Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-500: Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa

Thứ bảy - 05/03/2022 07:26
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-500: Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-500: Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 1 ABC Bài 451-500 Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa
---------------------------------
Mục Lục:

Phúc Âm Năm A: Phúc Âm: Mt 4, 1-11: "Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ". 2
Phúc Âm Năm B: Phúc Âm: Marcô 1,12-15. 2
Phúc Âm Năm C: Phúc Âm: Luca 4,1-13. 3

MC 1-ABC451: NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO TẤT CẢ.. 3
MC 1-ABC452: NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐÓI! 6
MC 1-ABC453: TỰ DO CHỌN CHÚA.. 8
MC 1-ABC454: Trở về. 9
MC 1-ABC455: Thân phận con người 13
MC 1-ABC456: Mong manh mỏng dòn. 14
MC 1-ABC457: Nguy cơ đáng sợ nhất đời 17
MC 1-ABC458: Ba cám dỗ niềm tin. 19
MC 1-ABC459: Chúa Nhật I Mùa Chay. 22
MC 1-ABC460: Chúa Nhật I Mùa Chay. 24
MC 1-ABC461: Trông bạn khác quá. 39
MC 1-ABC462: Trả lại cho Chúa chỗ ngự của Ngài 42
MC 1-ABC463: Hãy cậy trông vào Thiên Chúa. 43
MC 1-ABC464: Cám dỗ trong đời 46
MC 1-ABC465: Suy niệm của Lm. Trần văn Trợ. 49
MC 1-ABC466: “Tội lỗi và tình thương”. 49
MC 1-ABC467: Chúa Nhật I Mùa Chay. 51
MC 1-ABC468: Cám dỗ thời nay. 55
MC 1-ABC469: Chúa Nhật I Mùa Chay. 57
MC 1-ABC470: Sống với chính mình. 64
MC 1-ABC471: Chúa Nhật I Mùa Chay. 66
MC 1-ABC472: Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 68
MC 1-ABC473: Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 71
MC 1-ABC474: Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 73
MC 1-ABC475: Cám dỗ và thử thách. 75
MC 1-ABC476: Chúa nhật I Mùa Chay. 77
MC 1-ABC477: Chọn lựa. 79
MC 1-ABC478: Chúa Nhật 1 Mùa Chay. 83
MC 1-ABC479: Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ. 85
MC 1-ABC480: Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu. 93
MC 1-ABC481: Con số 3 trong Mùa Chay. 95
MC 1-ABC482: Món ăn năn. 99
MC 1-ABC483: Biết mình đang đi về đâu. 104
MC 1-ABC484: Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa. 108
MC 1-ABC485: Kiếp người vô thường. 112
MC 1-ABC486: Lịch sử Mùa Chay Thánh. 114
MC 1-ABC487: Xét tật mình. 117
MC 1-ABC488: Tro bụi 123
MC 1-ABC489: Chúa Nhật I Mùa Chay. 126
MC 1-ABC490: Chúa Nhật I Mùa Chay. 130
MC 1-ABC491: Chúa Nhật I Mùa Chay. 134
MC 1-ABC492: Nhân phẩm là bụi tro. 143
MC 1-ABC493: Suy niệm Mùa Chay. 144
MC 1-ABC494: CÁM DỖ.. 148
MC 1-ABC495: GIAO ƯỚC: ÁNH SÁNG ĐỂ NHẬN RA THẦN KHÍ THIÊN CHÚA.. 150
MC 1-ABC496: CÁM DỖ LÀ GÌ?. 154
MC 1-ABC497: CÙNG CHÚA GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM... 156
MC 1-ABC498: THAO LUYỆN.. 158
MC 1-ABC499: HIỆP SĨ CỦA THIÊN CHÚA.. 160
MC 1-ABC500: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG GIAO ƯỚC.. 161

------------------------------------
 

Phúc Âm Năm A: Phúc Âm: Mt 4, 1-11: "Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa.

----------------------------------

 

Phúc Âm Năm B: Phúc Âm: Marcô 1,12-15

“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------

 

Phúc Âm Năm C: Phúc Âm: Luca 4,1-13

“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. - Ðó là lời Chúa.

--------------------

 

MC 1-ABC451: NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO TẤT CẢ


CHÚA GIÊSU CHỐNG LẠI CÁC CƠN CÁM DỖ CỦA MA QUỶ
 
 

Trong Mùa Chay, Giáo hội thường tập trung vào việc sám hối, chống trả cám dỗ, và cuộc khổ nạn MC 1-ABC451


Trong Mùa Chay, Giáo hội thường tập trung vào việc sám hối, chống trả cám dỗ, và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Đoạn văn hôm nay nhắc chúng ta rằng khả năng sám hối, chống trả cám dỗ của chúng ta đến từ mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và ân sủng cứu độ của Ngài chứ không phải từ sức mạnh và sáng kiến ​​của chúng ta.

Chúng ta đang sống trong một thế giới của những câu chuyện tranh giành nhau. Trong một thế giới như vậy, chúng ta phải biết câu chuyện của Kitô giáo để chống lại những câu chuyện giả dối đang tìm cách bắt giam chúng ta vào ngục tù. Bài đọc trong Luca 4: 1-13 là câu chuyện quen thuộc về việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong nơi hoang vắng. Câu chuyện này được nhiều người biết đến đến nỗi đôi khi chúng ta kết hợp các trình thuật khác nhau trong Mátthêu, Máccô và Luca lại thành một câu chuyện về sự cám dỗ của Chúa Giêsu. Nhưng mỗi trình thuật là độc nhất so với những trình thuật khác. Một nghiên cứu khác có thể so sánh ba trình thuật khác nhau và những trình thuật đó phù hợp với mục tiêu thần học của các thánh sử như thế nào, nhưng chúng ta sẽ tập trung vào trình thuật của Luca về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Khi đọc kỹ văn bản của Luca, chúng ta có thể thấy hai câu chuyện đấu tranh chống lại nhau: câu chuyện mà Chúa Giêsu sử dụng để chống lại ma quỷ và vượt qua những cám dỗ đặt ra trước mặt Ngài một cách thành công và câu chuyện ma quỷ bày ra.

Bối cảnh:

Câu chuyện này xảy ra ở hai địa điểm quan trọng: nơi hoang vắng và Giêrusalem. Trong lịch sử, vùng hoang dã là nơi Chúa gặp dân Do Thái tại Sinai sau khi giải cứu họ khỏi Ai Cập. Trong nơi hoang vắng, Thiên Chúa đã uốn nắn họ thành dân giao ước của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chăm sóc và dẫn dắt bằng mây và lửa. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu cũng được dẫn dắt, lần này bởi Chúa Thánh Thần, trong nơi hoang vắng, và Ngài phải đối mặt với sự cám dỗ bởi kẻ thù nghịch của Ngài là ma quỷ. Vị trí Chúa Giêsu bị cám dỗ trong nơi hoang vắng nhắc chúng ta nhớ đến trình thuật về việc Thiên Chúa giải cứu dân Israel. Về mặt địa lý, vùng hoang dã là một vùng khô cằn ở miền nam Israel giữa vùng đất phì nhiêu gần Biển Địa Trung Hải và các vùng sa mạc nội địa. Đó không phải là nơi không có sự sống như người ta có thể tưởng tượng ra khi nghĩ về những bãi cát của sa mạc Sahara, mà là một nơi cây cỏ chỉ có thể mọc lên làm thức ăn cho đàn gia súc khi có nhiều mưa.

Giêrusalem, thành phố của Đavít, là trung tâm của quyền lực, của bản sắc dân tộc và sự thờ phượng của người Do Thái. Vào thời Chúa Giêsu, ngôi đền thứ hai đã được cải tạo và mở rộng bởi Hêrôđê Đại Đế và là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Nơi quyền lực và sự thờ phượng này là nơi sắp đặt cho cơn cám dỗ cuối cùng.

Nhân vật:

Chúa Giêsu đã được giới thiệu cho chúng ta trong phúc âm Luca. Ngài là Con Thiên Chúa (Luca 3:38), Đấng sẽ mang lại sự cứu độ cho cả người Do Thái và dân ngoại (Luca 2: 29-32), và là Đấng đã được làm phép rửa và được đầy dẫy Chúa Thánh Thần (Luca 3:22; 4 : 1). Bây giờ, Chúa Giêsu được dẫn vào nơi hoang vắng. Đây là phần giới thiệu đầu tiên về ma quỷ trong phúc âm Luca. Từ văn bản này , chúng ta thấy rằng ma quỷ là kẻ táo bạo, tinh ranh, thông minh và mạnh mẽ. Chính ma quỷ là kẻ cám dỗ, kết thúc sự cám dỗ và rời khỏi Chúa Giêsu.

Cốt truyện:

Phần lớn câu chuyện diễn ra trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Chúa Giêsu bị đói sau khi nhịn ăn 40 ngày. Trong những ngày nhịn đói đó, Chúa Giêsu đã bị ma quỷ cám dỗ. Động từ trong câu 2 “bị cám dỗ” là thì hiện tại phân từ biểu thị hành động đang diễn ra. Bài trình thuật ở đây là về ba cơn cám dỗ cuối cùng mà Chúa Giêsu gặp phải vào cuối 40 ngày đó. Trong mỗi lần cám dỗ, ma quỷ nói trước và Chúa Giêsu đáp lại. Câu chuyện kết thúc khi ma quỷ kết thúc sự cám dỗ và rời khỏi Chúa Giêsu, tạm thời.

Bên dưới cuộc đối thoại giữa ma quỷ và Chúa Giêsu là hai cốt truyện đấu tranh. Ma quỷ đưa ra một dẫn dụ về việc từ bỏ sự kiềm chế bản thân - tự làm ra bánh từ đá; về việc tự làm cho mình nên hùng mạnh - tất cả các quốc gia trên thế giới sẽ thuộc về ông nếu ông tôn thờ ta; và về căn tính tôn giáo tư riêng - nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy gieo mình từ trên đỉnh của ngôi đền xuống. Trong khi đó, Chúa Giêsu đáp lại bằng những câu trích dẫn được rút ra từ Cựu Ước cho thấy sự nhận biết về nguồn gốc và căn tính thực sự của sự sống - Ngài biết rằng sự sống không chỉ là thức ăn, sự tin cậy của Ngài vào Thiên Chúa - Đấng đáng được thờ phượng và phụng sự đích thật, và sự hiểu biết về phẩm tính của Thiên Chúa - không phải là điều cần bị thử thách. Những câu trả lời của Chúa Giêsu bắt nguồn từ một câu chuyện tiềm ẩn rằng Ngài phụ thuộc vào Thiên Chúa hơn là phụ thuộc vào sự sống, vinh quang và căn tính của Ngài.

Những cám dỗ:

Những cám dỗ mà ma quỷ bày ra nhằm vào trọng tâm của thân phận Chúa Giêsu. Hai lần (câu 3,9) ma quỷ bắt đầu sự cám dỗ của mình bằng cách hỏi căn tính của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa bằng những lời “nếu ông là Con của Thiên Chúa ” tiếp theo là một thử thách để chứng minh căn tính này bằng một số biểu hiện kỳ diệu (đá thành bánh (câu 3); một cuộc giải cứu đầy kịch tính khỏi cái chết từ thiên thần (câu 9-11). Trong 3 chương đầu của sách Tin Mừng Luca, căn tính của Chúa Giêsu đã được xác nhận bởi Mẹ Maria, bà Êlisabét, ông già Simêon, bà tiên tri Anna, Gioan Tẩy giả và gia phả trong Luca chương 3. Chúa Giêsu không phải làm bất cứ điều gì để chứng minh căn tính của mình hoặc để được khen ngợi như là Con của một vị thần thánh. Ngài được tuyên bố là người sẽ mang lại sự cứu độ cho dân tộc của mình. Đây là chính Ngài, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, nhưng ma quỷ hết lần này đến lần khác cám dỗ Ngài phô bày căn tính của mình theo những kiểu cách nhằm phục vụ bản thân, vốn có thể làm suy yếu căn tính của Ngài là Người Con trông cậy vào các ân huệ tốt lành của Thiên Chúa Cha. Điều đáng nhớ là trong các gia đình ở thế giới cổ đại, con trai trưởng thành thường được hiểu là người đại diện cho người cha. Người cha và người con sẽ làm việc cùng nhau để hoàn thành các mục tiêu của gia đình. Căn tính, danh dự, địa vị của người con trai bắt nguồn từ danh dự và địa vị của gia đình. Chúa Giêsu không cần phải đạt được những điều này bằng cách nhượng bộ trước những cám dỗ của ma quỷ.

Sử dụng Kinh thánh:

Cả Chúa Giêsu và ma quỷ đều trích dẫn Kinh thánh. Để đối phó với sự cám dỗ, Chúa Giêsu trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, nhưng nếu biết Kinh thánh thì chưa đủ. Ma quỷ, trích dẫn Thánh vịnh 91, cũng biết Kinh thánh. Kinh thánh phải được đọc một cách đúng đắn theo bản tính của Thiên Chúa và theo cuộc sống được chỉ dẫn cho dân riêng của Thiên Chúa. Một cuộc sống như vậy phải bắt nguồn từ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài và được đáp trả trong sự vâng lời trung tín với Thiên Chúa hơn là cậy dựa vào sức riêng mình, vốn dĩ là câu chuyện của ma quỷ. mục lục

Ruth Anne Reese - https://www.workingpreacher.org
Phêrô Phạm Văn Trung phỏng dịch

--------------------------------
 
 

MC 1-ABC452: NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐÓI!

 
 

Đức Giê-su ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám MC 1-ABC452


Đức Giê-su ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi…”(Mt 4:1-3). Bạn thấy có gì đặc biệt không? Tôi thấy có một điểm đặc biệt rất đáng chú ý, đó là việc Satan bám sát Chúa Giê-su trong bốn mươi ngày đêm, nhưng quỷ chỉ đến gần khi thấy Ngài đói mà thôi!

Tại sao ma quỷ chỉ đến gần Chúa Giê-su khi thấy Ngài đói? Là bởi vì Satan biết rằng, một con người khi bị cơn đói hành hạ, thì lý trí của người ta sẽ không còn đủ mạnh, trí khôn cũng chẳng còn đủ sáng suốt để phân biệt hay hoặc dở, đúng hay sai, tốt hay xấu…Nó nghĩ rằng Chúa Giêsu, sau bốn mươi ngày chay tịnh vừa đói vừa mệt, chắc chắn Ngài cũng giống như mọi người. Vì thế cho nên nó mới đến để cám dỗ Ngài:“Tôi sẽ cho ông tất cả những [vinh hoa phú quý, lợi lộc tiền tài…] nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Thế nhưng Satan đã lầm! Chúa Giê-su không yếu đuối như nó nghĩ! Ngài vẫn còn đủ lý trí và đủ khôn ngoan để phản công:“Satan cút đi, Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Bạn thân mến, xưa cũng như nay, Satan vẫn dùng cái phương pháp cổ lỗ sĩ của nó để cám dỗ người ta, (nhưng nhiều người vẫn bị dụ như thường). Nó chỉ chờ đến khi người ta, trong đó có tôi và có bạn, bị đói, bị khát về mặt thể xác cũng như tinh thần…là nó sẽ xáp vào để tấn công, để cám dỗ chúng mình phạm tội.

Bạn có muốn vô hiệu hóa những thủ đoạn của Satan, và có muốn đứng vững trước những mưu mô, và có muốn chống trả lại được những cám dỗ của Satan không? Nếu muốn thì bạn và tôi phải sáng suốt và phải cố gắng, đừng để mình rơi vào tình trạng thiếu thốn, đói khát, suy nhược cả về mặt thể xác cũng như về mặt tâm linh.

Về mặt thể xác, xin hãy siêng năng lao động, cố gắng làm việc để nuôi thân, và để chăm lo cho những người trong gia đình của mình. Đừng chê bai việc này ít tiền, việc kia không xứng với bằng cấp của bạn, hay việc nọ quá nặng nhọc…Đừng bao giờ để mình bị đói khát về mặt vật chất, thiếu thốn cơm áo gạo tiền, bởi vì khi đói khát và thiếu thốn, thì sinh ra lắm tội lắm, vì thế cho nên mới có những câu ca dao đói ăn vụng túng làm liều và bần cùng sinh đạo tặc. Khi bị đói khát, khi bị thiếu thốn cơm ăn áo mặc, Satan sẽ nhào đến cám dỗ mình phạm những tội mà khi mình no đủ, mình sẽ không bao giờ dám nghĩ tới, chứ đừng nói đến chuyện phạm tội, ví dụ như buôn bán xì ke ma túy, trồng thuốc phiện, cá độ, cờ bạc, gian dối, lừa đảo, trộm cắp, giết người…

Về mặt tâm linh, bạn và tôi đừng để chúng mình rơi vào tình trạng đói khát Lời Chúa, thiếu thốn Bánh Trường Sinh, tức là Bí Tích Thánh Thể… Bởi vì khi lâm vào cảnh đói khát của ăn thiêng liêng, thì quỷ Satan sẽ không để cho bạn và tôi yên đâu! Nó sẽ lại gần, nó sẽ cám dỗ để bạn và tôi nghe theo lời dụ dỗ của nó. Lúc đói của ăn thiêng liêng, chúng mình chắc chắn sẽ không có khả năng để phân biệt giữa thiện và ác, giữa phải và trái…Lúc đó chúng mình sẽ bị Satan cám dỗ, sống kiêu căng, ngạo mạn, ăn chơi trác táng để thỏa mãn những thú vui xác thịt, và làm những điều vô luân như phá thai, tự tử, trợ tử... Bạn thấy đấy, cái đói về của ăn thiêng liêng gây ra nhiều nguy hiểm lắm!

Để phần tâm linh của chúng mình được no đủ và không bị thiếu thốn, bạn và tôi hãy chú ý đến những điều sau:

1. Siêng năng tham dự thánh lễ, xin đừng nghĩ đến tham dự mỗi ngày Chúa Nhật là đủ. Nhưng hãy đến tham dự thánh lễ mỗi ngày, để cho linh hồn của bạn được lãnh nhận Thần Lương, là Mình Thánh Chúa. Thêm một bữa ăn cho linh hồn của bạn là chuyện rất cần thiết vì đó là lẽ công bằng. Bạn cho phần xác của bạn ăn ba bữa một ngày, trong khi đó phần linh hồn thì bạn chỉ cho ăn một tuần một bữa thì không phải là bất công sao?

2. Cố gắng đọc và học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày, chỉ cần đọc khoảng năm phút một ngày thôi. Lời Chúa chính là Thiên Chúa, sẽ thấm nhập vào trong tâm hồn chúng ta và sẽ ở lại trong chúng ta. Khi có Chúa ở với chúng mình, thì tôi cam đoan Satan sẽ không dám bén mảng đến gần chúng mình đâu!

Hôm nay là Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban ơn trợ giúp, để bạn và tôi trong Mùa Chay này, cũng như trong những ngày sắp tới, luôn cố gắng chăm chỉ lao động, siêng năng làm việc, trung thành tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, đọc Kinh Thánh cũng như suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, nhờ vậy phần thể xác cũng như phần linh hồn của chúng mình sẽ được no đủ, sẽ được khỏe mạnh, và sẽ có đủ sức để chống lại những mưu chước, những cám dỗ và những cạm bẫy của Satan. Happy Lent!  mục lục

Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

-------------------------------
 
 

MC 1-ABC453: TỰ DO CHỌN CHÚA

 
 

Chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một MC 1-ABC453


TMĐP- Chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một con đường tự do không chọn Chúa, khi bất tuân phục Ngài.

Các bài đọc phụng vụ của chúa nhật này đặt cho chúng ta một  câu hỏi rất quan trọng và nền tảng, đó là: “Tôi có muốn chọn Thiên Chúa không?”.

Câu hỏi này ngay từ buổi đầu tạo thiên lập địa đã được đặt ra cho ông bà nguyên tổ khi Rắn nói với Evà: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (St 3,1).

Câu hỏi thứ nhất của Rắn mở ra cho Evà một sự thật, đó là bà có tự do, đồng thời cho bà nhận ra mình có thể nói “không” với cả Thiên Chúa, nghĩa là có khả thể từ chối  lệnh cấm “không được ăn trái trên  cây ở giữa vườn” của Thiên Chúa.

Tiếp liền theo câu hỏi thứ nhất, Rắn Xatan mở rộng đường “tự do” cho Evà với dã tâm dẫn bà đi vào phản bội Thiên Chúa bằng kiểu trấn an, đưa đẩy quen thuộc: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3,4-5).

Và Evà đã sập bẫy Rắn độc khi sử dụng tự do của “con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27) để chọn không vâng lời Thiên Chúa, khi nói “không” trước lệnh Ngài bằng “hái trái cây” Thiên Chúa cấm “mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn” (St 3, 6).

Cũng như nguyên tổ có tự do chon vâng phục hay bất tuân phục Thiên Chúa khi Rắn cám dỗ ăn trái cấm, Đức Giêsu cũng có tự do khi ma quỷ cám dỗ Ngài trong hoang địa. Nhưng khác với nguyên tổ, Đức Giêsu đã  tự do chọn vâng phục Thiên Chúa, Cha Ngài bằng khẳng định với Xatan: Ngài chính là Con Thiên Chúa, khi tuyệt đối vâng lời và tín thác vào ơn phù trợ của  Cha Ngài, tuyệt đối cậy dựa vào sức mạnh của lời Thiên Chúa.

Ngài  tự do chọn Thiên Chúa, khi trung thành sống “mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); tự do chọn Thiên Chúa, khi vâng phục, mà không nghe lời Xatan thử thách Thiên Chúa (x. Mt 4, 7);  tự do chọn Thiên Chúa, khi không thờ phượng, bái lạy ai, ngoài một mình Thiên Chúa, Cha Ngài (x. Mt 4, 10).

Thánh Phaolô quảng diễn một cách tài tình gương mặt tự do của nguyên tổ và của Đức Giêsu: một bên là tự do bất tuân phục đã đưa đến sự chết, một bên là tự do vâng phục đã mang lại sự sống khi viết cho giáo đoàn Rôma: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5, 18-19).

Vâng, trước mặt chúng ta có hai con đường tự do: một con đường tự do chọn Chúa bằng vâng lời Ngài, và một con đường tự do không chọn Chúa, khi bất tuân phục Ngài. Nói cách khác, chúng ta có gương không vâng phục của Ađam – Evà, và gương vâng phục của Đức Giêsu để chọn cho mình câu trả lời trước vấn nạn đầu tiên và nền tảng của mùa chay trở về: “Tôi có muốn chọn Thiên Chúa không?”.

Với tâm tình của người con thống hối trở về, chúng ta xác tín như thánh Phaolô: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5, 15), và khiêm tốn thân thưa: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài… Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm… Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính ” suốt đời con (Tv 50, 6.11.16).

Jorathe Nắng Tím

--------------------------------------

 

 MC 1-ABC454: Trở về


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
 
 

Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua MC 1-ABC454


Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua, mỗi chúng ta cũng cần phải có những điểm dừng để nhìn lại cuộc đời đang sống. Như bản nhạc cuộc đời có những dấu lặng để tăng thêm âm điệu sâu lắng, cuộc sống của chúng ta cũng phải có những giây phút thinh lặng để trở về với chính mình. Mùa Chay chính là điểm dừng chân để nhìn lại chặng đường đời đã qua. Mùa Chay cũng chính là dấu lặng trong bản nhạc cuộc đời, để giúp chúng ta suy xét những hay dở, những phải trái trong cuộc đời đầy đa đoan này. Phụng vụ của Giáo Hội đã mượn lời thánh Phaolô để gọi Mùa Chay là “mùa Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (x. 2 Cr 62b).

Bốn mươi ngày của Mùa Chay phác họa nhiều sự kiện quan trọng trong Cựu Ước. Đó là 40 ngày mưa lớn gây trận Đại hồng thủy để xóa sạch nhân loại vương tội lỗi. Đó cũng là 40 ngày ngôn sứ Elia chạy trốn trước sự săn đuổi của vua Achab và hoàng hậu Isabel, sau khi ông “đơn thương độc mã” chiến đấu với 450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Ông đã chiến thắng và làm cho những tiên tri này hổ thẹn và bị giết. Mùa Chay cũng nhắc lại 40 năm dân Do Thái lữ hành về Đất hứa. Đặc biệt, 40 ngày của Mùa Chay nhắc lại 40 ngày Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện. Ở đó, Người chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ.

Thực ra, Thiên Chúa thi ân và ban ơn cứu độ trong mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người. Ơn cứu độ và phúc lành của Chúa như mưa xuống cho mọi tạo vật, như ánh mặt trời chiếu soi khắp mặt đất. Tuy vậy, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để chúng ta đón nhận phúc lành của Chúa. Phụng vụ Mùa Chay là lời mời gọi chúng ta hãy trở về.

Trước hết là trở về với Chúa: Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: mỗi khi phạm tội là chúng ta đi lạc đường. Dù thuộc nền văn hóa hay chủng tộc nào, Thiên Chúa luôn mời gọi con người bước đi trên con đường công chính, trung thành tuân giữ những giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Phạm tội là đi ngược lại với những gì Chúa muốn. Tội lỗi làm cho con người xa Chúa, không còn sống trong mối thân tình mật thiết với Ngài nữa. Tác giả sách Sáng Thế, trong Bài đọc I của Phụng vụ hôm nay đã viết về sự sa ngã của đôi bạn đầu tiên của nhân loại, tức là ông Ađam và bà Evà. Đây là trang sử buồn, để lại dấu ấn không phai mờ về sự phản bội của con người đối với những lệnh truyền của Chúa. Đây cũng biến cố đau thương, làm cho con người và Thiên Chúa xa nhau. Trình thuật này được đọc lên trong phụng vụ của Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay đề giúp chúng ta nhận ra thận phận hèn yếu của mình.

Có lẽ bà Evà nghĩ rằng: ăn một trái cây có quan trọng gì! Tuy vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là một trái cây mà là lệnh truyền của Thiên Chúa. Con rắn là tác nhân trực tiếp của cám dỗ. Ở đây nó được trình bày giống như một con người, cũng lý luận, kích động, gieo rắc nghi ngờ. Không chỉ là thèm muốn một trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt”, mà bà Evà còn nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa. Thế ra, Ngài không tốt lành như bà nghĩ trước đây, vì Ngài sợ bà trở nên khôn ngoan biết mọi sự nên Ngài cấm bà không được đụng vào trái của cây ở giữa vườn. Một khi bà nghi ngờ Thiên Chúa, thì bà cũng phủ nhận hết những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho hai ông bà. Sự nghi ngờ lòng tốt của Chúa là lý do dẫn đến việc bà phạm tội, tức là ăn trái cấm.

Trình thuật cám dỗ của tác giả sách Sáng thế cho chúng ta thấy sự bất hạnh của thân phận con người khi họ phạm tội. Sự bất hạnh này được diễn tả qua mâu thuẫn trái ngược giữa lời hứa của con rắn với thực trạng của ông bà sau khi phạm tội. Mắt ông bà mở ra, nhưng thay vì họ trở nên như những vị thần như con rắn hứa hẹn, thì ông bà lại thấy mình trần truồng. Một sự thật nghiệt ngã mà ông bà phải chứng kiến đó là sự bất hạnh và xấu hổ nhục nhã của ông bà sau khi phạm tội. Xấu hổ về sự trần truồng là hậu quả của tội, vì trước đó ông bà cũng trần truồng mà không xấu hổ. Điều ông bà khám phá sau khi phạm tội không phải là phẩm giá cao quý của mình như con rắn đã rủ rê, mà là sự bất hạnh, sự yếu hèn, cô độc và đáng thương.

Trở về với Chúa chính là tâm tình sám hối, nhận ra thân phận tội lỗi và yếu hèn của mình, để xin Chúa tha thứ.

Tinh thần trở về của Mùa Chay cũng là trở về với chính mình: con người bôn ba vật lộn với cuộc sống, đầy những toan tính bon chen, nhiều khi đánh mất chính mình. Họ không nhận ra mình là ai trong vũ trụ mênh mông này. Ađam và Evà đã chối bỏ thân phận thụ tạo, muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa. Con người ngày nay đánh mất mình khi chối bỏ sự hiện hiện của Chúa trong cuộc đời và không muốn nhận mối tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo Hóa. Khi đánh mất mình, con người cũng phủ nhận mối tương quan với anh chị em mình, để rồi sống ích kỷ, hận thù, bất bao dung và chia rẽ oán hờn. Mùa Chay nhắc chúng ta hãy trở về với chính mình nhận ra mình chỉ là một “đóa hoa vô thường” trong vũ trụ. Như một đóa hoa nay còn mai mất, chúng ta cần phải hướng về vĩnh cửu, bằng những cố gắng nên hoàn thiện trong đời sống hiện tại.

Sau cùng, Mùa Chay là mùa trở về với tha nhân: Con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo cô đơn, nhưng có liên đới với anh chị em mình. Những mâu thuẫn nảy sinh ở mọi lãnh vực khác nhau đều phát xuất từ tính ti tiện, ích kỷ và ghen tương. Trở về với tha nhân là nhận ra nơi họ những điểm tốt lành, đồng thời nhận ra nơi chính bản thân chúng ta cũng có những khuyết điểm. Trở về với tha nhân là thực thi lòng bao dung nhân hậu đối với những lầm lỗi của người khác. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có phải bảy lần không?. Chúa trả lời: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Như thế, sự tha thứ không dừng lại ở những con số, nhưng là tha thứ vô điều kiện. Hơn nữa, cùng với sự tha thứ bao dung, chúng ta còn thể hiện tình yêu mến đối với người xúc phạm mình. Nếu con người biết thực thi lòng bao dung đối với nhau, thì cuộc đời này sẽ tươi đẹp biết bao, và vương quốc Đức Giêsu rao giảng sẽ được thực hiện trên trần gian này.

Để thực sự trở về với Chúa, với chính mình và với tha nhân, con người phải trải qua những chiến đầu kiên cường. Phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Tên cám dỗ, đã xuất hiện ở đầu lịch sử để cám dỗ ông Ađam và bà Evà, giờ đây lại tái xuất để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Thánh Matthêu đã gọi đích danh tên cám dỗ là “quỷ”. Khi đặt ra những điều hấp dẫn gọi mời, không phải quỷ có ý thử xem Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không, nhưng nó muốn phá vỡ chương trình của Thiên Chúa. Thực ra, quỷ biết rõ Chúa Giêsu là ai. Sau này nhiều lần chúng đã hô lên trước đám đông để nói về thân phận và nguồn gốc của Người. Ví dụ trường hợp được thánh Mác-cô ghi lại: khi Chúa Giêsu chữa cho người bị thần ô uế nhập tại Hội đường Caphanaum, thần ô uế đã la lớn tiếng rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệu chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1-23-24). Theo trình thuật của thánh Mátthêu, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu cùng một cách thức như nó đã cám dỗ bà Evà. Cũng vuốt ve, cũng lý luận, cũng hứa hẹn. Như chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước những lời ngon ngọt của ma quỷ. Người đã chiến thắng cám dỗ. Người không để cho quỷ lừa đảo bằng những “lời nói có cánh” dịu ngọt của nó.

Lịch sử không may có Ađam là nguyên nhân gây nên tội ảnh hưởng mọi thế hệ, nhưng lại may mắn vì có Chúa Giêsu. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của sự chết. Ngài đã có sáng kiến sai Con Một của Ngài đến trần gian để phục hồi phẩm giá của họ, dẫn họ về với tình trạng thánh thiện của thời ban đầu, thời mà Chúa hằng ngày đi dạo với con người trong làn gió hiu hiu thổi của buổi chiều hôm. Nhờ Đức Giêsu mà hôm nay, chúng ta không chỉ đi đàm đạo với Chúa, mà được Chúa nhận làm con, được Chúa nuôi dưỡng và yêu thương ấp ủ vỗ về. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II đã khẳng định: “Tình yêu  thương của Chúa mãnh liệt đến nỗi ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Thánh nhân cũng đã so sáng giữa ông Ađam ở khởi đầu lịch sử với Đức Giêsu Kitô, đấng được gọi là Ađam thứ hai, cũng là Ađam cuối cùng. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Đức Giêsu là nguyên lý của sự sống. Nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, mà nhân phẩm và danh dự của chúng ta được phục hồi.

Ma quỷ đã xuất hiện ở khởi đầu lịch sử để cám dỗ bà Evà. Nó cũng đã xuất hiện khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai để loan báo Tin Mừng. Ma quỷ cũng vẫn đang hiện diện trong cuộc đời để lừa lọc, gây chia rẽ và làm cho chúng ta xa cách Chúa. Vì thế, Mùa Chay là mùa chiến đấu thiêng liêng giữa ánh sáng với tối tăm, giữa thánh thiện với tội lỗi. Mùa chay cũng là mùa trở về để nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa trước khi con người phạm tội, để nối lại tình huynh đệ thân thương với anh chị em mình. Nhờ thành tâm trở về, mỗi chúng ta sẽ được canh tân, hòa giải và trở nên tạo vật mới trong Đức Kitô.

------------------------------
 
 

MC 1-ABC455: Thân phận con người


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 
 

Satan đột nhập lòng người, vì con người khi phạm tội đã trở nên giống ma quỷ trong hành vi MC 1-ABC455


Satan đột nhập lòng người, vì con người khi phạm tội đã trở nên giống ma quỷ trong hành vi chống đối Thiên Chúa. Tội lỗi đã đột nhập thế gian. Đây là cách nói nhân hình, nhân cách hóa tội.

Tội là một thuộc tính của hành vi, khi người ta không hành xử như một con người, không sống như Thiên Chúa muốn con người sống!

Adam và Eva đã không vâng phục Thiên Chúa khi ăn trái cấm, và hơn nữa đã không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đã tin vào satan hơn tin vào Thiên Chúa, đã muốn tự mình quyết định và không tùy thuộc Thiên Chúa nữa. Con người phạm tội và sống bất hạnh, khi con người lấy mình làm tiêu chuẩn, cho mình là nhất!

Không tin vào Thiên Chúa, thì làm sao con người có thể tin vào nhau?! "Một lần bất tín, vạn lần không tin".

Bất hạnh!

Đức Yêsu đã tới. Qua Ngài, con người có thể thắng được cám dỗ, khi người ta chọn Thiên Chúa trên tất cả, khi người ta cậy dựa vào Đức Yêsu. Nếu Thiên Chúa là nhất, nếu xác thịt và những thú vui của xác thịt tôi không phải là nhất, thì tôi không phạm tội và tôi sống hạnh phúc.

Như mỗi người chúng ta, và như tất cả mọi người, Đức Yêsu đã bị cám dỗ về của ăn, đòi cho mình là nhất, và quyền hành.

. Người ta lo cho tìm kiếm của ăn, tìm kiếm những gì thuộc về trần thế! Thực sự của ăn là cần, và chính Chúa Yêsu cũng dạy chúng ta cầu xin cho được bánh ăn hằng ngày trong kinh "Lạy Cha", nhưng của ăn không là tất cả! "Con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bởi Lời Chúa". Người ta còn một nhu cầu khác quan trọng hơn! Có bao người giầu có, cơm dư gạo thừa, mà họ vẫn sống chán nản và đau khổ. Cơm bánh thôi, chưa đủ.

. Có bao lần người ta đòi Thiên Chúa làm theo ý người ta! "Chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Con người phải làm theo ý Thiên Chúa chứ không đòi hỏi Thiên Chúa phải làm theo ý mình.

. "Tôi hiến cho Ngài tất cả, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi"! Chỉ một hành vi nhỏ không chính đáng nhưng được lợi tất cả, tại sao Đức Yêsu không làm? Đức Yêsu không làm, vì nếu Đức Yêsu làm, thì Ngài không thể là Ngài, thì Ngài không thể thực hiện ý Thiên Chúa Cha được.

Chúa Yêsu đã bị cám dỗ, không chỉ trong hoang địa mà còn trong suốt đời, nhất là giây phút cuối đời Ngài trên thập giá "nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng tôi tin" (Mt.27, 42), và Ngài chiến đấu chống cám dỗ đến độ đổ máu (Dt.12, 4).

Xin cho chúng ta biết nhìn lên Đức Yêsu và noi theo gương Ngài, tựa vào Ngài để chiến đấu chống mọi cám dỗ xúi ta phạm tội, làm ta mất nhân phẩm, và mất sự bình an hạnh phúc với Thiên Chúa và tha nhân.

-----------------------------
 
 

MC 1-ABC456: Mong manh mỏng dòn


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 
 

Đã là người, ai cũng bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu. Bị cám dỗ, và bị cám dỗ liên lỉ, cũng không hàm MC 1-ABC456


Đã là người, ai cũng bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu. Bị cám dỗ, và bị cám dỗ liên lỉ, cũng không hàm nghĩa người bị cám dỗ là người yếu hèn. Chỉ khi nào con người phạm tội, thuận theo cám dỗ, con người mới trở nên xấu mà thôi. Tuy dù mỏng dòn, nhưng con người được mời gọi để trở nên cao thượng và tuyệt vời hơn.

1. Con người đầu tiên đã phạm tội

“Thiên Chúa nắn con người từ bùn đất, thổi sinh khí vào, và con người trở nên sinh vật sống động”. Khoa học chấp nhận thuyết tiến hoá. Vật chất tiến hoá từ vật chất vô cơ đến hữu cơ, vô sinh đến hữu sinh, từ loài không có xương sống đến có xương sống, từ động vật không có vú (vô nhũ) đến động vật có vú (hữu nhũ), từ khỉ đến người. Có một số người không hiểu biết nhiều về Kinh Thánh muốn đối kháng Kinh Thánh và khoa học, cho rằng Kinh Thánh sai lầm và dạy những điều ấu trĩ trái khoa học. Thực ra Kinh Thánh không nhằm dạy những kiến thức khoa học, nhưng Kinh Thánh dùng những kiến thức đương thời để truyền đạt sứ điệp mặc khải. Điều Kinh Thánh muốn nói ở đây, không là con người được tạo dựng thế nào, nhưng là con người được Thiên Chúa tạo dựng, con người vừa là vật chất vừa là tinh thần, vừa mong manh như đất sét vừa tuyệt vời vì có Thần Khí của Thiên Chúa.

Trong cuộc chiến với với ma quỷ, được biểu trưng qua con rắn, con người đã bị thua. Tuy nhiên, dù bị cám dỗ, nhưng con người vẫn hoàn toàn tự do, con người có thể không phạm tội. Phạm tội là hành vi tự do của con người. Ai cũng bị cám dỗ, nhưng không phải ai cũng phạm tội. Cám dỗ, thuộc bản chất con người; nhưng phạm tội không là bản chất con người. Tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội dạy Kitô hữu biết Mẹ đã không phạm tội. Cám dỗ là cuộc chiến nội tâm, nơi đó con người được mời gọi để siêu vượt, để vươn lên theo tiếng gọi thần linh, để sống cao thượng hơn. Một cách cụ thể, cám dỗ là khuynh chiều sống theo bản năng chứ không theo lý trí “hướng thiện”. Chính khi sống theo lý trí “hướng thiện”, con người trở nên cao thượng hơn, hạnh phúc hơn, giúp người khác vui và hạnh phúc hơn.

Adam và Evà đã phạm tội, không vâng lời Thiên Chúa, không tin vào lời Chúa mà tin vào lời con rắn, tin vào ma quỷ hơn tin vào Thiên Chúa, nghi ngờ Thiên Chúa yêu thương mình, cho rằng Thiên Chúa muốn ngăn cản mình thành “thần”. Tội lớn nhất, là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Tin vào mình hơn tin vào Thiên Chúa, muốn làm chủ đời mình chứ không muốn phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa yêu thương. Hậu quả của tội, là bất an, không hạnh phúc. Ai không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, ai không sẵn sàng phó thác đời mình nơi Thiên Chúa, người đó không thể sống bình an và hạnh phúc.

2. Thiên Chúa muốn cứu độ con người

Khi con người phạm tội, không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, con người loay hoay với chính mình, sợ người khác chiếm điều tốt của mình, nên tìm cách tiêu diệt người khác, kể cả những người thân yêu của mình. Cain đã giết Abel, con người giết hại lẫn nhau. Không tin vào Thiên Chúa, không tin vào con người, làm sao sống hạnh phúc, làm sao sống bình an! Con người phạm tội đã sống trong “hoả ngục” ngay tại trần gian.

Thiên Chúa đã yêu thương, và vẫn luôn yêu thương con người. Khi con người phạm tội, con người phá huỷ chương trình của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục công trình cứu độ con người. Tình yêu Thiên Chúa lớn hơn sự bất trung và thất tín của con người. Thiên Chúa tiếp tục công trình cứu độ mỗi người qua những tác động mời gọi, yêu thương, tha thứ. Ngài luôn luôn tỏ cho con người thấy, Ngài vẫn yêu thương dù con người bất trung thất tín, dù con người quay lưng lại với Ngài. Ngài vẫn dùng người này người kia, để nói với mỗi người về sự quan phòng và yêu thương tha thứ của Ngài. Qua những biến cố trong đời, Thiên Chúa luôn nói với con người: Ngài vẫn đang yêu thương và mời gọi con người trở lại với Ngài, đáp lại tình yêu của Ngài bằng tin tưởng phó thác đời mỗi người cho Ngài.

Hành vi tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, là Ngài cho Con Ngài nhập thể. Đức Yêsu là người hoàn toàn như bất cứ ai. Ngài cũng chịu những cám dỗ mà con người phải chịu, Ngài bị cám dỗ mạnh và nặng nề như bất cứ người nào bị cám dỗ nặng nề và dai dẳng nhất. Qua cuộc sống tại thế, Đức Yêsu dạy con người con đường sống để hạnh phúc đích thực.

3. Đức Yêsu bị cám dỗ nhưng Ngài vượt thắng

Cám dỗ cơm bánh, là cám dỗ bình thường và gần gũi nhất đối với con người. “Có thực mới vực được đạo”. Đã bốn mươi ngày đêm ăn chay, nếu không ăn có thể sẽ chết. Cám dỗ biến đá thành bánh là một cám dỗ rất “hợp lý”. Đức Yêsu chấp nhận thân phận làm người. Là người, không thể làm đá thành bánh được. Chấp nhận giới hạn con người, là một điều kiện giúp con người hạnh phúc.

Nhẩy từ đỉnh đền thờ xuống, sẽ được mọi người kính phục, giúp họ dễ dàng đón nhận những gì Đức Yêsu rao giảng. Đức Yêsu đã không làm theo điều ma quỷ đề nghị; Ngài không bắt Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ của mình cho dù “hợp lý” theo một khía cạnh nào đó. Khiêm tốn, không đòi trổi trang, không buộc Thiên Chúa phải làm theo ý mình, là cách hành xử giúp con người hạnh phúc.

Cám dỗ về quyền hành cũng là một cám dỗ thường xảy ra với mọi người, kể cả nơi các đấng bậc trong Giáo Hội và nơi gia đình. Có người nghĩ rằng một khi có quyền hành, họ sẽ làm người khác sống tốt, và giới hạn được sự dữ. Chỉ cần đánh đổi một chút xíu: bái lạy ma quỷ, là được những gì mình cần để làm cho thế giới này tốt hơn. Sự thật không phải vậy. Suy phục Thiên Chúa, mới làm cho con người hạnh phúc thật.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, tội là gì? Tội huỷ hoại con người đến độ nào? Xin cho ví dụ.
2. Cám dỗ là gì? Bị cám dỗ nhiều, có là dấu chỉ mình sa đoạ và thấp hèn không? Tại sao?
3. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Bạn hiểu sao về lời kinh “Lạy Cha” này?

-----------------------------------
 
 

MC 1-ABC457: Nguy cơ đáng sợ nhất đời


Mhtm 090
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
 
 

Đối với rất nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số người bịa ra MC 1-ABC457


Đối với rất nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số người bịa ra để hù dọa những người yếu bóng vía. Họ cho rằng ma quỷ không có thật và cho dù có thật đi nữa, chúng cũng chẳng đáng cho ta quan tâm, chẳng cần cảnh giác.

Nghĩ như thế là mắc mưu ma quỷ rồi, vì theo lời Đức thánh Cha Phan-xi-cô, “Sa-tan cố tìm cách làm cho mọi người tin rằng chúng không còn tồn tại trong thế kỷ này” để người ta khỏi biết đến chúng và mất cảnh giác với chúng.

Ma quỷ có thật

Kinh thánh cho chúng ta biết sự hiện hữu của ma quỷ là một sự thật hiển nhiên.

Ngay từ khi nguyên tổ loài người được tạo nên, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ, để lôi kéo tổ tông loài người đừng vâng theo lời Chúa dạy, đừng đi theo đường lối Ngài và hai ông bà đã nghe theo lời dụ dỗ của Sa-tan. Thế là thảm họa đã xảy ra từ đó.

Rồi khi Chúa Giê-su vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, ma quỷ cũng đến cám dỗ Ngài, không chỉ một lần mà là đến 3 lần và sau 3 lần thua trận, “ma quỷ rút lui để chờ cơ hội khác” (Lc 4,13).

Và trong 3 năm rao giảng, Chúa Giê-su đã nhiều lần trục xuất ma quỷ khỏi nhiều người bị chúng ám hại và Ngài cũng ban cho các môn đệ quyền năng để xua trừ ma quỷ.

Gần với thời đại chúng ta hơn thì phải kể đến việc ma quỷ đã quấy phá cha thánh Gioan Vianney suốt 35 năm trời bằng đủ mọi hình thức đáng ghê sợ khiến ngài hầu như không thể nào ngủ được. Sự việc này đã được tòa án tuyên thánh cho ngài xác nhận là sự thật.

Thánh Phê-rô cũng xác nhận rằng ma quỷ vẫn đang rình rập quanh ta và dạy chúng ta phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Và từ ngày Đức thánh Cha Phanxicô đảm nhậm trọng trách Giáo hoàng đến nay, ngài đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu rằng ma quỷ có thật, ma quỷ luôn hiện diện quanh ta và chúng ta phải luôn cảnh giác với chúng. Ngài nói: "Ma quỷ đang ở quanh ta … trong thế kỷ 21 này!" Ngài kêu gọi: Xin mọi người “đừng thờ ơ trong việc này! Hãy luôn luôn cảnh giác.”

Ma quỷ rất đáng sợ

Chính ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt ý định phản nộp Chúa Giê-su[1] cũng như đã nhập vào y để thúc đẩy y thực hiện hành vi bán Chúa.[2]

Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng điều xấu là do ác quỷ mà ra.[3]

Hiện nay, ma quỷ có một đạo binh rất đông đảo, rất hùng hậu, rất tinh nhuệ và rất thiện chiến… đang bủa ra khắp nơi để tấn công loài người, tàn phá những giá trị đạo đức, làm suy sụp nền luân lý lành mạnh, làm cho rất nhiều gia đình tan vỡ…

Ma quỷ lôi kéo rất nhiều người vào con đường tội lỗi, sa đọa vì rượu bia, ma túy, mại dâm, đàng điếm, trộm cướp, hận thù, đâm chém, hoang đàng, trác táng…

Ma quỷ xúi giục người ta tham ô, làm hàng giả, sản xuất thực phẩm độc hại, buôn bán ma túy, buôn người…

Ngay cả Chúa Giê-su mà còn bị ma quỷ cám dỗ 3 lần trong hoang địa và sau đó ma quỷ còn chờ cơ hội để cám dỗ tiếp, thì ma quỷ cũng không buông tha cho bất cứ ai trong chúng ta.

Ma quỷ là thù địch đáng sợ hơn bất cứ thù địch nào trên thế gian vì chúng có trăm phương nghìn kế để lừa dối, để mê hoặc, để lôi cuốn người ta vào con đường tội lỗi.
Vô vàn phim ảnh, sách báo, các thể loại ca múa nhạc và văn hóa phẩm đủ loại nhằm kích động bạo lực, tình dục, chia rẽ, hận thù… tràn lan khắp nơi trên thế giới là những phương tiện ma quỷ thường dùng để làm băng hoại bao tâm hồn và xô đẩy nhiều người xuống hỏa ngục.

Trong khi đó, điều rất đáng quan ngại là nhiều người không hề quan tâm, không hề cảnh giác trước những nguy cơ rất đáng sợ này.

Chính vì thế, Đức thánh Cha Phan-xi-cô đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu phải luôn luôn cảnh giác đối với ma quỷ và ngăn ngừa những tác hại do chúng gây ra.

Và thánh Phê-rô cũng nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Lạy Chúa Giê-su,

Ma quỷ thì khôn ngoan xảo quyệt, chúng như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé, còn chúng con chẳng khác gì cừu non trước đàn sói dữ, khó lòng thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nếu không được Chúa bảo vệ chở che.

Xin luôn bảo vệ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống tiết độ và tỉnh thức như lời Chúa dạy để khỏi sa vào móng vuốt kẻ thù rất đáng sợ này. Amen.
----------------------------------
[1] Ga 13,2
[2] Ga 13, 27. Lc 22,3
[3] Mt 5,37

------------------------------
 
 

MC 1-ABC458: Ba cám dỗ niềm tin


(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
 
 

Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ. Con người chúng ta cũng luôn bị cám dỗ. Chúng ta hãy thử khảo MC 1-ABC458


Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ. Con người chúng ta cũng luôn bị cám dỗ. Chúng ta hãy thử khảo sát ba cám dỗ dưới ba chiều kích tương quan  với Chúa, với con người và với tạo vật và cách ứng xử của Chúa Giêsu để học đòi, theo gương của Ngài.

Trong cám dỗ thứ nhất, ma quỷ nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).

Cám dỗ thứ nhất có thể được nhìn thấy như là một loại cám dỗ tin vào khả năng của mình. Nó biểu hiện ở chỗ cám dỗ Đức Giêsu tin rằng mình có thể làm hòn đá trở nên bánh. Đây là một loại cám dỗ chỉ tin vào mình mà thôi.

Nhiều người không tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ tin vào khả năng sức lực của mình. Họ nói: Bàn tay ta làm nên tất cả. Đối với họ, Ông Trời phải đứng qua một bên, vì họ tin rằng với khả năng, kiến thức, vào kinh nghiệm, của mình, mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa.

Trong cơn dịch cúm corona đang hoành hành, mang lại tai họa khá nặng nề cho thế giới, con  người mới thấy khả năng của mình hạn hẹp như thế nào. Đối với một số người đang làm ăn buôn bán phát đạt, nay bị phá sản, cảm thấy rằng bàn tay ta không làm nên tất cả. Ngược lại, tất cả công lao gắng sức, bây giờ thì không còn gì cả, chỉ còn mang một gánh nợ.

Chống lại với cám dỗ này, Đức Giêsu đã tỏ ra tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài nói “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).

Trong cám dỗ thứ hai, ma quỷ đã nói với Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” (Mt 4,5).

Cám dỗ thứ hai này, thì ngược lại với cám dỗ thứ nhất, như là loại cám dỗ chỉ tin vào Thiên Chúa, nhưng với ý nghĩa là chỉ tin vào phép lạ của Thiên Chúa một cách phi lý. Tự căn bản cám dỗ này hệ tại ở chỗ cậy trông vào phép lạ, ở chỗ coi mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bằng cầu nguyện và kiên nhẫn chờ đợi; không cần phải lo lắng, suy tính; không cần cố gắng hay làm chi cả. Cám dỗ này nói rằng Thiên Chúa quyền năng sẽ làm hết; mọi cố gắng của con người coi như là vô ích.

Đã có một thời, diễn ra hiện tượng các bà bầu. Một số phụ nữ hiếm muộn, không thể sinh con, chạy đến cầu xin cùng Chúa. Họ được dặn dò rằng, là phải tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, như là có đức tin chuyển núi dời non. Vì vậy, họ không được đi siêu âm để xem mình có thai hay không. Quả thật, bụng họ đã to ra, như là có bầu. Tuy nhiên, họ đã mang bầu vài ba năm rồi mà vẫn không thể sinh con.

Một bà đã tâm sự rằng: “Thưa cha, con ngu dại quá, do ăn uống nghĩ ngơi, dưỡng thai, nên cái bụng nó tích mỡ, to ra, chứ có bầu gì đâu. Con đã bỏ nhà đi cầu nguyện miết. Chồng con không cho đi, rồi sinh ra cãi cọ với chồng. Bây giờ chồng con đã ly dị, đã bỏ con rồi, vì con không nghe lời ổng! Nay con rất đau khổ và ân hận!”

Đối với cám dỗ thứ hai này, Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỷ rằng: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4,7).

Vì vậy, chỉ tin vào phép lạ của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là thử thách Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa.

Trong cám dỗ thứ ba, quỷ nói rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” (Mt 4, 9).

Cám dỗ thứ ba này lại là loại cám dỗ không tin vào chính mình, cũng chẳng tin vào Thiên Chúa nhưng tin vào những thần tượng.

Ta không cúi đầu trước bức tượng thần, nhưng nhiều khi ta đã có thể cúi mình trước thần tượng của ta mà ta không biết. Khi ta coi khoa học kỷ thuật tiên tiến mới giải quyết hết mọi vấn đề, thì ta đã cúi mình thờ lạy thần tượng khoa học kỷ thuật. Khi ta cho rằng, chỉ có những chế độ chính trị tốt mới giải quyết được những khó khăn của nhân loại, thì ta đã cúi mình thờ lạy thần tượng chính trị. Khi ta coi vàng bạc sẽ giúp gỉai quyết mọi vấn đề, thì ta đã cúi đầu trước thần tượng vàng bạc. Khi ta cho rằng phải học, như một số em học sinh chỉ lo học, cái học là trên hết, học ngày học đêm, học trường chưa đủ, tranh thủ học thêm, còn việc học đạo lý, giáo lý thì bỏ qua, thì lúc đó ta đã bái lạy thần tượng phát triển trí tuệ con người.
Trước cám dỗ này  Đức Giêsu đã từ chối mọi thần tượng để chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, Ngài nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4,10).

Chúa Đức Giêsu đã thắng các cơn cám dỗ. Ngài chỉ cho chúng ta thấy là cần phải vừa tin tuởng nơi Thiên Chúa, vừa tin tuởng vào chính mình, hai điều này liên kết chặt chẻ với nhau không được tách rời.

Điều này thật có ý nghĩa trong mùa Chay thánh, mùa của ăn năn thống hối và cải thiện đời sống. Khi chúng ta cảm thấy mình như thất bại trước những tật xấu của mình, rồi sinh ra thất vọng, ù lì, thì hãy học cách vượt thắng như Chúa Giêsu. Đó là tin tưởng vào Thiên Chúa và tin vào sức cố gắng của mình. Hy vọng rằng phương cách này sẽ giúp chúng ta cải thiện được đời sống, biến đổi cuộc sống mình được mỗi ngày một tốt hơn.

-------------------------------
 
 

MC 1-ABC459: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

CHIẾN THUẬT CỦA MA QUỶ QUA TRÌNH THUẬT “TRÁI CẤM”
 
 

Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn MC 1-ABC459


Tin mừng Mt 6: 24-34: Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất bại?...
Chúa Giêsu đã chiến thắng oai hùng trong Hoang Địa, còn bà Eva đã thất bại thê thảm trong Vườn Địa Đàng. Tại sao bà Eva đã thất bại? Chúng ta hãy theo dõi chiến thật của ma quỷ trong trình thuật "Trái Cấm".

Có lẽ không có trang Kinh Thánh nào mô tả cách rõ ràng chiến thuật của ma quỷ khi cám dỗ như trình thuật cám dỗ bà Evà. Cuộc cám dỗ này đã gây hậu quả tai hại cho toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy khảo sát trình thuật này và từ đó rút ra một số kết luận quan trọng.

Con rắn nói với người đàn bà: "Có phải thực sự Thiên Chúa bảo bà không được ăn quả của bất cứ trái cây nào trong vườn không?" (St 3,1). Cho đến lúc đó, ma quỷ chưa cám dỗ người đàn bà nhưng cuộc đối thoại đã hoàn toàn nằm trong phạm vi vấn đề mà nó đã có sẵn trong trí. Ngày nay, ma quỷ vẫn luôn luôn dùng chiến thuật đó. Đối với những người hướng chiều về thú vui nhục dục, hoặc nghi ngờ chống lại đức tin, thì ma quỷ chỉ khơi gợi bằng những lời nói xa xôi và không cần xúi giục họ làm điều xấu.

Nếu ý thức được sự nguy hiểm thì linh hồn sẽ không dừng lại trong cơn cám dỗ, nhưng sẽ hướng ý nghĩ và trí tưởng tượng tới những vấn đề khác. Khi ấy, cám dỗ gặp trở ngại và linh hồn chiến thắng dễ dàng. Nhưng nếu linh hồn thiếu khôn ngoan mà đối thoại với cơn cám dỗ, thì sẽ bị sa vào bẫy.

Đây là lỗi của bà Evà, bà trả lời con rắn: "Chúng tôi được phép ăn quả trong vườn", nhưng Thiên Chúa đã nói: " Các ngươi được phép ăn quả cây trong vườn, còn quả cây ở giữa vườn, các ngươi không được đụng đến kẻo các ngươi phải chết" (St 3,2-3).

Linh hồn ý thức rằng Thiên Chúa nghiêm khắc ngăn cấm linh hồn thực hiện hành động đó, khơi dậy ước muốn đó, hoặc nuôi dưỡng tư tưởng đó. Linh hồn không muốn bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng lại mất thời giờ gợi lại những bổn phận luân lý. Linh hồn có thể huỷ diệt cám dỗ ngay lúc ban đầu, không cần phải lo lắng, cân nhắc lý do tại sao phải làm như vậy.

Linh hồn đã nhường bước cho kẻ thù và bây giờ kẻ thù tập trung sức mạnh tấn công trực tiếp: "Nhưng con rắn nói với người đàn bà: 'Bà sẽ không chết, vì Thiên Chúa biết khi nào bà ăn nó thì mắt bà sẽ mở ra, và bà sẽ giống như Thiên Chúa, biết lành biết dữ “ (St 3,4-5).

Ma quỷ bày ra một tương lai đầy hấp dẫn. Hắn sẽ không nói với ta rằng, ta sẽ giống Thiên Chúa, nhưng hắn bảo ta sẽ được hạnh phúc nếu buông thả mình vào tội lỗi. Tên cám dỗ có thể thêm: "Trong bất cứ trường hợp nào, Thiên Chúa đầy lòng từ bi sẵn sàng tha thứ cho bạn. Hãy nếm thử trái cấm lần nữa đi. Bạn có nhớ kinh nghiệm trong quá khứ của bạn không? Lúc đó, bạn thú vị dường nào, và rồi bạn đã từ bỏ tội lỗi do lòng thống hối tức khắc cách dễ dàng như thế nào?".

Linh hồn vẫn có thời giờ rút lui vì ý muốn chưa ưng thuận, nhưng nếu không chấm dứt cuộc đối thoại, linh hồn sẽ có nguy cơ sa ngã. Sức mạnh dần dần suy yếu và tội được bày ra ngày càng hấp dẫn.

"Người đàn bà đã nhìn thấy trái ăn ngon, nhìn sướng mắt, và đáng thèm để được tinh khôn. Linh hồn bắt đầu dao động và bị xáo trộn mạnh. Nó không muốn xúc phạm đến Chúa, nhưng cám dỗ hấp dẫn đến nỗi, sau đó xảy ra một cuộc chiến đấu đôi khi diễn ra trong thời gian dài. Nếu linh hồn hết sức cố gắng và nhờ ảnh hưởng của ơn hiện sủng, quyết định trung thành với nhiệm vụ mình thì sẽ chiến thắng, nhưng thường một linh hồn bị dao động đến mức đó thì sẽ bước tới liều lĩnh phạm tội.

Vì thế bà đã hái lấy quả ăn, và cũng đã trao cho ông chồng ở cạnh bà và ông đã ăn (St 3,6). Linh hồn sa chước cám dỗ. Nó đã phạm tội và thường do gương mù hay do sự đồng loã, đã làm cho người khác phạm tội.

Khi vừa phạm tội, linh hồn ý thức ngay được sự lừa dối tai hại "và mắt cả hai đã mở ra và họ biết là họ trần truồng. Họ đã khâu lá và làm khố cho mình" (St 3,7). Bấy giờ, linh hồn ý thức được rằng mình đã mất tất cả. Nó thấy mình hoàn toàn trần trụi trước Thiên Chúa, mất ơn thánh sủng, mất hết các nhân đức thiên phú, không có ơn Chúa Thánh Thần, không có nơi ở cho Chúa Ba Ngôi. Nó đánh mất tất cả công trạng đã lập được trong suốt cuộc đời. Những gì còn lại là dối trá, đắng cay và tiếng cười chế nhạo của tên cám dỗ.

Ngay lúc đó, linh hồn nghe thấy tiếng nói khủng khiếp của lương tâm quở trách vì tội nó đã phạm: "Họ nghe thấy tiếng chân Chúa đi tản bộ trong vườn với gió hiu hiu thổi chiều hôm và họ đi núp mình khuất mặt Giavê Thiên Chúa giữa những cây trong vườn. Giavê Thiên Chúa gọi người đàn ông và phán với ông: "Ngươi ở đâu?" (St 3,8-9).Câu hỏi không lời đáp này cũng là câu hỏi mà lương tâm tội nhân đặt ra. Điều duy nhất tội nhân có thể làm là  quỳ gối xin Chúa thứ tha vì sự bất trung của mình và học từ kinh nghiệm đáng buồn này, để trong tương lai biết cách thế chống lại tên cám dỗ ngay từ giây phút đầu. Nhờ đó mới dễ dàng chiến thắng và được bảo đảm sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa[1]. Amen.
--------------------
[1] Jordan Aumann, Spirirual Theology (thần học về đời sống tâm linh) tập I, trg.249-251

----------------------------
 
 

MC 1-ABC460: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
 
 

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su MC 1-ABC460


Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa”. Vì thế, Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa Năm A này mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.

St 2: 7-9; 3: 1-7

Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, mô tả sự thử thách của người nữ đầu tiên bằng ngôn ngữ hình tượng. Trước sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa, hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người nữ này đã sa ngã kéo theo nhân loại.

Rm 5: 12-19

Trong Thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên rằng nhân loại từ nguyên thủy mang dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, được thoát khỏi tội A-đam và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.

Mt 4: 1-11     

Tin Mừng Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập giá mà Chúa Cha đã chọn.

BÀI ĐỌC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)

Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo: chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên và chuyện tích thứ hai cổ xưa hơn (St 2: 4b-25) được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít vào thế kỷ X trước Công Nguyên.

– Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Diễn ngữ: “trời đất” chỉ toàn thể vũ trụ.

Bằng văn phong trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp, trong đó con người là loài thụ tạo tuyệt hảo nhất (St 1: 31), vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, Ngài đã tạo dựng con người có nam có nữ “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.

– Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa, là Thiên Chúa làm ra đất và trời” (2: 4b). Như vậy, với diễn ngữ “đất và trời”, chuyện tích thứ hai trình bày công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, trong đó con người là trung tâm. Chuyện tích thứ hai này còn tiếp tục kể cho chúng ta về “Thử Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7). Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi một tương lai vô vọng không lối thoát do sự sa ngã của con người đầu tiên, nhưng tiếp tục kể cho chúng ta về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua chuyện kể liên tục của mình, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3: 15).

Trong chuyện kể của mình, tác giả Gia-vít sử dụng kiểu nói trực tiếp và cụ thể: ông trình bày Thiên Chúa như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Ngoài ra, ông cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ thần thoại mà ông đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại rất phổ biến vào thời ông, nhưng ông sử dụng những chất liệu này cách tự do khi đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn. Nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng của khoa thần thoại, tác giả chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại, như lời nhận xét của Đức Gioan Phao-lô II: “Đối với chuyện tích thứ hai về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật, trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (Jean Paul II, Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).

Hai đoạn văn đề nghị cho chúng ta hôm nay đều được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo, trong đó đoạn văn thứ nhất (St 2: 7-9) liên quan đến cuộc sáng tạo con người và đoạn văn thứ hai (St 3: 1-7) liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ.

CUỘC SÁNG TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)

1.  Con người, được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật

Trong chuyện tích thứ nhất, công trình Sáng Tạo diễn ra trong sáu ngày, trong đó người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc và cuối cùng, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai, con người được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với thụ tạo đầu tiên của Ngài.

Đức Chúa sáng tạo con người được mô tả như một thợ gốm thần linh “lấy từ bụi đất nặn nên con người”; sau này, Đức Chúa sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: Đức Chúa “lấy đất nặn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân giữa con người và các sinh vật khác được trình bày rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.

Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.

2. Con người, một sinh linh

Đức Chúa thổi sinh khí vào hình tượng người bất động để làm cho con người sinh động. Sinh khí mà Đức Chúa ban cho con người phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, khi trút hơi thở cuối cùng, con người sẽ hoàn lại cho Ngài. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Rồi người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).

Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Đấng Sáng Tạo lập lại cử chỉ này trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội khi Ngài thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.

3. Đức Chúa thiết lập nơi cư ngụ cho con người

Giữa khung cảnh đất hoang vu trơ trọi, thiên Chúa đã làm nẩy sinh một vườn cây kỳ diệu. Khu vườn này được gọi là “Ê-đen”, nghĩa là khu vườn xinh đẹp, và “về phía Đông” nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống. Trong khu vườn kỳ diệu này, Đức Chúa cho mọc lên đủ loại cây đơm bông kết trái xanh tươi nhờ một dòng sông từ vườn chảy ra tưới khắp bốn phía. Rồi đặt con người vào đó.

4. Cây trường sinh và cây biết thiện ác

Trong các loại cây này, có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”. “Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả bốn mùa xum xê cành lá) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).

“Cây biết điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp đối xứng nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.

Ở nơi diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, động từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Híp-ri thích liên kết những cặp mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể, chẳng hạn như ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ…, vì thế đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.

Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.

THỬ THÁCH (St 3: 1-7)

Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài thuộc thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần, như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, vân vân.

Tác giả kinh thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.

1. Con rắn

 Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu với câu then chốt gây sửng sốt này: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật “trong mọi loài vật nơi hoang dã”, một thụ tạo giữa mọi loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác,  bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.

Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính điều ác mà ông liên kết với con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện điều ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn ăn trái cây của bà. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh khi sử dụng hình tượng ngoại giáo.

Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu và phồn sinh. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả Kinh Thánh phác họa bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.

Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận như Thiên Chúa.

Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).

2. Người phụ nữ

Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”. Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dễ bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam. Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác, chẳng hạn như ở Hy lạp trong câu chuyện thần thoại Pandore, người phụ nữ đầu tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.

3. Lời dụ dỗ dối trá

Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn mọi cây trong vườn không?’” (3: 2). Theo cấu trúc câu của ngôn ngữ Híp-ri, đây không là một câu hỏi, nhưng là một câu nghi vấn mà người kể chuyện có dụng ý để nó trong thế lơ lững, nhằm để khích bác. Quả thật, người nữ phản ứng ngay tức khắc: “Trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái của cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, nếu không, sẽ phải chết” (3: 3). Câu trả lời của người nữ cho thấy, dù không được Thiên Chúa truyền đạt trực tiếp, người nữ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của lời cảnh báo này.

Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (3: 5). Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.

4. Tấn thảm kịch của sự tự do

Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong lương tri của người nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân điều thiện điều ác (như vậy sẽ là nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người. Một cuộc độc thoại diễn ra trong lòng của người nữ: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với con người.

5. Tội lỗi

Vì thế, hành động của người nữ: “Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở với mình, ông cũng ăn”, diễn tả ý muốn toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định điều thiện điều ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa. “Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và một vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.

Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này – dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.

Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; đáng lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.

6. Họ thấy mình trần truồng

Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên của tội là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn cách đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.

7. Tính lịch sử của tội

Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gửi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.

Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha của sự dối trá”.

8. Kinh nghiệm lịch sử

Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử của dân tộc mình. Dân Chúa chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”, cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống… Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).

9. Những khía cạnh ngôn sứ

Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc. Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.

Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, phải chăng tác giả muốn vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như cách nói của các nhà thần học? Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Độ. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.

Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi sẽ không chết bao giờ” .

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-19)

Bài Đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.

Thánh Phao-lô đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân: “Chúng ta là thân thể của Đức Kitô”), dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, triều đại tội lỗi đối lập với triều đại ân sủng.

1. Lập luận của thánh Phao-lô

Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận nguồn gốc của tội bằng cách nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).

Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép đối xứng nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Theo phép đối xứng nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12), nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề này được hiểu một cách mặc nhiên theo trình tự hợp lý của phép đối xứng nghịch đảo: “Qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Kitô) ơn công chính hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.

Sự gián đoạn của phép đối xứng nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được Đức Ki-tô thực hiện. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là đường dẫn qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và “sự chết đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ này ở nơi những đối xứng nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng thánh Phao-lô đã nhận được nguồn cảm hứng từ Kn 2: 23-24:

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian”.

A-đam đã mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân hóa, có trước A-đam.

2. Triều đại của tội lỗi

Tội lỗi cũng được nhân hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (5: 12a). Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).

Câu phát biểu nổi tiếng: “Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12b) này đã gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau do cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bởi vì”. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ này.

Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”. Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghịch của A-đam.

Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác – A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau. Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ chương – không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.

Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi. Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.

3. Triều đại ân sủng

Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động cách mãnh liệt bởi viễn cảnh phi thường này: Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.

Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (5: 15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn nhân loại đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.

TIN MỪNG (Mt 4: 1-4)

Chuyện tích “Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

1. Gốc tích câu chuyện

Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong những chước cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta.

2. Hoang địa

Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dãi đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bễ vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Pa-lét-tin. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa này như hai thánh Mác-cô (Mc 1: 13) và Lu-ca (Lc 4: 2) gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài như thánh Mát-thêu gợi ra (Mt 4: 3).

Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.

Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi còn ấu thơ (Mt 2 : 13-16); giờ đây, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.

Chính ông Mô-sê mà thánh Mát-thêu đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong chuyện tích cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Đối chiếu với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).

3. Ba chước cám dỗ

Một mặt, ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa: bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng (Xh 32); nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang. Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung: cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.

A- Đấng Mê-si-a trần thế

 Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su cảm thấy đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu “Con Thiên Chúa” vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 40). Hai chước cám dỗ này rất đối xứng với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi cho riêng mình. Đức Giê-su đã đẩy lùi chước cám dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng của mình để phục vụ tha nhân.

Xưa kia khi dân Do thái phải đói trong hoang địa và đã nhận được bánh man-na, ông Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này, qua đó Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại. Một ngày kia, khi Đức Giê-su đói, các môn đệ mời Ngài dùng bữa, nhưng Ngài trả lời còn dứt khoát hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).

B- Đấng Mê-si-a đầy quyền năng

Sau khi đặt Đức Giê-su trên nóc đền thờ Giê-ru-sa-lem, Xa-tan đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi”. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá (Tv 91: 11-12, 15).

Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa như vậy: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ sự hiện diện của Ngài (Xh 17: 1-7), dù trước đó Ngài đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, ông Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16).

Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của ông Mô-sê: “Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Qua đó, Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục từ trời để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a; nhưng Ngài sẽ không ban cho họ.

C- Đấng Mê-si-a thống trị thế giới

Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Xa-tan chủ tể của mọi vương quốc. Chắc chắn, những hình ảnh được dùng nhằm nhấn mạnh cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.

Đấng Mê-si-a mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều dung mạo; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đến với tư cách là “Người Tôi Trung” và “Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài thường quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Ga 6: 15). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê khi thánh Phê-rô ra mặt chống đối viễn cảnh về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này: “Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16: 23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!”. Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với chước cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Ô-liu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.

Thánh Mát-thêu đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục dưới quyền Xa-tan. Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này” (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3: 8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực Sự Ác: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước nhưng mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 11-12).

Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ thờ lạy ngẫu tượng (thờ bò vàng), ông Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Lúc đó, thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ đến gần hầu hạ Ngài”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 tiên báo.

Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn quyền thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ quyền thống trị thế giới, nhưng Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân Do thái” hơn.

-----------------------------
 
 

MC 1-ABC461: Trông bạn khác quá


 - Mark Link
 
 

Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc MC 1-ABC461


Chủ đề: Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa

Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi (Appalachian Trail) của ông.

Lúc đó Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không? Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này, Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình, tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".

Cuộc hành trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng có ai tác động lên cậu hết.

Năm tháng sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".

Doug quả là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy. Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong chính tôi".

Doug Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay, Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.

Cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.

Chúng ta hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là ai?

Thoạt tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.

Nhưng các cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?

Chính ma quỷ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi là Con Thiên Chúa..." ma quỷ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta. Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?

Các cơn cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi Adam được Chúa tạo dựng, ma quỷ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỷ. Giờ đây ma quỷ lại cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác, Chúa Giêsu là "Adam thứ hai". Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời.. Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr 15,22.47-49).

Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân loại mới.

Như thế, để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa Giêsu:

Thứ nhất, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỷ cám dỗ.

Nhưng không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu trên ma quỷ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng Phục sinh với Chúa.

-------------------------------
 
 

MC 1-ABC462: Trả lại cho Chúa chỗ ngự của Ngài


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
 
 

Trong những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè cho người MC 1-ABC462


Trong những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè cho người đi bộ, đặc biệt tại Quận I, Ông Phó Chủ tịch UBND Quận I, Đoàn Ngọc Hải, đã hành động cách quyết liệt để đòi cho được vỉa hè nhằm trả lại cho người đi bộ. Và sau gần một tháng, vỉa hè Quận 1 thành Phố HCM thống thoáng hơn, đẹp hơn, người đi bộ cảm thấy thoải mái hơn, không còn nơm nớp lo sợ bị xe đụng.

Một hình ảnh gợi cho những người Kitô hữu khi bước vào Mùa chay thánh. 40 ngày của Mùa chay là thời gian để người tín hữu gột rửa tâm hồn, trả lại cho Thiên Chúa chỗ đứng của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu. Thật vậy, trong cuộc hành trình tiến về Nhà Cha, không ít người Kitô hữu đã để cho tâm hồn của mình bị lấn chiếm bởi những điều mà đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày, đó là: danh vọng, tiền bạc và đam mê nhục thú. Bôn ba trong cuộc sống trần thế, có bao giờ chúng ta tự hỏi, trong tâm hồn của chúng ta có còn chỗ nào cho Chúa ngự trị không? Hay là những lo toan của cuộc sống, những tham vọng của cuộc đời, những thú vui trần thế đã choáng hết chỗ và không còn một chỗ trống nào để Chúa có thể ghé thăm?

Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh với một khao khát tái lập lại trật tự trong tâm hồn, trả lại chỗ ngự trị cho Chúa sao cho xứng hợp, bởi con người được tạo thành giống ảnh Chúa, và thân xác là Đền Thờ của Chúa. 40 ngày Chay Thánh không là một chu kỳ Phụng Vụ đến rồi đi, nhưng phải là thời gian hành động với một thái độ dứt khoát, không do dự hay lưỡng lự. Một sự cương quyết như Đức Kitô khi đối diện với các cám dỗ mà chúng ta vừa được nghe. Hãy mạnh dạn mở miệng để nói với các cám dỗ: nầy Satan hãy xéo đi, hãy đi chỗ khác, vì nơi đây không có chỗ cho người. Một lời minh định như thế là một nhát búa đập nát những thói quen xấu đang là những chướng ngại cản lối Chúa đến với chúng ta. Hãy mạnh dạn tuyên xưng: chỉ bái lạy Đức Chúa và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi, là những động lực lôi kéo chúng ta ra khỏi sự ươn lười, thúc đẩy chúng ta loại bỏ sự ham mê nhục hú, sự hưởng thụ ích kỷ, để chúng ta dành lại chỗ cho Chúa trong tâm hồn chúng ta.

Dĩ nhiên việc làm này không phải là dễ dàng, chắc chắn chúng ta cũng gặp nhiều sự chống đối là tính ươn hèn, sự ích kỷ, lòng tham lam… Thế nhưng, cuộc đời Kitô hữu luôn được mời gọi chiến đấu để dạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu chúng ta, chính là sự sống đời đời. Hãy siêng năng chạy đến với các Bí tích, nhất là Bí tích Hoà giải và Thánh Thể chúng ta sẽ tìm được năng lực để chiến đấu dành lại chỗ cho Chúa trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa, cám tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con thời gian 40 ngày của Mùa Chay Thánh này, vì đây là thời gian thuận tiện để chúng con khám phá lại căn tính đích thật của đời Kitô hữu chúng con, và nhờ đó chúng con hiểu rằng, đời này chẳng có ý nghĩa gì nếu thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, và vì vậy chúng con luôn nỗ lực giữ Chúa ở lại với chúng con. Amen.

-----------------------------
 
 

MC 1-ABC463: Hãy cậy trông vào Thiên Chúa


(Suy niệm của Cao Nhất Huy)
 
 

Trang Tin Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu: "Nếu ông MC 1-ABC463


Trang Tin Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!".

Chước cám dỗ này nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng quyền lực Thiên Sai của Người để mưu cầu lợi ích riêng, hay đúng hơn là để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo mà thân xác phàm trần đang phải gánh chịu.

Đáp lời lại, Đức Giêsu xác quyết: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

Chúa Giêsu khẳng định cho ma quỷ biết rằng: Ngài đến trần gian này là tuân theo ý muốn của Chúa Cha, và Ngài không muốn dùng sức mạnh Thiên Sai mà chiều theo ước muốn của Thân xác, từ đó lại sa vào chước cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giêsu là một Ađam mới, đến trần gian này để mang lại sự sống đời đời cho con người, khi bị mất đi bởi Ađam cũ đã thất bại trước cám dỗ của ma quỷ năm xưa nơi vườn địa đàng.

Chúa Giêsu không dùng sức mạnh của Thiên Sai để chống lại ma quỷ, nhưng dùng chính sự yếu đuối của thân xác con người chống lại sự cám dỗ của ma quỷ bằng việc cậy trông vào Thiên Chúa, hơn là cậy dựa vào sức mạnh của bản thân: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

Ta thấy, nhờ cậy trông vào Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã là người chiến thắng. Sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, không có lý do nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy đói, trong chính thân xác của phàm nhân, và không phải chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng, Ngài còn bị đau khổ trong chính những biến cố của cuộc đời Ngài, thậm chí có lúc còn bị nao núng ngay trong chính thân xác của mình. Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại sự cậy trông, nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng được bởi Ngài đã và luôn cậy trông vào Thiên Chúa.

Trong khi đó, dân Thiên Chúa bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8). Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: Trong những lúc thất vọng, chán chường hay đau khổ ê chề, chúng ta có dựa vào Thiên Chúa không hay chúng ta dựa vào chính bản thân rồi quay lại trách móc Thiên Chúa?

Có lẽ, một cách thực tế, khi gặp thử thách, gian nan và bế tắc, chúng ta sẽ là những người lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ... Câu đầu tiên của chúng ta khi gặp những điều đó không phải là xin Chúa cho chúng ta sức mạnh của Ngài để chiến đấu chống lại những đau khổ và thử thách, nhưng chúng ta lại xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta, sự xấu mà chúng ta phải chịu. Khi xin không được thì chúng ta sẽ phản kháng, trách móc Thiên Chúa.

Không ai trong chúng ta được tránh khỏi hoạn nạn thử thách ở đời. Người tin Chúa cũng như người không tin đều phải đối diện với hoạn nạn, thử thách, khó khăn như nhau. Điểm khác biệt là phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh. Không phải khi tin Chúa chúng ta được miễn trừ khỏi khó khăn, nhưng khi sống với niềm tin nơi Chúa, chúng ta sẽ biết xử sự hay đối diện với hoàn cảnh như thế nào cho thích hợp.

Câu truyện về Gióp có thể được hiểu như một thử thách đối với đức tin. Gióp là người rất mực trung thành với Thiên Chúa và vì thế Thiên Chúa rất hài lòng về ông (G 1,1-5).

Thấy vậy, Satan xin Chúa để nó được phép thử thách ông, xem trong thử thách ông còn trung thành với Chúa không. Chúa cho phép. Satan được làm hại mọi sự ông có, nhưng không được đụng tới ông. Satan liền ra tay.

"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trới giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: Người Canđê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay" (G 1,13-19).

Tuy nhiên, qua mọi thử thách mà Satan bày ra: mất của cải, mất con cái, rồi nỗi đau thể xác của chính mình:

"Vậy Satan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi" (G 2, 7).

Trong cảnh khốn cùng đó, không những là người thân xung quanh xỉa xói ông mà ngay cả chính người vợ của ông cũng quay lại trách móc và xỉa xói ông, nhưng Gióp vẫn rất mực trung thành với Thiên Chúa và không hề buông lời trách móc Thiên Chúa: (G 2,10).

Chính vì niềm tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nên sau cùng Chúa đã thưởng công cho ông. Chúa khôi phục lại tất cả tài sản cho ông và Chúa tăng gấp đôi những gì ông có.

Đó chính là mẫu gương cho niềm tin của chúng ta ngày hôm nay. Liệu rằng trước đau khổ, chúng ta có giữ được niềm tin và lòng cậy trông vào Thiên Chúa hay không?

Xa hơn nữa, chúng ta thấy hình ảnh Chúa Giêsu khi chịu đóng đinh trên cây thập tự, cũng giống như lời cám dỗ của ma quỷ trong Tin Mừng hôm nay, đó là, quân lính chế diễu người và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37). Rồi một trong hai kẻ phạm tội cũng cám dỗ Chúa: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 39).

Trước cảnh bị cám dỗ và thách thức nhự vậy, có lẽ nếu Chúa Giêsu sử dụng quyền năng của Thiên Chúa để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo là điều rất dễ dàng, nhưng Chúa vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 45).

Đó chính là mẫu gương của chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy về những thử thách trong đời sống đức tin. Trong lúc đau đớn, đói khát nhất trên cây thập giá, Chúa Giêsu vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha của Ngài mà phó hết cả linh hồn và xác trong tay Cha.

Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Mỗi người chúng ta rất dễ dàng oán trách Chúa và buông xuôi tất cả linh hồn và thân xác khi gặp thử thách, gặp đau khổ.

Bước trên đường đời, mỗi người chúng ta từng ngày trôi qua đều phải gặp những khó khăn và thử thách cho riêng mình. Chúng ta có vượt qua được không là do chúng ta có biết cậy trông vào Thiên Chúa hay chúng ta quay trở lại trách móc Chúa? Có lẽ kinh nghiệm của chúng ta đều đã từng trải qua những chuyện đó, và mỗi người chúng ta tự xét lại chính mình xem chúng ta có đang cậy trông vào Thiên Chúa không? Hay chúng ta thường xuyên trách móc Chúa?

Nhưng chúng ta hãy tin rằng, trong mọi hoàn cảnh của thử thách Chúa luôn ở bên cạnh để giúp ta, và Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng nếu chúng ta biết trông cậy vào Ngài.

Trong lúc tuyệt vọng nhất, tên trộm lành đã cậy trông vào Chúa nên anh ta đã được cứu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết cậy trông vào Chúa. Amen.

--------------------------------

 

MC 1-ABC464: Cám dỗ trong đời


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
 
 

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ ba lần, mỗi lần mỗi khác. Quỷ MC 1-ABC464


Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ ba lần, mỗi lần mỗi khác. Quỷ Satan đã nhắm vào những ba điểm yếu nhất của con người để cám dỗ Chúa: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và nhu cầu hưởng thụ. Thứ nhất, sau những ngày Chay tịnh, Chúa Giêsu cảm thấy đói. Đói cần phải ăn. Lợi dụng cơ hội này quỉ cám dỗ Chúa chiêu bài rằng nó không bảo Chúa phải ăn nhưng nó dụ Chúa biến đá thành bánh mà ăn. Vì sao? Vì dùng cơm bánh ăn chống đói là bình thường, nhưng biến đá thành bánh mà ăn đó là chuyện khác thường. Dùng uy quyền để phục vụ Thiên Chúa là chuyện bình thường, nhưng dùng quyền mà mưu lợi cho cá nhân của mình chứ không phải lo cho chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa là sa chước cám dỗ của nó vì chưng nếu Chúa làm như qủy đề nghị, Chúa sẽ không còn phải là Con của Thiên Chúa nữa, mà đã trở thành dụng cụ trong tay qủy rồi. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dứt khoát khước từ và Chúa đã chiến thắng nó. Như nó không chịu thua, qủy đưa lên một bình diện cao hơn, vươn lên tới lĩnh vực tinh thần. Cho nên, bằng những lời đường mật, qủy muốn Chúa Giêsu thách thức Thiên Chúa. "Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi” (Mt 4,6). Nhưng Chúa Giêsu biết chiêu bài nên đã không rơi vào cạm bẫy của quỉ. Chúa đã thẳng thắng trả lời: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa của ngươi”. Chúa lại chiến thắng. Quỉ tấn đến cám dỗ cuối cùng, nó nham hiểm và ác độc hơn: Thèm muốn quyền hành để được hưởng thụ. Cho nên, quỉ đề nghị Chúa phải thờ lạy nó thì sẽ có tất cả vinh hoa phú quý quyền lực. Thật là một đề nghị trớ trêu nhưng không kém phần hấp dẫn vì Thiên Chúa vốn giàu sang phú quý quyền năng, nay lại phải đói khát chẳng còn cái gì. Nhưng Chúa đã dạy cho nó bài học đắc giá rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi.

Phần chúng ta, quỷ dữ cũng không tha. Trong đời sống chúng ta hôm nay chắc chắn cũng bị quỉ dữ cám dỗ trước 3 lĩnh như Chúa Giêsu xưa: Tiền bạc, quyền hành và hưởng thụ. Thứ nhất tiền bạc, tiền của có thể là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại trở thành ông chủ xấu. Tiền có thể xây dựng, nhưng cũng có thể phá đổ. Có thể phát triển nhưng cũng có thể huỷ diệt mọi công trình vật chất cũng như tinh thần. Tiền của có thể biến con người trở nên bất hiếu, đánh mất nhân cách, giảm đi nhân phẩm, bất trung, bất nghĩa và dễ làm mất đức tin. Chẳng hạn, cũng vì tiền mà vợ chồng ông Vua cà phê Trung Nguyên đưa nhau ra tòa ly dị. Trong phần tranh luận tại tòa, ông rút ra nhận định: “Con người cần phải có lương tâm, lương tri. Thiếu cái đó không còn phải là con người nữa”. Khi nói về gia đình, ông chua xót thốt lên: “Tiền nhiều để làm gì? Giành tiền để làm gì mà giờ đây phải đưa nhau ra tòa nhục nhã đau đớn như thế này?”. Chúng ta không nói đến việc ai đúng ai sai, nhưng chúng ta rút ra được một điều: tiền bạc có sức hút mãnh liệt và cũng là những cám dỗ vô cùng mạnh mẽ trong đời sống con người và nó có thể biến con người trở nên thù nghịch với nhau, khiến gia đình tan vỡ. Vì tiền bạc mà nhiều người đi sai đường lạc lối, đánh mất lương tri và đạo đức kể cả đức tin. Vì thế, Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta: "Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền bạc được" (Lc 16,13).

Cám dỗ thứ 2 mà quỷ hôm nay luôn giăng bãy chúng ta đó là hưởng thụ cụ thể là thế giới ảo. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời sống tâm linh của chúng ta. Thật thế, một mặt, thế giới mạng giúp chúng ta mở rộng tầm mắt ra thế giới xung quanh với nhiều thông tin một cách nhanh chóng, giúp con người “biết” và “gần gũi” nhau hơn, cung cấp nhiều thông tin đa dạng và phong phú, đầy đủ các chức năng để giải trí, học hành mang tính hiện đại… Tuy nhiên, mặt trái nó làm cho chúng ta dễ dàng rơi vào cơn cám dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ, sống ảo và tự kỷ. Chúng ta mải mê với thế giới ảo mà không còn thiết tha với việc đi lễ, cầu nguyện, không tìm được hứng thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa và ra đi tìm đến và gặp gỡ tha nhân. Cho nên, chúng ta có thể bỏ nhiều giờ trên thế giới ảo nhưng dành ít thời gian viếng Chúa, cầu nguyện, đọc kinh… rồi chúng ta sẵn sàng tỏ bày tâm tư, tình cảm, vui buồn sướng khổ của ta cho những người trên thế giới ảo trong khi đó với Chúa và cha mẹ hay những người sống quanh ta không hề quan tâm, thăm hỏi và bày tỏ tâm tình...

Kính thưa anh chị em, không cần phải nói nhiều, cũng không cần phải dẫn chứng, anh chị em cũng có thể thấy cơn cám dỗ về quyền hành và hưởng thụ ngày hôm nay nó mạnh như thế nào và đồng thời anh chị em cũng thấy được những hậu quả của nó ra sao. Nếu không can đảm chiến đấu, sớm muộn gì rồi chúng ta cũng sẽ trở thành nô lệ cho nó, và lúc đó, chúng ta sẽ không biết nó sẽ lôi kéo ta đi tới đâu và bắt chúng ta làm cho nó những gì. Chúng ta không thể lường trước được. Qủy dữ rất khôn khéo và xảo quyệt: từ người đạo đức có thể trở thành tội nhân và tội lỗi. Từ một ngụm rượu cho đến con ma men say sưa, từ một lần hút thử mà rồi rơi vào con nghiện ngập lúc nào không hay, từ một lần thói quen phim xấu trở thành quen thói tội lỗi, từ một việc ăn cắp vặt thành một tên trộm cướp giết người, và từ một câu chửi tục với chồng vợ con trở thành một kẻ bạo lực gia đình…

Chúng ta hãy can đảm lên! Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy chiến đấu để giành chiến thắng cơn cám dỗ của quỷ dữ và để chiến thắng cả sự chết. Chúa đã chiến thắng và bước vào cõi vinh quang để trở thành Cứu Chúa của mọi người. Mùa chay là mùa tập luyện và chiến đấu với những cám dỗ của quỷ dữ trong đời sống. Chúng ta hãy can đảm cầm lấy vũ khí là Lời Chúa, hy sinh, hãm mình ăn năn và sám hối để chiến đấu trước mọi cám dỗ và rồi sẽ chiến thắng như Chúa Giêsu, để cũng được chia sẻ vinh quang với Người, đúng như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác quyết: “Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị với Người”.

--------------------------------

 

MC 1-ABC465: Suy niệm của Lm. Trần văn Trợ

 
 

Ngươi phải bái lạy Đức Chúa..... Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho MC 1-ABC465


“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình người mà thôi.” Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi.

Satan đã dùng nhiều cám dỗ để thử thách Đức Giêsu, tuy chúng được biểu lộ qua nhiều hình thái và hành động khác nhau, nhưng kết cuộc lại đều dẫn đến một lập trường: trở thành đồng minh của nó! Cạm bẫy càng tinh vi, nghĩa là càng khéo léo che đậy thì càng dễ bắt được con mồi hơn. Chúng ta đều quen với câu “Ngọt mật chết ruồi!” Tự bản chất mật đâu phải là thuốc độc, mà tại sao con ruồi phải bị chết?”

Tuyệt nhiên trong những mưu chước Satan đưa ra hòng dụ dỗ đức Giêsu, không hề đá động gì đến việc chống đối Thiên Chúa, nhưng chỉ giục Ngài làm theo ý riêng của mình. Satan không ngây ngô để lộ tâm địa hiểm độc của nó ngay từ đầu, nhưng trái lại sẵn sàng cung cấp miễn phí những thứ gì con người chúng ta vẫn ưa thích, xem ra có vẻ hoàn toàn vô hại, các việc biến đá thành bánh, nhảy từ nóc đền thờ hay làm chủ hết vinh hoa lợi lộc thế gian nào có chi là xấu đâu! Cũng giống như hiện tại chúng ta lo lắng làm giàu hay muốn được nhiều danh vọng, sao có thể cho là xấu được?

Nhưng nó luôn rình rập lúc họ thỏa thích, say men chiến thắng và mất cảnh giác. Bấy giờ Satan mới tóm được con người dễ dàng như con ruồi đang say mật!
Những hình ảnh đức Giêsu bị cám dỗ trong Tin Mừng đầu Chúa Nhật đầu Mùa Chay thánh nhắc nhở mỗi người hãy luôn đề cao cảnh giác, không nhân nhượng ma quỷ một chút xíu nào cả. Vì một khi chúng ta nhân nhượng với chúng một bước, nghĩa là chúng ta đang bỏ ngỏ và cho chúng quyền tự do lui tới nhà mình. Làm sao chúng ta còn có thể tống khứ chúng ra sau này?

-----------------------------

 

MC 1-ABC466: “Tội lỗi và tình thương”


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày MC 1-ABC466


Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2). Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện. Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta. Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.

Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một biến cố trong quá khứ. Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn. Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại có cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi. Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Thánh nhân còn diễn tả: “Lãnh nhận phép Rửa, không phải để được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”. Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới. Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.

Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới. Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình. Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai. Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa – Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em. Tinh thần sa mạc giúp ta có sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta.

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộc sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC467: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ”

1. Hoang địa

 

Tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó MC 1-ABC467


Tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó là vì, trong bối cảnh lịch sử cứu độ và nhất là khởi đi từ kinh nghiệm Xuất Hành và hành trình tiến về Đất Hứa của Israen, hoang địa là nơi Thiên Chúa dẫn con người vào để gặp gỡ Ngài. Và để gặp gỡ Ngài, con người phải bỏ lại tất cả phương tiện, công việc, những lo lắng, những ràng buộc, những ngẫu tượng hay thần tượng như tiền bạc, danh vọng, lạc thú, để được tự do và bình tâm. Như xưa kia, Dân Chúa đã phải bỏ lại “Ai Cập” và tất cả những gì thuộc về “Ai Cập” ở đàng sau. Nhưng như chúng ta đều biết, điều này không dễ dàng, vì họ bỏ ra đi, nhưng trong lòng còn đầy quyến luyến.

Vì thế, hoang địa còn là nơi của thử thách, nhất là thử thách về lòng tin. Thật vậy, hoang địa là nơi không nhiều lương thực hay nước uống, để con người chỉ sống bằng của ăn, của uống, như là ơn Chúa ban từng ngày, giống như em bé được mẹ nuôi nấng từng ngày. Đó cũng chính là trường hợp của chúng ta trong thời gian tĩnh tâm, hay cách chúng ta sống bốn mươi ngày của Mùa Chay. Ngoài ra, hoang địa còn là nơi không có đường đi, để chỉ nhận Lời Chúa là:

Ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường cho con đi.
(Tv 119, 105)

Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giê-su được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; nhưng điều này không miễn cho Người khỏi chịu thử thách trong hoang địa, do chính Thần Khí dẫn đưa. Đức Giê-su Ki-tô, dù là Con Thiên Chúa, vẫn để cho mình được dẫn đi chịu thử thách, dù mang thân phận Thiên Chúa, Người vẫn muốn chia sẻ thân phận đầy thử thách của loài người chúng ta. Trong khi đó, loài người chúng ta lại ham muốn thân phận thần linh của Ngài, khi tin và làm theo lời của Ma Quỉ: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4-5)

Ngài chịu thử thách để cảm thông với thân phận và số phận đầy thử thách của loài người và từng người chúng ta, và nhất là để chia sẻ chiến thắng thử thách cho chúng ta; bởi vì cả loài người và từng người chúng ta, không ai đứng vững được trước thử thách. Hình ảnh Đức Giê-su sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người, diễn tả và loan báo chiến thắng của Đức Giê-su đối với thú tính, Xa tan, sự dữ và sự chết.

Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

(c. 12-13)

2. “Chịu Xa tan cám dỗ”

Sau khi chịu phép rửa, “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.” “Cám dỗ”, trong tiếng Hi lạp, còn có nghĩa là “thử thách”. Tương tự như trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, động từ to tempt hay tenter vừa có nghĩa là “cám dỗ” vừa có nghĩa là “thử thách”; tùy theo chủ thể hay nội dung mà chúng ta hiểu đó là cám dỗ hay thử thách.

* Thiên Chúa thử thách con người (chứ không thể cám dỗ!); còn Xa tan thì cám dỗ. Và con người cũng thử thách Thiên Chúa nữa; như Đức Giê-su nói với Xa tan trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7); và như Dân Chúa trong sa mạc, thử thách Đức Chúa tới mười lần (x. Ds 14, 22).

* Và khi cám dỗ liên quan đến lòng tin, chứ không phải là các vấn đề luân lí (trộm cắp, giết người…) hay dục vọng, thì nên dịch là thử thách. Trong trường hợp của Đức Giê-su, Xatan “cám dỗ” Ngài về lòng tin mà Đức Giê-su đặt để nơi Thiên Chúa, chứ không phải là hay không thể là vấn đề luân lí hay giới tính (x. Mt 4, 1-11). Tương tự như Dân Chúa trong sa mạc, họ chịu thử thách về lòng tin. Bởi vì, theo sáng Sáng Thể (x. St 3) mặc khải cho chúng ta về tội nguyên tổ, thái độ nội tâm nghi ngờ Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ngay trong lòng của mình, mới là gốc của mọi tội, tội luân lí hay dục vọng.

Thiên Chúa “thử thách” con người, không chỉ qua những biến cố cuộc đời, nhưng qua chính thân phận và ơn gọi làm người, nhưng với mục đích khác hẳn. Giống như những thử thách trong sư phạm huấn luyện, đó chính là để cho chúng ta lớn lên trong tương quan tình yêu và nhưng không với Chúa. Còn Ma Quỉ, và những người hành động theo Ma Quỉ, ý thức hay không ý thức, thử thách người khác nhằm mục đích lên án; theo nghĩa này “thử thách” được gọi là “thử” hay “giăng bẫy”, như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ hay làm để hại Đức Giê-su. Và ở mọi thời, nhất là thời nay, người ta hay làm hại nhau theo kiểu này[1].

Ngoài ra, loài người chúng ta cũng “chuyên môn” thử thách Chúa và thử thách nhau; trong trường hợp này, thử thách có nghĩa là: không tin, nên thử cho biết. Nhưng vì đã không tin, nên loài người chúng ta sẽ thử thách Chúa và thử thách nhau không cùng (rõ nhất là trường hợp của người ghen tương). Bởi lẽ, tin không phải đến từ biết, vì người ta không biết hết về Chúa và về nhau, nhưng đến từ quyết định tự do của con tim; tin là quà tặng của con tim (điều này được minh họa thật rõ trong tình yêu nam nữ).

Công trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến (x. Ga 6, 29 theo bản văn Hi-lạp). Tin là cả một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự chết là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề, và nhất là làm cho mọi người “huề cả làng”.

3. “Sau khi ông Gio-an bị nộp”

“Sau khi ông Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế; Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của mình. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ: “Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.

Và ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại. Nhưng đó lại là là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa: “Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết” (Mc 13, 9). Hay đúng hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.

------------
[1][1] Trong tòa án Thượng Hội Đồng, câu hỏi của vị Thượng Tế: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63), cũng là một hành động giăng bẫy. Trước đó, Đức Giê-su luôn phá bẫy người ta giăng ra, nhưng lần này, Ngài để cho mình bị mắc bẫy và bị kết án: “Hắn nói phạm thượng… Hắn đáng chết” (c. 65-66). Đó thực sự là cái bẫy chết người, vì mang dáng vẻ bề ngoài “đi tìm sự thật”, hơn nữa còn đưa cả “Thiên Chúa Hằng Sống” vào làm “mồi” giăng bẫy! Biến Thiên Chúa thành “mồi giăng bẫy”, với ý đồ giết chết, đó mới là phạm thượng! Giống như Con Rắn nói với bà E-và: “Có thật Thiên Chúa bảo…” (St 3, 1). Vậy thì ai phạm thượng? Loài người chúng ta, ngang qua hình ảnh Vị Thượng Tế cao quí, hay Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó? Giăng bẫy kiểu này, chính là hành động đặc trưng của Satan. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10; sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ loại bỏ lời này; lời loan báo mầu nhiệm Vượt Qua!)

-----------------------------------

 

MC 1-ABC468: Cám dỗ thời nay


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

 

Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa MC 1-ABC468


Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa, chịu cám dỗ để làm gì? Ngài là Ngôi Lời, là Thiên Chúa, thì chắc chắn  sẽ chiến thắng mọi cơn xúi giục, lôi kéo, cám dỗ của ma quỷ, điều này không đúng sao? Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời cách công khai, biến cố Đức Giê-su chịu cám dỗ có ý nghĩa gì? Hơn hết, cuộc chiến chống lại cám dỗ của Ngài có cần thiết và hệ trọng đối với chúng ta, đặc biệt trong đời sống đạo của mỗi người chúng ta chăng?

Đây chỉ là một số câu hỏi, thiết nghĩ chúng ta đôi lần cũng tự đặt ra cho mình, cũng như cho những ai có trách nhiệm giảng dạy, đào tạo và đồng hành thiêng liêng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không cố gắng tìm lời giải đáp cho tất cả mọi nghi vấn, câu hỏi mà chúng ta đặt ra. Cho bằng, chúng ta cùng đặt bản thân mình vào các bài đọc hôm nay, nhất là đoạn Tin Mừng ngắn ngủi này, hy vọng chúng ta sẽ tìm thấy, sẽ khám phá điều gì Chúa muốn nói với chúng ta trong Mùa Chay Thánh này: “Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài” (Mc 1, 12-13).

Như chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, thì Ngài được Thần Khí thúc đẩy đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ, nơi đó Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (x. Mt 3, 16 - 4, 2; Lc 3, 21- 4, 2). Như thế, đây không đơn giản là cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ đơn thuần, mà đúng hơn, qua biến cố này, Đức Giê-su để lại tấm gương quý giá, và bộc lộ khả năng thần thiêng nơi con người, bởi lẽ con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài và theo hình ảnh Ngài (Imago Dei). Thật sự, con người đã sa ngã, phạm tội, không giữ lời hứa với Thiên Chúa (x. hình ảnh A-đam và E-và ăn trái cấm), nhưng tiềm ẩn trong con người vẫn không mất đi tính thần thiêng, cũng chẳng mất đi khả năng chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ. Thánh Sử Mác-cô không kể chi tiết Đức Giê-su đã chịu cơn cám dỗ ra sao, và Ngài đã chiến đấu với những cơn cám dỗ thế nào; nhưng Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy rõ ba loại cám dỗ chính liên quan đến vật chất (tiền bạc), quyền lực và danh vọng (x. Mt 4, 2-11; Lc 4, 2-13). Đức Giê-su đã dùng Lời Chúa, dùng việc ăn chay cầu nguyện và sự tín thác kiên vững của Ngài mà chống lại sự xúi giục của ma quỷ. Đây chính là cách chúng ta soi vào, noi gương Ngài mỗi khi bị cám dỗ, hoặc có những xu hướng lệch lạc, khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, hoặc đối nghịch với giáo lý Giáo Hội.

Giữa thời đại này, có quá nhiều kiểu cám dỗ, vô vàn loại hình lôi kéo chúng ta bỏ đàng công chính, sống buông thả theo lối ‘đến đâu hay đến đấy’. Một trong nhiều thứ cám dỗ mà chúng ta cảm nhận rõ rệt ngày nay, đó là: ‘chẳng sao đâu, anh (chị) vẫn còn nhiều thời gian/thời giờ mà!’, ‘để sau cũng được mà! Chứ vội vàng (xưng tội, ăn năn sám hối…) làm chi!’, ‘hôm nào tiện thì làm (ví dụ: chần chừ đi xưng tội, phạm hết tội nhẹ đến tội trọng, nhưng dự định gộp một lần rồi xưng tội) luôn một thể’, đặc biệt khi sống làm việc ở xứ người, vừa không biết ngôn ngữ vừa biếng nhác, chưa trưởng thành trong đời sống đạo. Ngoài ra, một loại cám dỗ khác cũng khá phổ biến thời nay, đó là: ‘hành vi/hành động sai/xấu nhưng nếu chẳng ai bắt được tận tay, thì xem như bình thường’, ví dụ: ăn cắp vặt, ăn trộm vặt, nếu không ai thấy thì hành vi sai trái ấy vẫn coi như chẳng có gì nghiêm trọng cả. Như chúng ta biết hành vi sai trái, tội lỗi ở bản chất nó thì cho dù khi thực hiện có ai bắt được hay có ai thấy hay không, hành vi đó vẫn sai trái, tội lỗi. Hơn thế, một thứ cám dỗ khác như thể ‘vàng thật vàng thau lẫn lộn’, ấy là: hành động sai ngay tại bản chất của nó, nhưng nếu nhiều người làm thì nó lại trở nên bình thường như ‘bình chân như vại’! Một hành vi xấu xa ở bản chất của nó, thì cho dù nhiều hay ít người làm đi chăng nữa, nó vẫn là hành vi sai trái. Tuy ba kiểu cám dỗ thời đại này tinh vi, và hầu như phải chiến đấu nội tâm, nhưng ở mức độ nào đó, chúng vẫn liên quan đến tiền-tài-tình hoặc tiền tài-quyền lực-danh vọng-sắc dục.

Với tấm gương kiên định chống lại cám dỗ của Đức Giê-su, và trong niềm tín thác “Chúa Ki-tô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa” (1Pr 3, 18), thì chúng ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ. Nhờ vào lòng nhân từ Chúa, gia đình ông No-ê (gồm tám người) được cứu khỏi lụt đại hồng thuỷ (x. St 8-9) và Ngài đã ký kết giao ước với ông qua dấu chỉ ‘chiếc cầu vòng’ (‘cái mống’ hoặc ‘cây cung trên trời’ như một số bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt sử dụng), rằng: Thiên Chúa sẽ không trừng phạt như vậy nữa; thay vào đó, Ngài khoan dung, nhân từ, nhẫn nại, chờ đợi con người. Ngài thanh tẩy và ban cho con người một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa hằng sống (x. 1Pr 3, 21-22). Nhờ đó, chúng ta thêm mạnh sức, chống chọi với mọi cám dỗ, mọi xúi giục, mọi lôi kéo của ma quỷ, hòng tách rời chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Với đời sống cầu nguyện liên lỉ bền bỉ, ăn chay hãm mình đền tội, và tận tâm làm việc bác ái yêu thương trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta sẽ luôn cảm nghiệm Chúa nâng đỡ, và đồng hành qua Giáo Hội; chúng ta sẽ được thông phần vào mầu nhiệm Thương Khó-Tử Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô.

Giờ đây, chúng ta thành tâm dâng lời nguyện cầu:

Chúa đã chiến thắng cám dỗ thế nào
Xin cho chúng con chẳng nao lòng vậy
Kiên vững chống lại ma quỷ xấu thay
An chay, cầu nguyện, tháng ngày yêu thương. Amen!

-----------------------------------

 

MC 1-ABC469: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ MC 1-ABC469


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.

St 9: 8-15

Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên hình bóng của Phép Rửa qua việc một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới này qua ông Nô-ê.

1Pr 3: 18-22

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.

Mc 1: 12-15

Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.

BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)

Chữ “Ước”, để chỉ hai phần của bộ Kinh Thánh: “Cựu Ước và Tân Ước”, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.

Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân. Nhưng chỗ đứt đoạn này về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.

1. Giao Ước với ông Nô-ê

Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.

Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê này càng đáng chú ý hơn khi so sánh với những giao ước sau này. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn này có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).

Mặt khác, sau trận Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.

2. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước

Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Hồng Thủy này dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.

Bài Đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế này, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng. Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này, gợi lên chuyện tích này là hình bóng Phép Rửa.

 3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật

Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo trong các chuyện tích về nguồn gốc nhân loại (St 1-11). Ông Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.

Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.

4. Cầu vồng

Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)

Đoạn trích thư này vang dội Bài Đọc I, nhắc lại trận Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Qua đó, thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.

1. Hoàn cảnh  

Thư thứ nhất của thánh Phê-rô này được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gửi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đoàn chiên của mình. Trong thư, thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.

Bức thư này đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư này; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.

Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Người đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Độ và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.

2. Đối với những người đã qua đời

Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông. Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu độ những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu lực trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê, ông là người công chính duy nhất (3: 19-20). Những vong nhân này xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng Cứu Độ và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.

Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.

3. Đối với những người đang sống

Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau này), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh không cốt “được tẩy sạch vết nhơ thể xác” như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.

Cùng với những bản văn của thánh Phao-lô, bản văn này làm chứng rằng vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét.

TIN MỪNG (Mc 1: 12-15)

Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật việc Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật việc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài.

1. Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13)

Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Dù bài trình thuật của thánh Mác-cô rất giản dị so với thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy; bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Xa-tan cám dỗ; Đức Giê-su chiến thắng thế lực sự Dữ. Trong phần thứ nhất này, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa và chịu Sa-tan thử thách.

A. Rút vào hoang địa (1: 12)

Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa để chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.

Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.

Trong cuộc đời của mình, vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình (Lc 6: 12). Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Lc 9: 18). Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện (Ga 6: 15) trước khi công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn để nuôi sống chúng ta (Ga 6: 51).

 B. Chịu Xa-tan thử thách (1: 13)

Tại sao Đức Giê-su phải chịu Xa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề này.

 a. Chấp nhận thân phận con người

Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ theo tiến trình hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa này khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha… xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…” (Mt 6: 13).

b. Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa

Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã trải qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.

c. Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu

Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Xa-tan đã tiên cảm rằng Đức Giê-su là một đối thủ đáng gờm; vì thế nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài. Nhưng cuối cùng, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã chiến thắng trên mọi quyền lực của sự ác.

2. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài (1: 14-15)

Phần thứ hai cũng gồm có hai khía cạnh: Khung cảnh (1: 14) và sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

A- Khung cảnh (1: 14)

Sau khi nghe tin “ông Gioan bị nộp”, Đức Giê-su biết rằng sứ vụ của Ngài bắt đầu. Thông tin này cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi vị Tiền Hô chấm dứt sự vụ của thánh nhân. Như vậy, có một mối quan hệ mật thiết giữa sứ vụ của vị Tiền Hô và sứ vụ của Đấng mà vị Tiền Hô có sứ mạng dọn đường. Trong Tin Mừng Mác-cô, động từ “bị nộp” nêu bật cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Động tự này xuất hiện ở đây cho thấy số phận của thánh Gioan báo trước số phận của Đức Giê-su.

– “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê”: Đức Giê-su đã đến bờ sông Gio-đan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả; sau đó, Ngài đi vào hoang địa Giu-đê để chịu những chước cám dỗ; giờ đây, Ngài trở về miền Ga-li-lê để khởi đầu sứ vụ của mình. Nói chung, miền Ga-li-lê thuận tiện cho sứ vụ của Đức Giê-su hơn miền Giu-đê. Miền Ga-li-lê là ngã tư quốc tế, là nơi giao thương giữa các dân tộc chung quanh, là nơi người Do thái không chỉ sống chung với lương dân nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân, nên từ xưa miền này được ngôn sứ I-sai-a gọi là “miền đất ngoại bang” (Is 8: 23). Vì thế, khi coi miền Ga-li-lê là địa bàn hoạt động chính của Đức Giê-su, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh sứ điệp phổ quát của Đức Giê-su.

– “Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”: Diễn ngữ: “Tin Mừng của Thiên Chúa” muốn nói rằng Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giê-su là hiện thân của Tin Mừng này. Vì thế, Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô; nói cách khác, Đức Giê-su Ki-tô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa.

B- Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su được tóm kết ở đây: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

– “Thời kỳ đã mãn”: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ: thời hiện tại và thời sẽ đến. Thời sẽ đến là thời điểm quyết định dứt khoát của Thiên Chúa, mọi sự đều tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7: 22; Ed 7: 12; 9: 1; Ac 4: 18; Kh 1: 3; 1Pr 1: 1). Với động từ: “đã mãn”, Chúa Giê-su loan báo thời hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa ấn định để thực hiện và thành tựu các lời hứa và các sấm ngôn của Ngài.

– “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”: Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân tộc (Mk 4: 7; So 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang có mặt ở đây. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa đã đến rồi, đến trong con người của Đức Giê-su.

– “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”: Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi thay đổi đời sống, như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rõ ra: “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (1: 4). Trong lời rao giảng của mình, Đức Giê-su mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là “Hãy sám hối tức là tin vào Tin Mừng”. Lòng sám hối phải được bày tỏ ra qua việc tin vào Tin Mừng, mà tin vào Tin Mừng đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su, Đấng là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó cũng là lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ được ân huệ là Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 38). Đó cũng là lời rao giảng của thánh Phao-lô như ở Ê-phê-xô: “Tôi kêu nài những người Do thái và Hy-lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giê-su” (Cv 20: 21).

-----------------------------------

 

MC 1-ABC470: Sống với chính mình


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

 

Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không. Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu MC 1-ABC470


“Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không
Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu bên trong nước mắt là bể rộng”.

Đây là những lời mở đầu trong đoạn rap của ca khúc “Người lạ ơi” một thời được bao bạn trẻ yêu thích. Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc này, tôi rất ấn tượng với những lời trên đây. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã diễn tả tuyệt vời tâm trạng của phần đông chúng ta. Chúng ta hay cảm thấy rất ổn khi sống với đám đông. Nhưng khi trở về với chính mình, chúng ta lại thấy vô cùng bất ổn. Có cái gì đó khiến ta luôn không hài lòng với chính bản thân mình.

Mười hai năm học phổ thông, và đôi khi là cả bốn năm đại học, chúng ta đã được nhồi nhét đủ thứ kiến thức. Những kiến thức ấy khiến chúng ta có khả năng làm việc và hòa nhập với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, không một thầy cô giáo nào dạy chúng ta học sống với chính mình. Không có ai gần gũi mình cho bằng chính bản thân mình, thế mà chúng ta luôn lãng quên điều đó. Chúng ta học sống với tha nhân, với bạn bè, với cộng đồng. Chúng ta được dạy để tranh đoạt, để làm cho mình thành công trong mọi lãnh vực. Có một nhận xét rất sâu sắc của một tác giả mà tôi không thể nhớ được tên của ông. Đại khái ông nói rằng nền giáo dục vô thần của chúng ta đã tước đoạt đi của các em một cái gì đó thiêng liêng. Thay vì nở hoa thì tâm hồn các trẻ em lại mọc lên những gai cùng góc. Tôi thấy thật chí lý. Con em của chúng ta đã bị nhồi sọ và đánh mất đi cái phần Thần Linh, cái làm cho con người thực sự là con người.

Chúa Nhật thứ nhất mùa chay năm B, Chúa Giê-su dạy ta cách sống với chính mình. Ngài được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ 40 đêm ngày. Thánh Marcô chỉ mô tả vắn gọn rằng Chúa sống chung với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ Người (Mc 1,12). Có một chi tiết mà cả ba Tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến đó là Chúa được Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Đây là chi tiết rất quan trọng. Con người chúng ta thường lãng quên Thánh Thần. Chúng ta để cho bao thứ hướng dẫn và thúc đẩy chúng ta. Điều đó khiến con người chúng ta cứ loay hoay không biết đâu là bến bờ. Chúa được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Suốt 40 ngày, Chúa ở đó trong thinh lặng cô tịch. Hoang địa là vùng đất không có người ở. Nhưng lại có dã thú đến sống chung với Chúa. Và cả các Thiên Thần hầu hạ Chúa. Có một cái gì đó thật đẹp đã xảy ra. Khi con người để cho Thần Linh hướng dẫn, con người sẽ sống hòa hợp với mọi tạo vật. Ngay cả dã thú cũng trở thành bạn. Không có chiến tranh và thù hận mà chỉ có tình yêu thương ngự trị. Ma quỷ cũng phải bị khuất phục một cách dễ dàng.

Giữa cuộc sống xô bồ hôm nay, con người đã dần lãng quên Thiên Chúa. Cũng như thời Nôe, tội lỗi đã lan tràn (St 9,8-15). Điều đó khiến Thiên Chúa phải thanh lọc. Ngài chọn Nôe để làm mới lại tương quan với con người. Ngài nhắc lại giao ước từ ngàn xưa với con người để tái tạo một nhân loại mới. Nhưng rồi con người lại sa ngã và cứ đi sai đường lối Chúa. Chúa đã sai chính Con Một của mình đến để nhắc lại một lần cho tất cả rằng con người chỉ có thể hạnh phúc khi trở về với Chúa. Trước khi công bố sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa vào hoang địa để sống thân mật với Chúa Cha. Chúa dạy ta một bài học vô cùng quan trọng. Trước khi đi vào hội nhập với cuộc sống xã hội, con người cần phải hòa hợp với Tạo Hóa. Khi con người hòa hợp với Tạo Hóa, con người sẽ thông suốt để hòa hợp với bản thân và với muôn loài muôn vật.

“Người lạ ơi xin giúp tôi mượn bờ vai, người lạ ơi xin giúp tôi mượn niềm vui…”. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã kêu gọi người lạ đến trợ giúp mình. Nhưng chẳng người lạ nào làm được. Người lạ có đến thì rồi cũng sẽ bỏ đi để lại ta một mình. Hôm nay tôi muốn chỉ cho các bạn người lạ đó không ai khác mà chính là Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện kín ẩn trong chính cung lòng của các bạn. Đấng đó hằng yêu thương bạn. Đấng đó luôn chờ đợi bạn. Bạn đã lãng quên Ngài. Tôi muốn mời bạn trong mùa chay thánh này, hãy quay trở lại với chính bản thân mình. Hãy tự tạo ra sa mạc của cuộc đời mình. Trong thinh lặng nội tâm, bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên. Hãy trân trọng và yêu thương bản thân mình. Đừng tự đầy đọa chính mình. Học sống với chính mình là bước nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Đừng lãng quên điều đó.

Lạy Chúa, xin giúp con kết nối lại với Chúa để con không bao giờ lạc lõng cô đơn giữa cuộc đời này. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC471: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)

THIÊN CHÚA ĐƠN PHƯƠNG TỎ TÌNH VỚI CON NGƯỜI

 

Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên MC 1-ABC471


Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên thời địa lợi nhân hòa thì mọi sự hanh thông. Con người được đặt để giữa trời và đất: đầu đội trời, chân đạp đất. Ông Trời đã tác tạo nên con người và làm mọi sự cho con người. Ông Trời cũng dựng nên đất để đất phục vụ con người. Trời và đất luôn nặng tình với con người. Mùa Chay về, chúng ta cùng ngồi lại ngẫm về tình Trời với người. Trong Chúa nhật thứ nhất này, Sách Thánh bộc lộ một cuộc tình đơn phương của Thiên Chúa với con người.

Đơn phương tỏ tình

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Sáng Thế (St 9, 8-15) là trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy. Gọi là ký kết, nhưng thực ra chỉ có một mình Thiên Chúa đơn phương kết ước với ông Noe cũng như với toàn thể sinh vật trên mặt đất. Ông Noe đã chẳng nói gì, chẳng thề hứa gì với Chúa. Còn Thiên Chúa thì hứa bảo vệ ông cũng như mọi loài: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi…: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”.

Không những Chúa đã tự đưa ra lời hứa mà còn đặt để một dấu chỉ để không quên lời kết ước: “Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật”.

Từ ngày con người phạm tội, muốn ngoi lên bằng Trời thì con người đã trở nên sa đọa. Nó không còn được sống trong cảnh thái bình của vườn Địa Đàng nữa. Con người lang thang vô định và ngày càng trở nên tồi tệ, tội lỗi lan tràn khắp mặt đất. Lụt Hồng thủy là phương thế để Chúa Cả trời đất dùng mà tẩy xóa tội lỗi của con người. Nhưng cho dù thế nào, Thiên Chúa vẫn giữ lại dòng giống loài người, giữ lại gia đình ông Noe. Với số sót ấy, Thiên Chúa gầy dựng lại dân của Ngài.

Cho dù con người đã chống lại Ngài, nhưng Thiên Chúa đã không tận diệt con người. Ngài vẫn âm thầm, lẽo đẽo đi theo con người, tìm cách giúp đỡ con người. Ta chỉ có thể cắt nghĩa hành vi ấy là vì tình yêu. Chỉ có thể là vì yêu con người thì Chúa mới làm như vậy. Mà quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải rất rõ cho con người trong Tin mừng Gioan “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Với việc ký kết với ông Noel, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người; Với hình ảnh cầu vồng làm dấu chỉ để hằng nhắc lại lời kết ước, Thiên Chúa đã đặt nơi con người nguồn hy vọng lớn lao; Việc con người im lặng trong nghi lễ kết ước càng làm cho Thiên Chúa hiện lên với hình ảnh đơn độc, hình ảnh của một người tình đơn phương đang bị người mình yêu ngó lơ.

Hiện thực hóa lời hứa

Dọc theo chiều dài của Cựu Ước là hành trình Thiên Chúa tìm đến với con người. Bước sang Tân Ước, với sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong thân phận một con người, chúng ta được chiêm ngắm hiện thực của tất cả những lời hứa của Chúa trong Cựu Ước.

Bài Tin mừng theo thánh Marco trong Chúa nhật này (Mc 1, 12-15) là trình thuật về việc Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày.

Hình ảnh sa mạc với con số 40 gợi lại khung cảnh dân Do thái đi trong sa mạc suốt 40 năm. Chính 40 năm trong sa mạc là thời gian dân cảm nếm lòng trung thành và sự yêu thương dìu dắt của Thiên Chúa đối với họ. Nhưng cũng nơi ấy đã chứng kiến biết bao lần dân sa ngã trước cám dỗ, bao lần rời bỏ Thiên Chúa, bao lần phản bội Đấng hằng yêu họ hết lòng.

Trước khi công khai rao giảng về Trời, Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày. Ngài đã cảm nếm mọi cung bậc tình cảm của con người trong sa mạc 40 năm xưa kia với sự khắt khe của thiếu thốn, sự cám dỗ của ma quỷ, sự rình rập của thú dữ. Nhưng với sự xuất hiện của các thiên thần đến hầu hạ Ngài ở cuối trình thuật đã khiến ta gợi nhớ đến một khung cảnh khác. Nó không còn là sự ô nhục của cảnh xa ngã và phản bội, nhưng là cảnh thái bình mà tiên tri Isaia đã tiên báo về khung cảnh ngày cứu độ: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.” (Is 11,6).

Ngày mà Thiên Chúa công khai ngỏ lời với con người qua chính Ngôi Lời làm người, Thánh Marco đặt để Đức Giêsu trong một khung cảnh cô đơn thực sự. Chúa Giêsu đã đơn thân một mình trong sa mạc. Một Thiên Chúa xuống thế làm người để ngỏ lời với con người, để tỏ tình với con người. Nhưng ngày ngỏ lời lần đầu công khai ấy sao cô đơn vắng lặng một tình yêu đơn phương.

Ngẫm

Hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người. Khi hỏi như vậy dường như tôi đã xúc phạm đến chính Ngài. Làm sao tôi có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa yêu con người. Nếu như tôi cố tình tìm câu trả lời thì chính khi tôi trả lời là tôi đã khuôn đúc tình yêu của Ngài vào một cái khuôn cứng nhắc của lý trí. Tình yêu không phải là những phạm trù của lý trí. Nó là những rung cảm của những thớ thịt nóng bỏng của một trái tim đang sống. Khi lý giải tình yêu là tôi không còn coi tình yêu ấy mang đầy sức sống.

Thánh Gioan tông đồ là người được mô tả đã gục đầu vào ngực Chúa trong bữa Ăn cuối cùng; Là người được gọi là “Người môn đệ Chúa yêu”; Và cũng là người môn đệ duy nhất được nhắc đến dưới chân cây Thập tự. Ngài đã cảm nhận tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, một Thiên chúa trong hiện thân là chính Đức Giêsu. Chính ngài đã chốt hạ cho chúng ta câu trả lời tại sao Thiên Chúa lại yêu con người. Câu trả lời đơn giản là: Bởi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).

Lạy Chúa, khi dừng lại suy tư con nhận biết Chúa đã yêu con. Chúa đã yêu con từ ngàn đời xa trước. Nhưng vì quá đam mê trần thế, vì quá ham vui thế gian nên trái tim con thường xuyên loạn nhịp rời xa nhịp đập với trái tim Ngài. Xin Chúa hãy ôm ghì lấy con, cho con được cảm nếm tình yêu của Ngài, để trái tim con luôn hòa cùng nhịp đập với tình yêu nồng nàn trong trái tim Tình Yêu viên mãn.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC472: Chúa Nhật 1 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Hoang địa: Trường đào luyện công dân Nước Trời.

Anh chị em thân mến,

 

Một xã hội trọng học vị, bằng cấp, thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ, chuyên viên, các ứng viên MC 1-ABC472


Một xã hội trọng học vị, bằng cấp, thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ, chuyên viên, các ứng viên xuất thân từ những đại học danh tiếng, có bằng cấp.

Quan niệm xã hội đã tác động mạnh mẽ trong nếp suy nghĩ của chúng ta. Các bậc làm cha mẹ cố gắng tối đa tìm trường danh tiếng cho con theo học: du học Mỹ, Úc, Âu Châu... hy vọng một tương lai rực rỡ chào đón sau khi mãn trường.

Đầu tư cho con học tập là một chọn lựa đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược hoàn hảo: “Để lại cho con một rương vàng, không bằng để lại cho nó một cuốn sách” (Danh ngôn).

Tuy nhiên, việc đào tạo phải toàn diện: trí dục, đức dục, thể dục, thiêng liêng, cùng thực hiện đồng bộ, mới dám chắc việc đầu tư của chúng ta không vô ích.

Thật đáng buồn tình trạng giáo dục tại Việt Nam: quá chú trọng đến kỹ thuật, thời lượng là một cực hình, xem nhẹ hoặc không còn giờ cho các việc đào tạo khác, nhất là vấn đề tôn giáo... đó là những lỗ hổng tạo tiêu cực, bất ổn, bạo lực trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức tìm kiếm Nước Trời, nhờ chăm chỉ học trong trường “Hoang địa” Chúa thiết lập huấn luyện dân Người.

Ngôi trường này huấn luyện đời sống thiêng liêng, dạy kiên nhẫn vượt thắng thử thách gian truân, dạy tinh thần hiền lành cậy trông tín thác vào Chúa, vì tại nơi đó nếu lãng quên huấn lệnh Ngài, con người sẽ gục ngã và thất bại thảm thương.

Hoang địa, ngôi trường độc đáo, nơi hoang vu không cây cối vườn tược, nhà cửa, không người thân hàng xóm láng giềng, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào phục vụ sự sống. Hoang địa chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thử thách chất chồng, bắt con người phải chiến đấu để tồn tại.

Hoang địa hay thánh giá giúp con người trưởng thành toàn diện, nhất là đời sống thiêng liêng. Ai không chấp nhận con đường đào luyện này sẽ không thể là công dân Nước Trời: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).

Vậy trường “Hoang địa” dạy chúng ta những gì?

Thứ nhất dạy vượt thắng thiên nhiên: Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Sa mạc chỉ toàn cát đá, đêm lạnh thấu xương, ngày nóng như thiêu, hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu nóng, chịu lạnh và mọi thiếu thốn. Dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Thứ hai dạy cách thắng ma quỷ: Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ tin vào Thiên Chúa, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ bày ra nhờ Người vững lòng tin vào Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ.

Thứ ba dạy từ bỏ ý riêng: Nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Cha, Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để chọn con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư, đi vào con đường Cha đã định, Người đã toàn thắng mọi thử thách, cám dỗ.

Thế nhưng, hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách, nó còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Cha, đã tìm được ý Cha và đã kết hiệp mật thiết với Cha, đến độ, từ nay Ngài thuộc trọn về Cha. Thánh ý Cha đã trở thành lương thực đời sống Người. Giê-su hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để thánh ý Cha được nên trọn. Vì thế, Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu chúng ta chuyên tâm rèn luyện trong trường “Hoang địa” Giê-su, tâm hồn sẽ trở nên vững mạnh, có khả năng chống lại được những cám dỗ, nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức, không ngại khó, ngại khổ và nhất là, quen từ bỏ ý riêng, thực thi ý Chúa, chúng ta sẽ trở nên Con hiếu thảo của Cha trên trời.

Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong mùa chay thánh này. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC473: Chúa Nhật 1 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Mt 1: 12-15:  Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.

Suy niệm

 

Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào 40 ngày Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng MC 1-ABC473


Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào 40 ngày Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Mùa Chay lấy ý hướng từ việc khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa. Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày để được tập luyện trước cuộc chiến đấu thiêng liêng, hầu vượt thắng sự cám dỗ của ma quỷ khi thi hành sứ vụ cứu độ Chúa Cha trao cho.

Con số 40 này tương ứng với thời gian ông Noê đã chiến đấu 40 ngày trước phong ba bão táp của trận Đại hồng Thủy thời Cựu ước, nhằm thanh tẩy hết những con người tội lỗi. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tái lập cho trái đất này trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Với hình ảnh chiếc cầu vồng, một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất làm dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Quả thật, sau cơn mưa trời lại sáng, trong sự âm u ảm đạm ấy, Thiên Chúa cứu vớt nhân loại khỏi sự chết. Ngài đơn phương ký kết với loài người giao ước, và hứa sẽ không bao giờ cho nạn hồng thủy tiêu diệt loài người nữa. Nhờ đó, cho dẫu tội lỗi của thế gian có thế nào đi nữa, con người chúng ta không được thất vọng, nhưng hãy tin tưởng Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt.

Mùa Chay Thánh là một hành trình nhắc nhở chúng ta hãy sám hối và trở về để đón nhận Tin mừng. Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến để tái lập lại giao ước cứu độ của Thiên Chúa. Người đã được chính Thánh Thần liền đưa vào hoang địa, nơi tập luyện sống khắc khổ, nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.

Xã hội càng tiến bộ và văn minh không có nghĩa là con người không phải chạm trán với cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Cám dỗ cho người sống đời thường cũng như với người sống đời tu, cho người già và trẻ nhỏ, cho thanh niên lẫn thiếu nữ. Cám dỗ của ma quỷ không trừ ra một ai. Vì thế mà thánh Phêrô Tông đồ khuyên bảo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Một vị tu sĩ đạo đức nọ có lần được thấy ma quỷ ngồi khắp ở mỗi góc tu viện, cả ở nhà nguyện nữa. Khi ngài bước ra phố thì thấy rằng chỉ có một tên quỷ đi cám dỗ mà thôi. Lấy làm lạ, vị tu sĩ mới hỏi bậc thầy về tu đức của mình thì được vị ấy trả lời: “Sở dĩ chỉ một tên quỷ cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì người ta dễ lơ là, tìm kiếm táy máy, ngó nghiêng ngó dọc, không cố gắng chống lại, thậm chí ma quỷ chưa cám dỗ thì người ta đã tự đưa mình sa ngã vào cám dỗ hay tìm kiếm thú vui, buông mình ầu ơ dí dầu nơi những cám dỗ. Và với những tâm hồn lành thánh thì không phải tránh xa được ma quỷ đâu, thậm chí cả một đạo binh ma quỷ đang rình rập tìm dịp”. Cũng như ông bà ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”.

Vâng, như cây mai biểu tượng của mùa Xuân, để có những cành cây trổ bông báo hiệu Xuân về, trước đó nó đã chịu cảnh tuốt trụi lá cũ, lá già, tưới nước hạn chế, cành cây xơ xác, đã vậy cây còn chịu cảnh cắt tỉa để được đổi mới, hầu cây có thể đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa rực rỡ. Vậy, Mùa Chay cũng là dịp để chuẩn bị cho mùa Xuân Phục Sinh, biến chúng ta thành những con người mới. Chúng ta hãy tập sống khiêm nhường và nhận ra sự yếu hèn của mình trước sự tấn công của ma quỷ để luôn trông cậy vào Chúa. Siêng năng cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn vì Ngài không ngừng ban cho ta bảy Hồng ân: “Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức, kính sợ Chúa Trời”. Để rồi, khi noi gương Chúa Giêsu, sống theo sự dẫn dắt của Thánh Thần, chúng ta sẽ gặt hái được những hoa trái nhân đức của Thần Khí là “bác ái, hoan lạc, bình an, đại lượng, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5,22)

Lạy Chúa, xin cho con tập quen chấp nhận những điều khó chịu xảy đến với mình và tập sống thiếu thốn một chút, để nhận ra ơn Chúa luôn đủ cho con. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC474: Chúa Nhật 1 Mùa Chay

 

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Sau những ngày đón Tết vui Xuân, chúng ta lại bước vào một hành trình mới, hành trình của Mùa MC 1-ABC474


Sau những ngày đón Tết vui Xuân, chúng ta lại bước vào một hành trình mới, hành trình của Mùa Chay. Liệu rằng những thú vui, những đồ ăn thức uống và những vướng bận của cuộc sống hiện tại có làm khó, gây cản trở trên hành trình của chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay hay không? Khởi đầu Mùa Chay bằng việc được xức tro, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã phần nào ý thức hơn về chính thân phận yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi của mình; đồng thời qua tro bụi, giúp chúng ta cần xác tín hơn, đây là thời gian của ơn thánh Chúa, mà lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải có nhiều ơn sủng của Chúa để nhờ đó mà đủ sức thi hành thánh ý Chúa, cùng thực thi những việc lành phúc đức hầu giúp chúng ta trở nên những người được Chúa chúc phúc. ACE rất thân mến, trong hành trình Mùa Chay năm nay, chúng ta đã có quyết tâm và hành động như thế nào để trở nên người hạnh phúc, hay nói khác hơn là để trở nên người được Chúa chúc phúc? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay như đã khai mở, linh ứng và soi sáng cho chúng ta cần có những tinh thần, thái độ sống và quyết tâm như thế nào.

Tin mừng theo Thánh Marcô cho chúng ta mẫu gương, thái độ và cách sống của Chúa Giêsu; để khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cách công khai, Chúa đã chọn một cách sống để kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha qua việc cầu nguyện và ăn chay, để từ đây, sứ vụ của Chúa Giêsu phải thực sự là sứ vụ của Đấng được sai đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Bốn mươi ngày Chúa chọn để đi vào trong sa mạc cũng chính là thời gian mà Chúa Giêsu hòa mình với mọi người chúng ta trong kiếp nhân sinh; giờ đây, Ngài lại đi vào con đường mà năm xưa dân Chúa đã đi trong sa mạc 40 năm để tiến về đất hứa, đây cũng là hành trình mà tổ phụ Êlia đã mất 40 ngày đã tiến về núi thánh Horep của Thiên Chúa, và đây cũng chính là hành trình mà trong bài đọc một ông Nôe đã cùng với con cháu mình cũng như mọi sinh vật đã ở trong tàu 40 đêm ngày để thoát cơn đại hồng thủy. Như vậy, hành trình của Chúa Giêsu thật là một hành trình nối kết giữa Thiên Chúa và con người, giữa cựu ước và tân ước, giữa những tội ác, tai ương và ơn tha thứ, cứu sống, chữa lành. Chúng ta đã khởi đầu lại các công việc thường nhật trong năm mới Tân Sửu này sau khi chọn đến với Chúa trong những Thánh Lễ đầu xuân, chúng ta cũng đến với anh chị em và những người thân quen để nối kết nhau hơn; đây thực sự là một truyền thống tốt đẹp, mong ước rằng sẽ giúp chúng ta có đủ sức để hăng say dấn thân, tiến bước trên hành trình mới.

Trên hành trình cuộc sống hiện nay, chắc hẳn không ai mà không phải lo lắng vì đại dịch vẫn đang diễn tiến rất phức tạp; thế nhưng, chúng ta đã có những lời hứa ban ơn thánh và sức mạnh của Chúa cho chúng ta. Thánh vịnh 24 trong bài đáp ca đã xác tín và mời gọi: “Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa”. Thật vậy, Chúa luôn trung tín và yêu thương chúng ta, dẫu cho con người thất tín, bất trung và ngay cả khi con người loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta không phải chỉ bằng những lời hứa, nhưng bằng những gương sáng, qua cách sống cụ thể. Chúa Giêsu đã chấp nhận Thánh ý của Chúa Cha để nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi hầu làm điểm tựa vững chắc và ban ơn cứu sống chúng ta. Điều còn lại là tùy thuộc vào mỗi người chúng ta với những quyết tâm, cách sống trên hành trình đức tin và sứ vụ ơn gọi của mỗi người.

Ý thức được thân phận yếu đuối, tội lỗi của kiếp người, Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã mời gọi và nêu gương cho chúng ta phương thế để sống đúng căn tín là người con của Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu đó là: Trước hết, hãy tin vào ơn Chúa và biết nhận ra những dấu chỉ Chúa ban như ông Noê. Thứ đến, hãy bám víu vào Chúa Giêsu, như Noê đã bám trụ vào con tàu mà được sống. Vì Đức Kitô Giêsu đã vì yêu thương mà chết cho tội của chúng ta và Ngài đã Phục sinh, cho nên, những ai tin, bám víu vào Ngài, sống kết hiệp với Ngài trong niềm tin yêu thì sẽ được cứu sống.

Ðược Thần Khí Chúa thúc đẩy, trước khi thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ; khởi đầu Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng được chính Thần Khí của Chúa qua Lời Ngài, qua mẫu gương, cách sống của Chúa Giêsu trao ban. Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con ý thức hơn về ơn thánh và hạnh phúc đích thực của chúng con là ở nơi Chúa qua những việc đạo đức, lành thánh, hầu loại bớt những tính hư nết xấu cùng yếu đuối, tội lỗi. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC475: Cám dỗ và thử thách


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn.

 

Ma quỷ là loại cám dỗ xảo quyệt nhất. Thánh Thomas cho biết: “ma quỷ rất tinh khôn khi cám MC 1-ABC475


Ma quỷ là loại cám dỗ xảo quyệt nhất. Thánh Thomas cho biết: “ma quỷ rất tinh khôn khi cám dỗ chúng ta. Nó hành động như một vị tướng tài ba khi sắp tấn công một thành kiên cố. Nó tìm các nơi yếu thế để tấn công, nên ma quỷ cũng tấn công chúng ta vào chỗ nào yếu nhất. Nó cám dỗ những tội nào chúng ta dễ phạm nhất… xem ra nó không “gợi ý” điều gì xấu, nhưng là điều có vẻ rất tốt lành. Nó làm cho chúng ta không hướng tới mục đích chính, và điều đó sẽ dễ dụ dỗ chúng ta phạm tội, nó chuyển hướng chúng ta một cách rất tinh vi”.

Có câu chuyện kể rằng: "sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt, tướng quỷ Luxiphe rất tức giận, lửa căm thù sôi sục trong lòng hắn nên đã tìm cách để cám dỗ các tín hữu. Một hôm, hắn cho rằng phải lấy vợ gấp để có nhiều con gái gả cho loài người, nhờ đó sẽ kéo nhiều người xuống hỏa ngục.

Luxiphe kiếm được cô nàng Bất Chính và lấy làm vợ. Rồi họ sinh được bảy cô con gái.

- cô thứ nhất tên là Kiêu Ngạo được gả cho những nhà cầm quyền,
- cô thứ hai tên là Hà Tiện được gả cho những người giàu có,
- cô thứ ba tên là Giả Dối được gả cho những người nghèo khó,
- cô thứ tư tên là Ghen Tương được gả cho những nghệ sĩ,
- cô thứ năm tên là Giả Hình được hắn đặt vào các cộng đoàn tu trì,
- cô thứ sáu tên là Háo Danh được hắn cho làm bạn với các phụ nữ,
- cô thứ bảy tên là Dâm Ô nhưng không được gả cho người nào vì hắn muốn cô này sẵn sàng ở với tất cả mọi người.

Mỗi ông chồng đều thích thú với cô vợ của mình, và họ cũng biết mình có họ hàng bà con với các chị em khác. Luxiphe khôn khéo như thế đó! Luxiphe đã chống lại Thiên Chúa và nó cũng đang cám dỗ chúng ta chống lại Thiên Chúa. Nó rất khôn ngoan và xảo quyệt, nên với các mưu chước của Luxiphe, chúng ta cần lưu ý những điểm sau đây:

1. Tránh cho xa

Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi tìm một người tài xế chở bà mẹ già đi dạo mát mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó. Người nhà giầu nói: "tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông đưa mẹ tôi đi dạo mát. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát bên vực thẳm bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.

- Người tài xế thứ nhất tự nhủ: "cái đó thì dễ ợt". Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách vực thẳm một tấc.

- Người thứ hai thầm bảo: "mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc". Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách vực thẳm có nửa tấc.

- Trong khi đó, người thứ ba chậm rãi lái cách vực thẳm những một mét.

Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người nhà giầu lại nói với bác tài xế thứ ba: "tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái quá sát vực thẳm vì sẽ dễ bị cám dỗ lôi cuốn”.

2. Khi gặp cơn cám dỗ, hãy chống trả ngay

Chúng ta phải đặc biệt cảnh giác chống lại với những cám dỗ lúc ban đầu, vì kẻ thù dễ bị khuất phục hơn nếu nó bị khước từ không cho vào tâm trí và khi gõ cửa nó đã bị chặn ngay từ ngưỡng cửa. Quả thế phải chống trả ngay từ đầu, vì sự trì trệ sẽ khiến qủy thần thêm mạnh mẽ.” Lúc đầu, chỉ một ý nghĩ trong đầu, sau đó sự tưởng tượng mạnh mẽ, tiếp theo là khoái lạc, vui sướng xấu xa, và thỏa thuận. Do đó, vì nó không bị chống trả ngay từ đầu, Satan ra vào tự do. Và càng chậm trễ chống trả, chúng ta càng yếu sức  trong khi kẻ thù lại càng tăng sức mạnh.

3. Ba cấp của cơn cám dỗ

Cấp thứ nhất là gợi ý: chỉ mới có gợi ý thôi, nên chưa có tội phúc gì cả.

Cấp thứ hai là vui thích: lâu hay mau, tuy chưa bằng lòng hoàn toàn, nhưng đã có sự vui thích và ý tưởng đã xâm nhập vào tâm trí, nên phần nào đã có tội.

Cấp thứ ba là ưng thuận hoàn toàn: khi cám dỗ tiến tới cấp độ này thì luôn luôn có tội, vì cám dỗ đã đi tới phần sâu thẳm nhất của linh hồn.

4. Lợi ích của Cám Dỗ

"Cám Dỗ" trong tiếng Anh là to Tempt, tiếng Hy Lạp là Peirazein. Trong tiếng Anh luôn luôn có nghĩa xấu, là dỗ dành, dụ dỗ người ta làm điều xấu. Trái lại trong tiếng Hy Lạp Peirazein chỉ có nghĩa là thử thách (to test), do đó, chúng ta không nên quá lo lắng khi bị cám dỗ.

Cám dỗ cũng có thể đưa chúng ta tới sự sống nếu ta không sa ngã, nghĩa là ta thắng được cám dỗ. Hơn nữa đây còn là dịp để chúng ta tỏ lòng trung thành với Chúa. Khi bị cám dỗ, ai chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai cương quyết chọn cái tốt tức là chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp. Do đó, chúng ta không nên thất vọng khi bị cám dỗ, nhưng hãy mau mắn cầu xin Chúa để Người trợ giúp chúng ta.

Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn. Như vậy, sự tiến bộ của một người được đo lường bằng những cám dỗ và thử thách, vì đó là cơ hội để lập công và tu tập nhân đức. Khi không gặp khó khăn, người ta ít hăng say và đạo đức, nhưng khi gặp nghịch cảnh, nếu kiên nhẫn chịu đựng, họ sẽ tiến bước mạnh mẽ trên con đường theo Chúa.

Tôi xin kể một số điều cần biết có liên quan đến cơn cám dỗ nhờ đó chúng ta sẽ cảnh giác trước những cám dỗ của Satan. Tuy nhiên còn một điều tối quan trọng là mỗi khi lâm cơn cám dỗ, chúng ta phải chạy ngay đến với Chúa Giêsu, chính Người cũng đã bị ma quỉ cám dỗ nhưng Người đã chiến thắng vẻ vang. Chúa đã chiến thắng vẻ vang, chắc chắn Chúa cũng giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC476: Chúa nhật I Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

CÙNG CHÚA GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM

Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến lễ Phục Sinh.

40 ngày Chay Thánh

 

Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho MC 1-ABC476


Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy, 40 ngày chay thánh gợi cho chúng ta nhớ lại 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa

Sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

Với những lời trên cho thấy, trước khi khai mào sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đương đầu “giáp lá cà” với Satan trong 40 ngày cô tịch, một khoảng thời gian đầy thử thách. Nhưng Chúa Giêsu đã đã chiến thắng khi vạch trần Tên Cám Dỗ, đem lại cho chúng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng để chiến thắng trong cuộc sống đầy những cám dỗ hàng ngày bủa vây quanh chúng ta.

Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Nó đã cám dỗ Chúa Giêsu đi khác đường lối của Chúa Cha, giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam và Evà. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết. Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13). Những quỉ kế mà Satan dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách hắn dùng để cám dỗ chúng ta ngày hôm nay. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta sống triệt để Lời Chúa dạy.

Theo Chúa lên Giêrusalem

Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.

Bước vào Mùa Chay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cùng lên Giêrusalem với Chúa trong niềm tin, yêu, và hy vọng mới. Đức Thánh Cha viết: “Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta” (Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).

Vậy chúng ta bước vào Mùa Chay với một thái độ như thế nào? Chúng ta chuẩn bị ra làm sao để cho việc cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đạt được nhiều ý nghĩa và sinh ích lợi cho đời sống chúng ta? Nói khác đi, chúng ta lên Giêrusalem với Chúa bằng tâm tình nào, vui hay buồn, hy vọng hay thất vọng, yêu thương hay hận thù?

Hướng về lễ Phục Sinh, cuộc chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết là ý nghĩa Chúa Nhật thứ I Mùa Chay. Chúng ta nhất quyết bước theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống, theo Chúa tiến qua hoang địa của lòng ta. Nơi đây, ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và cũng nghe thấy cả tiếng nói của Tên Cám Dỗ.

Nơi hoang địa, giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta.

Theo Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúng ta có Chúa Giêsu, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðúng hơn, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay này.

Chúng ta cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse trợ giúp, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng ta.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC477: Chọn lựa


(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Mc 1: 12-15: Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó

 

Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng MC 1-ABC477


Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó: Người đã bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, Người đã chiến thắng Satan và trở lại với tình trạng của con người trước khi sa ngã: sống hài hòa với dã thú và được các thiên thần phục vụ. Chính vì thế, Người là khuôn mẫu cho cuộc chiến đấu đức tin của chúng ta, đặc biệt trong mùa Chay thánh này.

I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Mc 1,12-15

Không giống như Tin mừng Matthêu (4,1-11) và Luca (4,1-13), Tin mừng Maccô không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào lời Chúa thì đứng vững ; nếu không tin tưởng vào lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, đã sống hòa bình với dã thú, và được các thiên thần hầu hạ.

Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào lời Chúa.

* Cám dỗ trong sa mạc.

Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Maccô đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Maccô nhắm làm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.

* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê.

Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Maccô tóm tắt hoạt động của Người bằng các câu 14-15. Biến cố Gioan Tẩy giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin mừng của Thiên Chúa: Tin mừng đến từ Thiên Chúa và Tin mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng. Chúng ta được mời gọi "hoán cải và tin vào Tin mừng": thật ra "hoán cải" là "tin vào Tin mừng" và "tin vào Tin mừng" thì đương nhiên phải "hoán cải", rời bỏ nếp sống cũ để bước theo Đức Kitô.

II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:

Kể từ Giáo hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng[1] của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hòa với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó hẳn là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9 ; 32,14-20 ; 65,25).

III. Gợi ý bài giảng

1. Đức Giêsu là Ađam mới.

Bản văn Maccô không kể lại các "chước cám dỗ" Satan đã bày ra cho Đức Giêsu như hai Tin mừng Matthêu và Luca, mà chỉ nói vắn tắt là "Người chịu Satan cám dỗ" và lại thêm chi tiết "sống giữa dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ". Khi viết như thế, một đàng Maccô cũng cho hiểu là Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, nhưng còn cho thấy Người như là Ađam mới sống hài hòa với dã thú tại vườn Địa đàng và với thế giới của Thiên Chúa. Tất cả những điều này xảy ra trong suốt 40 ngày chứ không chỉ khi kết thúc ngày thứ bốn mươi. Với Đức Giêsu thời cánh chung đã bắt đầu như các bản văn Is 11,60 và 65,25 đã từng loan báo. Như thế, các tín hữu có thể tin tưởng vào Đức Giêsu theo lời Chúa Cha đã khẳng định: "Con là Con yêu dấu của Cha" (Mc 1,11), và tuyên xưng niềm tin rằng Người là Con Thiên Chúa (x. 15,39). Đồng thời họ có thể coi Người như là gương mẫu cho mình. Khi đã chọn Đức Kitô và xin chịu phép Rửa tội, Kitô hữu cũng chia sẻ số phận của Đức Kitô ; Satan sẽ tấn công tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, như đã từng tấn công, đã từng cám dỗ chính Đức Kitô. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô, vì Đức Kitô đang thực thi nhiệm vụ của Người với quyền năng, Người chế ngự kẻ mạnh (3,27) và loan báo Tin mừng về triều đại Thiên Chúa. Vì Tin mừng Đức Giêsu mang đến là Tin mừng tuyệt hảo, Tin mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.

2. Thái độ phải có để được tham dự vào triều đại Thiên Chúa.

"Thời kỳ đã mãn": Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: "sám hối và tin vào Tin mừng", tức là biết chọn lựa.

"Triều đại Thiên Chúa" có nghĩa là lúc Thiên Chúa bung mở quyền làm chủ của Người ra. Thiên Chúa là Chúa tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta ; chúng ta không thể coi Ngài như ngang vai ; chúng ta không thể áp đặt cho Ngài bất cứ chuyện gì. Ngài có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh ; Ngài quyết định và qui định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.

Thiên Chúa là Chúa tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Ngài có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và triều đại Ngài không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với triều đại của Ngài và các hoa trái của triều đại Ngài.

IV. Lời cầu chung:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, mở đầu mùa Chay, Họi thánh để ra cho chúng ta một Giêsu như Ađam mới, đã thắng được ma quỷ, trở lại sống tư cách con người đúng như Thiên Chúa muốn và ra đi loan báo Tin mừng, mời gọi hoán cải và tin vào Tin mừng. Tin tưởng rằng Đức Giêsu luôn trợ giúp chúng ta trong nỗ lực sống đời Kitô hữu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện

1. Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai Thiên Chúa phái đến để cứu độ nhân loại. Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh, chủ chăn và đoàn chiên, biết tin tưởng vào Đức Kitô và làm chứng về Người trước toàn thể nhân loại.

2. "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần". Qua việc Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ, Thiên Chúa đang bày tỏ quyền làm chủ của Ngài ra, bằng việc rao giảng sứ điệp tình yêu và xua trừ ảnh hưởng của ma quỷ. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo luôn xác tín vào sứ mạng được ký thác cho mình, để luôn hăng say và quảng đại dấn thân.

3. "Hãy sám hối và tin vào Tin mừng". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể các tín hữu biết gắn bó với Tin mừng là chính Đức Giêsu, để sống sự hoán cải chân thành, và ra sức sửa đổi đời sống để ngày càng hiểu biết và tin yêu Đức Giêsu hơn.

Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, vào đầu mùa Chay thánh, Chúa đã được giới thiệu như là điển hình cho chúng con bắt chước, và như Đấng dẫn đường đầy uy quyền. Xin ban Thánh Thần uốn nắn lòng dạ chúng con và giúp chúng con ngoan ngoãn bước theo Chúa, là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC478: Chúa Nhật 1 Mùa Chay


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển)

THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG TẤT CẢ THỤ TẠO. CHÚNG TA CŨNG NÊN YÊU THƯƠNG NHƯ VẬY

 

Hôm nay là Chúa nhật I Mùa Chay, khoảng thời gian 40 ngày để chúng ta chuẩn bị tâm trí và thân MC 1-ABC478


Hôm nay là Chúa nhật I Mùa Chay, khoảng thời gian 40 ngày để chúng ta chuẩn bị tâm trí và thân xác cho Lễ Phục sinh, bằng cách chú tâm vào việc cầu nguyện, ăn chay, bố thí và phục vụ tha nhân. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về mối tương quan tình yêu của Thiên Chúa với tất cả thụ tạo.

Trong bài đọc I, chúng ta được nghe về giao ước mà Thiên Chúa thiết lập với tất cả thụ tạo đang sống, con người cùng với các loài vật khác. Đây là giao ước Noê vì ông là đối tác chính. Theo bối cảnh của trình thuật Kinh thánh, trái đất và gần như tất cả mọi loài sinh sống ở đó đều đã bị lũ lụt tàn phá. Một cách ẩn dụ, nước lũ hủy diệt đã tẩy sạch sự hư hỏng và tội lỗi của trái đất, một sự gột rửa mà bài đọc thứ hai giải thích là giống như những gì được rửa sạch trong nước của phép rửa. Sau trận hồng thủy, Thiên Chúa khẳng định  mối tương quan của Ngài với các thụ tạo đang sống qua việc sử dụng ngôn ngữ giao ước mang tính pháp lý để thể hiện sự cam kết của Ngài đối với sự sống còn của tạo thành. Mối quan tâm đặc biệt đến sự sống của cả con người và các loài vật khác là trọng tâm của giao ước Noê và nó được ghi nhớ bằng cầu vồng trên đám mây. Khởi đầu Mùa Chay là thời điểm tuyệt vời để cùng suy ngẫm về những hàm ý của trang Kinh thánh này. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thụ tạo được tái lập trong giao ước này và nó nên ảnh hưởng đến chúng ta trong việc thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đối với tất cả thụ tạo.

Bài Tin mừng cũng nêu bật mối liên hệ của Thiên Chúa với thụ tạo, mặc dù có thể bỏ qua chi tiết này vì có một số yếu tố quan trọng khác trong bài Tin mừng ngày hôm nay. Phù hợp với Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe về 40 ngày thử thách của Đức Giêsu trong hoang địa. Máccô không mô tả bản chất của những cám dỗ như được mở rộng trong các Tin mừng Matthêu và Luca. Thời gian trải nghiệm trong hoang địa của Đức Giêsu trở thành khuôn mẫu cho 40 ngày của Mùa Chay, vì con số này mang ý nghĩa trong suốt truyền thống Kinh thánh như là thời gian của cầu nguyện, thử thách và thông thường là biến đổi.

Máccô miêu tả Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, được các thiên thần phục vụ và ở giữa các loài muông thú. Hiển nhiên, có thể bị bỏ sót khi cho rằng mỗi thành phần Satan, ma quỷ, dã thú trên đây không phải là con người. Học giả Tân ước, Richard Bauckham cho rằng Đức Giêsu đã đi vào hoang địa để gặp gỡ những hữu thể của thế giới không phải con người nhằm thiết lập ở đó một mối tương quan trước khi rao giảng cho thế giới loài người. Trong cuộc chạm trán với Satan, Đức Giêsu thiết lập quyền lực và khả năng của mình vượt trên những cám dỗ mà Ngài có thể phải đối mặt ở ngoài hoang địa. Mối tương quan của Đức Giêsu với các thiên thần thì được minh định là tích cực và hiệu quả, vì các ngài nâng đỡ Đức Giêsu. Việc Đức Giêsu sống cùng với bầy dã thú có thể báo hiệu rằng Ngài đã thiết lập một mối tương quan hài hòa với mọi thụ tạo, ngay cả những loài thường bị coi là nguy hiểm. Bauckham lưu ý tầm quan trọng của mối tương quan hòa bình này như một dấu chỉ của thời thiên sai. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Isaia, một vị vua thiên sai trong tương lai sẽ mang lại thời kỳ hòa bình giữa loài người và các loài vật khác (Is 11,6-9). Qua việc miêu tả Đức Giêsu ở cùng với các loài dã thú, Máccô cho thấy rằng Đức Giêsu có một mối tương quan với tất cả các thụ tạo và rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai được trông đợi.

Khi bắt đầu cuộc hành trình Mùa , các bài đọc hôm nay thôi thúc chúng ta lưu tâm và hòa hợp với tất cả loài thụ tạo cũng như những cách thế mà chúng ta hỗ trợ hoặc gây hại cho các thụ tạo. Là Đấng Tạo hóa, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương và sự tác động đối với mọi sinh vật, và đây là điều chúng ta cũng nên noi gương bắt chước. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ chúng ta, “Tất cả chúng ta đều có thể cộng tác như những khi cụ của Thiên Chúa cho việc chăm sóc thụ tạo” (“Laudato Si’,”số 14).

----------
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/first-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239719

-----------------------------------

 

MC 1-ABC479: Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ


(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

 

Sau khi được tấn phong làm Đấng Thiên Sai (Mê-si-a), Đức Giê-su đã được Thánh Thần hướng dẫn MC 1-ABC479


vào hoang địa để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ và Người đã dùng vú khí Lời Chúa để chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Đến khi Gio-an Tẩy Giả bị bắt, thì Đức Giê-su mới bắt đầu thi hành sứ mạng Thiên Sai, bằng việc Người đi khắp miền Ga-li-lê để kêu gọi người ta ăn năn sám hối tội lỗi và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập.

CHÚ THÍCH:

- C 12-13: + Thần Khí liền đẩy Người: Khi chịu phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su đã được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên mình, để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Từ đây Người luôn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hành động mà việc đầu tiên là vào trong sa mạc ăn chay cầu nguyện và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. + Vào hoang địa (sa mạc): Khi giải thoát con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, Đức Chúa đã đưa họ “vào sa mạc” 40 năm, để ký một giao ước công nhận họ là dân riêng của Người, thanh luyện họ khỏi tội tôn thờ tà thần. Đây cũng là thời gian thử thách lòng trung tín của họ đối với Người. Đến thời các ngôn sứ, Hô-sê đã diễn tả đúng ý nghĩa của sa mạc khi ông trình bày Đức Chúa yêu thương dân Ít-ra-en giống như một người chồng yêu vợ, đã dẫn đưa dân này vào sa mạc để sống thân mật với Người (x. Hs 2,16). + Đức Giê-su “vào sa mạc”: Sau khi được công nhận là Con Yêu Dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha và được đầy Thần Khí, Đức Giê-su đã được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc, để sống thân tình với Chúa Cha bằng việc cầu nguyện và ăn chay suốt 40 ngày. Đây cũng là thời gian Người chịu ma quỉ thử thách. Nhờ luôn chọn làm theo lời Chúa Cha, Đức Giê-su đã chiến thắng Xa-tan cám dỗ, và chứng minh lòng trung thành với sứ mạng Thiên Sai được Cha trao phó. + Bốn mươi ngày: Con số 40 tượng trưng cho một thời gian dài. Chẳng hạn: Trong Đại Hồng Thủy, ông No-e đã mở cửa sổ tàu sau khi nước rút được 40 ngày (x. St 8,6); Trong cuộc Xuất Hành, Mô-sê đã lên núi tiếp xúc với Đức Chúa suốt 40 ngày đêm (x. Xh 34,28); Dân Ít-ra-en phải lưu lạc trong sa mạc suốt 40 năm trường (x. Ds 14,34); Vua Đa-vít đã cai trị trong thời gian 40 năm (x 2 Sm 5,4); Ngôn sứ Ê-li-a đã chạy trốn lên núi Khô-rếp mất 40 ngày đêm (x. 1V 19,8); Đức Giê-su đã vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 ngày (x. Mc 1,13). + Xa-tan: Xa-tan nghĩa là “kẻ thù”, “kẻ chống đối”, hay còn được gọi là “ma quỉ” hay Di-a-bo-los nghĩa là “kẻ kiện cáo”, “kẻ vu khống”. Đây là nhân vật vô hình có hai hoạt động là: nhập vào một người để bắt họ nói hay làm theo ý của nó và cám dỗ, xúi giục họ phạm tội chống lại Thiên Chúa. + Cám dỗ: Cơn cám dỗ của ma quỉ gồm 3 giai đoạn như sau: Một là gợi lên trong đầu người ta một hình ảnh hợp với nhu cầu của họ. Hai là làm cho người ta vui thích với hình ảnh ấy hoặc ước muốn làm điều xấu xa. Ba là người bị cám dỗ sẽ quyết định chiều theo hay không theo sự xúi giục của ma quỉ. Quyết định làm theo ma quỉ là đã phạm tội. Đối với Đức Giê-su, Xa-tan chỉ có thể cám dỗ ở giai đoạn thứ nhất, nghĩa là gợi lên trong tâm trí Người một tư tưởng hay một hình ảnh phù hợp với nhu cầu. + Sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người: Đức Giê-su đã chiến thắng cơn thử thách cám dỗ của Xa-tan. Dấu chỉ cụ thể của cuộc chiến thắng ấy là Người đã được Thiên Chúa che chở để sống hòa hợp với dã thú và còn được các thiên thần đến hầu hạ phục vụ (x. Tv 91,11-13). Đây là quang cảnh của thời Thiên Sai: một thời kỳ thái bình và đầy tình yêu thương huynh đệ, trong đó mọi loài vật sẽ sống hòa hợp với nhau và sẽ không có chỗ cho sự ganh ghét hận thù nhau (x. Is 11,6-9; 65,25).

- C 14-15: + Sau khi Gio-an bị nộp: Việc Gio-an bị bắt nói lên sứ mạng của ông là tiền sứ hay tiền hô của Đấng Thiên Sai đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ Đức Giê-su thực hiện ơn cứu độ. + Ga-li-lê: Ga-li-lê là miền Bắc nước Do Thái, nơi đây có nhiều dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do Thái. Đức Giê-su đã bỏ miền Giu-đê đến Ga-li-lê để bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. + Lời rao giảng của Đức Giê-su: được tóm kết trong 3 tư tưởng sau: Một là: Thời kỳ đã mãn: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ là thời hiện tại và thời cánh chung. Giờ đây Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc để bắt đầu một thời kỳ mới cánh chung, trong đó Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Hai là: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Cựu Ước nói đến Vương Quyền của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là dân riêng của Người (x. Is 43,15; Tv 47,3). Từ đó, dân Ít-ra-en luôn trông chờ Thiên Chúa sẽ sớm thiết lập Vương Quyền của Người. Giờ đây, Đức Giê-su đã khẳng định rằng: Nơi Người, Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Ba là: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối hay Mê-ta-noi-a, một từ Hy lạp có nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, Sám Hối chính là thay đổi hướng đi, triệt để từ bỏ tội lỗi để quay về với Giao Ước, và bước vào một đời sống mới. Ngoài ta còn phải tin vào Tin Mừng Đức Giê-su rao giảng nữa.
CÂU HỎI: 1) Trong cuộc sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã hành động theo sự thôi thúc hướng dẫn của ai? 2) Thời kỳ Xuất Hành. Đức Chúa đã hạ lệnh cho Mô-sê đưa dân Do thái vượt qua biển Đỏ vào trong sa mạc suốt thời gian 40 năm để làm chi? Còn Đức Giê-su được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc làm gì? 3) Đức Giê-su đã dùng phương thế thiêng liêng nào để chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ? 4) Hãy kể một số sự kiện trong Thánh Kinh có liên quan đến con số 40? 5) Xa-tan là ai? 6) Ma quỷ thường cám dỗ người ta qua mấy giai đoạn? 7) Sau khi chiến thắng ma quỷ, Đức Giê-su đã làm gì để mặc khải các đặc điểm về thời Thiên Sai mà Người muốn thiết lập? 8) Đức Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ lúc nào? 9) Ga-li-lê là miền đất có đặc điểm thế nào? 10) Nội dung những lời rao giảng của Đức Giê-su được tóm gọn trong ba điều chính yếu nào? 11) Sám hối nghĩa là gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Sống là chiến đấu không ngừng:

Vào một buổi tối, cha bề trên đã hỏi một tu sĩ trong dòng như sau:

- Hôm nay từ sáng đến giờ thầy làm gì?

Tu sĩ trả lời rằng:

– Hôm nay cũng như mọi ngày, con bận bịu với công việc mà nguyên sức con sẽ không thể làm nổi, nếu không được Chúa trợ giúp. Mỗi ngày con đều phải trông chừng hai con chim ưng, kềm giữ hai con nai, kiểm soát hai con diều hâu, điều khiển một con cá sấu, trừng trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.

Cha bề trên cười hỏi lại:

– Con nói gì lạ thế? Những con vật mà con vừa nói trong tu viện của chúng ta làm gì có?

– Thưa cha bề trên, thật đúng như vậy: Hai con chim ưng chính là hai con mắt của con, con phải giữ chúng luôn trong sáng, không để chúng tự do thu nhận những hình ảnh xấu vào đầu. Hai con nai tức là đôi chân của con, con phải luôn trông chừng chúng trong từng bước đi, để chúng luôn đi trong nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay con, con phải luôn bắt chúng làm việc hữu ích. Còn cá sấu là cái lưỡi trong miệng con, con phải kiềm chế để nó khỏi thốt ra những lời lẽ thâm độc hại người. Con gấu chính là trái tim con, con phải coi chừng để nó khỏi mắc thói ích kỷ và thích phô trương công đức để tìm tiếng khen. Còn bệnh nhân chính là thân xác con, con phải canh phòng để cho xác thịt khỏi trỗi dậy và luôn khỏe mạnh.

Cuộc sống của chúng ta luôn phải chiến đấu với ba kẻ thù nguy hiểm là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Trong ba kẻ thù đó thì nguy hiểm nhất lại chính là xác thịt mình, vì nó ở ngay trong lòng mình. Mùa chay là thời kỳ chúng ta hãm mình đền tội và tập sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su. Trong thời gian này luật dạy chúng ta ăn chay hai ngày đầu và cuối Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sau Tuần Thánh. Khi ăn chay, chúng ta giảm ăn và tránh ăn những món ngon, để cộng tác với ơn Chúa làm chủ bản thân, tập sống tiết độ như kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy: “Kiêng bớt chớ mê ăn uống”. Ăn chay là hãm mình đền tội và để có điều kiện chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói và tích cực góp phần phục vụ các việc công ích với Hội Thánh.

2) Bị cám dỗ hay không là tùy sự cầu nguyện, ăn chay và làm việc nhiều ít:

Một hôm Thánh Ephrem nằm mơ thấy một thành phố kia rất đông người qua lại, nhưng ở cổng thành, ngài chỉ thấy có một tên quỉ đang ngồi ngáp ngủ. Rồi ngài lại thấy mình có mặt tại một khu rừng vắng chỉ có một vị ẩn sĩ đang sống, nhưng chung quanh vị này lại có cả một bầy quỉ rất đông đang tìm đủ cách tấn công vị tu sĩ. Bấy giờ thánh nhân liền la mắng lũ quỷ như sau: “Lũ quỷ các ngươi thật không biết xấu hổ khi kéo cả bầy đến tấn công một người. Còn trong thành phố kia có rất đông người thì các ngươi lại chỉ bố trí có một tên đứng không và còn ngáp đứng ngáp ngồi nghĩa là làm sao?”

Tên quỷ đầu đàn liền trả lời như sau: “Thành phố tuy đông người nhưng chẳng cần lũ quỷ chúng ta phải ra tay cám dỗ mà chúng vẫn phạm hết tội này đến tội khác, nên chỉ cần một tên đứng canh là đủ. Còn tại khu rừng vắng này dù chỉ có một tên tu sĩ, nhưng hắn ta lại rất kiên cường chiến đấu. Đến nay sau nhiều ngày tấn công cám dỗ mà chúng ta vẫn chưa cám dỗ được hắn ta phạm tội, vì hắn luôn ăn chay cầu nguyện, năng đọc Kinh Thánh và chăm chỉ làm việc”.

Thánh Phêrô dạy các tín hữu như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,8-9).

3) Một mẫu gương thực lòng sám hối:

Piri Tômát (Piri Thomas), từ một tên tội phạm đang thi hành án trong nhà tù, một con nghiện ma túy đã từng nhúng tay vào tội ác giết người... cuối cùng đã sám hối trở thành một tín hữu đạo đức thánh thiện đầy lòng nhân ái như sau: Một đêm nọ, Pi-ri đang nằm trong một phòng giam đặc biệt, cùng chung giường với một tên tội phạm biệt hiệu là “Thằng Ròm”, đột nhiên anh suy nghĩ về tình trạng tội lỗi của mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt phải trỗi dậy cầu nguyện với Chúa. Nhưng lúc đó anh lại đang nằm chung giường với một bạn tù là “Thằng Ròm”. Do đó, chờ cho “Thằng Ròm” ngủ say, anh mới từ từ bò ra khỏi giường, quì gối xuống nền nhà bằng bê-tông lạnh ngắt. Rồi anh say sưa nói với Chúa như đứa con thưa chuyện với cha mình.

Về sau anh đã thuật lại tiến trình trở lại của anh như sau: “Khi ấy tôi bày tỏ với Chúa những gì chất chứa trong lòng tôi. Tôi thưa với Ngài bằng những lời đơn sơ mộc mạc. Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những lầm lỗi thiếu sót của tôi, những hy vọng và thất vọng. Lúc đó tôi cảm thấy xúc động đến nỗi suýt bật khóc, một sự xúc động mà trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy. Khi kết thúc lời cầu nguyện, bỗng tôi nghe thấy có tiếng đáp: “Amen”. Thì ra đó là tiếng của “Thằng Ròm”. Lúc đó hắn đang nằm sấp trên giường, trán tựa trên hai cánh tay khép lại. Sau một lúc lâu im lặng, rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ với tôi: “Này Pi-ri, tớ cũng tin Chúa!” Rồi tôi leo lên giường và hai đứa chúng tôi tiếp tục nói chuyện về niềm tin từ hồi còn thơ ấu của mình. Trước khi ngủ tiếp, tôi đã nói với “Thằng Ròm”: “Chúc Chi-co ngủ ngon nhé! Tớ nghĩ rằng: Thiên Chúa vẫn luôn ở với chúng ta. Chỉ có chúng ta là không muốn ở với Ngài mà thôi!”

4) Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò:

Một tên cướp nhà băng kia đã dùng súng giết chết một viên cảnh sát và sau đó hắn bị bắt và bị tòa kết án tử hình. Bây giờ hắn đang bị cột vào chiếc ghế điện trong nhà tù Sing Sing chờ tới giờ thi hành án. Trên đầu hắn có đeo một chiếc vòng bằng kim loại cột nhiều thanh sắt. Khi cho dòng điện mạnh chạy qua là hắn sẽ lập tức bị chết ngay. Người thi hành án hỏi tử tội xem có muốn nhắn gửi điều gì trước khi chết không? Bấy giờ hắn mới tâm sự với giọng điệu đầy hối hận muộn màng như sau: ”Tất cả tội lỗi lớn lao của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng năm xu trong túi áo của mẹ tôi hồi còn nhỏ. Rồi khi đi học tôi tiếp tục ăn cắp các vật dụng của chúng bạn như bút vở, nhặt được đồ đánh rơi không trả cho người bị mất, đi xe buýt hay xe lửa trốn không mua vé. Rồi khi lớn khôn tôi bắt đầu sa vào các thói hư chơi bời hút xách bài bạc. Do thua cá độ một món tiền lớn, tôi và hai thằng bạn thân rủ nhau đi cướp giật túi xách người đi đường, rồi lên kế hoạch cướp nhà băng. Một ngày kia khi thực hiện việc cướp này và bị cảnh sát truy đuổi, tôi đã dùng súng bắn chết một viên cảnh sát và bị tòa kết án tử hình. Như vậy, tội cướp của giết người dẫn đến cái chết của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng bạc năm xu” (A. Tonne).

Tin Mừng hôm nay cho thấy khi cám dỗ Đức Giê-su, ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật tương tự. Nó không xúi Người tôn thờ nó ngay, mà yêu cầu Người hãy biến những viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, nhằm thỏa mãn nhu cầu cơm áo vật chất thường ngày. Rồi tiếp đến nó xúi Người nhảy từ nóc đền thờ xuống để được khen, thỏa mãn các ước muốn về danh vọng chức quyền trần gian. Cuối cùng nó xúi Người sấp mình thờ lạy nó, để được nó ban cho của cải giàu sang. Đối với loài người chúng ta cũng thế: “Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò”. Do đó, chúng ta đừng coi thường những lỗi nhỏ, vì từ một lỗi nhỏ hôm nay sẽ biến thành tội ác chối bỏ Thiên Chúa và làm hại tha nhân sau này.

5) Lòng tham lam tiền bạc làm mờ mắt linh hồn:

Ngày xưa, có người ở nước Tề có lòng say mê vàng bạc. Một hôm đi chợ, khi tới gần cửa hàng bán vàng bạc, anh nhìn thấy một thỏi vàng để trong quầy, liền chạy tới đập bể tủ kính chộp lấy thỏi vàng mang đi. Khi bị nhân viên cửa hàng đuổi theo bắt lại và bị hạch hỏi: “Tại sao ở giữa chốn đông người ban ngày ban mặt mà anh lại dám công khai cướp vàng là làm sao?”

Anh ta liền thú nhận: “Khi nhìn thấy thỏi vàng, thì tôi không còn thấy bất cứ người nào khác, mà chỉ thấy thỏi vàng trong quầy cần lấy bằng được với bất cứ giá nào!”

Đồng tiền liền khúc ruột nên nhiều người sẵn sàng lao vào lửa, bất chấp mọi khó khăn, không từ bất cứ thủ đoạn nào, miễn sao chiếm đoạt được nó mới thôi.

3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, bạn thấy vị tu sĩ đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ nhờ dùng các phương thế nào? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư tật xấu quan trọng nhất của bạn trong mùa chay này?

4. SUY NIỆM:

Tin Mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ăn năn sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là “cải thiện đời sống”, “cải tà qui chánh”. Là nhìn nhận những điều xấu xa tội lỗi trong đời sống của mình và quyết tâm trừ khử. Nói cách khác: Sám hối là nhận ra thân phận tội nhân của mình và thực lòng hoán cải, bằng cách làm những việc tốt trái ngược với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” đã dạy.

1) Mọi người đều phải chịu ma quỷ cám dỗ:

Đức Giê-su là Đấng Thánh vô tội, nhưng mang thân phận loài người giống như chúng ta, nên Người muốn chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương chống trả cho chúng ta. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Mọi người ai cũng đều phải trải qua các cơn cám dỗ của ma quỷ, và càng thánh thiện người ta lại càng bị cám dỗ nặng hơn để chứng tỏ lòng mến Chúa nhiều hơn. Thánh Grê-gô-ri-ô khi đã bước sang tuổi 90 đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: "Ở tuổi này mà tôi vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ giống như lúc tôi đang còn trong tuổi đôi mươi! "

Đức Cha Ti-a-mer Toth cũng nói: "Ma quỉ đã dám đụng đến cả thủ lãnh Giê-su... thì chắc chắn chúng cũng sẽ không buông tha cho các đồ đệ của Người là chúng ta".

2) Phương diện tích cực của cơn cám dỗ:

a) "Lửa thử vàng - Gian nan thử đức":

Sống trên đời, chúng ta không thể tránh được các cơn cám dỗ của ma quỷ. Tuy nhiên cám dỗ cũng có mặt tích cực của nó là giúp củng cố đức tin của chúng ta hầu mang lại lợi ích cho tâm hồn. Cám dỗ giống như phương thế tập luyện giúp chúng ta nên người lính thiện chiến, một lực sĩ mạnh mẽ của Thiên Chúa, có khả năng chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ.

Ta có thể ví cám dỗ giống như một mũi chích ngừa bệnh để bạch huyết cầu của chúng ta có dịp chiến thắng những vi trùng yếu, tiết ra kháng thể giúp chúng ta miễn dịch và sẽ dễ dàng chiến thắng các vi trùng mạnh hơn về sau.

b) “Ơn Thầy đủ cho con”:

Cần ý thức rằng: Chúa luôn ban đủ ơn để giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ, miễn là luôn có Chúa ở trong lòng ta. Thánh nữ Ca-ta-ri-na một hôm bị một cơn cám dỗ rất nặng. Sau đó được Chúa Giê-su hiện ra an ủi. Vừa gặp Chúa, thánh nữ liền hỏi: “Lạy Chúa. Khi con bị cám dỗ thì Chúa ở đâu?”. Người trả lời: “Ta ở ngay trong lòng con đó”. Về phần thánh Phao-lô Tông đồ có lần đã xin Chúa cất khỏi cơn cám dỗ của ma quỷ luôn quấy rầy, giống như một cái dằm đâm vào cơ thể làm cho đau đớn. Ngài còn bị một thủ hạ của Xa-tan đến vả mặt rất khó chịu và nhiều lần ngài xin Chúa giúp thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Chúa đã an ủi Phao-lô như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Về sau Phao-lô còn viết như sau: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9).

c) Về các loại cám dỗ của ma quỷ: Có nhiều loại cám dỗ nhưng quan trọng nhất là cám dỗ của ma quỷ về lòng tham tiền bạc. Thực vậy, tình cảm gia đình cũng có thể bị đảo lộn vì bị đồng tiền chi phối: Cha mẹ có thể từ bỏ con cái, con cái có thể bỏ rơi cha mẹ; Vợ có thể tố cáo chồng, chồng có thể ruồng rẫy vợ; Anh em bạn bè có thể chém giết nhau vì tranh chấp của cải như một căn nhà, mảnh vườn hay thùng quà người thân gửi về… Thật đúng như người ta thường nói về giá trị của đồng tiền: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi" hoặc như câu tục ngữ: "Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".

3) Vào mùa chay là bước vào sa mạc lòng mình:

Dù đang sống cuộc sống đời thường hằng ngày nhưng chúng ta vẫn có thể sống tinh thần Mùa Chay bằng cách:

a) Kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, luôn vững tin vào Chúa dù gặp bao thử thách gian nan.

b) Bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi theo ý Chúa Cha, dù phải chịu đau khổ, bị thiệt thòi, như Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha: ”Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” (Lc 22,42 b).

c) Sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn gặp phải trong cuộc sống: Dù bị đói nghèo nhưng tâm hồn vẫn tự do, không chịu khuất phục làm nô lệ cho của cải vật chất.
d) Giữ tâm hồn luôn bình an nhờ năng cầu nguyện với Chúa Cha: Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên “Con yêu dấu” luôn làm vui lòng Cha như Đức Giê-su.

Nếu trong Mùa Chay chúng ta quyết tâm vào sa mạc để thanh luyện bản thân, thì tâm hồn chúng ta sẽ nên vững mạnh; Sẽ có khả năng chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ; Sẽ quyết tâm dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân không quản ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào; Sẽ tập thành thói quen bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa hầu nên con thảo của Chúa Cha noi gương Đức Giê-su.

4) Các phương thế giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ:

a) Năng ăn chay và cầu nguyện: Nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đã được tăng sức mạnh để đương đầu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Hội Thánh dạy chúng ta hãy cầu nguyện và ăn chay để hãm mình đền tội trong Mùa Chay như phương thế hữu hiệu gia tăng nội lực thiêng liêng hầu giúp ta đủ sức chống trả và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

b) Năng học sống Lời Chúa: Lời Chúa như thanh gươm hai bên đều là lưỡi sắc bén để giúp chúng ta chống lại ma quỷ. Noi gương Đức Giê-su khi bị ma quỷ cám dỗ, đã sử dụng Lời Chúa làm phương thế chống trả và đã chiến thắng ma quỷ. Ba câu Lời Chúa ấy như sau: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi” (Mt 4,7); “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10).

c) Tham dự các buổi tĩnh tâm và năng lãnh nhận các phép bí tích: Dự tĩnh tâm để được nghe biết cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xét mình xưng tội và dọn mình rước lễ sốt sắng, để luôn có Chúa ở cùng. Cầu xin Chúa giúp trừ khử các thói hư bằng việc quyết tâm tập các nhân đức đối lập theo kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy. Nhờ ơn Chúa giúp và nhờ nỗ lực phấn đấu của bản thân, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma quỷ cám dỗ và sẽ ngày một nên hoàn thiện hơn.

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con ý thức rằng: Xưa Chúa đã vào sa mạc để gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Cha. Mùa Chay chính là thời kỳ thuận tiện để chúng con vào sa mạc với Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dành ra ít phút thinh lặng để tâm sự với Chúa Cha, cho chúng con biết lắng nghe lời Chúa dạy trong giờ kinh tối gia đình, và các buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay tại nhà thờ. Nhờ Thần Khí Chúa thôi thúc, chúng con quyết tâm thực thi ăn chay hãm mình đền tội trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con biết chu toàn các việc bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân, biết chủ động đi bước trước làm hòa với những ai đang bất bình với con... để mỗi ngày con được Thần Khí thanh luyện và được biến đổi nên người mới trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC480: Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu


(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư. Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục MC 1-ABC480


Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.

Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.

Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)

Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).

Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư!

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo." Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.

Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của người. Người than thở: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!”

Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Người cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Người cũng đã từng chịu, có khác là Người đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Người luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).

Ý chí chúng ta thì bạc nhược. Xác thịt lại ươn hèn. Đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.

Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su và dùng Lời Người như khí giới thần diệu chống lại ác thần.

Ước gì mỗi người thường xuyên rước lấy Mình Máu thánh Chúa Giê-su để kết hiệp mật thiết với Người hơn. Và một khi có Người ở với chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa đến cùng, như Người đã từng chiến thắng vẻ vang.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC481: Con số 3 trong Mùa Chay


(Suy niệm Lễ Tro của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Mỗi năm, vào đầu Mùa Chay, tôi đặc biệt nhớ tới con số 3 vì nó hiện diện ở ngay ngày thứ tư MC 1-ABC481


Mỗi năm, vào đầu Mùa Chay, tôi đặc biệt nhớ tới con số 3 vì nó hiện diện ở ngay ngày thứ tư đầu Mùa Chay và ở ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay.Thứ tư Lễ Tro, trong Phúc âm Thánh Matthêu (Mt 6,1-6.16-18), Chúa dạy 3 điều cần phải làm ba việc này:

Thứ nhất: Bố thí: làm việc lành, việc phước thiện, để nâng đỡ tha nhân, như thăm viếng người bệnh, người già, giúp công, giúp của cho những người cùng túng, lâm nạn, những người cô thân, cô thế và tàn tật…

Thứ hai: cầu nguyện: có thời giờ sống bên Chúa, thưa chuyện với Chúa, lắng nghe tiếng Người, đọc sách báo linh đạo, suy niệm về Ơn lành Cứu Ðộ và về những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu tại Giêrusalem, về cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Cầu nguyện để phát triển đời sống nội tâm, trong thinh lặng, với tâm tình cảm tạ và kính mến.

Thứ ba: Ăn chay: hãm dẹp các vọng động, giảm bớt tiêu pha và hưởng thụ, như bớt ăn, bớt uống, bớt coi điện ảnh, ngưng hút thuốc, bỏ ăn quà vặt, không chơi bài bạc và không chè chén say sưa…

3 điều trên đây có liên hệ mật thiết với nhau, như nhân với quả, như hoa với trái. Ví dụ: ta chỉ có thể có tiền và có thời giờ để giúp đỡ tha nhân, nếu ta đã tự hãm mình, dẹp bớt các nhu cầu và bỏ đi lòng vị kỷ. Hơn nữa, sự cầu nguyện và lòng kính mến Chúa sẽ thúc đẩy ta biết mở rộng lòng ra, biết cảm thông với những người đang gặp đau khổ về vật chất và tâm linh.

Vậy, nếu thực sự chúng ta kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, thì chúng ta chú trọng thực hành 3 việc là ăn chay, cầu nguyện và bố thí, một cách vui vẻ, âm thầm và kín đáo, như Chúa Giêsu dạy: “tay trái không biết việc tay phải làm”. Khi cầu nguyện, ăn chay và làm việc từ thiện, bác ái, chúng ta không tìm tiếng khen của người khác, mà chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa là Cha của chúng ta mà thôi.

Trong Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay (Lc, 4,1-13) ta gặp lại con số 3 một lần nữa: Đức Giêsu bị Satan dụ dỗ về 3 điểm, tức là 3 ước muốn mãnh liệt nhất của cái tôi giả tạo: thụ-hưởng, danh-vọng và quyền-lực. Đó là 3 điều dụ dỗ rất mực tế nhị và độc hại, đã từng làm cho loài người điên đảo, phạm những điều ngang ngược, phi nhân, phi nghĩa. Đức Giêsu đã dùng thần lực của Thánh Kinh mà khử trừ 3 dụ dỗ thâm hiểm đó của Satan. (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tịnh, FD).

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta sống 3 thực hành quen thuộc của Mùa chay: “Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như lời rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mt 6,1-18), là điều kiện giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải. Nẻo đường khó nghèo và bỏ mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và như trẻ thơ trò chuyện với Chúa Cha (cầu nguyện) làm cho chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái tích cực.” (Sứ điệp Mùa chay 2021, dẫn nhập).

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có 3 phương thế để có thể chiến thắng.

1. Lời Chúa.

Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.

Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

* Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

* Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

* Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nỗi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.

2. Ăn Chay

Ăn chay giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. Ăn chay đi đôi với sự hãm mình. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại ăn chay hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu người. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.

3. Cầu Nguyện.

Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay. Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Ghi nhớ con số 3 của Mùa Chay để thực hành sám hối, canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC482: Món ăn năn


(Suy niệm Lễ Tro của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại MC 1-ABC482


Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.

Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Mùa Chay.

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. (1)

1. Ăn năn sám hối

Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối ăn năn, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người. Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro”. Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.

Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì? Thưa là để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc. Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!

Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, hãy tỏ lòng ăn năn sám hối và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.

2. Năm bước ăn năn (2)

Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết ăn năm sám hối. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năm sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng.

- Bước đầu tiên của hành trình ăn năn sám hối là ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.

- Bước thứ hai là sự hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều ác, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.

- Bước thứ ba là sự gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm, là một sự gặp gỡ trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa. Càng yêu Chúa, chúng ta càng hối hận, càng hối hận chúng ta càng yêu Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Giai đoạn này Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được Tình yêu và lòng thương xót của Chúa.

- Bước thứ tư là quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo Hội. Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc xưng tội, nói ra sự thật và tất cả sự thật với cha giải tội là đại diện cho Chúa và cho Hội Thánh. Giai đoạn này cũng rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.

- Bước thứ năm là thực sự sửa đổi đời sống. Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều ác nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa, cần sự giúp đỡ của những anh chị em đồng đạo với mình.

Để có thể canh tân đổi mới đời sống cách hữu hiệu và bền bỉ, phải cầu nguyện rất nhiều như lời Chúa dạy. Cầu nguyện âm thầm kín đáo trong lòng, chứ đọc kinh bên ngoài thôi chưa đủ. Rồi phải ăn chay, nghĩa là phải nhịn, không chỉ nhịn ăn mà thôi, có khi còn phải nhịn nói, nhịn thỏa mãn sở thích của mình, kiềm hãm tình cảm nóng giận. Và cuối cùng hãy tập làm việc lành, tập giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình.

3. Chuyện kể ăn năn

Thánh Kinh kể nhiều câu chuyện ăn năn sám hối rất cảm động.

- Vua Đavít phạm tội ngoại tình với Bát Seva, vợ của tướng Urigia. Sau khi phạm tội vua Đavít cố tình che đậy tội lỗi của mình. Nhà vua sai chồng bà đang ở ngoài mặt trận về nhà với vợ, để mai mốt bà có sinh con, thì thiên hạ sẽ cho rằng đó là con của vị tướng. Tuy nhiên tướng Urigia nhất định không chịu về nhà vì ông là một tướng lãnh chuyên nghiệp, muốn sống chết với binh sĩ ngoài mặt trận. Giấu giếm bằng cách này không được, vua Đavít lại toan che đậy tội lỗi của mình bằng cách lập kế cho giết vị tướng là chồng bà ngoài trận địa để vua có thể cưới bà.Đến đây Thiên Chúa sai ngôn sứ Nathan đến để làm thức tỉnh lương tâm của nhà vua. Được thức tỉnh lương tâm, vua Đavít liền ăn năn sám hối, vội trở về với Chúa. Nhà vua thốt lên: Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa (2 Sm12,13). Vua tỏ lòng ăn năn sám hối cho tội lỗi đã phạm được bầy tỏ trong Thánh vịnh 51 mà truyền thống cho rằng vua Đavid là tác giả.

- Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi được trong Phúc âm. Tội lỗi đã đọa đầy chị ra ngoài vòng xã hội. Cuối cùng chị đến xin Chúa Giêsu ban cho chị đời sống mới và một tình yêu đổi mới. Chị ta chứng tỏ cho Chúa thấy biểu hiệu của tình yêu bằng cách rửa chân Chúa bằng nước mắt và dùng tóc lau chân Chúa và sức dầu thơm cho Chúa. Do đó tội lỗi của chị đã được tha thứ nhiều vì yêu nhiều (Lc 7,47). Hành vi của Chị biểu lộ tâm tình ăn năm sám hối. Để có được tâm tình sám hối, người ta phải tỏ lòng khiêm tốn, chấp nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Người biết sám hối là người ý thức về sự yếu hèn và tội lỗi của mình. Người đàn bà tội lỗi khi nhận thức được mình là kẻ có tội, đã ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt. Chỉ khi nào người ta ý thức được về tội lỗi của mình, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa. Còn người Pharisêu tự coi mình là công chính nên mới không cảm thấy cần sám hối.

- Khi còn thuộc nhóm Pharisiêu, Phaolô kiêu ngạo, cứng lòng và bách hại các tín hữu. Nhờ ăn năm sám hối, ngài đổi mới hoàn toàn, ngài có được kinh nghiệm sống trong tình yêu lòng nhân từ và tha thứ của Đấng đã quật ngã mình khỏi lưng ngựa.Thánh Phaolô yêu Chúa trên hết mọi sự và đã trở thành Tông đồ dân ngoại.

- Thánh Phêrô chối Chúa. Chúa thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy và ánh mắt tha thứ nhân từ. Nhờ ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt hối hận “ Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết”(Lc 22,62), Phêrô đã nên vị lãnh đạo chăm sóc đàn chiên của Chúa.

Câu chuyện về những người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối và được tha thứ như vua Đavít, như người đàn bà tội lỗi và như thánh Phaolô hay như thánh Phêrô nói lên lòng thương xót thứ tha của Chúa. Tâm tình ăn năn sám hối ở đây khác với mặc cảm tội lỗi. Được tha thứ rồi, ta không cần mang mặc cảm tội lỗi. Mang mặc cảm tội lỗi có thể khiến ta nghi ngờ lòng thương xót tha thứ của Chúa. Tuy nhiên ta nên duy trì tâm tình sám hối vì sống trong tâm tình sám hối sẽ giúp ta sống gần bên Chúa mãi.

Để có thể sám hối, cần phải có ơn biết kính sợ Chúa. Không phải sợ mà không dám đến gần Chúa, nhưng sợ làm điều mất lòng Chúa như sách Huấn ca dạy: Kính sợ Chúa là bước đầu của khôn ngoan (Hc1,14). Ơn biết kính sợ Chúa là cần thiết để được hưởng nhờ ơn cứu độ.

4. Muốn ăn năn phải hãm mình

Xã hội càng duy vật và giàu có, người ta càng có khuynh hướng quên đi một số quy luật cơ bản của đời sống tinh thần. Quy luật xem ra bị lãng quên nhiều nhất chính là ăn năn sám hối, để rèn luyện ý chí hầu có thể làm chủ bản thân. Trong mọi cuộc đấu tranh, sự đấu tranh với bản thân là gay go hơn cả. Chính vì thế có một số người, sau khi đã đấu tranh thất bại với bản thân thì hoàn toàn nản chí, không còn muốn đấu tranh với chính mình nữa và thường xuyên chiều theo con người hư đốn của mình. Có những người khác, vì không bao giờ đấu tranh với chính mình, nên chỉ dành thời giờ và sức lực để đấu tranh chống tha nhân và ức hiếp người yếu thế.

Mùa Chay là mùa ăn năm sám hối. Mục đích của việc ăn năn sám hối là hãm mình. Hãm con người mình lại, hãm bớt dục vọng, hãm bớt đam mê, hãm bớt thói hư tật xấu, hãm bớt sự tham lam của cải, hãm bớt sự hung hăng gây chiến, hãm bớt lòng tự cao tự đại, hãm bớt cả những sở thích thường nhật. Sự hãm bớt như thế có một tác dụng rất lớn, nếu được thực hành thường xuyên sẽ tạo cho ta một nội lực một sức mạnh giúp ta làm chủ bản thân khi cần thiết. Đức tính tự chủ dễ nảy sinh và phát triển nơi những con người quen hãm mình. Và chính đức tính ấy làm cho con người thực sự tự do, làm chủ bản thân, không nô lệ chính mình vào bất cứ điều gì. Thoạt nghĩ tới thì sự hãm mình có vẻ là một sự gò bó, giới hạn, cắt xén, làm cho con người không còn được tự do thoải mái. Chính vì thế mà nhiều người trong xã hội hôm nay, kể cả những người có đạo, thậm chí cả những người sống đời tu trì, không thích hãm mình, và hầu như không còn hãm mình nữa. Đó là lý do của sự xuống dốc về đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội. (3)

Giáo Hội biết rõ cứ sự thường người ta không thích hãm mình, nên thường dạy hy sinh đi đôi với sự hãm mình. Hy sinh là tự nguyện chết đi, là thông phần với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, kết hợp với hiến tế thập giá của Ngài. Hy sinh làm những điều mình không thích quả thật là từ bỏ chính mình để bước theo Chúa. Hy sinh là liều mất sự sống, thì sẽ được sống, là đánh mất bản thân, thì sẽ gặp lại bản thân. Hy sinh là chết đi để được vui sống muôn đời. Hy sinh là đi con đường thập giá dẫn tới vinh quang Phục Sinh. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại hy sinh hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu những người khác. Chính vì thế mà hãm mình hy sinh thường đi chung với cầu nguyện. Có cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh nhiều thứ, và dễ dàng làm chủ bản thân mình. Đời sống cầu nguyện thường được nuôi dưỡng bằng những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thực tế mỗi ngày.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để cầu nguyện, để ăn năn sám hối để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.

5. Mùa Chay linh thiêng

Mùa Chay linh thiêng lại về với đời sống tín hữu Công Giáo. Mùa chay là thời gian 40 ngày dọn lòng mừng lễ Phục Sinh, trải dài từ Lễ Tro cho đến Tuần Thánh, lặp lại thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu năm xưa khi chuẩn bị bước vào đời công khai rao giảng Tin Mừng (Mt 4,2). Con số 40 còn lặp lại nhiều biến cố khác trong lịch sử cứu độ như 40 ngày của Êlia trên núi Horeb dọn mình thực thi sứ vụ Chúa trao (1 V 19,8), như 40 ngày của Môsê trên núi Sinai chuẩn bị đón nhận thập điều Chúa dạy (Xh 34,28), và như 40 năm dân Chúa lưu lạc trong hoang địa dọn lòng đặt chân vào đất hứa. Mùa Chay như vậy là thời điểm thuận lợi để sống mầu nhiệm Tử Nạn của Chúa Kitô thông qua việc chay tịnh để sẵn sàng mừng lễ Phục Sinh. Nhưng Mùa Chay không chỉ là việc chay tịnh, cho dẫu khởi đầu và kết thúc Mùa Chay được diễn ra bằng việc buộc ăn chay và kiêng thịt thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Mùa Chay còn là mùa xuân tâm hồn với những sinh hoạt đổi mới đời sống đức tin.

Cầu nguyện, canh tân, chia sẻ: đó là ba sinh hoạt mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện trong Mùa Chay năm nay, cũng là ba chiều kích với Chúa, với mình, với tha nhân dệt nên nhịp sống Giáo Hội.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt như lời Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.

Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. “Giữa biển cả thờ ơ” của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo Hội sẽ “trở nên những hòn đảo lòng thương xót”. (4)
____________
(1) Làm Nụ Hoa Trắng. ĐGM Vũ Duy Thống.
(2) Bài giảng lễ Tro 2007, ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(3) ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(4) Sứ Điệp Mùa Chay 2015.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC483: Biết mình đang đi về đâu


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

THỨ TƯ LỄ TRO

 

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ MC 1-ABC483


Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.

Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.

Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi.

Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.

Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.

Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo: "Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" (Nguyễn Du).

Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:

”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).

“Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)

Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?

Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:

“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).

Có gì bền vững đâu. Thánh Vịnh ví von đời người như hoa cỏ:

“Đời sống con người giống như hoa cỏ.
Như bông hoa nở trên cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi.
Nơi nó mọc không còn mang vết tích” (TV 102).

Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.

Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).

Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.

Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ĐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ĐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư.

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Đâu là bậc thang giá trị đời anh?

Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.

Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.

Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.

Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.

Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.

Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.

Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa.Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.

Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.

Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.

Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.

Với tình yêu Chúa Kitô, ta không còn là bèo bọt, là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, ta sống một Mùa Chay thánh thiện.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC484: Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa


(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển - LỄ TRO)

 

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc MC 1-ABC484


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay được kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, có điều là: Mùa Chay đã diễn ra hằng năm, nhưng tại sao đời sống đạo của chúng ta vẫn chỉ dừng lại nhiều ở góc độ bên ngoài mà đời sống tâm linh không có gì thay đổi lắm! Nguyên nhân tại đâu và việc chúng ta ý thức về nó như thế nào? Đâu là điều Chúa và Giáo Hội muốn nơi người tín hữu mỗi khi Mùa Chay về? Nhân ngày thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.

Xức Tro

Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).

Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.

Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Đức Chúa sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).

Tro còn nói đến một điềm gở, mà cụ thể là cái chết của mỗi người và nhân loại. Vì thế, tiên tri Giêrêmia đã mô tả như: “Thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (x. Gr 31, 40). Nói như thánh Phaolô: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1 Cr 15, 31). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, không thể trần chừ. Chuẩn bị tức là sống theo tinh thần của Chúa.

Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.

Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?

Ăn Chay

Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người, để dâng cho Người một phân nửa của cải (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc để trừ quỉ... (x. Mt 17,21).

Ăn chay còn thể hiện tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), để thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).

Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay

Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.

Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt. Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa... Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, thì hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”. Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều...

Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa về ý thức nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng thì toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ, chẳng khác gì “gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”. Nói cách khác, chúng ta là con đẻ của nhóm hình thức vụ luật. Thiết nghĩ, ăn chay như vậy, hẳn chúng ta chẳng khác gì những Pharisêu! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đấng thấu suốt mọi điều kín nhiệm là Đức Giêsu đã quả trách họ cách nặng nề: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6). Ăn chay kiểu như thế quả thật vô nghĩa vì đã đánh mất đi ý nghĩa thánh thiêng của ngày Thánh, ngày dành cho Thiên Chúa và vì ơn cứu độ của mình và tha nhân.

Việc ăn chay của Kitô giáo phải gắn liền cuộc đời, lời nói và hành vi của mình với Đức Kitô, nếu không, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, như chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành danh hài hay con hề trên sân khấu. Thánh Phaolô đã cẩn trọng nhắc nhở những kẻ như trên trong thời của Ngài, khi nói: “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng” (Gl 5,4) khi chỉ lo giữ luật mà không có đức mến và đức ái đi kèm.

Người Công Giáo ăn chay, ngoài việc liên đới với Thiên Chúa, chúng ta còn gắn liền với các mối tương quan nơi tha nhân. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành ra một chút hy sinh về của cải vật chất mà lẽ ra chúng ta được hưởng để chia sẻ cho người túng nghèo, lo truyền giáo, giúp đỡ các bệnh nhân... Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, công lý và tình thương hơn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo " (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện" (2 Cr 5, 20 - 6, 2).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con hiểu rằng: muốn được phục sinh với Chúa, chúng con phải qua con đường thập giá. Phải chiến đấu và tập luyện các nhân đức cách sốt sắng, để thêm lòng yêu mến Chúa và liên đới với tha nhân. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC485: Kiếp người vô thường


(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền - LỄ TRO)

 

Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa MC 1-ABC485


Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa. Đẹp về cây nẩy lộc đâm chồi...; Đặc biệt sắc màu và hương thơm của trăm hoa đã hoà vào nhịp sống tất bật của con người, từ vùng ngoại ô thôn dã đến chốn phồn hoa đô thị, tạo nên một không khí vui tươi, một quang cảnh ấm áp và thiêng liêng của ngày xuân. Muôn hoa làm đẹp cho đời, muôn hoa xoa dịu buồn đau, muôn hoa khích lệ tinh thần, muôn hoa chia sẻ mừng vui… Nhưng đáng tiếc, những nụ hoa và cả mùa xuân đều mong manh, sớm nở chiều tàn. Tất cả dường như đều đi theo định luật của vạn vật là vô thường. Chẳng có gì bền vững với thời gian. Chẳng có gì vĩnh cửu nhưng luôn chịu cảnh phù vân mong manh.

Những điều vô thường này chúng ta có thể thấy qua vạn vật và cả qua những cảnh huống cuộc đời:

Hoa đẹp....... Hoa thơm... Hoa vẫn tàn
Tình nặng.....Tình sâu... Tình vẫn tan
Rượu đắng.... Rượu cay... Rượu vẫn hết
Người hứa.... Người thề... Người vẫn quên
Trăng lên......trăng tròn... trăng lại khuyết
Tuyết rơi......tuyết phủ... tuyết lại tan
Hoa nở.......hoa rơi..... hoa lại tàn
Tình đẹp......tình sâu..... tình lại tan!
Người đẹp…... người xấu…... rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết (ST)

Tình yêu đôi lứa là tình thề non hẹn biển. Một cái tình tưởng chừng như trường cửu nhưng vẫn cứ mong manh. Trong tình yêu nó vẫn có mầm chia ly. Nó vẫn làm cho bao người vỡ mộng để rồi ôm hận sầu đông.

Đò tình anh đã sang sông
Sao không ngoảnh lại nhìn hàng lệ rơi
Hoa kia sớm nở chiều tàn
Tình ta cũng vỡ theo chiều hoàng hôn.

Cảnh đời là cảnh vô thường. Những lời thề non hẹn biển cũng đi vào lãng quên. Cuộc đời con người cũng vô thường như vạn vật. Có hiện hữu hữu rồi cũng có từ giã. Có sum họp rồi cũng chia ly. Xem ra cuộc đời thật mong manh. Mong manh như nụ hoa sớm nở chiều tàn. Đây là phi lý của cuộc đời khiến người ta mong được có kiếp sau, với mong ước được là cây thông để tự do tự tại, tự vui thú trần gian.

Kiếp này, ta ở nơi đây
kiếp sau xin được làm cây thông buồn
mặc giông tố
mặc mưa tuôn
mặc cho thế thái quay cuồng xung quanh
Thông reo, reo giữa ngàn xanh
vui cùng gió mát trăng thanh địa đàng.

Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc vì mình quá bận tâm với của phù vân. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng an hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.

Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi, trụy lạc; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.

Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.

Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phân mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC486: Lịch sử Mùa Chay Thánh


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng MC 1-ABC486


Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng có chu kỳ xoay vòng luân chuyển.

Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa?

Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?

Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày chúa nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.

Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các tân tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.

Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gô-lơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước mùa chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, Chúa nhật bẩy tuần, Chúa nhật sáu tuần và Chúa nhật năm tuần, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và các nhà thần học cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.

Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.

Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.

Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.

Niềm vui ầm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.

Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?

Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môi-Sen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4,2).

Như vậy Mùa chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các Kitô-hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?

Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiên ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.

Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phần yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.

Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC487: Xét tật mình


(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD. - THỨ TƯ LỄ TRO)

 

CHUYỆN BÊN TA: Khoảng đầu thế kỷ XX, trên “Đông Dương tạp chí” có mở mục “Xét tật mình MC 1-ABC487


I.- CHUYỆN BÊN TA: Khoảng đầu thế kỷ XX, trên “Đông Dương tạp chí” có mở mục “Xét tật mình” do chính chủ báo – học giả Nguyễn Văn Vĩnh – phụ trách. Mục này chuyên nêu ra những thói hư tật xấu, những hủ tục của người Việt Nam, nhằm mục đích xây dựng một nếp sống văn minh theo trào lưu đổi mới của đất nước, trước làn gió mới từ phương Tây đưa lại. Ảnh hưởng của phong trào khá mạnh, có sự tham gia của “Nam Phong tạp chí”, “Tân Văn”. “Đăng cổ tùng báo” và sau này, “Phong Hoá”, “Ngày Nay” (Tự Lực Văn Đoàn) cũng nhập cuộc.

Xã hội Việt Nam chuyển mình thấy rõ. Quả thực, muốn tiếp thu cái mới, cái tốt đẹp, thì trước hết phải biết “nhìn lại mình” mà “xét tật mình”, mạnh dạn từ bỏ những thứ đã lỗi thời ngăn cản bước tiến hoá của dân tộc. Tất nhiên khi “nhìn lại mình” sẽ thấy rõ cả ưu và khuyết điểm. Mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, dung hoà hai nền văn hoá Đông Tây, ấy mới là “đổi mới”. Với đích điểm canh tân, không thể chấp nhận thái độ “bảo thủ” giữ nguyên cái cũ, nhưng cũng không thể một sớm một chiều đổi mới cái rụp theo trào lưu “cấp tiến”. Ấy cũng bởi vì “dục tốc bất đạt” (muốn nhanh thì không thành công).

II.- CHUYỆN BÊN TÂY: Trong “TẢN MẠN VỀ SỐNG ĐẠO CHÚA GIỮA ĐỜI” của Đức Giám mục Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (xuất bản năm 2003), có bài “Bảo thủ và cấp tiến” (trang 21-23) kể một câu chuyện xảy ra ở … bên Tây, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Ngày 30-6-1988, ĐGM Lefèbre – người sáng lập Huynh đoàn Linh Mục Thánh Pi-ô X (tháng 11-1970) – đã tự ý truyền chức giám mục cho bốn linh mục của Huynh đoàn mà không có phép của Toà Thánh. Lý do:

Thứ nhất, Huynh đoàn vốn chủ trương chống lại “tinh thần của Va-ti-ca-nô II và các cải cách do Công Đồng ấy khởi xướng…”, và “chúng tôi cảm thấy tuyệt đối cần thiết phải có những thẩm quyền Giáo Hội ủng hộ các lo lắng của chúng tôi và giúp chúng tôi dự phóng chống lại tinh thần của Va-ti-ca-nô II và tinh thần của At-xi-di” (Thư ĐGM Lefèbre gửi Thánh GH Gio-an Phao-lô II ngày 02-6-1988).

Thứ hai, Không những chỉ chống lại Công đồng Vat. II, mà giám mục Lefèbre còn chống lại cả Toà Thánh đương thời nữa. Trong thư ngày 29-8-1988 gửi 4 giám mục nói trên, ông viết: “ngai Toà Thánh Phê-rô và những vị thế thẩm quyền của Rô-ma hiện nay do những người phản-Chúa-Kitô chiếm giữ” đang bách hại Huynh đoàn, vì “Rô-ma đi theo chủ nghĩa duy tân và phóng khoáng ấy đang đeo đuổi việc huỷ diệt Nước Chúa chúng ta, như (biến cố) At-xi-di và việc thừa nhận các luận đề phóng khoáng của Vat. II về tự do tôn giáo chứng tỏ”. Giám mục Lefèbre nhấn mạnh: “Xác tín rằng chỉ hoàn thành Thánh ý Chúa, qua thư này, tôi đến xin các cha nhận chịu lấy ơn thánh của chức giám mục Công Giáo như tôi đã truyền ban cho linh mục khác trong những hoàn cảnh khác… Tôi sẽ ban cho các cha ơn thánh đó vì tin rằng Ngai Toà Thánh Phê-rô không lâu nữa sẽ được chiếm giữ bởi một đấng kế vị Thanh Phê-rô hoàn toàn là Công Giáo”.

Cuối bài viết, đức GM Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh nhận định: “Quả là ‘bảo hoàng hơn vua’! Một Ki-tô hữu muốn bảo vệ đức tin tinh tuyền hơn Đức Giáo Hoàng! Có những người Công Giáo tưởng mình là tín đồ đạo Công Giáo chính tông hơn cả Đức Giáo Hoàng khi muốn bảo thủ quan điểm của mình hơn là ‘khiêm tốn và vâng lời đầy đủ đối với Đấng thay mặt Chúa Ki-tô’ (thư của Thánh GH Gio-an Phao-lô II gửi giám mục Lefèbre, ngày 9-6-1988)”.

III.- CHUYỆN TRONG NHÀ: Cũng không thiếu những chứng liệu cho thấy, nhiều khi tôi cứ chỉ lo chăm chăm nhìn người để xét đoán, để phê phán, trách móc, mà quên đi “xét tật mình”. Khi đọc kinh cáo mình, mỗi lần cúi đầu đấm ngực, miệng thì lớn tiếng “lỗi tại tôi” nhưng sao tôi lại cứ ngó nghiêng sang người bên cạnh, và hình như chỉ thấy “lỗi tại anh, tại chị, tại … ai ai ấy!” Cọng rác nơi mắt người thì nhìn thấy rất rõ, nhưng cái xà tổ chảng chắn ngay mắt mình thì lại không thấy. Rồi thì … mau mắn đem Lời Chúa ra nhắc khéo anh em, để quên đi cái khó là tự nhắc nhở mình hãy sống Lời Chúa. Vậy đó! “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23, 4). Phê bình người thì rất sốt sắng, nhưng tự phê bình thì … hãy đợi đấy!

Cách đây không lâu, ở Việt Nam đã rộ lên tin tức về hiện tượng “Đức Mẹ khóc” tại nhà thờ Đức Bà Saigon. Rồi thì rủ nhau đi xem, đi ngắm, làm cho dư luận càng thêm xôn xao. Ôi chao! Cứ cho là Đức Mẹ khóc thực sự đi, rồi hãy tự đặt câu hỏi: “Tại sao Mẹ khóc? Phải chăng vì con cái hư hỏng, tội lỗi?” Chuyện trong gia đình, sao không đóng cửa lại, “nhìn lại mình’’ mà ăn năn, hối cải cho Mẹ bớt đau buồn, bớt khóc; lại đi hô hoán lên cho mọi người xa gần biết Mẹ mình khóc như thế? Tập trung để cầu nguyện ư? Đức Mẹ ở khắp mọi nơi, sao không cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6, 5-6) mà lại cứ phải ra ngã ba ngã tư đường làm chi vậy? Quả nhiên, “nhìn lại mình” khó thật! Nhìn lại mình đã khó, làm sao mà “xét tật mình” cho được. Chẳng thế mà Thánh I-nha-xi-ô đã phải thốt lên: “Lột trần chính con người của mình để gặp gỡ Thiên Chúa và giải thoát mình khỏi những quyến luyến lệch lạc, là xét mình”. Ngài còn nói: “Thà bỏ việc nguyện ngắm, còn hơn là bỏ việc xét mình” (xc “Những bài linh thao” – chủ đề Thánh I-nha-xi-ô khuyên hướng dẫn viên đưa vào bất cứ cuộc tĩnh tâm nào – Thanhlinh.net).

Ai cũng thấy là nói với tha nhân, khuyên tha nhân “sống Lời Chúa” dễ hơn gấp trăm ngàn lần tự mình “sống Lời Chúa”. Đức Ki-tô đâu có khuyên là “hãy mang theo thật nhiều của cải – thậm chí cả danh vọng nữa – mà theo Thầy”, nhưng Người dậy “Hãy từ bỏ tất cả, vác thánh giá mình mà theo Thầy”. Vác thánh giá hẳn nhiên không dễ chịu bằng “vai mang bị bạc kè kè”, giống y chang những ông kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu "ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ." (Mc 12, 38-40). Mà một khi đã “Vai mang bị bạc kè kè” thì “Nói lếu nói láo chúng nghe rầm rầm” (ca dao VN) liền. Cũng vì thế, nên Người Thầy chí thánh mới khuyên: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 2-3).

IV.- XÉT TẬT MÌNH: Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay thánh được gọi là "Quadragesima" (bốn mươi), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, kéo dài từ Thứ Tư Lễ Tro đến hết Thứ Năm Tuần Thánh (Thánh lễ Tiệc Ly). Thời gian 40 ngày là để nhớ lại thời gian ngôn sứ Mô-sê dẫn dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập, băng qua Biển Đỏ, lưu lạc trong sa mạc 40 năm (1280-1240) và trở lại vùng Đất Hứa. Đó cũng là thời gian 40 đêm ngày Mô-sê cầu nguyện trên núi Si-nai và được Đức Chúa trao cho Thập Điều (10 điều khoản giao ước – Xh 24, 18; 34, 28), hoặc để kỷ niệm thành Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ khỏi án phạt ("Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ." – Gn 3, 1-10). Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của tiên tri Ê-li-a, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu I-de-ven, để tiến về Núi của Thiên Chúa, nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1V 19, 8). Và quan trọng nhất là sự kiện Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4, 1-11).

Như vậy Mùa Chay là mùa Phụng vụ Giáo Hội mời gọi tất cả các tín hữu hãy “xét tật mình” mà ăn năn trở lại. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa tâm linh, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thích hợp cho các Ki-tô hữu noi gương Đức Ki-tô, dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và đây cũng là dịp người tín hữu được liên kết mật thiết hơn với các mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vì thế, nên ngày mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội cho tiến hành nghi thức Xức Tro và kêu gọi tín hữu ăn chay, thực hiện việc “sám hối ăn năn” như Lời truyền dạy của Đức Giê-su (“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.” – Cv 3, 19). Với nghi thức xức tro và ăn chay, người Ki-tô hữu có cơ hội nhìn nhận mình là kẻ có tội, xin Thiên Chúa tha thứ, đồng thời diễn tả uớc muốn thành thực trở lại cùng Người. Nói cách cụ thể, đây là dịp thuận tiện để người tín hữu bắt đầu đi trên con đường khổ hạnh cho đến "Tam Nhật Vượt Qua", trung tâm điểm của Năm Phụng Vụ. Nghi thức Xức Tro nhắc nhở người tín hữu “Ngươi là bụi tro, và sẽ trở về với tro bụi" (St 3, 19), vì thế “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).

Theo Thánh Kinh, tro được dùng làm biểu tượng của sự hối tiếc, ăn năn. Một số nhân vật trong Thánh Kinh đã phủ bụi tro lên người để bày tỏ lòng sám hối về những tội lỗi và sai lầm của mình. Ông Gióp đã thưa với Chúa: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.” (G 42, 6); ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã kêu gọi dân It-ra-en thể hiện sự ăn năn: “Thiếu nữ dân tôi ơi, quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr 6, 26); Tiên tri Đa-ni-en cũng bày tỏ lòng thành khẩn của mình với Đức Chúa: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9, 3); vua Ni-ni-vê bày tỏ lòng ăn năn sám hối bằng cách ngồi trên tro (Gn 3, 6). Chính Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh “mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” để nhắc nhở các thành (Kho-ra-din và Bết-sai-đa) đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Mt 11, 21; Lc 10, 13).

Ngoài ra, theo truyền thống xa xưa của Giáo Hội, tất cả mọi tín hữu, trong ngày thứ tư lễ Tro, đều phải giữ chay và kiêng thịt. Việc ăn chay có một giá trị lớn trong đời sống Đạo của người Ki-tô hữu, là một đòi hỏi của tinh thần, nhắm đến tương quan mật thiết với Thiên Chúa (được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng Cứu Tinh Giê-su Ki-tô – Rm 8, 29; Pl 3,10). Thật vậy, những khiá cạnh bên ngoài của việc ăn chay, dù quan trọng, nhưng chưa nói lên đầy đủ ý nghĩa của việc thực hành nầy. Điều quan trọng hàm chứa bên trong mới thực sự là chiều kích tối hậu: Đó là ao uớc chân thành muốn được thanh tẩy nội tâm, muốn sẵn sàng vâng nghe thánh ý Thiên Chúa và sống tình liên đới với anh chị em, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.

Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay với mục đích thờ phượng Thiên Chúa, để được Người nhậm lời khi cầu nguyện, đồng thời để khu trừ ma quỉ, để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Thánh Gio-an Tẩy Giả thi vào hoang địa mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong sa mạc” loan báo Tin Mừng. Đức Giê-su Thiên Chúa thì ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.

Thật không thể ngờ cách đây hơn 25 thế kỷ, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (Is 58, 6-7). Ngài lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để đôi co cãi vã, hoặc đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?” – Is 58, 3-5).

Cách ăn chay của ngài khác hẳn một trời một vực: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể. Ăn chay còn thể hiện những khao khát hòa bình: Thiên hạ "sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2, 4).

Ăn chay phải là: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2, 12-13). Xé áo chính là hình thức ăn chay của bọn đạo đức giả như Lời dạy của Đức Giê-su: "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 16-18).

Vâng, Mùa Chay chính là mùa nhìn lại chính mình, xét tật mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát bụi tro mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Xét tật mình để thấy rằng mình tội lỗi ngập đầu, cần phải biết ăn năn sám hối, hoán cải cuộc đời, nói cách khác là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm sám hối)”.

Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” – 1Cr 13, 3).

Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015 (phần kết), ĐTC Phan-xi-cô viết: “Vì thế, anh chị em thân mến, tôi muốn cùng với anh chị em cầu xin Chúa Ki-tô trong mùa Chay này: "Fac cor nostrum secundum cor tuum”, xin làm cho trái tim chúng con được nên giống Trái Tim Chúa” (Lời cầu trong Kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giê-su). Như thế chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để nó khép kín vào mình, không rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng.” Người Ki-tô hữu cần nhận chân việc “xét tật mình” chính là để nhìn cho rõ con người thật của mình, không khép kín trong tính vị kỷ để “rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng”, mà là mở rộng trái tím ra với Chúa và với tất cả anh em.

Vâng, hãy thực sự nhìn lại mình, xét tật mình, mà ăn năn sám hối những điều sai phạm đã mắc phải (đối với Thiên Chúa và với anh em), quyết tâm đổi mới con người của mình trong “mùa chay cuộc đời”. Chỉ có như vậy mới xứng đáng là con Thiên Chúa và là bạn của Trưởng Tử Giê-su (Ki-tô hữu). Cũng bởi vì: “Mùa Chay là một mùa canh tân đối với Giáo hội, các cộng đoàn và mỗi tín hữu. Nhưng trên hết mùa Chay là một mùa ân thánh (2Cr 6, 2). Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta điều gì mà trước đó Ngài không ban cho chúng ta.” (Mở đầu sứ điệp Mùa Chay 2015). Ước được như vậy.

Ngày nay Giáo Hội Công Giáo chỉ buộc các tín hữu ăn chay mỗi năm 2 lần mà thôi. Điều ấy thật hữu lý vì ăn chay phải mang tính tự nguyện chứ không thể ép buộc. Phải tin chắc rằng Chúa muốn người tín hữu ăn chay nhiều hơn, thậm chí ăn chay trong suốt cả lộ trình trần thế, bằng cách ăn năn sám hối vì tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời thực hành đúng Lời Chúa dạy: “Gặp anh em đói thì cho ăn, khát thì cho uống, anh em là khách lạ thì tiếp rước tử tế, anh em trần truồng thì cho mặc, đau yếu thì tới viếng thăm, bị tù đày thì hỏi han chia sẻ” (Mt 25, 35-37).

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng và thêm sức cho chúng con để chúng con dám mạnh dạn XÉ LÒNG CHỚ KHÔNG XÉ ÁO khi bước vào Mùa Chay Thánh. “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro).

-----------------------------------

 

MC 1-ABC488: Tro bụi


(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn)

 

Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt MC 1-ABC488


Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.

- Thưa cha, cha biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Cha có biết tại sao con mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.

- Đây là tội của con. Tội con không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào con có thể được tha thứ tất cả?

- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.

Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha... bắt đầu bằng tâm tình sám hối qua việc xức tro.... Tại sao phải xức tro và tro có ý nghĩa như thế nào?

Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng con người đầu tiên là nguyên tổ Ađam (x. St 2, 7) và sau khi nguyên tổ phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa đã phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19), thân phận con người thật mỏng dòn rồi sẽ thoáng mất đi, nhà thơ Miên Du xác tín khi dẫn vào bài thơ Rồi Mai Đây:

“Rồi mai đây, ta đi về cát bụi,
Đời bâng khuâng, chỉ một thoáng ngậm ngùi.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dù không là người Kitô hữu, có lẽ ông lấy nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh khi dùng hình ảnh "hạt bụi" để nói về thân phận con người được cát bụi hóa kiếp thành con người rồi sẽ trở về với bụi đất:

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi…
… Ôi cát bụi phận nầy,
vết mực nào xóa bỏ không hay”
(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi)

Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro, bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi, sự mỏng dòn của con người, sự khiêm tốn, nỗi đau khổ và cả sự thống hối ăn năn khi con người đã lỡ vấp phạm.

Trái tim và tấm lòng của người tội lỗi được ví như là bụi tro, sách Khôn Ngoan có nói rằng: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15, 10), không gì tệ hơn bùn đất, tro bụi, con người tội lỗi được ví như tro bụi. Cho nên người tội lỗi sẽ bị tiêu hủy thành bụi đất như Ngôn sứ Edêkien loan báo Sấm ngôn: “Vì ngươi chồng chất tội…. Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi; Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất…” (Ed 28, 18).

Tro bụi biểu hiện sự khiêm tốn bé nhỏ, Tổ Phụ Abraraham nhìn nhận mình trước Thiên Chúa: “con chỉ là thân tro bụi….” (St 18, 2).

Tro bụi được sử dụng để nói nên sự thống hối: Sau khi nghe tiên tri Giona loan báo sự trừng phạt của Thiên Chúa xuống thành Nivive do tội lỗi, Vua và toàn Dân xức tro để tỏ lòng thống hối vì lỗi lầm mà mình đã phạm, xin Thiên Chúa xót thương (x. Gn 3, 6). Dù là người vẹn toàn giữa thử thách, Gíop cũng biểu lộ lòng thống hối: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn (G 42, 6). Tro bụi với sự biểu hiện lòng hối tiếc khi phạm tội (x. Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30).

Tro bụi nói lên sự buồn phiền đau khổ: bị người đời khinh chê, Thamar đã xức tro trên đầu (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Mt 11, 21); theo sách Étte, người Do Thái xức tro khi lo sợ trước cái chết đe dọa (Et 6, 1-4).

Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “Bụi Tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Đức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590-604). Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây Phương vào thế kỷ 10, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội tại Công Đồng Benevento năm 1091. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết: trở về với tro bụi và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng dòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm.

Khi xức tro lên trán người tín hữu, Thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: "Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất" (St 3,19), hay Thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đổi mới theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15).

Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với Dấu Thánh Giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người Tín Hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được liệt vào con cái của Thiên Chúa (x. Rm. 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết và phục sinh với thập giá, con người sẽ tham dự vào vinh quanh với Ngài.

Cho nên việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong Sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Kitô khải hoàn, như Enzo Bianchi đã suy niệm về Tro bụi: “Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hay nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale: “một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh” (Donner sens au temps, Bayard (2004).

Cho nên, thật là ý nghĩa trong ngày thứ tư đầu mùa chay, khi lãnh nhận tro, chúng ta nhớ lại lời dạy của ĐTC Gioan Phaolo II: "Việc đặt tro rõ ràng và một cách nhấn mạnh đến thân phận thụ tạo, nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc vào Tạo Hóa. Hành động khiêm tốn lãnh nhận tro thánh trên trán… ngược lại hoàn toàn với cử chỉ kiêu ngạo của Adam và Eva, bởi sự bất tuân phục, đã phá hủy mọi quan hệ tình bạn hữu với Thiên Chúa tạo hóa" (Thứ tư Lễ Tro 1998).

Xức tro nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá…

Vâng, với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với Dấu Thập Giá - trở nên dấu vinh quang.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC489: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Chú giải của Noel Quession)

Đức Giêsu vừa chịu phép rửa.

 

Thực vậy, cần phải lưu ý mối liên hệ giữa cảnh cám dỗ và cảnh chịu phép rửa. Ba Tin Mừng nhất MC 1-ABC489


Thực vậy, cần phải lưu ý mối liên hệ giữa cảnh cám dỗ và cảnh chịu phép rửa. Ba Tin Mừng nhất lãm đều đã đặt hai cảnh trên gần kề nhau.

"Vừa lên khỏi nước. Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Mc 1,10)

Trong ngôn ngữ thông thường, từ "Cám dỗ" thường bị giảm nghĩa và mang vẻ ấu trĩ. Đối với trẻ nhỏ, "bị cám dỗ" nghĩa là "thèm làm một điều gì mà cha mẹ cấm đoán": như ăn mứt, ăn kẹo... lấy cắp tiền... Đối với người lớn, vì được huấn luyện trong khung giáo dục cấm ky, nên "bị cám dỗ" quen hiểu là "thèm làm những việc tình dục bị cấm đoán". Trong Tin Mừng cám dỗ mang vẻ quan trọng khác hẳn thế ! Cám dỗ cơ bản nhắm tới thái độ "tin " hay "không tin" nơi Thiên Chúa. Cơn cám dỗ đích thực liên hệ tới "Phép rửa": đó là một cám dỗ của "những con cái Thiên Chúa". Đức Giêsu sẽ yêu cầu ta chiến thắng cơn cám dỗ này, bằng cách cầu nguyện mỗi ngày: "Xin Chúa đừng để cho con lâm cơn thử thách... tin Chúa để chúng con đừng thua cơn cám dỗ…"

Người Do Thái, thính giả đầu tiên của Đức Giêsu... và những Kitô hữu tiên khởi, vào lúc mà Mác-cô viết trình thuật cám dỗ này... cũng như chúng ta hôm nay, đều phải thú nhận rằng, chúng ta đã vỡ mộng về Thiên Chúa l Đáng lẽ ra Người phải tỏ mình ra một ít nữa, phải tỏ ra Người là ai ! Cơn "cám dỗ" này căn bản, và thường xuyên: chúng ta có khuynh hướng coi thường ông Giêsu, Con Thiên Chúa này, mà tư cách Mê-si-a không được hiển nhiên, nhất là vào lúc Người chết trên thập giá. Thực sự, chính chúng ta, người "tín hữu" lại thử thách Thiên Chúa, bằng cách yêu cầu Người thể hiện khác với điều Người đã chọn để hiện diện: một Thiên Chúa kín ân... Cơn thử thách tiêu biểu trong Kinh thánh đó là yêu cầu Chúa làm phép lạ": xin Người ra khỏi nơi kín ẩn ! "Trong hoang địa, cha ông các người đã từng cám dỗ Ta và khiêu khích ta..Trong suốt bốn mươi năm, thế hệ này đã làm ta thất vọng (Tv 94,9). Biết bao lần, họ đã thách thức ta trong hoang địa... và một lần nữa, họ lại thử thách Thiên Chúa (Tv 77, 40-41). Đó cũng là cớn cám dỗ thường xuyên của những người đồng thời với Đức Giêsu: "Một nhóm Pha-ri-sêu kéo đến và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu. Để thử người, họ xin Người một dấu lạ từ trời" (Mc 8,11).

Vậy hãy tỏ ra ông là Con Thiên Chúa đi ! Chính ông vừa mới được công bố là Người con đó, nhờ các tầng trời mở ra và qua việc Thánh Thần đáp xuống mây? "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá xem coi !" (Mt 27,40). Cơn cám dỗ của các tín hữu, cơn cám dỗ của Giáo Hội, đó là làm cho Đức Giêsu xuống khỏi thập giá: biểu lộ một Thiên Chúa quyền năng hơn, một Thiên Chúa hiển nhiên, một Thiên Chúa thống trị, một Thiên Chúa không còn "kín ẩn" nữa, một Thiên Chúa không còn "nhập thể" và trở nên "yếu đuối" nữa (1 Cr 1,25), một Thiên Chúa hợp với suy luận, hợp với lý trí nhiều hơn. Thiên Chúa quen thuộc của mọi tôn giáo... chớ không phải một Thiên Chúa bị đóng đinh ! "Trong khi những người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 22-23).

Ngay sau khi dược tuyên bố là: "Con Thiên Chúa" lúc chịu phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa.

Động từ được dịch ở đây là "thúc đẩy" nhưng trong bản văn Hy Lạp còn có nghĩa mạnh hơn nhiều. Mác-cô đã viết: "Đức Giêsu đã bị Thánh Thần xua đuổi vào hoang địa". Ong cũng dùng từ này để chỉ Đức Giêsu "Xua đuổi quỷ".

Thật vậy trong Kinh thánh Thần khí Thiên Chúa thường xuất hiện như một thứ "sức mạnh", Cơn giông bão thổi tới , mãnh liệt như sấm sét không thể cản nổi". Cơn cám dỗ Đức Giêsu chịu đựng, hẳn là rất quan trọng, cần thiết trong cuộc đời của Người, nên chính Thần Khí Thiên Chúa mới dẫn Người vào trong hoang địa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng sợ cám dỗ: Vì cám dỗ là điều không thể tránh được, là cần thiết và hữu ích cho mọi người. Giao chiến thiêng liêng là một yếu tố cần thiết của đời sống tín hữu. Người của Xa-tan cũng là một thành phần của trần đời chúng ta. Xa-tan không ngừng khơi gợi cho ta biến Thiên Chúa thành cái gì khác với Người. Khác với những gì Người đã mạc khải về Người trong Đức Giêsu Kitô... biến Thiên Chúa thành một Đấng có thể giải quyết mọi vấn đề của ta với "quyền lực" của Người.

Nếu Đức Giêsu đã nhượng bộ cơn cám dỗ đó, nếu Người đã nghe theo lời yêu cầu của ta, nếu Người đã thuận theo lời đề nghị của Xa-tan, thì Người đã tỏ lộ cho ta một Thiên Chúa giả tạo.

Nhưng Thần Khí Thiên Chúa đích thực, thuộc Thiên Chúa duy nhất chân thật, đã thúc đẩy Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, thoát - khỏi những quảng cáo rầm rộ, xa hẳn đám đông, tránh những thành công ồn ào trước mắt... để bước vào hoang địa ! Thiên Chúa duy nhất đích thực, chính là Thiên Chúa "kín ẩn". Thánh Vịnh đã nói:

Chúa còn giấu ẩn đến bao giờ nữa?" (Tv 88,47).

Tôi chiêm ngưỡng Thiên Chúa "trong hoang địa"... Đức Giêsu cô độc...
Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày.
Thật là một thời gian dài!

Nếu chúng ta đã làm quen đôi phút với Kinh thánh, từ điều biết rằng người Phương Đông cổ rất thích những con số... Những con số không có nghĩa toán học như chúng ta ngày nay thường gán cho chúng: Chúng thường có giá trị "tượng trưng". Chẳng hạn, theo ước định, con số "40" chỉ "thời gian của một thế hệ con người": và như thế, con số này ám chỉ "một thời kỳ khá dài mà ta không rõ độ dài chính xác". Từ "Mùa chay" là một biến thể của từ "Bốn mươi ngày chay tịnh", nói gọn là "Bốn mươi". Một người Do Thái, hiểu biết Kinh thánh, mỗi khi nghe nói đến tiếng "Bốn mươi" đều nghĩ ngay đến cuộc xuất hành, đến cuộc giải phóng, đến thời gian hành trình trong hoang địa kéo dài "Bốn mươi năm". Môsê đã ở lại miền núi "Bốn mươi ngày" (Xh 34,28). Ngôn sứ Ê-li-a đã bước đi trong hoang địa "Bốn mươi ngày" (I V 19,8).

Trong Mùa chay này, chúng ta có đủ khả năng "hành trình" 40 ngày không?

Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.

Máccô không nói đến "chay tịnh" như Mát-thêu và Luca đã bàn. Ong cũng không nói cơn cám dỗ đã xảy ra vào gian đoạn cuối của khoảng thời gian bốn mươi ngày...mà trong suốt thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa...Người chịu.Xa-tan cám dỗ trong bốn mươi ngày". Người còn chịu trong suốt cuộc đời trần gian... đặc biệt trong lúc người bắt đầu thi hành sứ vụ của "Con Thiên Chúa".

Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu đã ở "một mình" trong hoang địa. Không có một người nào khác đã chứng kiến những cơn cám dỗ của Người, cơn cám dỗ khiến Người "Làm Người Con" theo quan niệm trần gian, theo quan điểm của Xa-tan. Vì thế, chắc một ngày nào đó, chính Đức Giêsu đã tâm sự kể lại biến cố đó cho các bạn hữu Người. Nhiều giáo phụ của Giáo Hội nghĩ rằng, đó là dịp "Phêrô tuyên tín ở Xê-da-rê", chính lúc Phêrô nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và lúc Đức Giêsu loan báo thập giá, Con Người sẽ bị đóng đinh... cũng chính lúc đó Đức Giêsu đã găp cơn cám dỗ do Phêrô bịa ra và Người buộc phải lập lại với ông: "Đồ quỉ sứ Xa-tan? xéo đi, lui ra đàng sau (Mc 8,27-33).

Chúng ta có lý để nghĩ ra rằng, trong trường hợp đó Đức Giêsu đã "thú nhận" với các tông đồ, Người thường bị cám dỗ "thể hiện những dấu hiệu của Đấng Cứu độ cách lạ thường" , không còn giữ vai trò của Thiên Chúa nhập thể trong sự yếu đuối của xác thịt"... tự rơi vào bẫy mà Xa-tan không ngừng giăng bủa (và ngay cả môn đệ của Người cũng như Giáo Hội vẫn còn thử thách Người như vậy !) Xui khiến Người "thể 'hiện uy quyền", biểu lộ thiên tính của Người. Thỏa mãn những mong muốn chính trị của dân chúng.

Người sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

Kiểu nói trên là cách nói của Kinh thánh, vẫn có vẻ khó hiểu, con phải tìm hiểu ý nghĩa. Khác với Mát-thêu và Luca, Máccô không nói rõ ra rằng, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ của Người. Nhưng ông nói về tình trạng đó qua hai kiểu nói trên: "loài dã thú" và "các thiên sứ ". Đó là một kiểu nói tượng trưng cổ truyền: như Ađam xưa kia ở trong vườn địa đàng, sống cùng với dã thú (St 2,19) niềm hy vọng cứu độ cũng mong chờ cảnh "thanh bình địa đàng" đó trở lại: "Bấy giờ sói ở với chiên, beo nằm bên cạnh dê con... Bé con còn bú giỡn bên hang hổ, trẻ con hôi sữa thọc tay vào hang mãng xà" (Is 11, l-9). Vâng, trong khi con người đầu tiên là Ađam đã sa ngã trước cơn cám dỗ "làm Thiên Chúa", "trở nên như Thiên Chúa"... thì chính Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ đó: nhờ vậy, cuộc hòa giải vĩ đại đuợc thực hiện, và khởi sự nếp chung sống hòa bình giữa con người với tạo vật. Khi con người từ chối "thống trị", từ chối hình ảnh của một "Thiên Chúa nào đó", khi con người chấp nhận "sự bất lực" của mình, khi con người đống bằng "đức tin"... thì chỉ lúc đó con người mới tìm lại được quang cảnh địa đàng, mới làm người theo ý Thiên Chúa ! Chỉ lúc đó con người mới lại sống hiệp thống an bình với anh em mình, với vũ trụ với "dã thú" và "Thiên sứ ", với "đất" với "trời"... Chỉ lúc đó con người mới thực sự là "con" Thiên Chúa, theo như lòng Người mong ước, Đấng 'không thống trị, không áp đặt ai, vì Người là tình yêu cho đến độ từ bỏ mình, chết trên thập giá vì chúng ta.

Sau khi ông Gioan bị bắt giam, Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi"

Đó là khởi sự một công cuộc sáng tạo mới, một lịch sử mới của loài người. Xa-tan đã bị đánh bại. Đức Giêsu đã chiến thắng nó. Không phải Xa-tan là 'Thiên Chúa. Không phải kẻ "thống trị" là Thiên Chúa ! Không phải kẻ thù nghịch" là Thiên Chúa? Vì Thiên Chúa đích thực chính là Tình Yêu... Và đó là trước Thiên Chúa duy nhất đích thực. Đó là Tin Mừng.

Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng.

Cuộc giao chiến "đức tin" không bao giờ chấm dứt.

Xa-tan vẫn tiếp tục đề nghị với ta chấp nhận ý kiến của nó về Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi ta không nên thuận theo ý đó: cần phải luôn khước từ một hình ảnh giả tạo nào đó về Thiên Chúa, để nhờ đức tin, ta mở lòng hướng về Thiên Chúa đích thực. "Lạy Chúa, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".

-----------------------------------

 

MC 1-ABC490: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Chú giải của Giáo phận Nha Trang)

"Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ và các thiên thần hầu hạ Người"

I. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng hôm nay có hai ý tưởng chính: - Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín MC 1-ABC490


Bài Tin Mừng hôm nay có hai ý tưởng chính:

- Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó.

- Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.

II. SUY NIỆM:

1/ "Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa":

+ Thánh Thần thúc đẩy: Sự kiện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã nhận Thánh Thần dưới hình chim bồ câu. Thánh Thần chỉ sức mạnh, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và chịu sự cám dỗ: Điều này nói lên việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với ma quỉ bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

+ Hoang địa: Theo nghĩa Thánh Kinh thường dùng là nơi sống thần linh với Thiên Chúa, đồng thời cũng là nơi thử thách để thấy rõ lòng người có trung tín hay không (Ga 18, 2 - 3). Ở đây Mc muốn nói lên ý nghĩa thứ hai này hơn là nghĩa thứ nhất: Cuộc thử thách Chúa Giêsu chịu là cuộc thử thách về lòng trung tín đối với Cha Người trong thân phận tôi tớ nhân loại mà Người đã đảm nhận.

+ Và Người ở đó suốt 40 đêm ngày: Người Do thái có thói quen ăn chay ban ngày, rồi ăn uống về đêm. Ở đây nói 40 đêm ngày để chỉ ý tưởng ăn chay liên tục cả đêm lẫn ngày.

+ Chịu Satan cám dỗ: Satan là tên Kinh Thánh gắn cho các lực lượng thù nghịch với Thiên Chúa mà mỗi người đều gặp phải trong thế gian. Nhận lấy thân phận con người, Chúa Giêsu cũng gặp phải sự cám dỗ của Satan. Nhưng cần phân biệt ba giai đoạn của một cơn cám dỗ:

+ Gợi lên một hình ảnh.
+ Làm cho thích thú hoặc hướng chiều về sự ác.
+ Sau cùng là ưng thuận.

Satan chỉ có thể làm được nơi Chúa Giêsu giai đoạn thứ nhất: gợi một hình ảnh hoặc một vật ở giác quan hoặc ở trí tưởng tượng. Ở đây Mc không ghi lại sự diễn tiến cơn cám dỗ của Chúa như Mt và Lc (Mt 4, 1 - 11 ; Lc 4, 1 - 13).

+ Sống chung với dã thú: Nói lên tình trạng an ninh, thái bình trong một thế giới mới trong tương lai do Chúa Giêsu thiết lập, trong đó con người được giao hoà lại với toàn thể tạo vật. Thế giới này đã được các tiên tri loan báo (Is 11, 6 - 7 ; 65, 25...)

+ Và các Thiên thần hầu hạ Người: Việc các Thiên thần hầu hạ Chúa Giêsu muốn nói lên rằng trong thế giới mới mà Chúa Giêsu đến để thiết lập cho nhân loại do sứ mệnh Thiên Sai của Người, con người được giao hoà lại với tạo vật (sống chung với dã thú) và giao hoà lại với Thiên Chúa (có các thiên thần hầu cận). Đó là Nước thiên đàng.

2/ "Sau khi Gioan bị bắt":

Việc Gioan bị bắt nói lên sứ mạng Tiền sứ của ông được chấm dứt chuyển sang thời Chúa Giêsu, thời thực hiện ơn cứu chuộc, thời Thiên sai, thời thực hiện những gì Gioan đã dọn đường.

3/ "Chúa Giêsu sang xứ Galilê rao giảng Tin Mừng":

Sau khi sứ mạng của Gioan chấm dứt, Chúa Giêsu khởi sự sứ mạng Thiên sai của Người bằng việc rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa.

Nội dung của Chúa Giêsu rao giảng:

+ Thời giờ đã mãn: Thời giờ Thiên Chúa dự liệu từ đời đời để Nước Người trị đến thì nay đã đến. Hay nói cách khác, thời gian chuẩn bị cho việc Chúa Cứu Thế đến cứu rỗi nhân loại nay đã hết. Gioan Tiền hô là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu ước.

+ Nước Thiên Chúa đã đến gần: Kiểu nói "đã đến gần" ở đây diễn tả một hành động đã xẩy ra nhưng hiệu quả chưa hoàn tất. Nước Thiên Chúa được hiểu là Thiên đàng (Nước ở trên trời) và Giáo Hội ở trần gian được Chúa Giêsu thiết lập ở dưới đất để làm nơi Thiên Chúa ngự trị. Nước này đã gần đến vì Chúa Giêsu sắp bắt đầu rao giảng để dọn lòng con người thực hiện những điều kiện để vào Nước đó.

+ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng:

Sám hối: Là hối tiếc lỗi lầm để làm biến đổi cuộc sống, ghét bỏ con người cũ đầy tội lỗi của mình để biến đổi thành con người mới, con người thuộc về Tin Mừng của Thiên Chúa. " hãy sám hối " mang ý nghĩa mời gọi và chất vấn, đòi hỏi người nghe phải có thái độ lựa chọn để quyết định cho số phận của mình.

+ Tin vào Tin Mừng: Tin Mừng có nghĩa là tin vui từ trời đem xuống làm cho con người biết được thánh ý của Thiên Chúa, tin đó chính là đức Giêsu Kitô. Tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, đã đến thế gian để cứu chuộc nhân loại.

Chú ý: Chúa Giêsu khởi sự rao giảng giống như Gioan Tiền hô: Thời giờ đã đến, hãy thống hối (Mc 1, 4). Nhưng Chúa Giêsu đã đi xa hơn, Người đòi hỏi phải tin vào Tin Mừng, tức là tin vào Người.

III. ÁP DỤNG ;

A) Áp dụng theo Tin Mừng:

Khởi đầu mùa chay, Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để nhắc nhủ chúng ta rằng: Muốn tham dự vào Nước Trời, cần phải ăn năn thống hối và phải tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và quyết tâm thực hành những điều Người dạy.

Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy: Chúa Giêsu sống và chiến đấu do sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng ta muốn sống trung thành với Chúa và chiến đấu với những cám dỗ hằng ngày do ma quỉ gây ra, chúng ta cần khiêm nhường cầu xin và sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta qua tiếng lương tâm chân chính, qua những trung gian là Giáo Hội, là bề trên, là những gương sáng...

Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng cám dỗ. Nhờ đó Chúa đã làm gương và dạy ta những bài học chiến đấu cách can đảm với những cơn cám dỗ do những lôi cuốn của trần gian làm cho ta xa Chúa và xa lý tưởng hiến dâng cuộc đời...

B) Áp dụng thực hành:

Nhìn vào Chúa Giêsu để noi gương bắt trước:

1/ Chúa Giêsu đã mang tất cả những điều kiện hiện sinh của con người. Chịu cám dỗ nhưng Người vẫn sống trong tình trạng an ninh thái bình " sống chung với dã thú và được các thiên thần hầu hạ ". Nếu chúng ta bám chặt vào Chúa và mang trong cuộc sống tất cả tinh thần của Chúa Giêsu thì dù có trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, thì chúng ta cũng luôn chiến thắng và bình an trong tâm hồn.

2/ Chúa Giêsu vào hoang địa: là nơi tiếp xúc và sống thân tình với Thiên Chúa Cha. Điều này cho chúng ta thấy rằng: Những yếu tố như tĩnh tâm, thinh lặng cầu nguyện, khổ chế... đều là những điều kiện giúp chúng ta dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa. Dễ dàng nghĩ thấy và nhận ra đường lối Chúa muốn ta đi. Mùa Chay là bầu khí thuận tiện để ta làm việc đó.

3/ Chúa Giêsu chịu cảnh cám dỗ để dạy chúng ta rằng cám dỗ là thử thách để tôi luyện lòng trung tín của ta đối với Chúa. Cám dỗ có lợi cho ta vì:

+ Lập công phúc khi chiến thắng cám dỗ.

+ Sống khiêm nhường và nhận ra sự bất lực của mình để trông cậy vào Chúa.

+ Thúc đẩy cầu nguyện: Vì trong khi bị cám dỗ, Chúa ban nhiều ơn hơn để giúp chúng ta biết cầu nguyện.

+ Sau cám dỗ có an ủi vì "Gieo trong đau thương, gặt trong vui mừng" (Is 125, 5).

-----------------------------------

 

MC 1-ABC491: Chúa Nhật I Mùa Chay


(Chú giải của Học viện Piô Giáo hoàng)

CHIẾN THẮNG Ở SA MẠC – CHIẾN ĐẤU TẠI GALILÊ

Tin mừng Mc 1: 12-15:  Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.

CÂU HỎI GỢI Ý

 

Trình thuật kép này (Chúa Giêsu chịu cám dỗ- Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng) là kết MC 1-ABC491


1. Trình thuật kép này (Chúa Giêsu chịu cám dỗ- Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng) là kết luận của Bài tựa Tin Mừng Mc. Phải hiểu điều ấy ra sao?

2. Đâu là văn thể của trình thuật? Thần thoại? Khải huyền? Lịch sử? Thần học –lịch sử?

3. Các yếu tố chính của trình thuật được xếp đặt quanh yếu tố chủ chốt nào?
4. Trong ngôn ngữ biểu tượng của Mc, "dã thú" và "thiên thần" có ý nghĩa gì?
5. Dựa vào đâu để biết trình thuật có nền tảng lịch sử?
6. Trình thuật có thể đưa ra sứ điệp nào cho con người thời nay?

(Xin lưu ý: các tiểu đề trong bài này là của dịch giả)

Với vẻ vắn gọn của trình thuật, Mc đã nhắm trình bày Chúa Giêsu như là một con người đã từng đương đầu với hoàn cảnh bi đát chung của nhân loại hay không? Để biết được ý hướng Mc về điểm này, cần tìm hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ biểu tượng ông dùng khi nói đến thiên thần và dã thú, cùng khảo sát xem tại sao Chúa Giêsu, vừa được loan báo báo , bởi Gioan Tẩy giả và được xác nhận trong phép rửa như Đấng Messia, lại phải chịu thử thách như thế.

Ít nhất, có một điểm khá rõ rệt là thánh sử không nhắm mục đích thỏa mãn mọi hiếu kỳ của độc giả ông, vì ông không tường thuật ngay cả cuộc cám dỗ. Điều này đã khiến các nhàchú giải đặt ra câu hỏi như sau: phải chăng Mc đã loại bỏ phần này của trình thuật, vốn có trong Mt và Lc, hay Mt và Lc đã tán rộng yếu tố căn bản mà họ có chung với thánh sử thứ hai? Đặt vấn đề như vậy, ý hướng Mc, theo các nhà chú giải ấy sẽ lộ ra dễ dàng; nhưng điều quan trọng vẫn là ông đã đưa ra bản văn như hiện thấy và chính vào cái hình thức dứt khoát này mà ta phải chú ý hơn cả.

Giai thoại cám dỗ, trong sách bài đọc hiện tại, được một câu nói về việc rao giảng của Chúa Giêsu đi kèm theo. Sự chắp nối này có thể làm vài người ngạc nhiên, vì giọng văn có vẻ thay đổi. Xin độc giả hãy xem đó như một lời mời gọi đừng lướt nhanh qua các câu vốn có một tầm mức và ý nghĩa rất hiện thực này.

I. VĂN MẠCH CỦA TRÌNH THUẬT

Nếu rảo qua văn mạch trực tiếp của hai trình thuật "cám dỗ" và "Chúa Giêsu rao giảng" hôm nay, ta sẽ thấy chúng là kết luận của Bài tựa Mc gán cho Tin mừng của ông, và chính đấy là điểm làm cho ý nghĩa của chúng được sáng tỏ.

Cuộc cám dỗ là thành phần của bài nhập đề cho "Tin mừng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1). Nó rõ ràng gắn liền với phép rửa nhờ chi tiết "Thần khí", Đấng can thiệp trong cả hai trường hợp. Thành thử phải hiểu nó trong tương quan với việc ban Thần khí biểu lộ nơi kẻ mà Gioan Tẩy giả đã loan báo như là "Đấng quyền thế hơn". Sở dĩ Chúa Giêsu được mặc khải trong phép rứa như là kẻ Thần khí chiếm lấy, chính là để tỏ ra "mạnh mẽ" trước Satan. Thành thử mục đích của trình thuật là phải cho thấy Người chiến thắng, để Tin mừng không chỉ được loan báo nhưng còn tỏ ra là đang được thể hiện. Đấy là điều được xác nhận trong giai thoại tiếp theo giai thoại cho thấy sức mạnh của Chúa Giêsu bộc phát thành hành động trong việc xua trừ ma quỷ (1,23). Tin mừng là sự tỏ mình cụ thể của Đấng thánh Thiên Chúa, Đấng chiến thắng sự dữ, Satan.

Còn bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Chúa Giêsu thì xuất hiện như một suy tư rút ra từ những kết luận từ những điều được đề cập trong hai giai thoại trước là phép rửa và Cám dỗ: nếu Nước Thiên Chúa (Triều đại Thiên Chúa) đã bắt đầu hoạt động trong giai đoạn mời và dứt khoát của nó, và Nước ấy là mạnh nhất, thì phải công nhận và tin vào Tin Mừng. Các câu này hai lần nhấn mạnh đến Tin mừng vì kêu mời hối cải; chúng lặp lại, dưới hình thức đóng khung, điều đã được nói ở nơi các câu 1 và 4. Thành thử rõ ràng chúng nằm đúng trong văn mạch, không thể chối cãi, và ta nên lấy làm hối tiếc là, trong một vài bản dịch, chúng xem ra quá bị tách rời với những gì đi , về phép rửa cũng như về cơn cám dỗ Chúa Giêsu chịu, các độc giả Tin Mừng đã biết Chúa Giêsu là ai, quyền lực Người thế nào và một thời đại mới đã bắt đầu với Người ra sao, thì ta hiểu được Tin mừng đó sẽ gây nên những gì cho con người, khi nó bắt đầu được loan báo cho họ. Mỗi một chi tiết của bản văn đều đáng giải thích để làm nổi bật tất cả ý nghĩa của giai đoạn này.

Trước hết là những chi tiết thời gian và không gian mở đầu cho lời kêu gọi Chúa Giêsu tung ra. Để hiểu tất cả tầm quan trọng của các chi tiết này, phải tìm xem đâu là ý nghĩa thần học chúng có thể chứa đựng. Lời Chúa Giêsu kêu gọi sắp đánh dấu khởi điểm cho một thời đại mới. Thời gian đi trước là Cưu ước mà tâm điểm là Gioan Tẩy giả, với những yếu tố phải nói là riêng biệt của ông. Thật vậy, Gioan không còn ngỏ lời, như các ngôn sứ tiền bối, cho một dân tộc, nhưng cho những cá nhân là thêm vào lời mình một phép rửa; sau cùng, ông loan báo một người mà trên đó Thần khí sẽ đậu lên. Suốt một thời gian ngắn, Chúa Giêsu đã đồng hành với ông, nhưng phép rửa Người chịu đã dẫn một trật tự cũ đến chỗ hoàn hảo của nó, thành thử đã đến lúc mặc khải thời đại mới đang bắt đầu: thời đại của "Triều đại, cánh chung trong con người Chúa Giêsu. Từ ngữ "Triều đại này xem ra đáng chuộng hơn từ ngữ "Vương quốc" (nước) là tiếng đúng ra chỉ thực tại phát xuất từ triều đại đó. Bảo rằng Chúa Giêsu đến trong một vùng khác và rằng việc này trùng hợp với việc tống giam Gioan Tẩy giả, ấy là gợi lên những tương đồng dị biệt giữa lối sống và lời rao giảng của hai con người tương ứng với hai thời đại. Cả hai đều loan báo một biến cố đảo lộn sắp xảy ra; cả hai cùng rao giảng sự hối cải. Nhưng, ngoài việc đã làm những điều trên với một sắc thái riêng, Chúa Giêsu còn mang đến nhiều yếu tố mới. Gioan đã nói ở thì tương lai: "người sẽ thanh tẩy các ngươi" (c.8), Chúa Giêsu nói ở thì hiện tại: "Nước Thiên Chúa đã gần đến" (c 15); hơn nữa, Người yêu cầu hãy "Tin vào Tin mừng". Thành ra không còn vấn đề chuẩn bị cho một biến cố, nhưng là tiếp đón nó vì nó đã ở đấy rồi.

Còn về vùng đất mới nơi xảy ra cuộc tấn công đầu tiên nhằm giải phóng con ngươi khỏi đau khổ, sự ác và cái chết, làm sao lại không thấy có ý nghĩa đối với Kitô hữu? Theo truyền thống mà Mc tùy thuộc, chẳng phải là ở tại Galilê mà Chúa Giêsu đã hẹn tái ngộ với các môn đồ để cho thấy mình vẫn sống sau Phục sinh sao (16,7)? Đối với thánh sử, vùng đất này có một ý nghĩa thần học. Ông coi nó là nơi mà cuộc sống Chúa Giêsu đạt tới một cao điểm. Đó là nơi đã bắt đầu việc rao giảng Nước Trời" (cc. 14-15), nơi mà các môn đồ đầu tiên được kêu gọi (1,17), nơi dân chúng từ khắp chốn tuôn đến (3,7-8), nơi mà sự thống nhất đất nước sẽ được tái lập (7,31). Rồi nó tạm thời xuống giá vì cái chết Gtêrusalem. Nhưng sau đó một thời đại mới sẽ bắt đầu trên dân Galilê, nghĩa là trên mọi nơi mà Tin mừng Thiên Chúa sẽ vang dội. Thành ra thánh sử, đầy niềm xác tín như vậy khi đọc lại lịch sử quá khứ, muốn làm nổi bật điều này là Tin Mừng đó, trong thực tế, dã bắt đầu vang dội từ thời gian sống tại thế của Chúa Giêsu khi, lần đầu tiên, Người khởi sự tại Galilê sứ vụ của Người. Vì vậy ông thêm câu "rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa" (c.14) và đặt trong những chữ này tất cả nội dung toàn vẹn của đức tin Kitô giáo.

Nhưng Tin Mừng này đã bắt đầu như thế nào? Thời buổi đã mãn và Nước thiên Chúa đã kề bên", bản văn nói. Các từ ngữ này chất chứa nhiều ý niệm chính xác và nhiều mầu nhiệm. Nhiều ý niệm chính xác vì nước Thiên Chúa" là một yếu tố cốt yếu của Cựu ước nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa trong việc hiện diện giữa lịch sử con người là ta thu hút tất cả niềm hy vọng của lịch sử đó. Ban đầu, nỗi mong chờ được quy hướng về việc xuất hiện của một người con Đavít, từ thời lưu đày là của một tôi tớ chưa mang ơn cứu rối và niềm vui Is 61, 11 và, sau cùng trong giai đoạn gần nhất là của một "Con người", hữu thể thiên giới, sự nhân cách hóa của thế giới con người được thông ban chính các ân huệ thần linh, và là Đấng sẽ xét xử mọi vương quốc trần thế (Đn 7,13-l4) khi thời buổi đã mãn. Niềm hy vọng này càng trở thành mãnh liệt hơn khi dân phải đương đầu với những nghịch cảnh và khốn khó đủ loại. Nhưng nó đã mang hình thức sự mong chờ một biến cố khả giác, có tính cách đảo lộn bên ngoài.

Chính Gioan, theo lời Mt và Lc, cũng tỏ ra chia sẻ quan niệm này (Mt 3, 12 ss). Thế mà đó chính là chỗ nổi bật khía cạnh mầu nhiệm của nước Chúa Giêsu nói. Người không trình bày nó như trên; Người bảo nó "đã tới rồi" và tuy thế "vẫn còn sẽ đến". Thật vậy, đấy chính là ý nghĩa của thành ngữ "đã gần bên" (hay đang đến gần"), một động từ hy lạp ở thì parfait, nghĩa là ở một thì diễn tả một hành động đã xảy ra song hiệu quả còn tồn tại. Thành thử đây là một thực tại mọi, tự phô bày một cách chẳng ai ngờ. Không hẳn là vô hình hay nội tâm, đặc điểm của thực tại này là đang xuất hiện. Nó xem ra nhắm chính Chúa Giêsu nhắm bản thân của Người, vốn đang khởi sự mặc khải một điều gì đó về thần tính ở trong Người, về tình yêu vô biên đang xuất hiện dưới hình thức dấu chỉ qua các hành vi và lời Người nói. Thành ra Nước Trời đã có đó với Người. Nhưng để sinh công hiệu, nó cần phải được tiếp đón.

Mầu nhiệm Nước Trời nằm trong thái độ của con người đứng trước việc nó xuất hiện. Nó là hồng ân ban nhưng không cho con người dầu-con người chẳng đáng. Nhưng nó chỉ trở nên hữu hiệu nếu đtíợc tiếp đón và, do đó, tất cả đều tuỳ thuộc con người. Nó được trao ban chứ không được áp đặt. Muốn tiếp nhận nó thì phải cưỡng bức chính mình (như Mt 11,12 có nói), phải chấp nhận chiến đấu vì chính mình, phải cởi mở ra với một thực tại vượt quá tất cả những gì mà con người có thể đạt tới tự sức riêng.

Chính so với thực tại này mà tất cả mọi thành ngữ khác như "thời buổi đã mãn", "hãy hối cải" mới có được ý nghĩa.

"Thời buổi đã mãn là thành ngữ lấy lại một trong những tiếng mà các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã áp dụng (x Gl 4,4; Ep 1,10) vào việc Chúa Giêsu thực hiện ơn cứu độ trong cuộc khổ nạn vinh hiển của Người. Khi đưa từ ngữ này về lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu, thánh sử muốn nói lên, như khi dùng chữ "Tin mừng của Thiên Chúa", cái suy tư của Kitô hữu về tính cách thời sự của các sự kiện và cử chỉ Chúa Giêsu. Ông lấy lại, để khai triển, ý nghĩa của thời sau cùng" là Cựu ước đã chờ mong, hay nói cách khác của "việc Thiên Chúa giá lâm" để chia sẻ cách dư tràn các điều thiện hảo của Ngài cho nhân loại. Như vậy lịch sử có hai chiều kích ; một thuộc thời gian thực tế mà con người có thể ghi dấu bằng dụng cụ hay bằng tâm lý, và một thuộc thời gian thần học, thời gian được sống khi đón nhận Nước Trời, nghĩa là khi mặc cho hoạt động nhỏ bé nhất của nó một giá trị vĩnh cửu. Thời gian này không thuộc về niên biểu: bất cứ lúc nào nó cũng gần gũi con người. Để đi vào đó, chỉ cần đón nhận Nước Trời. Nhưng đi vào đó là đi vào trong một biến chuyển, bởi vì Nước Trời là một thực tại không ngừng đến là chẳng phải được đón nhận một lần là xong nhưng cứ luôn mãi. Nó là một thực tại đang triển nở, một lịch sử phải hoàn thành cách tự do chứ không là một cái gì đóng kín, chỉ nhận một lần là xong xuôi. Chúa Giêsu không ngừng đến. Cái xuất hiện bên ngoài, chính là các dấu chỉ, các lời kêu gọi của thế giới thời mới mà Người mang tới, những đau khổ, tội ác và sự chết vẫn không biến mất đi. Thành thử thời đại "cuối cùng" đã đến nhưng nó chỉ mới bắt đầu và những kẻ đi vào đó bằng đức tin thì vẫn luôn hướng về sự hoàn thành dứt khoát của nó. Tin, chính là tung mình vào cuộc mạo hiểm đó vậy.

Đứng trước thực tại này, ta có thể hiểu ý nghĩa lời rao giảng hãy hối cải. Động từ Hy lạp dịch ra như thế chẳng có nghĩa là "hối tiếc lỗi lầm" những tiên vàn là "thay đổi tất cả não trạng". Đây là lời mời gọi chọn một thái độ trước cái tin chưa từng nghe: trong Chúa Giêsu tỏ hiện một quyền năng siêu phàm, quyền năng của chính Thiên Chúa, một quyền năng phục vụ con người bất cứ mọi lúc. Nói cách khác, một địa hạt được mở ra cho con người, để họ đi vào một sự sống cao hơn. Họ phải làm gì trước cái đang trình bày cho họ như một biến cố hiện thực ấy? Họ hãy hối cải! Thật vậy, "hãy hối cải chính là lời của những người đầu tiên rao giảng tin vui "Chúa Giêsu phục sinh" (x.Cv 2,38; 3,19...). Sở dĩ họ kêu gọi hối cải, chính là vì họ loan báo trước tiên một biến cố có tính cách chất vấn, mời gọi.

"Hãy tin vào Tin mừng''. Đây là tất cả chương trình được thảo theo cách nói Kitô giáo, của những chiến dịch Chúa Giêsu tung ra tại Galilê. Người kêu gọi hãy tin vào cái tin này là: Thiên Chúa ở đây, bây giờ, với Người, để đưa nhân loại vào một thực tại có sức đánh đổ đau khổ. Sự ác và cái chết mà họ không ngừng vấp phải. Con người được kêu mời tin tưởng hơn hết vào sự sống, là quyền năng đang hoạt động trong thế gian nhưng không bị giam hãm trong thế gian, mà còn vượt lên trên nó và đang hiện diện trong biến cố Giêsu. Tóm lại, đây là một lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu. Đang liên kết và hiệp thông với một vị cao cả hơn loài người mà Người gọi là Thiên Chúa.

IV. NỀN TẢNG LỊCH SỬ CỦA TRÌNH THUẬT

Như ta đã thấy, trình thuật Cám dỗ, được Mc thu gọn thật đơn giản, và bản toát yếu dẫn vào giai đoạn tiếp theo đều phản ảnh một suy tư của cộng đoàn Kitô giáo. Phải chăng vì thế mà chúng thiếu nền tảng lịch sử?

1. Nếu cuộc cám dỗ Chúa Giêsu chịu xảy ra lúc người ở "trong sa mạc", thì không ai khác chứng kiến được ngoài người. Thành thử để sự kiện được biết, Người đã cần phải nói cho hay. Trong trường hợp này, các thánh sử có thói quen chỉ rõ bằng cách đặt giáo huấn trên miệng Chúa Giêsu. Vậy mà ở đây chẳng có gì như thế. Trình thuật ở ngôi thứ ba, thành thử người ta bắt buộc phải tìm trong Tin mừng xem chỗ nào xuất hiện một lời tâm sự của Chúa Giêsu liên quan đến chướng ngại mà sứ mệnh Người phải chịu do sa tan. Và tự nhiên, quang cảnh Xêdarê hiện ra trong trí (8,27-34). Chắc chắn chính nhân cơ hội điều chỉnh những quan niệm quá ư nhân loại của các sứ đồ về sứ mệnh Messia của Người, mà Chúa Kitô đã mặc khải được tính cách chiếu đấu của sứ mệnh đó hầu may ra giáo huấn Người ít nhất được giữ lại. Và vẫn biết sau đó, trong ánh sáng dứt khoát của Phục sinh, giai thoại cám dỗ đã mặc ý nghĩa một cuộc chiến đấu điển hình mở đầu cho mọi cuộc chiến đấu khác Chúa Giêsu đã phải trải qua cho đến lúc lìa đời. Nhưng chỗ đứng của nó ở nơi này có lẽ đã chẳng được truyền thống bịa đặt. Chắc chắn nó bắt nguồn từ một sự kiện Chúa Giêsu đã sống. Ngoài ra kể cũng lạ nếu cộng đoàn sơ khai, vốn xác tín vào quyền năng của Chúa mình, lại sáng tác một câu chuyện cho thấy Người phải khổ sở với thân phận chung của nhân loại.

Có nhiều lý do bắt ta phải nhận là sự kiện đã có. Vì Chúa Kitô đến thiết lập trong bản thân Người một Israel mới, nên ta hiểu được là theo gương của Israel cũ sau khi vượt qua biển đỏ. Người cũng nếm biết thử thách của sa mạc và cơn cám dỗ sau khi chịu rửa xong. Sự kiện có tính cách biểu tượng thật, nhưng chỉ bộc lộ tất cả ý nghĩa nếu nó đã thực sự xảy ra.

Nó nằm trong đường hướng của một ý thức hy sinh của Chúa Giêsu về sứ mệnh mình. Thường thường nơi mỗi còn người sắp bước vào một cuộc đời chiến đấu, thì trước lúc đó, bao giờ họ cũng cảm thấy phải thử sức mình đã. Tại sao Chúa Giêsu lại không tuân theo định luật nhân loại này? Ngược lại, ta có thể nghĩ rằng Người đã ám chỉ điều đó trong dụ ngôn của Người về kẻ mạnh (3,27).

Sau hết, nếu nhìn lại bối cảnh lịch sử của việc Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa và ý thức một cách dứt khoát sứ mệnh Người sẽ như thế nào, thì ta sẽ có thể hiểu được cám dỗ của Chúa Giêsu. Thật vậy, dầu đã tiêm nhiễm những trào lưu nào chăng nữa não trạng bình dân vào quan niệm Đấng Messia như là kẻ đến biểu dương một quyền lực trực tiếp có tính cách chính trị và xã hội. Thành thử Chúa Giêsu thấy mình bị bắt buộc phải từ khước nhtĩng ngụy tạo về sứ mệnh mà chung quanh sẽ không ngừng khiêu khích Người.

Trên bình diện lịch sử tính, chẳng có gì lạ lùng nếu ta đi xa hơn nữa và đặt câu hỏi xem trong cụ thể, cuộc cám dỗ Chúa Giêsu trải qua đã xảy ra như thế nào. Kitô hữu mọi thời đã không lầm lẫn khi đặt vấn đề như vậy. Câu trả lời của Tin mừng không nằm trên bình diện tâm lý, nhưng trên bình diện xác quyết thần học: Chúa Giêsu tỏ mình như tôi tớ, nghĩa là như kẻ liên đới với nhân tính mà Người đã nhận, kể cả việc có thể ở trong tình trạng thử thách chung của mọi người. Bối cảnh của những lời người tâm sự và việc chống trả Satan cho thấy rằng cuộc thử thách, luôn luôn có trong người và như vậy ngay từ đầu sứ mệnh người, là sự chống đối mà Tin mừng Người mang trong bản thân, đã gặp Phải. Thành thử cám dỗ hẳn là cám dỗ dùng các phương tiện để tránh thất bại ấy, hay đơn giản hẳn, để từ chối sứ mệnh ấy; tựu trung là tách khỏi Đấng Người vẫn gọi là Thiên Chúa Cha. Thế mà Tin mừng bảo: dù đã ở trong những điều kiện cám dỗ như vậy, Chúa Giêsu vẫn không siêu lòng, khiến cho thử thách của Người chẳng những trở thành một gương mẫu cho nhân loại, mà còn là một biến cố mà hiệu lực tính là có thực và bao gồm các cơn cám dỗ của hết thảy mọi người.

2. Còn bản toát lược về thời đầu sứ vụ Chúa Giêsu tại Galilê, thì mặc dầu phản ảnh những cách nói ("hãy tin nào Tin mừng"...) của Kitô giáo và rõ ràng có lối trình bày theo hình thức lược đồ, vẫn không kém cho thấy nền tảng lịch sử trên đó nó đã dựa vào.

Vẫn biết chi tiết Gioan Tẩy giả "bị nộp" (nghĩa là bị tù) và chi tiết về Galilê được Mc nêu lên với một ý nghĩa biểu tượng. Nhưng chúng vẫn đưa ta tới những sự kiện rất chắc chắn, có tính làm sáng tỏ nhờ so sánh với các Tin mừng khác.

Thật vậy, giữa lúc Chúa Giêsu chịu rửa và chịu cám dỗ với lúc Gioan Tẩy giả bị tống ngục có một thời gian. Chính Tin mừng thứ 4 cung cấp nhiều tin tức về thời kỳ này (Ga 4,1-2): Chúa Giêsu, cho đến lúc đó, hãy còn được liên kết với vị Tẩy giả đồng thời thành công hơn ông. Việc ông này bị bỏ tù do đó có thể hiểu như là sự kiện bắt buộc vị ngôn sứ đi ra khỏi thời kỳ sửa soạn và bắt đầu một cách công khai những cuộc chiến đấu tiên khởi của Người. Có thể hiểu như thế trong bối cảnh lịch sử của nó cái câu nói "thời buổi đã mãn...''.

V. SỨ ĐIỆP BẢN VĂN

Hai đoạn văn tí xíu này của Tin mting Mc như vậy xem ra có một tầm mức nghịch với tính cách vắn gọn của chúng. Chúng chất vấn độc giả về một điểm nằm trong chuỗi những lời kêu gọi đã được đưa ra qua trình thuật Phép rửa, một điểm liên hệ với Tin mừng, nghĩa là với cái đặc biệt nhất của đức tin Kitô giáo.

Trước hết, đối tượng của đức tin là nhìn thấy trong Chúa Giêsu con người theo chương trình của Thiên Chúa, là tin rằng vào một lúc nào đó của lịch sử, trong một nơi xác định, đã hiện hữu một con người từng giao tranh với những quyền lực của sự ác và đã chiến thắng chúng. Do đó là tin rằng mỗi một phần tử của nhân loại, mà Chúa Giêsu liên đới và bao hàm trong Người, có thể đi qua lỗ hổng mà người đã mở để đạt tới một đời sống cao hơn.

Đối tượng của đức tin nhắm vào cái tin hạnh phúc đó. Tin, chính là thừa nhận Chúa Giêsu không chỉ là kẻ mạnh nhất trong loài người, nhưng đặc biệt là con người mang lấy trong mình chính mãnh lực thần linh, để chiến thắng một cách chắc chắn, an toàn và tự do.

Nhận ra trong mình khả năng đi đến một đời sống cao hơn, nghĩa là đến tự do đích thực, và nhận biết Chúa Giêsu là Đấng vừa kêu mời vượt qua ngưỡng cửa đó vừa cho phép mỗi con người trở nên hữu hiệu, đó là nét riêng biệt thứ hai của đức tin Kitô giáo.

Dầu thái độ này có biểu lộ một cách nào đi nữa, thì cái con người phải đương đầu trong cuộc chiến đấu nội tâm với những mãnh lực thù nghịch đang hoạt động trong thế giới, có thể nhận ra trong tình thế bi thảm là tình thế của mình đây, một lời mời gọi hãy "vượt lên" và tin rằng sự "thắng vượt" này có thể có một nơi nào đó trong thế giới. Lúc ấy Nước Trời gần với họ.

Nhưng, và đây là nét đặc biệt thứ ba của đức tin Kitô giáo, kẻ đón nhận Tin mừng ấy của Thiên Chúa, cái Tin mừng về chính Chúa Giêsu và về Lời mà sứ mệnh Người đã khiến Người công bố ra, thì bắt đầu được sống một kinh nghiệm mới đánh dấu bằng một niềm hy vọng đặc biệt.Kinh nghiệm này thay đổi một cái gì đó trong thái độ của kẻ ấy, nhưng nó vẫn luôn luôn trên đường chuyển thành, vẫn luôn là cuộc mạo hiểm không ngừng tái diễn và quy hướng về sự thực hiện trọn vẹn trên kia thế gian.

Nói cách khác, niềm hy vọng của Kitô hữu vừa không ngừng thúc đẩy họ tham gia cuộc chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, vừa giúp họ thắng vượt cơn cám dỗ muốn giam hãm mãi lý do hiện hữu của mình trong thế giới hiện tại.

Gilles Becquet, Lecture d'évangiles…année B. Trang 168-181

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chúa Giêsu, Con thiên Chúa, đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người: vui sướng, đau khổ, chết chóc, tủi nhục... , tình trạng bị tách ra khỏi nguồn sống, tình trạng phóng thể, nhưng vẫn luôn luôn nối kết mình với Thiên Chúa. Chính nhờ đó mà Người đã vượt thắng Satan, đã vượt lên tội lỗi, vượt lên mọi phóng thể và trở lại với yếu tính của mình; trở lại với Thiên Chúa, với tình trạng thanh bình hạnh phúc, được sống lại trong mảnh vườn tình yêu của Thiên Chúa và của vũ trụ mà Mc, mượn tư tưởng Is 11.8-9, đã diễn tả qua câu: "Người sống chung với các dã thú và được các thiên thần hầu hạ". Nếu ta luôn bám vào Thiên Chúa, đặt Ngài như cùng đích đời mình, thì dù phải trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, ta cũng luôn chiến thắng và được bình an trong nơi sâu thẳm. Và chiến thắng cùng bình an này sẽ chiếu tỏa chung quanh ta. Hãy xem cuộc đời các thánh.

2. Những yếu tố: thinh lặng, khổ chế, cầu nguyện, được nói lên qua hình ảnh sa mạc, đều là những điều kiện giúp con người dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa, dễ dàng nghe thấy và nhận ra đường lối Ngài muốn ta đi. Các tổ phụ, tiên tri, sứ đồ, thánh nhân, và nhất là chính Chúa Giêsu đều đã trải qua sa mạc ấy đời sống Kitô hữu cũng phải vậy. Mỗi ngày, ta phải rút vào sa mạc của lòng mình, tạm lại gác mọi ưu tư, lo lắng, hoạt động, để gặp gỡ Thiên Chúa, múc lấy nguồn lực nơi Ngài, thanh lọc lại ý hướng, hầu có thể thi hành sứ vụ cách hữu hiệu và đúng ý Thiên Chúa hơn giữa trần gian.

3. "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên. Hãy hối cải và tin vào Tin mừng". Với Chúa Giêsu, bắt đầu một thời đại mới. Nước Trời, nước hạnh phúc đã đến với và trong Ngài. Nhưng Nước ấy chỉ đến cho mỗi người chúng ta khi chúng ta ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng", khi ta biết biến đổi đời sống, biết loại trừ những tư tưởng ích kỷ, vụ lợi. Ơn cứu độ đã được Chúa Kitô mưu cầu sẵn cho ta, nhưng chính ta phải sẵn sàng tiếp nhận bằng những thái độ thích hợp như Chúa đòi hỏi. Thiên đàng chỉ được ban cho những ai muốn chọn lấy.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC492: Nhân phẩm là bụi tro


(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

 

Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể. Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng MC 1-ABC492


Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể.

Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng trong không khí gây ô nhiễm làm ngột ngạt khó thở có hại cho sức khoẻ.

Bụi tro, buị đất người ta quét vun lại rồi quăng vất ra góc vườn ngoài đồng ruộng cho sạch sẽ lối đi.

Nhưng theo kinh thánh thuật lại con người được Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất.

Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro, ngày bắt đầu mùa chay 40 ngày, theo tập tục nếp sống đức tin của đạo Công Giáo, mọi người tín hữu Chúa Kitô đến trước bàn thờ cúi đầu xin lãnh nhận bỏ tro trên đỉnh đầu, trên trán. Dấu chỉ này nói lên lòng ăn năn thống hối xin Chúa ban ơn tha thứ những tội lỗi đã vấp phạm.

Dấu chỉ này cũng nói lên tâm tình từ nay xin từ bỏ cung cách nếp sống kiêu ngạo tự khoe mình, lấy mình làm trung tâm điểm.

Dấu chỉ khiêm cung lãnh nhận được rắc tro bụi trên đầu nói lên lòng kính trọng chân nhận mình là con cháu của Ông Bà nguyên tổ Adong và Eva, người được tạo dựng nên từ bụi đất.

Là tro bụi con người không có thể làm được tất cả. Con người là một tạo vật có khả năng giới hạn sống trên mặt đất. Đời sống con người như dòng sông, dòng điện trôi qua đi mau. Họ không thể kéo giữ lại những gì đã xảy ra ngay cả những gì cho là hay đẹp nhất. Tất cả tuần tự trôi qua đi như cát trôi dạt ngoài biển khơi, như bụi tro bay lưu lạc trong không khí.

Tâm tình lòng tin tưởng nhớ mình được tạo thành từ bụi tro nhắc nhớ mình là một tạo vật mỏng dòn. Nhưng mang trong mình hơi thở mầm sự sống của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh thần thánh Thiên Chúa khắc ghi vào nơi mỗi con người.

Vì thế con người có gía trị hơn tro bụi nhiều. Hơi thở hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người là sự sống, là ơn kêu gọi, những khả năng, cơ hội tiềm tàng trong thân xác, trong tâm trí chờ được phát triển bung nở vươn ra.

Ngày xưa bên bờ sông Jordan dân chúng xắp hàng đến xin Thánh Gioan làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối trở về với Thiên Chúa.

Ngày thứ Tư lễ Tro, người tín hữu Chúa Kităô cũng sắp hàng đến xin nhận lãnh bụi tro rắc trên đầu tỏ lòng ăn năn thống hối.

Trong Thánh lễ Misa người tín hữu cũng thứ tự xắp hàng với hai bàn tay trắng lên tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kito cho tâm hồn đức tin của mình.

Điều này nhắc nhớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người từ tro bụi, đã trở nên Bí tích Thánh Thể cho con người.

Tấm bánh Thánh Thánh nhắc nhớ đến tấm bánh ngày xưa Thiên Thần đã mang đến cho Thánh Tiên Tri Elia trong sa mạc hoang vắng. Tấm bánh này cũng được nướng trong lò lửa có tro bụi. Như thế trong tro bụi tấm bánh đã được nung nướng thành, mà Thiên Thần mang đến cho Eilia trong lúc đói lả mệt nhọc giữa đường đi.

Trong tro bụi Chúa Giêsu cũng đã nằm, ngài chính là bánh sự sống. Ngài đã chia sẻ thân phận nếp sống tro bụi của con người. Ngài đã sinh xuống trần gian làm người nơi hang chuồng xúc vật ở Bethlehem. Ngài đã đi bộ đó đây trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Do Thái, dính bụi đất dọc đường, và sau cùng vác thập gía chịu khổ hình đến nơi chịu chết vì tro bụi dơ bẩn tội lỗi của con người.

Bụi tro đất làm nên thân xác hình hài con người có giá trị tốt. Vì được Thiên Chúa chúc phúc thánh hóa cùng ban hình ảnh hơi thở sự sống của Ngài cho con người.

Bụi tro đất làm nên con người có gía trị cao qúi mang lại sự sống. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chia sẻ thân phận đời sống tro bụi làm người với con người. Và Ngài đã trở nên bánh sự sống đức tin cho con người.

Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và được kêu gọi cùng sống lại với Chúa Kito phục sinh.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC493: Suy niệm Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

KHAI MẠC MÙA CHAY THÁNH

(Mt 6, 1-6; 16-18)

 

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên MC 1-ABC493


Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van" (Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

- Ăn chay
- Cầu nguyện
- Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: "Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào". Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, "hạ mình" trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: "Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” (Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: "Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Đức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa" (x. Tl 20, 26); "Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Đức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!" (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: " Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van". (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: " Chúng nói: "Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?"... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? " (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người " (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: "Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng" (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Thực hành bác ái

Xem ra con người ngày càng ích kỷ, đến nỗi Đức Thánh Cha gọi đó là sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Xóa bỏ sự thờ ơ là điều Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh trong sứ điệp Mùa Chay năm nay. Ngài viết: “Mong mỏi lớn lao của tôi là tất cả nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ”. Ngài viết tiếp: “Dửng dưng với đồng loại và với Thiên Chúa cũng là một sự cám dỗ đối với Kitô hữu chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

Đức Thánh Cha dựa trên ba trích đoạn Kinh thánh và đề nghị mỗi tín hữu, mỗi giáo xứ và giáo hội suy niệm để canh tân.
- Giáo hội

Giáo hội và mỗi tín hữu cần tái khám phá “trong cùng một thân thể, không có chỗ cho sự dửng dưng, thứ thường hay chế ngự trong tim chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

- Các giáo xứ và các cộng đoàn

Câu hỏi nêu lên trong sách Sáng thế “Em ngươi đâu?” là một khởi điểm. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tất cả những gì chúng ta đang nói về Giáo hội hoàn vũ bây giờ phải được áp dụng trong đời sống cộng đoàn và giáo xứ. Mỗi người tự hỏi mình có phải là những chi thể của Chúa Kitô không? Ngài nhắn nhủ: “mỗi cộng đoàn tín hữu phải đi ra và hòa mình vào cuộc sống của xã hội, đặc biệt nơi những người nghèo và những vùng ngoại biên xa xôi. Tự bản chất Giáo hội là truyền giáo; Giáo hội không tự đóng mình lại nhưng đi đến mọi miền đất nước và mọi dân tộc” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

- Mỗi tín hữu

Đức Thánh Cha nhận xét: “Là những cá nhân, chúng ta bị cám dỗ bởi sự dửng dưng. Nhìn thấy những tin tức ngập tràn những hình ảnh đau khổ nơi nhân loại, chúng ta cảm thấy bất lực trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta có thể làm gì để tránh cảm giác bất lực này?” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC494: CÁM DỖ


Lm. Thái Nguyên

 

Chúng ta bước vào Mùa Chay trải dài 40 ngày. Con số 40 trong Kinh Thánh có một ý nghĩa biểu MC 1-ABC494


Chúng ta bước vào Mùa Chay trải dài 40 ngày. Con số 40 trong Kinh Thánh có một ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước hết là nhắc nhớ  40 năm đầy thử thách của dân Israel trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa; Luca cũng diễn tả việc Đức Giêsu cũng phải chịu thử thách và cám dỗ như là một biến cố để Ngài chuẩn bị cho sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa. 40 ngày ngôn sứ Êlia lặn lội tới núi Horeb, và ở đó ông được gặp Đức Chúa; đây cũng là thời gian hoàn toàn yên tịnh để Đức Giêsu sống với Thiên Chúa. 40 ngày Môsê chay tịnh trên núi Sinai để chờ đón nhận Giao ước, cũng là thời gian chay tịnh của Đức Giêsu để Ngài chuẩn bị trở thành Giao ước mới của Thiên Chúa với loài người. Điều đặc biệt ở đây là chính Thần Khí thúc đẩy Ngài vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, và Thánh Thần sẽ là Đấng điều dẫn Ngài trong mọi sự để thi hành và hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa.

Thánh Kinh đã ghi nhận từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Các thiên thần cũng phải đối đầu với cám dỗ, vì không vượt qua nổi nên Lucifer, một thiên thần sáng láng đã trở thành Satan tối tăm. Thụ tạo đầu tiên trong thế giới loài người là Ađam và Eva cũng đã gục ngã trước cám dỗ, nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian. Trong cuộc hành trình về Đất Hứa, dân Israel đã không ngừng bị cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai Cập làm nô lệ để có bánh ăn; cám dỗ thờ ngẫu tượng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit cũng sa ngã trước cám dỗ sắc dục. Cám dỗ gắn liền với thân phận làm người.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Người Việt Nam cũng thường nói “Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”. Cám dỗ là một điều dai dẳng và luôn lôi kéo mạnh mẽ. Chấp nhận làm người, Chúa Giêsu cũng chấp nhận đối đầu với cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng để mở đường cho chúng ta trong cuộc sống hôm nay. Là những người theo Đức Kitô trên con đường về Nước Trời, đòi chúng ta cũng phải trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày mùa chay thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình, đừng chủ quan và ảo tưởng nữa, để có thể sống theo Lời Chúa mời gọi: “Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng”.

Mùa chay là mùa hồi tâm để sám hối. Sám hối trước hết là trở về với Chúa. Cũng là thời gian dừng lại để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Nếu cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ: cám dỗ nào cũng khiến ta khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ hưởng thụ và chiếm đoạt; cám dỗ sống tầm thường và buông thả; cám dỗ cao ngạo, háo danh và trục lợi… Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Nếu đời người như cây sậy trước gió dễ ngả nghiêng, chúng ta càng phải biết nương tựa vào Chúa. Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng. Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt. Quả thật,“Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ.” (Wendell Philips).

Nhưng nên nhớ, chúng ta không thể chiến đấu một mình trước sự ranh mãnh và sức mạnh của Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng sự chay tịnh và cầu nguyện. Ngài còn phải chiến đấu với cơn cám dỗ kinh khủng trong giờ phút cuối cùng, nhưng cũng đã chiến thắng, bằng cách vâng theo ý Cha để chọn chén đắng, chọn thập giá, chọn cái chết, để ý định cứu độ của Thiên Chúa được hoàn thành. Đó cũng là cách chọn lựa của chúng ta để có thể chiến thắng mọi cám dỗ. Cần sống thân tình với Chúa Giêsu, nhìn ngắm Ngài, theo gương Ngài, và nương mình theo sự tác động của Chúa Thánh Thần, để ta có được nội lực thâm hậu, hầu chiến thắng tội lỗi và vượt qua mọi cạm bẫy của ma quỉ.

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Như Chúa Giêsu ngày xưa vào hoang mạc,
theo ánh sáng thúc đẩy của Thánh Linh,
để sống bốn mươi ngày trong cô tịch,
trong chay tịnh và kết hiệp với Cha,
để chuẩn đi ra với sứ vụ cứu đời.

Mỗi khi mùa chay tới,
con cũng được thúc giục đến một nơi,
không phải du lịch tâm linh để xả hơi,
nhưng là được kêu mời vào thinh lặng,
để trở về với Cha trong tình yêu sâu lắng,
tìm lại cân bằng và chỉnh đốn lại hướng đi.

Nhưng chính khi an tĩnh và chay tịnh,
mà Chúa Giêsu thấy mình bị cám dỗ,
con cũng thấy mình bị thách đố liên hồi,
luôn ham muốn để sống với “cái tôi”,
nên khiến đời con luôn trôi nổi,
và cám dỗ luôn kéo lôi tứ phía,
làm cuộc sống dần dà xa cách Chúa,
có nguy cơ tàn úa theo tháng ngày.

Xin cho con đôi mắt sáng của trái tim,
đừng mềm yếu để khỏi bị sa chìm,
đừng cứng cỏi và cố chấp trong suy nghĩ,
nhưng biết khiêm nhu mở ra trước chân lý,
đừng để con vô tri và ù lì trong lối sống,
nhưng luôn theo tác động của Thánh Thần.

Xin cho con biết thật tâm tu luyện,
biết ăn chay và cầu nguyện hằng ngày,
để vững mạnh trên con đường sứ mạng,
hầu đi từ thập giá đến vinh quang. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC495: GIAO ƯỚC: ÁNH SÁNG ĐỂ NHẬN RA THẦN KHÍ THIÊN CHÚA


Jorathe Nắng Tím

 

Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và cả MC 1-ABC495


Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và cả ba đều bắt đầu bằng sự có mặt và hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần trên Đức Giêsu : thánh Mátthêu và Máccô  dùng từ Thần Khí: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa…” (Mc 1,12) ; “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa” (Mt 4,1) ; riêng thánh Luca thì chọn từ Thánh Thần : “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần.. Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu qủy cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Để hiểu thế nào là Thần Khí, chúng ta cùng đọc tài liệu “Các loại thần khí” của tác giả Hàn Cư Sĩ được đăng trên trang mạng của Dòng Tên Việt Nam ngày 4.5.2017, một bài nghiên cứu có giá trị, mà người viết trân trọng giới thiệu cùng qúy Bạn.

Theo tác giả, “Thần khí là một năng lực vô hình mang tính thiêng liêng, vượt khỏi không gian và thời gian, một sức mạnh tự than có tính siêu phàm, tác động cả bên trong lẫn bên ngoài, có sức mạnh đẩy con người phải làm theo và có thể bị lệ thuộc hoàn toàn. Trong đời sống tâm linh, mỗi Kitô hữu có những lúc phải đối mặt với những thử thách, có thể làm đức tin của con người bị chao đảo, tê liệt hay tắt lịm. Những lúc như thế, con người rất cần phải phân định để biết rõ thần khí nào đang hoạt động nơi linh hồn.

Theo cha Jordan Anmaun o.p, các thần khí có thể được sắp thành ba loai : thần khí của Thiên Chúa, thần khí của ma qủy, thần khí của con người. Thiên Chúa luôn hướng chúng ta về điều thiện hoăc trực tiếp hoặc gián tiếp qua các nguyên nhân phụ. Ma qủy luôn xúi giục chúng ta làm điều xấu, nó hoạt động bằng sức riêng của mình hoặc qua vẻ quyến rũ của những sự vật trần thế. Thần khí của con người có thể hướng về điều xấu hoặc điều tốt, tùy theo cá nhân đó trong lẽ phải hay theo những ước muốn vị kỷ”.

Tin Mừng khẳng định Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, thúc đẩy vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ. Như thế, mục đích của hành trình vào hoang địa là để chịu cám dỗ bởi Xatan, có biệt danh là “Tên Cám Dỗ” (Mt 4,3) : Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người mà nói : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).

Khi nói với Đức Giêsu điều này, Xatan tỏ ra biết rất rõ  Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nói cách khác, vì là thụ tạo thiêng liêng, thần khí của ma qủy không lệ thuộc không gian, thời gian, nên biết chính xác Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà không cần phải đi tìm, hay chờ được mạc khải như loài người chúng ta. Ma qủy biết rõ Thiên Chúa, nhưng cái biết Thiên Chúa của ma qủy không là cái biết của con cái biết cha, cái biết của trái tim biết ơn, yêu mến, phụng thờ Thiên Chúa của người môn đệ. Trái lại, cái biết của ma qủy chỉ nhắm đến mục đích phá hoại công trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Đó là tình trạng của nhiều người bị thần khí ma qủy hướng dẫn, thúc đẩy đi “tìm tòi Thiên Chúa, học hỏi giáo huấn của Ngài” nhưng  không vì yêu mến và để tuân giữ, mà để bôi bác, phá hoại và làm cho nhiều người khác thù ghét, khinh mạn, bất tuân Thiên Chúa như mình.

Xatan còn dùng chính Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh để cám dỗ Đức Giêsu khi nói với Ngài : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,6). Khi trích dẫn chính xác Lời Chúa trong Kinh Thánh, ma qủy tự hào hiểu thấu đáo Kinh Thánh, thuộc lòng Kinh Thánh, rành rẽ từng câu, từng đọan Kinh Thánh, lại còn biết xử dụng Kinh Thánh đúng người đúng việc, đúng nơi đúng lúc, nhưng mục đích của kiến thức Kinh Thánh nơi ma qủy không để giúp người ta yêu mến Thiên Chúa, làm điều thiện, giúp con người sống tốt, trái lại  chúng chỉ tìm đạt một mục tiêu duy nhất là làm hư hỏng con người, đẩy con người vào mê lộ, để tự chuốc lấy bất hạnh, hư vong, và mãi mãi cho đến tận thế, ma qủy quyết tâm thực hiện cho kỳ được muc tiêu này.

Thực vậy, chúng ta đừng tưởng thần khí của ma qủy ngu dốt, đần độn, và hậu đậu, ngay ngô. Trái lại, thần khí của chúng rất tinh ranh, bén nhạy,  xảo quyệt, nhanh như chớp, biến hoá muôn hình trạng, để lôi cuốn, thu hút thần khí của con người vốn dễ chao đảo, lung lay vì dục vọng ích kỷ. Chúng ta cũng đừng lầm tưởng thần khí của ma qủy không biết gì về Lời Chúa. Bằng chứng là Xatan dã vanh vách trích dẫn Lời Thiên Chúa khi cám dỗ Con Thiên Chúa những ngày trong hoang địa.

Tóm lại, Tin Mừng chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cho chúng ta thấy cuộc chiến gay go giữa Thần Khí của Thiên Chúa và thần khí của Xatan, nhằm thu phục thần khí của con người.

Chiêm ngắm Đức Giêsu khi vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ, chúng ta thấy Ngài đã mang lấy tất cả những gì của con người, kể cả yếu đuối của con người trong những cơn cám dỗ dữ dội, bởi Ngài muốn trở nên như con người trong mọi sự, mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện của đời sống, ngoại trừ tội lỗi  để thông cảm với chúng ta trong vất vả chiến đấu, để thương xót chúng ta trong yếu đuối, thất bại, nhất là để dậy chúng ta phân định đâu là thần khí của Thiên Chúa, đâu là thần khí của ma qủy trong  mọi lựa chọn. Chúng ta cũng có thể nói : khi vào hoang địa để chịu  qủy cám dỗ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mang lấy hết nhân loại trong trái tim Ngài, đã gánh vác hết loài người trên thân xác “cảm thấy đói sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã” (Mt 4,2) của Ngài, để cùng con người chiến đấu, và dậy con người chiến đấu với thần khí của ma qủy.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên mọi nẻo đường, cùng được đầy ơn Thánh Thần như Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh vui buồn, hạnh thông, thử thách, mạnh dạn, yếu đuối, thất bại thành công.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài  dựa vào Lời Chúa để phân định trái phải, xấu tốt, với một trái tim gắn bó với Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí ấy luôn hướng tâm hồn mỗi người về điều thiện trong tinh thần tự do của con cái Chúa, với ước muốn đi theo Đức Giêsu và thực hiện tình yêu vô vị lợi đối với mọi người.

Ngài bảo đảm : Thần Khí Thiên Chúa luôn mang lại cho chúng ta : “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23), là hoa trái của Thánh Thần Tình Yêu.

Nhưng quan trọng hơn cả, Đức Giêsu dậy chúng ta chọn lựa giữa các thần khí, bằng nhớ lại “Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với chúng ta”, bởi chỉ quy chiếu vào Giao Ước khi bị ma qủy, thế gian cám dỗ, chúng ta mới kiên định ở lại trong Chúa, kiên tâm đi theo Chúa, kiên quyết nhận Chúa là Lẽ Sống, Gia Nghiệp đời đời.

Thực vậy, khi bị ma qủy cám dỗ, Đức Giêsu đã không chỉ lấy Lời Thiên Chúa để giập tắt lửa kiêu căng, tham vọng ma qủy đốt lên cám dỗ Ngài, mà còn bám chặt vào Giao Ước giữa Ngài với Chúa Cha, khi cho Xatan biết Ngài đến để thi hành Thánh Ý Chúa Cha như người con hiếu thảo, như người tôi tớ trung thành, chứ không như đối thủ kiêu căng, ngạo mạn, và thụ tạo vô ơn, phản bội của Thiên Chúa như chúng. Bằng chứng là trong cả ba câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài đều xác định và tuyên xưng : Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài, và Ngài tuyệt đối tin tưởng, yêu mến, phụng thờ và tuân phục : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi léơi từ miệng Thiên Chúa phán ra”, “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,4.7.10).

Cũng như ông Noê đã nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa trong trận hồng thủy tiêu diệt loài người, trừ tám người thuộc gia đình ông, qua cầu vồng là dấu  hiệu của Giao Ước Thiên Chúa thiết lập với ông : “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi : mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa”,“Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước của Ta với cõi đất… Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghiã là với mọi xác phàm trên mặt đất” (St 9,11.13.16). Cây cung Thiên Chuá gác trên mây đây chính là cầu vồng nối đất với Trời.

Với chúng ta hôm nay, giữa một  thế giới đang bị thần khí ma qủy khuynh đảo, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để phân định  thần khí nào là Thần Khí của Thiên Chúa, thần khí nào là thần khí của ma qủy, thế gian. Và để phân định, Đức Giêsu dậy chúng ta quy hướng và bám chặt vào Giao Ước mà mỗi người tín hữu đã ký kết với Thiên Chúa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, giao ước mà thánh Tông Đồ trưởng Phêrô đã qủang diễn trong thư của ngài : “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời…” (1P3,21-22).

Một cách cụ thể, người Kitô hữu được đi vào Giao Ước vĩnh cửu với Thiên Chúa qua bí tích  rửa tội,  để trở thành chi thể của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô là Giáo Hội. Chính Giáo Hội là dấu hiệu của Giao Ước giữa mỗi người Kitô hữu với Đức Giêsu Thiên Chúa, và nhờ dấu hiệu của Giao Ước là Bí Tích Giáo Hội, chúng ta không lạc lối, lầm đường khi bị thần khí ma qủy, thế gian  cám dỗ, bởi Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt và hoạt động trong Giáo Hội của Đức Giêsu.

Mùa Chay là mùa Trở Về, nhưng đường về chỉ thực sự được mở ra và chúng ta chỉ có thể lên đường dưới sự hướng dẫn, thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa, mà Thần Khí Thiên Chúa luôn đợi chờ chúng ta ở trong Giáo Hội là Nhà của Thiên Chúa giữa con người, là Hiền Thê yêu dấu, và Thân Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng chúng ta yêu mến, tôn thờ, phụng sự.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC496: CÁM DỖ LÀ GÌ?


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Từ xa xưa cha ông ta đã sử dụng 2 từ cám dỗ, và cho đến hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục sử MC 1-ABC496


Từ xa xưa cha ông ta đã sử dụng 2 từ cám dỗ, và cho đến hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục sử dụng nó như một tiếp nối của truyền thống. Cám dỗ là sự lôi kéo thúc dục, khơi gợi lòng ham muốn của con người và khiến họ thực hiện một điều gì đó sai trái, sa ngã vào nó. Cám dỗ cũng có thể hiểu là một hiện tượng nổi lên trong cuộc sống khiến bạn chạy theo nó mà không nghĩ đến hậu quả sau này.

Và như vậy, cám dỗ là một phần trong cuộc sống, cám dỗ là gia vị cho cuộc sống mình. Dùng gia vị không đúng thì cuộc sống chua cay bất hạnh. Biềt điều tiết gia vị thì cuộc sống có hương vị tốt hơn.

Như trong tình yêu luôn có cám dỗ mời gọi con người phản bội với người mình yêu. Nếu biết dừng đúng lúc thì tình yêu càng hạnh phúc hơn, người được yêu càng tin tưởng hơn. Ngược lại, nếu đã từng nếm thử sự cám dỗ của phản bội, người ta mới thấy sự hổ thẹn, và tình yêu trở thành bất hạnh cho tất cả những người liên quan.

Cám dỗ luôn dẫn dụ chúng ta nổi loạn để sống theo ý thích của mình, nó kích thíc dục vọng khiến con người vì ham muốn hưởng thụ mà bất chấp hậu quả và ngay cả bất chấp luật pháp và luân thường đạo lý.

Thông thường ta thấy có những cám dỗ như sau:

Có người bị cám dỗ bởi tham lam. Lòng tham thường không đáy. Lòng tham luôn tìm cách mở rộng lãnh địa để chiếm lĩnh mọi sự về mình. Sự cám dỗ của lòng tham đã gây nên biết bao đau thương cho nhân thế qua nhiều thế hệ bởi tranh giành, chiếm đoạt có khi dẫn đến chiến tranh điêu tàn, cướp phá đói nghèo. . .

Có người bị cám dỗ luôn cho mình hơn người khác nên dễ tức giận và nổi nóng. Nổi nóng quạt nạt khi người khác sai. Đây cũng là biểu hiện của sự kiêu căng. Kiêu căng đi đến thái quá sẽ tìm mọi cách để hơn người khác bằng sự đê tiện bỉ ổi như vu khống và gian lận.

Con người luôn đối diện với cám dỗ, nhưng người bị cám dỗ thì không xấu nếu biết kiểm soát cám dỗ để luôn đi theo luân thường đạo lý. Nếu con người biết tự chủ trước cám dỗ thì chính cám dỗ lại là động lực để mình sống tốt hơn và thánh thiện hơn.

Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian.

Chúa Giê-su không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ và còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dung con mồi này để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui xác thịt. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại .. . Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.

Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta cần nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp mới chiến thắng cám dỗ và trung thành với Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC497: CÙNG CHÚA GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM


Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

 

Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến MC 1-ABC497


Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến lễ Phục Sinh.

40 ngày Chay Thánh

Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy, 40 ngày chay thánh gợi cho chúng ta nhớ lại 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa

Sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

Với những lời trên cho thấy, trước khi khai mào sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đương đầu “giáp lá cà” với Satan trong 40 ngày cô tịch, một khoảng thời gian đầy thử thách. Nhưng Chúa Giêsu đã đã chiến thắng khi vạch trần Tên Cám Dỗ, đem lại cho chúng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng để chiến thắng trong cuộc sống đầy những cám dỗ hàng ngày bủa vây quanh chúng ta.

Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Nó đã cám dỗ Chúa Giêsu đi khác đường lối của Chúa Cha, giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam và Evà. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết. Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13). Những quỉ kế mà Satan dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách hắn dùng để cám dỗ chúng ta ngày hôm nay. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta sống triệt để Lời Chúa dạy.

Theo Chúa lên Giêrusalem

Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.

Bước vào Mùa Chay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cùng lên Giêrusalem với Chúa trong niềm tin, yêu, và hy vọng mới. Đức Thánh Cha viết: “Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta” (Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).

Vậy chúng ta bước vào Mùa Chay với một thái độ như thế nào? Chúng ta chuẩn bị ra làm sao để cho việc cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đạt được nhiều ý nghĩa và sinh ích lợi cho đời sống chúng ta? Nói khác đi, chúng ta lên Giêrusalem với Chúa bằng tâm tình nào, vui hay buồn, hy vọng hay thất vọng, yêu thương hay hận thù?

Hướng về lễ Phục Sinh, cuộc chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết là ý nghĩa Chúa Nhật thứ I Mùa Chay. Chúng ta nhất quyết bước theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống, theo Chúa tiến qua hoang địa của lòng ta. Nơi đây, ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và cũng nghe thấy cả tiếng nói của Tên Cám Dỗ.

Nơi hoang địa, giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta.

Theo Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúng ta có Chúa Giêsu, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðúng hơn, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay này.

Chúng ta cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse trợ giúp, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng ta.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC498: THAO LUYỆN


Lm Vũđình Tường

 

Samạc là hầm mỏ của hiểm nguy. Tai vạ tràn lan, vận may khan hiếm. Cuộc sống samạc bị thử MC 1-ABC498


Samạc là hầm mỏ của hiểm nguy. Tai vạ tràn lan, vận may khan hiếm. Cuộc sống samạc bị thử thách tận tâm can. Những ai chịu cực, chịu khổ được một thời gian dài trong samạc được coi như người có í chí sắt đá, bền gan, kiên tâm, bền chí trong trường đời. Đại đa số trong chúng ta khi cuộc sống gặp khó khăn, nghịch cảnh, cách thông thường là tháo lui, chạy trốn, mong được an toàn, tồn tại, sống sót. Chúng ta coi nhẹ cân nhắc hơn thiệt, lợi hại người khác trong chọn lựa, và không ngại chọn ngay cả việc làm bất lợi, điều xấu, điều tệ miễn là giảm bớt hoàn cảnh cơ cực chính mình đang trải qua. Đau khổ, khó khăn, sợ hãi là những yếu tố làm nhụt í chí phấn đấu. Tệ hại nhất là không lượng được sức mạnh bản thân, tự tin vào khôn ngoan cá nhân. Phấn đấu không dựa vào sức mạnh Thiên Chúa. Bất cứ hành động, quyết định lớn nhỏ nào, sức mạnh Thiên Chúa là thứ yếu; hành động đó, quyết định đó đều sai lầm. Cái lợi ngay lúc đó, lợi trước mắt làm lu mờ, che khuất thấy cái hại khổng lồ trong tương lai. Nguy hiểm hơn cả khi vấn đề đó hại đức tin. Hại niềm tin đi chung với hại sự sống vĩnh cửu. Đức Kitô chọn đối đầu với nghịch cảnh. Thay vì đầu hàng, Đức Kitô đối chọi nghịch cảnh mong tìm phương thế thi hành thánh í Chúa Cha.

Đức Kitô sống bốn mươi ngày trong samạc. Con số ‘bốn mươi’ cho biết nghịch cảnh nào cũng có điểm khởi hành và điểm kết. Thử thách nào cũng có đoạn kết. Samạc đời người cũng như samạc tâm linh đều có điểm kết. Khi đối diện với samạc tâm linh, thay vì than thân, trách phận, than khóc, vật vã, so sánh; hãy dùng thời gian đó củng cố niềm tin, tịnh dưỡng, tăng sức cho ơn gọi. Biến nghịch cảnh thành cơ hội thuận tiện cho việc củng cố tâm linh.

Trước khi bước vào cuộc sống rao giảng, Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Nơi đó Đức Kitô sống qua nghịch cảnh để nhận biết khả năng mạnh yếu khi thân xác đối diện với nghịch cảnh. Đây cũng là thời gian ước định sức mạnh tâm linh. Samạc là đấu trường khắc nghiệt không biên giới, không thời gian. Ngày cũng như đêm, cần đề phòng, chuẩn bị, sẵn sàng chống lại tấn công bất cứ khi nào nó đến. Sống sót khỏi nanh vuốt ban ngày, chưa chắc đã thoát nọc độc ban đêm. Ngoài sức nóng rát mặt ban ngày, cơn lạnh căng da về đêm, còn phải chịu cảnh thực phẩm khan hiếm, nước uống hạn chế; bệnh không thuốc, thương tật không băng bó. Tất cả những điều trên ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ. Mệt mỏi, lo lắng, bất an đều làm cho cơ thể rã rời. Tỉnh thức cầu nguyện lúc bình thường đã khó, nói chi đến tỉnh thức, yên tâm cầu nguyện khi cơ thể rã rời. Đức kitô đã trải qua hoàn cảnh này. Kinh nghiệm Ngài sống nơi samạc giúp ích rất nhiều trong chiến trường tâm linh, chống lại sức mạnh ác thần. Đức Kitô vào hoang địa với một mục đích duy nhất, suy gẫm về sứ mạng cứu thế của Ngài. Đó là hoàn thành thánh í Chúa Cha, giải thoát nhân loại khỏi bóng tối ác thần.

Kinh nghiệm chống lại nghịch cảnh, đói khát, giá lạnh, đau khổ, sợ sệt đều là những kinh nghiệm thật của một con người. Ngài bộc lộ những kinh nghiệm bản thân trên qua các dụ ngôn. Từ đó chúng ta nhận biết Đức Kitô tận dụng thời gian samạc là thời gian suy gẫm về kế hoạch. Tìm phương thế vẹn toàn, trọn hảo, thực hành thánh í Chúa Cha. Sách lược rao giảng nước Thiên Chúa. Hoạch định phương sách tiêu diệt ác thần. Tìm biện pháp chống lại cơn cám dỗ bằng cách dựa vào sức mạnh Lời Chúa.

Đức kitô loan báo trước Ngài sẽ chiến thắng ma quỉ, chiến thắng ác thần, nhưng cuộc chiến nhiều cam go, đau khổ chồng chất. Trước khi ma quỉ đầu hàng, bị tiêu diệt, chúng sẽ giẫy chết vừa bạo động, vừa hung tàn. Đức Kitô chiến thắng ác thần. Môn đệ trung tín Đức Kitô sẽ được Ngài hỗ trợ, ban sức chiến thắng ác thần, và vào chung hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Bước theo Đức Kitô, chúng ta có kinh nghiệm đôi khi chiến thắng ma quỉ; đôi khi thất bại trong tội lỗi. Đức Kitô không bao giờ thất bại. Ngài luôn đứng vững trước cám dỗ, thử thách. Ngài không trốn chạy nhưng ngang nghiên đương đầu với mọi nghịch cảnh. Ngài kiêu hùng dối diện với đóng đanh thập giá. Trung tín vâng phục Chúa Cha đến hơi thở cuối cùng.
‘Lậy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha’ Lk 23,46.
Nói xong Ngài tắt thở.

Samạc với ta là nơi sức sống héo tàn; tương lai màu cát xám. Đức kitô vào samạc chỉ cho nhân loại con đường sống, cách sống vui, sống mạnh, sống vĩnh cửu. Ngài vạch ra con đường tương lai tươi sáng cho ai bước theo con đường Ngài đi qua. Ngài đến loan báo khởi đầu nước Thiên Chúa nơi trần gian. Những ai bước theo con đường Samạc Kitô sẽ tiến vào nước Thiên Chúa khi hoàn thành cuộc lữ hành trần gian:

‘Thời kì đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’. Mk 1,15.

Nước Thiên Chúa đến cho những ai đón nhận Đức Kitô làm chủ đời mình. Tìm kiếm nước Thiên Chúa mà từ chối đón nhận Đức Kitô là một cám dỗ lớn. Tìm kiếm nước Thiên Chúa hàng ngày chính là một phần của cuộc sống Kitô hữu. Mọi chiến thắng lớn nhỏ đều trông cậy vào ơn Chúa giúp sức, phù trợ, ban ơn. Ngoài ra đều là tìm vinh danh cho chính mình.

-----------------------------------

 

MC 1-ABC499: HIỆP SĨ CỦA THIÊN CHÚA


Thiên San

 

Tin Mừng thánh Maccô kể lại rất gắn gọn việc Đức Giêsu vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ. Sau MC 1-ABC499


Tin Mừng thánh Maccô kể lại rất gắn gọn việc Đức Giêsu vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ. Sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Đức Giêsu được Thần Khí đẩy vào hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ, sống giũa loài dã thú và được các thiên sứ hầu hạ. Sau đó, người đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi người ta sám hối ăn năn vì Nước Trời đã đến gần (x. Mc 1, 12-15).

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu hoàn toàn để cho Thần Khi đẩy Người vào hoang địa. Ở đó, Người trải qua bao thử thách, cám dỗ của xa tan nhưng Người đã chiến thắng nhờ Lời Thiên Chúa (Mt 4, 1-11). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian này cũng tựa như một hoang địa, bủa vây bao cám dỗ. Chúng ta hãy bước vào hoang địa ấy với tâm thế sẵn sàng chiến đấu của Đức Giêsu, trong sự thúc đẩy của Thánh Thần. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng được đầy tràn Thánh Thần và trở nên con cái Thiên Chúa. Chúng ta hãy bước vào cuộc chiến ấy như một “hiệp sĩ” của Thiên Chúa. Nếu chiến đấu với sức riêng, ta sẽ dễ dàng bị đánh gục.

Đức Giêsu cũng bước vào cuộc chiến ấy với bản tính con người thật sự. Người chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Bởi đó, người cũng hiểu rất rõ những khó khăn khi phải chiến đấu với ba thù: thế gian, ma quỷ, xác thịt. Cũng trong cuộc chiến này, Đức Giêsu dạy ta hiểu rằng, là hiệp sĩ của Thiên Chúa thì phải chiến đấu bằng vũ khí của Thiên Chúa ban cho là Lời của Người. Đó cũng là vũ khí của sự sáng: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13, 12). Mục đích của cuộc chiến nhằm giúp ta tôi luyện khả năng sống theo thánh ý Thiên Chúa.

Hình ảnh Đức Giêsu sống giữa loài dã thú cách hài hòa là hình ảnh rất đẹp. Nếu ta sống trong sự hướng dẫn của Thần Khí, chiến đấu như một hiệp sĩ đích thực của Thiên Chúa chúng ta sẽ dành được chiến thắng. Các thế lực của sự dữ sẽ không làm chủ được ta. Khi ấy, ta sẽ có khả năng sống hài hòa với mọi người, với mọi sinh vật và với thiên nhiên. Hoa quả của Thần Khí chẳng phải là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5, 22). Còn nếu sống theo sự thúc đẩy của xác thịt, thế gian hay “bán linh hồn cho quỷ dữ” chúng ta sẽ không có khả năng sống hài hòa như vậy, ngay cả với chính mình. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng,thờ quấy,phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5, 19-21).

Chúng ta là những “hiệp sỹ” của Thiên Chúa. Chúng ta không được chủ quan vì “ma quỷ không bao giờ ngủ”. Trên tay của chúng phải luôn trang bị đầy đủ khí giới của Thiên Chúa. Lời Chúa có khả năng giúp ta chiến thắng. Ta hãy sống Lời Chúa mỗi ngày để Lời của Người trở thành lợi khí trong cuộc chiến nơi hoang địa của ta. Thánh Thần sẽ luôn hướng dẫn ta “dàn binh bố trận”.  Hãy để Thánh Thần đẩy ta đi. Can đảm lên hỡi những “hiệp sĩ” của Thiên Chúa!

-----------------------------------

 

MC 1-ABC500: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG GIAO ƯỚC


Maria Việt Trinh

 

Bước vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay, bài đọc 1 nhắc lại sự kiện Thiên Chúa cho Đại Lụt MC 1-ABC500


Bước vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay, bài đọc 1 nhắc lại sự kiện Thiên Chúa cho Đại Lụt Hồng Thủy để thanh tẩy mặt đất, đưa cuộc sống muôn loài trở lại như trước qua giao ước với ông Nô-ê, với con cái cùng với muôn loài ở với ông (x. St 9, 8-15). Bài đọc 2 của vị Tông đồ trưởng Phêrô gửi cho các tín hữu để khích lệ, củng cố niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh của họ. Cả ba bài đọc đều diễn tả chân dung tuyệt hảo của Thiên Chúa.

Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã kí kết giao ước với dòng dõi ông Nô-ê và hứa sẽ không còn cho nước trở lại trong cơn Hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Vì yêu nên Thiên Chúa đã để Đức Ki-tô đến thế gian cùng sống, cùng chung chia kiếp sống nhân sinh, và cuối cùng chịu sỉ nhục, chịu chết đau đớn trên cây Thập giá vì tội lỗi chúng ta.

Thiên Chúa đã yêu chúng ta quá nhiều. Tình yêu Ngài dành cho tôi, cho bạn luôn trọn vẹn, mãi mãi, không thể nào nhiều hơn và cũng không thể ít đi. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy đến gần hơn với Thiên Chúa, hãy đáp trả tình yêu của Ngài, dành cho Ngài trọn tâm trí, trái tim, cuộc đời, cái mà đáng lẽ Ngài luôn xứng đáng được hiện diện. Sự gắn kết giữa chúng ta với Thiên Chúa không đem lại vinh quang mới nào cho Ngài, nhưng đem lại cho chúng ta mối tương quan đằm thắm và hạnh phúc vững bền ngàn đời, đó là được Ơn Cứu Độ. Hãy bắt chước Đức Giêsu-Kitô, tuy là ngôi Hai Thiên Chúa, cùng chung một tinh thần kết hợp mật thiết giữa ba Ngôi với nhau, nhưng Người vẫn hằng liên lỉ cầu nguyện, thinh lặng để gặp gỡ, lắng nghe Thiên Chúa Cha dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Thiên Chúa vì yêu mà sáng kiến ra giao ước. Con người vì được Chúa yêu mà cam kết hãm mình ăn năn, một lòng hướng về Thiên Chúa duy nhất. Thế nhưng, trải qua bao thế hệ, con người vẫn sa đi ngã lại trước cám dỗ, vì sự yếu đuối của mình mà đánh mất ân nghĩa với Thiên Chúa, phản bội Giao ước đã thiết lập từ xưa. Nhưng Ngài vẫn chờ đợi, lại còn đặt để các ngôn sứ đến thúc bách, kêu gọi con người ăn năn sám hối để được tha tội. Cuối cùng, Ngài đã sai chính Con một mình là Đức Giêsu-Kitô đến. Người đã lui mình vào hoang địa bốn mươi ngày để cầu nguyện; sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, khi hay tin Gioan Tẩy giả đã bị nộp, Người mới bắt đầu rời hoang địa, đến miền Galilê kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta khi muốn khởi sự bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, đừng quá vội vàng làm mà quên tĩnh lặng cầu nguyện với Thiên Chúa. Vì chính Ngài mới có thể giúp chúng ta hoàn tất mọi công việc cách hoàn hảo nhất.

Hãy sám hối để được hưởng giao ước. Thiên Chúa vẫn cho chúng ta cơ hội và chờ đợi chúng ta. Nhưng vào ngày sau hết, chính Ngài sẽ phán xử công minh với mỗi người. Đừng để ngày tàn mới biết trời từng sáng; đừng để cái chết ập đến mới biết mình từng có cơ hội sửa sai. Lạy Chúa! Ngay chính khi tâm hồn con hối lỗi ăn năn trở lại, vẫn là nhờ ơn Ngài. Xin thương xót mà đánh thức tâm hồn mỗi chúng con, kẻo quá muộn!.

-----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây