có những chiếc lá được rải trên lối đi. Có những chiếc lá được dân chúng cầm ở tay để tung hô chúc mừng. Chiếc lá nào cũng mang màu xanh mướt, biểu tượng của lòng nhiệt thành, niềm vui và sự tươi mát. Những chiếc lá này tượng trưng cho niềm hân hoan của dân chúng khi Chúa Giê-su tiến vào thành thánh. Tuy vậy, thân phận của những chiếc lá, dù rất đẹp, nhưng lại hết sức mong manh. Những chiếc lá hôm nay còn xanh, ngày mai đã ngả màu héo úa. Thánh lễ khai mạc Tuần Thánh dẫn khởi đầu bằng bầu khí hân hoan khi Chúa vào thành thánh, và kết thúc bi thương với hình ảnh Người chịu khổ nạn. Đức Giê-su, Đấng Công chính, đã trải qua nhiều đau thương trong những ngày cuối đời trên dương thế. Người luôn cam chịu mà không phản ứng lại. Người chấp nhận những gian khó vì vâng phục Chúa Cha và vì yêu mến nhân loại (Bài đọc I và Đáp ca). Trong suốt Tuần Thánh và nhất là Tam Nhật Vượt qua, chúng ta cùng với Giáo hội Hoàn vũ chiêm ngắm Đức Giê-su, một con người bị đánh đập tàn nhẫn đến biến dạng, bị vu khống đủ điều xấu xa và cuối cùng bị giết chết trên thập giá.

Như những cành lá xanh nhanh chóng nhạt màu phai sắc. Người dân thành Giê-ru-sa-lem, khi đón Chúa vào thành, hân hoan tưng bừng là thế, mà chỉ mấy ngày sau đó họ thay lòng đổi dạ. Đó là một đám đông hỗn độn, bừng bừng sát khí đòi Phi-la-tô lên án tử cho Chúa Giê-su. Một chi tiết phụ trong trình thuật nhưng lại làm nổi bật sự hận thù vô cớ của người Do Thái, đó là trường hợp Ba-ra-ba. Anh ta là một tên trộm cướp, hoặc một thành viên băng đảng. Nhưng, một nghịch lý trớ trêu là người dân lại xin tha cho người tù khét tiếng này, để một mực bắt Chúa Giê-su phải chết. Phi-la-tô là người ngoại và là đại diện cho chính quyền dân sự. Ông muốn tha Chúa Giê-su. Gợi ý tha bổng một tù nhân vào dịp lễ Vượt qua là một lối thoát nhằm phóng thích Chúa Giê-su, nhưng bất thành. Chúa Giê-su đã bị lên án tử. Bản án và việc xét xử được thực hiện vội vàng, ngay trong đêm. Chúa Giê-su đã phải tự vác thập giá đến nơi hành hình và đã bị đóng đinh trên cây gỗ ấy.

Chắc chắn trong lúc dân chúng kết án Chúa Giê-su trong cảnh hỗn loạn, có những người mến Chúa và thương Chúa. Họ rất muốn minh oan cho Chúa Giê-su. Tuy vậy, tiếng nói của họ quá nhỏ, bị át bởi cường quyền và đám đông đang hầm hầm giận giữ. Và, những tiếng nói của lẽ phải ấy đã bị bóp nghẹt. Ngày hôm nay cũng thế, có biết bao tiếng nói đòi công bằng và tôn trọng nhân phẩm bị bóp nghẹt giữa cơn cuồng phong của những kẻ mạnh vô luân!

Mỗi năm, chúng ta cử hành Lễ Lá để phác hoạ và diễn tả cuộc vào thành Giê-ru-sa-lem long trọng của Chúa Giê-su năm xưa. Phụng vụ có đề nghị nghi thức làm phép lá và phát cho dân chúng. Sách nghi lễ còn nói rõ: khi đi rước, vị chủ tế đi trước, sau đó là những người giáo dân, tay cầm ngành lá phấp phới. Chúng ta cũng thường có thói quen mang cành lá đã được làm phép về trưng bày tại gia đình, như một gợi nhớ về ý nghĩa Phụng vụ Tuần Thánh. Đó cũng là một nhắc nhở cho chúng ta về thân phận con người, và lòng trung thành trong đức tin và trong cách đối nhân xử thế.

Cuộc đời chúng ta như một chiếc lá. Vòng đời của chiếc lá khởi đầu từ ngày hé nở cho đến ngày úa vàng rồi rụng xuống đất. Vòng đời ấy dài hay ngắn tuỳ thuộc mỗi loại cây. Nhưng tất cả đều có một điểm giống nhau, là nếu rời khỏi cành, thì sẽ tàn úa. Chiếc lá xanh của lễ khai mạc Tuần Thánh nhắc cho chúng ta sự mỏng giòn chóng qua của kiếp người. Chiếc lá cũng nhắc chúng ta về sự thay đổi bất nhất của lòng dạ con người. Quả vậy, hành trình cất bước theo Chúa Giê-su, là hành trình liên lỉ suốt đời. Trong hành trình ấy, có nhiều khó khăn chông gai thử thách. Con Thiên Chúa đã mang thân phận con người, đã lao nhọc trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng và cuối cùng đã chết trên thập giá. Hình ảnh Đức Giê-su vác thập giá như nguồn khích lệ động viên mỗi chúng ta. Bởi lẽ thập giá, tức là những khổ đau, mâu thuẫn và thất bại, không từ một ai. Chúa Giê-su đã vác thập giá, và hôm nay Người cũng đang cùng vác thập giá với mỗi chúng ta. “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa đã hứa với chúng ta như thế.

Xin Chúa giúp sức, để chúng ta có thể gìn giữ tâm hồn và cuộc đời luôn thắm mãi màu xanh. Amen.

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

--------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-418: VUA HOÀ BÌNH, VAI MANG THẬP GIÁ CỨU ĐỘ TRẦN GIAN

 

Trước Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội cử hành Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay Thánh, khai mạc Tuần Thánh Suy niệm Lễlá-418


Trước Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội cử hành Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay Thánh, khai mạc Tuần Thánh. Trong tuần này, Giáo hội cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Độ trần gian.

Sự kiện Chúa Giêsu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem được cả Bốn sách Tin Mừng (Máccô 11,1-11, Matthêu 21,1-11; Luca 19,28-44; và Gioan 12, 12-19) kể về việc này.

Chúa Giêsu cưỡi trên con lừa con là con của con vật chở đồ. Theo truyền thống Đông Phương, lừa là một con vật của hòa bình. Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem trên con lừa ngụ ý ám chỉ Chúa là Vua Hoà Bình.

Ở nhiều vùng đất trong vùng Cận Đông cổ đại, việc lát gạch con đường của một ai đó đáng kính trọng đã đi là chuyện khá phổ biến. Trong sách Các vua quyển thứ 2 chương 9 câu 13 kể rằng Jehu, con của Jehoshaphat, được tôn vinh theo cách này.

Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)

Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Họ trải áo trên đường để Chúa đi” (Mc 11, 8-10 ).

Cả bốn sách Tin Mừng đều kể rằng dân chúng đã tôn vinh Chúa Giêsu theo cách kiểu trên. Trong bản Nhất Lãm mô tả là dân chúng trải áo và lá trên đường, còn Phúc âm Gioan nói rõ là lá cọ. Theo thông lệ Do Thái, lá cọ là một trong bốn loại thực vật được mang đến cho Lễ Lều Tạm, dùng để mô tả niềm vui và chiến thắng. Những cành lá diễn tả những gì mà người ta sử dụng cho cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu khi tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.

Đám đông dân chúng hân hoan, chúc tụng đón rước Chúa. Tất cả mọi người đều hát noi gương các trẻ em Do Thái đồng thanh tung hô Đức Giêsu: “Thánh, thánh, thánh! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.

Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, bỗng sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm. Lời Tiên tri Isaia và bài tường thuật của thánh sử Marcô đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Mt 15, 34).

Vua Giêsu cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng vào Thành Thánh để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm; Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy sự ác và tội lỗi của thế nhân, cùng với Thập giá trên mình. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui ơn cứu độ.

Bước vào Tuần Thánh tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới rằng : “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna! Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

--------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-419: CHÚA KITÔ TRÚT BỎ MỌI VINH QUANG BẰNG LÒNG CHỊU CHẾT VÌ YÊU THƯƠNG

 

Hôm nay Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Các bài đọc nhắc nhở chúng ta về Suy niệm Lễlá-419


Hôm nay Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Các bài đọc nhắc nhở chúng ta về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Cứu Thế. Chúng ta suy ngẫm về cuộc thương khó của Chúa, về cái giá Ngài đã trả để cứu chuộc chúng ta, không chỉ hôm nay hay suốt Tuần Thánh này mà cả cuộc đời mình. Được dìm sâu vào Cuộc Khổ Nạn lớn lao của Chúa Giêsu là đặc ân dành cho chúng ta.

Căn tính của Chúa Giêsu: Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng.

Trong trình thuật Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu theo Thánh Máccô, thần tính của Chúa Giêsu xuất hiện một cách hết sức rõ ràng. Chúa Giêsu dường như không quan tâm trả lời những cáo buộc chống lại Ngài, ngay cả những lời buộc tội sai trái rằng Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!...Vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Chúa Giêsu: Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó? Nhưng Chúa Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng” (Mc 14: 58-61). Nhưng có một điều Ngài quan tâm trả lời: câu hỏi về căn tính của Ngài. Chúng ta đọc thấy rằng khi bị đưa ra trước Tòa Công Luận, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” (Mc 14:61). Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời: “Phải, chính thế” (Mc 14:62).

Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, Chúa Giêsu không bao giờ tự xưng là Đấng Kitô. Thỉnh thoảng, nếu có ai đó biết Ngài là Đấng Kitô thì Ngài cũng cấm không cho nói ra. Nay lần đầu tiên Ngài nói rõ mình là Đấng Kitô và còn giải thích đó là một Đấng Kitô có thiên tính. Ngài tự nhận mình là nhân vật “Con Người” từ trời cao mà đến: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62). Khi nói như vậy Chúa Giêsu muốn cho Tòa Công Luận biết rằng Ngài là Con Người mà sách Đaniel đã báo trước: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Đn 7:13-14). Tuyên bố này của Chúa Giêsu ngay lập tức đã khiến vị thượng tế xé áo choàng của mình, vốn là điều bị cấm theo lề luật: “Tư tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo” (Lv 21:10). Nhưng đó là cử chỉ vị thượng tế đã làm. Ông muốn bày tỏ sự phản bác và khinh thị, vì làm sao một tên tội phạm bị trói tay như thế lại có thể là Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng được!

Rồi khi bị dẫn ra trình diện trước Philatô, Chúa Giêsu cũng không đáp lại bất cứ điều gì chống lại Ngài: “Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Ngài: Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội! Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên” (Mc 15: 3-5). Nhưng khi Philatô hỏi về chức vụ của Ngài: “Ông là vua dân Do thái sao?” thì ở đây một lần nữa, Chúa Giêsu sẵn sàng trả lời về căn tính của Ngài. Câu trả lời khẳng định nhẹ nhàng: “Đúng như ngài nói đó” (Mc 15: 2). Ở đây Ngài thừa nhận có vai trò đó, dù trong một hoàn cảnh vô cùng mỉa mai. Chính vì thế mà binh lính chế nhạo Ngài: “Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài. Rồi chúng bái chào Ngài: Vạn tuế đức vua dân Do thái! Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài, và quỳ gối bái lạy” (Mc 15:17-19).

Thánh Máccô không bỏ lỡ điều trớ trêu đó. Thánh sử muốn nói dù đúng là Vua dân Do Thái và Con vua Đavít, Chúa Giêsu cũng được hiểu là Vua của những người lính đó, của muôn dân nước, như tiên tri Samuel kể rằng Thiên Chúa phán với vua Đavít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền” (2Sm 7:12). Khi xưa Vua Đavít đã thống nhất các chi tộc Israel thì nay Người bị coi là tội phạm, bị treo cao trên thập tự giá, và khi trút hơi thở, lại đuợc viên quan bách quân người Rôma khẳng định trong ngỡ ngàng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).

Như vậy, chính viên quan Rôma này đã trả lời cho câu hỏi được đưa ra trước Tòa Công Luận: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” (Mc 14:61). Đây là lần đầu tiên trong các sách Tin Mừng có một người dân ngoại nhận ra căn tính của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Con Người ấy là Con Thiên Chúa, sẽ tập họp muôn dân nước  trong quyền năng và vinh quang của Ngài vào ngày sau hết. Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ của Ngài về điều này:“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Ngài sẽ sai các thiên sứ đi, và Ngài sẽ tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:26-27). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc tất cả chúng ta, qua khổ hình thập giá. Đó là một trong những chân lý mầu nhiệm nhất của Kitô giáo.

Chúa Giêsu hoàn toàn bằng lòng chịu chết trên cây thập tự.

Ngài im lặng trước những cáo buộc chống lại mình. Ngài không quan tâm đến việc bảo vệ mình trước những cáo buộc sai trái, nào là phá đền thờ, nào là không nên nộp thuế cho Xêda. Ngài không quan tâm đến việc thuyết phục chính quyền về sự vô tội của mình. Sự im lặng của Ngài đã được báo trước khi tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Isaia 53:7). Ngài lên Giêrusalem là để chết. Ngài đang thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa Cha: chết để cứu độ nhân loại. Cái chết của Ngài là do Ngài hoàn toàn tự nguyện chấp nhận, trọn vẹn vâng theo Thánh Ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu cho thấy lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm nơi Ngài: “Thiên Chúa đã muốn ngài phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu ngài hiến thân làm lễ vật đền tội…ý muốn của Thiên Chúa sẽ thành tựu…Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ…Bởi vì ngài đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:10-12).

Tin Mừng theo Thánh Máccô nói chi tiết về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Những chi tiết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn tình yêu bao la của Chúa Giêsu dành cho chúng ta khiến Ngài sẵn lòng chịu đau khổ và chịu chết. Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô đã suy niệm thật sâu xa: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).

Những suy niệm này cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn mức độ nghiêm trọng của tội lỗi vốn gây ra cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta hoán cải và thay đổi cuộc sống mình như thế nào để không làm cho thập giá của Chúa Giêsu, của những người khác và của chính mình nặng thêm vì tội lỗi của chúng ta?

Chúng ta tập trung vào những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu. Chúng ta khắc ghi vào tâm hồn chúng ta một cách rõ ràng hơn hình ảnh một Thiên Chúa ở cùng chúng ta, một Thiên Chúa không hề xa lạ với con người. Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa, đã hành xử như một tôi tớ, phục vụ tất cả các môn đệ của Ngài khi xưa và phục vụ tất cả chúng ta ngày nay, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, đổ chính máu mình ra: “Ngài bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14: 24). Chúa Giêsu luôn tìm Thánh Ý của Chúa Cha trong mọi sự, không tìm cách làm theo ý mình, ngay cả trong thời điểm đau thương và chết chóc như thế này: “Ábba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36).

Vâng phục Thiên Chúa Cha là bản chất của Chúa Giêsu.

Đối với Chúa Giêsu, vâng phục là lắng nghe và làm theo Chúa Cha yêu dấu của Ngài. Việc Chúa Giêsu đi vào thế gian hiến mình làm tôi tớ, chịu khổ hình, đau đớn, nhục nhằn, không bao giờ là sáng kiến mang tính ​​anh hùng cá nhân của một người con muốn chứng tỏ bản thân mình với Cha mình. Trong những hành động này, Chúa Giêsu đang lắng nghe và vâng theo tiếng nói thần linh của Chúa Cha, bằng chính tình yêu thần linh của Ngài dành cho Chúa Cha. Đó là một sự đáp trả đầy yêu thương đối với một kế hoạch yêu thương và là một sự vâng phục tuyệt đối tự do đối với một ý muốn không hề bắt buộc phải làm. Trong tâm tình lắng nghe và vâng phục này, giữa Chúa Cha và Chúa Con, không có giây phút nào xa cách, sợ hãi hay nghi ngờ, mà chỉ có tình yêu vô điều kiện và không dè sẻn từ Chúa Cha. Và sự đáp trả của Chúa Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha cũng vô điều kiện, không giới hạn và không giữ lại gì.

Mọi người tìm cách làm theo ý mình, nhưng Chúa Giêsu chỉ tìm kiếm ý muốn của Chúa Cha như Ngài nói: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5:30). Chính sự vâng phục này đã thể hiện sự trọn hảo của Chúa Con, và biểu lộ Ngài là ai, như Ngài đã phán: “Tôi không thể tự ý mình làm gì”. Ngài là “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, là một với Chúa Cha nên luôn hành động cùng với Chúa Cha trong bất cứ điều gì, dù trong suy tưởng hay trong hành động, tất cả đều theo ý muốn và vì sự vinh hiển của Cha Ngài.

Để ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành, Chúa Con phải bước vào cái chết, và qua cái chết, chỗi dậy trong sự phục sinh, hoàn thành trọn vẹn ý định vĩnh cửu của Chúa Cha. Việc Ngài đi vào cái chết là do chính Ngài tự nguyện: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10:18). Ngài bước vào lãnh địa tối tăm của cái chết mà chưa ai từng bước vào đó, với tất cả sự tin tưởng vào thẩm quyền mà Chúa Cha ban cho Ngài để phá vỡ quyền lực của cái chết, và bước ra trong chiến thắng vì đã hoàn thành công việc mà Cha Ngài đã giao cho Ngài làm. Việc Ngài tự ý đi vào cái chết là một hành vi vâng phục thánh ý Chúa Cha, để bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha như Ngài nói: “Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14:31).

Cái chết của Ngài bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha, đồng thời mặc khải tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại. Chính tình yêu này của Chúa Cha, biểu lộ qua cái chết vâng phục của Chúa Con, đã mang lại cho con người vô vàn ân sủng rạng ngời, như Thánh Phaolô diễn tả: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài [Thiên Chúa], Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Ngải.  n sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu” (Ep 1:5-8).

Chúng ta, những người đã lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, được mời gọi sống theo ân sủng, nghĩa là sống theo Lời và gương mẫu đời sống của Chúa Giêsu để ân sủng của Ngài dần thấm vào tâm tưởng, diễn ngôn, hành vi và thái độ của chúng ta trong cuộc sống thực tế hàng ngày.

Xin cho những lời của tiên tri Isaia, trong bài đọc thứ nhất, ứng nghiệm không chỉ trên Chúa Giêsu mà trên cả mỗi người chúng ta: “Thiên Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức…Thiên Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Isaia 50:4-7).

Phêrô Phạm Văn Trung

--------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-420: YÊU MẾN LÀ CHẾT ĐI


Anh chị em thân mến,

 

Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng việc cử hành cuộc đón tiếp Chúa Suy niệm Lễlá-420


Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng việc cử hành cuộc đón tiếp Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem. Với những nhành lá vạn tuế kèm theo những lời tán tụng, chúng ta đón tiếp Chúa như một vị quân vương. Nhưng vài ngày sau, cụ thể trong bài Thương Khó mà chúng ta vừa nghe, nói về con đường khổ nạn và sự chết của Người. Chỉ mình Chúa trong cuộc hành trình thứ hai này. Mẹ của Người và các người thân tín cũng chỉ dám đi xa xa để trông chừng. Chúa Giêsu hoàn toàn cô đơn, trống vắng. Không còn những lời tung hô; thay vào đó là những lời lên án và cũng chẳng còn những nhành lá biểu lộ sự vui mừng, mà là cây thập giá, sau cùng là sự chết. Một cái chết cô đơn, tủi nhục như một phạm nhân trên thập giá.

Vào thời của Người, bị chết treo trên thập giá là một án tử hình dành cho các tội nhân. Và án này được chính quyền Roma đặt ra để áp dụng cho người Do thái. Hàng năm có rất nhiều người bị treo trên thập giá. Nhiều đến nỗi người ta có thể chồng chất sọ của các nạn nhân lên nhau và người ta gọi địa điểm đó là núi sọ.

Trong lúc đã có quá nhiều người bị treo trên thập giá như thế, thì vì sao chỉ có mình sự kiện Chúa bi treo và chết trên thập giá lai được lưu truyền cho đến ngày nay? Sự chết của Đức Giêsu đã có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của anh em tín hữu tiên khởi?  Để rồi, qua bao thế hệ, hàng hàng lớp lớp vẫn vui vẻ dấn thân đi theo con đuờng Thập giá, hy sinh bản thân, sẵn lòng chịu chết vì lợi ích và sinh hoa kết quả cho người khác.

Chúng ta cần tìm ra những giá trị đích thực của việc Chúa chết để tìm ra sức mạnh yêu thương mà biến cố Phục Sinh biến đổi và đem lại cho cuộc sống của chúng ta?

Anh chị em thân mến,

Lẽ ra, trong cuộc đời và nhất là Tuần Thánh này, chúng ta cố gắng sống và trao ban cho nhau trọn vẹn lòng yêu mến của Đấng đã trao cho chúng ta quà tặng tình yêu. Nhưng, thực tế chúng ta lại mang lấy tâm trạng của những kẻ nhút nhát và phản bội như các môn đệ: ông này chối Chúa, ông kia bán Người; lại có ông bỏ rơi Người trong giây phút Nguời cần sự đồng cảm và hỗ trợ của các ông… Rồi chúng ta cũng có thể lại đồng ý với dã tâm và lòng thâm độc của các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người; rồi một cách nào đó, chúng ta cũng đồng ý với các hành động tàn nhẫn của quân lính khi hành hình Chúa tôi!

Những cực hình về mặt thể xác và tinh thần mà Đức Giê-su đón nhận một cách hiên ngang và tự nguyện vì yêu thuơng sẽ đem lại sự hỗ trợ và là nguồn sức mạnh giúp chúng ta suy gẫm những việc Đức Giê-su đã chịu và không làm cho cảnh vật xẩy ra trong những ngày này trở lên buồn thảm hơn.

Vào tối thứ Năm, đôi bàn tay của Chúa đã rửa và lau sạch mọi thứ bụi trần còn dính vào đôi chân của những kẻ theo Người. Việc làm này không chỉ nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ như một người tôi tớ; nhưng qua nghĩa cử yêu thuơng hạ mình thâm sâu đó, Người muốn phá tan mọi hàng rào ngăn cách giữa thầy và trò, chủ và tôi tớ, người với người.

Rồi sang ngày thứ Sáu, Đức Giê-su đã dâng hiến tinh thần, thân xác và sứ vụ của Người như lễ vật hy sinh vào tay Chúa Cha. Người mở tay ra để trao phó, còn đôi bàn tay của Thiên Chúa, Cha Người cũng mở ra để đón nhận. Một giao uớc được ký kết, giao ước của Tình Yêu nói lên đích điểm của việc trao ban và đón nhận. Giao Uớc này thay thế cho mọi giao ước trước. Vì thế, ngày thứ Sáu sẽ không còn là ngày buồn thảm và tang thương như một số người chủ truơng. Nhưng đó là “Good Friday – Ngày Thứ Sáu Tốt-Đẹp.” Trong ‘ngày và giờ’ đó tình yêu của Chúa được thể hiện một cách thật trọn vẹn qua con đuờng Người đã đi.

Sự thinh lặng trong ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc con người bị bó tay như thế đó mà Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Vì thế, các nghi thức phụng vụ mà chúng ta cử hành trong những ngày này, cách xử thế trong cuộc đời và lối sống đạo của chúng ta rất cần đuợc dẫn dắt bởi mối tình cao cả mà Con Thiên Chúa đã thực hiện.

Vẫn biết là sống đạo như thế mới là sống đích thật. Nhưng trở về để đối diện với thực tế, tôi tự hỏi mình rằng: đã bao lần tham dự các nghi thức trong Tuần Thánh, đã bao lần suy niệm về con đuờng Thập Tự của Đức Giê-su; thế mà các biến cố đã xẩy ra trên con đuờng của Chúa, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên hành trình niềm tin và lối sống đạo của tôi?

Rồi lại, nếu nay mai có người hỏi tôi rằng: anh hay chị đã yêu Chúa như Chúa yêu chưa? Có lẽ, chẳng có mấy người trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời ‘có’. Giả như có một số người thật dũng cảm khi trả lời có thì câu trả lời ‘có’ đó cũng chỉ là từ ngữ; bởi vì, sau đó khi được yêu cầu liệt ra các việc làm cụ thể của yêu thương thì chúng ta lại ấp úng, rồi cười xoà cho xong. Nhưng nếu cần phê phán người khác thì chúng ta giỏi lắm. Chúng ta thường áp đặt lối suy nghĩ ích kỷ của chúng ta trên việc làm của người khác cho nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội nhận ra ý nghĩa sâu sắc của viêc làm nào đó của tha nhân!

Hẳn chúng ta còn nhớ. Mary, chị của Lazarô, người đã dùng dầu thơm hảo hạng để xức chân Đức Giêsu; thế mà cũng có người cảm thấy bị xúc phạm rồi phê phán hành động của Maria thật là hòai của và lãng phí, tại sao chị lại không dùng tiền đó mà cho người nghèo! Với Chúa thì khác, Người nhìn thấy tấm lòng của chị ta. Chúa xác định một cách thật chắc chắn rằng, hãy để chị ta làm việc của chị ấy, đừng xía miệng vào chuyện của người khác. Việc làm của chị thật tuyệt diệu; qua hành vi này Maria đã bộc lộ tấm lòng quí mến của chị dành cho Thầy.

Sau cùng, chúng ta hãy đến với nhau bằng tấm lòng quảng đại và đôi tay mở ra, chứ đừng hoài nghi hay phê phán các việc tốt của người khác đã và đang làm. Trái lại, chúng ta cũng không nên quá cẩn trọng và e dè khi cần làm một điều thiện cho tha nhân. Tất cả đều đuợc đánh giá bằng lòng yêu mến.

Hành vi của lòng nhân hậu phát sinh bởi ý ngay lành đều là những hành vi Thánh Thiện. Những gì càng nhỏ bé và dấu kín và một khi được bộc lộ thì giá trị càng cao. Sự thánh thiện đích thật thường được giấu trong cái vỏ bình thường bên ngòai. Và với lòng yêu mến, việc phục vụ tha nhân chính là phụng sự Thiên Chúa vậy.

Với tâm tình như thế, cầu chúc anh chị em buớc vào Tuần Thánh với tấm lòng yêu mến để được thêm sức mà vác Thánh Giá trên con đường phục vụ và trở thành của lễ cho Thiên Chúa và sinh nhiều hoa trái cho tha nhân. Amen!

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-421: VÀO CUỘC YÊU

 

Tung Hô Thánh Tử – Chúa Các Chúa. Vạn Tuế Thiên Vương – Vua Muôn Vua. Trình thuật Mc 14:1-15 Suy niệm Lễlá-421


Tung Hô Thánh Tử – Chúa Các Chúa
Vạn Tuế Thiên Vương – Vua Muôn Vua.

Trình thuật Mc 14:1-15 là thước phim sống động. Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Chuỗi đau khổ bắt đầu ngay từ lúc hiển hách. Thật kỳ lạ!

Trước đó, ngay tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Giữa lúc Đức Giêsu dùng bữa, có một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm nguyên chất cam tùng (tên khoa học là Nardostachys, một chi thực vật thuộc họ Kim Ngân, được dùng để chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, mùi rất thơm và đắt tiền). Cô đập bình, đổ dầu trên đầu Ngài. Cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Không biết cô có biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không, nhưng cô thực sự tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới đến xin Ngài thương xót. Niềm hy vọng của cô rất cao xa, sâu rộng.

Các bạn của ông Simon Cùi biết cô này, thế nên có vài người bực tức xì xầm: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Có vẻ nhân đức, nhưng họ thương người nghèo hay tiếc của? Người ta cũng thường như vậy để chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay “phong cách” tinh vi hơn!

Không chỉ bực tức mà họ còn gắt gỏng với cô. Sự ghen tức của con người rất kinh khủng và đáng sợ! Nhưng Chúa Giêsu nói ngay: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Chúa Giêsu phải nói cho người ta hiểu rõ vấn đề. Người ta khinh và ghét cô, nhưng Chúa Giêsu lại làm cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”

Thánh Máccô kể một cảnh khác: “Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” (Mc 14:10-11) Vì mê tiền, ông Giuđa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông hy vọng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Mặc dù tiền rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó cưỡng lại, như Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Khinh suất thì chết liền. Và điều gì sẽ đến rồi cũng đến.

Hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Ngài sai hai môn đệ đi, dặn họ vào thành, có một người mang vò nước đón gặp họ, và bảo họ cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho Ngài ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và nhiệm vụ của họ là dọn tiệc.

Buổi chiều. Thầy trò cùng tới. Đang khi dùng bữa, Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Ôi, có chuyện đó ư? Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì không biết họ trở mặt lúc nào. Quả thật, đôi khi kẻ thù không đáng sợ bằng bạn bè và người thân!

Qua việc chỉ điểm của ông Giuđa, những kẻ ác tra tay bắt Chúa Giêsu ngay sau Bữa Tiệc Ly. Lúc đó, ông Phêrô liền tuốt chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, nhưng Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, vẫn quyết bắt giết Chúa Giêsu. Đoạn phim buồn chưa khép lại ở “khoảng tối” này, mà còn “khoảng đen” khác, nhưng cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng.

Một tuần trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, các môn đệ theo sau. Thánh Gioan cho biết: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12:12-13) Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Cũng vậy, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Nhiệm mầu Thánh Ý Chúa. Phàm nhân không thể hiểu!

Đau khổ của Người Tôi Trung Đau Khổ được đề cập trong trình thuật Is 50:4-7, phần đầu của bài thứ ba trong các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Các động thái đó không miễn cưỡng, mà tự nguyện – vì thương xót những ai được Người Tôi Trung quý mến. Kẻ được yêu đó là chính mỗi tội nhân ở mọi nơi, mọi thời.

Đau khổ đến tột cùng, nhưng Người Tôi Trung vẫn một lòng trung thành tín thác: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Ai cũng sợ khổ, chẳng ai muốn sầu, nhưng có đau khổ mới biết thương người khác. Người chưa đau khổ thì không thể hình dung ra đau khổ như thế nào. Người chưa bị tù thì không thể hiểu hết nỗi khổ của sự tù đày, không hiểu hết ý nghĩa của sự tự do.

Kinh Thánh nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu nhiều lần, nhưng có lẽ vẫn có chút gì đó “mơ hồ” nếu chưa xem phim “The Passion of The Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson, rất tinh tế. Xem cảnh quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có thể tưởng tượng. Hành hạ như thế mới là quân dữ!

Khi đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì cam chịu, tủi thân, trách mình mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Buồn đến chết được. Họa vô đơn chí!

Chuỗi buồn nối tiếp chuỗi sầu. Nước mắt không chỉ mặn, mà còn chua cay. Cô đơn và lạc loài, nhưng đau khổ vẫn tiếp tục chồng chất: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20) Đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Dù là Con Yêu Dấu nhưng Ngài vẫn phải chịu đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chẳng có ai phải chịu đau khổ như Ngài. Nhân tính nơi Ngài cũng giằng co lắm, cả tinh thần và thể lý, phàm nhân không thể tưởng tượng được. Những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) cũng chưa thấm vào đâu, chỉ là phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi!

Người Tôi Trung vẫn quyết vì Danh Chúa, mặc dù cô đơn, nhục nhã, đau khổ,... Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.” (Tv 22:23)

Tất cả là tự nguyện của Người Tôi Trung Đau Khổ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Dù là loại tình yêu nào thì cũng phải tiết ra “chất” hy sinh, nếu không có sự hy sinh thì không đáng gọi là tình yêu. Hy sinh cao nhất là “dám chết” vì người khác.

Nói về tình yêu, Chúa Giêsu xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Chúa Giêsu nêu gương để chúng ta noi theo. Thánh Phaolô giải thích: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Chỉ có Con Đường Giêsu mới dẫn tới Thiên Đàng đích thực.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con tự nguyện làm mọi sự vì yêu Ngài, thương người, cứu các linh hồn và đền tội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-422: THIÊN CHÚA NHÂN TỪ và HAY THƯƠNG XÓT

 

Phúc Âm thuật lại rằng, trong ba năm rao giảng tại Galilê, Chúa Giêsu đã làm ơn làm phước, và Suy niệm Lễlá-422


Phúc Âm thuật lại rằng, trong ba năm rao giảng tại Galilê, Chúa Giêsu đã làm ơn làm phước, và giúp đỡ cho tất nhiều người:

• Ngài cho người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ  điếc được nghe, người ch ết sống lại… làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người  ăn, không kể đàn bà và trẻ con (Mt 11:5; 14:21). 

• Ngài ban cho ông Giuđa quyền trừ quỷ, chữa bệnh, Ngài tin tưởng và giao cho ông nhiệm vụ làm thủ quỹ, quản lý tất cả tài chính của nhóm Mười Hai (Ga  13:29). 

• Ngài lo lắng cho các ông từng miếng ăn giấc ngủ:  “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà  nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31).

• Ngài giao cho ông Phêrô một chức vụ rất cao trọng:  “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trờ i: dưới đất,  anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ  tháo cởi như vậy” (Mt 16:19). 

Vậy mà khi Chúa Giêsu bị  quân lính bắt thì  “Các môn đệ  bỏ Người mà chạy trốn hế t” (Mc 14:50);  Phêrô thì thề  rằng: “Tôi không biết người ấy [là ai cả]” (Mt 26:72); Giu-đa thì đã bán đứng Ngài: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị,  thì quý vị muố n cho tôi bao nhiêu… Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc” (Mt 26:14-15); còn dân chúng thì gào thét ầm ĩ: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6).  Những người đã từng thọ ơn Chúa ở đâu cả rồi? Sao chẳng  thấy ai đến bênh vực, hay ít ra đến để an ủi Ngài, nhưng lại  để Ngài cô đơn, đau khổ và tủi nhục  như vậy? 

Bạn thân mến, qua các Bài Thương Khó của Chúa Nhật Lễ Lá và của thứ Sáu Tuần Thánh này, chúng ta sẽ thấy tất cả  những bất công, đau khổ và những tủi nhục mà Đức Giêsu  đã phải chịu vì t ội lỗi c ủa nhân loại, nhưng đồ ng thời  chúng ta cũng sẽ nhận ra được dung mạo của một Thiên  Chúa từ bi, hay thương xót, chậm bất bình và hết sức  khoan nhân.

Thật vậy, trước những sự bội phản và bạc bẽo của dân chúng, c ủa các môn đệ, của những người mà Ngài  đã yêu thương hết tình… Ngài không trách móc, không  khinh thường, không ghét bỏ các môn đệ hèn nhát; Ngài cũng không lên án ông Phêrô, không kiếm cách trả thù  những kẻ đã tra tấn, hành hạ, nhục mạ và đóng đinh Người  cũng không lên án ông Phêrô, không nguyền rủa những kẻ đã tra tấn, hành hạ, nhục mạ và đóng đinh Người trên thập  giá… nhưng Ngài đã cầu nguyện cho họ: “Lạy Cha, xin  Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm"  (Lc 23:34).

Đức Giêsu Kitô, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy  mãi đến muôn đời (Dt 13:8). Ngài vẫn là Đấng nhân hậu và  từ bi, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt  11:29). Ngài luôn rộng lòng tha thứ và sẵn sàng bỏ qua tất  cả những tội lỗi của nhân loại: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều,  cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18).

Thật vậy, cho dù con  người ta trong đó có bạn và có tôi nữa, có xúc phạm và làm  tổn thương Ngài nặng nề, có trầm trọng, có kinh khủng  mấy đi chăng nữa… chỉ cần chúng ta ăn năn sám hối, nhận  ra lỗi lầm của mình và quay trở về thưa với Ngài giống như  người con hoang đàng khi xưa: “Thưa cha, con thật đắc tội  với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa …” (Lc 15:21), thì Ngài lập tức tha thứ và ôm ấp chúng ta vào lòng từ ái của Ngài. 

Bạn thân mến, nếu hôm nay, bạn nhận ra rằng Đức Giêsu  Kitô là Đấng từ bi, nhân hậu, và bạn tin rằng Chúa không  bao giờ chấp tội của chúng mình, Ngài sẵn sàng tha thứ tất  cả mọi lỗi lầm thiếu sót của chúng ta, thì bạn và tôi hãy  siêng năng chạy đến với Bí tích Hòa Giải. Bởi vì trong và qua Bí tích Hòa Giải, bạn và tôi sẽ cảm nghiệm được sự dịu dàng, nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Xin bạn cũng hãy cầu nguyện cho những anh chị em đang  sống xa nhà Chúa, những người đang nghi ngờ hay đang bị mất niềm tin vào Chúa, nhất là cho các bạn trẻ.

Xin Chúa ban cho họ ơn khôn ngoan, để họ nhận ra rằng Thiên Chúa  là Đấng rất nhân từ và vô cùng kiên nhẫn với những tội nhân “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn  leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20).

Và cũng cầu nguyện,  xin Chúa ban cho họ ơn can đảm, để họ chạy đến với Bí  tích Giải Tội, nhờ vậy họ sẽ được Chúa tha thứ và Ngài sẽ phục hồi sự bình an trong tâm hồn họ. Xin thành thật cảm ơn bạn, và cầu chúc bạn một Tuần Thánh thật bình an, mạnh khỏe và tràn đầy ơn thánh.

Và xin bạn nhớ thứ Sáu  Tuần Thánh ăn chay và kiêng thịt nhé!

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-423: CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ và HY VỌNG CỦA CHÚNG TA

 

Chúa Nhật Lễ Lá là ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kito Suy niệm Lễlá-423


Chúa Nhật Lễ Lá là ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kito dẫn đến cái Chết của Chúa trên thập giá để cứu chuộc muôn dân. Và Chúa đã sống lại đem hy vọng cho loài người.

Cuộc Khổ Nạn, Cực Hình, Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa là những mấu chốt kết hợp tất cả chúng ta lại với nhau thành một Giáo Hội với những thần dân là những Kito hữu trong Tuần Thánh này.

Tin Mừng thánh Mác Cô hôm nay cho chúng ta thấy những ngày giờ cuối cùng đầy khổ nạn của chúa Giêsu nơi trần thế. Đây là câu chuyện với những tình tiết tương phản nhau, không thể không đánh động tâm trí chúng ta. Tuần Thánh là thời gian đặc biệt để chúng ta suy ngẫm nhiều điều thể hiện qua những biến cố đã xẩy ra cho chúa Giêsu. Chúng ta cũng khám phá ra không chỉ những đặc tính của những kẻ đã cố tình làm nhục rồi kết án và giết chết Chúa trước đây, mà cả những gì đang và sẽ giết Chúa. Cái vòng luân lưu giữa những thói hư tật xấu, khủng bố, bạo lực, tàn ác, hận thù, gian dối, oán ghét, nghi kỵ, ghen tương vẫn đang tiếp tục đóng đanh Chúa nơi những người anh chị em huynh đệ của mình, trong gia đình, ngoài cộng đồng, xã hội quê hương đất nước mình và cả nhân loại hiện nay.

ĐẶC THÙ CỦA VIỆC CHÚA CHÚA GIÊSU VÀO THÀNH: CHÚA CƯỠI LỪA 

Theo Mac Cô (Mc 11: 1-10) thì cuộc vào thành Jerusalem của chúa Giêsu đã được làm cho bớt vẻ trọng thể đi nhiều. Theo thông lệ khách hành hương thường đi bộ vào Jerusalem, trừ vua chúa mới cưỡi súc vật, mà là những con vật oai phong như ngựa với đoàn rước đi theo để chứng tỏ mình là đấng quyền uy cao trọng. Chúa Giêsu thì khác hẳn, cũng cưỡi một con vật, nhưng không phải là ngựa quí hùng dũng oai phong mà chỉ là một con lừa con mà người ta dùng để chở đồ.

Chúa Giesu ngồi trên lưng lừa đi vào thành Jerusalem như một ông vua, nhưng không phải “để được phục vụ mà là để phục vụ” như con lừa chở đồ (Mat.20: 28).  Nước của Người không phải nước ở trần thế, được tạo dựng bằng quyền lực oai phong hung dữ, mà vì lòng trắc ẩn thương yêu, đồng cảm và hết lòng xả thân phục vụ mọi người. Con lừa chính là hình ảnh mà tiên tri Zechariah đã nói trước đây cả 5 thế kỷ: “Hỡi con cái Zion! Hãy vui lên, hãy reo vang lên. Hỡi con cái Jerusalem! Trông kìa, Vua các người đang đến trong khải hoàn vinh quang nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…”

Qua cách mô tả của Mac cô về cuộc khổ nạn của chúa Giêsu thì vẻ mặt Chúa Giêsu như buồn rầu lo lắng vì bị bạn bè và các môn đệ bỏ rơi. Chúa đã cam chịu. Chúa không thèm trả lời Giuda là kẻ phản bội Chúa, cũng như Philato khi ông ta chất vấn Chúa. Tổng trấn Philatô đã không cương quyết cứu Người với tư cách một quan Toàn Quyền, đại diện của La Mã, dù biết Chúa vô tội.

Thánh Mac Cô, qua toàn thể Tin Mừng, đã làm nổi bật sự thất bại cay đắng của các môn đệ là đã không an ủi nâng đỡ Chúa Giêsu, lại chẳng hiểu gì ý nghĩa những việc đang xẩy ra cho thầy mình. Một môn đệ trẻ lúc Chúa bị bắt, vì quá sợ hãi đã chạy trốn vào đêm tối không kịp mặc áo quần. Môn đệ này chính là hình ảnh các môn đệ, lúc khởi đầu đã bỏ gia đình bạn bè bà con để theo Chúa. Bây giờ gặp lúc nguy khốn thì bỏ mọi sự, bỏ cả Chúa để thoát thân.

Chúng ta thử nhớ lại những biến cố của Tuần Thánh đầu tiên này. Từ căn phòng Chúa ở đến vườn Giethsemane, từ phiên tòa Philato đến đồi Golgotha, từ thập tự giá đến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn toàn thể thế giới. Người dạy cho chúng ta biết quyền lực thực sự chỉ thấy ở nơi nào có tinh thần phục vụ và lòng quảng đại đối với tha nhân; sự cao cả với lòng khiêm tốn; ước vọng yêu thương và công chính. Đó là những điều sẽ được Thiên Chúa chúc lành và khuyến khích.

CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA VÀ SỰ TRUNG THÀNH

Thánh Mac Cô kể rằng, lúc ấy chúa Giêsu đang ở làng Betania và đến thăm ông Simon bị bệnh cùi, một người đàn bà đến mang theo một bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm đắt tiền, đập bể bình rồi trịnh trọng đổ lên đầu Chúa (Mc 14: 3-9). Mùi thơm lan tỏa khắp nhà, mọi người lúc đó tỏ vẻ bất bình vì cử chỉ phung phí của bà này. Chúa Giêsu đọc được ý của họ, bèn nói đỡ cho bà ta là “bà đã biểu lộ một hành động trung thành và yêu thương thực sự”. Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Bà này đã xức dầu lên người tôi để chuẩn bị cho ngày ướp xác” (Mc 14: 8). Vì lý do đó, chúa Giêsu đã hứa là “bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan truyền đến thì câu chuyện này của bà cũng sẽ được kể lại để mọi người nhớ đến bà” (Mc 14: 9). Người đàn bà này, không kể Đức Maria mẹ Chúa Giêsu, sẽ là người duy nhất được tôn vinh cao cả.

Trong khi các đệ tử và tông đồ Chúa tỏ ra thất bại rõ ràng vì phản bội và bỏ chạy thì người đàn bà vô danh này đã chứng tỏ chí cương quyết, lòng quả cảm, yêu thương và trung thành. Một gương sáng đáng ghi nhớ! Mặc dù bà ta không hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa việc làm có tính ngôn sứ và biểu trưng của bà ta, cũng như thời điểm của hành động của bà, nhưng bà ta đơn giản chỉ ước muốn biểu lộ cho Chúa biết là bà ta thực sự quan tâm, để ý đến Chúa và yêu mến Chúa thật tình.

Đó phải chăng là điều mà mỗi người chúng ta được mời gọi để thực hành trong Tuần Thánh này một cách đặc biệt!  Phải chăng là yêu Chúa Giêsu và chú ý đến Người xuyên suốt qua những biến động bi thảm cuối cùng của bản hòa tấu cuộc đời của Chúa nơi dương thế này, giữa tất cả những tổn thương, thất bại và bội phản của chính chúng ta trong cuộc sống!  Cuộc sống của chúng ta phải giống như bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm quí giá của người đàn bà đã đổ ra tràn lan trên Chúa trong những giờ phút cuối cùng của đời Người nơi dương thế này.

LỜI KẾT: CHÚA CHẾT NHƯNG ĐEM HY VỌNG CHO CHÚNG TA.   

Khi đi đường Thánh Giá, lúc kết thúc đoạn đường tại đấu trường Colosseum ở Rome vào đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói những lời rất cảm động nhưng đầy mãnh lực:

“Ai đây, nếu không phải là Đấng Cứu Thế đã bị kết án, có thể hiểu một cách đầy đủ và trọn vẹn nỗi đau khổ của những người bị kết tội một cách bất công?

“Ai đây, nếu không phải là Vua Trời Đất bị khinh miệt và nhục mạ, có thể đáp ứng được những chờ mong của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ đang sống trong vô vọng và mất nhân phẩm?

“Ai đây, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể biết được nỗi buồn rầu và cô đơn của biết bao nhiêu người không có tương lai đang sống rải rắc trên khắp mặt địa cầu?”

Đó là Đấng Cứu Thế, vị cứu chuộc nhân loại mà chúng ta đang có. Ngài là đấng thực sự thấu hiểu những điều kiện nhân tính của chúng ta. Ngài đồng hành cùng chúng ta và chia sẻ, cảm thông với chúng ta những sầu muộn, cô đơn và khổ đau của chúng ta. Chúng ta đã đáp trả lại loại tình yêu lạ lùng ấy và tình liên đới hiệp nhất thực sự ấy như thế nào? Chúa Nhật Lễ Lá là ngày mở đầu Tuần Thánh Chúa Chịu Nạn, mời gọi chúng ta chấp nhận điều mà thánh Phao Lồ gọi là “Thái Độ của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2: 6-11) trong khi Chúa chịu nạn và chịu chết. Hãy trút bỏ mọi ưóc muốn tư lợi và ích kỷ, mọi sợ hãi và nhu cầu riêng tư của mình vì lợi ích của tha nhân….

Chớ gì chúng ta có thể vươn tới để hàn gắn những vết thương của những kẻ đau khổ, an ủi những kẻ thất vọng ở quanh ta mặc dù bản thân chúng ta là những kẻ phản bội và chối từ Chúa.

Trong lúc những nghi lễ phụng vụ của Tuần Thánh diễn ra thật cảm động thì chúng ta có được những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống với niềm vui và hy vọng, mặc dù bị phụ rẫy, xỉ nhục và đau khổ. Trong chiều hướng đó, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sẽ trở thành lý do để chúng ta Hy Vọng và có những giây phút tràn đầy hồng ân khi chúng ta đi tìm kiếm Nước Chúa trong đời sống chúng ta, cho dù sự tìm kiếm đó đơn độc và đau thương.

Tuần Thánh quả là một nguồn an ủi và một xác tín rằng chúng ta không phải là những kẻ cô đơn. Chúa đã cứu chúng ta và hàng ngày đang đồng hành với chúng ta. Chúa đã đem lại hy vọng cho chúng ta. Chúa đã chết để cho chúng ta được sống.

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-424: VINH QUANG VÀ KHIÊM HÈN

 

Cuộc kiệu lá mở màn cho Tuần thánh, tuần đầy đặc các cử hành nhất và là tuần mãnh liệt nhất Suy niệm Lễlá-424


Cuộc kiệu lá mở màn cho Tuần thánh, tuần đầy đặc các cử hành nhất và là tuần mãnh liệt nhất bởi tất cả những gì nó giúp chúng ta sống lại. Không những sống lại theo nghĩa nhớ lại: “kỷ niệm”. Đó còn là đi vào trong chính các biến cố như chúng đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem, để nhận được các ơn sự sống mà chúng chất chứa lưu giữ. Tuần thánh là thời gian tiêu biểu nhất của việc tiếp xúc mầu nhiệm với các biến cố cứu rỗi chúng ta như thế, những biến cố làm nên “phụng vụ” và “bí tích” của chúng ta.

Chúng ta sẽ ở trong đoàn lũ đi đón Đức Giê-su ngồi trên lưng lừa và la lớn: “Hoan hô!”. Chúng ta sẽ có mặt tại nhà Tiệc ly, trong cuộc Khổ nạn và cuộc Sống lại. Suốt tuần này, sẽ có nhiều sốt sắng và nhiều xúc cảm vì phụng vụ rất đẹp, rất bi thảm. Nhưng cái cần đánh thức nhất sáng ngày Lễ Lá, đó là đức tin của chúng ta. Chỉ đức tin mới có thể nắm bắt thực tại mà phụng vụ biểu dương cử hành.

Mầu nhiệm của Đức Giê-su và mầu nhiệm của mọi cuộc sống Ki-tô hữu xuất hiện như một sự pha trộn thường xuyên giữa vinh quang và khiêm hèn. Chính thánh Gio-an là người diễn tả Vinh quang hay hơn hết, thế nhưng bài Thương khó của ông mở đầu bằng việc Đức Giê-su hết sức khiêm tốn rửa chân cho môn đệ. Trong một đoạn ngắn nhanh như chớp, thánh Phao-lô đã trình bày quỹ đạo của mầu nhiệm Đức Giê-su và tất cả những gì mà Tuần thánh sắp giúp chúng ta sống như thế này: ”Đức Giê-su Ki-tô, bản thân vốn là Thiên Chúa, đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân tôi đòi... Người đã hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi phải chết, mà chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2,6-9).

Như hai tác giả Nhất lãm kia, qua cách trình bày sống động quen thuộc với mình, trong trình thuật Khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem, Mác-cô đã ghi nhận sự pha lẫn giữa vĩ đại và khiêm hèn ấy mà chúng ta phải không ngớt suy niệm để biết Đức Giê-su và để làm Ki-tô hữu.

Trước hết, như một nhà thấu thị và một ông chủ, Đức Giê-su bảo hai môn đệ: ”Các anh đi vào làng... sẽ thấy ngay một con lừa chưa ai cưỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây... ai hỏi thì nói là Chúa cần dùng”. Rồi bừng lên lời sấm vĩ đại: ”Triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta đang tới”. Đây đúng là giờ của Đấng Mê-si-a-Quân vương, các tiếng Ho-san-na (hoan hô) sắp vang dội, với kiểu nói rất đặc thù: ”Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” Giờ đây, Đức Giê-su có thể chấp nhận được tung hô như Đấng Mê-si-a: cái Người sắp sống trong đau khổ và trong vinh quang, cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người, sẽ mạc khải (song chỉ với đức tin!) Người là Đấng Mê-si-a nào và mang đến ơn cứu rỗi nào.

Nhưng trước khi nói đến uy quyền Chúa tể như thế, Mác-cô đã đề cập tới thái độ khiêm tốn rồi: ”Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên”. Không một tướng lãnh chiến thắng nào thời ấy đã nghĩ tới chuyện như vậy, nhưng Đức Ki-tô của ngày Lễ Lá sẽ thế nào nếu diễu hành trên một chiến mã? Con lừa dễ giúp chúng ta hơn trong việc đi vào các tư tưởng khó khăn: Đức Giê-su Ki-tô vừa thần linh vừa khiêm hạ, vừa là quân vương vừa là tôi tớ, Người lôi chúng ta trên nhiều con đường vĩ đại và đơn hèn. Ai chỉ nắm một trong hai điểm đó thì khó đi vào Tuần thánh và đi vào cuộc sống môn đệ. Đứng đằng sau Đức Ki-tô, chúng ta chẳng phải là không ra gì, nhưng chút kiêu căng nhỏ nhất cũng làm chúng ta hư hỏng. Đức Vua chúng ta có đó, trên một con lừa ; Người khiêm tốn và hiền lành, sung sướng được bao quanh bởi những cận thần là các ngư phủ hèn mọn, sung sướng được bước đi trên tấm thảm của những người nghèo và trong tiếng hô của đàn trẻ mà Người luôn ưu ái. Hỡi kẻ giàu, anh không bị xua đuổi đâu, nhưng nếu đến dự Lễ Lá, anh hãy mang theo một trái tim khiêm hèn.

Vậy là giữa lòng cuộc khải hoàn, chúng ta vẫn được nhắc nhở về sự khiêm tốn của Ngôi Lời nhập thể. Rồi chúng ta sẽ xuống tận đáy ô nhục: một kẻ bị kết án thập giá. Để cuối cùng lên lại đỉnh cao với thánh Gio-an: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28)

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-425: CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊ-SU

 

Chúng ta sắp nghe lại và đọc lại các trình thuật về cuộc Khổ nạn, đó là cách suy niệm hay nhất Suy niệm Lễlá-425


Chúng ta sắp nghe lại và đọc lại các trình thuật về cuộc Khổ nạn, đó là cách suy niệm hay nhất trong các ngày Tuần thánh. Chúng ta có 4 trình thuật, chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin và tình yêu mình với những bài chiêm niệm khác nhau: Mát-thêu (năm A), Mác-cô (năm B), Lu-ca (năm C), Gio-an cho ngày Thứ Sáu thánh mỗi năm. Dĩ nhiên, chúng ta biết rõ câu chuyện khủng khiếp này, và mỗi lần như thế, trái tim chúng ta lại thổn thức. Đức Giê-su đã đau khổ đến vậy sao? Nhưng trong mối thương cảm này, nhiều câu hỏi vẫn len vào, khó gạt ra nổi. Tại sao phải cần những đau khổ và cái chết ấy? Chúng cứu ta cách nào?

Chúng cứu ta, chẳng phải với danh nghĩa đau khổ và cái chết, nhưng vì chúng là mức cùng của cả một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Đức Giê-su chiến đấu để cho biết tình yêu Thiên Chúa và để thiết lập một nền công lý tình yêu đích thực giữa nhân loại đã khiến các thủ lãnh tôn giáo và rốt cục cả toàn dân đứng lên chống lại Người.

Trên cây gỗ, Đức Giê-su cho ta thấy thế nào là yêu thương bằng mọi giá và đến tột độ. Người đã không sinh ra để đau khổ, nhưng là để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này dẫn đã Người đến đau khổ, nhưng thập giá chẳng phải là trường dạy đau khổ mà là trường dạy yêu thương.

Đức Giê-su dạy ta những gì trong cuộc Khổ nạn? Dạy rằng tình yêu của Người mạnh mẽ lẫn tự do, và ta chớ nên ở quá xa Người trên con đường này. Trước những lời mời gọi yêu thương, ta thường quá để mình bị kiêu căng phong tỏa và sợ hãi làm tê liệt, vẫn cứ đui điếc do mãi nghĩ tới chính mình. Đức Giê-su thì đã có thể nghe hết mọi lời mời gọi vì đã chẳng bao giờ màng đến lợi ích riêng. Người đã chẳng thối lui trước khó khăn yêu thương nào, trước thái độ bất thông cảm nào, trước mối đe dọa nào. Người đã thấy hận thù dâng cao mà vẫn tiếp tục tiến tới. Làm sao không xấu hổ về các kiểu tránh né của ta? Trên thập giá, Người đã nói với ta rằng sức mạnh lớn lao nhất của một con người, đó là có thể yêu thương.

Nhưng nếu các khó khăn yêu thương (cũng như các niềm vui yêu thương!) đối với ta không xa lạ gì, ta vẫn chưa biết sinh lực của tình yêu mấy. Trong cái chết của Đức Giê-su, sinh lực này lớn đến độ đã bùng vỡ thành sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó từ nay sẽ xảy ra chuyện phi thường mỗi khi có một con người muốn yêu và có thể yêu như Đức Ki-tô.

Thường ta không nghĩ đủ tới tất cả những gì mà cuộc Khổ nạn đã khiến và còn khiến ta có thể làm được. Ta quá sa đà trong những chiêm niệm kiểu ái khổ bằng cách phân tích chi tiết các đau khổ của Đức Giê-su đến cực độ đang khi đáng lẽ phải thấm đẫm tình yêu và sự can đảm của Người. Đây không phải là nơi rên rỉ thương xót Đức Giê-su lẫn chính mình, mà là nơi nghe tiếng gọi hãy anh hùng và sáng suốt: tình yêu phải trả giá như thế đó, nhưng trong đau khổ ấy, nó giải phóng biết bao sinh lực!

Còn lại việc thử sống những gì óc sáng suốt của ta đã khám phá. Một cuộc hẹn gặp với Đức Giê-su trên thập giá vẫn vô ích nếu không đi đến những kinh nghiệm đức tin vào Người như Đấng Cứu thế. Nếu tin rằng các đau khổ của Người đã ban cho ta mãnh lực sống tất cả, thì hãy đi đến thập giá để mang tại đấy một sự bất lực, để giật tại đấy một chiến thắng. “Lạy Chúa Giê-su, Chúa thấy đó, Chúa đã chẳng chết vô ích tí nào.”

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-426: Bị Bỏ Rơi Và Kêu Lớn Tiếng

 

Bài Thương khó theo thánh Mác-cô là bài Thương khó của Kẻ bị bỏ rơi. Đức Giê-su bị bỏ Suy niệm Lễlá-426


- Bài Thương khó theo thánh Mác-cô là bài Thương khó của Kẻ bị bỏ rơi. Đức Giê-su bị bỏ rơi bởi tất cả mọi người: đám đông hân hoan ngày rước Lá, các môn đệ, thậm chí cả Phê-rô, thậm chí cả Chúa Cha nữa.

Chưa bao giờ Đức Giê-su cảm thấy không được hiểu và phải cô đơn đến thế. Người bị phó mặc cho bọn lính hung hãn (Con Thiên Chúa bị tát tai, khạc nhổ vào mặt!) và bị các thủ lãnh tôn giáo coi như tội phạm. Người xuống tận đáy nỗi cô đơn của con người. Đã từng nói, đã từng đến để nói với chúng ta, nay Người im lặng. Hai ghi nhận của Mác-cô thật là thống thiết: “Ông không đáp lại một lời sao?” (Mc 14,60), viên thượng tế hỏi. “Ông không trả lời gì sao?” (Mc 15,4), Phi-la-tô nói.

Đức Giê-su im lặng. Có nhiều lúc Người chẳng còn gì để nói, chẳng còn gì để nói với chúng ta. Người đã cho thấy mình là ai, đã cho thấy con đường ta có thể bước lên để theo Người. Nếu chúng ta không theo Người, thì Người có thể nói với chúng ta điều gì nữa? “Chúa không trả lời gì con sao?” - ”Không! Con đã đi quá xa quá rồi. Người ta chỉ gần Thầy nhờ những hành vi yêu thương và can đảm.”

Nếu chúng ta chỉ theo Đức Giê-su bằng cách kính cẩn nghe các lời của Người hay hùng hồn rao giảng các lời đó, mà chẳng đem ra thực hiện, thì chúng ta thuộc số những kẻ bỏ rơi Người. Một sự thật phũ phàng mà chúng ta từ chối đối diện. Việc suy niệm cuộc Khổ nạn này phải đặt chúng ta lại trước đòi hỏi căn bản của Tin Mừng: ta chỉ “theo” Đức Giê-su khi làm những gì Người đòi hỏi.

- Bài Thương khó về những sự bỏ rơi và sự thinh lặng đáng sợ của Đức Giê-su như thế cũng là bài Thương khó về ba tiếng kêu.

“Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” – “Phải, chính thế” Đức Giê-su la lên, bẻ gẫy bí mật về Mê-si-a tính của Người và về vinh quang của Người. Bị trói, bị hạ nhục, rốt cục Người bộc lộ sự phi thường: “Các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,61-62). Nơi ấy và trước các tư tế ấy, điều này chỉ có thể được coi như một lời phạm thượng. Nhưng chúng ta thì sao? Lúc ấy, chúng ta nhìn Người với niềm tin nào?

Đức Giê-su kêu to trên thập giá niềm tin tưởng của Người: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con”, chính khi chiến đấu với cảm thức bị bỏ rơi khủng khiếp hơn cả: “Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Đây là lời quý giá Người ban cho những ai rơi xuống những vực thẳm như vậy. Nếu đã không đi xuống tận đó, thì làm sao Người là Em-ma-nu-en đã được hứa, vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta? Lạy Chúa Giê-su, cùng với Chúa, con có thể kêu lên là đã bị bỏ rơi; nhưng cùng với Chúa, con cũng muốn nói “Lạy Thiên Chúa của con” nơi đâu con tưởng không còn có thể nói thế được nữa.

Tiếng kêu thứ ba trong cuộc Khổ nạn này là tiếng kêu mà Mác-cô lôi chúng ta đến nghe ngay tự đầu Tin Mừng của ông. Nói “Ngài là Con Thiên Chúa!” không phải với con người làm mê mẩn quần chúng, con người biến hình vinh hiển, nhưng là với kẻ bị đóng đinh thập giá này. Người đã chết cách sao đó khiến viên bách quản đã phải thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”. Chính mỗi độc giả của Tin Mừng phải nói điều đó cuối bài Thương khó này. Nhưng một lần nữa, nói lên điều đó cũng vô ích nếu việc ấy chẳng biến đổi chúng ta gì cả. (André Sève)

Trong một trại tập trung Đức Quốc xã Thế chiến Thứ hai, có giam giữ nhiều tù nhân Do-thái. Hôm nọ, vì vi phạm một lỗi nhỏ, một tù nhân Do-thái đã bị tra tấn và rồi bị treo cổ trước mắt các bạn đồng tù của mình, trong sân tập họp của trại. Đang lúc ai nấy kinh hoàng chứng kiến cảnh tượng thê thảm và tàn bạo đó, thì từ giữa đám tù nhân, vang lên một tiếng kêu lớn vừa chua xót vừa phẫn nộ: “Lạy Thiên Chúa Gia-vê, Ngài ở đâu, sao chẳng ra tay cứu kẻ bất hạnh này?” Ai nấy chưa kịp nhận ra kẻ đã thốt lên câu đó, thì đã vang lên một giọng nói khác trả lời: “Thiên Chúa đang quằn quại trên giá treo cổ trước mắt chúng ta!”

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-427: CON LỪA

 

Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc Suy niệm Lễlá-427


Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần. Cả người chiến thắng và những người tham dự vào cuộc chiến thắng này rất đơn sơ, khiêm tốn, hiền lành, và nhẫn nhục.

Trong cuộc khải hoàn ấy không thấy bóng dáng những nhân vật quan trọng đạo, đời. Không có những diễn văn hùng hồn. Không có những màn trình diễn, duyệt binh rầm rộ với các chiến mã hay đoàn xe hộ tống. Phương tiện duy nhất được dùng là một con lừa con. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ ngài: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các anh sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ, các con hãy mở dây mà dẫn về.” (Luca 19:30). Nhưng tại sao lại là con lừa con?

Hồi còn nhỏ, mỗi lần phá phách, nghịch ngợm mà mẹ bảo không nghe thì thường được nghe câu nói: “Mày là con lừa. Nhẹ không ưa, ưa nặng”. Có nghĩa là bảo nhẹ mà không nghe, liệu muốn bị đánh đòn không đây?! Con lừa ưa nặng. Như vậy là bản tính của nó hay tự nó muốn nặng. Có lẽ là do bản tính của nó hơn là nó muốn nặng. Do bản tính “ưa nặng” nên nó còn là con vật im lặng, chịu đựng và nhẫn nại. Không ồn ào, không xông xáo, và cũng không hiếu chiến. Một con vật như vậy được dùng để tượng trưng cho sự nhẫn nhục, chịu đựng và hiền hòa của người đang cỡi trên lưng nó, và đoàn người đi theo người đó là một điều hết sức ý nghĩa.

Người ngồi trên lưng lừa:

Chúa Giêsu, đấng đang tiến vào Giêrusalem hôm nay với những tiếng tung hô tưng bừng, và niềm vui hớn hở của những kẻ theo ngài: “Hoan hô Con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời”, cũng chính là đấng mà ít ngày sau giống như con lừa, vừa hiền từ, câm nín, và vừa chịu đựng.

Hình ảnh của Chúa Giêsu trong những ngày thuộc Tuần Thương Khó ngập tràn những nét tiều tụy, đau thương, và thống khổ.

Quang cảnh ở vườn Giệtsimani bị các môn đệ bỏ rơi vì mê ngủ, bị Giuđa phản bội trao nộp, bị dẫn đến dinh thượng tế và dinh tổng trấn để bị tra khảo. Bị chế nhạo bởi Hêrôđê. Và bị kết án bất công bởi Philatô. Nhất là sau cuộc tra tấn dã man ở dinh tổng trấn, vai vác thập giá lên Núi Sọ, và chịu đóng đanh ở đó. Sau cùng còn bị chính Chúa Cha từ bỏ: “Eli, Eli, lema sabachthani?” - Lạy Chúa Trời tôi. Lạy Chúa Trời tôi, sao nỡ bỏ tôi - (Mat 27:46).

Ðến đây chúng ta mới thấy rằng tại sao Chúa Giêsu không dùng ngựa. Chúa ngồi trên một con chiến mã trông sẽ oai phong, lẫm liệt, và giống ông vua hơn. Nhưng có lẽ đấy cũng là điều mà ngài muốn chúng ta cần phải suy niệm khi muốn tìm gặp một hình ảnh trung thực của ngài trong Tuần Thánh cũng như trong đời thường.

Chúng ta sẽ không thấy ngài xuất hiện vẻ vang, oai phong, và lẫm liệt. Thay vào đó là hình ảnh một Giêsu bị đánh đòn, bị nhục mạ, đầu đội mão gai, và bị kết án. Một Giêsu vai vác thập giá lảo đảo trên đường lên Calve để chịu đóng đinh, và chịu chết! Hình ảnh ấy cũng được nhìn thấy qua những kẻ nghèo khổ, bệnh tật, bị trù dập và bị hất hủi. Những hình ảnh mà qua cặp mắt đức tin, chúng ta khám phá ra ngài. Ngài muốn chinh phục chúng ta bằng tình yêu, bằng lòng nhân từ, và bằng sự khiêm tốn. Ngài không chiếm đoạt, không chinh phục lòng tin của con người bằng những vẻ huy hoàng và quyền lực, nhưng bằng một nội tâm nhân hậu và hiền lành. Khi con lừa được dùng thay cho con ngựa, điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn làm trọn lời Thánh Kinh trong Cựu Ước: “Hãy nói với thiếu nữ Sion, này đây vua các người đến, nhẹ nhàng cỡi trên lưng lừa, là lừa con, con của lừa mẹ” (Mátthêu 21:5; Zechariah 9:9). 

Người theo đón tiếp:

Đọc kỹ những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem, chúng ta không thấy bộ mặt lớn nào trong giới chính quyền và giáo quyền xuất hiện để tiếp đón ngài hôm đó. Ngược lại, chỉ có những người đơn sơ, tầm thường và con nít. Nhưng khi ngài bị bắt, bị trao nộp, thì những bộ mặt lớn ấy lại xuất hiện. Thượng tế Anna và Caipha, vua Hêrôđê, tổng trấn Philatô. Điều này có nghĩa là những kẻ nhận ra Chúa, theo Chúa, đón tiếp Chúa, và thực sự là thế, là những kẻ khiêm nhường, bé mọn, và đơn sơ. Ngược lại, những kẻ quyền thế, cao sang, đại diện cho thế giới tội lỗi, kiêu căng, thù hận, thế giới vật chất và phù phiếm, những người này không nhận ra Chúa, không theo Chúa, và không đón tiếp Chúa. Ngược lại, họ lại đang sẵn sàng chờ đợi, để khi có dịp là ra mặt trấn át, bắt bớ và thủ tiêu ngài.

Do đó, Chúa không muốn chúng ta tìm Ngài giữa những ồn ào, huyên náo, giữa những rừng cờ phất phới, giữa những tiếng nhạc quân hành, những vó ngựa reo vang, và những đoàn quân chiến thắng. Ngài không ở giữa khuôn mặt vênh váo và tự đắc vì chiến thắng. Ngài muốn chúng ta tìm Ngài giữa những cảnh sống đơn sơ, nghèo hèn, hoặc bị bắt bớ, tù đày và ức hiếp. Ngài muốn chúng ta tìm ra Ngài qua những anh chị em nghèo, túng, thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật và lam lũ. Những người mà khi chúng ta làm những việc như cho một bát nước, một chén cơm, một manh áo, hoặc những lần chúng ta nở một nụ cười chào thăm, là chúng ta làm cho chính Chúa: “Ta bảo thật, khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những anh em hèn mọn nhất của ta là làm cho chính ta” (Mt 25:40).

Con lừa cho Chúa dùng:

Lừa được nhắc tới hơn 140 lần, và khiến nó trở thành con vật được nói đến nhiều nhất trong Thánh Kinh. Nó thường xuyên được dùng tượng trưng cho sự khiêm tốn, hòa bình, và phục vụ. Theo truyền thống, ít nhất nó cũng được dùng trong cuộc hành trình về Belem của Thánh Giuse và Ðức Mẹ. Nó được nằm kề bên máng cỏ trong đêm Chúa Giáng Trần để cùng với đoàn vật hà hơi ấm cho Chúa Hài Nhi giữa đêm trường lạnh giá. Và hôm nay, nó lại được Chúa dùng để vào Thành Thánh Giêrusalem. Nhưng ở bất cứ hoàn cảnh nào, nó vẫn là con vật nhẫn nhục, chịu đựng, và không ồn ào.

Do đó, hình ảnh của nó cũng được dùng để so sánh về thái độ chấp nhận và hy hiến của Chúa Giêsu từ khi ngài cỡi lên mình nó, cho đến lúc ngài tắt thở trên thập giá. Đó cũng chính là hình ảnh mà tôi cần phải đem ra áp dụng trong đời sống tâm linh của mình. Tôi phải khiêm tốn, đơn sơ, nhẫn nhục, chịu đựng, và sẵn sàng để Chúa dùng. Vậy liệu tôi có thể là con lừa để ngài cỡi và để tôi đem ngài đến với bất cứ ai, bất cứ đâu mà ngài muốn không?! mục lục

Trần Mỹ Duyệt

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-428: CỐ LÊN, ĐỪNG SỢ


Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

 

Có phải người thời xưa độc ác, hung dữ, do hoàn cảnh xã hội lúc đó chưa văn minh hiện đại, hay Suy niệm Lễlá-428


Có phải người thời xưa độc ác, hung dữ, do hoàn cảnh xã hội lúc đó chưa văn minh hiện đại, hay còn nhiều giới hạn ? Chắc không phải chỉ những ai sống bậc hôn nhân gia đình, mới cần được dồi dào tình yêu và thuỷ chung ? Thực tế cho thấy: giầu nghèo, đạo đức, thánh thiện, khờ hay khôn, tất cả đều sợ bị phản bội, bất trung. Mặt trời mọc ở phương đông, mặt trời lặn ở phương tây, đó là chân lý. Xã hội thời nào cũng có người tốt kẻ xấu, ấy vậy mà Đức Giêsu tự ban đầu, đã có ý giúp tất cả mọi phần tử biến đổi tâm tính, hầu trở nên thánh. Khao khát được biết người, biết ta, làm việc bác ái, sống tình sống nghĩa, chính là ơn gọi trở nên con người mới, mang lại niềm vui hạnh phúc cho mình và tha nhân. Cố lên, đừng sợ, mãi mãi là những lời động viên cần thiết, giúp nhau vượt qua khó khăn gian khổ, hoàn thiện đời mình, nên xứng hợp với tình yêu được ban tặng.

Tình yêu là thứ ngôn ngữ đặc biệt: qua nụ cười, ánh mắt, người ta đủ cảm nhận về sự mộ mến nhau ít hay nhiều, dù họ không cùng chung sắc tộc mầu da. Tất cả vì yêu, cố lên, đừng sợ, yêu là chết trong lòng một ít (Xuân Diệu). Các bạn trẻ rất thực tế, khi nói: trong tình yêu không cần phải nói dài dòng, chỉ cần hiểu nhau. Đức Giêsu vì yêu đã đến thế gian, vì yêu nên không lùi bước trước khổ đau thập giá, yêu đến cùng, cho dù đi Giêrusalem là nguy hiểm chết người. Cố lên, đừng sợ, tình yêu của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ở trong Đức Giêsu, tình yêu của Đức Giêsu hiện diện trong hành trình của mỗi người, khi ta sống niềm tín thác cách trọn vẹn. Dù tài giỏi đức độ hoặc khờ dại đầy thiếu xót, người ta vẫn cần được yêu thương. Hành trình đời người là hành trình đi Giêrusalem, hoàn tất ơn gọi đời mình, ai cũng cần phải được có sức mạnh của tình yêu.

Cố lên, đừng sợ: ai cũng nói tương lai luôn mở rộng đón bạn, nhưng nếu không nắm bắt được hiện tại, tương lai của bạn sẽ chẳng có gì đâu ! Mọi người đến nhà thờ tham dự vào phụng vụ đều là công giáo, dù không bán Thầy, không chối Chúa, nhưng có ai dám tự mãn ta là thánh ? Tất cả người tội lỗi, thánh thiện, đều có cơ hội để nhận ra Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương, có thể niềm tin Đấng mời gọi ta cùng đi Giêrusalem còn lơ mơ ! Không phải một số người cứng lòng tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, mà ngay cả các môn đệ sống sát gần bên Thầy, các ông còn hoài nghi, khó hiểu, tại sao Thầy có quyền phép mà lại im lặng trước sự dữ ? Hãy cố lên: hạnh phúc không phải có sẵn, mà luôn xuất phát từ hành động của bạn. Đừng sợ, tình yêu và sự trung thành không phải chỉ cần cho bậc là cha mẹ, vợ chồng, bởi vì bình an, niềm vui, chính là cơ hội cho mọi thành phần đang sống niềm tin nơi hiện tại này.

Cố lên, đừng sợ: sự khác biệt nơi người thành công với kẻ thất bại không hệ tại ở sức mạnh, hiểu biết, bằng cấp, mà ở lý trí. Tiếng hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi cũng từ những con người ấy lại hô vang “đóng đinh nó vào thập giá” ! Cố lên, Đức Giêsu có nghe, có cảm nhận được tình liên đới hiệp thông khích lệ của Chúa Cha trong tình yêu Chúa Thánh Thần không ? Vào buổi chiều hôm ấy, đang khi cùng các môn đệ ăn tiệc vượt qua, Đức Giêsu nói: “Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta” ! Cố lên, đừng sợ: sự dữ, sự xấu, ác tâm ác đức, tạo nên khổ đau, sự chết, nhưng hãy vững tin, “Thầy đã thắng thế gian”. Trong tình yêu không có đúng sai, chỉ là ai yêu nhiều hơn thôi ! Bằng tình liên đới hiệp thông, Đức Giêsu vẫn nói lời chân tình với từng người chúng ta: con người có sinh ắt có tử, nếu bạn còn đang sống, hãy sử dụng phương thế tốt nhất để sống tiếp, thế là đủ !

Cố lên, đừng sợ, còn là lời nhắc nhớ: Thầy không van xin Chúa Cha sai vệ binh thiên thần đến cứu, Thầy im lặng, cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm không biết, quyết không xuống khỏi thập giá, dù Thầy có tự do. Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân: hãy theo Thầy bước vào tuần thương khó, tiến vào tam nhật vượt qua, cố lên, đừng sợ, chính tình yêu và sự thông hiệp sẽ giúp ta nhận ra lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân. Chắc không phải người thời xưa mới thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không loại Giuđa, Phêrô, và một số các môn đệ nhút nhát, để thành lập nhóm 12 tài giỏi đức độ hơn ? Theo người giầu, làm môn đệ “vua tài, tướng giỏi”, dễ hơn làm học trò Đấng dang tay trên thập giá, chết vì yêu. Cố lên: không phải xinh đẹp, tài giỏi là hạnh phúc, người hạnh phúc là người đủ niềm tin để được yêu thương và biết sống yêu thương.

Người ta có kẻ ngụ ngôn bác gà trống và chú chó như sau: bác gà nói, sao chú sướng thế, cứ luẩn quẩn ở nhà, ăn rồi ngủ ? Chú chó trả lời, ấy là bác nghĩ vậy thôi, mọi người đều nói bác hạnh phúc nhất, ban ngày tơn tơn rong chơi, tối về ngủ nghỉ thẳng giấc ! Đứng núi này trông núi khác, thực ra: mỗi nhà mỗi cảnh, đúng là sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi kiểu. Theo Đức Giêsu có ai là không khổ đau, thập giá, ai chẳng có sứ mạng riêng, ai mà không có hoàn cảnh đáng thương ? Đức Giêsu ở trên cao, ở trên cây thập giá, không phải để nhìn rõ tội lỗi của mỗi người, ở trên cao để minh chứng tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ở trên cao, Chúa vẫn hô vang, nói lớn: các bạn cố lên, đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian, thắng sự chết, các bạn cũng sẽ thắng đau khổ, tội lỗi và sự chết.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-429: GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG


Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý Suy niệm Lễlá-429


Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần Vinh Quang Phục Sinh với Người.

Đức Giêsu là mẫu gương khiêm nhường thực thi thánh ý Chúa Cha, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã tường thuật lại: Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.

Đức Giêsu đã trở nên hiền lành và khiêm nhường, để nâng chúng ta lên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta đã nói: Người là Đấng hiền lành, đã vượt lên trên phía mặt trời lặn, tức là lên trên thân phận yếu hèn của chúng ta. Người vui mừng vì trước kia đã tỏ cho chúng ta thấy Người hiền lành như thế, nên đã tới chung sống với chúng ta, để nhờ dây thân thích với chúng ta, Người nâng chúng ta lên và đưa chúng ta đến với Người.

 Đức Giêsu là Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận tất cả, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia cho thấy: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng đã cho thấy Đức Giêsu đã đi đến cùng của mầu nhiệm tự hủy: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận mọi sỉ nhục, khinh chê, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy sự tự khiêm tự hạ của Người: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu.

Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Quyết định của Chúa, ai dò cho thấu. Đường lối của Người, ai theo dõi được. Tại sao Chúa lại chọn cách thức khiêm nhường, tự hủy, để biểu tả tình yêu của Người? Đây là một mầu nhiệm. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa để vào thành thánh Giêrusalem. “Ngựa” được dùng để chiến đấu ngoài sa trường, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, oai hùng, còn “lừa” được dùng để chỉ sự khiêm nhường, ôn nhu. Đức Giêsu đích thực là vị Vua Hòa Bình, mang bình an đến cho nhân loại. Noi gương Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta hãy lấy hết lòng khiêm nhường, trí khiêm hạ, và hoàn toàn khoét rỗng chính mình, để dọn đường: đón Đức Giêsu đi vào tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết cởi bỏ những chiếc áo, đính đầy những quyến luyến lệch lạc của thú vui trần thế, để mặc lấy Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận bị lột trần trụi trên thập giá, để che đậy sự tủi hổ mà tội lỗi đã mang lại cho chúng ta. Ước gì được như thế!

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-430: SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cử hành biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào thành Suy niệm Lễlá-430


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cử hành biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, đồng thời với tư thế sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết vì chúng ta.

Theo lời Thiên Chúa hứa, dân Israel từng ngày mong chờ hoàng tử nhà Đavít đến giải thoát họ khỏi ách đô hộ của đế quốc. Khi Chúa tiến vào thành thánh, dân chúng đã nhiệt liệt tung hô: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng lừa”, dân chúng thì “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy”. Đối với họ, ngày giải phóng đã đến, vị anh hùng đã xuất hiện.

Thế nhưng Đức Giêsu vào thành không phải với phong thái của vị tướng oai phong hiển hách ngồi trên lưng chiến mã, nhưng lại ngồi trên lưng lừa, là hình ảnh của một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm nhường. Đây là hình ảnh đã được tiên báo bởi ngôn sứ Dacaria: “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…” (9, 9-10).

Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác, và cũng không mang ý nghĩa giải phóng theo kiểu người Do Thái chờ mong. Ở đây, hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ đúng là thích hợp với câu tung hô “Hôsanna!” theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’. ‘Cứu chúng tôi’ không phải bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, nhưng “cứu chúng tôi cho khỏi mọi sự dữ”, bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến… hiền hậu ngồi trên lưng lừa”. Thật vậy, đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là “thánh giá”, nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, “yêu mến cho đến tận cùng” (Ga 13,1). Cuộc đời tràn ngập đau khổ nên Phật giáo coi “Đời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng Đức Giêsu không tránh khổ, cũng không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.

Phụng vụ Lễ Lá được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó, cho ta thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình, cũng là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, vì Ngài đến thế gian là để thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Dt 10,9), để cứu độ nhân loại. Nhưng rồi Ngài cảm thấy chính Cha dường như cũng vắng bóng: “Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”. Ðức Giêsu không chỉ đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn, mà còn bị hành hình một cách ô nhục, tan nát cả tấm thân: đầu bị quấn mão gai nhọn để làm ông vua hề; khuôn mặt thánh thiện bị tát tai và khạc nhổ; tấm thân ngời sáng bị phơi ra cho những trận roi cầy nát; đôi bàn tay thi ân giáng phúc bị co quắp dưới những mũi đinh đóng chặt; đôi bàn chân đi rao giảng Tin Mừng cũng bị đóng cứng; Đấng trong sạch vô ngần bị lột áo quần phơi mình trần ra nhục nhã. Không còn gì hãi hùng hơn mà một con người có thể chịu. Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế vì con người và cho con người.

Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của loài người chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.

Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy cảm nhận cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Chúa trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau để thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.

Cầu nguyện

Lạy Chúa! Chúa đã cho con biết,
nguyên nhân của sự dữ bởi loài người,
khi dùng tự do để phạm tội,
ngược lại đường lối của tình yêu.

Vì tội lỗi mà có đau khổ và sự chết,
như hậu quả của vòng vây nghiệp chướng,
khiến cuộc đời mang nặng những sầu thương,
và do đó đánh mất cả thiên đường.

Sự dữ có mặt ở mọi nơi mọi thời,
hiện hữu dưới mọi hình thức gọi mời,
luôn khơi dậy từ ham muốn của lòng người,
tàng ẩn ngay trong những thứ đẹp tươi.

Sự dữ khiến nhiều người đặt câu hỏi:
Nếu Thiên Chúa toàn năng,
sự dữ sao lại có?
Nếu Thiên Chúa là tình yêu,
sự toàn năng của Người có hay không?

Chúa Giêsu đã trả lời trên thập giá:
quyền năng của Thiên Chúa là tình yêu,
khi trao hiến Con Mình cho nhân loại.
để đền thay sự bại hoại của gian trần,

Sự dữ hay tội lỗi cũng chính là thách đố,
đều có chỗ trong chương trình tạo dựng,
để con người có cơ hội mà minh chứng,
lòng thành tin hay bất tín của mình.

Xin cho con sức mạnh lòng yêu mến,
để dẹp tan những bóng tối tội đời,
những ích kỷ kiêu căng và gian dối…
để tim con từ đây được biến đổi,
trọn cuộc đời để phụng sự Chúa thôi. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-431: TÌNH YÊU LÀ MINH CHỨNG


Bông hồng nhỏ

 

Chiều nay, Thầy Giêsu đang ở làng Bêtania. Làng quê nhỏ bé ấy là một làng quê bình yên và Suy niệm Lễlá-431


Chiều nay, Thầy Giêsu đang ở làng Bêtania. Làng quê nhỏ bé ấy là một làng quê bình yên và rất đỗi thân thương. Nơi đây là điểm dừng chân quen thuộc của Thầy Giêsu và các môn đệ sau những ngày rong ruổi rao giảng Tin Mừng đây đó.

Chiều dần buông. Nhà ông Simôn Cùi đã đầy thực khách. Khách khứa đã đông đủ quanh bàn tiệc. Thầy Giêsu ngồi dùng bữa với họ. Đang dùng bữa, có một người phụ nữ đến. Chị mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, đây là thứ dầu thơm đắt tiền. Sự xuất hiện bất ngờ của vị khách không mời mà đến đã khiến cho khách dự tiệc xôn xao và làm cho chủ nhà rơi vào tình thế khó xử. Bất chấp những ánh mắt nghi kị, không thân thiện của những người khác, chị vẫn bước đến bên Thầy Giêsu. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía chị, ánh mắt của chị lại chỉ hướng về phía Thầy. Ánh mắt của Thầy khiến chị thêm vững dạ an tâm. Chị đến, quỳ gối bên Thầy, lấy ra bình bạch ngọc  đựng dầu thơm mà chị đã dành dụm tiền để mua. Chị đập vỡ bình, lấy dầu xức trên đầu Thầy. Mùi thơm tỏa ra tràn cả căn phòng. Có vài người lấy làm bực tức nói với nhau: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”. Rồi họ gắt gỏng với chị (x. Mc 14, 3-5). Người ta muốn đuổi chị đi. Chị đâu phải là khách dự tiệc. Chị là người không được chào đón ở đây.

Trước thái độ bực tức, gắt gỏng của họ, Thầy đã lên tiếng bênh vực chị. Thầy biết, Thầy hiểu thấu tấm chân tình của chị. Đối với chị, Thầy có một chỗ đứng rất đặc biệt trong trái tim, Thầy là người rất quan trọng trong cuộc đời chị. Chắc chắn, chị đã cảm nhận được tình yêu và sự đón nhận mà Thầy Giêsu  đã dành cho mình. Chị không chỉ kính trọng Thầy mà chị còn yêu mến Thầy. Tình yêu chân thành của chị đã vượt thắng mọi nghi ngại và khó khăn. Thầy đã đến trong cuộc đời chị, Thầy đã đón nhận chị, đã yêu thương chị vô điều kiện. Ba trăm quan tiền quả là một số tiền lớn có thể giúp ích được cho những người nghèo khó. Hành động của chị có phải là một hành động quá phí phạm không? Có lẽ, đối với những khách dự tiệc, Thầy Giêsu chỉ là một người không mấy quan trọng trong cuộc đời của họ. Thầy chỉ là một con người bình thường như bao người khác. Họ trách móc chị chỉ vì thương người nghèo hay họ chỉ đang ghen tị với tâm hồn quảng đại của chị? Họ thương người nghèo thật tâm hay họ chỉ tiếc ba trăm quan tiền? Còn chị, chị chẳng nói với Thầy Giêsu câu gì nhưng Thầy đã đón nhận tấm chân tình của chị. Thầy để cho chị làm việc chị muốn. Thầy cũng hiểu thấu tâm địa của những người đã buông lời trách móc chị: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!” (Mc 14, 6-8). Thầy biết họ chỉ cố ý sinh chuyện để gây lôi thôi, rắc rối cho người khác. Thầy biết có gì trong lòng họ. Thầy nhắc cho họ nhớ rằng, chẳng bao lâu nữa, họ sẽ không còn được thấy Thầy. Không còn được thấy Thầy, họ có đau lòng không? Thầy khẳng định chị đã làm cho mình một việc nghĩa. Tuyệt vời thay! Tình yêu của chị đã chiến thắng tất cả: một tấm lòng yêu Chúa chân thành.

Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con và đón nhận con vô điều kiện. Xin cho con cũng biết mạnh dạn diễn tả lòng yêu mến Chúa bằng hành động, bằng những việc làm phục vụ anh chị em. Trước những khó khăn và thử thách trong cuộc đời, xin cho con luôn hướng nhìn lên Chúa, lắng nghe và thi hành điều Chúa muốn dành cho con. Xin thanh luyện ý hướng làm việc thiện trong con để tất cả những gì con làm đều xuất phát từ lòng yêu mến Chúa chân thành. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-432: CA VANG HOSANNA


Lm Vũđình Tường

 

Dân chúng vui mừng vang ca đón chào Đức Kitô, ngồi trên lưng lừa tiến vào thành thánh Jerusalem. Người Suy niệm Lễlá-432


Dân chúng vui mừng vang ca đón chào Đức Kitô, ngồi trên lưng lừa tiến vào thành thánh Jerusalem. Người ta mượn con lừa của người nông dân, trải áo vải trên đó cho Đức Kitô cưỡi lừa tiến đi. Hai bên đường, dân chúng người vỗ tay, kẻ bẻ vội cành lá bên đường hoan ca, đón chào. Trên đường đi có chỗ người ta còn rải cành lá tươi trên mặt đường cho Đức Kitô tiến bước. Đám đông ca vang tận trời xanh. Tiếng vang vọng đó vang xa mãi, xa mãi cho đến khi chúng biến mất vào không trung. Danh vọng trần gian là thế đó, chúng đến rất mau, ra đi rất lẹ. Đến ồn ào, náo nhiệt. Đi âm thầm, lặng lẽ, từ từ biến mất. Đức Kitô vào thành thánh trong vinh quang. Vinh quang đó dài không quá vài giờ. Sau đó là cuộc thương khó kéo dài vài ba ngày.

Người phản bội lại là người thân cận càng làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Juda Iscariot là một trong số mười hai đệ Đức Kitô tuyển chọn. Juda ngầm cấu kết với nhóm Thượng Tế đền thờ phản bội Đức Kitô. Ông đồng í chỉ điểm cho họ bắt Đức Kitô. Để trả công, nhóm Thượng Tế chi cho ông ba chục đồng bạc. Ngay sau đó nhóm Thượng Tế cấu kết với Kinh Sư và Kì Mục tìm cách thực hiện cho bằng được í tưởng triệt tiêu Đức Kitô. Họ đồng í kết liễu cuộc đời Đức Kitô bằng bản án tử hình. Việc đưa ra toà xét xử cách chóng vánh, chỉ là hình thức trá hình, che mắt quần chúng. Nếu ai đó thắc mắc, họ có cách biện báo.

Điều gì dẫn đến việc Juda phản bội Đức Kitô đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Bởi chỗ Juđa không thiếu tiền. Cần bất cứ điều gì Đức Kitô đều cung cấp đầy đủ. Ông hiện đang giữ chức thủ quĩ cả nhóm, lúc nào cũng sẵn tiền đủng đỉnh. Juda quí mến Đức Kitô, nhưng có lẽ ông quí tiền hơn nên tìm cách bán Thầy.

Kẻ thù không chung bàn, chung tiệc. Điều này cho thấy Đức Kitô biết Juđa phản bội nhưng Ngài vẫn yêu mến Juđa, vẫn coi ông là một trong số các môn đệ, và vẫn mời ông ngồi chung bàn với Ngài. Trong bữa Tiệc Li, Đức Kitô cầm bánh, dâng lời tạ ơn rồi trao cho các môn đệ. Juđa cũng nhận phần bánh Đức Kitô trao. Đức Kitô loan báo tin buồn. Ngài cho biết trong số những kẻ ngồi chung bàn có kẻ phản bội Ngài.

Các tông đồ lần lượt lên tiếng ‘Chắc chắn không phải là con’ Mk 13,20. Đến lượt Juđa, ông cũng lên tiếng như thế. Đức Kitô biết Juđa nói dối, nhưng Ngài không chất vấn. Cho đến giờ này, ngoài Đức Kitô ra, không môn đệ nào biết việc Juđa rấp tâm thực hiện.


Sau khi nhận bánh từ tay Đức Kitô, ông ăn bánh; liền sau đó ra đi lẩn mình trong bóng tối. Các môn đệ khác nghĩ, Juđa ra đi vì ông cần mua thêm gì đó chuẩn bị cho ngày lễ Vượt Qua. Các ông đã sai lầm. Juđa ra đi không phải để mua mà để bán. Ông ra đi bán Thầy, bán tình thương Thầy dành cho. Ông bán tình nghĩa giữa các môn đệ, bán lòng Thầy tin ông. Bán tình thân hữu. Một khi Juđa đồng í bán Đức Kitô, nhóm Thượng Tế chắc chắn không để cho Juđa đổi í. Sự việc đến lúc này coi như ngoài tầm kiểm soát của Juđa. Juđa không có khả năng thay đổi sự việc. Juđa nhắm mắt bước đi trong bóng tối.

Sau bữa Tiệc Li, các môn đệ theo Đức Kitô lên vườn Cây Dầu. Tại đây, Đức Kitô một mình cầu nguyện, còn các môn đệ khác, phần vừa say, vừa mệt đều thiếp đi. Đức Kitô trở lại lần thứ hai thấy các ông vẫn còn đang ngon giấc. Lần thứ ba, Ngài bảo các ông. Thức dậy đi. Giờ đã đến, Kẻ nộp Thầy đã xuất đầu, lộ diện. Các ông tỉnh cơn ngủ. Juđa đến ôm Đức Kitô hôn Người. Đức Kitô thân thiện, nhỏ nhẹ nói với ông:

Juđa, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao? Lk 22,48.

Đến lúc này ngoài Đức Kitô ra không còn ai có thể cứu vãn tình thếu. Đức Kitô tạo cho Juđa cơ hội cuối để Juđa thống hối. Juđa bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng đó. Khi phạm tội người ta bỏ ngàn vàng đổi lấy đồng bạc. Thiệt thòi thế mà nhiều người vẫn coi đó là hành động khôn ngoan. Tội làm cho người ta ra mù quáng. Tự cho cái khờ dại của mình là khôn. Juđa từ chối sự giúp đỡ của Đức Kitô và của các môn đệ khác.

Juđa nhận tiền. Ông rất vui. Niềm vui đó mau chóng tàn phai khi ông biết người ta sẽ giết Thầy ông, Đức Kitô. Ông hối hận, mang tiền trả lại nhóm Thuợng Tế. Họ không nhận, ông quăng tiền lại, tháo chạy. Tội sinh ra tội. Ông phạm tội khác lớn hơn tội cũ. Ông tin là tội ông không thể tha. Ông thật sai lầm. Tình Chúa cao hơn tội ông phạm. Tình Chúa mạnh hơn tội ông phạm. Thay vì quay về thống hối, ăn năn, ông tự kết liễu đời mình. Kết liễu cuộc đời đã không giải quyết được gì, còn làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn.

Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá, nhóm Thượng Tế, Kinh Sư và Kì Mục mở tiệc mừng. Niềm vui vừa trọn ba ngày. Tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết làm cho các ông giật nảy mình, mất ăn, mất ngủ cho đến khi các ông nhắm mắt lìa đời. Niềm vui trần thế chóng qua, mau tàn là thế.

Đức Kitô chịu đau khổ trong tay con người và sau ba ngày Ngài sống lại vinh quang. Ngày nay vẫn còn nhiều người không hiểu là Đức Kitô chọn cách chết đau thương trên thập tự để diễn tả tình thương cứu rỗi dành cho nhân loại. Ngài sống lại vinh quang, ban cho những ai tin vào Ngài nhiềm vui sống lại, tươi mát như cây lúa mới trổ sinh bông trái từ hạt lúa mì gieo vào lòng đất.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-433: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ_B


Jorathe Nắng Tím

 

Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban Suy niệm Lễlá-433


Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.

Tin Mừng được công bố khi chủ tế làm phép lá và cùng cộng đoàn rước lá hoàn toàn trái ngược với nội dung của thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philípphê và bài Thương Khó trong thánh lễ: một bên là quang cảnh dân chúng tự phát phấn khởi tung hô, hân hoan đón rước Đức Giêsu khi Ngài vào thành Giêrusalem, ở đó “nhiều người lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy : “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”(Mc 11, 8-10); còn một bên là cảnh tượng Đức Giêsu chịu bắt bớ, tra khảo, hành hạ, bị kết án tử hình, vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, chết ô nhục trên thánh giá, và chôn trong mồ.

Hai hình ảnh đối nghịch của cùng một con người: hình ảnh Đấng Thiên Sai, với triều đại đang tới rất huy hoàng, vì là triều đại của vua Đavít, trung thần của Thiên Chúa Giavê, và tổ phụ Ítraen, bên cạnh là hình ảnh “tên phản quốc, kẻ phạm thượng, đứa phá rối trật tự xã hội”như những lời cáo buộc tàn nhẫn của các thượng tế, kỳ mục, kinh sư được đám đông nhao nhao nhất trí khi điên cuồng la lớn trước toà Philatô: “Đóng đinh nó vào thập giá”(Mc 15,13).

Hai tình trạng đối nghịch trên cùng một con người: tình trạng được mọi người thần tượng, trông đợi, ủng hộ, và tình trạng bị mọi người bủa vây, truy lùng, như lời thánh vịnh: “Quanh con bầy chó dữ đã bao chặt. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được ngắn dài, chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn”(Tv 21,17-19).

Hai vị thế hoàn toàn xa lạ ở cùng một con người: vị thế Con Thiên Chúa đến để cứu độ con người, Đấng minh quân đến giải phóng dân và vị thế tội đồ, người có tội, kẻ gây xáo trộn xã hội, và tôn giáo cần phải loại trừ, tiêu diệt.

Sở dĩ những người Do Thái hôm ấy đã “thay lòng đổi dạ ”qúa đột ngột với Đức Giêsu, vì họ không hề sẵn sàng đi theo Ngài. Vì không sẵn sàng đi theo, nên ở những khoảnh khắc nguy hiểm, bị đe dọa, họ đã đứng ra bên lề đường, và bỏ mặc Ngài độc hành tang thương. Bằng chứng là khi thấy những phép lạ Ngài làm, họ tung hô Ngài là vua, xưng tụng Ngài là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa, nhưng vì không sẵn sàng đi theo Ngài đến cùng, nên khi bị mua chuộc, tuyên truyền hay bị dọa dẫm, nạt nộ, họ không ngần ngại quay lưng phản bội và giơ cao tay đả đảo Ngài.

Cũng vì không sẵn sàng đi theo Ngài, nên họ đã lầm tưởng về Ngài: họ lầm tưởng Ngài đến để làm theo ý họ, kiểu ý dân là ý trời (vox populi, vox Dei), mà không biết Ngài đến để làm theo ý Cha Ngài, mà ý Chúa Cha là Ngài từ bỏ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên như phàm nhân, sống như người trần thế… và hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8), để trở nên giá cứu chuộc muôn dân.

Không đi theo Ngài, họ đã lầm tưởng Ngài là nhà giải phóng chính trị sẽ đưa Ítraen là dân riêng của Giavê Thiên Chúa ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, và cứu họ khỏi cuộc sống thiếu thốn, cơ cực vì chính sách thuế má hà khắc của đế quốc và chính quyền tay sai tham nhũng, bóc lột, mà không biết sứ vụ của Ngài là thực thi thánh ý Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc toàn thể nhân loại, một sứ vụ thiêng liêng bao trùm mọi dân tộc, mọi thời, mọi nơi, cho đến tận thế.

Thực vậy, không mấy người đã biết Đức Giêsu là ai, ngay các môn đệ của Ngài. Như Phêrô, nếu biết rõ thầy mình, ông đã không lên tiếng can ngăn Ngài đừng lên Giêrusalem để rơi vào tay các thượng tế, kinh sư, ở đó “họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Ngưòi cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người”(Mc 10,33-34). Cũng vì không biết rõ Đức Giêsu, nên nhiều người, kể cả các môn đệ, đặc biệt là Tôma, đã không tin Ngài sống lại từ cõi chết.

Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-434: CÕI KHỔ


Trầm Thiên Thu

 

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa. Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua. Đời là bể Suy niệm Lễlá-434


Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua.

Đời là bể khổ. Chỗ nào cũng khổ, ngay ở những nơi mà người ta coi như “thiên đàng” thì cũng vẫn đầy nỗi khổ. Ai cũng khổ, đủ kiểu và đủ mức. Thánh Rosa Lima cho biết: “Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng phẩm ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.” Đau khổ có giá trị đặc biệt lắm. Văn hào Victor Hugo nói: “Đau khổ như hoa quả, Thiên Chúa không để nó phát triển trên những cành quá yếu ớt.” Nhận xét thật là độc đáo.

Đau khổ có giá trị, Thánh Madeleine Sophie Barat ví von: “Một thanh sắt được thành hình trên một cái đe và nhờ ngọn lửa thế nào, thì dưới sức nặng thử thách và trong ngọn lửa đau khổ, linh hồn chúng ta cũng sẽ thành hình đúng như Thiên Chúa muốn về nó như vậy.” Người ta nên khôn là nhờ đau khổ. Sướng quá hóa rồ dại mà thôi.

Khởi đầu Tuần Thánh là Lễ Lá. Những chiếc lá xanh biếc. Màu xanh tượng trưng niềm hy vọng. Hy vọng là khởi đầu ước mơ, hướng tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn hướng nhìn: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn tới phía trước để thêm hy vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để nhận diện chính mình.

Chỉ vài ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Dân chúng đông lắm, như Thánh Gioan cho biết: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12:12-13) Thật tuyệt vời!

Cuộc đời vui buồn lẫn vào nhau. Vui để rồi buồn. Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Tương tự, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Đó là hệ lụy tất yếu, và cũng là Thánh Ý Chúa, Thánh Ý mầu nhiệm.

Phần đầu của bài thứ ba trong số các Bài Ca Người Tôi Trung là trình thuật Is 50:4-7, đề cập đau khổ của Người Tôi Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Các động thái đó không là miễn cưỡng, mà là tự nguyện – vì yêu thương và thương xót những sinh linh mà Người Tôi Trung quý mến. Họ là ai? Là chính mỗi tội nhân chúng ta. Thật lạ lùng!

Ai cũng sợ đau khổ, càng sợ hơn khi đau khổ quá lớn, đến tột cùng. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một lòng tín trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Chẳng ai muốn sầu khổ, nhưng có nếm sầu khổ rồi mới biết thương những người “kém may mắn” hơn mình. Nếu chưa đau khổ, người ta không thể hình dung ra đau khổ. Chưa bị tù thì không thể cảm nhận khổ nhục nơi lao lý, và cũng khó hiểu được ý nghĩa của sự tự do đích thực.

Chắc hẳn chúng ta đã nhiều lần đọc hoặc nghe Phúc Âm tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhưng có thể nói rằng vẫn có chút gì đó “chưa đủ” nếu chưa xem phim “The Passion of Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Công giáo Mel Gibson. [https://vimeo.com/413740746 – 180 phút] Quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc tinh tế, và ông cho diễn như thật. Đặc biệt, sau khi đóng vai Chúa Giêsu, diễn viên Jim Caviezel đã gia nhập Công giáo.

Đau khổ có tác dụng khác nhau, tùy mỗi người: “Cùng một đau khổ, nhưng nó minh chứng, thanh luyện và làm thuần thục những người lành; nhưng nó lại kết án, phế truất và loại bỏ những kẻ xấu.” (Thánh Augustinô) Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, thậm chí nguyền rủa chính mình, vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì chấp nhận, cảm thấy tủi thân, có trách thì chỉ tự trách mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Buồn lắm, buồn phát khóc, buồn như chết được!

Tác giả John Piper giải thích rõ ràng trong cuốn “It Is Well with My Soul” thế này: “Đau khổ làm cho chúng ta SÁM HỐI, đau khổ làm cho chúng ta LỆ THUỘC vào Thiên Chúa, đau khổ làm cho chúng ta TUÂN THEO Đức Kitô, đau khổ chuẩn bị cho chúng ta TẬN HƯỞNG Thiên Chúa, đau khổ PHƠI BÀY TỘI LỖI của chúng ta.”

Không ai hiểu được đau khổ. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Buồn này chưa qua, sầu khác đã tới. Nước mắt không chỉ mặn mà còn chua và cay. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dù cô đơn, lạc lõng, đau khổ vẫn đeo bám, cứ tiếp tục chồng lên nhau: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20)

Đức Giêsu Kitô đã phải chịu như vậy. Dù là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải chịu đau khổ như Ngài. Chính Ngài cũng phải chịu đựng theo nhân tính, khổ tinh thần và đau thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Ngay cả những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu, nhưng chúng ta cũng phải khâm phục sự chịu đựng của họ.

Mặc dù cô đơn, đau khổ, nhục nhã, nhưng Người Tôi Trung vẫn quyết một lòng vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.” (Tv 22:23)

Về sự tự nguyện của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Bất cứ tình yêu nào cũng phải tiết ra chất hy sinh, nếu không thì không đáng gọi là tình yêu. Dám chết vì người khác là sự hy sinh cao nhất, vì Chúa Giêsu xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)

Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo, nhờ đó mà được vĩnh viễn ở với Ngài.

Chuỗi đau khổ bắt đầu từ khoảnh khắc hiển hách. Thật lạ lùng! Trình thuật Mc 14:1-15 (≈ Mt 26:1-5, 26:6-16; Lc 22:1-6; Ga 11:45-53, 12:1-8) như một thước phim sống động chứng tỏ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể, vì Chúa không muốn vậy. Loài người muốn không phải là Trời muốn: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”

Tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Khi Đức Giêsu dùng bữa, một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, rất thơm và quý giá. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Chắc hẳn cô tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài thương xót. Cô có lý. Niềm hy vọng của cô rất rộng lớn và sâu thẳm. Thiện chí của cô đã được đáp đền.

Bạn bè của ông Simon Cùi biết rõ cô, thế nên có vài người tỏ vẻ bực tức: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Ôi chao, ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc của? Họ hy vọng gì? Có lẽ chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay chúng ta có “phong cách” tinh vi hơn. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này hoặc đoàn nọ thì sẽ nhận thấy. Đôi khi thấy mà kinh dị. Đáng quan ngại lắm!

Bực tức trong lòng chưa đủ, họ còn gắt gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người thật là kinh khủng! Nhưng Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Chúa Giêsu không thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói dài một chút để họ có thể hiểu ra. Vậy mà họ vẫn cố chấp.

Chúng ta cũng chẳng ưa nữ tội nhân này, chúng ta khinh miệt cô, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Quả thật, cô “nổi tiếng” từ xưa tới nay, nhất là vào Tuần Thánh, dịp Lễ Vượt Qua.

Bất cứ điều gì phải đến rồi sẽ đến. Thánh sử Máccô kể ngắn gọn sang một cảnh khác: “Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” (Mc 14:10-11) Vì mê tiền, ông Giuđa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại. Tiền cần thiết nhưng nguy hiểm, Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Khinh suất là chết chắc – bất kỳ ai. Mê tiền là một dạng thờ ngẫu tượng!

Vào ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Thầy Giêsu xem Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, gặp một người mang vò nước đến đón thì cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho tiệc Vượt Qua ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc. Mọi thứ đã được Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Vào buổi chiều, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Tá hỏa tam tinh. Thầy biết rồi sao? Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Nguy hiểm lắm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ thù. Sự thật cuộc đời quá phũ phàng!

Sau tiệc, qua việc chỉ điểm của ông Giuđa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run lắm. Nhưng Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt giết Con Thiên Chúa!

Một “khoảng tối” bao trùm, nhưng đoạn phim buồn chưa khép lại ở đây. Còn một “khoảng đen” khác, cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng. Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc… Hy vọng vẫn vươn lên, không bao giờ dừng lại.

Cuộc đời có nhiều thứ đan xen nhau: Lúa – cỏ, tốt – xấu, lành – dữ, hiền – ác, trắng – đen, mưa – nắng,… Trong một lần thị kiến, Thánh Faustina được Chúa Giêsu cho biết: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống trước chén đau khổ bất công này vì yêu con.” (Nhật Ký, #289)

Với cảm nghiệm sâu sắc, Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” Chính thánh nữ đã chân thành cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con.” (Nhật Ký, #57) Ước gì mỗi chúng ta cũng can đảm như vậy.

Lạy Thiên Chúa, chúng con biết thế gian là cõi tạm nhưng đầy đau khổ, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận mọi đau khổ vì yêu mến Ngài, vì yêu thương tha nhân, vì muốn cứu các linh hồn và để đền tội ở đời này. Xin gia tăng tín lực và ái lực để chúng con đủ sức đi theo Đức Giêsu Kitô tới hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-435: TỰ TIN TIẾN BƯỚC


Lm. Jos DĐH

 

Mưa nắng thất thường, đó là tiếng lóng, chỉ những người không có lập trường, dở tính hay xấu Suy niệm Lễlá-435


Mưa nắng thất thường, đó là tiếng lóng, chỉ những người không có lập trường, dở tính hay xấu nết, xã hội đều tẩy chay. Người đời cho rằng: quân tử nhất ngôn là quân tử dại, người đại khái mới đúng là khôn, nếu bạn sống vô trách nhiệm, làm việc vu vơ cho qua lần chiếu lệ, cùng lắm bạn bị mang tiếng là tiểu nhân. Con người tự nhiên dễ ảo tưởng với năng lực của mình: mạnh vì gạo, bạo vì tiền; không ốm không đau, làm giầu mấy chốc. Theo bạn, như thế nào là người quân bình, người tự tin, để bước những bước thật vững chắc, không sợ dự luận: ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai ? Kinh nghiệm ở trường đời vẫn là câu trả lời: ý chí quyết tâm, tình yêu và lòng bao dung, mới thực sự là lực đẩy người người đi đến cùng tận của hạnh phúc.

Trong khi Đức Giêsu tự tin trên hành trình tiến về Giêrusalem, dù khổ đau thập giá và mùi tanh của chết chóc đã tới sát gần Ngài ? Đức Giêsu vào thành hôm đó trong tiếng hoan hô, chúc tụng, nhưng rồi chẳng mấy chốc, họ lại gào to hét lớn, “đóng đinh nó vào thập giá” ! Người tín hữu chúng ta hôm nay được mời gọi theo Thầy Giêsu vào thành, theo Thầy chí thánh tiến bước vào tuần thương khó, ta hãy tự hỏi: tôi đang tự tin theo Thầy vào thành, hay tôi lo lắng, sợ hãi, khi phải vào thành ? Ta cùng Thầy Giêsu vào thành chắc không phải để hưởng bổng lộc, vào thành không phải loáng thoáng như ôn lại kỷ niệm xa xưa, hoặc tìm kiếm một chút rung động lấp vào khoảng trống cuộc đời mù mịt của ta !

Chỉ cần một chút bình tĩnh, người ta sẽ hiểu không gian ồn ào vì ai ai cũng mưu cầu một cuộc sống phúc lộc dư đầy. Phải mất khá nhiều mơ ước, người ta mới nhận ra: tự tin, chính là nhân tố giúp ta trưởng thành, đủ ý chí quyết tâm đi tới cùng đích an vui hạnh phúc. Đức Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha ủy thác, dù ưu tư, sợ hãi, vẫn bủa vây giăng mắc nơi phận người mà Ngài luôn ý thức, đó là tên cám dỗ, là cạm bẫy thế gian. Có phải sự hiệp thông trọn vẹn nên một trong tình yêu với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu hằng lấy đức ái để minh chứng về lòng bao dung của Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đúng như kinh nghiệm của tiền nhân: người ta không thể nói hết về tình yêu của Thượng Đế, cũng không bao giờ diễn tả hết ý nghĩa về Thiên Chúa làm người, làm Đấng cứu độ trần gian.

 Người kitô hữu chúng ta hiểu như thế nào về ơn gọi làm người, về niềm tin theo Chúa, làm môn đệ Chúa ? Chúng ta vì yêu, hay vì miễn cưỡng phải đi Giêrusalem, khi sự dữ, sự xấu xâm nhập, tấn công tư bề, không khỏi làm chúng ta nhụt chí, nản lòng, sợ đủ thứ ! Trong khi mọi người mong muốn có Thầy Giêsu cùng vào thành, có Thầy đi suốt hành trình làm môn đệ của mình: không gian vắng lặng, giầu tình giầu nghĩa, con vua thời lại làm vua, vẫn chỉ là ước mơ. Đức Giêsu vào thành, Đức Giêsu sẽ còn mãi mãi cùng các môn đệ trên hành trình trần thế, Ngài sẽ là sức mạnh, là Thầy, là Bạn đồng hành, là sự tự tin cho những ai cậy trông vào tình yêu của Đấng đã chiến thắng thế gian. Vũ trụ này rộng lớn nhất là biển, to lớn hơn biển là bầu trời. Rộng lớn hơn bầu trời là sự độ lượng của tình yêu và lòng bao dung. (Victor Hugo).

Có phải biết trước Thầy Giêsu vào thành để làm vua, người ta sẽ mau lẹ không để Thầy cô đơn một mình, có thể còn “tiền hô hậu ủng”, cùng theo Thầy tiến bước với hy vọng được một chút địa vị bổng lộc ?  Nếu đúng thật, Đức Giêsu vào thành làm vua, vua tình yêu, yêu đến cùng, yêu đến độ chịu chết treo thập giá, hầu cứu nhân loại khỏi chết đời đời, chúng ta vẫn mạnh mẽ cùng Ngài tự tin tiến bước vào thành chứ ? Người không vững lập trường sẽ luồn lách, né tránh như câu thành ngữ: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn có còn mấy ai !  Người không có niềm tin vững chắc, lúc bình an, chẳng khó gì khi họ tung hô, chúc tụng, song không mấy chốc họ lại “đả đảo”, đóng đinh nó đi, giết nó đi !

Vào thành Giêrusalem thiên quốc, tự tin tiến bước cùng Thầy Giêsu trên hành trình trần thế, chắc chắn không phải là toan tính hơn thiệt, là tìm kiếm vật chất địa vị, nhưng là vì yêu, vì thao thức muốn cùng Đức Giêsu hoàn tất bổn phận và trách nhiệm của người theo Chúa. Quen một người là do duyên phận, hiểu biết một người cần phải nhẫn nại và kiên trì, nhưng thủy chung và ở bên nhau đến trọn đời, nhất định phải có tình yêu và lòng vị tha. Nếu chỉ đứng xa xa vì dấu, quan sát thôi, hẳn bạn sẽ bị cười chê là quân đạo đức theo mùa: thấy quan tài đưa vào nhà, ta mới đổ lệ. Dù bạn đang là nông dân hay đại gia, dù bạn là linh mục tu sĩ, hay là người tín hữu bình dân, sớm tối chỉ biết cầu nguyện bằng kinh mân côi, tất cả vẫn cần được lòng thương xót của Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Xin hãy hiệp lời cầu nguyện với nhau, với Thầy Giêsu, hầu tất cả sẽ đủ tự tin, đủ tình yêu và sức mạnh của Chúa, bước theo Chúa vào thành Giêrusalem thiên quốc cách trọn vẹn thật sự. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-436: NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU


Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chúa nhật Lễ Lá là khởi đầu cho hành trình đi vào tuần thương khó với Chúa Giê-su. Gọi là Suy niệm Lễlá-436


Chúa nhật Lễ Lá là khởi đầu cho hành trình đi vào tuần thương khó với Chúa Giê-su. Gọi là tuần thương khó vì xét theo nhân tính thì Chúa Giê-su cũng trải qua đau khổ tê tái khi bị người đời ngược đãi, khi bị tòa án kết án bất công và khi bị đám đông đã từng reo hò khi Chúa vào đền thờ, khi Chúa cho họ ăn bánh no nê, khi Chúa cứu chữa bệnh nhân và phục sinh kẻ chết, thế mà họ lại quay lưng để cùng nhau đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.

Thế nên, cha nhạc sỹ Văn Chi khi viết bài “Người chết vì yêu” đã miêu tả đây là cái chết cô đơn vì yêu. Dầu rằng ai cũng biết Chúa Giê-su luôn sống cho tình yêu, yêu cả nhân trần tội lỗi, Ngài yêu cả những con người mang nặng tính yếu đuối xác thịt mọn hèn, nhưng yêu nhiều, cho đi rất nhiều mà lại chẳng nhận lại được bao nhiêu, có chăng là tình phụ bạc với người mình yêu. Bài hát với giai điệu mượt mà thiết tha như sau:

“Ngày đó chiều nắng vàng trên đồi Goltha vắng. Chiều đó, có ai cô đơn chết vì yêu. Yêu, yêu nhân trần tội lỗi, yêu con người đắm đuối chết đớn đau u sầu”.

Và rồi, tác giả đã giải thích người đó chính là Chúa Trời, một vì Thiên Chúa yêu nhân loại đến nỗi xóa mình là Thiên Chúa để cúi xuống với nhân loại lầm than, để hát lên khúc hát yêu thương giữa thế gian đọa đầy.

“Người đó là Chúa Trời, làm người nơi dương thế. Tình mến chứa chan khơi trên mắt buồn vương. Cơn đam mê bừng rực sáng, yêu thương bằng cái chết tiếng kêu vang vọng đêm trường”.

Phận số của người sống vì yêu thường là vậy. Yêu là cho đi nhưng nhận lại chẳng bao nhiêu. Yêu là yêu cho đến cùng nhưng người đi cùng lại chẳng có bao nhiêu. Thế nên, mới có câu thơ viết rằng:

“Triệu người quen có mấy người thân
Khi lìa trần có mấy người đưa?
Lệ xóa cho em được không những kỷ niệm đắng
Lời nói yêu thương ngày xưa có trở về tìm?”

Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình phụ bạc ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thật đau lòng vì:

Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân

Con người chỉ kết bạn với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:

Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái

Con người hôm nay cũng tính toán với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.

Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không?

Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-437: SỐNG VÌ YÊU, CHẾT CŨNG VÌ YÊU


Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

 

Trong thực tế ai ai cũng ham sống sợ chết, phương chi là chết thay cho người khác lại là chuyện Suy niệm Lễlá-437


Trong thực tế ai ai cũng ham sống sợ chết, phương chi là chết thay cho người khác lại là chuyện hiếm hoi. Tuy nhiên, chuyện khó có thể xảy ra theo cái nhìn người đời, thì lại được diễn tả nơi hình ảnh Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Hôm nay, toàn thể Giáo hội hoàn vũ bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần mà mọi người chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giê-su trong những giờ cuối cùng ngang qua cuộc thương khó và sự chết trên thập giá của Ngài.

Thiên Chúa là Tình Yêu đã sáng tạo con người từ hư vô trở nên mà có và trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Người luôn mong muốn con người được sống và hạnh phúc. Qua mọi thời, tình yêu đó được diễn tả ngang qua các ngôn sứ, các thủ lãnh, các vua chúa để dẫn dắt dân đi đúng đường ngay nẻo chính. Dân sai lạc thì Người lại đến qua trung gian để nhắc nhở và răn dạy. Thế nhưng mà thay vì biết ơn và sống trung thành, thì con người lại vô tình bội nghĩa và bất trung lần này lượt khác với Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín và yêu thương.

Vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người không mệt mỏi để tha thứ cho con người. Vì yêu nên sẵn sàng trao ban và hy sinh cho người mình yêu, thậm chí “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình để ai tin vào Ngài có sự sống đời đời (Ga 3,16)”. Con Một của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Ngài đã đáp lời xin vâng Chúa Cha để chấp nhận mang thân phận con người ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh’ và giống con người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. (x. Dt 4,15). Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật. Ngài đã sống ẩn dật suốt 30 năm tại làng Nazaret trong gia đình Thánh Gia. Sau đó, Đức Giê-su bắt đầu công khai rao giảng Nước Trời cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi lúc. Ngài là hiện thân của Lòng Thương xót của Thiên Chúa ở với nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa vô hình được tỏ lộ rõ ràng nơi Đức Giê-su Ki-tô hữu hình. Lời giảng đầy uy quyền (x.Mc 1,2) đã thốt ra từ môi miệng của Ngài để khích lệ, kêu gọi, khuyên răn, ngăm đe kẻ có tội; chăm sóc và an ủi kẻ bệnh tật; rao giảng và giải thích Lời Thiên Chúa cho muôn người,…Bên cạnh lời nói, Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua việc thi thố các phép lạ là làm cho kẻ điếc nghe được, câm nói được, mù được sáng, què đi được, bệnh tật được chữa lành, kẻ chết được cứu sống,…(x. Lc 7, 19-23). Ngài hiện diện ở đâu là niềm vui và sự chữa lành đến ở đó. (x. Mc 6,53-56; Mc 5, 21-43; Ga 4, 43-54). Ngài gần gũi, thân thiện và tiếp đón những người thu thuế, người tội lỗi, người phong hủi, mà người Do Thái cho ô uế và đáng khinh.(x. Lc 19: 1-10; Mc 1, 40-45). Một tình yêu quảng đại và rộng lớn khi Đức Giê-su không ngần ngại đến với dân ngoại cũng như thương xót họ.(x. Mt 15, 21-28; Lc 10,29-37; Lc 17,17-18),…

Mặt khác, vì yêu nên Đức Giê-su luôn tìm mọi phương cách để giúp con người sở hữu được bình an và niềm vui. Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giê-su đã chọn cho mình những môn đệ riêng để dạy dỗ, hướng dẫn và đào tạo nhằm giúp các ông cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Ngài. (x. Lc 6,12-16). Ngài yêu thương các ông hết mực với tình yêu chân thành và trung tín như bạn hữu. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (Ga 15,15)”. Thế nhưng mà trong số các ông lại có những người dám cả gan phản bội và chối bỏ Ngài. Dẫu biết rằng sứ vụ của Đức Giê-su đến trần gian là để yêu thương, để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho muôn người, nhưng không thể không kể đến một phần cộng tác của con người trong sự đau khổ và cái chết của Ngài.

Ngài yêu và Ngài phục vì Nước Chúa để cứu độ con người, nhưng cũng vì đó mà Ngài cũng bị kết án, bị bắt, bị hành hình, phỉ nhổ, đánh đập, đóng đinh và chết nhục nhã trên cây thập tự. Dẫu cho sự phản bội và phản trắc của các môn đệ nói riêng, của mỗi chúng ta nói chúng, Đức Giê-su đã tha thứ tất cả vì yêu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Nhìn vào cái chết đau thương của Đức Giê-su trên thập giá, một phần để tố cáo tội ác của con người, một phần để biểu lộ tình yêu cao vời khôn ví của một vị Thiên Chúa làm người. Đúng như lời Chúa đã nói “Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.”(Ga 3, 16-17). Quả thật, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn cuộc sống vì yêu dẫu cho con người vô tình tệ bạc và khinh mạn dể duôi. Cái chết vì yêu của Đức Giê-su cũng không ngừng diễn tả tình yêu khôn dò khôn thấu của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng nhân hậu và bao dung là luôn luôn mong muốn cho con người được tha thứ và sống muôn đời.

Thật vậy, chết vì yêu của Đức Giê-su không chỉ là điểm kết thúc nhưng là điểm mở ra cho muôn người để từ nay ai “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài” (Rm 6,8). Đức Giê-su sống vì yêu cho nên Ngài cũng chết vì yêu. Như vậy, vì yêu mà Đức Giê-su đã hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống cho loài người chúng ta, chúng ta cũng cố gắng bám rễ sâu vào Ngài, lắng nghe Lời Ngài và đem ra thực hành nơi đời sống thường ngày những điều Ngài dạy, nhất là ‘giới răn yêu thương’. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta tự nhận ra tội của mình để ăn năn hối cải, dốc lòng chừa và quyết tâm làm mới lại nơi Bí tích Giao hoà. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài chấp nhận mọi khổ đau, mọi khó khăn và gian nan trong cuộc sống hằng ngày. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi hãy yêu như Ngài đã yêu, hãy sống như Ngài đã sống, biết tha thứ như Ngài và hãy cùng chết với Ngài thì sẽ được sống lại như Ngài.Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-438: VUA VINH QUANG: CHỊU ĐAU KHỔ TRÊN THẬP GIÁ


Lm. Ngọc Dũng

 

Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào tuần thánh. Như chúng ta biết chỉ có tuần này trong toàn năm Suy niệm Lễlá-438


Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào tuần thánh. Như chúng ta biết chỉ có tuần này trong toàn năm phụng vụ được gọi là “tuần thánh.” Điều này không có nghĩa là 53 tuần khác trong năm không là thánh. Đối với người Kitô hữu, ngày nào cũng được gọi là ngày thánh, vì được thánh hiến cho Thiên Chúa. Thật vậy, thời gian thuộc về Thiên Chúa và Ngài đã thánh hiến thời gian. Tuần này được gọi là “tuần thánh” vì trong tuần này chúng ta tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm mà qua đó Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và biến chúng ta thành dân riêng của Ngài. Qua mầu nhiệm này, Đức Giêsu Kitô đã đánh bại thần chết hầu mang lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.

Để giúp chúng ta cử hành cách thánh thiện phụng vụ hôm nay và sống trọn vẹn tuần thánh, chúng ta hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta qua các bài đọc. Nhìn vào Chúa Giêsu trong các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra những điểm sau đây để suy niệm, để học hỏi và để đem ra thực hành.

Thứ nhất, Chúa Giêsu là vua của gia đình và của cuộc đời chúng ta. Phụng vụ hôm nay bắt đầu với nghi thức làm phép lá và rước lá. Hình ảnh “Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem” nhắc nhở chúng ta về việc Chúa Giêsu cũng đang tiến vào gia đình, vào tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ chào đón Ngài như thế nào? Mỗi năm trong phụng vụ của ngày Lễ Lá, chúng ta thường tập trung quá nhiều vào những chiếc lá mà chúng ta cầm trên tay trong suốt thánh lễ. Khi về đến nhà chúng ta tìm một nơi cao trọng để đặt những chiếc lá đã được làm phép. Điều đó rất tốt! Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng những chiếc lá chúng ta cầm trên tay phải tượng trưng cho những nhân đức, những việc tốt, hay những quyết định từ bỏ lối sống tội lỗi của mình để đón Chúa vào trong gia đình và tâm hồn của chúng ta.

Thứ hai, Chúa Giêsu là người tôi tớ đau khổ của Giavê và là người đau khổ cho và với chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Isaia nói về người tôi tớ đau khổ của Giavê. Ngôn sứ trình bày cho chúng ta những đặc điểm quan trọng sau đây của người môn đệ, người tôi tớ đau khổ của Giavê mà mỗi người chúng ta được mời gọi để trở thành: (1) là người nói năng như một người môn đệ, đó là “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50:4); (2) là người lắng tai nghe như một người môn đệ mà “không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5); (3) là người sẵn sàng đón nhận đau khổ mà người khác mang lại cho mình, đó là “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Chúng ta có thể làm những điều này vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta để phù trợ (x. Is 50:7). Tóm lại, điểm thứ hai mà lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm là xét lại đời sống theo Chúa Giêsu của chúng ta: chúng ta có trở nên giống Ngài mỗi ngày trong lời ăn tiếng nói, hay trong hành động của chúng ta không?

Thứ ba, Chúa Giêsu là mẫu gương của sự tự hạ và khiêm nhường. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô giới thiệu cho các tín hữu Philiphê mẫu gương của Chúa Giêsu, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Hôm nay, Thánh Phaolô chỉ ra mẫu gương khiêm nhường và sống cho người khác của Chúa Giêsu cho chúng ta, những người đang sống trong một thế giới mà trong đó con người tìm đủ mọi cách để đặt chính mình và lợi ích của mình lên hàng đầu. Chúng ta nhìn nơi Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang của mình và sẵn sàng chết cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Là môn đệ của Ngài, chúng ta được mời gọi sẵn sàng đón nhận một đời sống thật đơn sơ và khiêm nhường, một đời sống hoàn toàn sống và chết cho Thiên Chúa và cho người khác, nhất là những người trong gia đình và cộng đoàn của chúng ta. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ của chúng ta mà Thiên Chúa sẽ nâng chúng ta lên như Ngài đã siêu tôn Chúa Giêsu: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9). Đừng tự nâng mình lên, nếu không chúng ta sẽ bị hạ xuống. Nhưng chúng ta hãy hạ mình xuống để được Thiên Chúa nâng lên.

Thứ bốn, Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Điểm này được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Trong phụng vụ năm B, chúng ta nghe bài Thương Khó của Chúa Giêsu trích từ Tin Mừng Thánh Máccô. Cuộc Thuơng Khó của Chúa Giêsu bao gồm những sự kiện quan trọng sau:

Thứ nhất, cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu bắt đầu với người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu, bữa Tiệc Ly và việc thành lập Bí Tích Thánh Thể (Mc 14:1-16). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu tiên báo việc Giuđa sẽ nộp Ngài, Phêrô sẽ chối Ngài và các môn đệ khác sẽ bỏ Ngài. Qua việc chia sẻ bữa ăn với các môn đệ và thành lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả một tình yêu trung thành, và yêu cho đến cùng. Đây là một tình yêu mạnh hơn sự chết, hay nói cách khác, là tình yêu không dừng lại ở cái chết, nhưng luôn hiện diện mãi với người mình yêu. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy diễn tả một tình yêu trung thành và vô điều kiện cho mọi người, đặc biệt cho chồng, cho vợ, cho con cái, cho cha mẹ, cho bạn bè và ngay cả cho kẻ thù của chúng ta.

Thứ hai, Chúa Giêsu tiên báo người sẽ nộp Ngài (Mc 14:17-21). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về bao nhiêu lần chúng ta đã nộp Ngài khi chúng ta chiều theo những cám dỗ của ma quỷ và những đam mê xác thịt. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta trở thành Giuđa. Chúng ta nộp Chúa Giêsu khi chúng ta không sống đúng với ơn gọi Kitô hữu [ơn gọi thánh hiến] của mình. Khi làm như thế, chúng ta đã trao nộp Chúa Giêsu cho những người thuộc tôn giáo khác hay những người yếu lòng tin để họ “đóng đinh” Ngài qua việc “không tin” hay “mất niềm tin” vào Ngài.

Thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo việc Phêrô sẽ chối Ngài (Mc 14:26-31). Hình ảnh của Phêrô, một người có khi rất can đảm để bảo vệ Thầy mình, nhưng khi gặp khó khăn và nhất là khi đối diện với sự mất mát về quyền lợi và tính mạng, thì lại chối Thầy, cũng chính là hình ảnh con người của chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy cẩn thận khi chúng ta nghĩ rằng mình đang mạnh, vì chúng ta có thể chối Ngài khi đối diện với khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Chúng ta chỉ không chối Chúa Giêsu khi chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Và chúng ta cũng nhớ rằng Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho chúng ta để chúng ta không chối Ngài như Ngài đã cầu nguyện cho Thánh Phêrô.

Thứ tư, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi Ôliu trong khi các môn đệ của Ngài ngủ (Mc 14:32-42). Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi chịu đóng đinh gợi cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của Ngài chịu cám dỗ trong sa mạc. Trong Tin Mừng Thánh Maccô, cầu nguyện được xem là phương thế hữu hiệu mà Chúa Giêsu sử dụng để chống lại cám dỗ. Cái chết trên thập giá là “cám dỗ cuối cùng” của Chúa Giêsu, nên Ngài đã cầu nguyện để làm theo thánh ý của Chúa Cha và để vượt thắng được cám dỗ. Chúng ta cũng như các môn đệ xưa, “gánh nặng nhưng dịu ngọt” của cám dỗ nhiều lần làm chúng ta ngủ quên trong đam mê vì chúng ta không cầu nguyện. Hãy để Lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: “Anh [chị] em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” Thật vậy, “sao anh [chị] em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”

Thứ năm, Chúa Giêsu bị nộp vì một cái hôn, bị bắt và bị đánh đập (Mc 14:43-72). Sự kiện này gợi nhớ trong chúng ta những lần chúng ta dùng danh nghĩa của tình yêu để làm lợi cho chính mình. Chính tình yêu giả tạo của chúng ta đã làm cho nhiều người phải bị tổn thương và đau khổ. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng yêu nhau với tình yêu giả tạo, nhưng hãy yêu nhau với một tình yêu chân thật và vô điều kiện.

Thứ sáu, Chúa Giêsu bị kết án tử bởi Philatô (Mc 15:1-22). Chúa Giêsu bị trao nộp và bị kết án như một người “phản động.” Bên trong bản án này hàm chứa mối hận thù của những người nghĩ rằng họ nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Ngài; họ hận thù khi nghe Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và tuyên bố rằng Ngài và Thiên Chúa của họ là một. Sự kiện này khuyến cáo chúng ta về thái độ nhân danh Thiên Chúa để kết án người khác, nói đúng hơn là thái độ xem mình thánh thiện hơn người khác để rồi kết án anh chị em của mình.

Thứ bảy, Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (Mc 15:23-28). Chi tiết quan trọng nhất trong sự kiện này là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Giáo Hội dạy chúng ta rằng, không chỉ người Do Thái xưa, nhưng cả chính chúng ta cũng là những người đã đóng đinh Chúa Giêsu và thập giá mỗi khi chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã diễn tả tình yêu của Ngài cách tuyệt đối và vô điều kiện khi Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ cho chúng ta. Về phần mình, chúng ta có dốc lòng tránh xa tội lỗi và sẵn sàng tha thứ cho người khác không?

Thứ tám, những phản ứng khác nhau của người chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu (Mc 15:29-32). Trước sự đau đớn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, có người “buông lời cười nhạo,” có người “chế giễu,” một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Ngài thì “nhục mạ” Ngài, người kia thì bảo vệ Ngài và đặt niềm tin vào Ngài và xin Ngài nhớ đến mình khi Ngài vào vương quốc của Ngài, viên đại đội trưởng thì tôn vinh Thiên Chúa, và toàn thể dân chúng thì “đấm ngực” ăn năn. Chúng ta thuộc vào nhóm nào trong những nhóm trên? Trong sự kiện này, chi tiết quan trọng là: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín.  Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia.” Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:33-37). Bức màn trong đền thờ chia cách giữa “nơi cực thánh” và phần “phạm tục” bị xé ra làm đôi. Điều này nói cho chúng ta rằng, với cái chết của Chúa Giêsu, Ngài đã phá đổ bức tường tội lỗi ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa. Liệu chúng ta có chạy đến với Ngài để hòa giải với Ngài không? Và liệu chúng ta có sẵn sàng phá đổ bức tường chia cắt chúng ta với anh chị em của mình không?

Thứ chín, Chúa Giêsu được chôn trong mồ (Mc 15:42-47). Điều đáng buồn trong sự kiện này là không một ai trong nhóm 12 hiện diện. Những người thân tín nhất của Ngài đã bỏ Ngài. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng bỏ Chúa Giêsu trong những giây phút mà chúng ta tưởng Ngài “đã chết,” không còn hiện diện với chúng ta. Trong những lúc dường như không cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải kiên trì ở lại, đừng trốn chạy. Vì nếu chúng ta không đến với một Đức Kitô, Đấng chết và chôn trong mồ vì chúng ta thì làm sao chúng ta có thể chứng kiến được sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Chỉ qua đau khổ mới đến vinh quang, qua nấm mồ mới đến thiên đàng!

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-439: CON ĐƯỜNG THEO CHÚA


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Trong ngôn ngữ thông thường, người ta vẫn nói: tin là theo Chúa, là theo Đạo. Chữ “theo” ở đây Suy niệm Lễlá-439


Trong ngôn ngữ thông thường, người ta vẫn nói: tin là theo Chúa, là theo Đạo. Chữ “theo” ở đây diễn tả một hành trình dài, một hướng đi cho cả cuộc đời. Con đường theo Chúa bao gồm vui mừng và đau khổ đan xen. Giữa những đau khổ gian nan, người theo Chúa luôn phải vững vàng. Trong ngày khai mạc Tuần Thánh, cùng với anh chị em tín hữu, tôi được mời gọi lắng đọng tâm hồn để nhìn lại con đường theo Chúa của tôi như thế nào.
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi hiểu sai sứ mạng của Người: Người dân thành Giêrusalem vui mừng khi Chúa tiến vào thành thánh. Họ nghĩ Chúa Giêsu chính là vua Đavít ngày xưa đã tái xuất hiện. Họ tung hô vui mừng, cành lá phất phới trong tay, vì nghĩ dân tộc mình sắp được giải phóng khỏi ách đô hộ của người La Mã. Chính vì thế, dân thành ùa ra đường, hòa mình vào đám rước và thể hiện niềm vui hết mình. Họ nhìn Đức Giêsu thuần túy với cái nhìn chính trị. Cái nhìn lệch lạc này đôi khi cũng là cái nhìn của tôi. Nhiều lúc tôi chỉ coi Chúa như một nhân vật lịch sử xa xưa, hoặc như một nhà cách mạng giải phóng dân nghèo. Chính vì vậy, tôi không được gặp Chúa trong đời sống nội tâm, không được nghe tiếng Chúa nơi sâu thẳm của tâm hồn và không thực hiện giáo huấn của Chúa trong cuộc sống cụ thể. Đôi khi tôi cũng giống như những người dân thành Giêrusalem tung hô: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!”, nhưng lòng tôi trống rỗng khô khan. Lời tung hô ấy chỉ giống như những khẩu hiệu vô hồn mà tôi vẫn thấy giăng ngoài đường phố, chẳng hề tác động những người đi qua. Ngước nhìn thập giá, tôi thấy Chúa khẳng định với tôi, Ngài là Thiên Chúa tối cao. Giống như viên đại đội trưởng nọ, tôi tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi chán nản. Theo Chúa là con đường dài thăm thẳm, không giống như một nghề nghiệp hoặc một chức danh ngoài đời. Trên con đường dài thăm thẳm này, nhiều lúc tôi nản lòng, nhất là những lúc đối diện với những khó khăn nghiệt ngã. Biết bao lần tôi đã hỏi: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu trong những lúc con gặp gian nan khốn khó?”. Biết bao lần đức tin của tôi xao xuyến băn khoăn, và tôi đã bị cám dỗ để tin vào những thần linh khác không phải Chúa. Tôi cũng luôn bị cám dỗ rằng Chúa không hiện hữu, để tha hồ tự do mà làm những gì mình thích. Nản lòng trước thử thách, đó cũng là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua. Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà hãy làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vừa diễn tả sự lo sợ của Người trước thập giá, vừa nói lên lòng hiếu thảo và sẵn sàng tuân phục ý Chúa Cha. Lời cầu nguyện này cũng giúp tôi có thêm nghị lực, để tiếp bước theo Chúa mặc dù những chướng ngại gian nan trong cuộc đời.
 
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi phản bội. Những người Do Thái tung hô Chúa khi Người vào thành thánh Giêrusalem, ngay sau đó đã thay lòng đổi dạ. Những cánh tay giơ lên để tung hô ca ngợi Chúa, rồi cũng chính những cánh tay ấy lại giơ lên “biểu quyết” lên án tử cho Người. Trước câu hỏi của Philatô, những người Do Thái đã nhiều lần hô to: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Họ đã đồng thuận việc thả Baraba để giết Chúa Giêsu. Người Do Thái đã căm ghét Chúa Giêsu hơn một kẻ phiến loạn. Nhận mình là Kitô hữu, nhiều khi tôi đã sống ngược lại với danh nghĩa cao quý này. Lối sống và cách ứng xử của tôi đã làm cho nhiều người hiểu sai lý tưởng Kitô giáo, để rồi hình ảnh Giáo Hội của Chúa Kitô trở nên biến dạng nơi cuộc đời của tôi. Nhiều khi tôi giống như Phêrô, lo sợ trước câu hỏi của một cô nữ tỳ, đã chối phăng Thày mình. Hoặc là, tôi giống như các môn đệ, sợ hãi chạy trốn khi Thày mình bị bắt, hay tôi mê ngủ khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn đau thương. Những ngày Tuần Thánh này mời gọi tôi hãy “trở về” để củng cố lòng trung thành với Chúa, kiên định và gắn bó với Người, kể cả những lúc tăm tối gian nan.
 
Lễ nghi của Tam nhật Vượt qua không phải là một vở kịch, nhưng là một nghi thức gợi lại cho chúng ta cái chết của Chúa, và tình yêu thương của Người dành cho chúng ta qua cái chết này. Đó là cái chết mang ơn cứu độ cho con người. Cuộc đời của Chúa Giêsu không dừng lại ở nấm mồ, nhưng Chúa đã phục sinh sau khi trải qua sự chết. Phụng vụ của Giáo Hội trong những ngày này nhắc nhớ tôi hãy lặng thinh suy niệm, và chân thành nhìn lại mối tương quan giữa bản thân mình với Đấng chịu đóng đinh, qua đó, tôi thực sự là môn đệ của Đức Giêsu, trung thành tiếp bước theo Người.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-440: THIÊN CHÚA TIN TƯỞNG CON NGƯỜI


Bông hồng nhỏ

 

Dostoievsky từng viết thư cho anh là Michel như sau: “Em bị đày bốn năm, anh ạ; em không thất Suy niệm Lễlá-440


Dostoievsky từng viết thư cho anh là Michel như sau: “Em bị đày bốn năm, anh ạ; em không thất vọng đâu. Ở đâu, đời sống cũng là đời sống, nó ở trong bản thân ta chứ không phải ở thế giới chung quanh ta. Ở nơi tù đày này thì bên cạnh em, cũng sẽ có những con người và làm một con người giữa đám người, giữ được hoài như vậy dù hoàn cảnh ra sao thì ra, không nản chí, không bỏ cuộc; đó, đời là vậy, chân ý nghĩa cuộc đời là vậy. Em đã lĩnh hội được rồi.” Đọc lời tâm sự của Dostoievsky, ta thật cảm động. Ông đã có một niềm tin tưởng mãnh liệt vào cuộc sống và nhận ra được ý nghĩa của cuộc đời.

Chúa đã làm người, trải nghiệm cảnh bị bắt gian và bị giết như một tên tội phạm, nhưng Chúa vẫn yêu những kẻ làm hại mình. Vì sao vậy Chúa? Nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh, lòng ta ngập tràn niềm tin mến. Ta thân thưa đôi điều: Lạy Chúa Giêsu, tại sao Chúa chấp nhận một cái chết bi thương như vậy? Dostoievsky chịu cảnh tù đày mà lòng vẫn tràn đầy niềm tin tưởng vào cuộc đời vì ông tin vẫn có những con người bên cạnh mình. Ông nắm được ý nghĩa cuộc đời khi nhận ra nó ở trong chính bản thân ông. Chiêm ngắm chân dung của Chúa trong cuộc khổ nạn, lòng con từng bước được Chúa trả lời cho những thắc mắc trong lòng.

Thầy Giêsu rao giảng Tin Mừng trong ba năm, ba năm với biết bao người mộ mến nhưng cũng không ít kẻ hiềm khích và ghen ghét. Giới quần chúng đặc biệt là những người bệnh tật và những kẻ tội lỗi thì luôn tìm cách để được gặp gỡ Thầy, vì tự nơi Thầy phát xuất một năng lực có thể chữa lãnh bệnh tật cho họ. Giới lãnh đạo tôn giáo thì tìm cách giết Thầy cho bằng được. Thầy Giêsu biết rõ cả âm mưu đen tối của các thượng tế và kinh sư. Thầy cũng biết được có kẻ sẽ nộp Thầy, người đó lại là học trò của mình. Thầy vẫn đến với con người mà không hề trốn chạy, không hề tránh né những hiểm nguy đang chờ phía trước. Là con người, Thầy hãi hũng đến nỗi đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu nhưng lòng Thầy vẫn nguyện một lòng “xin cho ý Cha nên trọn thì hơn”.  Bị Giuđa phản bội, Thầy đau lòng hơn ai hết bởi sẽ mất đi một con chiên. Mỗi người đều có một chỗ đứng trong lòng Thầy. Thầy đặt tình yêu và niềm tin nơi con người. Thầy biết rõ con người đầy những yếu đuối và bất trung nhưng thầy vẫn đặt nơi con người một niềm tin. Niền tin đó là gì và xuất phát từ đâu vậy? Niềm tin đó mang tên tình yêu và cũng xuất phát từ tình yêu Thầy dành cho con người, niềm tin tưởng sâu xa xuyên qua cả đau khổ để cho ánh sáng tình yêu tràn ra rửa sạch tâm hồn hoen nhơ của con người. Phêrô chối Thầy ba lần nhưng Thầy không từ mặt, trái lại Thầy đã dùng ánh mắt xót thương để đưa người môn đệ lầm lỗi trở về. Trên cây thập giá chiều nao, Thầy nhận biết bao điều sỉ nhục khinh khi của con người, nhưng lời Thầy thốt lên khi còn chút sức lực cuối cùng không phải là oán trách căm hờn nhưng là tiếng hát yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Lạy Chúa! Khi rước Chúa vào thành thánh trong niềm hân hoan, xin cho con cũng biết rằng Chúa mãi là vua của tâm hồn con. Khi hân hoan rước Chúa trong vui mừng, xin cho con biết nhìn lại những lần tâm hồn con bán Chúa như Giuđa khi con bán mình trong tội lỗi, cũng chối Chúa như môn đệ Phêrô khi hoảng loạn không dám làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin cho con luôn đặt niềm tín thách nơi Chúa như Chúa đã đặt niềm tin tưởng nơi con vì Chúa yêu con. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-441: NGÀI ĐÃ LUÔN


Anna Cỏ May

 

Ứ ừ! Con không muốn xa mẹ đâu. – Mẹ cũng không muốn xa con đâu nhưng con phải đến với Suy niệm Lễlá-441


– Ứ ừ! Con không muốn xa mẹ đâu.

– Mẹ cũng không muốn xa con đâu nhưng con phải đến với các anh của con.

– Không. Con không đi.

– Bạn Tím ơi! Các anh của bạn đang chờ bạn kìa, chỉ còn thiếu bạn thôi. Nếu không có bạn thì không còn là bảy sắc cầu vồng nữa. Mọi người sẽ rất buồn đó.

Nghe các bạn mây gọi, Tím cứ chần chừ mãi. Mẹ Tím ân cần:

– Đúng đó con. Nếu không có con, các anh của con cũng không hoàn thành nhiệm vụ được. Các anh cần con, mọi người cần con.

– Vậy con đi mẹ nha.

– Tạm biệt con.

Mỗi người sinh ra đã có một nhiệm vụ và có một tương lai cho chính mình. Chúa Giêsu cũng giống như bao người khi được sinh ra, được lớn lên trong mái nhà với một sứ mạng riêng. Vậy, sứ mạng của Chúa Giêsu là gì?

Gần gũi với thế giới đau khổ của con người

Trong một thế giới dù tiện nghi đến đâu cũng luôn có những người đau khổ. Họ là những người tội lỗi, bệnh tật, nghèo hèn. Chúa Giêsu đã đến ở giữa, để sống với và sống cho những người như thế. Thánh Luca cho chúng ta biết “Đi đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10, 38). Ngài đã xoa dịu và chữa lành cho tất cả mọi người. Ngài không phân biệt chủng tộc hay tầng lớp xã hội nào. Ngài làm cho kẻ chết sống lại và ân cần ngỏ lời “Anh em có muốn được khỏi bệnh không?” (Ga 5, 6). Ngài khích lệ rằng: “Phúc cho anh em, nếu anh em đang lâm vào hoàn cảnh đó vì Ta.” (x. Mt 5, 3-12). Ngài sống cùng với những con người luôn tính toán “Phí dầu thơm như thế để làm gì…” (x. Mc 14, 4 -5).

Là nạn nhân đầu tiên của sự dữ

Chúa Giêsu đã chấp nhận sinh ra, sống và chết như một người khốn cùng. Ngài chịu sự vất vả ngay cả chỗ tựa đầu cũng không có. “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 58).  Ngài chấp nhận sống trong sự vây hãm của địch thù, bị hiểu lầm từ những người thân tín nhất. Ngài chấp nhận những đau khổ ấy không là cưỡng ép nhưng với một sự tự nguyện hoàn toàn. Ngài trao ban tình yêu nhưng đổi lại Ngài đã nhận lấy sự hận thù. Lời giảng dạy yêu thương của Ngài lại bị khép cho tội xúi dân nổi loạn. Do đó, mạng sống của Ngài luôn bị những kẻ chống đối tìm cách tiêu diệt.

Tại vườn cây dầu, Ngài đã khiếp sợ đến vã mồ hôi máu. Ngài đã bị trao nộp do chính người môn đệ của mình, bị bán với giá chỉ 30 đồng bạc. Không chỉ vậy, Ngài đã bằng lòng trở thành nạn nhân của bao người hèn nhát, không vững lập trường. Môn đệ Phêrô luôn yêu nến Chúa nhưng cũng đã chối Thầy ba lần. Sau cùng, Ngài tự nguyện đi vào sự âm thầm, Ngài không là kẻ phản loạn, chấp nhận nhục nhã với bản án tử hình thập giá với hai người tội lỗi.

Trong đau khổ, Chúa Giêsu đã dạy ta điều gì?
Mỗi khi gặp đau khổ, tự nhiên chúng ta lâm vào tình trạng hoảng loạn, sợ hãi… Chính trong giờ phút đó, nếu có niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ nghe vang lên bên tai lời an ủi của Ngài “Đừng sợ hãi, có Ta ở với ngươi, Ta ban cho ngươi vững mạnh” (Is 41, 10). Ngài đã thấu hiểu nỗi đau khổ của chúng ta bằng chính kinh nghiệm của bản thân. Chúng ta cần được tha thứ như những con chiên lạc được trở về trong vòng tay người Mục tử nhân lành. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23, 34).

Muốn vào thông phần vinh quang của Chúa, không có con đường nào khác là con đường đau khổ. Xin cho chúng con biết dùng những sự vất vả, đau khổ để được kết hợp với Ngài mọi ngày trong cuộc sống.

-------------------------------

 

Suy niệm Lễlá-442: Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá Năm B

 

Khởi đầu Tuần Thánh với Chúa nhật lễ Lá, chúng ta đang cùng với Giáo Hội tưởng niệm lại những Suy niệm Lễlá-442

 
Khởi đầu Tuần Thánh với Chúa nhật lễ Lá, chúng ta đang cùng với Giáo Hội tưởng niệm lại những giây phút cuối đời trần thế của Đức Kitô. Lời Chúa dẫn chúng ta đi vào không khí trang trọng của buổi đón Chúa vào thành Thánh nhưng cũng đưa chúng ta đi qua những biến cố đau thương trên đỉnh đôi Golgotha ngày đó. Bài Thương khó hôm nay không chỉ nhắc lại cho chúng ta những bi kịch đã xảy ra trong những ngày cuối đời của Chúa Giêsu, nhưng quan trọng hơn, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy làm cho biến cố đó trở nên một biến cố trong tâm hồn mỗi người. Hay nói cách khác, Lời Chúa mời gọi mỗi người hãy đặt mình trong bối cảnh của bài Thương khó, để thấy mình trong mỗi nhân vật, có những khi xảo trá, gian dối, phản bội, nhát đảm….những tội lỗi đó nhiều khi đã làm cho hình ảnh Thiên Chúa chúng ta trở nên bầm dập, tan nát khiến tha nhân chẳng còn nhận ra Người nơi mỗi chúng ta là những Kitô hữu.

Trong bài Thương khó chúng ta nghe, gương mặt làm cho chúng ta có thể thấy khó chịu và ác cảm nhất có lẽ là của Giuđa Ítcariôt, người mang danh là kẻ phản bội. Trong bữa ăn tối hôm đó, Đức Giêsu đã bày tỏ tình yêu đến tận cùng với tất cả các môn đệ, không loại trừ ai dù Người biết thấu lòng mỗi người. Người đã lên tiếng cảnh báo: “ Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy” các môn đệ vô cùng buồn rầu và lần lượt hỏi lại Người: “Chẳng lẽ con sao?” và chính Giuđa cũng hỏi Người câu hỏi đó. Khi nghe Giuđa hỏi, thì Đức Giêsu đã đưa ra lời cảnh báo rõ ràng không chỉ còn chung chung nữa: “Chính anh nói đó”. Nhưng ông vẫn quyết tâm thực hiện dã tâm của mình, là bán thầy lấy ba mươi đồng bạc. Ông đã dẫn người đi bắt Chúa, ông dùng nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu để làm dấu chỉ của sự phản bội. Hình ảnh của Giuđa ở đây cho chúng ta thấy rõ ý của câu nói: “Sông sâu biển thẳm dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”.

Còn thánh Phêrô thì sao? Trong bữa tối hôm ấy Chúa cũng cảnh báo cả ông nữa: “ngay đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy”, nhưng ông Phêrô quả quyết: “ dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không”. Rồi Người nhắc nhở ông cách rõ ràng hơn: “nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy ba lần”. Nhưng ông Phêrô vẫn khăng khăng: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không vấp ngã vì Thầy”. Câu nói và thái độ của ông lúc này làm cho người nghe càng cảm thấy dội hơn khi thấy ông chối Chúa chỉ vài giờ sau đó, trước mặt một người đầy tớ gái. Dường như ông không còn nhớ gì đến những lời cảnh báo của Thầy mình, lúc này lòng ông chỉ còn nỗi sợ hãi khiếp đảm, sợ bị liên lụy với Thầy.

Chúng ta nhìn thấy gì nơi hai con người này? Hãy nhìn vào chính mình, để thấy thân phận mỏng manh yếu đuối, và cũng để thấy tình thương của Thiên Chúa bao la, sâu thẳm dường nào. Trong đời sống đức tin của mỗi người, khi cuộc đời bình yên thanh thản, chúng ta có thể dễ dàng tuyên xưng niềm tin cách mạnh mẽ, lòng can đảm là không có thước đo, nhưng chỉ khi sóng gió tràn đến, khi đứng trước những cám dỗ chúng ta mới biết niềm tin của chúng ta yếu đuối dường nào. Chúng ta dễ dàng chối Chúa, chúng ta dễ dàng phớt lờ lời nhắc nhở của Người trong thâm tâm để quyết thực hiện ý đồ của mình, dù biết đó là điều sai trái.

Nhìn vào bối cảnh trước mắt, chúng ta cũng thấy được trách nhiệm của mình trong cuộc khổ nạn của Chúa. Có thể chúng ta cho rằng: Tôi có trách nhiệm gì khi sự kiện đó đã diễn ra cách đây hơn hai ngàn năm ở một nơi xa xôi? Đúng! Chúng ta chẳng liên quan gì, chúng ta không có trách nhiệm gì trên bình diện lịch sử, nhưng chúng ta hãy nhìn lại: Đức Kitô đang sống trong Giáo Hội của Người và chúng ta, mỗi người là một chi thể trong thân thể nhiệm mầu ấy. Vậy chúng ta có trách nhiệm gì không mỗi khi chúng ta phạm tội? Thánh Franxicô Assisi đã nói: “ không phải người Do Thái đã đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá nhưng là chính chúng ta, mỗi khi chúng ta phạm tội là chúng ta đã tự tay đóng đinh Người vào thánh giá”. Đúng vậy! chính chúng ta, những lỗi tội của chúng ta đã làm cho Người bị bầm dập, tan nát đến nỗi: “chẳng còn ai nhận ra” hình ảnh của Người nơi chúng ta. Thay vào đó, họ nhận thấy nơi chúng ta là gương mặt phản bội của Giuđa, gương mặt hằm hằm đầy thù hận của những người biệt phái, gương mặt dễ thay đổi của đám đông xốc nổi, gương mặt nhu nhược, lụy quyền của Philatô.

Phêrô và Giuđa đã làm gì sau khi phạm tội? Tin Mừng thánh Mátthêu kể lại: ông Giuđa hối hận khi nhận ra việc làm sai trái của mình, ông  đem ba mươi đồng bạc đến trả các thượng tế và nói: “Tôi đã phạm tội bán máu người vô tội”, nhưng những người biệt phái lại bảo ông: “Mặc anh, can gì đến chúng tôi”  sau đó, “Giuđa liền ném tiền vào đền thờ rồi ra đi thắt cổ”. Còn ông Phêrô, khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã ra ngoài và ăn năn khóc lóc. Bài học cho mỗi người chúng ta ở đây đó là thái độ của chúng ta khi nhận ra con người tội lỗi của mình. Sự ăn năn, hối hận sau khi phạm tội là chưa đủ, nếu chúng ta chỉ ăn năn, hối hận rồi co cụm lại với chính mình thì sự hối hận đó chỉ dẫn chúng ta đến thất vọng và tuyệt vọng như Giuđa mà thôi. Nhưng nếu chúng ta mở lòng ra để thấy lòng thương xót của Thiên Chúa còn bao la hơn tất cả tội lỗi của cả nhân loại và đón nhận ơn tha thứ, đó mới là điều cần cho một tội nhân trước mặt Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu chịu đóng đinh! Mỗi người  chúng con hôm nay đều thấy bóng dáng của mình trong suốt hành trình Thương khó của Chúa! Chúng con thấy mình hèn yếu và tội lỗi, đều là những người bất hảo, nhưng chúng con cũng thấy tình yêu của Chúa sâu thẳm, bao la dường nào. Chẳng vì điều gì khác hơn là vì tình yêu dành cho loài người chúng con mà Chúa đã chịu cực hình và chịu chết. Xin Chúa chạm vào lòng mỗi người chúng con, để chúng con có thể cảm nhận được tình yêu của Chúa và quay về với Người mỗi khi chúng con vấp ngã. Xin giúp chúng con biết nhìn lên Người trên thánh giá mỗi khi chúng con yếu đuối, khi chúng con phải đối diện với những vu khống, bất công, chà đạp để chúng con có thêm sức mạnh chiến đấu. Xin làm cho mỗi người chúng con khi mang danh Kitô hữu biết làm sáng danh Chúa giữa cuộc đời đầy nghi nan hôm nay. Amen.

CĐ Mến Thánh Giá Yên Bái

-------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây