Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-465 Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa

Thứ bảy - 05/03/2022 07:26
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-465 Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-465 Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-465 Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
--------------------------------------------
Năm A:
Phúc Âm: Mt 4, 1-11- "Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa.

Năm B:

Năm C:


-------------------------------
MC 1-ABC451: NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO TẤT CẢ.. 1
MC 1-ABC452: NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐÓI! 4
MC 1-ABC453: TỰ DO CHỌN CHÚA.. 6
MC 1-ABC454: Trở về. 8
MC 1-ABC455: Thân phận con người 12
MC 1-ABC456: Mong manh mỏng dòn. 13
MC 1-ABC457: Nguy cơ đáng sợ nhất đời 16
MC 1-ABC458: Ba cám dỗ niềm tin. 18
MC 1-ABC459: Chúa Nhật I Mùa Chay. 21
MC 1-ABC460: Chúa Nhật I Mùa Chay. 23
MC 1-ABC461: Trông bạn khác quá - Mark Link. 38
MC 1-ABC462: Trả lại cho Chúa chỗ ngự của Ngài 41
MC 1-ABC463: Hãy cậy trông vào Thiên Chúa. 43
MC 1-ABC464: Cám dỗ trong đời 46
MC 1-ABC465: Suy niệm của Lm. Trần văn Trợ. 48

--------------------

 

MC 1-ABC451: NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO TẤT CẢ


CHÚA GIÊSU CHỐNG LẠI CÁC CƠN CÁM DỖ CỦA MA QUỶ

 

Trong Mùa Chay, Giáo hội thường tập trung vào việc sám hối, chống trả cám dỗ, và cuộc khổ nạn MC 1-ABC451


Trong Mùa Chay, Giáo hội thường tập trung vào việc sám hối, chống trả cám dỗ, và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Đoạn văn hôm nay nhắc chúng ta rằng khả năng sám hối, chống trả cám dỗ của chúng ta đến từ mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và ân sủng cứu độ của Ngài chứ không phải từ sức mạnh và sáng kiến ​​của chúng ta.

Chúng ta đang sống trong một thế giới của những câu chuyện tranh giành nhau. Trong một thế giới như vậy, chúng ta phải biết câu chuyện của Kitô giáo để chống lại những câu chuyện giả dối đang tìm cách bắt giam chúng ta vào ngục tù. Bài đọc trong Luca 4: 1-13 là câu chuyện quen thuộc về việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong nơi hoang vắng. Câu chuyện này được nhiều người biết đến đến nỗi đôi khi chúng ta kết hợp các trình thuật khác nhau trong Mátthêu, Máccô và Luca lại thành một câu chuyện về sự cám dỗ của Chúa Giêsu. Nhưng mỗi trình thuật là độc nhất so với những trình thuật khác. Một nghiên cứu khác có thể so sánh ba trình thuật khác nhau và những trình thuật đó phù hợp với mục tiêu thần học của các thánh sử như thế nào, nhưng chúng ta sẽ tập trung vào trình thuật của Luca về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Khi đọc kỹ văn bản của Luca, chúng ta có thể thấy hai câu chuyện đấu tranh chống lại nhau: câu chuyện mà Chúa Giêsu sử dụng để chống lại ma quỷ và vượt qua những cám dỗ đặt ra trước mặt Ngài một cách thành công và câu chuyện ma quỷ bày ra.

Bối cảnh:

Câu chuyện này xảy ra ở hai địa điểm quan trọng: nơi hoang vắng và Giêrusalem. Trong lịch sử, vùng hoang dã là nơi Chúa gặp dân Do Thái tại Sinai sau khi giải cứu họ khỏi Ai Cập. Trong nơi hoang vắng, Thiên Chúa đã uốn nắn họ thành dân giao ước của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chăm sóc và dẫn dắt bằng mây và lửa. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu cũng được dẫn dắt, lần này bởi Chúa Thánh Thần, trong nơi hoang vắng, và Ngài phải đối mặt với sự cám dỗ bởi kẻ thù nghịch của Ngài là ma quỷ. Vị trí Chúa Giêsu bị cám dỗ trong nơi hoang vắng nhắc chúng ta nhớ đến trình thuật về việc Thiên Chúa giải cứu dân Israel. Về mặt địa lý, vùng hoang dã là một vùng khô cằn ở miền nam Israel giữa vùng đất phì nhiêu gần Biển Địa Trung Hải và các vùng sa mạc nội địa. Đó không phải là nơi không có sự sống như người ta có thể tưởng tượng ra khi nghĩ về những bãi cát của sa mạc Sahara, mà là một nơi cây cỏ chỉ có thể mọc lên làm thức ăn cho đàn gia súc khi có nhiều mưa.

Giêrusalem, thành phố của Đavít, là trung tâm của quyền lực, của bản sắc dân tộc và sự thờ phượng của người Do Thái. Vào thời Chúa Giêsu, ngôi đền thứ hai đã được cải tạo và mở rộng bởi Hêrôđê Đại Đế và là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Nơi quyền lực và sự thờ phượng này là nơi sắp đặt cho cơn cám dỗ cuối cùng.

Nhân vật:

Chúa Giêsu đã được giới thiệu cho chúng ta trong phúc âm Luca. Ngài là Con Thiên Chúa (Luca 3:38), Đấng sẽ mang lại sự cứu độ cho cả người Do Thái và dân ngoại (Luca 2: 29-32), và là Đấng đã được làm phép rửa và được đầy dẫy Chúa Thánh Thần (Luca 3:22; 4 : 1). Bây giờ, Chúa Giêsu được dẫn vào nơi hoang vắng. Đây là phần giới thiệu đầu tiên về ma quỷ trong phúc âm Luca. Từ văn bản này , chúng ta thấy rằng ma quỷ là kẻ táo bạo, tinh ranh, thông minh và mạnh mẽ. Chính ma quỷ là kẻ cám dỗ, kết thúc sự cám dỗ và rời khỏi Chúa Giêsu.

Cốt truyện:

Phần lớn câu chuyện diễn ra trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Chúa Giêsu bị đói sau khi nhịn ăn 40 ngày. Trong những ngày nhịn đói đó, Chúa Giêsu đã bị ma quỷ cám dỗ. Động từ trong câu 2 “bị cám dỗ” là thì hiện tại phân từ biểu thị hành động đang diễn ra. Bài trình thuật ở đây là về ba cơn cám dỗ cuối cùng mà Chúa Giêsu gặp phải vào cuối 40 ngày đó. Trong mỗi lần cám dỗ, ma quỷ nói trước và Chúa Giêsu đáp lại. Câu chuyện kết thúc khi ma quỷ kết thúc sự cám dỗ và rời khỏi Chúa Giêsu, tạm thời.


Bên dưới cuộc đối thoại giữa ma quỷ và Chúa Giêsu là hai cốt truyện đấu tranh. Ma quỷ đưa ra một dẫn dụ về việc từ bỏ sự kiềm chế bản thân - tự làm ra bánh từ đá; về việc tự làm cho mình nên hùng mạnh - tất cả các quốc gia trên thế giới sẽ thuộc về ông nếu ông tôn thờ ta; và về căn tính tôn giáo tư riêng - nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy gieo mình từ trên đỉnh của ngôi đền xuống. Trong khi đó, Chúa Giêsu đáp lại bằng những câu trích dẫn được rút ra từ Cựu Ước cho thấy sự nhận biết về nguồn gốc và căn tính thực sự của sự sống - Ngài biết rằng sự sống không chỉ là thức ăn, sự tin cậy của Ngài vào Thiên Chúa - Đấng đáng được thờ phượng và phụng sự đích thật, và sự hiểu biết về phẩm tính của Thiên Chúa - không phải là điều cần bị thử thách. Những câu trả lời của Chúa Giêsu bắt nguồn từ một câu chuyện tiềm ẩn rằng Ngài phụ thuộc vào Thiên Chúa hơn là phụ thuộc vào sự sống, vinh quang và căn tính của Ngài.

Những cám dỗ:

Những cám dỗ mà ma quỷ bày ra nhằm vào trọng tâm của thân phận Chúa Giêsu. Hai lần (câu 3,9) ma quỷ bắt đầu sự cám dỗ của mình bằng cách hỏi căn tính của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa bằng những lời “nếu ông là Con của Thiên Chúa ” tiếp theo là một thử thách để chứng minh căn tính này bằng một số biểu hiện kỳ diệu (đá thành bánh (câu 3); một cuộc giải cứu đầy kịch tính khỏi cái chết từ thiên thần (câu 9-11). Trong 3 chương đầu của sách Tin Mừng Luca, căn tính của Chúa Giêsu đã được xác nhận bởi Mẹ Maria, bà Êlisabét, ông già Simêon, bà tiên tri Anna, Gioan Tẩy giả và gia phả trong Luca chương 3. Chúa Giêsu không phải làm bất cứ điều gì để chứng minh căn tính của mình hoặc để được khen ngợi như là Con của một vị thần thánh. Ngài được tuyên bố là người sẽ mang lại sự cứu độ cho dân tộc của mình. Đây là chính Ngài, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, nhưng ma quỷ hết lần này đến lần khác cám dỗ Ngài phô bày căn tính của mình theo những kiểu cách nhằm phục vụ bản thân, vốn có thể làm suy yếu căn tính của Ngài là Người Con trông cậy vào các ân huệ tốt lành của Thiên Chúa Cha. Điều đáng nhớ là trong các gia đình ở thế giới cổ đại, con trai trưởng thành thường được hiểu là người đại diện cho người cha. Người cha và người con sẽ làm việc cùng nhau để hoàn thành các mục tiêu của gia đình. Căn tính, danh dự, địa vị của người con trai bắt nguồn từ danh dự và địa vị của gia đình. Chúa Giêsu không cần phải đạt được những điều này bằng cách nhượng bộ trước những cám dỗ của ma quỷ.

Sử dụng Kinh thánh:

Cả Chúa Giêsu và ma quỷ đều trích dẫn Kinh thánh. Để đối phó với sự cám dỗ, Chúa Giêsu trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, nhưng nếu biết Kinh thánh thì chưa đủ. Ma quỷ, trích dẫn Thánh vịnh 91, cũng biết Kinh thánh. Kinh thánh phải được đọc một cách đúng đắn theo bản tính của Thiên Chúa và theo cuộc sống được chỉ dẫn cho dân riêng của Thiên Chúa. Một cuộc sống như vậy phải bắt nguồn từ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài và được đáp trả trong sự vâng lời trung tín với Thiên Chúa hơn là cậy dựa vào sức riêng mình, vốn dĩ là câu chuyện của ma quỷ. mục lục

Ruth Anne Reese - https://www.workingpreacher.org
Phêrô Phạm Văn Trung phỏng dịch

--------------------------------

 

MC 1-ABC452: NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐÓI!

 

Đức Giê-su ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám MC 1-ABC452


Đức Giê-su ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi…”(Mt 4:1-3). Bạn thấy có gì đặc biệt không? Tôi thấy có một điểm đặc biệt rất đáng chú ý, đó là việc Satan bám sát Chúa Giê-su trong bốn mươi ngày đêm, nhưng quỷ chỉ đến gần khi thấy Ngài đói mà thôi!

Tại sao ma quỷ chỉ đến gần Chúa Giê-su khi thấy Ngài đói? Là bởi vì Satan biết rằng, một con người khi bị cơn đói hành hạ, thì lý trí của người ta sẽ không còn đủ mạnh, trí khôn cũng chẳng còn đủ sáng suốt để phân biệt hay hoặc dở, đúng hay sai, tốt hay xấu…Nó nghĩ rằng Chúa Giêsu, sau bốn mươi ngày chay tịnh vừa đói vừa mệt, chắc chắn Ngài cũng giống như mọi người. Vì thế cho nên nó mới đến để cám dỗ Ngài:“Tôi sẽ cho ông tất cả những [vinh hoa phú quý, lợi lộc tiền tài…] nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Thế nhưng Satan đã lầm! Chúa Giê-su không yếu đuối như nó nghĩ! Ngài vẫn còn đủ lý trí và đủ khôn ngoan để phản công:“Satan cút đi, Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Bạn thân mến, xưa cũng như nay, Satan vẫn dùng cái phương pháp cổ lỗ sĩ của nó để cám dỗ người ta, (nhưng nhiều người vẫn bị dụ như thường). Nó chỉ chờ đến khi người ta, trong đó có tôi và có bạn, bị đói, bị khát về mặt thể xác cũng như tinh thần…là nó sẽ xáp vào để tấn công, để cám dỗ chúng mình phạm tội.

Bạn có muốn vô hiệu hóa những thủ đoạn của Satan, và có muốn đứng vững trước những mưu mô, và có muốn chống trả lại được những cám dỗ của Satan không? Nếu muốn thì bạn và tôi phải sáng suốt và phải cố gắng, đừng để mình rơi vào tình trạng thiếu thốn, đói khát, suy nhược cả về mặt thể xác cũng như về mặt tâm linh.

Về mặt thể xác, xin hãy siêng năng lao động, cố gắng làm việc để nuôi thân, và để chăm lo cho những người trong gia đình của mình. Đừng chê bai việc này ít tiền, việc kia không xứng với bằng cấp của bạn, hay việc nọ quá nặng nhọc…Đừng bao giờ để mình bị đói khát về mặt vật chất, thiếu thốn cơm áo gạo tiền, bởi vì khi đói khát và thiếu thốn, thì sinh ra lắm tội lắm, vì thế cho nên mới có những câu ca dao đói ăn vụng túng làm liều và bần cùng sinh đạo tặc. Khi bị đói khát, khi bị thiếu thốn cơm ăn áo mặc, Satan sẽ nhào đến cám dỗ mình phạm những tội mà khi mình no đủ, mình sẽ không bao giờ dám nghĩ tới, chứ đừng nói đến chuyện phạm tội, ví dụ như buôn bán xì ke ma túy, trồng thuốc phiện, cá độ, cờ bạc, gian dối, lừa đảo, trộm cắp, giết người…

Về mặt tâm linh, bạn và tôi đừng để chúng mình rơi vào tình trạng đói khát Lời Chúa, thiếu thốn Bánh Trường Sinh, tức là Bí Tích Thánh Thể… Bởi vì khi lâm vào cảnh đói khát của ăn thiêng liêng, thì quỷ Satan sẽ không để cho bạn và tôi yên đâu! Nó sẽ lại gần, nó sẽ cám dỗ để bạn và tôi nghe theo lời dụ dỗ của nó. Lúc đói của ăn thiêng liêng, chúng mình chắc chắn sẽ không có khả năng để phân biệt giữa thiện và ác, giữa phải và trái…Lúc đó chúng mình sẽ bị Satan cám dỗ, sống kiêu căng, ngạo mạn, ăn chơi trác táng để thỏa mãn những thú vui xác thịt, và làm những điều vô luân như phá thai, tự tử, trợ tử... Bạn thấy đấy, cái đói về của ăn thiêng liêng gây ra nhiều nguy hiểm lắm!

Để phần tâm linh của chúng mình được no đủ và không bị thiếu thốn, bạn và tôi hãy chú ý đến những điều sau:

1. Siêng năng tham dự thánh lễ, xin đừng nghĩ đến tham dự mỗi ngày Chúa Nhật là đủ. Nhưng hãy đến tham dự thánh lễ mỗi ngày, để cho linh hồn của bạn được lãnh nhận Thần Lương, là Mình Thánh Chúa. Thêm một bữa ăn cho linh hồn của bạn là chuyện rất cần thiết vì đó là lẽ công bằng. Bạn cho phần xác của bạn ăn ba bữa một ngày, trong khi đó phần linh hồn thì bạn chỉ cho ăn một tuần một bữa thì không phải là bất công sao?

2. Cố gắng đọc và học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày, chỉ cần đọc khoảng năm phút một ngày thôi. Lời Chúa chính là Thiên Chúa, sẽ thấm nhập vào trong tâm hồn chúng ta và sẽ ở lại trong chúng ta. Khi có Chúa ở với chúng mình, thì tôi cam đoan Satan sẽ không dám bén mảng đến gần chúng mình đâu!

Hôm nay là Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban ơn trợ giúp, để bạn và tôi trong Mùa Chay này, cũng như trong những ngày sắp tới, luôn cố gắng chăm chỉ lao động, siêng năng làm việc, trung thành tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, đọc Kinh Thánh cũng như suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, nhờ vậy phần thể xác cũng như phần linh hồn của chúng mình sẽ được no đủ, sẽ được khỏe mạnh, và sẽ có đủ sức để chống lại những mưu chước, những cám dỗ và những cạm bẫy của Satan. Happy Lent!  mục lục

Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

-------------------------------

 

MC 1-ABC453: TỰ DO CHỌN CHÚA

 

Chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một MC 1-ABC453


TMĐP- Chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một con đường tự do không chọn Chúa, khi bất tuân phục Ngài.

Các bài đọc phụng vụ của chúa nhật này đặt cho chúng ta một  câu hỏi rất quan trọng và nền tảng, đó là: “Tôi có muốn chọn Thiên Chúa không?”.

Câu hỏi này ngay từ buổi đầu tạo thiên lập địa đã được đặt ra cho ông bà nguyên tổ khi Rắn nói với Evà: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (St 3,1).

Câu hỏi thứ nhất của Rắn mở ra cho Evà một sự thật, đó là bà có tự do, đồng thời cho bà nhận ra mình có thể nói “không” với cả Thiên Chúa, nghĩa là có khả thể từ chối  lệnh cấm “không được ăn trái trên  cây ở giữa vườn” của Thiên Chúa.

Tiếp liền theo câu hỏi thứ nhất, Rắn Xatan mở rộng đường “tự do” cho Evà với dã tâm dẫn bà đi vào phản bội Thiên Chúa bằng kiểu trấn an, đưa đẩy quen thuộc: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3,4-5).

Và Evà đã sập bẫy Rắn độc khi sử dụng tự do của “con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27) để chọn không vâng lời Thiên Chúa, khi nói “không” trước lệnh Ngài bằng “hái trái cây” Thiên Chúa cấm “mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn” (St 3, 6).

Cũng như nguyên tổ có tự do chon vâng phục hay bất tuân phục Thiên Chúa khi Rắn cám dỗ ăn trái cấm, Đức Giêsu cũng có tự do khi ma quỷ cám dỗ Ngài trong hoang địa. Nhưng khác với nguyên tổ, Đức Giêsu đã  tự do chọn vâng phục Thiên Chúa, Cha Ngài bằng khẳng định với Xatan: Ngài chính là Con Thiên Chúa, khi tuyệt đối vâng lời và tín thác vào ơn phù trợ của  Cha Ngài, tuyệt đối cậy dựa vào sức mạnh của lời Thiên Chúa.

Ngài  tự do chọn Thiên Chúa, khi trung thành sống “mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); tự do chọn Thiên Chúa, khi vâng phục, mà không nghe lời Xatan thử thách Thiên Chúa (x. Mt 4, 7);  tự do chọn Thiên Chúa, khi không thờ phượng, bái lạy ai, ngoài một mình Thiên Chúa, Cha Ngài (x. Mt 4, 10).

Thánh Phaolô quảng diễn một cách tài tình gương mặt tự do của nguyên tổ và của Đức Giêsu: một bên là tự do bất tuân phục đã đưa đến sự chết, một bên là tự do vâng phục đã mang lại sự sống khi viết cho giáo đoàn Rôma: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5, 18-19).

Vâng, trước mặt chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một con đường tự do không chọn Chúa, khi bất tuân phục Ngài. Nói cách khác, chúng ta có gương không vâng phục của Ađam – Evà, và gương vâng phục của Đức Giêsu để chọn cho mình câu trả lời trước vấn nạn đầu tiên và nền tảng của mùa chay trở về: “Tôi có muốn chọn Thiên Chúa không?”.

Với tâm tình của người con thống hối trở về, chúng ta xác tín như thánh Phaolô: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5, 15), và khiêm tốn thân thưa: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài… Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm… Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính ” suốt đời con (Tv 50, 6.11.16).

Jorathe Nắng Tím

--------------------------------------

 

MC 1-ABC454: Trở về


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua MC 1-ABC454


Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua, mỗi chúng ta cũng cần phải có những điểm dừng để nhìn lại cuộc đời đang sống. Như bản nhạc cuộc đời có những dấu lặng để tăng thêm âm điệu sâu lắng, cuộc sống của chúng ta cũng phải có những giây phút thinh lặng để trở về với chính mình. Mùa Chay chính là điểm dừng chân để nhìn lại chặng đường đời đã qua. Mùa Chay cũng chính là dấu lặng trong bản nhạc cuộc đời, để giúp chúng ta suy xét những hay dở, những phải trái trong cuộc đời đầy đa đoan này. Phụng vụ của Giáo Hội đã mượn lời thánh Phaolô để gọi Mùa Chay là “mùa Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (x. 2 Cr 62b).

Bốn mươi ngày của Mùa Chay phác họa nhiều sự kiện quan trọng trong Cựu Ước. Đó là 40 ngày mưa lớn gây trận Đại hồng thủy để xóa sạch nhân loại vương tội lỗi. Đó cũng là 40 ngày ngôn sứ Elia chạy trốn trước sự săn đuổi của vua Achab và hoàng hậu Isabel, sau khi ông “đơn thương độc mã” chiến đấu với 450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Ông đã chiến thắng và làm cho những tiên tri này hổ thẹn và bị giết. Mùa Chay cũng nhắc lại 40 năm dân Do Thái lữ hành về Đất hứa. Đặc biệt, 40 ngày của Mùa Chay nhắc lại 40 ngày Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện. Ở đó, Người chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ.

Thực ra, Thiên Chúa thi ân và ban ơn cứu độ trong mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người. Ơn cứu độ và phúc lành của Chúa như mưa xuống cho mọi tạo vật, như ánh mặt trời chiếu soi khắp mặt đất. Tuy vậy, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để chúng ta đón nhận phúc lành của Chúa. Phụng vụ Mùa Chay là lời mời gọi chúng ta hãy trở về.

Trước hết là trở về với Chúa: Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: mỗi khi phạm tội là chúng ta đi lạc đường. Dù thuộc nền văn hóa hay chủng tộc nào, Thiên Chúa luôn mời gọi con người bước đi trên con đường công chính, trung thành tuân giữ những giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Phạm tội là đi ngược lại với những gì Chúa muốn. Tội lỗi làm cho con người xa Chúa, không còn sống trong mối thân tình mật thiết với Ngài nữa. Tác giả sách Sáng Thế, trong Bài đọc I của Phụng vụ hôm nay đã viết về sự sa ngã của đôi bạn đầu tiên của nhân loại, tức là ông Ađam và bà Evà. Đây là trang sử buồn, để lại dấu ấn không phai mờ về sự phản bội của con người đối với những lệnh truyền của Chúa. Đây cũng biến cố đau thương, làm cho con người và Thiên Chúa xa nhau. Trình thuật này được đọc lên trong phụng vụ của Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay đề giúp chúng ta nhận ra thận phận hèn yếu của mình.

Có lẽ bà Evà nghĩ rằng: ăn một trái cây có quan trọng gì! Tuy vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là một trái cây mà là lệnh truyền của Thiên Chúa. Con rắn là tác nhân trực tiếp của cám dỗ. Ở đây nó được trình bày giống như một con người, cũng lý luận, kích động, gieo rắc nghi ngờ. Không chỉ là thèm muốn một trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt”, mà bà Evà còn nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa. Thế ra, Ngài không tốt lành như bà nghĩ trước đây, vì Ngài sợ bà trở nên khôn ngoan biết mọi sự nên Ngài cấm bà không được đụng vào trái của cây ở giữa vườn. Một khi bà nghi ngờ Thiên Chúa, thì bà cũng phủ nhận hết những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho hai ông bà. Sự nghi ngờ lòng tốt của Chúa là lý do dẫn đến việc bà phạm tội, tức là ăn trái cấm.

Trình thuật cám dỗ của tác giả sách Sáng thế cho chúng ta thấy sự bất hạnh của thân phận con người khi họ phạm tội. Sự bất hạnh này được diễn tả qua mâu thuẫn trái ngược giữa lời hứa của con rắn với thực trạng của ông bà sau khi phạm tội. Mắt ông bà mở ra, nhưng thay vì họ trở nên như những vị thần như con rắn hứa hẹn, thì ông bà lại thấy mình trần truồng. Một sự thật nghiệt ngã mà ông bà phải chứng kiến đó là sự bất hạnh và xấu hổ nhục nhã của ông bà sau khi phạm tội. Xấu hổ về sự trần truồng là hậu quả của tội, vì trước đó ông bà cũng trần truồng mà không xấu hổ. Điều ông bà khám phá sau khi phạm tội không phải là phẩm giá cao quý của mình như con rắn đã rủ rê, mà là sự bất hạnh, sự yếu hèn, cô độc và đáng thương.

Trở về với Chúa chính là tâm tình sám hối, nhận ra thân phận tội lỗi và yếu hèn của mình, để xin Chúa tha thứ.

Tinh thần trở về của Mùa Chay cũng là trở về với chính mình: con người bôn ba vật lộn với cuộc sống, đầy những toan tính bon chen, nhiều khi đánh mất chính mình. Họ không nhận ra mình là ai trong vũ trụ mênh mông này. Ađam và Evà đã chối bỏ thân phận thụ tạo, muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa. Con người ngày nay đánh mất mình khi chối bỏ sự hiện hiện của Chúa trong cuộc đời và không muốn nhận mối tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo Hóa. Khi đánh mất mình, con người cũng phủ nhận mối tương quan với anh chị em mình, để rồi sống ích kỷ, hận thù, bất bao dung và chia rẽ oán hờn. Mùa Chay nhắc chúng ta hãy trở về với chính mình nhận ra mình chỉ là một “đóa hoa vô thường” trong vũ trụ. Như một đóa hoa nay còn mai mất, chúng ta cần phải hướng về vĩnh cửu, bằng những cố gắng nên hoàn thiện trong đời sống hiện tại.

Sau cùng, Mùa Chay là mùa trở về với tha nhân: Con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo cô đơn, nhưng có liên đới với anh chị em mình. Những mâu thuẫn nảy sinh ở mọi lãnh vực khác nhau đều phát xuất từ tính ti tiện, ích kỷ và ghen tương. Trở về với tha nhân là nhận ra nơi họ những điểm tốt lành, đồng thời nhận ra nơi chính bản thân chúng ta cũng có những khuyết điểm. Trở về với tha nhân là thực thi lòng bao dung nhân hậu đối với những lầm lỗi của người khác. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có phải bảy lần không?. Chúa trả lời: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Như thế, sự tha thứ không dừng lại ở những con số, nhưng là tha thứ vô điều kiện. Hơn nữa, cùng với sự tha thứ bao dung, chúng ta còn thể hiện tình yêu mến đối với người xúc phạm mình. Nếu con người biết thực thi lòng bao dung đối với nhau, thì cuộc đời này sẽ tươi đẹp biết bao, và vương quốc Đức Giêsu rao giảng sẽ được thực hiện trên trần gian này.

Để thực sự trở về với Chúa, với chính mình và với tha nhân, con người phải trải qua những chiến đầu kiên cường. Phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Tên cám dỗ, đã xuất hiện ở đầu lịch sử để cám dỗ ông Ađam và bà Evà, giờ đây lại tái xuất để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Thánh Matthêu đã gọi đích danh tên cám dỗ là “quỷ”. Khi đặt ra những điều hấp dẫn gọi mời, không phải quỷ có ý thử xem Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không, nhưng nó muốn phá vỡ chương trình của Thiên Chúa. Thực ra, quỷ biết rõ Chúa Giêsu là ai. Sau này nhiều lần chúng đã hô lên trước đám đông để nói về thân phận và nguồn gốc của Người. Ví dụ trường hợp được thánh Mác-cô ghi lại: khi Chúa Giêsu chữa cho người bị thần ô uế nhập tại Hội đường Caphanaum, thần ô uế đã la lớn tiếng rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệu chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1-23-24). Theo trình thuật của thánh Mátthêu, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu cùng một cách thức như nó đã cám dỗ bà Evà. Cũng vuốt ve, cũng lý luận, cũng hứa hẹn. Như chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước những lời ngon ngọt của ma quỷ. Người đã chiến thắng cám dỗ. Người không để cho quỷ lừa đảo bằng những “lời nói có cánh” dịu ngọt của nó.

Lịch sử không may có Ađam là nguyên nhân gây nên tội ảnh hưởng mọi thế hệ, nhưng lại may mắn vì có Chúa Giêsu. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của sự chết. Ngài đã có sáng kiến sai Con Một của Ngài đến trần gian để phục hồi phẩm giá của họ, dẫn họ về với tình trạng thánh thiện của thời ban đầu, thời mà Chúa hằng ngày đi dạo với con người trong làn gió hiu hiu thổi của buổi chiều hôm. Nhờ Đức Giêsu mà hôm nay, chúng ta không chỉ đi đàm đạo với Chúa, mà được Chúa nhận làm con, được Chúa nuôi dưỡng và yêu thương ấp ủ vỗ về. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II đã khẳng định: “Tình yêu  thương của Chúa mãnh liệt đến nỗi ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Thánh nhân cũng đã so sáng giữa ông Ađam ở khởi đầu lịch sử với Đức Giêsu Kitô, đấng được gọi là Ađam thứ hai, cũng là Ađam cuối cùng. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Đức Giêsu là nguyên lý của sự sống. Nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, mà nhân phẩm và danh dự của chúng ta được phục hồi.

Ma quỷ đã xuất hiện ở khởi đầu lịch sử để cám dỗ bà Evà. Nó cũng đã xuất hiện khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai để loan báo Tin Mừng. Ma quỷ cũng vẫn đang hiện diện trong cuộc đời để lừa lọc, gây chia rẽ và làm cho chúng ta xa cách Chúa. Vì thế, Mùa Chay là mùa chiến đấu thiêng liêng giữa ánh sáng với tối tăm, giữa thánh thiện với tội lỗi. Mùa chay cũng là mùa trở về để nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa trước khi con người phạm tội, để nối lại tình huynh đệ thân thương với anh chị em mình. Nhờ thành tâm trở về, mỗi chúng ta sẽ được canh tân, hòa giải và trở nên tạo vật mới trong Đức Kitô.

------------------------------

 

MC 1-ABC455: Thân phận con người


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Satan đột nhập lòng người, vì con người khi phạm tội đã trở nên giống ma quỷ trong hành vi MC 1-ABC455


Satan đột nhập lòng người, vì con người khi phạm tội đã trở nên giống ma quỷ trong hành vi chống đối Thiên Chúa. Tội lỗi đã đột nhập thế gian. Đây là cách nói nhân hình, nhân cách hóa tội.

Tội là một thuộc tính của hành vi, khi người ta không hành xử như một con người, không sống như Thiên Chúa muốn con người sống!

Adam và Eva đã không vâng phục Thiên Chúa khi ăn trái cấm, và hơn nữa đã không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đã tin vào satan hơn tin vào Thiên Chúa, đã muốn tự mình quyết định và không tùy thuộc Thiên Chúa nữa. Con người phạm tội và sống bất hạnh, khi con người lấy mình làm tiêu chuẩn, cho mình là nhất!

Không tin vào Thiên Chúa, thì làm sao con người có thể tin vào nhau?! "Một lần bất tín, vạn lần không tin".

Bất hạnh!

Đức Yêsu đã tới. Qua Ngài, con người có thể thắng được cám dỗ, khi người ta chọn Thiên Chúa trên tất cả, khi người ta cậy dựa vào Đức Yêsu. Nếu Thiên Chúa là nhất, nếu xác thịt và những thú vui của xác thịt tôi không phải là nhất, thì tôi không phạm tội và tôi sống hạnh phúc.

Như mỗi người chúng ta, và như tất cả mọi người, Đức Yêsu đã bị cám dỗ về của ăn, đòi cho mình là nhất, và quyền hành.

. Người ta lo cho tìm kiếm của ăn, tìm kiếm những gì thuộc về trần thế! Thực sự của ăn là cần, và chính Chúa Yêsu cũng dạy chúng ta cầu xin cho được bánh ăn hằng ngày trong kinh "Lạy Cha", nhưng của ăn không là tất cả! "Con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bởi Lời Chúa". Người ta còn một nhu cầu khác quan trọng hơn! Có bao người giầu có, cơm dư gạo thừa, mà họ vẫn sống chán nản và đau khổ. Cơm bánh thôi, chưa đủ.

. Có bao lần người ta đòi Thiên Chúa làm theo ý người ta! "Chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Con người phải làm theo ý Thiên Chúa chứ không đòi hỏi Thiên Chúa phải làm theo ý mình.

. "Tôi hiến cho Ngài tất cả, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi"! Chỉ một hành vi nhỏ không chính đáng nhưng được lợi tất cả, tại sao Đức Yêsu không làm? Đức Yêsu không làm, vì nếu Đức Yêsu làm, thì Ngài không thể là Ngài, thì Ngài không thể thực hiện ý Thiên Chúa Cha được.

Chúa Yêsu đã bị cám dỗ, không chỉ trong hoang địa mà còn trong suốt đời, nhất là giây phút cuối đời Ngài trên thập giá "nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng tôi tin" (Mt.27, 42), và Ngài chiến đấu chống cám dỗ đến độ đổ máu (Dt.12, 4).

Xin cho chúng ta biết nhìn lên Đức Yêsu và noi theo gương Ngài, tựa vào Ngài để chiến đấu chống mọi cám dỗ xúi ta phạm tội, làm ta mất nhân phẩm, và mất sự bình an hạnh phúc với Thiên Chúa và tha nhân.

-----------------------------

 

MC 1-ABC456: Mong manh mỏng dòn


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Đã là người, ai cũng bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu. Bị cám dỗ, và bị cám dỗ liên lỉ, cũng không hàm MC 1-ABC456


Đã là người, ai cũng bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu. Bị cám dỗ, và bị cám dỗ liên lỉ, cũng không hàm nghĩa người bị cám dỗ là người yếu hèn. Chỉ khi nào con người phạm tội, thuận theo cám dỗ, con người mới trở nên xấu mà thôi. Tuy dù mỏng dòn, nhưng con người được mời gọi để trở nên cao thượng và tuyệt vời hơn.

1. Con người đầu tiên đã phạm tội

“Thiên Chúa nắn con người từ bùn đất, thổi sinh khí vào, và con người trở nên sinh vật sống động”. Khoa học chấp nhận thuyết tiến hoá. Vật chất tiến hoá từ vật chất vô cơ đến hữu cơ, vô sinh đến hữu sinh, từ loài không có xương sống đến có xương sống, từ động vật không có vú (vô nhũ) đến động vật có vú (hữu nhũ), từ khỉ đến người. Có một số người không hiểu biết nhiều về Kinh Thánh muốn đối kháng Kinh Thánh và khoa học, cho rằng Kinh Thánh sai lầm và dạy những điều ấu trĩ trái khoa học. Thực ra Kinh Thánh không nhằm dạy những kiến thức khoa học, nhưng Kinh Thánh dùng những kiến thức đương thời để truyền đạt sứ điệp mặc khải. Điều Kinh Thánh muốn nói ở đây, không là con người được tạo dựng thế nào, nhưng là con người được Thiên Chúa tạo dựng, con người vừa là vật chất vừa là tinh thần, vừa mong manh như đất sét vừa tuyệt vời vì có Thần Khí của Thiên Chúa.

Trong cuộc chiến với với ma quỷ, được biểu trưng qua con rắn, con người đã bị thua. Tuy nhiên, dù bị cám dỗ, nhưng con người vẫn hoàn toàn tự do, con người có thể không phạm tội. Phạm tội là hành vi tự do của con người. Ai cũng bị cám dỗ, nhưng không phải ai cũng phạm tội. Cám dỗ, thuộc bản chất con người; nhưng phạm tội không là bản chất con người. Tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội dạy Kitô hữu biết Mẹ đã không phạm tội. Cám dỗ là cuộc chiến nội tâm, nơi đó con người được mời gọi để siêu vượt, để vươn lên theo tiếng gọi thần linh, để sống cao thượng hơn. Một cách cụ thể, cám dỗ là khuynh chiều sống theo bản năng chứ không theo lý trí “hướng thiện”. Chính khi sống theo lý trí “hướng thiện”, con người trở nên cao thượng hơn, hạnh phúc hơn, giúp người khác vui và hạnh phúc hơn.

Adam và Evà đã phạm tội, không vâng lời Thiên Chúa, không tin vào lời Chúa mà tin vào lời con rắn, tin vào ma quỷ hơn tin vào Thiên Chúa, nghi ngờ Thiên Chúa yêu thương mình, cho rằng Thiên Chúa muốn ngăn cản mình thành “thần”. Tội lớn nhất, là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Tin vào mình hơn tin vào Thiên Chúa, muốn làm chủ đời mình chứ không muốn phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa yêu thương. Hậu quả của tội, là bất an, không hạnh phúc. Ai không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, ai không sẵn sàng phó thác đời mình nơi Thiên Chúa, người đó không thể sống bình an và hạnh phúc.

2. Thiên Chúa muốn cứu độ con người

Khi con người phạm tội, không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, con người loay hoay với chính mình, sợ người khác chiếm điều tốt của mình, nên tìm cách tiêu diệt người khác, kể cả những người thân yêu của mình. Cain đã giết Abel, con người giết hại lẫn nhau. Không tin vào Thiên Chúa, không tin vào con người, làm sao sống hạnh phúc, làm sao sống bình an! Con người phạm tội đã sống trong “hoả ngục” ngay tại trần gian.

Thiên Chúa đã yêu thương, và vẫn luôn yêu thương con người. Khi con người phạm tội, con người phá huỷ chương trình của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục công trình cứu độ con người. Tình yêu Thiên Chúa lớn hơn sự bất trung và thất tín của con người. Thiên Chúa tiếp tục công trình cứu độ mỗi người qua những tác động mời gọi, yêu thương, tha thứ. Ngài luôn luôn tỏ cho con người thấy, Ngài vẫn yêu thương dù con người bất trung thất tín, dù con người quay lưng lại với Ngài. Ngài vẫn dùng người này người kia, để nói với mỗi người về sự quan phòng và yêu thương tha thứ của Ngài. Qua những biến cố trong đời, Thiên Chúa luôn nói với con người: Ngài vẫn đang yêu thương và mời gọi con người trở lại với Ngài, đáp lại tình yêu của Ngài bằng tin tưởng phó thác đời mỗi người cho Ngài.

Hành vi tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, là Ngài cho Con Ngài nhập thể. Đức Yêsu là người hoàn toàn như bất cứ ai. Ngài cũng chịu những cám dỗ mà con người phải chịu, Ngài bị cám dỗ mạnh và nặng nề như bất cứ người nào bị cám dỗ nặng nề và dai dẳng nhất. Qua cuộc sống tại thế, Đức Yêsu dạy con người con đường sống để hạnh phúc đích thực.

3. Đức Yêsu bị cám dỗ nhưng Ngài vượt thắng

Cám dỗ cơm bánh, là cám dỗ bình thường và gần gũi nhất đối với con người. “Có thực mới vực được đạo”. Đã bốn mươi ngày đêm ăn chay, nếu không ăn có thể sẽ chết. Cám dỗ biến đá thành bánh là một cám dỗ rất “hợp lý”. Đức Yêsu chấp nhận thân phận làm người. Là người, không thể làm đá thành bánh được. Chấp nhận giới hạn con người, là một điều kiện giúp con người hạnh phúc.

Nhẩy từ đỉnh đền thờ xuống, sẽ được mọi người kính phục, giúp họ dễ dàng đón nhận những gì Đức Yêsu rao giảng. Đức Yêsu đã không làm theo điều ma quỷ đề nghị; Ngài không bắt Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ của mình cho dù “hợp lý” theo một khía cạnh nào đó. Khiêm tốn, không đòi trổi trang, không buộc Thiên Chúa phải làm theo ý mình, là cách hành xử giúp con người hạnh phúc.

Cám dỗ về quyền hành cũng là một cám dỗ thường xảy ra với mọi người, kể cả nơi các đấng bậc trong Giáo Hội và nơi gia đình. Có người nghĩ rằng một khi có quyền hành, họ sẽ làm người khác sống tốt, và giới hạn được sự dữ. Chỉ cần đánh đổi một chút xíu: bái lạy ma quỷ, là được những gì mình cần để làm cho thế giới này tốt hơn. Sự thật không phải vậy. Suy phục Thiên Chúa, mới làm cho con người hạnh phúc thật.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, tội là gì? Tội huỷ hoại con người đến độ nào? Xin cho ví dụ.
2. Cám dỗ là gì? Bị cám dỗ nhiều, có là dấu chỉ mình sa đoạ và thấp hèn không? Tại sao?
3. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Bạn hiểu sao về lời kinh “Lạy Cha” này?

-----------------------------------

 

MC 1-ABC457: Nguy cơ đáng sợ nhất đời


mhtm
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Đối với rất nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số người bịa ra MC 1-ABC457


Đối với rất nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số người bịa ra để hù dọa những người yếu bóng vía. Họ cho rằng ma quỷ không có thật và cho dù có thật đi nữa, chúng cũng chẳng đáng cho ta quan tâm, chẳng cần cảnh giác.

Nghĩ như thế là mắc mưu ma quỷ rồi, vì theo lời Đức thánh Cha Phan-xi-cô, “Sa-tan cố tìm cách làm cho mọi người tin rằng chúng không còn tồn tại trong thế kỷ này” để người ta khỏi biết đến chúng và mất cảnh giác với chúng.

Ma quỷ có thật

Kinh thánh cho chúng ta biết sự hiện hữu của ma quỷ là một sự thật hiển nhiên.

Ngay từ khi nguyên tổ loài người được tạo nên, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ, để lôi kéo tổ tông loài người đừng vâng theo lời Chúa dạy, đừng đi theo đường lối Ngài và hai ông bà đã nghe theo lời dụ dỗ của Sa-tan. Thế là thảm họa đã xảy ra từ đó.

Rồi khi Chúa Giê-su vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, ma quỷ cũng đến cám dỗ Ngài, không chỉ một lần mà là đến 3 lần và sau 3 lần thua trận, “ma quỷ rút lui để chờ cơ hội khác” (Lc 4,13).

Và trong 3 năm rao giảng, Chúa Giê-su đã nhiều lần trục xuất ma quỷ khỏi nhiều người bị chúng ám hại và Ngài cũng ban cho các môn đệ quyền năng để xua trừ ma quỷ.

Gần với thời đại chúng ta hơn thì phải kể đến việc ma quỷ đã quấy phá cha thánh Gioan Vianney suốt 35 năm trời bằng đủ mọi hình thức đáng ghê sợ khiến ngài hầu như không thể nào ngủ được. Sự việc này đã được tòa án tuyên thánh cho ngài xác nhận là sự thật.

Thánh Phê-rô cũng xác nhận rằng ma quỷ vẫn đang rình rập quanh ta và dạy chúng ta phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Và từ ngày Đức thánh Cha Phanxicô đảm nhậm trọng trách Giáo hoàng đến nay, ngài đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu rằng ma quỷ có thật, ma quỷ luôn hiện diện quanh ta và chúng ta phải luôn cảnh giác với chúng. Ngài nói: "Ma quỷ đang ở quanh ta … trong thế kỷ 21 này!" Ngài kêu gọi: Xin mọi người “đừng thờ ơ trong việc này! Hãy luôn luôn cảnh giác.”

Ma quỷ rất đáng sợ

Chính ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt ý định phản nộp Chúa Giê-su[1] cũng như đã nhập vào y để thúc đẩy y thực hiện hành vi bán Chúa.[2]

Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng điều xấu là do ác quỷ mà ra.[3]

Hiện nay, ma quỷ có một đạo binh rất đông đảo, rất hùng hậu, rất tinh nhuệ và rất thiện chiến… đang bủa ra khắp nơi để tấn công loài người, tàn phá những giá trị đạo đức, làm suy sụp nền luân lý lành mạnh, làm cho rất nhiều gia đình tan vỡ…

Ma quỷ lôi kéo rất nhiều người vào con đường tội lỗi, sa đọa vì rượu bia, ma túy, mại dâm, đàng điếm, trộm cướp, hận thù, đâm chém, hoang đàng, trác táng…

Ma quỷ xúi giục người ta tham ô, làm hàng giả, sản xuất thực phẩm độc hại, buôn bán ma túy, buôn người…

Ngay cả Chúa Giê-su mà còn bị ma quỷ cám dỗ 3 lần trong hoang địa và sau đó ma quỷ còn chờ cơ hội để cám dỗ tiếp, thì ma quỷ cũng không buông tha cho bất cứ ai trong chúng ta.

Ma quỷ là thù địch đáng sợ hơn bất cứ thù địch nào trên thế gian vì chúng có trăm phương nghìn kế để lừa dối, để mê hoặc, để lôi cuốn người ta vào con đường tội lỗi.
Vô vàn phim ảnh, sách báo, các thể loại ca múa nhạc và văn hóa phẩm đủ loại nhằm kích động bạo lực, tình dục, chia rẽ, hận thù… tràn lan khắp nơi trên thế giới là những phương tiện ma quỷ thường dùng để làm băng hoại bao tâm hồn và xô đẩy nhiều người xuống hỏa ngục.

Trong khi đó, điều rất đáng quan ngại là nhiều người không hề quan tâm, không hề cảnh giác trước những nguy cơ rất đáng sợ này.

Chính vì thế, Đức thánh Cha Phan-xi-cô đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu phải luôn luôn cảnh giác đối với ma quỷ và ngăn ngừa những tác hại do chúng gây ra.

Và thánh Phê-rô cũng nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Lạy Chúa Giê-su,

Ma quỷ thì khôn ngoan xảo quyệt, chúng như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé, còn chúng con chẳng khác gì cừu non trước đàn sói dữ, khó lòng thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nếu không được Chúa bảo vệ chở che.

Xin luôn bảo vệ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống tiết độ và tỉnh thức như lời Chúa dạy để khỏi sa vào móng vuốt kẻ thù rất đáng sợ này. Amen.
----------------------------------
[1] Ga 13,2
[2] Ga 13, 27. Lc 22,3
[3] Mt 5,37

------------------------------

 

MC 1-ABC458: Ba cám dỗ niềm tin


(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

 

Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ. Con người chúng ta cũng luôn bị cám dỗ. Chúng ta hãy thử khảo MC 1-ABC458


Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ. Con người chúng ta cũng luôn bị cám dỗ. Chúng ta hãy thử khảo sát ba cám dỗ dưới ba chiều kích tương quan  với Chúa, với con người và với tạo vật và cách ứng xử của Chúa Giêsu để học đòi, theo gương của Ngài.

Trong cám dỗ thứ nhất, ma quỷ nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).

Cám dỗ thứ nhất có thể được nhìn thấy như là một loại cám dỗ tin vào khả năng của mình. Nó biểu hiện ở chỗ cám dỗ Đức Giêsu tin rằng mình có thể làm hòn đá trở nên bánh. Đây là một loại cám dỗ chỉ tin vào mình mà thôi.

Nhiều người không tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ tin vào khả năng sức lực của mình. Họ nói: Bàn tay ta làm nên tất cả. Đối với họ, Ông Trời phải đứng qua một bên, vì họ tin rằng với khả năng, kiến thức, vào kinh nghiệm, của mình, mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa.

Trong cơn dịch cúm corona đang hoành hành, mang lại tai họa khá nặng nề cho thế giới, con  người mới thấy khả năng của mình hạn hẹp như thế nào. Đối với một số người đang làm ăn buôn bán phát đạt, nay bị phá sản, cảm thấy rằng bàn tay ta không làm nên tất cả. Ngược lại, tất cả công lao gắng sức, bây giờ thì không còn gì cả, chỉ còn mang một gánh nợ.

Chống lại với cám dỗ này, Đức Giêsu đã tỏ ra tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài nói “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).

Trong cám dỗ thứ hai, ma quỷ đã nói với Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” (Mt 4,5).

Cám dỗ thứ hai này, thì ngược lại với cám dỗ thứ nhất, như là loại cám dỗ chỉ tin vào Thiên Chúa, nhưng với ý nghĩa là chỉ tin vào phép lạ của Thiên Chúa một cách phi lý. Tự căn bản cám dỗ này hệ tại ở chỗ cậy trông vào phép lạ, ở chỗ coi mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bằng cầu nguyện và kiên nhẫn chờ đợi; không cần phải lo lắng, suy tính; không cần cố gắng hay làm chi cả. Cám dỗ này nói rằng Thiên Chúa quyền năng sẽ làm hết; mọi cố gắng của con người coi như là vô ích.

Đã có một thời, diễn ra hiện tượng các bà bầu. Một số phụ nữ hiếm muộn, không thể sinh con, chạy đến cầu xin cùng Chúa. Họ được dặn dò rằng, là phải tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, như là có đức tin chuyển núi dời non. Vì vậy, họ không được đi siêu âm để xem mình có thai hay không. Quả thật, bụng họ đã to ra, như là có bầu. Tuy nhiên, họ đã mang bầu vài ba năm rồi mà vẫn không thể sinh con.

Một bà đã tâm sự rằng: “Thưa cha, con ngu dại quá, do ăn uống nghĩ ngơi, dưỡng thai, nên cái bụng nó tích mỡ, to ra, chứ có bầu gì đâu. Con đã bỏ nhà đi cầu nguyện miết. Chồng con không cho đi, rồi sinh ra cãi cọ với chồng. Bây giờ chồng con đã ly dị, đã bỏ con rồi, vì con không nghe lời ổng! Nay con rất đau khổ và ân hận!”

Đối với cám dỗ thứ hai này, Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỷ rằng: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4,7).

Vì vậy, chỉ tin vào phép lạ của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là thử thách Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa.

Trong cám dỗ thứ ba, quỷ nói rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” (Mt 4, 9).

Cám dỗ thứ ba này lại là loại cám dỗ không tin vào chính mình, cũng chẳng tin vào Thiên Chúa nhưng tin vào những thần tượng.

Ta không cúi đầu trước bức tượng thần, nhưng nhiều khi ta đã có thể cúi mình trước thần tượng của ta mà ta không biết. Khi ta coi khoa học kỷ thuật tiên tiến mới giải quyết hết mọi vấn đề, thì ta đã cúi mình thờ lạy thần tượng khoa học kỷ thuật. Khi ta cho rằng, chỉ có những chế độ chính trị tốt mới giải quyết được những khó khăn của nhân loại, thì ta đã cúi mình thờ lạy thần tượng chính trị. Khi ta coi vàng bạc sẽ giúp gỉai quyết mọi vấn đề, thì ta đã cúi đầu trước thần tượng vàng bạc. Khi ta cho rằng phải học, như một số em học sinh chỉ lo học, cái học là trên hết, học ngày học đêm, học trường chưa đủ, tranh thủ học thêm, còn việc học đạo lý, giáo lý thì bỏ qua, thì lúc đó ta đã bái lạy thần tượng phát triển trí tuệ con người.
Trước cám dỗ này  Đức Giêsu đã từ chối mọi thần tượng để chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, Ngài nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4,10).

Chúa Đức Giêsu đã thắng các cơn cám dỗ. Ngài chỉ cho chúng ta thấy là cần phải vừa tin tuởng nơi Thiên Chúa, vừa tin tuởng vào chính mình, hai điều này liên kết chặt chẻ với nhau không được tách rời.

Điều này thật có ý nghĩa trong mùa Chay thánh, mùa của ăn năn thống hối và cải thiện đời sống. Khi chúng ta cảm thấy mình như thất bại trước những tật xấu của mình, rồi sinh ra thất vọng, ù lì, thì hãy học cách vượt thắng như Chúa Giêsu. Đó là tin tưởng vào Thiên Chúa và tin vào sức cố gắng của mình. Hy vọng rằng phương cách này sẽ giúp chúng ta cải thiện được đời sống, biến đổi cuộc sống mình được mỗi ngày một tốt hơn.

-------------------------------

 

MC 1-ABC459: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

CHIẾN THUẬT CỦA MA QUỶ QUA TRÌNH THUẬT “TRÁI CẤM”

 

Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn MC 1-ABC459


Tin mừng Mt 6: 24-34: Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất bại?...
Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất bại? Chúng ta hãy theo dõi chiến thật của ma quỷ trong trình thuật "Trái Cấm".

Có lẽ không có trang Kinh Thánh nào mô tả cách rõ ràng chiến thuật của ma quỷ khi cám dỗ như trình thuật cám dỗ bà Evà. Cuộc cám dỗ này đã gây hậu quả tai hại cho toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy khảo sát trình thuật này và từ đó rút ra một số kết luận quan trọng.

Con rắn nói với người đàn bà: "Có phải thực sự Thiên Chúa bảo bà không được ăn quả của bất cứ trái cây nào trong vườn không?" (St 3,1). Cho đến lúc đó, ma quỷ chưa cám dỗ người đàn bà nhưng cuộc đối thoại đã hoàn toàn nằm trong phạm vi vấn đề mà nó đã có sẵn trong trí. Ngày nay, ma quỷ vẫn luôn luôn dùng chiến thuật đó. Đối với những người hướng chiều về thú vui nhục dục, hoặc nghi ngờ chống lại đức tin, thì ma quỷ chỉ khơi gợi bằng những lời nói xa xôi và không cần xúi giục họ làm điều xấu.

Nếu ý thức được sự nguy hiểm thì linh hồn sẽ không dừng lại trong cơn cám dỗ, nhưng sẽ hướng ý nghĩ và trí tưởng tượng tới những vấn đề khác. Khi ấy, cám dỗ gặp trở ngại và linh hồn chiến thắng dễ dàng. Nhưng nếu linh hồn thiếu khôn ngoan mà đối thoại với cơn cám dỗ, thì sẽ bị sa vào bẫy.

Đây là lỗi của bà Evà, bà trả lời con rắn: "Chúng tôi được phép ăn quả trong vườn", nhưng Thiên Chúa đã nói: " Các ngươi được phép ăn quả cây trong vườn, còn quả cây ở giữa vườn, các ngươi không được đụng đến kẻo các ngươi phải chết" (St 3,2-3).

Linh hồn ý thức rằng Thiên Chúa nghiêm khắc ngăn cấm linh hồn thực hiện hành động đó, khơi dậy ước muốn đó, hoặc nuôi dưỡng tư tưởng đó. Linh hồn không muốn bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng lại mất thời giờ gợi lại những bổn phận luân lý. Linh hồn có thể huỷ diệt cám dỗ ngay lúc ban đầu, không cần phải lo lắng, cân nhắc lý do tại sao phải làm như vậy.

Linh hồn đã nhường bước cho kẻ thù và bây giờ kẻ thù tập trung sức mạnh tấn công trực tiếp: "Nhưng con rắn nói với người đàn bà: 'Bà sẽ không chết, vì Thiên Chúa biết khi nào bà ăn nó thì mắt bà sẽ mở ra, và bà sẽ giống như Thiên Chúa, biết lành biết dữ “ (St 3,4-5).

Ma quỷ bày ra một tương lai đầy hấp dẫn. Hắn sẽ không nói với ta rằng, ta sẽ giống Thiên Chúa, nhưng hắn bảo ta sẽ được hạnh phúc nếu buông thả mình vào tội lỗi. Tên cám dỗ có thể thêm: "Trong bất cứ trường hợp nào, Thiên Chúa đầy lòng từ bi sẵn sàng tha thứ cho bạn. Hãy nếm thử trái cấm lần nữa đi. Bạn có nhớ kinh nghiệm trong quá khứ của bạn không? Lúc đó, bạn thú vị dường nào, và rồi bạn đã từ bỏ tội lỗi do lòng thống hối tức khắc cách dễ dàng như thế nào?".

Linh hồn vẫn có thời giờ rút lui vì ý muốn chưa ưng thuận, nhưng nếu không chấm dứt cuộc đối thoại, linh hồn sẽ có nguy cơ sa ngã. Sức mạnh dần dần suy yếu và tội được bày ra ngày càng hấp dẫn.

"Người đàn bà đã nhìn thấy trái ăn ngon, nhìn sướng mắt, và đáng thèm để được tinh khôn. Linh hồn bắt đầu dao động và bị xáo trộn mạnh. Nó không muốn xúc phạm đến Chúa, nhưng cám dỗ hấp dẫn đến nỗi, sau đó xảy ra một cuộc chiến đấu đôi khi diễn ra trong thời gian dài. Nếu linh hồn hết sức cố gắng và nhờ ảnh hưởng của ơn hiện sủng, quyết định trung thành với nhiệm vụ mình thì sẽ chiến thắng, nhưng thường một linh hồn bị dao động đến mức đó thì sẽ bước tới liều lĩnh phạm tội.

Vì thế bà đã hái lấy quả ăn, và cũng đã trao cho ông chồng ở cạnh bà và ông đã ăn (St 3,6). Linh hồn sa chước cám dỗ. Nó đã phạm tội và thường do gương mù hay do sự đồng loã, đã làm cho người khác phạm tội.

Khi vừa phạm tội, linh hồn ý thức ngay được sự lừa dối tai hại "và mắt cả hai đã mở ra và họ biết là họ trần truồng. Họ đã khâu lá và làm khố cho mình" (St 3,7). Bấy giờ, linh hồn ý thức được rằng mình đã mất tất cả. Nó thấy mình hoàn toàn trần trụi trước Thiên Chúa, mất ơn thánh sủng, mất hết các nhân đức thiên phú, không có ơn Chúa Thánh Thần, không có nơi ở cho Chúa Ba Ngôi. Nó đánh mất tất cả công trạng đã lập được trong suốt cuộc đời. Những gì còn lại là dối trá, đắng cay và tiếng cười chế nhạo của tên cám dỗ.

Ngay lúc đó, linh hồn nghe thấy tiếng nói khủng khiếp của lương tâm quở trách vì tội nó đã phạm: "Họ nghe thấy tiếng chân Chúa đi tản bộ trong vườn với gió hiu hiu thổi chiều hôm và họ đi núp mình khuất mặt Giavê Thiên Chúa giữa những cây trong vườn. Giavê Thiên Chúa gọi người đàn ông và phán với ông: "Ngươi ở đâu?" (St 3,8-9).Câu hỏi không lời đáp này cũng là câu hỏi mà lương tâm tội nhân đặt ra. Điều duy nhất tội nhân có thể làm là  quỳ gối xin Chúa thứ tha vì sự bất trung của mình và học từ kinh nghiệm đáng buồn này, để trong tương lai biết cách thế chống lại tên cám dỗ ngay từ giây phút đầu. Nhờ đó mới dễ dàng chiến thắng và được bảo đảm sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa[1]. Amen.
--------------------
[1] Jordan Aumann, Spirirual Theology (thần học về đời sống tâm linh) tập I, trg.249-251

----------------------------

 

MC 1-ABC460: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su MC 1-ABC460


Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa”. Vì thế, Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa Năm A này mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.

St 2: 7-9; 3: 1-7

Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, mô tả sự thử thách của người nữ đầu tiên bằng ngôn ngữ hình tượng. Trước sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa, hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người nữ này đã sa ngã kéo theo nhân loại.

Rm 5: 12-19

Trong Thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên rằng nhân loại từ nguyên thủy mang dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, được thoát khỏi tội A-đam và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.

Mt 4: 1-11      

Tin Mừng Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập giá mà Chúa Cha đã chọn.

BÀI ĐỌC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)

Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo: chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên và chuyện tích thứ hai cổ xưa hơn (St 2: 4b-25) được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít vào thế kỷ X trước Công Nguyên.

– Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Diễn ngữ: “trời đất” chỉ toàn thể vũ trụ.

Bằng văn phong trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp, trong đó con người là loài thụ tạo tuyệt hảo nhất (St 1: 31), vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, Ngài đã tạo dựng con người có nam có nữ “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.

– Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa, là Thiên Chúa làm ra đất và trời” (2: 4b). Như vậy, với diễn ngữ “đất và trời”, chuyện tích thứ hai trình bày công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, trong đó con người là trung tâm. Chuyện tích thứ hai này còn tiếp tục kể cho chúng ta về “Thử Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7). Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi một tương lai vô vọng không lối thoát do sự sa ngã của con người đầu tiên, nhưng tiếp tục kể cho chúng ta về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua chuyện kể liên tục của mình, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3: 15).

Trong chuyện kể của mình, tác giả Gia-vít sử dụng kiểu nói trực tiếp và cụ thể: ông trình bày Thiên Chúa như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Ngoài ra, ông cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ thần thoại mà ông đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại rất phổ biến vào thời ông, nhưng ông sử dụng những chất liệu này cách tự do khi đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn. Nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng của khoa thần thoại, tác giả chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại, như lời nhận xét của Đức Gioan Phao-lô II: “Đối với chuyện tích thứ hai về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật, trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (Jean Paul II, Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).

Hai đoạn văn đề nghị cho chúng ta hôm nay đều được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo, trong đó đoạn văn thứ nhất (St 2: 7-9) liên quan đến cuộc sáng tạo con người và đoạn văn thứ hai (St 3: 1-7) liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ.

CUỘC SÁNG TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)

1.  Con người, được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật

Trong chuyện tích thứ nhất, công trình Sáng Tạo diễn ra trong sáu ngày, trong đó người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc và cuối cùng, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai, con người được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với thụ tạo đầu tiên của Ngài.

Đức Chúa sáng tạo con người được mô tả như một thợ gốm thần linh “lấy từ bụi đất nặn nên con người”; sau này, Đức Chúa sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: Đức Chúa “lấy đất nặn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân giữa con người và các sinh vật khác được trình bày rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.

Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.

2. Con người, một sinh linh

Đức Chúa thổi sinh khí vào hình tượng người bất động để làm cho con người sinh động. Sinh khí mà Đức Chúa ban cho con người phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, khi trút hơi thở cuối cùng, con người sẽ hoàn lại cho Ngài. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Rồi người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).

Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Đấng Sáng Tạo lập lại cử chỉ này trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội khi Ngài thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.

3. Đức Chúa thiết lập nơi cư ngụ cho con người

Giữa khung cảnh đất hoang vu trơ trọi, thiên Chúa đã làm nẩy sinh một vườn cây kỳ diệu. Khu vườn này được gọi là “Ê-đen”, nghĩa là khu vườn xinh đẹp, và “về phía Đông” nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống. Trong khu vườn kỳ diệu này, Đức Chúa cho mọc lên đủ loại cây đơm bông kết trái xanh tươi nhờ một dòng sông từ vườn chảy ra tưới khắp bốn phía. Rồi đặt con người vào đó.

4. Cây trường sinh và cây biết thiện ác

Trong các loại cây này, có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”. “Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả bốn mùa xum xê cành lá) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).

“Cây biết điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp đối xứng nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.

Ở nơi diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, động từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Híp-ri thích liên kết những cặp mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể, chẳng hạn như ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ…, vì thế đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.

Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.

THỬ THÁCH (St 3: 1-7)

Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài thuộc thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần, như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, vân vân.

Tác giả kinh thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.

1. Con rắn

 Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu với câu then chốt gây sửng sốt này: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật “trong mọi loài vật nơi hoang dã”, một thụ tạo giữa mọi loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác,  bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.

Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính điều ác mà ông liên kết với con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện điều ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn ăn trái cây của bà. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh khi sử dụng hình tượng ngoại giáo.

Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu và phồn sinh. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả Kinh Thánh phác họa bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.

Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận như Thiên Chúa.

Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).

2. Người phụ nữ

Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”. Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dễ bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam. Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác, chẳng hạn như ở Hy lạp trong câu chuyện thần thoại Pandore, người phụ nữ đầu tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.

3. Lời dụ dỗ dối trá

Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn mọi cây trong vườn không?’” (3: 2). Theo cấu trúc câu của ngôn ngữ Híp-ri, đây không là một câu hỏi, nhưng là một câu nghi vấn mà người kể chuyện có dụng ý để nó trong thế lơ lững, nhằm để khích bác. Quả thật, người nữ phản ứng ngay tức khắc: “Trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái của cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, nếu không, sẽ phải chết” (3: 3). Câu trả lời của người nữ cho thấy, dù không được Thiên Chúa truyền đạt trực tiếp, người nữ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của lời cảnh báo này.

Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (3: 5). Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.

4. Tấn thảm kịch của sự tự do

Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong lương tri của người nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân điều thiện điều ác (như vậy sẽ là nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người. Một cuộc độc thoại diễn ra trong lòng của người nữ: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với con người.

5. Tội lỗi

Vì thế, hành động của người nữ: “Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở với mình, ông cũng ăn”, diễn tả ý muốn toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định điều thiện điều ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa. “Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và một vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.

Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này – dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.

Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; đáng lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.

6. Họ thấy mình trần truồng

Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên của tội là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn cách đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.

7. Tính lịch sử của tội

Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gửi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.

Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha của sự dối trá”.

8. Kinh nghiệm lịch sử

Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử của dân tộc mình. Dân Chúa chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”, cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống… Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).

9. Những khía cạnh ngôn sứ

Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc. Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.

Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, phải chăng tác giả muốn vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như cách nói của các nhà thần học? Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Độ. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.

Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi sẽ không chết bao giờ” .

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-19)

Bài Đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.

Thánh Phao-lô đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân: “Chúng ta là thân thể của Đức Kitô”), dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, triều đại tội lỗi đối lập với triều đại ân sủng.

1. Lập luận của thánh Phao-lô

Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận nguồn gốc của tội bằng cách nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).

Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép đối xứng nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Theo phép đối xứng nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12), nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề này được hiểu một cách mặc nhiên theo trình tự hợp lý của phép đối xứng nghịch đảo: “Qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Kitô) ơn công chính hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.

Sự gián đoạn của phép đối xứng nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được Đức Ki-tô thực hiện. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là đường dẫn qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và “sự chết đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ này ở nơi những đối xứng nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng thánh Phao-lô đã nhận được nguồn cảm hứng từ Kn 2: 23-24:

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian”.

A-đam đã mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân hóa, có trước A-đam.

2. Triều đại của tội lỗi

Tội lỗi cũng được nhân hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (5: 12a). Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).

Câu phát biểu nổi tiếng: “Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12b) này đã gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau do cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bởi vì”. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ này.

Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”. Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghịch của A-đam.

Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác – A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau. Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ chương – không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.

Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi. Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.

3. Triều đại ân sủng

Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động cách mãnh liệt bởi viễn cảnh phi thường này: Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.

Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (5: 15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn nhân loại đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.

TIN MỪNG (Mt 4: 1-4)

Chuyện tích “Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

1. Gốc tích câu chuyện

Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong những chước cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta.

2. Hoang địa

Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dãi đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bễ vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Pa-lét-tin. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa này như hai thánh Mác-cô (Mc 1: 13) và Lu-ca (Lc 4: 2) gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài như thánh Mát-thêu gợi ra (Mt 4: 3).

Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.

Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi còn ấu thơ (Mt 2 : 13-16); giờ đây, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.

Chính ông Mô-sê mà thánh Mát-thêu đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong chuyện tích cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Đối chiếu với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).

3. Ba chước cám dỗ

Một mặt, ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa: bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng (Xh 32); nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang. Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung: cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.

A- Đấng Mê-si-a trần thế

 Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su cảm thấy đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu “Con Thiên Chúa” vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 40). Hai chước cám dỗ này rất đối xứng với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi cho riêng mình. Đức Giê-su đã đẩy lùi chước cám dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng của mình để phục vụ tha nhân.

Xưa kia khi dân Do thái phải đói trong hoang địa và đã nhận được bánh man-na, ông Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này, qua đó Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại. Một ngày kia, khi Đức Giê-su đói, các môn đệ mời Ngài dùng bữa, nhưng Ngài trả lời còn dứt khoát hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).

B- Đấng Mê-si-a đầy quyền năng

Sau khi đặt Đức Giê-su trên nóc đền thờ Giê-ru-sa-lem, Xa-tan đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi”. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá (Tv 91: 11-12, 15).

Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa như vậy: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ sự hiện diện của Ngài (Xh 17: 1-7), dù trước đó Ngài đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, ông Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16).

Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của ông Mô-sê: “Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Qua đó, Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục từ trời để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a; nhưng Ngài sẽ không ban cho họ.

C- Đấng Mê-si-a thống trị thế giới

Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Xa-tan chủ tể của mọi vương quốc. Chắc chắn, những hình ảnh được dùng nhằm nhấn mạnh cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.

Đấng Mê-si-a mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều dung mạo; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đến với tư cách là “Người Tôi Trung” và “Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài thường quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Ga 6: 15). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê khi thánh Phê-rô ra mặt chống đối viễn cảnh về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này: “Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16: 23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!”. Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với chước cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Ô-liu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.

Thánh Mát-thêu đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục dưới quyền Xa-tan. Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này” (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3: 8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực Sự Ác: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước nhưng mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 11-12).

Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ thờ lạy ngẫu tượng (thờ bò vàng), ông Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Lúc đó, thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ đến gần hầu hạ Ngài”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 tiên báo.

Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn quyền thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ quyền thống trị thế giới, nhưng Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân Do thái” hơn.

-----------------------------

 

MC 1-ABC461: Trông bạn khác quá - Mark Link

 

Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc MC 1-ABC461


Chủ đề: Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa

Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi (Appalachian Trail) của ông.

Lúc đó Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không? Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này, Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình, tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".

Cuộc hành trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng có ai tác động lên cậu hết.

Năm tháng sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".

Doug quả là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy. Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong chính tôi".

Doug Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay, Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.

Cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.

Chúng ta hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là ai?

Thoạt tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.

Nhưng các cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?

Chính ma quỷ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi là Con Thiên Chúa..." ma quỷ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta. Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?

Các cơn cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi Adam được Chúa tạo dựng, ma quỷ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỷ. Giờ đây ma quỷ lại cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác, Chúa Giêsu là "Adam thứ hai". Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời.. Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr 15,22.47-49).

Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân loại mới.

Như thế, để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa Giêsu:

Thứ nhất, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỷ cám dỗ.

Nhưng không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu trên ma quỷ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng Phục sinh với Chúa.

-------------------------------

 

MC 1-ABC462: Trả lại cho Chúa chỗ ngự của Ngài


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

 

Trong những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè cho người MC 1-ABC462


Trong những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè cho người đi bộ, đặc biệt tại Quận I, Ông Phó Chủ tịch UBND Quận I, Đoàn Ngọc Hải, đã hành động cách quyết liệt để đòi cho được vỉa hè nhằm trả lại cho người đi bộ. Và sau gần một tháng, vỉa hè Quận 1 thành Phố HCM thống thoáng hơn, đẹp hơn, người đi bộ cảm thấy thoải mái hơn, không còn nơm nớp lo sợ bị xe đụng.

Một hình ảnh gợi cho những người Kitô hữu khi bước vào Mùa chay thánh. 40 ngày của Mùa chay là thời gian để người tín hữu gột rửa tâm hồn, trả lại cho Thiên Chúa chỗ đứng của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu. Thật vậy, trong cuộc hành trình tiến về Nhà Cha, không ít người Kitô hữu đã để cho tâm hồn của mình bị lấn chiếm bởi những điều mà đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày, đó là: danh vọng, tiền bạc và đam mê nhục thú. Bôn ba trong cuộc sống trần thế, có bao giờ chúng ta tự hỏi, trong tâm hồn của chúng ta có còn chỗ nào cho Chúa ngự trị không? Hay là những lo toan của cuộc sống, những tham vọng của cuộc đời, những thú vui trần thế đã choáng hết chỗ và không còn một chỗ trống nào để Chúa có thể ghé thăm?

Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh với một khao khát tái lập lại trật tự trong tâm hồn, trả lại chỗ ngự trị cho Chúa sao cho xứng hợp, bởi con người được tạo thành giống ảnh Chúa, và thân xác là Đền Thờ của Chúa. 40 ngày Chay Thánh không là một chu kỳ Phụng Vụ đến rồi đi, nhưng phải là thời gian hành động với một thái độ dứt khoát, không do dự hay lưỡng lự. Một sự cương quyết như Đức Kitô khi đối diện với các cám dỗ mà chúng ta vừa được nghe. Hãy mạnh dạn mở miệng để nói với các cám dỗ: nầy Satan hãy xéo đi, hãy đi chỗ khác, vì nơi đây không có chỗ cho người. Một lời minh định như thế là một nhát búa đập nát những thói quen xấu đang là những chướng ngại cản lối Chúa đến với chúng ta. Hãy mạnh dạn tuyên xưng: chỉ bái lạy Đức Chúa và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi, là những động lực lôi kéo chúng ta ra khỏi sự ươn lười, thúc đẩy chúng ta loại bỏ sự ham mê nhục hú, sự hưởng thụ ích kỷ, để chúng ta dành lại chỗ cho Chúa trong tâm hồn chúng ta.

Dĩ nhiên việc làm này không phải là dễ dàng, chắc chắn chúng ta cũng gặp nhiều sự chống đối là tính ươn hèn, sự ích kỷ, lòng tham lam… Thế nhưng, cuộc đời Kitô hữu luôn được mời gọi chiến đấu để dạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu chúng ta, chính là sự sống đời đời. Hãy siêng năng chạy đến với các Bí tích, nhất là Bí tích Hoà giải và Thánh Thể chúng ta sẽ tìm được năng lực để chiến đấu dành lại chỗ cho Chúa trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa, cám tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con thời gian 40 ngày của Mùa Chay Thánh này, vì đây là thời gian thuận tiện để chúng con khám phá lại căn tính đích thật của đời Kitô hữu chúng con, và nhờ đó chúng con hiểu rằng, đời này chẳng có ý nghĩa gì nếu thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, và vì vậy chúng con luôn nỗ lực giữ Chúa ở lại với chúng con. Amen.

-----------------------------

 

MC 1-ABC463: Hãy cậy trông vào Thiên Chúa


(Suy niệm của Cao Nhất Huy)

 

Trang Tin Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu: "Nếu ông MC 1-ABC463


Trang Tin Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!".

Chước cám dỗ này nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng quyền lực Thiên Sai của Người để mưu cầu lợi ích riêng, hay đúng hơn là để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo mà thân xác phàm trần đang phải gánh chịu.

Đáp lời lại, Đức Giêsu xác quyết: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

Chúa Giêsu khẳng định cho ma quỷ biết rằng: Ngài đến trần gian này là tuân theo ý muốn của Chúa Cha, và Ngài không muốn dùng sức mạnh Thiên Sai mà chiều theo ước muốn của Thân xác, từ đó lại sa vào chước cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giêsu là một Ađam mới, đến trần gian này để mang lại sự sống đời đời cho con người, khi bị mất đi bởi Ađam cũ đã thất bại trước cám dỗ của ma quỷ năm xưa nơi vườn địa đàng.

Chúa Giêsu không dùng sức mạnh của Thiên Sai để chống lại ma quỷ, nhưng dùng chính sự yếu đuối của thân xác con người chống lại sự cám dỗ của ma quỷ bằng việc cậy trông vào Thiên Chúa, hơn là cậy dựa vào sức mạnh của bản thân: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

Ta thấy, nhờ cậy trông vào Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã là người chiến thắng. Sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, không có lý do nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy đói, trong chính thân xác của phàm nhân, và không phải chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng, Ngài còn bị đau khổ trong chính những biến cố của cuộc đời Ngài, thậm chí có lúc còn bị nao núng ngay trong chính thân xác của mình. Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại sự cậy trông, nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng được bởi Ngài đã và luôn cậy trông vào Thiên Chúa.

Trong khi đó, dân Thiên Chúa bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8). Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: Trong những lúc thất vọng, chán chường hay đau khổ ê chề, chúng ta có dựa vào Thiên Chúa không hay chúng ta dựa vào chính bản thân rồi quay lại trách móc Thiên Chúa?

Có lẽ, một cách thực tế, khi gặp thử thách, gian nan và bế tắc, chúng ta sẽ là những người lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ... Câu đầu tiên của chúng ta khi gặp những điều đó không phải là xin Chúa cho chúng ta sức mạnh của Ngài để chiến đấu chống lại những đau khổ và thử thách, nhưng chúng ta lại xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta, sự xấu mà chúng ta phải chịu. Khi xin không được thì chúng ta sẽ phản kháng, trách móc Thiên Chúa.

Không ai trong chúng ta được tránh khỏi hoạn nạn thử thách ở đời. Người tin Chúa cũng như người không tin đều phải đối diện với hoạn nạn, thử thách, khó khăn như nhau. Điểm khác biệt là phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh. Không phải khi tin Chúa chúng ta được miễn trừ khỏi khó khăn, nhưng khi sống với niềm tin nơi Chúa, chúng ta sẽ biết xử sự hay đối diện với hoàn cảnh như thế nào cho thích hợp.

Câu truyện về Gióp có thể được hiểu như một thử thách đối với đức tin. Gióp là người rất mực trung thành với Thiên Chúa và vì thế Thiên Chúa rất hài lòng về ông (G 1,1-5).

Thấy vậy, Satan xin Chúa để nó được phép thử thách ông, xem trong thử thách ông còn trung thành với Chúa không. Chúa cho phép. Satan được làm hại mọi sự ông có, nhưng không được đụng tới ông. Satan liền ra tay.

"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trới giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: Người Canđê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay" (G 1,13-19).

Tuy nhiên, qua mọi thử thách mà Satan bày ra: mất của cải, mất con cái, rồi nỗi đau thể xác của chính mình:

"Vậy Satan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi" (G 2, 7).

Trong cảnh khốn cùng đó, không những là người thân xung quanh xỉa xói ông mà ngay cả chính người vợ của ông cũng quay lại trách móc và xỉa xói ông, nhưng Gióp vẫn rất mực trung thành với Thiên Chúa và không hề buông lời trách móc Thiên Chúa: (G 2,10).

Chính vì niềm tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nên sau cùng Chúa đã thưởng công cho ông. Chúa khôi phục lại tất cả tài sản cho ông và Chúa tăng gấp đôi những gì ông có.

Đó chính là mẫu gương cho niềm tin của chúng ta ngày hôm nay. Liệu rằng trước đau khổ, chúng ta có giữ được niềm tin và lòng cậy trông vào Thiên Chúa hay không?

Xa hơn nữa, chúng ta thấy hình ảnh Chúa Giêsu khi chịu đóng đinh trên cây thập tự, cũng giống như lời cám dỗ của ma quỷ trong Tin Mừng hôm nay, đó là, quân lính chế diễu người và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37). Rồi một trong hai kẻ phạm tội cũng cám dỗ Chúa: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 39).

Trước cảnh bị cám dỗ và thách thức nhự vậy, có lẽ nếu Chúa Giêsu sử dụng quyền năng của Thiên Chúa để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo là điều rất dễ dàng, nhưng Chúa vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 45).

Đó chính là mẫu gương của chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy về những thử thách trong đời sống đức tin. Trong lúc đau đớn, đói khát nhất trên cây thập giá, Chúa Giêsu vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha của Ngài mà phó hết cả linh hồn và xác trong tay Cha.

Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Mỗi người chúng ta rất dễ dàng oán trách Chúa và buông xuôi tất cả linh hồn và thân xác khi gặp thử thách, gặp đau khổ.

Bước trên đường đời, mỗi người chúng ta từng ngày trôi qua đều phải gặp những khó khăn và thử thách cho riêng mình. Chúng ta có vượt qua được không là do chúng ta có biết cậy trông vào Thiên Chúa hay chúng ta quay trở lại trách móc Chúa? Có lẽ kinh nghiệm của chúng ta đều đã từng trải qua những chuyện đó, và mỗi người chúng ta tự xét lại chính mình xem chúng ta có đang cậy trông vào Thiên Chúa không? Hay chúng ta thường xuyên trách móc Chúa?

Nhưng chúng ta hãy tin rằng, trong mọi hoàn cảnh của thử thách Chúa luôn ở bên cạnh để giúp ta, và Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng nếu chúng ta biết trông cậy vào Ngài.

Trong lúc tuyệt vọng nhất, tên trộm lành đã cậy trông vào Chúa nên anh ta đã được cứu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết cậy trông vào Chúa. Amen.

--------------------------------

 

MC 1-ABC464: Cám dỗ trong đời


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ ba lần, mỗi lần mỗi khác. Quỷ MC 1-ABC464


Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ ba lần, mỗi lần mỗi khác. Quỷ Satan đã nhắm vào những ba điểm yếu nhất của con người để cám dỗ Chúa: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và nhu cầu hưởng thụ. Thứ nhất, sau những ngày Chay tịnh, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Đói cần phải ăn. Lợi dụng cơ hội này quỉ cám dỗ Chúa chiêu bài rằng nó không bảo Chúa phải ăn nhưng nó dụ Chúa biến đá thành bánh mà ăn. Vì sao? Vì dùng cơm bánh ăn chống đói là bình thường, nhưng biến đá thành bánh mà ăn đó là chuyện khác thường. Dùng uy quyền để phục vụ Thiên Chúa là chuyện bình thường, nhưng dùng quyền mà mưu lợi cho cá nhân của mình chứ không phải lo cho chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa là sa chước cám dỗ của nó vì chưng nếu Chúa làm như qủy đề nghị, Chúa sẽ không còn phải là Con của Thiên Chúa nữa, mà đã trở thành dụng cụ trong tay qủy rồi. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dứt khoát khước từ và Chúa đã chiến thắng nó. Như nó không chịu thua, qủy đưa lên một bình diện cao hơn, vươn lên tới lĩnh vực tinh thần. Cho nên, bằng những lời đường mật, qủy muốn Chúa Giêsu thách thức Thiên Chúa. "Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi” (Mt 4,6). Nhưng Chúa Giêsu biết chiêu bài nên đã không rơi vào cạm bẫy của quỉ. Chúa đã thẳng thắng trả lời: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa của ngươi”. Chúa lại chiến thắng. Quỉ tấn đến cám dỗ cuối cùng, nó nham hiểm và ác độc hơn: Thèm muốn quyền hành để được hưởng thụ. Cho nên, quỉ đề nghị Chúa phải thờ lạy nó thì sẽ có tất cả vinh hoa phú quý quyền lực. Thật là một đề nghị trớ trêu nhưng không kém phần hấp dẫn vì Thiên Chúa vốn giàu sang phú quý quyền năng, nay lại phải đói khát chẳng còn cái gì. Nhưng Chúa đã dạy cho nó bài học đắc giá rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi.

Phần chúng ta, quỷ dữ cũng không tha. Trong đời sống chúng ta hôm nay chắc chắn cũng bị quỉ dữ cám dỗ trước 3 lĩnh như Chúa Giêsu xưa: Tiền bạc, quyền hành và hưởng thụ. Thứ nhất tiền bạc, tiền của có thể là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại trở thành ông chủ xấu. Tiền có thể xây dựng, nhưng cũng có thể phá đổ. Có thể phát triển nhưng cũng có thể huỷ diệt mọi công trình vật chất cũng như tinh thần. Tiền của có thể biến con người trở nên bất hiếu, đánh mất nhân cách, giảm đi nhân phẩm, bất trung, bất nghĩa và dễ làm mất đức tin. Chẳng hạn, cũng vì tiền mà vợ chồng ông Vua cà phê Trung Nguyên đưa nhau ra tòa ly dị. Trong phần tranh luận tại tòa, ông rút ra nhận định: “Con người cần phải có lương tâm, lương tri. Thiếu cái đó không còn phải là con người nữa”. Khi nói về gia đình, ông chua xót thốt lên: “Tiền nhiều để làm gì? Giành tiền để làm gì mà giờ đây phải đưa nhau ra tòa nhục nhã đau đớn như thế này?”. Chúng ta không nói đến việc ai đúng ai sai, nhưng chúng ta rút ra được một điều: tiền bạc có sức hút mãnh liệt và cũng là những cám dỗ vô cùng mạnh mẽ trong đời sống con người và nó có thể biến con người trở nên thù nghịch với nhau, khiến gia đình tan vỡ. Vì tiền bạc mà nhiều người đi sai đường lạc lối, đánh mất lương tri và đạo đức kể cả đức tin. Vì thế, Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta: "Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền bạc được" (Lc 16,13).

Cám dỗ thứ 2 mà quỷ hôm nay luôn giăng bãy chúng ta đó là hưởng thụ cụ thể là thế giới ảo. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời sống tâm linh của chúng ta. Thật thế, một mặt, thế giới mạng giúp chúng ta mở rộng tầm mắt ra thế giới xung quanh với nhiều thông tin một cách nhanh chóng, giúp con người “biết” và “gần gũi” nhau hơn, cung cấp nhiều thông tin đa dạng và phong phú, đầy đủ các chức năng để giải trí, học hành mang tính hiện đại… Tuy nhiên, mặt trái nó làm cho chúng ta dễ dàng rơi vào cơn cám dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ, sống ảo và tự kỷ. Chúng ta mải mê với thế giới ảo mà không còn thiết tha với việc đi lễ, cầu nguyện, không tìm được hứng thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa và ra đi tìm đến và gặp gỡ tha nhân. Cho nên, chúng ta có thể bỏ nhiều giờ trên thế giới ảo nhưng dành ít thời gian viếng Chúa, cầu nguyện, đọc kinh… rồi chúng ta sẵn sàng tỏ bày tâm tư, tình cảm, vui buồn sướng khổ của ta cho những người trên thế giới ảo trong khi đó với Chúa và cha mẹ hay những người sống quanh ta không hề quan tâm, thăm hỏi và bày tỏ tâm tình...

Kính thưa anh chị em, không cần phải nói nhiều, cũng không cần phải dẫn chứng, anh chị em cũng có thể thấy cơn cám dỗ về quyền hành và hưởng thụ ngày hôm nay nó mạnh như thế nào và đồng thời anh chị em cũng thấy được những hậu quả của nó ra sao. Nếu không can đảm chiến đấu, sớm muộn gì rồi chúng ta cũng sẽ trở thành nô lệ cho nó, và lúc đó, chúng ta sẽ không biết nó sẽ lôi kéo ta đi tới đâu và bắt chúng ta làm cho nó những gì. Chúng ta không thể lường trước được. Qủy dữ rất khôn khéo và xảo quyệt: từ người đạo đức có thể trở thành tội nhân và tội lỗi. Từ một ngụm rượu cho đến con ma men say sưa, từ một lần hút thử mà rồi rơi vào con nghiện ngập lúc nào không hay, từ một lần thói quen phim xấu trở thành quen thói tội lỗi, từ một việc ăn cắp vặt thành một tên trộm cướp giết người, và từ một câu chửi tục với chồng vợ con trở thành một kẻ bạo lực gia đình…

Chúng ta hãy can đảm lên! Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy chiến đấu để giành chiến thắng cơn cám dỗ của quỷ dữ và để chiến thắng cả sự chết. Chúa đã chiến thắng và bước vào cõi vinh quang để trở thành Cứu Chúa của mọi người. Mùa chay là mùa tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ của quỷ dữ trong đời sống. Chúng ta hãy can đảm cầm lấy vũ khí là Lời Chúa, hy sinh, hãm mình ăn năn và sám hối để chiến đấu trước mọi cám dỗ và rồi sẽ chiến thắng như Chúa Giêsu, để cũng được chia sẻ vinh quang với Người, đúng như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác quyết: “Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị với Người”.

--------------------------------

 

MC 1-ABC465: Suy niệm của Lm. Trần văn Trợ

 

Ngươi phải bái lạy Đức Chúa..... Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho MC 1-ABC465


“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình người mà thôi.” Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi.

Satan đã dùng nhiều cám dỗ để thử thách Đức Giêsu, tuy chúng được biểu lộ qua nhiều hình thái và hành động khác nhau, nhưng kết cuộc lại đều dẫn đến một lập trường: trở thành đồng minh của nó! Cạm bẫy càng tinh vi, nghĩa là càng khéo léo che đậy thì càng dễ bắt được con mồi hơn. Chúng ta đều quen với câu “Ngọt mật chết ruồi!” Tự bản chất mật đâu phải là thuốc độc, mà tại sao con ruồi phải bị chết?”

Tuyệt nhiên trong những mưu chước Satan đưa ra hòng dụ dỗ đức Giêsu, không hề đá động gì đến việc chống đối Thiên Chúa, nhưng chỉ giục Ngài làm theo ý riêng của mình. Satan không ngây ngô để lộ tâm địa hiểm độc của nó ngay từ đầu, nhưng trái lại sẵn sàng cung cấp miễn phí những thứ gì con người chúng ta vẫn ưa thích, xem ra có vẻ hoàn toàn vô hại, các việc biến đá thành bánh, nhảy từ nóc đền thờ hay làm chủ hết vinh hoa lợi lộc thế gian nào có chi là xấu đâu! Cũng giống như hiện tại chúng ta lo lắng làm giàu hay muốn được nhiều danh vọng, sao có thể cho là xấu được?

Nhưng nó luôn rình rập lúc họ thỏa thích, say men chiến thắng và mất cảnh giác. Bấy giờ Satan mới tóm được con người dễ dàng như con ruồi đang say mật!
Những hình ảnh đức Giêsu bị cám dỗ trong Tin Mừng đầu Chúa Nhật đầu Mùa Chay thánh nhắc nhở mỗi người hãy luôn đề cao cảnh giác, không nhân nhượng ma quỷ một chút xíu nào cả. Vì một khi chúng ta nhân nhượng với chúng một bước, nghĩa là chúng ta đang bỏ ngỏ và cho chúng quyền tự do lui tới nhà mình. Làm sao chúng ta còn có thể tống khứ chúng ra sau này?

-----------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây