Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-A Bài 101-150: Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài): "Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Tuần qua Đức Kitô đàm đạo với chị phụ nữ tại giếng nước. Chị nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa và xin Ngài ban cho nước trường sinh. Nước rửa sạch tội đời để được sống muôn đời.
Tuần này câu chuyện người mù từ lúc mới sinh cho thấy lợi ích khác của nước. Nước rửa sạch bụi trần, lột trần tăm tối. Mang lại ánh sáng cho người mù giúp anh trở nên con người mới. Con người của niềm tin, nhân chứng trung kiên cho Đức Kitô.
Người ta thường nói mù dẫn mù cả hai sa xuống hố. Câu chuyện người mù hôm nay Chúa thực hiện trái ngược thói đời. Người mù chỉ đường cho kẻ tự nhận sáng mắt.
Bởi vì tự hào mình sáng nên không biết là sáng mắt thể lí có thể mù mắt tâm linh và mù mắt thể lí có thể sáng mắt tâm linh.
Có lẽ trong ánh sáng ngầm chứa mầm tối và trong tối ẩn dấu sự sáng. Mạnh sẽ khống chế yếu. Nếu ánh sáng mạnh hơn nó sẽ, đẩy lui làm lu mờ bóng tối. Nếu bóng tối mạnh hơn nó sẽ bao trùm, phủ kín ánh sáng.
Người mù từ lúc mới sanh từng sống trong tăm tối. Anh trở nên sáng vì anh khao khát ánh sáng. Khi ánh sáng đến anh vui mừng đón nhận. Anh trân trọng chào đón và mắt anh được sáng. Anh nhìn thấy vật mà trước đây chưa từng thấy. Anh còn nhìn rõ hơn cả những nhà lãnh đạo trong cộng đoàn. Chính vì nhìn rõ, tốt và chính xác hơn mà nhà lãnh đạo ghen, tức với anh. Họ xỉ vả và cuối cùng lạm quyền xua đuổi anh khỏi hội đường. Anh mù được sáng mắt thể lí. Quan trọng hơn anh còn sáng cả con mắt tâm linh, con mắt đức tin. Nhờ thế mà anh nhìn và nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ. Mắt anh từ từ được mở ra.
Đầu tiên anh không nhìn thấy Đức Kitô. Anh nhận biết Ngài như thầy thuốc nhân hậu Anh tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.
Chính nhận biết này mà anh gặp rắc rối, chống đối từ các người tự nhận là sáng mắt. Họ kết án anh là quân tội lỗi. Không phải tội thường mà tội ngập đầu. Có nghĩa là anh sinh ra trong đống tội.
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư. Rồi họ trục xuất anh c.34
Điều lạ
Điều lạ lùng là người mù bị hất hủi mà không giận hờn. Bị xua đuổi mà không tủi hổ. Bị coi thường mà vẫn kính trọng người. Bị đối xử bất công mà vẫn công tâm làm chứng. Bị áp bức không sờn lòng. Rất có thể anh đã quen với lối xã hội đối xử bất công với người tàn tật. Điều chắc chắn là ơn Chúa trong anh mạnh hơn mọi khốn khó. Ơn chúa ban cho anh an bình nội tâm nên anh bình tĩnh, trung kiên, trước sau như một, làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Một nhân chứng gây chia rẽ trong nội bộ nhà lãnh đạo. Phúc âm nhắc rất vắn gọn.
Thế là họ đâm ra chia rẽ c.16
Điều lạ khác là hàng xóm, láng giềng không nhận ra anh. Kẻ xác quyết chính anh. Kẻ khác cãi không phải. Kẻ nữa trung dung hơn giải thích, không phải anh mà là người nào đó trông giống anh. Tất cả đều tự nhận mình mắt sáng nhưng đều không biết mình mờ khi cần phải quan sát, nhận định. Càng không nhận ra nhận định của mình mù quáng.
Có lẽ giọng nói người mù vẫn như xưa, còn mọi sự đều mới. Mắt anh sáng. Cách xử thế trong sáng. Dáng đi thay đổi, không còn dò đường như xưa. Anh đứng thẳng mà không khòm lưng kiểu xin ăn. Anh thành con người mới trong Đức Kitô. Thay đổi tốt hơn nơi anh không mở mắt cho người mắt sáng. Trái lại làm cho họ mù mờ thêm.
Người ta mù mờ ngay cả với sự xác nhận của anh. Anh quả quyết chính anh là người mù, được Đức Kitô chữa làm cho sáng mắt. Anh còn kể mạch lạc đầu đuôi, diễn tiến sự việc, dẫu thế người ta vẫn mù loà trong lối suy nghĩ cứng nhắc của mình. Cứng ngắc trong phán đoán là một loại mù quáng ít ai chấp nhận. Người ta bảo anh
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu c.34
Với họ anh luôn là tội nhân. Tật mù loà bẩm sinh của anh trở thành một tội không thể tha thứ. Giờ đây anh sắng mắt. Người ta muốn anh chối bỏ chính con người anh. Nếu không chối bỏ, được sáng mắt anh vẫn mang kiếp tội nhân. Trong tâm trí nhà lãnh đạo anh luôn là tội nhân. Anh không được phép thay đổi. Sanh ra kiếp nào mang số đó đến ngàn đời. Đức Kitô đã thay đổi số kiếp cho anh. Biến anh thành chứng nhân Kitô cho dân tộc anh, cho thế giới.
Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người c.38
Anh sấp mình xuống trước mặt Ngài biểu tỏ lòng khiêm nhường nơi người mù. Anh sấp mình xuống, vì anh hạ mình xuống nên Đức Kitô nâng anh dậy và cho anh nhận biết sự sống trường sinh. Anh có một ước mong duy nhất, được mắt sáng và anh được toại nguyện. Sáng mắt, anh ước mong được trở thành môn đệ Đức Kitô và Ngài đón nhận anh. Nghe nói họ trục xuất anh. Đức Kitô tìm đến an ủi, tạo cho anh cơ hội tuyên xưng đức tin. Thưa Ngài, tôi tin.
Nhà lãnh đạo có mắt mà nhìn không thấy vì bản tính cao ngạo của họ. Chính bản tính cao ngạo này gây chia rẽ giữa họ. Làm cho họ ra mù mờ về Đức Kitô, cản trở họ nhận biết Đức Kitô và cản trở người khác đón nhận Chúa. Chúng ta cầu xin biết sống khiêm nhường bởi đây là lối sống dẫn đến sự sáng tâm hồn.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy,ánh sáng của Chúa là cần thiết cho con người. Để giải quyết những vấn đề nhân sinh, trước hết phải có ánh sáng của Chúa soi rọi, và con người biết vâng nghe thực hiện lời của Chúa. Bài đọc thứ hai, thư Êphêsô thánh Phaolô nói “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.
Câu chuyện trong Tin Mừng càng chứng tỏ tính cách độc đáo ánh sáng của Chúa. Anh mù từ khi mới sinh, được Chúa Giê su nhìn thấy, Chúa động lòng thương và cứu chữa bằng cách mời gọi anh làm theo lời Ngài chỉ dẫn. phần anh Mù, đã thể hiện niềm tin vào Chúa Giê su, một cách thành tâm thiện chí, anh đã cẩn thận thực hiện lời chỉ bảo của Ngài, nhờ đó mà Anh được sáng mắt. Có thể nói ở đây chúng ta nhận ra, Thiên Chúa luôn là Đấng đi bước trước, ban bố lòng thương xót của Ngài để mang đến cho con người chúng ta ánh sáng thật, nhờ ánh sáng này là nguồn gốc để con người có hướng giải quyết những vấn đề nhân sinh. Cũng như anh Mù, con người cần có niềm tin thật sự vào chính tình yêu của Chúa bằng cách biết vâng nghe, thực hiện lời chỉ dẫn của Chúa nữa, cuộc sống con người mới trở nên trong sáng sáng, thoát khỏi những đau thương và có nhiều niềm vui hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện chữa bệnh cho anh Mù, Điều gây ấn tượng mạnh mẽ cho chúng ta nhận thấy; Anh Mù không những sáng đôi mắt thể xác, mà anh còn nhận ra chính danh Chúa Giê su. Lúc đầu anh chỉ biết một người đang đối thoại thân mật với anh tên là Giê su, rồi dần dần anh nhận ra Ngài là một ngôn sứ và cuối cùng Anh đã quỳ lạy nhìn nhận và tuyên xưng Ngài là một Thiên Chúa: “Lạy Chúa con tin”. Chúa Giê su cùng một lúc khai sáng con mắt thể xác và đôi mắt tâm hồn của anh Mù. Anh không những được hạnh phúc phần xác và còn đạt đến hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn vì anh đã biết tuyên xưng Chúa Giê su là Chúa của mình.
Trong Tin mừng hôm nay xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về nguyên nhân gây nên bệnh mù, về Người cứu chữa. Đó là cái nhìn của con người, còn Chúa Giê su thì trả lời cho các môn đệ “ Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội.....Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng...bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Chúa Giê su có một nhãn quan khác chúng ta, cái nhìn của Ngài hoàn toàn khác với chúng ta. Ngài quan tâm đến hoàn cảnh đau khổ hiện tại của anh mù, và nhiệm vụ Ngài được sai đến. Ngài muốn thi hành sứ mạng đặc biệt của Ngài để chứng tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho loài người, làm cho con người khỏi đau khổ đi đến hạnh phúc và đỉnh cao là giải phóng, cứu độ con người.
Cuôc sống con người ngày nay, người ta tưởng chừng như đạt đến nhiều tiến bộ đến tột cùng. Các nghành công nghệ phát triển một cách nhanh chóng vượt bậc, như công nghệ tin học, điện tử, các lãnh vực khác nữa của khoa học kỹ thuật làm cho con người lên tới tận mặt trăng, sao hỏa v.v . chính vì vậy mà con người ngày nay có vẻ tự hào về những thành quả đạt được. Tự hào đến độ cho rằng chỉ cần nhiều tiền, nhiều của cải vật chất phát triển khoa học là giải quyết được những vấn nạn nhân sinh, vì thế không ít người, suốt cuộc đời lao vào những lãnh vực tìm kiếm cho được nhiều tiền của. Dưới ảnh hưởng của sự tự mãn nơi con người trong xã hội hiện đại này, nhiều người đã có những ý tưởng tôn thờ chủ nghĩa duy vật chất, duy khoa học kỹ thuật, tôn thờ năng lực con người, và cũng từ đó nhiều hệ quả kéo theo là cuộc sống trở nên tục hóa trầm trọng, vô cảm và tinh thần hưởng thụ tràn ngập. Biết bao nhiêu điều đạo đức thánh thiên bị con người làm giảm xuống đến mức độ tệ hại, như nhân phẩm, phụ nữ, trẻ em, thai nhi, hôn nhân, con người, sự sống v. v và các vấn đề thiêng liêng khác nơi các tôn giáo cũng bị ảnh hưởng không kém: những nghi lễ bị biến dạng, đôi khi chỉ còn là những lễ hội vui chơi. Rồi một hiên tượng nữa cuộc sống đang diễn ra trước mắt chúng ta đó là tình trạng tha hóa, sa đọa, suy đồi về đạo đức, dối trá lan tràn cũng được bày ra không ít. Tinh thần tục hóa và chủ nghĩa tương đối ảnh hưởng không nhỏ đến cách sống đạo nơi người kitô hữu hiện nay.
Tự hào như thế, chủ nghĩa duy khoa học hay vật chất chủ nghĩa mang một tham vọng rất lớn, cũng không giải quyết nỗi những căng thẳng trong những vấn đề trung tâm của cuộc sống con người. Trên thế giới và tại nhiều miền khác vẫn còn đầy dẫy những đau khổ, bất hạnh, hố phân cách giữa giàu có và nghèo đói mỗi ngày một lớn hơn, nạn phá thai, ly dị, sự đổ vỡ hạnh phúc, gia đình ly tán, chiến tranh, loạn lạc, xung đột, môi trường sống ô nhiễm, hư hại, tính an toàn trong thức ăn thức uống, giao thông bị đe dọa cách trầm trọng.
Người ta dùng những hiểu biết khoa học kỹ thuật để giải quyết cuộc sống. Nhưng kết cục, cuôc sống con người ngay nay vẫn nằm trong vòng lẫn quẫn, chưa mang lại an bình và hạnh phúc thật sự. Thế giới tương tự như người mù, trong tối tăm, mất ánh sáng, loay hoay dò dẫm tìm hướng đi cho mình, nhưng chưa có lối thoát đích thực vì quá cậy dựa vào khả năng giới hạn của mình. Còn quá nhiều góc tối vẫn tồn tại trong thế giới hiện tại
“Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.” (trích sứ điệp truyền thông của ĐGH Phanxicô)
Mù tối giam giữ chúng ta trong tối tăm, lầm lạc, bức màn đen tối luôn phủ khắp không gian, chúng ta dường như lần mò trong đường hầm không chút ánh sáng, mọi hoạt động trở nên vất vả, hết sức khó khăn. Ánh sáng thật cần thiết cho chúng ta, nhờ nó chúng ta mới dễ dàng nhận thấy đường đi nước bước đời mình. Mù tối, mê muội cần phải được tháo gỡ khỏi cuộc sống con người chúng ta. Chúa Giê su đã thi hành sứ mệnh “mở dạy kẻ mê mụội”, giải thoát người mù tối, mang lại ánh sáng niềm tin cho con người chúng ta.
Để thoát khỏi tình trạng mù tối, lẫn quẫn, bế tắt, con người ngày nay hơn bao giờ hết, được các giáo huấn của Giáo Hội mời gọi đến gặp gỡ Chúa Giê su là ánh sáng khai mở của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, gặp Ngài trong đối thoại, người Kito hữu gặp Ngài trong cầu nguyện, kinh nguyện sáng tối, trong ân sủng các Bí tích và biết khiêm tốn vâng nghe thực hành những chỉ dẫn của Thiên Chúa là Cha qua Đấng trung gian duy nhất,Chúa Giê su Kito. Giáo lý của Ngài chính là những hướng dẫn đưa cuộc sống con người thoát ra khỏi mù tối.Chúa Giê Su, một Thiên Chúa làm người, chỉ Ngài mới đủ quyền năng để cứu chữa con người chúng ta. Ngài là ánh sáng từ Thiên Chúa đến soi rọi vào cảnh đời tăm tối, cứu chữa sự mù lòa nơi cuộc sống con người trần gian. Chỉ những ai, những cộng đồng xã hội nào, tiếp cận gặp được Ngài, thực hiện những gì Ngài chỉ giáo thì kể như gặp được ánh sáng nơi Ngài và có được cơ hội vượt khỏi sự tối tăm đau khổ.
Việc khai sáng của Chúa Giê su thực hiện cho anh mù, ngày nay cũng chính là công việc của người ki tô hữu chúng ta nữa. Với đời sống của mình, chúng ta được mời tham gia vào việc khai sáng cho người tối tăm lầm lạc, mang ánh sáng đến cho đời bằng những việc làm thiết thực, đạo đức thánh thiện, như những ngọn đèn luôn cháy sáng soi roi cho trần gian hôm nay.
Minh chứng rõ ràng nhất cho việc cuồng tín của phần lớn người dân Việt trong xã hội hiện nay ấy là bói toán, lên đồng cốt, trở thành một nghề ăn khách, đặc biệt ở các thành phố lớn. Dẫu ở các tỉnh xa xôi, hẻo lánh nào, nếu có “giác quan thứ 6” là lập tức những người có khả năng hiếm có này tìm đường tìm nẻo về thành phố “lập kế sinh nhai” bằng nghề bói toán.
Như bà H. ở Hoàng Hoa Thám, chưa đến 45 tuổi, ở tận Quảng Ngãi ra Hà Nội hành nghề, mà nay đã trở thành “tên tuổi” không thể thiếu trong giới những người đoán vận hạn. Lúc đầu, chỉ là thử ra Hà Nội xem có trụ lại được ở đất Hà thành không, vài tuần bà lại ra Hà Nội một lần để “xem” cho những khách đã “đặt lịch”. Sau thấy lịch ngày càng dày lên, đến nỗi bà phải “làm việc” từ sáng sớm đến đêm, hơn cả người đi làm hành chính. Thế là bà ở lại luôn Hà Nội và biến Hà Nội thành nhà, Quảng Ngãi chỉ là nơi ở tạm. Tất nhiên, để ở lại Hà Nội, bà không thể thuê như trước đây mà bà mua một căn hộ để ổn định. Và điều đáng nói là tất cả số tiền chuẩn bị cho cuộc sống ổn định này đều “xuất xứ” từ nghề bói toán của bà. Chưa nói đến căn biệt thự của bà ở Quảng Ngãi được xây dựng cũng từ số tiền này mà ra.
Lịch “làm việc” của bà: bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến khi bà thấy mệt, không thể “nói” nữa mới thôi, cuối tuần không nghỉ, thậm chí ai mời đến tận nhà để xem cho kỹ, bà cũng đến, chẳng quản ngại đường sá xa xôi. Người viết đã từng chứng kiến, hôm nào ít bà cũng phải xem cho khoảng chục khách, hôm nào nhiều thì “cháy” lịch, phải gạt sang hôm khác. Và lượng người đến xem bói của bà lúc nào cũng vậy, đều… như vắt chanh, làm cho thu nhập của bà cũng vì thế mà dư giả vì trung bình 200 nghìn đồng/người. Cũng cần phải nói thêm đấy là tự họ đặt tiền chứ bà không yêu cầu. Và bà kể, có những người một tuần đến xem của bà 3-4 lần liên tiếp do “nhà có chuyện”.
Một chuyện nữa minh chứng cho việc cuồng tín của người dân Việt hiện nay ấy là đốt vàng mã. Theo số liệu thống kê, mỗi năm tiền mua vàng mã người dân Hà Nội lên đến 400 tỉ đồng. Còn trên toàn quốc chắc phải tính đến đơn vị cân đong khoảng 50 nghìn tấn tiền vàng mã dựa trên quan niệm “trần sao âm vậy” hay “tốt lễ dễ kêu”. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền cho rằng, đây là hành động “buôn thần bán thánh”, “phỉ báng thánh thần” của người dân hiện nay và điều đó cho thấy sự cuồng tín đã đến mức không thể nào kể xiết. ( Lại bài chuyện cuồng tín, Phật giáo Việt Nam ).
Cuồng tín là tình trạng mù lòa tâm linh, không nhìn thấy đâu là sự thật, đâu là chân lý, vì bị thói háo danh, háo lợi, chức tước che mắt, ám ảnh chi phối. Nên dễ mê muội nghe theo những lời xảo trá vừa lòng. Không chỉ người Biệt phái xưa cuồng tín, mà nay tất cả những ai choáng ngợp và đam mê phù hoa thế gian, đều không có khả năng nhận ra ánh sáng thế gian. “Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian." Tin Mừng hôm nay, tường thuật Đức Giêsu làm phép lạ chữa người mù bẩm sinh, không những được sáng mắt mà còn được sáng lòng.
Đức Tin hành động
"Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa." Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. Anh mù mau mắn vâng lời Đức Giêsu phán bảo, được sáng mắt ngay. Niềm tin của anh được minh chứng, thể hiện bằng hành động cụ thể. "Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 ).
Hơn nữa, niềm tin còn được củng cố, chứng minh bằng việc sống theo Lời Chúa, nhất là tuân giữ các giới răn của Chúa. "Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy" ( 1Ga 2, 3-4 ).
Đức Tin chiến đấu
Mặc dầu Đức Tin của anh mù được sáng còn non nớt, anh đã chịu gian nan thử thách, khi buộc phải chiến đấu với những người Biệt phái, đang ra sức chống đối, xúc phạm, tẩy chay Đức Giêsu. Anh hùng hồn bác bỏ luận điệu xuyên tạc về Người. “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời.”
Anh mù chẳng phải cậy sức mình chiến đấu, chính Đức Giêsu đã ban cho anh dồi dào ơn can đảm, soi sáng, mở lòng trí, tăng sức mạnh, cũng như ứng xử bén nhạy, thông minh, để phản công hữu hiệu.“Thật vậy, khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới, nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn luỹ.” ( 1Cr 10, 4 )
Cuộc chiến cam go, dai đẳng, khốc liệt nhất luôn là chiến đấu với chính bản thân. “Ðiều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi ghét.” ( Rm 7, 15 ) Nhưng nếu đặt hoàn toàn niềm tin, niềm cậy trông, niềm mến vào Chúa thì chắc chắn không bao giờ thua cuộc. “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ.” ( Ep 6, 10-11 ).
Đức Tin làm chứng
Dựa vào lỗi luật ngày Sabat, người Biệt phái lên án Đức Giêsu, nhưng anh mù mạnh bạo phản biện lại vụ luật mù quáng. “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì."
Dù bị người Biệt phái khai trừ ra khỏi cộng đoàn, vì anh mù vẫn trung kiên làm chứng cho Đức Giêsu. Ban đầu Người là “một Tiên Tri,” sau này, anh công khai nhận là Thiên Chúa."Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh." Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người."
“Con phải can đảm để sống Đức Tin hàng ngày, bằng các thánh tử đạo can đảm để giữ Đức Tin.” ( Đường Hy Vọng, số 287 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm sức mạnh cho Đức Tin yếu ớt của chúng con, để chúng con can đảm đi theo Chúa, mặc bao gian khó, thử thách, đau khổ sẽ dành cho tín hữu Kitô chúng con.
Kính xin Mẹ Maria nhân ái, xin luôn an ủi, che chở, dắt dìu chúng con dũng cảm, kiên trì chịu đựng bao thách đố trên hành trình về quê Trời. Amen.
Hoàn cảnh người mù từ lúc mới sinh được Chúa Giê-su chữa lành mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khiến người ta liên tưởng đến chứng mù khác đáng sợ hơn nhiều. Đó là chứng mù con mắt lương tri, mà tiêu biểu nhất là “mù-tội”, nghĩa là không thấy được những sai lầm và tội lỗi của mình.
Biểu hiện rõ nét nhất của chứng “mù-tội” là người ta không thấy được tội mình, do đó chẳng hối hận và cũng chẳng hề tự trách mình.
Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.
Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba đức độ của người Do-thái, cũng mắc phải chứng “mù-tội” này.
Vua mê đắm nhan sắc của bà Bát-sê-ba, bà này là vợ của U-ri-a. Vua chiếm đoạt bà, rồi mượn tay quân giặc giết chồng bà là U-ri-a ngoài mặt trận. Sau đó, vua đón bà về cung làm vợ chính thức của mình (II Sam 11 và 12). Vua Đavít đã phạm một tội to như núi như thế mà vẫn ung dung như thể mình chẳng phạm tội gì.
Thế nhưng, khi nhà vua nghe ngôn sứ Na-tan cho biết có một ông nhà giàu có nhiều dê cừu, sai tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của một ông lão nghèo bên cạnh để làm tiệc đãi khách, thì vua bừng bừng nổi giận và lên án người đó cách gắt gao.
Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Vua lên án tội nhỏ của người khác mà bao che tội ác to lớn của mình.
Người đời như thế đấy, tội mình to như núi, mình không thấy; tội người ta chỉ bằng viên sỏi, thì thấy rõ ràng.
Đúng như lời Chúa nói: Các ngươi thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Mt 7,3). Chứng “mù-tội” vô cùng tai hại
Chứng “mù-tội” gây ra hậu quả tai hại ngàn lần hơn là mù mắt, vì hầu hết những người mù mắt đều tốt lành thánh thiện, chẳng làm gì nên tội, trong khi đó, người “mù-tội” thường gây ra nhiều tội ác. Họ gây nhiều tội ác vì họ không thấy tội lỗi của mình và dù có thấy, họ cũng cho là chuyện nhỏ, chẳng lớn lao gì.
Chứng “mù-tội” rất khó chữa
Sở dĩ khó chữa là vì người ta không nhận ra sai lầm và tội lỗi của chính mình. Không thấy mặt minh dơ thì người ta không cần rửa mặt; không thấy áo quần bẩn thì chẳng cần phải đổi thay; không thấy bản thân mình lầm lỗi thì cần gì phải ăn năn hối cải. Thế là người ta đắm chìm trong tội suốt đời.. Vì thế, đây là một chứng bệnh rất khó chữa.
Như vậy, mù không thấy được tội lỗi và tính xấu của mình là một chứng mù đáng sợ và tai hại khôn lường, vì thế phải lo cứu chữa ngay đừng trì hoãn.
Lạy Chúa Giê-su,
Sứ mạng của Chúa khi đến trần gian là “làm cho người mù được sáng” (Lc 4,18) và Chúa đã thực thi sứ mạng này bằng cách mở mắt cho nhiều người mù từ lúc mới sinh, cũng như khai tâm cho nhiều người để họ nhận biết và sống theo giáo huấn của Chúa.
Xin dủ lòng thương xót, mở mắt tâm hồn, mở mắt lương tri cho chúng con, để chúng con nhận ra những sai lầm, những tội lỗi và những thói hư mà chúng con vấp phạm hằng ngày, đồng thời xin giúp chúng con kiên quyết ăn năn chừa tội hầu xứng đáng là con của Cha trên trời.
-------------------------- [1] “How to Win Friends and Influene people”. page 23
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời. Để nhìn đời và để làm duyên. Mẹ cho em đôi mắt màu đen. Để thương để nhớ, để ghen để hờn. Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn. Là bài thơ hay nhất. Là lời ca không dứt. Là tuyệt tác của thiên nhiên. Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên. Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt: “Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .
Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.
Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra. - Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt. - Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.
Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.
- Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".
- Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".
- Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.
- Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".
Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 - 43)...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Đức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt. Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt. Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên. Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì ta đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, “ Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Lý do ấy là: “ Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… “ (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, sau cùng đôi mắt anh mở ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa” và trả lời câu hỏi Ngài đặt ra cho anh: “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: “ Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; “ Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình ... anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” ( St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: “ Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt “ (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Chúng ta là con cái ánh sáng
Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “ Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.
Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành “con của sự sáng“ (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành “con cái Thiên Chúa“ (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh “ hoa trái của sự sáng“ (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.
Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian’ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.
Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Đấng Cứu Thế. Amen.
Có thể nói: Tin Mừng Gioan là tin mừng Ánh Sáng, vì ngay phần đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã phấn khởi ca tụng Ánh Sáng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời … Và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,1-4).
Ánh sáng ấy được Ngôi Lời đem đến cho nhân loại, cho từng người, như người mù từ lúc mới sinh đã được Đức Giêsu chữa lành để nhìn thấy ánh sáng (x. Ga 9).
Nhìn những người anh em khiếm thị, chúng ta thấy họ vẫn sống, nhưng sự sống của họ luôn bị đe đọa vì không thấy đường, mà đường đi đầy những chướng ngại có thể làm họ té ngã, bị thương và có thể chết, vì đập đầu vào đá, vào tường, rơi xuống hố rãnh, sông rạch, hoặc bước vào lửa đang cháy nóng ; anh em khiếm thị vẫn có thể sống, nhưng sống trong lo lắng vì không thấy những nguy hiểm rình rập quanh mình.
Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù từ thuở mới sinh được Tin Mừng Gioan kể lại là một hẹn hò mang tính sinh tử. Trong cuộc hẹn này, Đức Giêsu đã đưa anh mù từ bóng tối của những đe doạ, hiểm nguy đưa đến sự chết vào vùng ánh sáng của sự sống được đảm bảo, bình an.
Trong cuộc hẹn hò sinh tử này, chúng ta thấy cuộc chiến rất gay go giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin của người mù được sáng mắt và những người biệt phái tuy mắt sáng nhưng cứng lòng không đón nhận Đức Giêsu là “Ánh Sáng Muôn Dân” (Ga 8,12).
1. Cuộc chiến trường kỳ và căng thẳng giữa Ánh Sáng và Bóng Tối:
Vừa rời khỏi Đền Thờ để tránh cơn mưa đá của những nngười Do Thái qúa khích, Đức Giêsu “nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh” (Ga 9,1) thường ngày ngồi ăn xin bên lề đường (x. Ga 9,8), và Ngài chữa anh khỏi đui mù, khi “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9,6-7).
Chắc chắn anh hạnh phúc, vui mừng lắm, vì lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy ánh sáng, được chiêm ngắm trời đất, thiên nhiên, con người, nhất là được nhìn thấy cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân thuộc. Và cũng có nhiều người đã đến chung niềm vui với anh.
Nhưng bên cạnh những người đang vui với niềm vui được sáng mắt của anh, đã có những người như các ông Pharisêu đã không vui vì anh được chữa lành, đã không hài lòng vì anh được nhìn thấy, đã không bình an khi anh được Đức Giêsu làm phép lạ ban cho ánh sáng. Họ là những người đang bực tức, căm giận, chỉ vì anh được chữa lành, và được sáng mắt. Nhưng chính trong hoàn cảnh này, anh có dịp công khai tuyên xưng đức tin của anh vào Đức Giêsu, người đã cứu chữa anh ra khỏi bóng tối.
Trước nhóm Pharisêu hùng hổ vặn hỏi, và không ngớt đe đọa, anh luôn giữ một lập trường: kể lại chính xác những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói với anh: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11). Bị chất vấn: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp: “Người là một vị Ngôn Sứ !” (Ga 9,17).
Những người Do Thái ghét Đức Giêsu còn mắng nhiếc anh thậm tệ và hạ uy tín của Đức Giêsu khi chụp mũ, lên án Ngài là người tội lỗi, cốt đế anh nghi ngờ, không tin Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa (x. Ga 9,24-33). Họ còn áp đảo tinh thần cha mẹ anh, bằng đe dọa: “trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô” (Ga 9,22).
Sau cùng, vì không chịu nổi tính bất khuất, lòng biết ơn và niềm tin sắt đá của anh, nhóm Pharisêu và những người Do Thái về phe họ đã vô cớ ra án cho anh: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?. Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9,34).
Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không ?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38).
Qủa thực, anh mù bẩm sinh được Đức Giêsu chữa lành đã trải qua nhiều thử thách gây ra bởi những người Biệt Phái ganh ghét Đức Giêsu, và quyết tâm trừ khử Ngài. Vừa được sáng mắt sau bao nhiêu năm mù lòa, anh tưởng sẽ được bình an, hạnh phúc với mắt sáng như mọi người, nào ngờ cả một thế lực tôn giáo tấn công anh, bắt anh phải phủ nhận phép lạ anh vừa nhận, ép anh phải từ chối hồng ân từ tay người có tên Giêsu, đối thủ số một của những người đang o ép, khống chế, mua chuộc, gài bẫy anh phải nói dối, cũng như ráo riết “mớm cung” để anh phải bóp méo, bức tử “sự thật” bằng không nhận đã được Đức Giêsu “trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo: Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”, nhất là không được to tiếng công bố với niềm xác tín: “Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11).
Anh đã phải chiến đấu cam go trước cám dỗ được yên thân, được cơ chế tôn giáo ủng hộ, được đám đông tuyên dương, để có thể nói thật điều mình nghĩ đúng, nói đúng điều mình nghĩ thật, khi công khai “kể đúng” những gì Đức Giêsu đã “thật sự” làm cho anh, và nhắc lại “đúng” những lời của người chữa lành mắt đã “thực sự” nói với anh. Anh phải chiến đấu vất vả vì lực lượng hùng hậu, và ma mãnh của Bóng Tối đã không chấp nhận Ánh Sáng được trả lại cho anh, vì Bóng Tối muốn mãi mãi thống trị anh, và không muốn anh đón nhận Ánh Sáng như hồng ân.
Những năm tháng mù loà, anh không thể mường tượng thế nào là ánh sáng, vì bóng tối với thời gian đã làm anh quen và không còn thấy xa lạ, khó chịu, bực bội với bóng tối, như người sống nhiều năm trong hang động, hay lâu ngày bị giam cầm dưới hầm tối sẽ lảo đảo, té nhào phút đầu tiếp cận ánh sáng, nên khi có ánh sáng ùa vào cuộc đời, anh cũng phải dũng cảm chiến đấu để Vượt Qua bóng tối, đi vào Ánh Sáng, chứ không ngoan cố ở lì trong bóng tối và không chịu thoát ra.
2. Kết qủa khác biệt giữa Ánh Sáng và Bóng Tối:
Anh mù được chữa lành đã thấy ánh sáng, và khi đón nhận ánh sáng, anh đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã cứu anh khỏi bóng tối mù loà.
Đấng ấy đến để ban ánh sáng cho nhân loại, nhưng không phải tất cả mọi người đều mở lòng đón nhận ánh sáng như anh. Bằng chứng là những người Pharisêu và nhiều người Do Thái có mặt hôm đó đã lên tiếng phủ nhận phép lạ ánh sáng của Đức Giêsu khi Ngài chữa lành anh, mặc dù phép lạ đã xẩy ra tỏ tường, và họ kiểm chứng được tận mắt, tận tay, tại chỗ.
Đó là lý do thánh Gioan Tông đồ đã nhấn mạnh trong phần mở đầu Tin Mừng: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11). Cũng như chính Đức Giêsu đã khẳng định, trước những ngoan cố, và phủ nhận Ánh Sáng của nhóm Pharisêu và những người Do Thái cứng lòng: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy đuợc thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
Nhìn vào anh mù được chữa lành, chúng ta thấy anh là người thiện tâm, khi lương thiện đón nhận “hồng ân được sáng mắt” được ban từ tay người có tên Giêsu, mà sau đó anh đã tuyên xưng niềm tin ở Ngài và sấp mình bái lậy (x. Ga 9,38). Chính nhờ mở lòng đón nhận hồng ân ánh sáng, Thiên Chúa đã cho anh được gặp Ngài, nhận ra Ngài và thờ lậy Ngài. Cũng chính vì nhận ra ơn Thiên Chúa ban cho mình, mà anh được bình an, dũng cảm để làm chứng bằng nói lên sự thật Thiên Chúa đã làm cho anh, trước mọi thách đố, cạm bẫy, cám dỗ, thử thách của ác nhân.
Bên cạnh ơn bình an của đức tin, anh còn nhận được hoa trái ngon ngọt của Ánh Sáng là Lương Thiện, Công Chính và Chân Thật như thánh Phaolô đã ân cần nhắc bảo các tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng ; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9).
Ngược lại, khi nhìn vào những người chống lại ánh sáng, tức chống lại Đức Giêsu, như nhóm Pharisêu, chúng ta thấy họ không tin, dù đã thấy tận mắt, đã sờ tận tay ; thấy họ không bình an, nhưng bất an, bất ổn, tâm hồn bấn loạn vì hận thù, ganh ghét, khi tìm đủ cách ngụy tạo, vu khống, thúc giục người này người kia làm chứng gian, nói dối, bóp méo sự thật, như họ đã điên cuồng làm áp lực trên anh mù và gia đình anh.
Chúng ta cũng thấy ở những người từ chối ánh sáng này con người và thái độ không chút “lương thiện, công chính và chân thật”, qua tư tưởng bất chính, lời nói xảo quyệt, và việc làm gian ác, khi tìm mọi cách tận diệt niềm tin của anh mù vào Đức Giêsu, và giập tắt ánh sáng anh vừa nhận được như hồng ân vô cùng lớn lao từ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.
Vâng, như anh mù được sáng mắt, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, chúng ta được Thiên Chúa cho sáng mắt, được lớn lên và xứng đáng hơn mỗi ngày với ơn huệ làm con cái Ánh Sáng, khi thấy tất cả mọi người, mọi sự chung quanh mình, và nhìn mọi biến cố xẩy ra hằng ngày theo cái nhìn của Thiên Chúa, và dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta không ngủ mê trong bóng tối, nhưng trỗi dậy dưới ánh sáng rạng ngời của Đức Giêsu (x. Ep 5,14), Ánh Sáng cứu độ của Thiên Chúa, Ánh Sáng cứu chuộc muôn dân.
Trong tập truyện có tựa đề: “Một trăm lẻ một giai thoại về Thiền”, tác giả Xen-da-ki có ghi lại câu chuyện sau đây:
Thời xa xưa, mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật Bản thường dùng những chiếc lồng đèn. Một đêm kia, một người mù đến thăm một người bạn. Lúc ra về thấy người mù đi hai tay không người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh ta. Nhưng người mù từ chối và hỏi:
- Đối với một người mù như tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì? Bóng đêm hay ánh sáng đối với tôi đều như nhau cả.
Người bạn trả lời:
- Tôi vẫn biết rằng anh không cần lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm trong tay thì kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy có thể sẽ đụng vào anh.
Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về. Đi được một đoạn đường, người mù bị một kẻ đi đường tông vào mình. Không tự chế được, người mù quát tháo inh ỏi:
- Bộ đui sao? Không thầy chiếc lồng đèn tôi đang cầm đây sao?
Người kia bình tĩnh phân trần:
- Này ông bạn, ông bạn đang cầm lồng đèn. Nhưng ngọn đèn bên trong đã tắt rồi.
Thế là người mù cầm đèn cũng không thấy đường. Còn người sáng mắt lại không thấy đèn của người mù. Vậy ai mới thật là người mù?
Thưa anh chị em,
Người mù là người đáng thương nhất. Người ấy sáng trong tăm tối và như bị giam trong tù ngục: không thấy đường đi, nơi ở, không thấy trời cao, cảnh đẹp, không thấy người mình yêu thương… Nhưng khổ hơn nữa là mù tinh thần: Sống mà không biết cuộc sống sẽ đi về đâu? Tại sao phải sống? Sống cho ai và sống để làm gì?
Chúa Giêsu đã nói, sau khi người mù được thấy “Tôi đến thế gian để cho người không xem thấy được thấy và kẻ thấy lại nên đui mù”. Chúa Giêsu đã làm cho người mù được thấy. Ngài không chỉ tái lập người mù trong thế giới của giác quan mà còn đưa anh ta vào thế giới của niềm tin. Anh không chỉ thấy bằng mắt mà còn thấy bằng cặp mắt đức tin. Đức tin là một giác quan mới mà Thiên Chúa ban cho con người, nhờ đó con người có thể thấy được những thực tại vô hình, thấy được Thiên Chúa trong Đức Giêsu, thấy được sự sống, ánh sáng bên kia những mất mát, thất bại, khổ đau trong cuộc sống.
Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. Ngài đến để soi sáng cho mọi người được nhận biết Thiên Chúa là tình thương cứu độ. Ngài đem ánh sáng đến cho đôi mắt của anh mù, đem ánh sáng đức tin đến cho anh để anh vừa được thấy Chúa và nhận được Ngài là Đức Kitô, là Chúa Cứu Thế. Ngược lại, những người Biệt Phái Pharisiêu, mắt vẫn mở và trông thấy Chúa Giêsu tỏ tường, nhưng lòng họ vẫn đóng kín, không nhận ra Chúa trong tình thương cứu chữa. Họ đã từ khước ánh sáng, không tin nhận Đức Kitô. Thì ra họ mở mắt mà không thấy. Thầy mà như mù. Được nghe lời Chúa giảng dạy, được chứng kiến các việc Chúa làm mà vẫn cố chấp không tin Ngài, đó là một tình trạng mù tinh thần, chính Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn!”.
Thưa anh chị em,
Điều kiện tiên quyết cho những ai muốn bước đi trong ánh sáng, đó là phải nhận biết bóng tối mùa lòa của chính mình. Chỉ những ai biết mình mù tối mới khát khao sự sáng và mới chân thành đón nhận ánh sáng. Ai đã thấy Chúa Kitô, đã biết Ngài mà không đón nhận và hiệp thông với Ngài, thì thực sự là chưa thấy, chưa biết Ngài. Do đó, vẫn đi trong tối tăm. Ngược lại, ai đã tin, đã đón nhận và hiệp thông với Chúa Kitô là đã đi trong ánh sáng.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta điều đó khi ngài nói: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn tối tăm. Nhưng ngày nay, qua bí tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh chiếu soi” (x. Ep 5,8-14).
Như thế, sống tinh thần Mùa Chay là bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô, là làm bừng sáng lên ánh sáng của Tin Mừng trong cuộc đời chúng ta bằng những hành động cụ thể thiết thực, như Ngôn sứ Isaia đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu Mùa Chay: “Hãy xóa bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi thứ gông cùm, chia cơm bánh cho người đó, tiếp rước kẻ phiêu bạt không nhà, cung cấp áo quần cho ai rách nát, không né tránh trước đồng bào cốt nhục… Lúc đó, ánh sáng của anh em sẽ bừng lên như hừng đông” (Is 58,6-8).
Bởi vì, thưa anh chị em,
Tin vào Chúa Giêsu, như anh mù được chữa lành trong Tin Mừng hôm nay là phải gắn liền đời mình với việc làm chứng cho Ngài, là phải đồng số phận với Ngài. Anh mù bị lôi ra để điều tra xét hỏi, bị xỉ vả, nhục mạ, nhưng anh đã đứng về phía Chúa Giêsu và trở thành người làm chứng cho Ngài, kể cả bị loại bỏ khỏi Hội đường Do Thái giáo. Bằng mọi giá, anh luôn trung thực với lời chứng của anh, đó là: “Đức Giêsu là người bởi Thiên Chúa mà đến”.
Cho thấy, anh mù là người đã được thấy sự thật và làm chứng cho sự thật. Còn những người Biệt Phái Pharisiêu là những người có mắt mà không thấy. Họ mới thật là những người mù.
Anh chị em thân mến,
Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường chúng ta phải đi và những việc chúng ta phải làm để đạt đến hạnh phúc thật. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12).
Khác với nhiều phép lạ, phép lạ này được làm không phải do một lời cầu xin. Chính Đức Giêsu chủ động đưa ra sáng kiến: “Đức Giêsu trông thấy một người mù”. Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy một người mù". Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy những thử thách của tôi.
Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.
Câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta. Của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Những người xưa chỉ bằng lòng với một lý thuyết cổ xưa hơi quá đơn sơ một chút; sự xấu do bởi một tội lỗi. Nhưng chính Đức Giêsu lại không đặt vấn đề như vậy. Hơn nữa người không đề ra một giải đáp nào: cái xấu vẫn không chấp nhận được, không thể biện minh được. Chỉ có một phản ứng bình thường, có tính nhân bản nhất về nền tảng, đó là cố mà loại bỏ cái xấu xa này chẳng nào chúng ta có thể làm được. Và cuộc chiến đấu chống lại đau khổ không phải vô ích, hay cuối cùng chịu thất bại, bởi vì Đức Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng đấy là cuộc chiến đấu của chính Thiên Chúa: hành động rõ rệt mà vì thế Đức Giêsu tự xưng mình "là người được sai đi". Được sai đi? Bởi ai? Thế thì, Đức Giêsu này. Người từ đâu mà đến?
Vấn đề về nguồn gốc của Người này lại còn quan trọng hơn thế, vì hẳn là Người trông thấy toàn bộ việc thế gian chấm hết: Người biết Người sắp chết, đêm đã tới, và Người phải hành động bao lâu Người còn ở thế gian.
Cái chết mà Người thấy trước qua nỗi thù hận của các đối phương của Người (Ga 7,19-32.44; 8,59), đó sẽ là chiến thắng bề ngoài của sự xấu, chiến thắng của bóng đêm (Ga 13,30).
Nhưng bóng tối không chặn được ánh sáng" (Ga 1,5-9). Cám ơn Người, lạy Đức Giêsu. Vinh quang thuộc về Người, vì Người đã soi chiếu đêm tối của chúng con!
Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
Một mô tả cụ thể để lộ người chứng tận mắt, Gioan. Nước bọt của một số người, theo những người xưa, có một giá trị dược liệu. Nhưng nhất là, chúng ta khám phá ở đó, thêm một lân nữa, cái thiên tài của Gioan, nhà thần học biểu tượng chủ nghĩa... và nhà thần học nhiệm tích... Vâng, người đàn ông mù từ thuở mới sinh này, bên kia trượng hợp cá nhân đầy xúc cảm, thực sự là một biếu tượng của nhân loại bị nhận chìm trong đêm tối, khi họ không biết Đức Giêsu, khi những đau khổ của loài người có vẻ như không có ý nghĩa. Và cái giếng Si-lo-ê này, bên kia vùng nước có thật của nó trong khu vực thấp trũng của Giêrusalem, thực sự là một biểu tượng của phép rửa thanh tẩy và chiếu sáng.
Điều làm cho Gioan, nhà thần học, chú ý, đó trước hết không phải là con người kỳ diệu lạ lùng, được kể ngắn gọn chỉ bằng ba dòng, đó chính là dấu hiệu biểu trưng mà Đức Giêsu đưa ra về chính mình và được biểu lộ qua cái tên huyền nhiệm của cái giếng "Si-lô-ê có nghĩa trong tiếng Do Thái là "Shilloah" Người được sai đi". Được sai đi? Do ai?
Cái bản vị Giêsu, Đấng được sai đi, nêu ra nhiều vấn đề hoài nghi xác định lập trường, tranh cãi, Người là ai? Không người nào đã từng bao giờ đặt nhiều câu hỏi như thế. Tại sao? Định mệnh của Người là gì? Phép lạ của người mù được chữa khỏi mới xong khi Đức Giêsu dường như vừa đi khỏi hiện trường. Nhưng vấn đề chính là về Người trong quá trình một vụ án kỳ lạ tập tục, thông qua bản thân của người đã được hưởng lòng tốt của Đức Giêsu. Chúng ta sắp dự vào bốn cuộc hỏi cung liên tiếp, ngày càng bắt nhân. Nhưng cuối cùng, chính Đức Giêsu can thiệp lại để kiện lại những đối phương của Người.
VỤ KIỆN I:
Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” có người nói: "Chính hắn đó!". Kẻ khác lại rằng: 'không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giồng hắn đó thôi!". Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!". Người ta liền hỏi: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?". Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ê mà rửa". Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được" Họ lại hỏi anh: “ông ấy ở đâu?”. Anh ta đáp: “Tôi không biết”.
Đó là những người làng xóm đã làm cuộc điều tra ưu tiên: Cái gì đã diễn ra? Nó đã diễn ra như thế nào? ai đã làm chuyện đó? Lúc này chúng ta chỉ nghĩ tới một động tác tự nhiên vì có thiện cảm nên tò mò. Ngày nay vẫn còn. Có một số đông người cùng thời với chúng ta chỉ chú ý đến Đức Giêsu tới chỗ đó: người ta nhận xét một sự kiện... nhưng người ta không muốn rắc rối cuộc đời và người ta không đi xa hơn. Còn về anh mù được chữa lành, chính anh ta trở về từ rất xa. Chúng ta lưu ý là anh ta chưa biết gì về Đức Giêsu cả, anh ta chỉ biết người ta gọi ông ấy là Giêsu.
VỤ KIỆN II:
Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
Đứng trước Đức Giêsu, ý kiến bị phân rẽ: người này thì ủng hộ... người kia thì chống đối... Người, con người có thiện chí, bắt đầu từ từ mà tiến lên. Ngoài ra đó là những điều phiền nhiễu của những người điều tra muốn đây anh ta đi xa hơn. Bây giờ anh ta khẳng định: Đó là một ngôn sứ. Lạy Chúa. xin giúp chúng con tiến đi trong đức tin.
VỤ KIỆN III:
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được." Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.
Thế là một thái độ khác đối diện với Đức Giêsu đó là một sự trốn chạy. Nhưng người ta chối từ, không muốn tự đặt cho mình một số vấn đề có thể gây ra liên lụy. Không thể tôi thường thuộc vào loại này ư? Người ta có thể đừng nên làm gì để khỏi có nhiều chuyện!
VỤ KIỆN IV:
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến." Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì." Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.
Những người Pharisêu, bị lún sâu vào trong hệ thống của họ: Họ "biết"! Đó tà tiếng họ lặp lại và tỏ rõ lòng tự mãn của họ. Họ chối từ, biến đổi, trong khi dựa vào truyền thống. Chấp nhận cái mới của một người vi phạm. Ngày Sa-bát sẽ làm cho hệ thống giáo điều của họ lâm nguy. Như vậy họ chối từ bằng chứng hiển nhiên. Và như thế họ phạm tội duy nhất có trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: chối từ lòng tin... muốn là một người không tin...bịt mắt trước huyền nhiệm Đức Giêsu. Ta hãy chú ý đến cách sử dụng tinh vi của động từ "biết" nhờ đó, người ta thấy rõ các cửa mở vào đức tin hay lối chặn cho sự không tin. 1. Cha mẹ "biết" đó chính là con trai họ... nhưng họ không muốn "biết" ai đã mở mắt cho con họ, để không bị liên lụy (9,20-21). 2. Những người Pharisêu "biết" Đức Giêsu đã từ đâu đến (9,24-29). 3. Anh mù chính anh ta không "biết" Đức Giêsu đi đâu, không "biết" đó có phải là một người tội lỗi không... nhưng anh ta "biết rằng anh ta đã được chữa khỏi và “biết" rằng Thiên Chúa không đoái nghe những người tội lỗi (9,12-25-31). Còn chúng ta, chúng ta có đi tìm chân lý không? Chúng ta có bị chặn trước những hiểu biết của chúng ta không? Chúng ta có ham hiểu biết nhiều hơn không, mở con mắt đui mù của chúng ta ra không?
Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Trong khi những người Pharisêu bị giam hãm trong sự vô tín của họ, thì anh mù, chính anh lại không ngừng tiến lên trong lòng tin, và chúng ta chú ý là lòng tin này chỉ đạt tới đỉnh cao theo sáng kiến và vấn đề bản vị của chính Đức Giêsu. Tất cả những câu hỏi mà các đối thủ đặt ra cho anh ta, đâu làm cho anh tiến lên, nhưng sự tuyên xưng đức tin của anh ta chỉ thành tựu nhờ cuộc gặp gỡ bản thân của Đức Giêsu. Còn chúng ta, đức tin cửa chúng ta có tiến lên, theo gương của người mù này, người dần dần mở mắt trước huyền nhiệm, một cách tiệm tiến không? ban đầu người ta chỉ đứng trước "người mà người ta gọi là Giêsu (9,11). Và rồi người ta phát hiện "một ngôn sứ "(9,17)... một người nào đến từ "Thiên Chúa" (9,88)... và sau cùng "Con Người" (9,35) và "Chúa (9,38). Đây là sự trả miếng của Thiên Chúa. Người bất hạnh đáng thương đã tìm thấy hạnh phúc đích thực duy nhất. Mù từ thuở mới sinh, không được những người hàng xóm giúp đỡ nhiều lắm, không được cha mẹ nâng đỡ bị đuổi ra khỏi giáo đường như một tên bị bệnh ôn dịch... Nhưng mềm vui tin tưởng to lớn biết bao!
Đức Giêsu nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!" Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" Đức Giêsu bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: `Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"
Đó là sự lật ngược hoàn hoàn các tình huống: "tội lỗi không ở chỗ những người Pharisêu đã đặt nó, chính họ là những người khinh miệt người tội lỗi bẩn thỉu này bị đánh dấu từ thuở mới sinh... và coi sự đui mù đích thực không hề ở chỗ mà họ đặt ra. Chính họ là những người mù, chỉ mình họ chối từ, không trông thấy cái đập thẳng vào mắt họ.
Ta hãy chú ý đến điều Đức Giêsu khẳng định: không phải Thiên Chúa lên án họ theo bề ngoài,… chính họ là những người tự lên án mình.
Cuộc Phán xét chỉ đến chuẩn nhận cái mà người ta đã quyết đinh một cách tự do. Đó chính là sự phi lý tự sát của việc chối bỏ đức tin. Với Ni-cô-đê-mô, Đức Giêsu đã nói: Ai chối bỏ lòng tin thì đã bị lên án rồi... phán đoán là như thế này đây: những người ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng (Ga 8,18-19). Bản thân Đức Giêsu buộc phải có một chọn lựa: phải chọn lựa! Trong Thánh Gian, có một tác dụng thường xuyên giữa hai động từ "thấy" và "tin"...Người ta trông thấy những dấu chỉ muốn mời gọi tin tưởng (Ga 1,50; 3,86; 4,48; 6,26-36.40; 9,39-41; 11,45; 20,8; 20,29). Và Chúa Giêsu, ở đây, khẳng định mạnh mẽ rằng những người Pharisêu không thể dung tha vì không tin, bởi vì họ đã trông thấy dấu chỉ, bởi vì các ông trông thấy... tội các ông vẫn còn.
Bài Thánh thư và bài Tin Mừng cho phép ta nếu muốn, có thể gọi Chúa nhật hôm nay là Chúa Nhật Ánh Sáng; nhưng như vậy phải tách riêng bài sách Samuel. Và cũng là dịp để ta thấy: không tất nhiên các bài đọc bao giờ cũng phải chung một đề tài. Tuy nhiên Phụng vụ luôn có chủ ý khi chọn những bài đọc khác nhau. Như hôm nay, đang Mùa Chay, cần giáo huấn tân tòng và tín hữu, Phụng vụ có thể đề xuất nhiều đề tài khác nhau để tiến hành việc giáo huấn mau lẹ và đầy đủ hơn. Chúng ta thử nắm hết các lời giáo huấn trong Chúa nhật này.
A. Bài Sách Samuel
Samuel được sai đi xức dầu phong vương cho Đavít. Câu truyện đơn sơ, dễ hiểu và có vẻ thuộc loại văn lịch sử. Nhưng trong Kinh Thánh, nhất là trong Kinh Thánh Cựu Ước, nhiều khi "vẻ" văn lịch sử chưa chắc đã là văn sử. Người xưa thích kể chuyện khi dạy dỗ. Ở đây có lẽ cũng thế. Tác giả kể việc xức dầu phong vương cho Đavít thật rõ ràng. Cả nhà Đavít đều chứng kiến. Thế mà ở đoạn sau đó, tức chương 17,28 sách 1Samuel lại cho ta thấy Eliab, người anh cả của Đavít, lại cư xử với em như với một đứa nhỏ chẳng có giá trị gì. Rồi trong 2Samuel đoạn 2,4 và 5,3 lại nói đến việc xức dầu cho Đavít làm vua Yuđa và Israel như đã không biết gì về việc Samuel đã xức dầu cho Đavít. Như vậy nếu coi bài đọc chúng ta vừa nghe như một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện lịch sử, mượn câu chuyện lịch sử Đavít đã được xức dầu làm vua một lần nào đó (và việc này có thật) để đưa ra một lời dạy dỗ, thì ý của tác giả thánh thế nào?
Ông muốn nói rằng: Đavít đã được một tiên tri xức dầu làm vua. Vương quyền Đavít nhận được có ơn tiên tri. Uy quyền của ông bởi Thiên Chúa. Vua Israel là người được Thiên Chúa chọn, là đấng xức dầu của Người, là người được Thần trí Chúa hướng dẫn. Như vậy, trong lịch sử Dân Chúa sẽ có một sự tiếp nối liên tục giữa thời các Thẩm phán và thời các Hoàng đế. Các hoàng đế tuy làm vua nhưng cũng được như các thẩm phán, là những bậc được Chúa chọn để ban Thần trí hầu cứu dân trong một hoàn cảnh rất đặc biệt của lịch sử. Nói tóm lại, Đavít được nhà tiên tri xức dầu làm vua, thì vua Đavít sẽ có Thần trí của Thiên Chúa hướng dẫn và ngài sẽ cứu thế, cứu dân.
Do đó Phụng vụ Mùa Chay thật có lý để dùng bài Cựu Ước này. Đức Kitô Con Vua Đavít, là Đấng đã được xức dầu, thì cũng là Đấng Cứu Thế. Và nếu được phép suy nghĩ tỉ mỉ hơn nữa, dường như Phụng vụ còn muốn nói thêm: như Đavít là em út trong nhà, có bộ mặt khôi ngô sáng sủa đã được chọn một cách chẳng ai ngờ, thì Đức Kitô cũng sẽ cứu thế theo phương thức chẳng ai đoán được. Người sẽ sống khiêm nhu, bé nhỏ và sẽ chết trên Thập giá. Nhưng nhìn vào sự thánh thiện trong sáng của Người, muôn dân đã thấy bừng lên ơn cứu độ.
Một bài học như thế đáng cho chúng ta, tín hữu cũng như tân tòng, suy nghĩ trong Mùa Chay và suốt cả cuộc đời. Chúng ta tin Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên Tri và là Cứu Thế. Và chúng ta hãy xem trong bài Tin Mừng hôm nay Người đã cứu thế cách nào?
B. Bài Tin Mừng
Người là Đấng, như Chúa nhật trước đã cho ta biết, lấy công việc làm theo Ý Đấng đã sai Người, làm lương thực hàng ngày. Hôm nay Người cũng khẳng định như thế, và nói bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào các việc của Đấng đã sai chúng ta (c.4). Hiện giờ thì còn là ngày, vì "khi Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian" (c.5).
Và sự sáng thì phải soi sáng. Vậy có một người mù từ thuở mới sinh đang đứng đó. Môn đồ không hiểu vì sao có sự kiện ấy. Còn Đức Kitô ý thức mình là sự sáng, nên thấy ngay đây là công việc Chúa Cha gửi đến cho mình. Người chữa anh ta khỏi.
Câu truyện có thể đến đó là xong. Nó đã đủ để chứng minh: Đức Kitô là sự sáng. Nhưng khốn nỗi, không những Người là sự sáng nhưng còn là sự sáng thế gian, sự sáng đến trong thế gian; khiến Yoan phải viết thêm: thế gian đón nhận sự sáng ấy như thế nào? Và đó là ý nghĩa của phần còn khá dài trong bài Tin Mừng hôm nay.
Phần này quảng diễn một khẳng định mà Yoan đã viết ngay ở đầu cuốn Tin Mừng của người: sự sáng rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được sáng (1,5). Quả thật, việc Đức Yêsu mở mắt người mù đã như ánh sáng bùng lên trước mặt mọi người. Ai ai cũng bàn tán hỏi nhau (c.8), chẳng làm sao hiểu được. Người ta phải đưa vấn đề trình lên các Biệt phái. Tòa làm việc nhộn nhịp, hỏi cung người mù, đòi chứng của cha mẹ anh ta, hỏi lại anh ta một lần nữa, nỗ lực vùi dập vụ này đi... nhưng đã không triệt được sự sáng. Rõ ràng Yoan muốn ám chỉ: Biệt phái đang mưu mô hại Chúa, nhưng họ sẽ thua. Cuộc tử nạn mà họ muốn Người phải chịu sẽ làm cho họ phải bẽ bàng vì biến cố Phục sinh. Bài Tin Mừng hôm nay, như thế, còn nói lên mầu nhiệm Chúa sống lại của Phụng vụ ngày Chúa nhật và của đích điểm Mùa Chay Thánh.
Chưa hết! Tác giả Yoan còn tiếp tục. Người mù bị các Biệt phái tống cổ ra ngoài. Đức Yêsu được tin. Người đi tìm anh ta, ban cho anh ta được ơn nhận ra Người và thờ lạy Người. Còn các Biệt phái vì tự phụ là người sáng mắt, nên tội lỗi còn nguyên. Đúng như lời Chúa nói: "Ta đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù".
Tác giả Yoan muốn cảnh tỉnh chúng ta đó. Công việc của Thiên Chúa đã hiện tỏ (c.3); mầu nhiệm Phục sinh đã sáng rực. Ai khiêm cung sẽ được soi sáng; còn ai tự phụ sẽ lại đui mù.
Như thế bài Tin Mừng cũng là một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện. Đoạn văn trong sách 1 Samuel đã cho chúng ta thấy Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên tri, là Cứu thế. Bản Tin Mừng Yoan nói thêm: Người đã đến trong thế gian như sự sáng, mà tối tăm không triệt được, để ai mù được thấy, ai sáng sẽ mù; để ai tin Con Người thì được rỗi (c.35) và ai không tin sẽ còn nguyên tội lỗi.
Riêng chúng ta đã tin Chúa rồi thì thế nào?
C. Bài Thánh Thư
Thánh Phaolô đáp: "Xưa kia anh em là tối tăm nhưng nay, trong Chúa, anh em là sự sáng; anh em hãy đi đứng như con cái sự sáng. Mà hoa quả của sự sáng là mọi việc nhân lành, công chính và chân thật".
Những lời ấy đủ để đưa hết thảy chúng ta đi vào con đường của sự sáng. Nhưng không biết chúng ta có nên khiêm tốn hơn không và thú nhận có lẽ mình cũng còn cần phải được soi sáng? Câu cuối cùng trong bài thư Phaolô có vẻ gợi lên điều đó. Và tác giả khuyên chúng ta hãy đứng lên để được Đức Kitô chiếu soi.
Kìa xem người mù, sau khi được Chúa mở mắt cho, đã dần dần trở thành con người có giá trị đến nỗi xứng đáng được Chúa đi tìm để ban thêm ơn đức tin. Anh ta đã biết nói sự thật với tất cả mọi người, và dần dần biết biện phân phải trái, khiến các Biệt phái phải bực tức thốt ra lời thú nhận tự ti mặc cảm.
Chúng ta cũng sẽ tăng thêm giá trị cho chúng ta khi chúng ta để Người chiếu soi. Mà Người thường làm công việc này qua Sách Thánh, qua giáo huấn của Hội Thánh, qua cả việc học tập và suy nghĩ trong yên lặng vì con người có học mới sáng, và có sáng mới làm được những công việc nhân lành, công chính và chân thật.
Như vậy, chúng ta hãy đến xin Đức Kitô soi sáng cho chúng ta không những trong Thánh lễ này, mà còn trong mọi lúc chúng ta suy nghĩ, học hành, đọc sách vở và nhất là Sách Thánh.
Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác... Vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu trọng Lư); hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp[...]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được...”.
Như vậy, con mắt quả là quan trọng, nên người ta rất sợ bị mù. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Ngược lại với nhiều người đương thời với anh. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.
Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài. 1. Hai cách nhìn và hai lối sống
Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể! (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”(Is 55, 8).
Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi... (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay như ngọn đèn soi rọi vào tận tâm hồn chúng ta để lộ ra sự ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo. Điều này được thể hiện rõ khi chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:
Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm... thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích... những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo!
V.V.
Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã bao lần ta đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời!
Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa! Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1).
Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, Đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Con Thiên Chúa đã sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “...giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.
Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh. Amen.
Ở đời người ta thường nói:” Giầu có hai con mắt.Khốn khó hai bàn tay “. Diễn tả điều ấy, người ta muốn cho chúng ta thấy đôi mắt quý giá như thế nào và hai bàn tay cũng quan trọng làm sao ! Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay cho chúng ta thấy anh mù bẩm sinh vừa bị mù thể lý, vừa bị mù cả đức tin. Anh mù này không thể thấy vũ trụ, vạn vật, thế giới, cũng không thấy được con người. Đây là sự thiệt thòi và đau khổ nhất cho anh. Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ quý giá, anh mù đã được Chúa làm cho sáng mắt: đôi mắt thể lý và đôi mắt tâm hồn…
Để được sáng mắt, anh mù đã phải trải qua một cuộc chiến mệt mỏi, dai dẳng, một cuộc hành trình chông gai do anh chưa thể hiểu được tôn giáo, do anh chưa nhận ra đức tin, do luật tôn giáo lúc đó cản ngăn, do sự cứng cỏi, chống đối của Pharisêu, những người xem ra mắt thể lý sáng, nhưng lại hết sức tối tăm, mù mịt vì đức tin. Cuộc hành trình đi tới đức tin của anh để anh có thể nhận biết Chúa cứ bị đe dọa, chống đối, cản ngăn, cứ bị ngăn cản, đe dọa bởi giới có chức, có quyền, có uy lực của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó vv…Anh đã nỗ lực, đã cố gắng vượt bực, đồng thời với sự khai mở, vén lộ của Đức Giêsu Kitô, anh mù đã vượt thắng biết bao khó khăn từ nhiều phía để rồi anh đã có một đức tin ngời sáng, đức tin mạnh mẽ, sâu xa và tỏa sáng.Vâng, chính anh mù này đã bênh vực cho Chúa Giêsu, đã làm chứng cho phép lạ của Chúa bởi vì nhiều người đã phủ nhận phép lạ Người làm vì họ cho rằng Chúa Giêsu đã vi phạm luật không được chữa bệnh trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày nghỉ ngơi không được làm việc, không được họ. chữa bệnh, không được cứu vớt vv…Anh mù đã bênh vực cho Chúa và đã mạnh mẽ tuyên xưng đức tin:” …Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì “ ( Ga 9, 32-33 ).
Anh mù đã biện phân một cách chí lý bởi vì nếu Chúa Giêsu là kẻ tội lỗi thì làm sao Người có thể làm cho anh mù sáng mắt được. Những người lên án Chúa Giêsu như Kinh sư, Biệt phái, Pharisêu, những người Do Thái cứng lòng, họ có mắt thật đấy nhưng tâm hồn của họ lại mù lòa.Họ có mắt nhưng thực sự như không có mắt. Họ tưởng họ sáng nhưng thực tế họ đang mù lòa. Những người này vẫn cố chấp, vẫn sống lì lợm trong tội lỗi, nên họ không thể nhận ra được Thiên Chúa, không thể hiểu được Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng cứu độ đã đến trần gian.. Họ không thể nhận ra được Chúa Giêsu đã chữa cho anh mù, là Đấng Cứu thế, là Con Thiên Chúa, đang đứng trước mặt họ. Họ đã chai lì, đã mù lòa cả xác và tinh thần. Họ thật là bất hạnh vì không thể nào nhận ra Thiên Chúa…
Chúa Giêsu đã làm một phép lạ mà y khoa muôn đời sẽ bó tay vì mù bẩm sinh không thể nào chữa được, không thể nào làm cho sáng mắt được. Chúa đã dùng quyền năng phi thường của Thiên Chúa để làm cho anh mù từ bẩm sinh được sáng mắt về mặt thể lý, nhưng trên hết Chúa đã khai mào đức tin, ban đức tin cho anh để anh tin mạnh mẽ, tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã chữa lành mù lòa cho anh. Đây quả là phép lạ về lòng tin bởi vì có nhiều người sáng đôi mắt thể lý họ nhìn được vạn vật, nhìn được con người nhưng lại mù tịt về đức tin.
Có một loại mù lòa về tinh thần, về tâm hồn. Họ có mắt thật đấy nhưng họ không thể có đức tin để nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ đã đến trần gian để cứu rỗi nhân loại, cứu rỗi con người. Những người Do Thái có đôi mắt thể lý, họ thấy Chúa Giêsu và thế giới, nhưng đôi mắt đức tin của họ thì bị mù vì họ không tin Đức Giêsu Kitô có thể làm phép lạ chữa bệnh, và cũng không tin Người là Thiên Chúa,la Ánh Sáng, thậm chí họ còn muốn tấn công, làm khó dễ, bắt bớ và trục xuất tất cả những ai dám nói rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Ánh Sáng, là Đấng Cứu Độ, là Lời hằng sống, xin Chúa chữa lành bệnh hoạn tật nguyền của chúng con, xin mở mắt cho chúng con để chúng con có đức tin mạnh mẽ làm chứng cho Chúa là Con Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Mù bẩm sinh có nghĩa gì ? 2.Anh mù bẩm sinh đã tin nhận vào Chúa như thế nào ? 3.Khi được chữa khỏi mù lòa, anh đã làm chứng cho Chúa ra sao ? 4.Mù thể lý và mù tâm hồn có nghĩa gì ? 5.Tại sao những người Pharisêu lại không nhận ra Chúa ?
Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh cho thấy: Đức Giê-su chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng ấy. Trong cuộc đối thoại, anh mù đã từng bước hiểu biết về Người: Từ "một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ !” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Cuối cùng là “Con Người” (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” và sấp mình trước mặt Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn tìm Chúa mới gặp được Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5:
+ Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Chính Đức Giê-su có lần cũng chia sẻ tư tưởng ấy: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14).
+ Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh: Ở đây Đức Giê-su còn coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Đức Giê-su đến nhằm giải thoát cho họ (x. Lc 13,16).
- C 6-9:
+ Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù: Theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Đức Giê-su làm như vậy để thử thách đức tin của người mù.
+ Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh nhìn thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng cho những ai đang ngồi trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.
- C 35-41:
+Anh có tin vào Con Người không?: Sau khi mở con mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin như Người đã từng làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26).
+ Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải là lên án (x. Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu soi để tỏ cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21).
+ Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ những ai khiêm tốn và thành tâm đón nhận đức tin mới được nhìn thấy ơn cứu độ.
4. CÂU HỎI:
1) Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không ?
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39). 2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI SẮP SÁNG ?
Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: “Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến ?” Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu… Đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy các đồ đệ như sau: “Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta”. (Anthony de Mello).
2) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH BẢN THÂN:
Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên yêu cầu các quan tìm kiếm một người biết nói đùa. Người ta đã dẫn đến cho vua một thiền sư.
Nhật hoàng nói: “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và sẽ không bị hài tội về lời nói đùa”. Thiền sư nói: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo”. Nhà vua nói: “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!” Thiền sư đáp: “Còn hạ thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y như Đức Phật!” – Nhà vua liền thắc mắc: “Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”- “Tâu bệ hạ, dễ hiểu thôi ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn đâu cũng thấy Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng thấy lợn!”
3) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN:
Có một đôi vợ chồng kia rủ nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước vào đến cửa, bà vợ liền nhìn vào bên trong cửa hàng và nêu nhận xét nhằm chê bai cửa hàng: "Tranh thêu gì đâu mà xấu tệ! Như mặt người đàn bà trong bức tranh kia chẳng giống ai!". Ông chồng vội liền bịt miệng vợ và nói: "Đó không phải là tranh thêu đâu, mà là tấm gương soi đó. Hình người phụ nữ bà thấy kia chính là hình của bà phản chiếu trong tấm gương đó ! Tốt nhất là bà hãy giữ im lặng dùm chứ đừng lên tiếng phê phán cách hồ đồ!". Bà vợ cảm thấy xấu hổ nên đã vội bỏ về ngay sau đó.
Câu chuyện trên cho thấy thói xấu của nhiều người trong chúng ta: Tuy sáng mắt nhưng lại có tâm hồn mù tối. Nhiều khi chúng ta phê phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân tướng không tốt của mình, như người ta thường nói: "Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
4) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC MÌNH THÌ QUÁNG:
Có một học giả rất thông thái nhưng lại mắc bệnh đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một ông bạn thân. Dù đang ngồi trên lưng lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ đọc sách thánh hiền và buông lỏng dây cương. Con lừa sau khi đi được một đoạn đường đã theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà của ông. Thấy lừa dừng lại, ông học giả tưởng đã đến nhà bạn, liền xuống lừa và đi chung quanh quan sát một vòng ngôi nhà. Ông nói lời phê bình cốt để bạn ông trong nhà nghe được: "Ông bạn già của ta sao lại cẩu thả như thế này: Ngôi nhà đã bị xuống cấp gần sập đến nơi mà chẳng chịu lo sửa sang gì cả!". Vợ ông ở trong nhà nghe vậy liền bước ra và nói: "Ông nhận xét thật chính xác. Nhưng đây là nhà của ông đó !".
Trong cuộc sống, nhiều người thường có nhận định sáng suốt về chuyện của người khác, nhưng lại mù mờ về những chuyện của chính mình như người ta thường nói: “Việc người thì sáng, mà việc mình thì quáng”. (Theo Ernst Wilhelm Nusselein).
5) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI:
Ngày xưa ở Ấn độ, có một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính đi kiếm năm người bị mù từ lúc mới sinh đưa về triều đình làm trò tiêu khiển cho triều thần. Vua truyền đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng: “Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay trẫm sẽ cho các ngươi biết. Các ngươi hãy lại gần sờ vào voi rồi nói cho trẫm và quần thần biết voi có hình thù ra sao. Ai tả con voi đúng nhất sẽ được trọng thưởng”.
Anh mù thứ nhất sờ đúng cái chân của voi liền tâu: “Tâu bệ hạ! Con voi có hình thù giống như cột nhà!” Anh thứ hai sờ đúng cái tai voi vội cãi: “Không đúng. Voi giống như một cái quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói: “Voi giống như một khúc cây ngoằn ngoèo!” Anh thứ tư sờ trúng bụng voi cãi lại: “Voi giống một tảng đá lớn, tròn tròn!” Tới lượt anh thứ năm sờ trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia đều sai và tâu vua: «Voi chỉ như một cái chổi cùn!”
Anh nào cũng quyết liệt bảo vệ ý kiến của mình là đúng, và bác bỏ ý kiến của các người kia. Bn đầu họ còn nói nhỏ, về sau to tiếng và còn xông vào đánh nhau chí chóe, đang khi nhà vua và triều thần ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương của cả bọn.
Mỗi người mù nói trên chỉ biết được một phần sự thật mà tưởng rằng mình am tường tất cả và đánh giá những ai không suy nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả như họ biết khiêm tốn nhìn nhận kiến thức hạn hẹp của mình và biết bổ sung bằng ý kiến kẻ khác thì hay biết mấy.
3. SUY NIỆM:
1) Ai cũng cần có ánh sáng soi đường:
Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền lấy ra chiếc lồng đèn của mình trao cho anh mù. Nhưng anh mù từ chối và nói: “Đối với người mù như tôi thì ban ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác gì bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm theo chiếc lồng đèn vì đó là làm một điều vô ích!
Bấy giờ chủ nhà mới giải thích: « Tôi biết anh không cần đến chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì người khác sẽ không nhìn thấy anh và có thể họ sẽ đụng chạm vào người anh đấy! » Anh mù nghe bạn nói có lý nên đã nhận chiếc lồng đèn ra về.
Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào suýt bị té. Anh ta liền tức giận la mắng: « Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm chiếc lồng đèn trên tay sao? » Người kia liền trả lời rằng: “Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn lửa bên trong cây đèn đã tắt rồi. nên tôi không nhìn thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được rằng: Để đi trong bóng đêm ai cũng cần phải có ánh sáng. Ánh sáng giúp người ta thấy đường đi, thấy người khác và tránh được các trở lực trên đường. Người mù đi trong đêm tối, tưởng như không cần ánh sáng soi đường, nhưng anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để người khác khỏi đụng phải anh.
2) Có hai loại mù: Mù mắt thể xác và mù tối tâm hồn:
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng lòng hơn những người Pharisêu tự hào khôn ngoan thông thái. Người Pha-ri-sêu bị thành kiến che mờ tâm trí nên không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ và đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời do Người thiết lập.
Có nhiều bệnh mù quáng tâm hồn như sau:
- Mù quáng do lòng tham không đáy:
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án để tội Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm tội giết hại người nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (1 V Ch 21)
Mù quáng do thói ganh tị:
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn trong vinh quang. Bấy giờ các phụ nữ ca hát múa nhảy với tiếng reo mừng não bạt và ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít giết hàng vạn”. Nghe lời đó, vua Sa-un tức giận vì anh tị. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua trở thành mù quáng, đổi lòng yêu thương hóa ra thù ghét và truy lùng Đavít quyết giết cho bằng được người anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch 18).
Mù quáng do dục tình lấn lướt:
Sau khi Đavít lên làm vua thay Sa-un, ông bị mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua bị mù quáng dẫn đến chỗ phạm tội giết chồng đoạt vợ (2 Sm, Ch 11).
Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, thói kiêu căng ganh tị… mà người ta có thể trở nên mù tối phạm phải những tội ác không ngờ. Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng tâm hồn do không ý thức mình đang bị mù, nên không quyết tâm thoát khỏi tình trạng mù quáng và cuối cùng bị loại ra khỏi nước trời như các đầu mục dân Do thái xưa.
3) Hành trình đức tin của người mù trong Tin Mừng:
Niềm tin của người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh: Thoạt tiên, anh chỉ coi Chúa Giêsu là một người nào đó khi nói: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được” (Ga 9,11). Rồi khi nghe đám đông bàn tán, và bị người Pharisêu tra hỏi, anh đã nói lên suy nghĩ của mình: “Người là một vị Ngôn sứ !” (Ga 9,17). Rồi trước sự phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm bênh vực việc làm của Đức Giê-su: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,33). Cuối cùng sau khi gặp gỡ Đức Giê-su và được mạc khải Người chính là Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9,35-37), thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin”, và đã thể hiện niềm tin bằng việc sấp mình xuống trước mặt Người (Ga 9,38).
4) Sống tinh thần Mùa Chay thế nào?:
- Theo Đức Giê-su thì mù không phải là một cái tội. Cố tình bịt tai nhắm mắt do sự cứng lòng tin như các đầu mục Do thái mới là tội. Nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như các người này khi tự bịt tai nhắm mắt, cố tình không nhìn nhận những khuyết điểm lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa sám hối canh tân. Muốn biết mình ra sao, chúng ta cần có thời gian tĩnh tâm để hồi tâm sám hối và quyết tâm canh tân đời sống.
- Ngoài ra, trong bất cứ việc gì, chúng ta cần ý thức mình chỉ nhìn thấy một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng. Còn những điều ta chưa biết thì to lớn và chìm sâu dưới mặt nước. Do đó, thay vì cãi nhau khi có quan điểm và cái nhìn khác nhau, chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận ý kiến của người khác để đạt tới chân lý.
- Cuối cùng, ta cần lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, tiếp thu phê bình của người khác để nhận ra con người thật của mình, vì “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!”, và “biết mình biết người, trăm trận trăm thắng !”. Khi nhận ra con người thật của mình, chúng ta sẽ canh tân đổi mới để ngày một nên hoàn thiện theo thánh ý Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để nhận ra con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang bịt tai nhắm mắt như người Pha-ri-sêu xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên hoàn thiện giống Chúa nhiều hơn.
Hôm nay là buổi sát hạch thứ hai hoặc tuyên xưng đức tin dành cho anh chị em dự tòng trước khi họ được rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh. Lại thêm một chủ đề quan trọng về đức tin: Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Chúng ta muốn bước đi trong ánh sáng Chúa Ki-tô thì phải ra khỏi bóng tối tội lỗi, tức là để cho Chúa chữa lành sự mù lòa thiêng liêng (bài Tin Mừng), để chúng ta có thể nhìn mọi sự dưới ánh sàng của Thiên Chúa (bài đọc 1) và sống như con cái sự sáng (bài đọc 2).
Trước hết chúng ta hãy xem phép lạ Chúa Giê-su chữa lành người mù bẩm sinh. Điều lý thú chúng ta nhận thấy trong tường thuật của thánh Gio-an hôm nay không hẳn là chính phép lạ Chúa làm, nhưng là những gì xảy ra sau khi người mù đã được chữa lành. Những gì xảy ra ấy chính là những mẩu đối thoại giữa anh mù được chữa lành với “các người láng giềng và khách qua đường, giữa anh với các người Pha-ri-sêu, giữa cha mẹ anh với “người Do-thái” (một từ Tin Mừng Gio-an dùng để ám chỉ kẻ thù của Chúa Giê-su), giữa anh với “người Do-thái”. Mỗi cuộc đối thoại là một bước mặc khải cho biết Chúa Giê-su là ai. Vậy bước thứ nhất, để trả lời những người láng giềng và khách qua đường, anh nói mình chỉ biết Chúa như là “người tên là Giê-su”. Bước thứ hai, trả lời nhóm Pha-ri-sêu hỏi “anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?”, anh nói với họ: “Người là một vị ngôn sứ!” Bước thứ ba, cha mẹ anh mù tuy không dám “tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô”, vì họ sợ bị trục xuất khỏi hội đường.
Nhưng việc họ sợ và không dám nói lên chân lý, đó lại là cách gián tiếp tuyên xưng rồi! Bước thứ tư, trong cuộc đối chất với “người Do-thái” về xuất xứ của Chúa Giê-su, anh mù đã đưa ra luận lý đanh thép để khẳng định rằng Chúa Giê-su là “người bởi Thiên Chúa mà đến”. Anh nói với họ: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Sau hết là bước thứ năm, tột điểm mặc khải về căn tính đích thực của Chúa Giê-su. Đó là cuộc đối thoại giữa anh mù được chữa lành với chính Đấng đã đem lại ánh sáng cho anh, ánh sáng thể chất cũng như ánh sáng thiêng liêng. Sau khi anh bị “người Do-thái” trục xuất, Chúa Giê-su đến gặp anh và hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?... Chính Người đang nói với anh đây”. Anh mau mắn trả lời: “Thưa Ngài, tôi tin”.
Để mở con mắt thể xác, Chúa Giê-su chỉ cần trộn nước miếng với đất để làm thành bùn và xức vào mắt anh. Còn anh thì cộng tác bằng cách vâng lời Chúa và đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Nhưng để mở con mắt thiêng liêng, diễn trình chữa lành đòi hỏi từng bước như ta vừa nói ở trên. Một phần giống như anh mù được chữa lành, chúng ta mỗi người đều cần được Chúa chữa lành sự mù lòa thiêng liêng. Một khi đã được Chúa chữa lành và đem chúng ta vào trong ánh sáng của Người, chúng ta sẽ ra như thế nào? Bài đọc 1 hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn mọi sự bằng con mắt của Chúa. Thiên Chúa sai ông Sa-mu-en đi xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Gie-sê. Ông Gie-sê trình diện các con trai của mình với ông Sa-mu-en, anh nào trông cũng có dáng làm lãnh đạo Ít-ra-en! Nhưng Chúa bảo: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Khi cậu Đa-vít xuất hiện trước mặt Sa-mu-en như một thanh niên “có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn”, Chúa bảo Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Quả thật cái nhìn của Chúa về vị lãnh đạo tương lai Ít-ra-en khác hẳn với cái nhìn của người phàm chúng ta! Đúng vậy, nếu chúng ta nhìn mọi sự theo con mắt đức tin và dưới ánh sáng của Chúa, thì chúng ta không chỉ thấy “vóc dáng bề ngoài”, mà còn thấy được tình yêu và lòng Chúa thương xót ẩn đằng sau những cái bề ngoài và ý nghĩa của chúng cũng khác nữa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta tin Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Nhưng đức tin này cần được thể hiện bằng việc làm. Thì đây, thánh Phao-lô giới thiệu việc làm. Ngài nhắc nhở: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em là ánh sáng”. Vậy chúng ta phải làm sao? Ngài trả lời: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”. Bài học tuyệt vời!
Trong bài Tin Mừng tuần trước, cuộc mặc khải Chúa Giê-su là Nước hằng sống đối với người phụ nữ Sa-ma-ri là một cuộc phấn đấu nội tâm. Nó đòi chị ấy phải vượt thắng những rào cản về phân biệt chủng tộc, tội lỗi cá nhân và những định kiến tôn giáo. Qua mỗi vượt thắng ấy, người phụ nữ Sa-ma-ri đã dần dần nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Còn câu chuyện Tin Mừng hôm nay lại cho chúng ta thấy một khía cạnh khác của hành trình đức tin nhận biết Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian. Việc người mù từ thuở mới sinh được Chúa Giê-su chữa lành đã kéo theo hậu quả là anh ta phải đối phó với những hạch hỏi dọa nạt từ phía những người Pha-ri-sêu không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là “người của Thiên Chúa”. Những khó khăn người mù được chữa lành đã gặp chẳng phải là những khó khăn chúng ta cũng gặp hôm nay hay sao?
Sau khi đã được Chúa lấy bùn xức vào mắt và đi rửa tại hồ Si-lô-ác, người mù bẩm sinh đã nhìn thấy được. Nhưng lập tức anh đã phải đối phó với một cuộc tấn công rộng lớn để bảo toàn đức tin của anh vào Chúa Giê-su. Trước hết là thái độ chối bỏ của những người láng giềng. Họ không nhận anh là người đã được Chúa Giê-su chữa lành, hay nói khác đi, họ không muốn công nhận Chúa đã chữa lành cho anh. Nhưng anh đã quả quyết: “Chính tôi đây!”, có nghĩa là anh muốn nói: “Tôi khẳng định Chúa đã chữa lành tôi và tôi tin vào Người”.
Tiếp đến là “mặt trận Pha-ri-sêu”. Họ tìm đủ cách để chứng minh cho anh thấy Chúa Giê-su là người tội lỗi chứ không phải là người của Thiên Chúa. Họ không muốn nửa tin nửa ngờ về gốc tích của anh như những người láng giềng của anh đã làm. Cho nên họ đến gặp cha mẹ anh để xác định xem anh có thực sự là tên mù vẫn ngồi ăn xin ở cửa Đền Thờ và được chữa lành hay không. Khi đã chắc chắn rồi, họ quay sang tấn công anh mù. Họ lý giải rằng Chúa Giê-su đã không giữ luật ngày sa-bát (vì việc Người trộn bùn bôi vào mắt anh mù là phạm luật nghỉ ngơi ngày sa-bát!), nên Người phải là kẻ tội lỗi. Nhưng anh đã đanh thép phản bác lý luận của họ: “Một người tội lỗi làm sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Và anh kết luận: “Người là một vị ngôn sứ!” Hậu quả của lời tuyên xưng này là anh bị đuổi ra khỏi cộng đoàn.
Điều khiến chúng ta khâm phục anh mù là thái độ vững lòng tin của anh. Sau lúc phải đối phó với những chống báng của những người chung quanh về Chúa Giê-su và về lòng tin của anh đặt nơi Người, anh vẫn âm thầm đi tìm Đấng chữa lành. Từ khi được sáng mắt, anh chưa có cơ hội gặp mặt Chúa. Nhưng chính Chúa đã trở lại với anh và Người sẽ hoàn tất cuộc tỏ mình ra cho anh biết. Nghe Chúa Giê-su nói với mình: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”, anh đã làm một cử chỉ tuyên xưng đức tin vô cùng cảm động. “Anh nói: ‘Thưa Ngài, tôi tin’. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người”.
Câu chuyện Tin Mừng thật lý thú và để lại cho chúng ta nhiều sứ điệp. Nhưng ý nghĩa nhất có lẽ là câu chuyện nói với chúng ta rằng hành trình đức tin của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những khó khăn. Gian nan thử thách chính là những cơ hội giúp cho lòng tin của chúng ta càng trở nên vững vàng hơn.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cha mẹ anh mù sợ bị phiền nhiễu, nên họ nói với người Pha-ri-sêu : “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó!” Chi tiết này cho chúng ta một suy nghĩ thực tế áp dụng vào đời sống đức tin của chúng ta. Xét theo căn tính, mang danh là người Công giáo có nghĩa là chúng ta đều “khôn lớn rồi”. Vì thế chính chúng ta phải chiến đấu để giữ vững đức tin của mình. Người khác chỉ hỗ trợ hoặc cổ võ mà thôi. Chính chúng ta mới là người trả lời câu hỏi của Chúa: “Anh có tin vào Con Người không?
Đấng Ki-tô hoặc Con Người đều là những danh hiệu của Chúa Giê-su Ki-tô trong công cuộc cứu độ nhân loại. Mùa Chay là thời gian để chúng ta đặc biệt suy niệm về sứ mệnh cứu độ của Chúa và về bổn phận đáp lại tình yêu Chúa dành cho chúng ta. Vậy chúng ta sẽ trả lời thế nào trước câu hỏi của Chúa: “Anh có tin vào Con Người không?”
Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng hôm nay cho thấy: Người chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng đức tin ấy. Còn những kẻ tự mãn mình sáng mắt như các người đàu mục dân Do thái lại bị mù tối về đức tin vào Đức Giê-su.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5:
+ Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của chính tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Ở đây Đức Giê-su cũng đồng quan điểm ấy khi nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14).
+ Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh: Đức Giê-su coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Người có sứ mạng đến để giải thoát họ (x. Lc 13,16).
- C 6-9:
+ Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù: Về phạm vi khoa học thì chất bùn này sẽ làm cho bệnh nhân bị mù. Nhưng về mặt biểu tượng thì theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Khi làm như vậy là Người muốn thử thách đức tin của người mù và của những kẻ chứng kiến.
+ Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh xem thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng đức tin mặc khải cho những ai đang ở trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.
- C 35-41:
+Anh có tin vào Con Người không ?: Sau khi mở mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin vào Người giống như Người đã làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26).
+ Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải lên án (x. Ga 3,17), nhưng là chiếu soi ánh sáng để cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21).
+ Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25).
4. CÂU HỎI:
1) Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không ?
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) XIN ĐƯỢC SÁNG MẮT NẾU CÓ ÍCH CHO PHẦN RỖI ĐỜI ĐỜI:
Có một anh chàng nọ bị mú tư khi mới sinh. Anh rất có lòng đạo nên năng cầu nguyện tự phát và thường kết thúc lời nguyên bằng kết thúc lời cầu của mình bằng câu: ”Xin Chúa ban cho con được sáng mắt « Nếu điều đó hữu ích cho phần rỗi của con”. Một hôm, người ta dẫn ông mù đến trước mộ của thánh Tô-ma Can-tô-be-ry để xin Người làm phép lạ chữa lành cho cặp mắt của ông. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận và mắt của ông đã mở ra được để nhìn xem cảnh vật chung quanh và ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Khi niềm vui khỏi bệnh trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc quen thuộc: ”Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”.
Lập tức ông liền quay trở lại viếng mộ thánh nhân để xin được mù trở lại « Nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn con ». Sau lời cầu này, mắt ông đã bị mù như trước. Tuy nhiên từ ngày đó ông mù đã bằng lòng với sống an vui và không bao giờ còn muốn được sáng mắt nữa.
2) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI SẮP SÁNG ?
Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: “Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến ?” Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu… Cuối cùng đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy như sau: “Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta”.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được sáng mắt:
Khi đi ngang qua, Đức Giê-su đã nhìn thấy một ngừời mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Các môn đệ nêu thắc mắc theo quan điểm của người Do thái đương thời về tội lỗi như sau: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su không trực tiếp trả lời, mà Người chỉ nói:”Chuyện đó xẩy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.
Tiếp đến Tin Mừng thuật lại việc chữa bệnh mù của Đức Giê-su bằng những cử chỉ mang tính biểu tượng như sau: ”Đức Giêsu nhỏ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đi đến suối Si-lo-ê mà rửa (Si-lo-ê có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được” (Ga 9,6-7).
2) Cuộc điều tra của các đầu mục Do thái:
Những người Biệt phái không chấp nhận Đức Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người bệnh mù nên họ đã mở một cuộc điều tra rộng rãi: Trước hết họ mời người bị mù đã được Đức Giê-su chữa lành đến tra vấn về những gì đã xảy ra cho anh, rồi cả những người láng giềng và cha mẹ của người mù cùng được mời đến để điều tra thực hư. Trước phép lạ hiển nhiên không thể phủ nhận được, các người Biệt phái đã tìm cách gây khó dễ cho người mù. Tuy nhiên anh mù này do đã có một đức tin kiên cường vào Đức Giê-su, nên anh không dễ dàng khuất phục trước cường quyền, anh đã thuật lại rành rẽ các việc Đức Gie-su đã làm để chữa bệnh cho anh và anh còn nói lên suy tư của anh về nguồn gốc thần linh của Người như sau: ”Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,30-33).
3) Về tiến trình anh mù được sáng lòng để từng bước tin vào Đức Giê-su:
Trong suốt cuộc gặp gỡ đối thoại với Đức Giê-su, anh mù đã được Người soi sáng để từng bước khám phá sự thật về vai trò cứu độ của Người: Từ "một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ !” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Sau cùng khi đã được Đức Giê-su mặc khải mình là Con Người (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin” và anh thể hiện lòng tin bằng việc khiêm hạ sấp mình thờ lạy Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn đi tìm Chúa mới được Người cho gặp và mới nhận được ơn Chúa chiếu soi ánh sáng để đạt được đức tin. Trái lại, những ai tự kiêu lại tưởng mình sáng mắt, có sự hiểu biết sự vật bề ngoài lại trở nên mù tối về đức tin, như Người đã nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !" (39).
4) Sám hối canh tân trong Mùa Chay thánh:
- Những nguyên nhân của bệnh mù tinh thần: Thói ích kỷ làm chúng ta ra mù tối không nhìn thấy nhu cầu của tha nhân bên cạnh mà chỉ tìm kiếm thỏa mẫn các quyền lợi của mình như người giàu trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khổ. Thói vô cảm làm chúng ta bị mù tình thương nên dễ làm ngơ trước những anh chị em đang cần được trợ giúp; Thói tự kiêu làm chúng ta bị mù không nhìn thấy thói hư bản thân mà chỉ thấy những điều xấu nơi tha nhân mình không thích. Mỗi người chúng ta đều đeo hai cái túi: Túi trước mặt là các ưu điểm và thành tích của mình, còn túi sau lưng đựng những thói hư tật xấu. Thường chúng ta chỉ thấy ưu điểm của mình và khuyết điểm của tha nhân. Để biết mình ra sao, chúng ta cần phải biết hồi tâm sám hối. Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để nhận biết thói hư của mình và quyết tâm tu sửa nên hoàn thiện hơn.
- Cần xét đoán dưới ánh sáng của Lời Chúa: Ngày xưa Đức Chúa đã hướng dẫn ngôn sứ Sa-mu-en chọn một trong các con của Giét-sê để xức dầu tấn phong làm vua như sau: “Đừng xét theo hình dáng và voc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (Sm 16,7). Hãy năng tham dự các buổi tĩnh tâm, hiệp sống Tin Mừng và chọn đọc những câu Lời Chúa phù hợp tinh thần sám hối trong các giờ kinh tối gia đình hằng ngày.
- Cần tập hành xử khiêm tốn: Trong bất cứ việc gì, cần ý thức mình chỉ thấy chỉ biết một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng nổi lên trên mặt biển. Còn những điều chưa biết thì to lớn và chìm sâu bên dưới mặt nước. Do đó, thay vì tranh cãi nhau như năm anh mù đi xem voi cãi nhau về những điều mình không biết rõ, chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe tha nhân. Hãy chấp nhận sự giới hạn của mình, chấp nhận những điều mình biết là chưa đầy đủ, chưa phải là chân lý để tiếp thu thêm kiến thức của tha nhân; Cần ý thức các ưu điểm của mình cũng chỉ có giới hạn như người xưa đã dạy: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người giỏi chắc chắn sẽ có người khác giỏi hơn đánh bại). Do đó chúng ta cần hành xử khiêm tốn để luôn tôn trọng tha nhân, biết lắng nghe ý kiến của người khác và sẵn sàng tiếp thu các góp ý để nhận ra con người thật của mình, vì “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!” và đó là phương thế giúp thành công trong mọi việc: “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng”. Cần biết lắng nghe tha nhân: Nghe không những lời khen mà cả những lời phê bình chê trách, và tránh xa những lời nịnh hót như người xưa dạy: “Ai khen ta mà khen phải thì là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Còn ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy”.
4. THẢO LUẬN:
Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để có thể nhận biết về con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin đừng để sự ác cảm và thành kiến che mắt, làm cho chúng con không nhìn thấy những ưu điểm của người khác. Xin cho chúng con luôn khiêm tốn nhận ra khuyết điểm lầm lỗi của mình để sửa sai. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, nơi bản thân con và nhất là nơi anh em con để sẵn sàng yêu mến và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hầu xứng đáng nên môn đệ thực sự của Người.
- LẠY CHÚA: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang bịt tai nhắm mắt vì sự cứng lòng tin như những người Pha-ri-sêu khi xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên giống Chúa hơn.
Thánh Gio-an kể lại một dấu lạ Chúa Giê-su đã làm để nói lên một góc cạnh của chân tính Chúa Giê-su. Với bài Tin Mừng Chúa Giê-su gặp người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, anh chị em dự tòng đã tuyên xưng Chúa Giê-su là nguồn mạch nước hằng sống ban ơn cứu độ. Hôm nay với dấu lạ Chúa chữa người mù từ thuở mới sinh, họ tuyên xưng Chúa là ánh sáng trần gian.
Thực ra câu chuyện anh mù được Chúa Giê-su chữa lành như thế nào không quan trọng bằng cuộc tra vấn anh do nhóm Pha-ri-sêu về tung tích của người đã chữa lành anh. Việc chữa lành thật đơn giản. Chúa Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ắc mà rửa”. Vậy anh ta đến rửa ở hồ và khi về thì nhìn thấy được. Làm sao có thể tin vào một hành động chữa lành kỳ cục và có vẻ mất vệ sinh như thế? Nhưng anh vâng lời, làm theo lời Chúa dạy và đức tin của anh đã chữa anh!
Được chữa lành thể xác là khởi đầu cho một cuộc đi tìm chân tính của Đấng chữa lành. Sức mạnh đức tin đã giúp anh đối phó với những khó khăn, đe dọa, trục xuất và cuối cùng anh đã được gặp Chúa Giê-su. Đầu tiên anh chỉ biết Đấng đã chữa lành anh là “người tên là Giê-su” và Ngài ở đâu anh cũng không rõ. Trong cuộc tra vấn và lý giải trước mặt người Pha-ri-sêu, anh đã nói lên niềm tin của anh vào Chúa: “Người là một vị ngôn sứ”. Trong khi cha mẹ anh vì sợ người Pha-ri-sêu trừng phạt nên không dám tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, thì anh lại thách thức người Pha-ri-sêu “hãy làm môn đệ của Chúa Giê-su”! Rồi anh thẳng thắn phát biểu lòng tin vào Chúa Giê-su: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta chẳng làm được gì”. Anh đã tiến thêm một bước trong tiến trình tuyên xưng đức tin: Chúa Giê-su không chỉ là một vị ngôn sứ, mà Người còn là “người bởi Thiên Chúa mà đến” nữa. Lòng can đảm tuyên xưng đức tin của anh tuy đã khiến cho anh bị loại bỏ khỏi cộng đoàn Do-thái, nhưng đem lại cho anh chính Đấng là “ánh sáng thế gian”. Chúa Giê-su đã đích thân đến gặp anh và mặc khải cho anh biết Người chính là Con Người: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền sấp mình xuống trước mặt Chúa Giê-su để thờ lạy Người.
Chúa Giê-su là Con Người. Người đến trần gian với sứ mệnh “cho người không xem thấy được thấy”. Đúng vậy, biết bao người tuy có mắt, nhưng lại không nhìn thấy những gì đáng lẽ phải nhìn. Những người Pha-ri-sêu chỉ thấy Chúa Giê-su đã chữa lành anh mù vào ngày sa-bát, nên kết luận Người là “kẻ tội lỗi”, chứ không thấy được tình yêu Thiên Chúa biểu lộ qua việc chữa lành. Nhiều người chỉ thấy tiền bạc danh vọng là đáng giá, mà lại không nhận ra những giá trị của Tin Mừng. Trong nhiều cách và nhiều mức độ, chúng ta hết thảy đều là “những kẻ không xem thấy”, nhưng liệu chúng ta có can đảm để cho Chúa Giê-su mở mắt chúng ta để chúng ta nhận ra Chúa và nhận ra mọi người là anh chị em con một Cha trên trời hay không? Liệu chúng ta có can đảm như anh mù được chữa lành trong hành trình đức tin không?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Những người Pha-ri-sêu hỏi anh mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Câu hỏi ấy dành cho chúng ta hôm nay và trong mùa Chay này. Nhìn nhận chân tính của Chúa Giê-su vẫn luôn là một đề tài sống động cho chúng ta trong mùa Chay. Làm sao chúng ta được cứu độ nếu không nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng cứu độ? Làm sao sống giữa trần gian như là con Chúa nếu không có Chúa Giê-su là ánh sáng trần gian? Càng biết rõ Người, chúng ta càng thấy mình cần đến Người và cùng bước đi với Người. Hành trình trần gian là cả một mùa Chay để chúng ta cùng với Chúa Ki-tô chết đi con người cũ và được sống lại trong con người mới. Mỗi ngày chúng ta xa rời khỏi bóng tối tội lỗi một chút để bước đi trong ánh sáng của Chúa Giê-su. Cứ như thế, một ngày nào đó chúng ta đã ở trong ánh sáng huy hoàng của Phục Sinh và trở nên giống với Chúa Ki-tô rồi! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Gio 9:1-41: 1 Ði ngang qua, Ngài thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Môn đồ hỏi Ngài, rằng: "Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?" 3 Ðức Yêsu đáp lại: "Chẳng phải tội nó hay cha mẹ nó phạm, song để nơi nó, công việc Thiên Chúa được hiện tỏ.
4 "Bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào việc của Ðấng đã sai Ta;rồi đêm đến,bấy giờ không ai còn có thẻ làm công việc gì.5 Khi Ta còn ở thế gian. Ta là sự sáng thế gian". 6 Nói thế rồi, Ngài nhổ xuống đất, trộn nước miếng thành bùn và thoa vào mắt người mù, 7 đoạn Ngài bảo nó: "Hãy đi rửa trong ao Siloam" - dịch ra là: Kẻ được sai. Nó ra đi rửa mặt, và về thì mắt đã sáng…
Chương 9 thuật lại việc thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh và những bàn luận liên quan đến Người. Có thể chia chương nầy thành hai phần chính: - Người mù và việc chữa lành (9:1-7); - Các tranh luận và thái độ của những người liên quan đến việc chữa lành nầy (9:8-41). Chương nầy được kết cấu theo các cuộc tranh luận liên tiếp nhau. Người tham gia tranh luận thay đổi khác nhau trong mỗi tranh luận. Chủ đề của mỗi tranh luận cũng thay đổi ít nhiều. Chương 9 phân chia như sau:
1/ Chúa Giêsu, người mù và việc chữa lành (9:1-7) 2/ Những người láng giềng và cha mẹ người mù được chữa lành (9:8-12) 3/ Các Pharisêô và người được chữa lành (9:13-17) 4/ Các người do thái và cha mẹ người được chữa lành (9:18-23) 5/ Các người do thái và người được chữa lành (9:24-34) 6/ Chúa Giêsu và người được chữa lành (9:35-38) 7/ Chúa Giêsu và các Pharisêô (9:39-41)
Theo Johannes Beutler (xem Gesù a Gierusalemme (Gv 9-12), Lezione al Pontificio Istituto Biblico, Roma 2001-2002, p. 27) có thể nhận ra một cấu trúc đối đảo trong chương 9 nầy, trong đó các cảnh tương ứng với nhau như sau:
A 9:1-7; B 9:8-12; C 9:13- 17; D 9:18-23; C’ 9:24-34; B’ 9:35-38; A’ 9:39-41
Chúa Giêsu chữa lành người mù (9:1-7). Bối cảnh không gian và thời gian của đoạn bắt đầu từ câu 8:59b “Nhưng Chúa Giêsu ẩn mình, và đi ra khỏi đến thờ”, và trong câu 9:1 thêm yếu tố nhân vật: Chúa Giêsu và người mù bẩm sinh, “Người đi ngang qua đó và gặp một người mù từ lúc mới sinh”. Hành động chữa lành chủ yếu của Chúa Giêsu được mô tả trong các câu 6 và 7. Những câu còn lại đề cập đến nguồn gốc/nguyên nhân của sự mù loà, trong đó cho thấy quan niệm của người thời đó và Chúa Giêsu (cc. 2 và 3), và căn tính của Người (c. 5). Sứ điệp chính yếu nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu ở câu 4: “Bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào việc của Ðấng đã sai Tôi; rồi đêm đến, bấy giờ không ai còn có thể làm công việc gì”. Hai phần 9:1-7 và 9:8-41 liên kết rất chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau; do đó những sự kiện và lời nói trong đoạn 9:1-7 sẽ được bàn rộng trong các cuộc tranh luận trong 9:8-41.
Cảnh chữa lành (9:1.6-7) và đoạn liên hệ 9:39-41. Chủ đề trong phần nầy là “mù” (cc. 1 và 41), và “thấy” (7 và 40-41). Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh và cho người nầy được thấy. Trong khi đó, các Pharisêô là những người đang thấy, lại trở nên mù lòa. Lời kết luận của Chúa Giêsu: “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!” (c. 41).
Căn tính của Chúa Giêsu và người được chữa lành (9:2 và 6) và đoạn liên hệ (9:8-12 và 35-38). Chủ đề trong phần nầy: Người chữa lành cho người mù là ai? “Người gọi là Giêsu” (c. 11); “Người Con của Nhân Loại” (c. 35). Thoạt đầu người được chữa lành chỉ biết người đã chữa lành ông có tên là “Giêsu”; tên nầy được lập lại thêm hai lần với ý nhấn mạnh trong các câu 35 và 37. Trong gặp gỡ khác, Chúa Giêsu cho ông biết Người là ai qua tước hiệu “Người Con của Nhân Loại”. Ông đã tin và “sấp mình thờ lạy Người” (c. 38). Tin vào Người là cao điểm của việc chữa lành cho người mù bẩm sinh, vì Người đòi hỏi điều nầy (c. 35).
Những câu hỏi về nguồn gốc (9:3 và 5) và đoạn liên hệ (9:13-17 và 24-34). Chủ đề trong phần nầy: nguồn gốc của sự mù loà (cc. 2-3) và nguồn gốc của Chúa Giêsu (c. 5). Các môn đệ đặt vấn đề là có phải người nầy bị mù loà bẩm sinh là do tội lỗi của chính người nầy hay của cha mẹ anh (c. 2). Đó là suy nghĩ của người thời ấy. Chúa Giêsu không theo hướng nầy. Người khẳng định tội, của người nầy hay cha mẹ anh, không phải là nguồn gốc của sự mù loà (c. 3). Về nguồn gốc của Chúa Giêsu, Người khẳng định “Tôi ở trong thế gian, Tôi là ánh sáng thế gian” (c. 5). Là “Ánh sáng”, phōs, Chúa Giêsu muốn nói Người đến từ Thiên Chúa, và sứ mạng của Người là soi sáng cho thế gian (1:4.5.9; 3:19; 8:12). Về phần những người chống đối Chúa Giêsu, các Pharisêô quả quyết Người không đến từ Thiên Chúa, vì Người đã chẳng giữ luật ngày hưu lễ (c. 16). Cũng thế, người do thái quả quyết Chúa Giêsu là một “người tội lỗi” (c. 24) và họ không biết Người từ đâu mà đến (c. 29). Họ chỉ lắng nghe Môsê mà thôi (c. 29). Phần người được chữa lành, anh tuyên xưng công khai Chúa Giêsu là một “ngôn sứ” (c. 17) và làm chứng là Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, và Người đã chữa lành anh với quyền năng của Thiên Chúa (cc. 30-33). Anh hành động như là một môn đệ làm chứng cho Thầy mình (c. 28). Làm việc của Thiên Chúa (9:4) và đoạn liên hệ 9:18-23. Câu 4 nằm ở trung tâm của đoạn 9:1-7, và đoạn 9:18-23 ở trung tâm của chương 9. Sứ điệp chính của chương nằm ở đây. Chúa Giêsu cho biết nội dung sứ mạng của Người khi đến trần gian là làm việc của Cha Người. Gioan nói nhiều về “việc của Thiên Chúa” (4:34; 5:36) mà Chúa Giêsu phải thực hiện. Việc ấy có thể là phép lạ. Phép lạ có mục đích là làm cho người ta tin vào Chúa Giêsu (x. 10:25.32). Ngay cả nếu không tin vào Người, ít là tin vào phép lạ để nhận biết và hiểu là Chúa Cha ở trong Người và Người ở trong Chúa Cha” (19:38). Lời tuyên bố của Chúa Giêsu là Người làm việc của Thiên Chúa muốn nói là Người có Chúa Cha ở trong Người (x. 14:10-11). Bởi đó, “làm việc của Thiên Chúa” là làm cho con người tin vào Đấng được sai đến (x. 6:29). Trong đoạn 9:18-23, Gioan cho thấy cách tiêu biểu thái độ của hai hạng người. Người do thái không tin ngay cả phép lạ người mù bẩm sinh được sáng mắt (c. 18); qua đó họ không tin vào Chúa Giêsu. Cha mẹ của người được chữa lành thì sợ, không dám mạnh dạn tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu (c. 22); trong khi đó bởi nhận biết Thiên Chúa ở và hành động trong Chúa Giêsu người được chữa lành đã tin vào Người. Vậy “việc của Thiên Chúa” là làm cho người ta phải chọn một thái độ đối với Người. Nếu tin, thuộc về ánh sáng. Nếu không tin, thuộc về bóng tối.
Chúa Giêsu là trung tâm của trình thuật về người mù bẩm sinh. Người để trần gian để làm công việc của Thiên Chúa. Là ánh sáng, Người mở mắt cho con người thấy để có thể tin vào Người. Những người tự cho mình sáng mắt, không thể nhìn thấy và tin vào Người. Như thế, việc Người xuất hiện trên trần gian như là ánh sáng đã là một sự phán xét cho trần gian.
Bảy dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an được chọn lựa để diễn tả những đặc điểm thuộc căn tính của Chúa Giê-su. Bài Tin Mừng tuần trước kể lại truyện Chúa Giê-su đàm thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri là đề tài cuộc sát hạch dự tòng lần thứ nhất. Giáo Hội sử dụng hai trong bảy dấu lạ của Tin Mừng Gio-an cho hai cuộc sát hạch dự tòng vào Chúa Nhật IV và V mùa Chay: Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh và Chúa cho anh La-da-rô sống lại. Người dự tòng phải vững tin Chúa Giê-su là ánh sáng chiếu soi đời họ và Người cũng chính là sự sống lại và sự sống đời đời. Chủ đề Chúa Giê-su là ánh sáng rất thích hợp cho mùa Chay của ta, để nhờ ánh sáng đức tin ta nhìn mọi sự theo lăng kính giá trị Tin Mừng và bước đi trong ánh sáng của Người.
1. Quan điểm của Thiên Chúa khác với quan điểm loài người (bài đọc Cựu Ước – 1 Sm 16:1b,6-7,10-13a)
Mỗi người nhìn cuộc sống hoặc những gì chung quanh theo một cái nhìn riêng. Nếu cái nhìn của ta đã khác nhau như vậy thì cái nhìn của Thiên Chúa càng khác xa hơn nữa, bởi vì “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16:7).
Câu truyện về khác biệt quan điểm trong bài đọc thứ nhất đã nói lên chân lý trên. Thiên Chúa trao cho ngôn sứ Sa-mu-en sứ mệnh đi xức dầu phong vương cho cậu Đa-vít. Cậu là con trai út của ông Gie-sê. “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn”. Với ngoại hình ấy, so với bảy người anh và theo nhận xét của Sa-mu-en, cậu không có dáng vẻ của một tay lãnh đạo tài giỏi. Vị ngôn sứ vẫn ngồi đấy, ngần ngại không biết phải tính sao. Nhưng khi người nhà đưa Đa-vít từ ngoài đồng về và dẫn tới trước mặt ngôn sứ, Thiên Chúa bảo ông: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Sa-mu-en đã làm theo lời Chúa dạy, và “từ ngày đó trở đi, thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít”.
Vậy tại sao Thiên Chúa đã tuyển chọn Đa-vít? Tại vì Người thấy Đa-vít tận đáy lòng. Thiên Chúa thấy được những đức tính tàng ẩn và chưa phát triển nơi con người cậu Đa-vít. Người muốn đặt một vị mục tử cho dân Người chứ không phải một ông vua như các ông vua láng giềng Ít-ra-en. Do đó người lãnh đạo Ít-ra-en cần những đức tính về cả hai phương diện tài giỏi và đạo đức. Có nhiều điều Thiên Chúa muốn thực hiện cho Ít-ra-en, nhưng điều kiện là người lãnh đạo phải là người trung thành với Thiên Chúa. Chính vì bất trung nên Sa-un, được
Sa-mu-en xức dầu làm vua thứ nhất của Ít-ra-en, đã bị Thiên Chúa phế bỏ. Còn Đa-vít, ông vua thứ hai, nổi bật về lòng trung thành đối với Thiên Chúa. Ông hoàn tất cuộc chinh phục ngoại bang để mở mang bờ cõi và loại trừ mối đe dọa của dân Phi-li-tinh, lập Giê-ru-sa-lem làm thủ đô và rước Hòm Bia Giao Ước về đấy. Mặc dù Đa-vít vẫn là con người yếu đuối sa ngã, nhưng ông đã thật lòng thống hối và được Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ sinh ra từ dòng dõi ông.
Nhìn và sống theo quan điểm của Thiên Chúa chính là lời kêu gọi ta hãy nên hoàn thiện hoặc nhân từ như Cha trên trời (Mt 5:48; Lc 6:36). Mẫu gương nhìn và sống quan điểm của Thiên Chúa không ai khác ngoài Chúa Giê-su. Khi ông Phê-rô nài nỉ Chúa đừng chấp nhận cuộc Thương khó, Người đã thẳng thắn sửa sai ông: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Ta cứ nghe những lời giảng của Người sẽ gặp thấy không biết bao nhiêu lần Người trình bày quan điểm của Thiên Chúa. Cụm từ “như Cha anh em ở trên trời…” là lối Người trình bày quan điểm của Thiên Chúa. Người không trình bày suông, mà còn thể hiện quan điểm ấy trọn vẹn trong cuộc sống nữa. Ta hãy lấy một thí dụ: Người dạy ta phải thương yêu kẻ thù “như Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5:45). Đến lượt Chúa Giê-su, trên thập giá Người đã tha thứ cho những kẻ thù của Người (Lc 23:34).
2. Chúa Giê-su mở con mắt mù lòa của ta để ta được làm con cái sự sáng (bài Tin Mừng – Ga 9:1-41)
Muốn làm con cái Chúa và đi theo đường của Chúa, ta phải sống theo quan điểm của Chúa. Còn nếu cứ sống theo quan điểm loài người, ta sẽ là kẻ mù lòa thiêng liêng. Người dự tòng là người chuẩn bị làm con cái Chúa và sống đời sống mới của con cái sự sáng. Do đó, trong cuộc sát hạch lần thứ hai, họ sẽ tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô là ánh sáng trần gian. Dấu lạ Chúa Giê-su chữa lành người mù từ thuở mới sinh nói lên danh hiệu này của Chúa Giê-su. Câu truyện thánh Gio-an kể rất là sống động với những chi tiết và đối thoại thích thú. Thánh sử lấy phép lạ này như dấu chỉ nói lên phẩm tính của Chúa là ánh sáng (Ga 9:5). Nhưng những câu trả lời khôn ngoan và đanh thép của anh mù trước những hạch hỏi của đám Pha-ri-sêu còn cho ta thấy một sự thật mỉa mai và đáng buồn, như Chúa đã khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9:39).
Thực vậy, anh mù bẩm sinh đã không nhìn thấy Chúa trước khi được chữa lành. Mà ngay sau khi đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và được nhìn thấy, anh cũng chưa được gặp mặt Chúa Giê-su. Mãi tới khi anh bị đám Pha-ri-sêu trục xuất, anh mới được gặp Người. Vậy trong khoảng thời gian từ sau khi được lành mắt cho đến lúc được gặp Chúa Giê-su, anh đã trải qua một hành trình đi tìm căn tính của Người. Giống như cấu trúc câu truyện Chúa Giê-su gặp người phụ nữ Sa-ma-ri, bài Tin Mừng hôm nay cũng là câu truyện nhận biết căn tính, căn tính của anh mù và căn tính của Chúa. Trước hết, anh mù bẩm sinh phản bác lại những kẻ không tin anh chính là tên mù ăn xin vẫn ngồi ở cổng Đền thờ. Anh quả quyết: “Chính tôi đây!” Sau đó, cha mẹ anh được người Pha-ri-sêu gọi đến, ông bà cũng xác nhận: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh… Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được” (Ga 9:18-19). Sự thẳng thắn và khiêm tốn nhận mình là kẻ mù lòa của anh ngược hẳn với thái độ cao ngạo của đám Pha-ri-sêu, họ chửi rủa anh ta: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34, xem Ga 9:2).
Đi tìm biết xem Chúa Giê-su là ai, đó là đề tài câu truyện. Người Pha-ri-sêu hạch hỏi anh mù ai đã chữa lành cho anh. Trước tiên, anh trả lời chỉ biết có “một người tên là Giê-su” đã trộn bùn bôi vào mắt anh và sai anh đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Sau đó, khi người ta tranh luận với nhau về hành động Chúa Giê-su trộn bùn vào ngày sa-bát (theo Lề Luật, người ta không được phép trộn bùn vào ngày sa-bát) và hỏi ý kiến anh mù, thì anh phát biểu: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9:17). Giống hệt như câu truyện người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4:19)! Bị hạch hỏi lần thứ hai, anh trả lời đanh thép, chống lại lời kết án của người Pha-ri-sêu cho Chúa Giê-su là “người tội lỗi”. Anh lý giải: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:33). Sau cùng khi nghe tin anh bị trục xuất, Chúa Giê-su đến gặp anh, Người hỏi anh: “Anh có tin vào Con Người không?” và cho anh biết Người chính là Đấng ấy, thì anh đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin”. Và anh sấp mình xuống trước mặt Người. Sấp mình trước mặt Chúa là cử chỉ của kẻ thờ phượng Thiên Chúa (Lc 5:8).
3. “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng” (bài đọc Tân Ước – Ep 5:8-14)
Câu truyện Tin Mừng nói lên Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Tuy nhiên hình ảnh anh mù được mở mắt cũng mang ý nghĩa đặc biệt đối với ta, những người đã được mở con mắt thiêng liêng làm con cái Chúa và nhìn mọi sự theo quan điểm của Chúa. Căn bệnh mù lòa thiêng liêng vẫn có thể trở lại với ta nhiều lần, do đó ta luôn luôn cần được Chúa chữa lành. Thánh Phao-lô cho ta một lời khuyên thực tế: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5:8).
Ánh sáng Tin Mừng giúp ta nhìn rõ và phân định điều tốt điều xấu. Phân định là việc Ki-tô hữu luôn phải làm trong cuộc sống, từ điều nhỏ nhặt trong ngày cho đến những quyết định quan trọng như chọn lựa bậc sống hay nghề nghiệp. Để phân định cho đúng, ta cần biết rõ đâu là quan điểm của Thiên Chúa và đâu là quan điểm của thế gian, đâu là tư tưởng của Thiên Chúa và đâu là tư tưởng của loài người. Học hỏi Lời Chúa, nhất là Tin Mừng, sẽ giúp ta biết và làm quen với cái nhìn của Chúa Giê-su. Lời thư thánh Phao-lô nói lên thực tại ta được làm con cái sự sáng. Tuy nhiên lời thư lại như đặc biệt hướng về những người mù lòa thiêng liêng hoặc “còn đang ngủ mê”, kêu gọi họ hãy mở mắt và tỉnh dậy, nhất là hãy luôn hướng về Chúa Ki-tô là sự sáng trần gian. Nếu ta ở trong Chúa là nguồn sáng, ta sẽ có ánh sáng của Người (Ga 8:12), và hơn thế nữa ta cũng sẽ là ánh sáng của Người, nhờ đó những người chung quanh sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Ki-tô qua đời sống của ta.
4. Sống Lời Chúa
Các bài đọc hôm nay phù hợp với nhau và đưa ta đến một hướng đi rõ ràng, đó là ta phải sống và bước đi như con cái ánh sáng. Nhờ Chúa Ki-tô là ánh sáng, ta được “thấy” Thiên Chúa là Đấng nào và cũng “thấy” được ta là ai. Nếu ta thấy được Thiên Chúa yêu thương ta dường nào, ta sẽ cố gắng đáp lại tình yêu đó. Nếu ta thấy ta chưa sống như con cái Chúa, ta sẽ cố gắng sửa đổi, nhất là trong mùa Chay này.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô đưa ra một đề nghị thực tế để tôi sống như con cái ánh sáng. Ngài nói: “Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng”. Vậy “những việc vô ích của con cái bóng tối” mà tôi đang cộng tác là những việc gì? Tôi phải vạch trần những việc ấy ra bằng cách nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời chiếu soi mọi người sinh ra trong trần thế, xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa, và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô là ánh sáng chiếu soi muôn đời. A-men. (Lời nguyện hiệp lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
Đức ái là luật cao trọng nhất phải tuân giữ ĐỌC LỜI CHÚA
· 1Sm 16,1b.6-7.10-13a: (7) Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm, họ chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thấy tận đáy lòng.
· Ep 5,8-14: (8) Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; (9) mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. (10) Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. · TIN MỪNG: Ga 9,1-41 (hay Ga 9,1.6-9.13-16.34-38)
Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Khi ấy, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (6) Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: «Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa». Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: «Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?» (9) Có người nói: «Chính hắn đó!» Kẻ khác lại rằng: «Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!» Còn anh ta thì quả quyết: «Chính tôi đây!» (13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: «Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy». (16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát»; kẻ thì bảo: «Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?» Thế là họ đâm ra chia rẽ. (34) Họ đối lại: «Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?» Rồi họ trục xuất anh.
(35) Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: «Anh có tin vào Con Người không?» (36) Anh đáp: «Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?» (37) Đức Giêsu trả lời: «Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây». (38) Anh nói: «Thưa Ngài, tôi tin». Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
1. Luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa, cấm rất ngặt không được làm việc ngày sabát. Ai lỗi luật có thể bị tử hình (x. Xh 31,14-15; 35,2). Vậy tại sao Đức Giêsu lại chữa bệnh rất nhiều lần trong ngày sabát bất chấp luật như thế? Ngài làm gương mù hay gương sáng cho chúng ta vậy?
2. Nếu có trường hợp thi hành một điều luật nào đó trong luật Chúa hay luật Giáo Hội mà đi ngược lại đòi hỏi của đức ái, tức luật yêu thương của Đức Giêsu, thì ta phải làm theo luật nào?
Suy tư gợi ý:
1. Hai cung cách giữ đạo khác nhau Trong bài Tin Mừng này, ta thấy hai não trạng hay hai cung cách giữ đạo khác nhau giữa Đức Giêsu và người Pharisêu. Một đằng nhìn thấy con người để yêu thương, và còn một đằng chỉ nhìn thấy lề luật, nguyên tắc để tuân giữ. Nghĩa là một đằng quan trọng hóa con người, còn một đằng quan trọng hóa lề luật. Đức Giêsu khi thấy một người mù cần được giúp đỡ, thì Ngài động lòng thương và ra tay cứu giúp, bất chấp hôm đó là ngày sabát, là ngày mà luật Môsê cấm ngặt không được làm việc. Như vậy, Ngài coi việc cứu người quan trọng hơn việc giữ luật sabát. Còn người Pharisêu coi việc giữ luật sabát quan trọng hơn việc cứu người. Theo họ, thà để người khác bị mù, bị thiệt hại, bị chết, còn hơn là vi phạm lề luật của Thiên Chúa.
2. Quan niệm khác nhau giữa người Pharisêu và Đức Giêsu
Hai thái độ ngược nhau đó luôn luôn tồn tại trong cách giữ đạo của các tín đồ trong mọi tôn giáo. Thái độ nào cũng có những lý do chính đáng của nó. Thái độ nào cũng đúng, nhưng đúng ở những mức độ tâm linh cao thấp khác nhau.
Theo quan điểm của người Pharisêu thì luật giữ ngày sabát là luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa. Vì thế, người công chính phải tuân giữ lề luật, càng công chính thì càng phải giữ luật một cách chi tiết. Do đó, khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày sabát, họ bàn thảo với nhau: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát» (Ga 9,16). Họ quan niệm: nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ luật Môsê, thậm chí còn nghiêm chỉnh hơn chính họ nữa. Quan điểm của họ quả hết sức hợp lý vì nó hoàn toàn được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người ta phải giữ luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3; v.v…). Vì thế, đối với họ, việc giữ luật tôn giáo là vô cùng quan trọng. Do đó, nếu có sự xung đột giữa một bên là giữ luật Chúa, một bên là đòi hỏi của lương tâm và đức ái, thì phải ưu tiên cho việc giữ lề luật.
Nhưng quan điểm của Đức Giêsu thì khác hẳn. Đành rằng luật Môsê là luật của Thiên Chúa, nhưng khi có xung đột giữa luật của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, thì phải ưu tiên tuân theo luật của đức ái. Nếu ngày sabát mà tình yêu hay đức ái đòi buộc phải làm việc, phải chữa bệnh, thì phải chấp nhận lỗi luật sabát mới đúng với ý Thiên Chúa. Đức Giêsu đưa ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: «Còn bà này, là con cháu ông Ápraham, bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?» (x. Lc 13,10-17).
Vì thế, cho dù lỗi luật sabát có thể dẫn đến tử hình, nhưng Đức Giêsu hoặc các tông đồ đã nhiều lần lỗi luật sabát vì lý do bác ái hay vì một lý do chính đáng khác. Chẳng hạn, các môn đệ Đức Giêsu bứt bông lúa mì (x. Mt 12,1-8; Mc 2,23-28; Lc 6,1-5); Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa một phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-17); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày sabát. Ngài đã bị các kinh sư và luật sĩ cảnh cáo nhiều lần về việc Ngài lỗi luật ngày sabát, và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn bất chấp, vẫn cứ lỗi luật sabát vì lý do đức ái, và bất chấp nguy hiểm. Ngài không hề khuyên bảo người bệnh hãy đến với Ngài vào ngày khác thì Ngài mới chữa bệnh cho. Cũng không bảo họ đừng đến với Ngài vào ngày sabát để Ngài giữ luật sabát cho trọn vẹn. Đó chẳng phải là một mẫu gương để chúng ta noi theo sao, hỡi những người theo Đức Giêsu và những kẻ tự hào mình theo Ngài?
3. Tình yêu hay đức ái ví như hiến pháp, luật lệ khác ví như các khoản luật
Điều ấy cho thấy luật bác ái cao trọng hơn bất cứ loại luật nào, dù là luật thành văn của Thiên Chúa như luật Môsê, hay luật của Giáo Hội và những luật lệ do con người lập ra. Vì trong Kitô giáo, đức ái được ví như hiến pháp, còn tất cả những luật lệ thành văn khác đều chỉ được ví như luật pháp mà thôi. Luật pháp phải thể hiện tinh thần của hiến pháp, giúp hiến pháp được thực hiện trong những trường hợp cụ thể hơn trong đời sống. Vì thế, trường hợp nào mà thi hành một điều khoản của luật pháp trở thành vi phạm hiến pháp thì trường hợp ấy, ta không nên thi hành khoản luật ấy. Nếu ai vẫn cứ thi hành khoản luật ấy, thì người ấy vi phạm hiến pháp. Nếu vì muốn thi hành cho đúng hiến pháp mà đành phải vi phạm một điều khoản trong luật pháp, thì việc vi phạm đó không còn là vi phạm nữa. Vì mục đích của luật pháp là để thực hiện hiến pháp, chứ không ngược lại.
Đức ái chính là hiến pháp, là luật tối thượng bao trùm tất cả mọi khoản luật, nên thánh Phaolô đã dám quả quyết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8; x. 18,10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Lời tuyên bố của hai vị thánh này thật rõ ràng. Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis).
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa, được chính Thiên Chúa truyền qua Môsê. Thế mà khi có sự xung đột giữa luật Môsê và đức ái hay điều lương tâm đòi buộc, thì Đức Giêsu đã chấp nhận lỗi luật Môsê (tức luật Chúa) chứ không chấp nhận lỗi đức ái hay lỗi luật lương tâm. Hiện nay, luật của Đức Giêsu đã thay thế luật Môsê, và luật của Ngài là luật yêu thương, nên yêu thương chính là luật tối thượng, đúng như thánh Giacôbê đã nói ở trên (Gc 2,8). Luật Môsê là luật của Thiên Chúa mà còn vậy, huống chi những luật do con người lập ra. Ai coi việc thi hành đức ái nhẹ hơn một khoản luật nào đó do con người lập ra, thì câu sau đây của Đức Giêsu đáng để cho họ suy nghĩ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân» (Mt 15,8-9). Vậy, chúng ta phải theo lập trường của Đức Giêsu hay của người Pharisêu?
4. Mục đích của lề luật là hình thành đức ái trong lòng con người
Cũng như một cây non cần phải buộc vào một cọc thẳng để cây mọc thẳng lên. Nhưng khi cây đã mọc thẳng và các mô mộc trong cây đã cứng cát rồi, thì người ta bỏ cọc đi. Luật lệ giống như cái cọc thẳng ấy để giúp cho tâm linh còn non yếu mọc thẳng lên. Nó có nhiệm vụ hình thành đức ái ở trong ta. Khi đức ái của ta đã được hình thành và trở nên vững chắc, thì ta phải hành động theo sự đòi hỏi của đức ái đã được hình thành ấy ở trong ta. Lúc ấy lề luật đã đóng hết vai trò và nhiệm vụ của nó.
Thật vậy, theo thánh Phaolô, lề luật được lập nên không phải cho người công chính, mà cho người tội lỗi tức chưa hiểu biết được cốt tủy của sự công chính (x. 1Tm 1,8-10). Ngài cũng nói: «Không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,20-21; x. Gl 3,11). Sự công chính không hệ tại việc giữ luật lệ: «Nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích» (Gl 2,21); mà do việc có thực hành đức ái hay tình thương đích thực ở trong lòng hay không. Vì sự công chính hay thánh thiện hệ tại việc mình có trở nên giống Thiên Chúa hay không, có Thiên Chúa ở trong mình hay không. Mà Thiên Chúa tự bản chất chính là tình yêu, là đức ái (x. 1Ga 4,8.16).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con hiểu được sự cần thiết của lề luật trong sự phát triển tâm linh. Nhưng cũng cho con hiểu được sự giới hạn và vai trò nhất thời của lề luật. Mục đích của lề luật chính là hình thành đức ái hay tình yêu đích thực ở trong con. Nếu giữ lề luật trọn hảo nhưng đức ái chân thật vẫn không hình thành được trong lòng con, thì việc giữ luật ấy có ích lợi gì? Xin Cha cho con hiểu được điều ấy.
Trong buổi Sát hạch đầu tiên, trước cộng đoàn dân Chúa, ứng viên lãnh nhận Bí tích Khai tâm đã tuyên xưng Chúa Ki-tô là mạch nước hằng sống (Chúa Nhật 3 mùa Chay). Hôm nay, trong buổi Sát hạch thứ hai, Giáo Hội trình bày câu truyện Chúa Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được kể lại trong Tin Mừng Gio-an, để mời gọi các ứng viên và mọi Ki-tô hữu suy niệm và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Câu truyện đã được thánh Gio-an sắp xếp thật sống động và mang những chiều kích khác nhau. Về phía Chúa Giê-su, thánh sử muốn minh chứng Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian đã chiến thắng bóng tối là tội lỗi và sự chết. Đồng thời ngài cũng muốn khẳng định với người Do-thái rằng khi chữa lành vào ngày sa-bát, Chúa Giê-su là Chúa của ngày sa-bát. Về phía chúng ta, thánh Gio-an muốn đề cao gương làm chứng cho Chúa Giê-su của người mù từ khi mới sinh đã được Chúa chữa lành. Mục đích khi thánh sử thuật lại câu truyện này cũng chính là mục đích Giáo Hội mong mọi Ki-tô hữu được củng cố thêm trong đức tin vào Chúa Giê-su và sứ mệnh cứu thế của Người. a) Để ta tin Chúa Giê-su là Chúa và là Đấng chiến thắng tội lỗi Thánh Gio-an đã sắp đặt câu truyện dấu lạ Chúa chữa lành người mù từ thuở mới sinh với mục đích đặc biệt là muốn đánh tan sự mù lòa thiêng liêng của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái. Họ tuy sáng mắt nhưng lại không thể hoặc không muốn nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Còn người mù từ khi mới sinh tuy mù lòa nhưng lại được Chúa Giê-su mở cả con mắt thể xác lẫn con mắt thiêng liêng để nhận ra xuất xứ của Người: Đấng bởi Thiên Chúa mà đến.
Nếu đọc chương 8 trước đó, ta nhận ra cuộc tranh luận rất quyết liệt giữa Chúa Giê-su và người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su muốn thuyết phục họ hãy nhìn nhận xuất xứ và chân tính của Người. Người là Đấng Ki-tô (Con Người) từ Thiên Chúa mà đến, là Chúa Con và là chính Thiên Chúa đã đến để giải phóng nhân loại. Nhưng người Do-thái cũng cương quyết không muốn nhìn nhận sự thật Chúa đã mặc khải cho họ. Sự thật ở đây có nghĩa là đạo lý của chính Thiên Chúa được tỏ lộ cho nhân loại qua chân tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Không những họ chối bỏ Chúa Giê-su, họ còn đi xa hơn bằng cách lăng mạ Người là kẻ ngoại (người Sa-ma-ri), là kẻ bị quỷ ám! Và cuối cùng họ muốn tiêu diệt Người bằng cách ném đá Người.
Vậy để trả lời cho người Do-thái muốn biết rõ xuất xứ và sứ mệnh của Chúa Giê-su, thánh Gio-an chọn dấu lạ Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, để qua dấu lạ nhận thấy được bằng mắt họ sẽ nhận ra thực tại Chúa Giê-su là ai.
Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian, Đấng chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự chết. Việc đem lại ánh sáng tự nhiên cho anh mù cũng như ánh sáng siêu nhiên cho đời sống đức tin của anh nói lên sự cứu rỗi trọn vẹn Thiên Chúa muốn thực hiện cho con người. Tiếp đến, để minh chứng Chúa Giê-su là Chúa của ngày sa-bát, thánh sử đã nêu lên sự kiện trong ngày sa-bát Chúa Giê-su đã làm việc (vì Người nhào nước bọt với đất làm thành bùn để bôi lên mắt anh mù). Chỉ duy có Thiên Chúa mới làm việc trong ngày sa-bát, vì Người làm chủ cả ngày sa-bát. Như vậy, chỉ có là chính Thiên Chúa thì Chúa Giê-su mới “làm việc” ngày sa-bát. Thực vậy, Chúa Giê-su đã có lần khẳng định điều này: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5:17), tức là nếu Chúa Cha làm việc ngày sa-bát, thì Chúa Con cũng làm việc ngày sa-bát, nhất là công việc ấy lại là cứu thoát một người. Ngoài ra, thánh Gio-an còn mượn những lời đối đáp của anh mù trong cuộc điều tra do những người Pha-ri-sêu, để lý luận đanh thép và khẳng định rằng Đấng đã chữa lành anh mù từ thuở mới sinh có tên gọi là Giê-su, là người bởi Thiên Chúa mà đến và là Con Người. b) Để ta theo làm môn đệ Chúa Giê-su và làm chứng cho Người trong thế giới Tuy là dấu lạ thánh Gio-an đã chọn để minh chứng xuất xứ và sứ mệnh của Chúa Giê-su, ngài cũng dùng cùng dấu lạ này để mời gọi ta hãy theo Chúa và làm chứng cho Người. Chúa Giê-su đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh được nhìn thấy. Sau khi anh từ hồ Si-lô-ác trở lại thì Chúa Giê-su không còn ở đấy nữa nên anh không biết rõ ông Giê-su, người đã chữa lành mình là ai. Tuy nhiên anh đã tin vào Người và bắt đầu làm chứng cho Người. Gặp ai, anh cũng nói tốt về Đấng đã chữa lành mình. Anh bênh vực Chúa và hăng hái lập luận, biểu lộ xác tín và niềm tin của anh vào Chúa. “Người Do-thái” là từ thánh Gio-an ám chỉ kẻ thù Chúa Giê-su. Vậy kẻ thù kết án Chúa Giê-su là kẻ tội lỗi vì phạm luật ngày sa-bát. Anh phản pháo rằng kẻ tội lỗi không thể làm việc lành là mở mắt cho người mù, cho nên dứt khoát Chúa Giê-su không phải là kẻ tội lỗi mà là vị ngôn sứ. Họ tiếp tục lý luận Chúa Giê-su là kẻ tội lỗi, không thể từ Thiên Chúa mà đến. Anh phản công bằng một lý luận chắc nịch: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”
Ta cũng nên lưu ý tới sự căng thẳng mỗi lúc một trầm trọng hơn trong cuộc tranh luận giữa anh mù được chữa lành với kẻ thù của Chúa Giê-su. Họ càng lăng mạ Chúa bao nhiêu thì anh càng hăng hái và can đảm bênh vực Chúa bấy nhiêu. Anh không chút sợ hãi, cho dù cuối cùng có bị trục xuất khỏi Đền Thờ. Dĩ nhiên khi nhắc đến việc anh mù được Chúa chữa lành đã bị đuổi ra khỏi Đền Thờ, thánh Gio-an muốn khích lệ những Ki-tô hữu gốc Do-thái rằng cho dù họ có bị loại trừ khỏi cộng đồng Do-thái vì là Ki-tô hữu và vì làm chứng cho Chúa Giê-su, thì họ cũng cứ an tâm, vì Chúa luôn ở bên họ giống như Người đã trở lại để củng cố đức tin của anh mù từ lúc mới sinh. Nhưng ngài cũng muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu mọi thời mọi nơi về những bách hại họ phải chịu vì làm chứng cho Chúa Giê-su. Đức tin của ta phải phát triển và đi tới mức trưởng thành là hoàn toàn tin thờ Chúa, như anh mù từ lúc mới sinh đã sấp mình bái lạy Chúa. Chính lúc ta bị bách hại là lúc Chúa ở ngay bên ta để giúp cho đức tin của ta được mạnh mẽ thêm. “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27).
Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay lấy chủ đề Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô làm chính để ta có thể suy niệm và đổi mới đức tin của ta. Ta có thể làm những việc lành khác, tham dự tuần đại phúc, làm thêm việc bác ái trong mùa Chay. Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là làm sao để con đường làm môn đệ Chúa phải càng ngày càng đưa ta đến gần Chúa hơn, để ta có thể kết hiệp với Người trong cuộc Thương khó và sống lại với người trong đời sống mới, sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô. c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi phải diễn tả sự mù lòa thiêng liêng của tôi như thế nào?
Thánh Gio-an dùng dấu lạ Chúa chữa lành người mù từ khi mới sinh để giúp ta nhận ra Chúa là ánh sáng trần gian. Đâu là những dấu lạ trong đời tôi giúp tôi nhận ra Chúa Giê-su qua những hình ảnh mỗi ngày một sống động hơn?
Có khi nào tôi đã tránh né không làm chứng cho Chúa Giê-su?
Tôi đã sẵn sàng để kết hiệp với Chúa Giê-su trong cuộc Thương khó của Người bằng chính những hy sinh của đời tôi chưa? Cầu nguyện:
“Như người mù ngồi bên vệ đường Xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy. Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được. Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con. Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 12)
Qua đoạn thư Rm 5:1-2,5-8 của Chúa Nhật trước, Phụng vụ Lời Chúa đã đề cập tới việc công chính hóa, giới thiệu với Ki-tô hữu một cuộc sống mới là kết quả của việc công chính hóa, tức là sống theo Thánh Thần. Bài đọc hôm nay tiếp tục chủ đề ấy và quảng diễn đời sống mới ấy bằng hình ảnh sống động: sống như con cái ánh sáng.
Thư Ê-phê-xô chia làm hai phần rõ rệt: phần đầu (1:3-3:21) trình bày mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Chúa Ki-tô và tiếp tục trong Hội Thánh; phần hai (4:1-6:20) là những lời khuyên nhủ Ki-tô hữu đáp lại kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa bằng cách sống đời sống mới, kết hiệp với Chúa Ki-tô và thể hiện đời sống mới ấy trong những tương quan giữa họ với gia đình, cộng đoàn và xã hội.
Xen kẽ giữa những lời khuyên thực tế liên quan tới đời sống mới trong Ðức Ki-tô, thánh Phao-lô bất ngờ nêu lên một hình ảnh sống động về đời sống mới của Ki-tô hữu Ê-phê-xô. Trước hết ngài muốn họ nhìn lại hình ảnh quá khứ của họ: "Xưa anh em là bóng tối." Ðúng vậy, đối với tín hữu Ê-phê-xô, mặc dù sống trong ánh sáng văn minh, nhưng họ vẫn bị đè nặng dưới ách tội lỗi, không thể đứng thẳng dậy mà nhận lấy quyền làm con cái Thiên Chúa được. Nói khác đi, họ vẫn "là bóng tối". Nhưng từ khi tin vào Chúa Ki-tô và nhận lãnh phép rửa, dân Ê-phê-xô trở thành Ki-tô hữu, được thoát khỏi bóng tối tội lỗi và được bước đi trong ánh sáng Chúa Ki-tô. Giữa cái "xưa kia" và "bây giờ", giữa "bóng tối" và "ánh sáng", phải có một sự can thiệp đặc biệt mà tự sức riêng, con người không ai có thể vượt qua được, đó là "trong Chúa Ki-tô". Ðấng can thiệp vào số phận khốn nạn của con người chính là Thiên Chúa. Vậy "nhờ tình thương của Người, theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Ðức Giê-su Ki-tô" (Ep 1:4-5). Người đã sai Con Một đến trần gian, chết vì tội lỗi chúng ta và phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Thiên Chúa, con cái ánh sáng.
Nhưng thế nào là đời sống của con cái ánh sáng? Thánh Phao-lô đưa ra ba thứ việc làm thể hiện đời sống của con cái ánh sáng, tức là "tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật." Ðối nghịch với những việc làm của con cái ánh sáng là những việc làm của con cái bóng tối, tức là những việc làm vô ích và lén lút. Ngài không đi vào chi tiết, mô tả thế nào là lương thiện, công chính, chân thật, vô ích và lén lút. Có lẽ tự lương tâm con người, chúng ta đã có thể nhận ra được những điều ấy rồi. Với thánh Phao-lô, điều quan trọng là chúng ta cùng với tín hữu Ê-phê-xô phải nhận thức hai điều. Ðiều thứ nhất là phải ý thức chỗ đứng hiện tại của mình, nghĩa là xưa kia khi chưa tin Chúa Ki-tô và chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội thì chúng ta là "bóng tối". Nhưng hiện tại thân phận của chúng ta đã được thay đổi rồi, chúng ta là "ánh sáng". Sau khi nhận thức như thế, điều thứ hai là chúng ta phải sống thân phận mới của mình, sống Bí tích Rửa tội. Ðể cụ thể hóa việc sống Bí tích Rửa tội, thánh Phao-lô trích dẫn sách ngôn sứ I-sai-a, kêu gọi chúng ta a) hãy tỉnh giấc và chỗi dậy; b) hãy để ánh sáng Chúa Ki-tô dẫn dắt chúng ta.
Không phải sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là lúc nào chúng ta cũng hướng lòng về Chúa và điều thiện. Nhưng chúng ta vẫn có thể bị ru ngủ và chìm đắm trong tội lỗi. Do đó, tỉnh thức và chỗi dậy là thái độ căn bản của Ki-tô hữu, nếu họ muốn cứ tiếp tục cuộc hành trình đức tin mà Bí tích Rửa tội là khởi điểm. Tỉnh thức và chỗi dậy là điều Ki-tô hữu sẽ lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình, để rồi mỗi lần làm như thế, họ sẽ mỗi ngày một hướng về Chúa Ki-tô hơn và để cho ánh sáng của Người soi dẫn họ. Không những để cho ánh sáng Chúa Ki-tô dẫn dắt, mà hơn thế nữa, theo lời Chúa Ki-tô, họ còn phải trở nên chính ánh sáng chiếu tỏa như những "ngọn đèn đặt trên đế để soi sáng cho mọi người trong nhà" (Mt 5:14-16).
Tuy trích dẫn các thư khác nhau của thánh Phao-lô, nhưng Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày một chủ đề thống nhất về ơn cứu độ của Chúa và việc đáp trả của chúng ta. Theo dõi các bài đọc Tân Ước của mùa Chay, chúng ta vừa hiểu được giáo lý Giáo Hội muốn trình bày, vừa có được những bài học thực hành để sống đức tin Công giáo, nhờ đó chúng ta chuẩn bị tâm hồn để cùng sống lại với Chúa trong con người mới và cử hành Mầu nhiệm Phục Sinh cho sốt sắng và hiệu quả.
Câu hỏi gọi ý chia sẻ
Ðược làm con cái ánh sáng qua Bí tích Rửa tội là một hồng ân lớn lao. Tôi đã năng nhớ tới hồng ân này như thế nào? Biến cố được rửa tội có ý nghĩa gì với tôi?
Hai tình trạng "đang ngủ" và "ở chốn tử vong"nếu áp dụng cho hoàn cảnh tôi thì tôi phải diễn tả như thế nào? Những gì ru ngủ tôi và những gì làm tôi chết đi đời sống thiêng liêng?
Trong mùa Chay này, với những bài đọc trích thư thánh Phao-lô, tôi đã học được những điều giáo lý nào? Có điểm nào tôi cần được giải nghĩa thêm?
Thánh Phao-lô viết: "Anh em hãy nghiệm xét điều gì đẹp lòng Chúa." Ðây có phải là một điểm quan trọng trong việc làm phút hồi tâm mỗi ngày của tôi không? Tôi có nhờ "Ðức Ki-tô chiếu sáng" để nhận ra những điều ấy chưa?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát một bài thánh ca mùa Chay thích hợp. Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
"Ðừng xét theo hình dáng và vóc người. Thiên Chúa không nhìn theo kiểuu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Ðức Chúa thì thấy tận đáy lòng"
* Bài đọc 2: Ep 5, 8-14:
(8) Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; (9) mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. (10) Anh em hãy xem những gì đẹp lòng Chúa. (11) Ðừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. (12) Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. (13) Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; (14) mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng.
* Bài Tin Mừng: Ga 9,1-41: Ðức Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Ði ngang qua, Ðức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thày, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (3) Ðức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. (4) Chúng ta phải thực hiện công trình của Ðấng đã sai Thày, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thày còn ở thế gian, Thày là ánh sáng thế gian."
(6) Nói xong Ðức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa". Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" (9) Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại rằng:" Không phải đâu, nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây" (10) Người ta liền hỏi anh: "Vậy làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" (11) Anh ta trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy. (12) Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu?" Anh ta đáp: "Tôi không biết."
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. (14) Nhưng ngày Ðức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. (15) Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ"
(18) Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh ta bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" (20) Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được. (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giê-su là Ðấng Ki-tô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: " Nó đã khôn lớn rồi, xn các ông cứ hỏi nó."
(24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." (25) Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" (26) Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh như thế nào?" (27) Anh trả lời" Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" (28) Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâ mà đến." (30) Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy là người đã mở mắt tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì." (34) Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thày chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh. (35) Ðức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" (36) Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?" (37) Ðức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." (38) Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. (39) Ðức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù" (40) Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Ðức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù sao?" (41) Ðức Giê-su bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn!"
1. Có phải nỗi khổ của người mù về tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù về thể lý?
2. Phúc âm Gio-an trình bày Ðức Giê-su là Ánh sáng trần gian như thế nào?
3. Làm thế nào để chúng ta đem ánh sáng (là Chúa Giê-su Ki-tô) đến cho người xung quanh? * Suy tư gợi ý
1. Nỗi khổ của người mù về tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù về thể lý:
Có hai loại người mù: mù thể lý và mù tâm linh. Mù thể lý là người có con mắt bị hư, hoặc từ lúc mới sinh hoặc do tai nạn, không nhìn thấy sự vật và con người xung quanh mình. Người mù không cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, vạn vật; đi đứng khó khăn, phải dựa vào cây gậy để dò đường hoặc phải bám vào cánh tay của một người thân để tiến bước. Người mù thể lý có nỗi khổ riêng mà ít ai hiểu nổi. Nhưng còn có một loại người mù khác: đó là mù tâm linh. Người mù tâm linh thì dù có đôi mắt sáng, cũng không nhìn thấy con đường mình đi, cũng không nhận ra ý nghĩa của cuộc sống và gía trị của vạn vật. Có thể nói nỗi khổ của người mù tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù thể lý, vì người ấy có mắt cũng như không, có sống nhưng chỉ là sống dật dờ, không định hướng. Cả người mù thể lý lẫn người mù tâm linh đều cần đến thày thuốc để được chữa lành. Câu chuyện Gio-an kể lại trong bài Phúc Âm hôm nay là một ví dụ.
2. Phúc âm Gio-an trình bày Ðức Giê-su là Ánh sáng trần gian:
Trước hết Gio-an kể lại câu chuyện Ðức Giê-su chữa lành người mù mới sinh để mắt anh ta nhìn thấy được. Thế giới hiện hình trước đôi mắt ngạc nhiên và thích thú của anh. Cuộc đời anh thay đổi một cách quyết liệt, vì trước đây anh không thấy, bây giờ anh mới thấy. Chúng ta có thể hình dung niềm vui lớn lao như thế nào dâng trào trong tâm hồn anh!
Kế tiếp Gio-an cho ta thấy Ðức Giê-su không chỉ là một bác sĩ đại tài mà còn là một bác sĩ tâm linh, là Người mở đường vào thế giới linh thiêng, thế giới của Thiên Chúa. Con mắt tâm linh anh mù đã nhìn ra điều mà những người Pha-ri-sêu thông thái, đạo đức không nhìn ra: Ðức Giê-su là vị Ngôn sứ, là Con Người, là Ðấng đem ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Anh ta đã thấy và đã tin! Cả đôi mắt thể lý và tâm linh của anh đều sáng, trong khi đôi mắt thể lý của những người Pha-ri-sêu thì sáng nhưng mắt tâm linh của họ lại tối tăm mù lòa.
Nhìn vào xã hội loài người hiện nay, chúng ta thấy có nhiều hạng người mù về tâm linh: Biết bao người theo đuổi chiến tranh, hận thù, tham vọng bá chủ; biết bao người bóc lột, đàn áp người khác để làm giầu. Họ có mắt mà không thấy việc họ làm là bất lương, bất chính. Họ cần được Ðức Giê-su chữa lành con mắt tâm hồn.
3. Ðem ánh sáng (là Chúa Giê-su Ki-tô) cho người xung quanh:
Trước khi đem ánh sáng -là Chúa Giê-su- cho người khác, chúng ta phải tự hỏi: Ðức Giê-su có thật là ánh sáng cuộc đời tôi không? Tôi có sống theo ánh sáng của Người không? Tôi có đi theo con đường Người vạch ra không? Thánh Phao-lô Tông đồ trong thư Ê-phê-sô đã hướng dẫn chúng ta phải sống như thế nào cho phù hợp với tư cách con cái sự sáng: Ðó là sống lương thiện, công chính và chân thật; đó là thực hiện những điều đẹp lòng Chúa; đó còn là từ chối và tố giác những hành động của con cái bóng tối. Chúng ta sống như thế là chúng ta đã đem Ðức Giê-su là ánh sáng cho người khác rồi. Sống được như thế không phải là chuyện dễ dàng trong hoàn cảnh hôm nay, vì môi trường chung quanh ta đầy rẫy bất lương, bất chính và gian trá. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, chúng ta còn phải tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu Chúa Giê-su là Ánh sáng cho người xung quanh, để mọi người nhận ra Người là Ngôn sứ, là Sứ Gỉa của Thiên Chúa, là Ðường và là Sự Sống.
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian! Xin Chúa chiếu sáng những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc, u mê!
Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian! Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhìn thấy thiên nhiên vạn vật, và nhất là để chúng con nhìn ra Chúa trong cuộc đời chúng con, trong những người sống chung quanh chúng con, trong các biến cố xẩy ra cho chúng con.
Ðứng trước cảnh cùng quẫn, hoặc lúc phải đối diện với những thảm họa, các môn đệ Ðức Giêsu cũng như mọi người chúng ta, thường rơi vào tâm trạng bị dằn vặt bởi những mâu thuẫn chất chứa thất vọng "Ai, y hay cha mẹ y đã phạm tội, khiến y mù từ khi mới sinh?". Ðứng trước tháp đôi Newyork sụp đổ cướp đi mạng sống hằng chục ngàn nhân mạng, trong nỗi kinh hòang, lương tri nhân lọai thét gào đòi công lý. Và người ta chồng chất hờn căm vào Bin Laden, để rồi truy lùng y với mọi phương tiện.dường như làm như vậy, con người cảm thấy mình được yên ổn trước những thảm họa và khốn cùng. Nền kinh tế đang trên đường phục hồi là dấu chỉ một nền an sinh vững chãi. Nhưng lịch sử nhân lọai dường như lại nói lên một điều hòan tòan khác. Sự kết thúc một cuộc chiến không bao giờ đem lại hòa bình vững bền, mà chỉ là che đậy nó bằng những hòa ước, những hiệp thương. Chiến tranh vẫn còn tiếp diễn trong bóng tối mà người ta gọi là những cuộc chiến tranh lạnh. Ðể rồi theo một chu kỳ phức tạp hơn, nó lại tái diễn trên một quy mô còn tàn bạo và khủng khiếp hơn. Bởi vì con người trong mọi thời đại chẳng bao giờ muốn thành khẩn để trả lời cho chính những dằn vặt mâu thuẫn trong chính lòng mình.
Nếu thành khẩn, mỗi người, mỗi thời đại, mỗi xã hội đều phải như thánh Phaolô ghi khắc lời đã chép rằng "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong , trỗi dậy đi nào! Ðức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!". Giống như người Pharisiêu trong Tin Mừng, chúng ta luôn cho rằng "chúng tôi thấy", nên cuối cùng chúng ta vẫn là kẻ đui mù,chúng ta vẫn"là bóng tối", chúng ta vẫn "cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối". Sự lì lợm này chỉ có thể được khám phá bởi cái nhìn mà Ðức Giêsu đem đến cho con người, như anh mù trong Tin Mừng "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì". Chính Ðức Giêsu cũng đã khẳng định trước đó với môn đệ "Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian".
Ðứng trước những vấn đề của con người, kể cả những thảm họa và cùng quẫn, theo Ðức Giêsu, căn bản là con người phải tin là "sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện.và chúng ta phải thực hiện công trình của Người." Nói cụ thể và xác thực là "Ta đến thế gian này là để. cho người không xem thấy được thấy.". Thánh Phaolô cũng nói như thế về người tín hữu "anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng. ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật." Ánh sáng không đến từ "diện mạo, vóc cao" nhưng tỏa ra từ tâm hồn từ người được xức dầu. Sách Samuel hằng ngàn năm trước Ðức Kitô đã khẳng định như thế. Ánh sáng của "Thánh Thần ngự trong" lòng họ. Thánh Thần không những dùng quyền năng Tình Yêu thanh tẩy và khu trừ tội lỗi khỏi lòng trí kẻ được xức dầu, mà còn tấn phong họ để dẫn dắt Dân Chúa loan báo và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa giữa thế gian, đem lại an cư thịnh vượng cho con người, y như Ðavid và Ðức Kitô dòng dõi người đã làm.
Hơn khi nào hết, nhân lọai đang đứng trước nạn khủng bố tòan cầu, mỗi con người đều thèm khát hòa bình và thịnh vượng, nhân lọai này có quyền đòi hỏi nơi mỗi người môn đệ Ðức Giêsu, nơi mỗi cộng đòan Nhiệm Thể Người, chiếu dãi Ánh Sáng Thánh Thần Yêu Thương. Từ đó chúng ta phải lục vấn lại chính mình "Thánh Thần còn ngự trị trong lòng" tôi chăng? Hay là chúng ta đã dùng sức mạnh và tài trí làm ra những bức tường dày đặc lấp kín nguồn sáng yêu thương? Cách riêng các cha mẹ, bằng tình yêu trần gian, bằng sức mạnh của cải, bằng quyền lực xác thịt, đã vít hết mọi lối, không cho Thánh Thần đi vào con tim của trẻ thơ, ngay từ lúc còn măng sữa. Ðể khi lớn lên chúng phải sống mãi trong bóng tối mà không còn khả năng đến với Ðức Giêsu để được chiếu sáng. Cha mẹ có tin vào lời dạy trong Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu "Chỉ trong con người Ðức Giêsu, lời cứu độ của Thiên Chúa mới tỏ hiện hòan tòan đầy đủ, Lời đó mở ra thời sau hết ." "Thiên Chúa đặt Người làm lời Cứu Ðộ duy nhất và tuyệt đối của Thiên Chúa."
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời. Để nhìn đời và để làm duyên. Mẹ cho em đôi mắt màu đen. Để thương để nhớ, để ghen để hờn. Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn. Là bài thơ hay nhất. Là lời ca không dứt. Là tuyệt tác của thiên nhiên. Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư viết 2 câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
“Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặn trong dòng mắt em” .
Trong bài viết “Đôi mắt”, Lm. Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt Đức Tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.
Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù.
Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” ( St 3, 4-7 ). ( x. Nước mắt và hạnh phúc tr. 69-71 ) Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình: - Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra. - Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt. - Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt Đức Tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng Đức Tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.
Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách:
Thử thách lần thứ nhất ( Ga 9, 8-12 ), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao ?” Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".
Thử thách lần thứ hai ( Ga 9, 12-17 ), những chất vấn của giới Pharisêu và lời nhạo báng: “Một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy ?” Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".
Thử thách lần thứ ba ( Ga 9, 18-23 ), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.
Thử thách lần thứ tư ( Ga 9, 24-34 ), người Pharisêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".
Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng Đức Tin: “Lạy Thầy, tôi tin” ( Ga 9, 37 ). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao Đức Tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức Tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt Đức Tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: “Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng Đức Tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1-10 ). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36-50 ). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32- 43 )...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” ( Ga 8, 12 ). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của Đức Tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.
Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt, để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa. Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
Chúng ta vừa nghe Thánh sử Gioan tường thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu thái độ của các nhân vật trong câu chuyện này.
1. Thái độ của Đức Giêsu:
Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ để chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Có những phép lạ xảy ra do sự thỉnh cầu của con người. Nhưng cũng có những phép lạ xảy ra do chính Ngài chủ động đến với con người như phép lạ chữa cho người mù hôm nay. Câu chuyện phép lạ bắt đầu bằng sự thắc mắc của các môn đệ: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" (Ga 9,2). Và Đức Giêsu cho biết: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh." (Ga 9,3). Giải thích xong thắc mắc của các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hành động để chữa lành cho anh mù. Tin mừng kể: “Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.’ Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.” (Ga 9,6-7).
Như vậy, phép lạ đã xảy ra, anh mù đã sáng mắt. Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì đã khá hoàn hảo. Nhưng lòng thương xót của Đức Giêsu còn muốn đi xa hơn. Đó chỉ là phép lạ chữa lành con mắt phần xác. Đức Giêsu còn tiếp tục đồng hành với người mù, giúp người mù sáng cả con mắt đức tin. Như vậy, Đức Giêsu đã thực hiện nơi người mù hai phép lạ cùng một thời điểm: Phép lạ sáng con mắt thể lý và phép lạ sáng con mắt đức tin.
2. Thái độ của người mù:
Bệnh mù lòa có thể do bẩm sinh, có thể do tai nạn hay một nguyên nhân nào đó. Người bị mù thì không thấy ánh sáng, không được nhìn ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người thân, không thấy đường đi, không thấy công việc để làm, giảm thiểu hạnh phúc của cuộc đời…Nên họ bị thiệt thòi về nhiều mặt. Ước mong lớn nhất của người mù là được sáng đôi mắt.
Người mù trong câu chuyện Tin mừng hôm nay đã mù từ thuở mới sinh. Chắc chắn anh ta ngày đêm mong muốn được sáng đôi mắt. Lòng mong muốn đó được đáp ứng khi anh gặp được Đức Giêsu. Hay nói đúng hơn là được Đức Giêsu gặp anh. Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với anh. Ngài hành động và mời gọi anh làm theo ý của Ngài. Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt anh và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa". Đó là một lời mời gọi của đức tin. Tin mừng cho biết: “Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”
“Ra đi và rửa rồi trở lại.” Đây là thái độ của sự vâng phục trong niềm tin. Nhờ thế mà anh được sáng con mắt. Sau đó, anh đã công khai làm chứng về Đức Giêsu: “Ngài là một tiên tri”(x. Ga 9,17); "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy;”(Ga 9,25).
Khi những người biệt phái cho rằng Đức Giêsu "không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat," thậm chí họ kết án “Đức Giêsu là một kẻ tội lỗi" thì người mù còn khẳng định rằng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25). Rồi anh tiếp tục làm chứng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (Ga 9,31). Lời khẳng định đó đưa đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,33).
Đức tin của người mù còn thể hiện một cách mạnh mẽ ngay cả khi anh bị cha mẹ bỏ rơi. Sau này gặp lại Đức Giêsu, anh còn xác tín rằng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).
Tấm gương của người mù đáng cho mỗi người chúng ta học tập: Một đức tin vững mạnh, một đức tin can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc sống.
3. Thái độ của những người Biệt phái:
Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù, những người Biệt phái đã mở một cuộc điều tra nhằm lên án Đức Giêsu, phủ nhận phép lạ Ngài vừa làm. Đây là một thái độ kiêu căng, thể hiện một sự ghen tương không muốn chấp nhận sự thật, không nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa đang thể hiện trước mắt họ. Thậm chí, vì cái nhìn mù quáng nên họ còn muốn kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Họ ghét Đức Giêsu nên họ ghét luôn cả những người có liên hệ, cụ thể là họ ghét luôn cả người mù. Người mù đã trở thành nạn nhân của họ (x. Ga 9,34). Vì thế, họ tìm cách gây áp lực và làm khó dễ cho anh ta. Họ sáng con mắt phần xác nhưng lại mù quáng con mắt thiêng liêng. Mặc dầu vậy, họ còn tự hào là mình rằng “chúng tôi thấy.” Chính vì thế, lời quả quyết của Đức Giêsu thể hiện đúng bản chất của họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn đó” (Ga 9,41)
Trong cuộc sống hôm nay cũng có nhiều người giống như những người biệt phái này. Họ không làm việc lành, trái lại có ai đó làm việc lành thì họ lại ngăn cản hoặc tìm cách bóp méo sự thật, thậm chí còn bỏ vạ, cáo gian, kết án người vô tội.
4. Thái độ của cha mẹ người mù:
Trước sự rắc rối mà chính con mình gặp phải đáng lý ra hai ông bà phải đứng ra bệnh vực cho con. Đằng này, hai ông bà lại lẫn trốn trách nhiệm không dám nói lên sự thật mà còn đùn đẩy cho con: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”(Ga 9,23). Chính Tin mừng đã cho chúng ta biết lý do vì sao cha mẹ anh ta lại nói như thế: “Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô.”(Ga 9,22). Đây là một thái độ cầu an nên thiếu trách nhiệm với con mình.
Trong cuộc sống hôm nay, cũng có rất nhiều người sống thiếu trách nhiệm không chỉ đối với con cái mà còn đối với Giáo hội và xã hội. Nhiều người cha người mẹ không dám nhận con cái mình vì sợ phải nuôi nấng chăm nom, vì thế chúng ta hiểu tại sao có nhiều người cha người mẹ đành bỏ rơi con cái, thậm chị giết hại con cái ngày từ trong lòng mẹ. Nhiều người con cái không dám nhận cha mẹ mình vì cha mẹ nghèo đói, bệnh tật. Nhiều người không dám đứng lên bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ liên lụy đến mình và gia đình mình, sợ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo.
Vì thế, cảnh bất công, người công chính bị trù dập, việc tốt việc lành bị bóp méo vẫn còn nhan nhãn trong xã hội chúng ta đang sống.
5. Thái độ sống của chúng ta hôm nay?
Suy niệm về thái độ của Đức Giêsu, của người mù, của những người biệt phái và của cha mẹ anh mù, chúng ta thử đối chiếu với thái độ sống của chúng ta như thế nào?
Có khi nào chúng ta sẵn sàng đến để giúp đỡ những người xấu số như Đức Giêsu đã giúp đỡ cho người mù không? Chúng ta có bênh vực cho những người gặp rắc rối trong đức tin như Đức Giêsu bênh vực cho người mù không?
Có khi nào chúng ta can đảm bênh vực cho Chúa, cho Giáo Hội và cho niềm tin của mình giữa thử thách gian nan như người mù không?
Có khi nào chúng ta kiêu ngạo, ghen tuông nên tìm cách từ chối sự thật, thậm chí còn bỏ vạ cho người tốt không?
Có khi nào chúng ta sợ liên lụy đến mình, gia đình mình hay thiệt thòi về của cải vật chất…nên thiếu trách nhiệm với những người thân yêu của chúng ta như cha mẹ của người mù không?
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con không bị mù con mắt thể lý. Nhưng xét mình lại có lẽ nhiều lúc chúng con vẫn bị mù về con mắt tinh thần. Xin Chúa giúp chúng con biết làm theo lời Chúa dạy để chúng con được luôn sáng con mắt đức tin, con mắt tinh thần. Amen.
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa nhật của Niệm Vui (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn hầu cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của Lễ Phục Sinh đã gần kề.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ". Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, " Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …" (Is 66,10-11).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Lời Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A: " Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… " (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: "Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?" (Ga 9,35) Như một "người" giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là "một ngôn sứ", Chúa mở mắt anh ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là "Chúa", và trả lời câu hỏi Chúa đặt ra cho anh: "Lạy Thầy, tôi tin!" (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là nguyên nhân của niềm vui lớn cho người mù từ khi mới sinh này, vì Chúa đã cho anh thấy được cảnh vật không chỉ về thể lý mà còn cả tinh thần nữa. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.
Người mù đã tin và đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Trái lại, những người Pharisêu thì tưởng rằng mình sáng, nên họ vẫn bị mù vì sự cứng lòng và tội lỗi của họ. Đúng vậy, "Người Do Thái không tin là trước đây anh bị mù mà bây giờ nhìn thấy được. Đó là lý do tại sao họ gọi cha mẹ anh ta đến" (x. Ga 9,18).
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: " Ta là sự sáng thế gian" (Ga 9, 5) ; " Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người." (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình... anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: " Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người" (St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: " Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt " (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Chúng ta là con cái ánh sang
Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: " Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa" (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.
Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành " con của sự sáng " (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành " con cái Thiên Chúa" (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh " hoa trái của sự sáng " (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.
Chúa Giêsu là 'Ánh sáng thế gian' (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.
Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân. Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Ðấng Cứu Thế. Amen.
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Giáo Hội hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.
Nhờ đôi mắt, người ta sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Nhưng nếu họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Vì thế, ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Nếu thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu nhưng anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 1, 32 - 33). Bản thân anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 1, 38). Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Không những thế, Chúa Giêsu còn dẫn đưa nhân loại mới về Nước Trời. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa
Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin. Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu. Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh không nghi ngờ nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa Giêsu. Tin là một hành trình ngày càng gian khổ.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Giêsu nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn những người biệt phái thì họ không tin Chúa, mắt họ thấy Chúa nhưng lòng họ không tin nên họ không được biến đổi.
Nhìn lại chúng ta, chúng ta có tin Chúa không, chúng ta đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của mình? Chúng ta có can đảm phá tan những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi không? Mùa Chay chính là cơ hội cho chúng ta tăng thêm ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Đó là dầu của việc ăn chay, cầu nguyện, chia sẻ cho người túng thiếu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".
Sau cuộc tranh luận dữ dội và sự nghiêm khắc của các chương 7 và 8 với các diễn tiến tập trung vào Chúa Kitô, thì đây là bài trần thuật đầy vẻ sống động, phân vân và đầy sinh lực. Tác giả khéo léo đan xen các bi kịch đầy đạo lý, với một vài trần thuật giàu tưởng tượng và kể chuyện nhiều hơn, làm nên một câu chuyện về Chúa Giêsu, người mù từ thuở mới sinh và nhiều nhân vật đối thoại khác. Trong số các bài trần thuật của Gioan thì bài này trổi vượt vì giọng điệu linh hoạt, ít khai triển thần học và vì bề dày của nhân thân người mù.
Phần dẫn (cc. 1-5)
Cách dẫn nhập vào bài trần thuật này (“đi ngang qua”) thường thấy trong sách Nhất Lãm (Mc 1,16; Mt 9,27) lại bất thường nơi Gioan. Cảnh tượng được trình thuật, có thể diễn ra bất cứ lúc nào vào một trong những ngày Chúa Giêsu ở Giêrusalem. Tuy nhiên bài trần thuật này nối khớp chặt chẽ với bài trần thuật trước đó: sự chống đối Chúa Giêsu được khai triển trong các chương 7 và 8 được tập trung ở đây trên một con người, bởi vì người này đang trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Nước ở hồ Silôê quan trọng đối với lễ Lều lại đón nhận ở đây con người mù lòa. Chúa Giêsu, “ánh sáng thế gian” trong 8, 12, phải đối đầu với sự đui mù của người Do Thái đang khép kín trước ánh sáng này. Ở đây, Đấng là “ánh sáng thế gian” (c.5) mở mắt cho người mù và, qua dấu lạ này, vạch trần cách minh bạch hơn sự đui mù của các lãnh tụ Do Thái.
Năm câu đầu tiên dẫn nhập các nhân vật và các chủ đề của bài trần thuật. Chúa Giêsu là nhân vật trung tâm, Đấng nhìn thấy người mù, đoán giải trước cảnh huống (dấu lạ như biểu hiện vinh quang), kết hợp các môn đệ (tái xuất hiện lần đầu tiên kể từ chương 6) vào công việc của Người (chúng ta phải làm việc) qua lời mặc khải mầu nhiệm (cc. 3-5). Vấn nạn mà các môn đệ nêu lên, phù hợp với lòng tin khá phổ biến trong đạo lý Do Thái theo đó đứa bé có thể phạm tội ngay trong bụng mẹ! Năm câu đầu tiên này tập trung vào Chúa Giêsu và lời mặc khải của Người sau đó nhường chỗ lại cho một bài trần thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động.
Việc chữa lành (c. 6-7)
Phép lạ chỉ chiếm có hai câu: người kể chuyện chú trọng được cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và các hậu quả người mù phải chịu: Chúa Giêsu không thoa ngay nước miếng vào mắt người mù, mà trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. Cảnh tượng này nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã khởi sự một công việc mà hiệu quả tượng trưng chỉ xuất hiện sau khi người mù đi đến hồ Silôê. Thánh Âutinh nói: “Người mù đến rửa ở hồ và đã chịu phép rửa trong Chúa Kitô”. Nguyên ngữ Silôê có nghĩa là “người được sai phái”, biến người mù thành một sứ giả vâng phục và chuẩn bị làm chứng tá sau này. Khác với Naaman (2V 5,10), người mù đã tin vào hiệu quả lời nói của Chúa Giêsu. Phần tiếp theo của bài trần thuật xác định sự thông hiểu kỳ lạ, sự sốt sắng với điều mới mẻ và khả năng tranh biện của anh ta. Người bại liệt ở chương 5 và người mù từ thuở mới sinh được chữa lành trong những hoàn cảnh khá giống nhau. Thế nhưng, bởi tính hồn nhiên, sự cởi mở, sự thông hiểu và tính dũng cảm của mình, người mù để lại đằng sau mình sự bại liệt không thể nhận ra được và cuối cùng càng thụ động hơn.
Trong các cảnh tiếp theo, Chúa Giêsu biến mất về thể chất. Thế nhưng Người vẫn chiếm vị trí tgm trong các câu tiếp sau các câu hỏi đáp giữa những người đối thoại và người mù.
Người mù và các người láng giềng (cc. 8-12)
Người mù được lành bệnh trở thành đối tượng của ba vấn nạn mà hai vấn nạn đầu thuộc về việc đã xảy ra trước: Có phải hắn không? Và làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? Anh ta trả lời: Anh ta thuật lại từng chi tiết của dấu lạ bằng những từ ngữ gần như lặp lại từng chữ các câu 6 và 7. Chỉ có vấn nạn thứ ba khiến anh ta không thể trả lời: anh ta không biết Chúa Giêsu ở đâu. Anh ta còn cần phải trải qua một con đường dài trước khi xác định đức tin của mình vào Chúa Giêsu, trước khi đi từ dấu lạ đón tiếp nhận Chúa Giêsu, ánh sáng thế gian. Trong lúc này đây, Chúa Giêsu đối với anh ta là người chữa bệnh đơn thuần. Đấng mà người ta gọi là ông Giêsu mà anh ta đến ánh sáng đức tin. Thế nhưng việc Chúa Giêsu đi vào trong đời sống của người mù và ở giữa loài người bắt đầu làm phát sinh hậu quả công hiệu, có thể phân chia loài người thành những kẻ đón nhận dấu lạ và những kẻ từ khước Chúa Giêsu.
Người mù và những người Pharisêu (c. 13-17)
Việc tra hỏi của các lãnh tụ tôn giáo khiến người kể chuyện đưa vào một đề tài mới mẻ mang tính cách tôn giáo: dấu lạ được thực hiện vào ngày Sabat. Từ đó việc làm của Chúa Giêsu vào ngày lễ nghỉ khiến Người đối nghịch với Lề Luật và những đòi buộc của Lề Luật. Cả hai bài đều đối nghịch ở đây, để lộ hai cách giải thích về con người của Chúa Giêsu: có người cho rằng việc chữa lành bệnh tật vào ngày Sabat là vi phạm Lề Luật và như vậy là có tội. Đối với một số người khác thì hoàn thành một dấu lạ không thể là có tội được. Sự chia rẽ giữa các nhóm người về vấn đề Chúa Giêsu càng trở nên sâu xa. Sự đối lập giữa việc vi phạm ngày Sabat (công trình của Thiên Chúa) và việc chữa lành người mù không thể giải quyết được trong lúc này. Thế nhưng một cuộc tranh luận trở nên rõ ràng giữa luật pháp (đối nghịch với Chúa Giêsu) và sự việc chữa lành người mù (là ân huệ của Chúa). Không thể không khôi hài, người mù trở nên như vị trọng tài và hơn nữa tỏ rõ lập trường của mình: “Đó là một vị ngôn sứ”. Chắc chắn điều người mù quả quyết căn cứ vào Kinh Thánh, theo đó Đấng Mêsia được giao cho sứ mạng nên như ánh sáng thiên hạ và mở mắt người mù (Is 42,6-7; xem thêm Is 29,18; 32,3; 35,5).
Người Do Thái và cha mẹ người mù (cc. 18-23)
Cho đến lúc này đây, cha mẹ người mù chỉ mới được nhắc đến như những người chịu trách nhiệm về việc mù lòa của anh ta (c. 2). Bây giờ đây họ được mời đến. Các người Pharisêu ở đây được gọi thành “người Do Thái”: ghi nhận này cho thấy tác giả cũng như độc giả đều giữ một khoảng cách với đạo lý Do Thái. Câu trả lời của cha mẹ người mù dựa vào hai điều biết và hai điều không biết:
Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, và nó bị mù từ khi mới sinh. Chúng tôi không biết làm sao nó thấy được Chúng tôi cũng chẳng hay ai đã mở mắt cho nó.
Hai điều biết đối nhau. Một điều theo xác thịt; một điều theo Thần Khí. Điều này thuộc về mầu nhiệm của Chúa Kitô mà họ không thể hiểu được. Việc họ từ chối có thể hiểu được theo sự hợp lý của bài trần thuật. Người kể chuyện giải thích việc này như sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Có thể thánh sử ghi nhận ở đây những nguy cơ dành cho những ai tin vào Chúa Giêsu bị phạt vạ tuyệt thông vào cuối thế kỷ I, điều chưa được biết đến vào thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên trên bình diện bài trần thuật, việc người mù bị cô lập nhấn mạnh rằng tin vào Chúa Giêsu luôn luôn là một sự tự nguyện dấn thân mà cha mẹ không thể quyết định thay thế cho người môn đệ. Việc chọn lựa này không thể không nguy hiểm bởi vì nó có thể dẫn đến sự đoạn giao với tôn giáo của mình.
Hỏi cung người mù lần thứ hai (c. 24-34)
Sự can dự của cha mẹ người mù kết thúc bằng: “Nó khôn lớn rồi: Xin các ông cứ hỏi nó”. Từ nay người mù rơi vào tình trạng cô đơn, một mình dũng cảm đối diện với những người xét xử mình. Bài trần thuật hình như đối chiếu hai điều hiểu biết mà những người trong cuộc đang hiện diện không thể hiểu nổi: đối lại với lời “chúng ta biết” của nhóm người Pharisêu (c. 24), là lời “chúng ta biết” (c. 31) của người mù và của Giáo Hội mà anh ta đại diện nơi đây. Quả vậy đó là hai dạng hiểu biết đối kháng ở đây: điều hiểu biết thứ nhất (của người Pharisêu, từ nay đồng hóa với người Do Thái), cho rằng quá khứ vẫn còn có giá trị để hiểu được biến cố Giêsu (“chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê”). Họ đem niềm xác tín này đối lại với sự không hiểu biết về nguồn gốc của Chúa Giêsu: “Còn ông ấy, chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến”. Dấu lạ được sử dụng cho hai cách giải thích: nhóm người Pharisêu chỉ chú ý đến việc vi phạm luật pháp (ông ấy là người tội lỗi bởi vì đã làm việc vào ngày Sabat) và tiếp tục cố chấp trước sự kiện kỳ lạ (một người mù nhìn thấy được).
Điều hiểu biết thứ hai cũng quả quyết như điều hiểu biết thứ nhất: người mù và qua anh ta Giáo Hội sơ khai tuyên bố: Chúng ta biết. Điều hiểu biết này ăn rễ sâu trong sự kiện: “trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được”. Ở đây các tiêu chuẩn thuộc về quá khứ đều vô hiệu: bởi vì điều đang diễn ra, nơi Chúa Giêsu, là chưa từng nghe thấy theo nghĩa đen của từ: “Xưa nay chưa hề nghe nói” –Sự hiểu biết của Giáo Hội dành ưu thế cho điều mới lạ tỏ hiện nơi Chúa Giêsu.
Hành trình của người mù kết thúc: anh ta đã đạt được cùng đích và đã đối chiếu hiểu biết của những kẻ đón nhận dấu lạ Thiên Chúa trao ban nơi Chúa Giêsu với điều hiểu biết của những kẻ đã dùng ông Môsê chống lại Thiên Chúa. Lời phát biểu của người Do Thái trong cách nói bóng gió riêng biệt của Gioan lặp lại phán quyết của các môn đệ về người mù từ thuở mới sinh: “một người tội lỗi”. Như vậy, bởi sự bao hàm này, người Do Thái chứng tỏ rằng họ đã không thay đổi ngay từ đầu. Họ đã không “thấy” dấu lạ có khả năng phá tan sự đui mù của họ.
Việc trục xuất người mù ra khỏi hội đường kết thúc bài trần thuật. Xem ra có sự liên lạc mật thiết giữa sự trục xuất này với thân phận của Chúa Giêsu trong mặc khải. Đối với người này người nọ, Chúa Giêsu là người tội lỗi, kẻ vi phạm Lề Luật. Đối với người mù, Người lại là vị ngôn sứ đặc biệt của Thiên Chúa. cho đến lúc ấy, người mù vẫn còn trong phạm vi đức tin theo Do Thái giáo; việc anh bị trục xuất ra khỏi hội đường khiến anh trở thành người bị khai trừ, nhưng chưa phải là một người tin vào Chúa Giêsu. Để tin theo Chúa, nhất thiết Người phải tái xuất hiện để giúp anh ta thực hiện bước tiến này.
Gia nhập cộng đoàn (c. 35-38)
Chúa Giêsu trở lại đón nhận con người bị trục xuất. Để làm điều đó, Người đã khiến có một bước chuyển biến quyết định từ “Chúa Giêsu ngôn sứ” đến “Chúa Giêsu Con Người”. Đấng Cứu Độ dẫn đưa vào trong cộng đoàn của thời cuối cùng. Trong cuộc tranh luận khiến anh ta đối đầu với các lãnh tụ Do Thái giáo và sau cùng “với người Do Thái”, người mù từ thuở mới sinh được lành bệnh đã chứng tỏ sự thông hiểu, sự sáng suốt để giải thích biến cố Giêsu. Ở đây Chúa Giêsu tỏ cho anh ta thấy sự xuất hiện của một di chuyển mới mẻ dưới sự dìu dắt của “Con Người”. Người mù sấp mình xuống trước mặt “Con Người”, nhận biết thiên tính của Người, bởi vì trong Tin Mừng Gioan, việc thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa (Ga 4,20-24; 12-20), và tước hiệu “Chúa” là dấu chỉ căn tính thần linh của Chúa Giêsu. Thờ phượng Chúa Giêsu, nhận biết Người như Đấng mặc khải sau cùng của Thiên Chúa, là chóp đỉnh cuộc hành trình của người mù.
Chú giải (cc. 39-41).
Các người Pharisêu trở nên đối lập với người mù. Chúa Giêsu tự đặt mình vào tâm điểm của ngày Sabat, xác định sự đoạn giao giữa người Do Thái và các Kitô hữu trước hết và trên hết là một sự đoạn giao có liên quan đến Chúa Kitô. việc xét xử mà Người khơi dậy là sự chia cách. Tùy vào thái độ với Ngôi Lời nhập thể mà loài người hoặc ở trong bóng tối, hoặc ở trong ánh sáng.
"Ai dã phạm tội để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?". Theo một quan niệm khá phổ biến trong thế giới cổ thời, thì có mọi liên hệ mật thiết giữa tội lỗi và bệnh tật thể lý (Xh 9, 1-12; Tv 38, 2-6; Ed 18, 20). Trong trường hợp các kẻ tàn tật bẩm sinh, một số giáo sĩ Do thái cho rằng là tại cha mẹ, kẻ khác bảo do chính đứa bé mà chứng tật đã phát sinh trong thời kỳ mang thai (Strack-bill. t.II, tr.528).
"Ta là ánh sáng thế gian": ở đây còn rõ ràng hơn ở 8,12. "ánh sáng" không phải là một định nghĩa siêu hình về con người Chúa Giêsu, nhưng là một cách mô tả ảnh hưởng của Người trên vũ trụ; Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rối trần gian.
"Người Do thái đồng lòng trục xuất anh ta khỏi hội đường". Vào thời biên soạn Tin Mừng, chắc chắn biện pháp trục xuất còn được thi hành trong dân Do thái. Có 3 loại. Nhẹ nhất là khiển trách (nozlpha) và phạm nhân bị tách biệt khoảng một tuần, hay hơn nữa là một tháng. Bậc thứ hai là loại trừ (nddui): trong vòng một tháng, phạm nhân phải ngồi bệt dưới đất mặc tang chế, để râu tóc mọc dài, không tắm rứa, đứng "ở nơi riêng biệt trong giờ cầu nguyện chung. Bậc thứ ba là trục xuất (herem), hình phạt đáng sợ nhất: nó kéo dài vô hạn định; đương sự có thể bị tịch thu tài sản; mọi liên lạc, dù là riêng tư, với tội nhân đều bất hợp pháp (Strack-bill. IV, 292-333). Hình như các đầu mục nhân dân đã áp đụng hình phạt này đối với những người theo Chúa Giêsu.
"Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi”. Đó là một chân lý phổ thông trong thế giới Thánh kinh (Is 1,15; Tv 66,18; 109,7; Cn 15,29; G 7,9; 5,13; Ga 16,23-27; 1Ga 3, 21-22).
"Để kẻ thấy được lại đui mù”: Dù ý nghĩa văn phạm của phân từ được dùng ở đây là thế nào chăng nữa (ngay cả người Hy Lạp, đặc biệt thánh Gioan Kim khẩu, cũng thú nhận trong: chữ ‘hin’ không luôn luôn chỉ mục đích, mà thỉnh thoảng chỉ một hậu quả), thì sự đui mù của các kẻ cứng lòng tm không phải là mục đích Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm tiền định, nhưng chỉ là một trong các hậu kết của thái độ họ đối với Chúa Kitô.
KẾT LUẬN
Trường hợp anh mù soi chiếu một cách sỗ sàng cảnh ngộ cụ thể của đức tin trong thế gian này: một cảnh ngộ bi đát. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô và lòng trung thành với ánh sáng đòi hỏi người đó một sự đoạn tuyệt anh hùng; anh phải vượt thắng tất cả các áp lực và sợ hãi. Đức tin của anh bị thế gian truy nã, vì đức tin là chọn lựa theo Con Người trong cuộc chiến giữa ánh sáng và tối tăm. Nhưng trong cuộc tranh chấp này, đức tin là chiến thắng của sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu chuyện người mù chiếu dọi một luồng sáng gay gắt trên hành trình của ánh sáng trong thẳm sâu tâm hồn con người, trên các chướng ngại vật mà ánh sáng gặp phải và trên cuộc tranh chấp của nó với quyền lực tối tăm. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Họ mang trong mình khả năng trở thành mù lòa, khả năng tự viện ra nhiều lý do chính đáng để khỏi nhìn xem, khả năng tự tạo cho mình nhiều xác tín sai lạc, khả năng từ chối mở mắt khi bảo mình trông thấy. Nhưng ánh sáng trong họ cũng không kém đòi hỏi. Nó bắt buộc phải xét lại biết bao vấn đề, phải từ bỏ biết bao thói quen, phải đoạn tuyệt đôi khi với môi trường sống. Vì những thứ ấy dễ làm cho cái nhìn của con người bị sai lạc. Con người phải tìm lại cho được lòng trong trắng của tuổi ấu thơ vậy. Đó là tất cả những gì mà câu chuyện người mừ bẩm sinh muốn nói. Câu chuyện ấy đã diễn tả thành bi kịch lời Chúa Giêsu sau đây: đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt người lành lặn thì toàn thân người sẽ sáng láng. Nhưng nếu mắt người đau yếu, toàn thân ngươi sẽ ở trong tối tăm. Vậy nếu ánh sáng trong ngươi trở nên tối tăm, thì sẽ tối tăm biết mấy" (Mt 6, 22-23).
2) Câu chuyện người mù từ thuở mới sinh cho thấy cảnh ngộ của người tín hữu có thể bi thảm đến chừng nào (ngược với ý kiến của một số nhà hiện sinh vô thần xem đức tin như là một sự đào thoát an thân). Đức tin có thể đòi buộc ta phải đoạn vệ dữ dội với thế gian và phải anh hùng tuyên xưng chân lý. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu như là Đấng được Thiên Chúa sai đã khiến anh mù bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người ta đuổi anh như đuổi một tội nhân. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh nữa. Đức tin bấy giờ có vẻ cô đơn. Nó bị tầm nã. Nhưng nó cần phải lượt thắng sự sợ hãi, lòng kính trọng của thế nhân, nỗi lo âu về dư luận người đời và phải cố gắng độc lập để đạt đến sự tự do đích thực, dù phải chịu muôn ngàn đau đớn.
3) Cử chỉ chúa Giêsu lấy bùn hòa với nước miếng xem ra kỳ dị; tuy nhiên có thể đoan chắc rằng người không để sự gì xảy ra cách ngẫu nhiên. Trước tiên, việc đó gợi cho ta nhớ đến câu chuyện trong Sáng Thế Ký mô tả Thiên Chúa lấy bùn đất tạo dựng con người đầu tiên (St 2,7). Khi bảo anh chàng kia bị mù là để công việc Thiên Chúa được tỏ hiện trong anh nhờ trung gian Đấng Ngài sai đến, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình như là kẻ có sứ mệnh tiếp tục công việc tạo dựng đã khởi đầu song chưa hoàn tất. Ngay từ những câu đầu tiên, Người tỏ ra như là Đấng được Tạo Hóa sai đến, làm lại cũng một cử chỉ để chữa lành con người mà tật nguyền là dấu chỉ của một sự thiếu thốn sâu xa hơn.
4) Giữa loài người chúng ta, có những kẻ không nhìn xem được; họ biết điều đó nhưng cảm thấy không thể chữa mình lành. Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng là biểu tượng, là đại diện của họ: Và cũng như Chúa Giêsu đã làm cho bệnh nhân đó được lại mọi quan năng của con người, thì Người cũng mang đến cho những ai ý thức rõ sự ngu dốt và tối tăm của mình, ánh sáng nội tâm để làm tri thức đích thực; Người ban cho họ khả năng hiểu biết, phân biệt cái gì là thật và cái gì chỉ được bộ mã bên ngoài. Ngược lại, có nhiều kẻ chẳng ý thức tí nào về sự đui mù của mình; họ tự mãn về điều họ biết và không ao ước gì khác nữa. Những người đó bị đóng kín trong sự hiểu biết riêng tư, họ sẽ chẳng bao giờ đi xa hơn, và sẽ không tài nào đón nhận được những gì mà Chúa có thể cho họ khám phá một ngày nào đó.
5) Tại sao có nhiều đau khổ trong trần gian, mà ta không biết được nguyên do, mục đích. Đừng vội kết luận rằng những kẻ bất hạnh đang gánh chịu chúng là nạn nhân của một định mệnh mù quáng nào đó. Sớm muộn gì rồi Thiên Chúa cũng sẽ làm rạng rỡ nơi họ sức mạnh và lòng nhân ái của Ngài (Rm 8,28). Chính vì mục đích ấy mà Tobia đã bị đui mù, Gióp rơi vào cảnh cùng khốn và Ladarô phải bị chôn vùi trong nấm mộ.
Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.
Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa.
Mắt cũng biết khóc, biết cười. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẻo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nổi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp quá!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (*) hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” chúng ta cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.
Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Tức là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Thánh Phaolô giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.
Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…). Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám “phán câu xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta:
“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngày: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17).
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ canh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”.
Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”.
Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!
Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhác” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ! Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở mắt đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Lại một lần nữa chúng con được nghe một câu chuyện đẹp. Cha có thể nói rất là rất đẹp. Câu chuyện hôm nay là câu chuyện của một người mù, lại mù từ khi mới sinh. Qua câu chuyện này, chúng ta được thấy thật rõ tình thương của Chúa. Tình thương ấy được bộc lộ ra như thế nào thì chúng con sẽ hiểu.
1. Sự kiện.
Trước hết, chúng con thấy hôm nay Chúa tự tìm đến với người mù. Anh không xin Chúa. Cũng chẳng có ai thương tình dẫn anh tới Chúa. Chúa tự tìm đến với anh. Và Chúa muốn chữa cho anh nếu anh muốn.
Khi Chúa mới đến, anh chẳng biết Chúa là ai. Lúc Chúa lấy bùn xức vào mắt anh, anh cũng chẳng biết Chúa làm như thế để lảm gì. Rồi khi Chúa bảo anh đứng dậy đi tới suối Siloac mà rửa anh cũng chưa biết đi rửa như thế có ăn thua gì không. Vậy mà anh cứ đi và sau khi anh rửa, mắt anh được sáng ra. Anh nhìn thấy được. Anh hạnh phúc quá nhưng anh vẫn chưa biết rõ người đã mở mắt cho mình là ai. Anh chỉ biết lờ mờ “Người mà người ta gọi là Giêsu”. “Người mà người ta gọi là Giêsu”(Ga 9,11). Đó là tất cả những gì anh biết về Chúa. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.
Giả như câu chuyện dừng lại ở đây như bao câu chuyện phép lạ khác Chúa đã làm cha tưởng cũng đã đẹp rồi. Nhưng những sự việc diễn ra sau đó lại làm cho câu chuyện đẹp hơn, đẹp hơn gấp bội phần.
Vậy thì sau đó thì sao ? Cha thấy sau đó là một cuộc chiến. Cuộc chiến này có hai phe. Một phe gồm cả một thế lực hùng mạnh của tôn giáo và trần thế. Phe này bằng mọi cách muốn phủ nhận phép lạ Chúa làm. Phe thứ hai là một mình anh mù mới được Chúa cho sáng mắt. Phe này chỉ có một mình anh. Anh chỉ có một mình nhưng là người hùng trong trận chiến này. Anh quyết tâm bênh vực sự thật cho tới cùng, dù có phải hy sinh, dù phải đối diện với những thử thách vừa nguy hiểm vừa to lớn anh chưa hề gặp trong đời.
Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm mọi cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”(Ga 9,17).
Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.
Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau là đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”(Ga 9,31-33)
2. Bài học
Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp kể cả việc trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.
Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn...ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục xuất anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.
Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có gần anh người ta cũng không phải sợ
Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường, anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh...thật là kinh khủng.
Thế nhưng con người mù này vẫn một lòng can đảm. Đây là một bài học cho mọi người chúng ta.
Chúng con hãy nghe câu chuyện này:
Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc ?
Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy. - Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp: - Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra. - Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos: - Nếu gió là Thiên Chúa thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos kiên nhẫn: - Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời: - Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lên. - Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói:
- Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
Chúng ta cũng hảy Can Đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người như Abraham trong câu chuyện vừa nghe và nhất là người mù trong bài Tin Mừng.
Cách đây 03 thế kỷ có một người thợ dệt tên là Roger Wrenne, sống ở miền Lancaster bên Anh Quốc. Vào thời đó xảy ra một cuộc bách hại khốc liệt nhằm vào các người Công Giáo. Người nào không chịu bỏ đạo sẽ bị tịch thu hết tài sản và có thể mất cả mạng sống.
Roger Wrenne, vì không chịu chối đạo, đã bị kết án treo cổ. Đao phủ cột ông vào cột, nhưng rồi dây bị đứt và Roger Wrenne rơi xuống đất nhưng vẫn sống. Quan tòa lợi dụng ngay cơ hội này bảo anh xin ân huệ nếu anh chấp nhận chối bỏ đức tin Công Giáo. Nhưng Roger Wrenne đáp: “Tôi trước sau như một”. Rồi anh vội vã leo lên chiếc thang dẫn tới đỉnh của cây cột dùng để treo cổ tội nhân. Đao phủ trố mắt nhìn anh với vẻ ngạc nhiên lạ lùng và cười nói với anh: “Ê! mà vội vã thế sao ?”.
Người bị lết án tử trả lời: “Nếu anh thấy được những gì Thiên Chúa vừa chỉ cho tôi thấy, chắc là các anh cũng sẽ vội vàng muốn chết như tôi!”.
Roger Wrenne đã thấy trời mở ra trước mặt!
Một em bé gái Trung Hoa khẩn xin Giám mục ban cho em bí tích Thêm sức. Vị linh mục thừa sai do dự: em còn quá trẻ. Tuy vậy, em vẫn luôn cầu khẩn điều em xin:
- Sau khi con Thêm sức, nếu như quan quyền bỏ tù con và nếu họ hỏi con về đức tin, con sẽ trả lời như thế nào ? - Thưa đức cha, con sẽ trả lời rằng con là Kitô hữu nhờ ơn của Chúa. - Và nếu họ yêu cầu con từ chối Tin Mừng, con sẽ làm gì ? - Con sẽ trả lời: không bao giờ ! - Nếu họ kêu đao phủ tới và nói với con: ngươi hãy bỏ đạo đi, nếu không sẽ bị chặt đầu. Đâu là câu trả lời của con ? - Con sẽ nói: cứ chặt ! Và em bé này đã được lãnh nhận bí tích Thêm sức
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chúng con biết tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người.
Trong những ngày này, cả thế giới đang lao đao vì những con virus Corona bé xíu. Số nạn nhân tăng luỹ tiến từng ngày khiến tất cả thế giới ít nhiều đều cảm thấy sợ hãi. Mọi lĩnh vực trong cuộc sống đều bị con virus nhỏ nhoi này làm tổn hại, đến độ có thể phá sản. Ngay cả lĩnh vực tôn giáo cũng không ngoại lệ. Các nhà thờ phải đóng cửa… Không một người vô tư nào có thể không cảnh giác và không thực hiện những biện pháp phòng ngừa để bảo vệ mình và người thân trước nguy cơ bị lây nhiễm.Từ cái ngày mà Covid-19 đi vào đời sống của con người cho tới nay, không biết rõ bao nhiêu người đã tử vong vì nó, bao nhiêu người đã chết ở các bệnh viện, và bao nhiêu người đã qua đời ở bên ngoài kia. Những điều tra và nghi vấn có thể sẽ chấm dứt khi thời gian trôi đi, và sẽ mãi là bí ẩn không lời giải?
Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ thời đại ?
Nếu đọc qua những lá thư của Giáo Hội liên quan đến lần đại dịch này, chúng ta dễ dàng nghe được những lời mời gọi nguyện cầu và trở về với Thiên Chúa. Nhất là mùa dịch đang diễn ra trong Mùa Chay, lời gọi ấy lại càng thống thiết hơn. Hẳn nhiên, đó luôn là sứ mạng của Giáo Hội, để giúp con người trung tín vào Thiên Chúa. Trong cảnh dịch lan tràn như hiện nay, Giáo Hội càng nhìn thấy nơi đó một dấu chỉ lớn lao. Vì trong đau khổ và nghịch cảnh, một mặt người tín hữu dễ phớt lờ tiếng nói của Thiên Chúa trong biến cố này; mặt khác, Giáo Hội luôn giúp con người trở về với Thiên Chúa. Hoặc nói như Clive Staples Lewis: “Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới ngủ mê.” (x. Youcat số 51).
Chắc chắn virus Corona đang ảnh hưởng không chỉ đến tính mạng nhiều người, nó còn tác động đến hầu hết khía cạnh của đời sống. Có người ví đó như cuộc chiến tranh mà toàn thế giới phải chống chọi. Mỗi tín hữu cũng không miễn nhiễm với con virus này. Cứ nhìn thành đô Rôma tráng lệ, đông đúc người hành hương, thì trước virus Corona, mọi chương trình, thánh lễ công cộng đều tạm ngưng. Điều ấy có nghĩa là người ta đang có biện pháp cực mạnh để hy vọng ngăn ngừa được sức công phá của virus.
Trong bầu không khí ấy, dĩ nhiên, Giáo Hội thấy được nỗi đau đớn, hoảng sợ của người dân. Giáo Hội thấy nơi đó một lời mời gọi để con người cần hoán cải, sám hối và ăn năn nhiều hơn. Giáo Hội đang tiếp tục lắng nghe tiếng Chúa trong những biến cố của thế giới, nhất là lần đại dịch này. Phải chăng Thiên Chúa muốn nhắc cho con người về thân phận mỏng dòn, mong manh và phải chết ? Phải chăng con người toàn năng có thể làm được mọi thứ, có thể tiêu diệt được địch thù đang tấn công nhân loại ? Phải chăng virus Covid-19 là hệ quả của những lầm lạc và kiêu ngạo của con người ? Hình như con người chia phe nhóm đấu đá, đến nỗi hậu quả là chết chóc tang thương ? Hoặc là, virus này khiến thế giới bừng tỉnh về một viễn tượng thiên đường do chính con người có thể tạo nên bằng quyền lực, tranh giành và cố chấp ? v.v.
Danh sách câu hỏi trên đây có thể dài vô tận mà mỗi người có thể đặt ra trước con virus này. Đừng quên, Giáo Hội luôn nhớ sứ mạng của mình là chăm chú tìm kiếm, lắng nghe, khám phá tiếng nói, cũng như hoạt động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử qua những dấu chỉ thời đại. Sẽ không thừa khi Giáo Hội thống thiết nhắc con cái mình về một dấu chỉ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Đó là thời cơ để con người khiêm tốn hơn, nhìn nhận thân phận và vị trí của mình trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. (x.Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ thời đại ? Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J; dongten.net).
Giờ đây, bất lực trước Corona, người ta mới thấy chốn nương tựa duy nhất của mình chỉ có thể là Thiên Chúa. Tất cả mọi tín đồ đều ngước nhìn về Thần Linh của mình, xin ơn khoẻ mạnh, bình an, xin cho các nhà khoa học sớm tìm ra thuốc chữa trị.
Hậu quả do tội của anh ta hay cha mẹ anh ta?
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, các môn đệ có cuộc tranh luận với Đức Giêsu: Lý do nào dẫn đến nỗi đau của anh mù? Đó là hậu quả do tội của anh ta hay cha mẹ anh ta?
Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của những người đương thời và cũng có thể là của một số trong chúng ta: anh ta không phải bị phạt vì đã phạm tội. Đức Giêsu không đưa ra một lời giải thích cho tất cả sự ác trên thế giới. Thay vào đó, Người lại nhắm đến những nhu cầu của người thanh niên đang đứng trước mặt mình. Việc anh mù được chữa lành biểu lộ sự hiện diện năng động của Thiên Chúa trong thế giới này. “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.
Cha mẹ anh ta và cả những người láng giềng cùng những người Pharisêu đều đã không “nhận ra” công trình của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc anh được chữa lành. Họ không trông thấy những điều Thiên Chúa đã thực hiện. Và anh mù cũng không hiểu ngay được rằng điều gì đã xảy ra cho mình. Anh dần biết rõ về Đức Giêsu sau khi bị các nhà cầm quyền liên tục chất vấn, và sau đó cuộc trò chuyện với Đức Giêsu đã cho anh được “sáng mắt”.
Đức Giêsu đã trông thấy và dừng lại trước “người mù từ thuở mới sinh”. Người không những chữa lành cho anh, mà sau đó còn đi tìm kiếm anh, trò chuyện với anh và đưa anh tới đức tin. Khi chữa cho anh mù được sáng mắt, Đức Giêsu đã cho anh bước những bước thật dài trên hành trình đức tin. Nhờ vậy, từ sự yếu kém ở chỗ chỉ coi Đức Giêsu như một con người bình thường, trải qua bao khó khăn thử thách, đức tin của anh đã tiến triển không ngừng và đạt đến mức thập toàn khi xác tín rằng Đức Giêsu là vị ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, và là Con Người.
Ánh Sáng Đức Tin
Trong thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin”, Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành ngày 29.6.2013, có đoạn: “Đức tin như một thính giác và thị giác” gồm ba số 29, 30, 31. Đức tin là một hồng ân siêu nhiên Chúa ban cho con người. Đức tin trở thành ánh sáng hướng dẫn suốt hành trình cuộc đời mỗi người. Người “mù từ thưở mới sinh” đã nghe thấy, rồi cảm thấy Đức Giêsu và đã được Chúa mở mắt để anh ta nhìn thấy và tin vào Người.
“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Đức Giêsu là ánh sáng, Người thi hành sứ vụ trong thế gian bằng lời nói và việc làm của mình. Người mời gọi thính giả và độc giả “làm sự thật” và “đến với ánh sáng”, “đi theo” Người để “không bước đi trong bóng tối” và “có ánh sáng của sự sống”. Đức Giêsu đề nghị với đám đông bước đi trong ánh sáng khi ánh sáng còn ở giữa họ. Người mời gọi họ “tin vào ánh sáng” để “trở nên con cái ánh sáng”. Như thế, người tin vào Đức Giêsu thì không ở lại trong bóng tối. Đức Giêsu nói đến những ai “thấy ánh sáng của thế gian này” thì không vấp ngã, còn những ai “ánh sáng không ở trong người ấy” thì vấp ngã (Ga 11,9-10). Nghĩa là “thấy Đức Giêsu” và “có Đức Giêsu ở với mình” thì sẽ vững vàng tiến bước trong ánh sáng của sự sống.
Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin.
Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng. Ðức Giêsu đem lại ánh sáng cho người mù, còn những kẻ vốn nhìn thấy lại trở nên đui mù. Trước sự chống đối của người Pharisêu, Đức Giêsu trả lời: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn”.
Cầu nguyện
“Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời… xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa, và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn” (lời nguyện nhập lễ)
Lạy Chúa, xin ban thêm ánh sáng đức tin cho chúng con: “Để trong hoàn cảnh thuận lợi hoặc khó khăn, khỏe mạnh hay dịch bệnh, Giáo Hội, Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mỗi người chúng con nhạy bén nhận ra dấu chỉ thời đại. Nó đang diễn ra trước mắt chúng con. Ước gì mỗi người chúng con luôn lắng nghe được tiếng nói của Chúa Thánh Thần đang lớn tiếng trong cơn dịch này”.
Lạy Chúa, xin ban thêm ánh sáng đức tin cho chúng con; dể con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt ; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên, để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen
Qua việc chữa lành người mù, thánh Gioan mở ra cho ta biết Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, ánh sáng cứu độ. Tuy nhiên, con đường tiếp nhận ánh sáng đó là một hành trình đức tin, đầy cam go và thử thách, giữa cuộc đời đầy phức tạp và nhiễu nhương do lòng người, đầy những ảnh hưởng của sự dữ do ma quỉ.
Kinh nghiệm thiêng liêng cho chúng ta thấy, nhiều khi mình rất sáng mắt nhưng không sáng lòng; thấy sự việc nhưng mà không thấy sự thật. Lý do có thể là mình bị đóng khung và cứng đọng theo một lối sống bó hẹp, hay một lề thói suy tư chỉ dựa vào luật lệ và đạo đức bên ngoài. Lý do khác nữa là vì tự ái, vì thành kiến, vì quyền hành, danh giá, nhất là vì ghen ghét mà ta muốn suy diễn khác đi.
Đó cũng là tính cách của nhóm Biệt phái trong bài Tin Mừng: họ không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi suy nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin theo Ngài. Vì thế, họ chống trả quyết liệt, và còn tự phong cho mình là người hiểu biết và đạo đức.
Vấn đề ở đây không còn là tiếng nói của sự thật, mà là tiếng nói của những kẻ có quyền. Sự kiêu hãnh và quyền hành đã khiến họ khép lại, không chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối. Đây là thứ mù lòa tinh thần, không chấp nhận thực tế về bản thân và tha nhân, tìm cách né tránh sự thật và không muốn nghe ai. Trên phương diện đức tin có khi ta giống như người Biệt phái, từ ánh sáng lại rơi vào bóng tối, không còn khả năng để dẫn lối cho ai.
Anh mù vừa được sáng mắt, đang hớn hở vui mừng thì bao nhiêu thử thách lại ập tới. Người ta nghi ngờ anh, soi mói anh, gây khó khăn và đe dọa đời sống anh, ngay cả cha mẹ anh cũng không dám can dự vì sợ liên lụy. Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo, là những người dạy dỗ, hướng dẫn, và là mẫu gương sống đức tin cho dân Chúa. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi, họ tố cáo Đức Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat, và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.
Anh ta đau lòng, tủi hổ và cảm thấy cô đơn hoàn toàn, quả là một thử thách ghê ghớm. Để giữ vững niềm tin, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Để sống cho sự thật anh chấp nhận bị loại trừ. Đúng lúc đau đớn nhất, Chúa Giêsu đã xuất hiện để nâng đỡ anh, Ngài đã tỏ mình cho anh. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin.
Hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng không thiếu những gian nan thử thách. Đức tin Chúa ban cho ta giống như viên ngọc quí, nhưng “ngọc bất trác bất thành khí”.
Mùa chay là cơ hội làm sáng lên đức tin, một đức tin có thể còn mù mờ và bị bao phủ bởi nhiều bóng tối: bóng tối của lòng mình, bóng tối của anh chị em mình, bóng tối ngay trong Giáo hội, bóng tối của một xã hội đang bị tha hóa về mọi mặt, nhất là tinh thần đạo đức đang bị xuống cấp trầm trọng. Chúng ta hãy vững tâm và kiên trì, vì Chúa đang đón đợi mỗi người chúng ta trên từng chặng đường và từng biến cố lớn nhỏ, để an ủi, nâng đỡ và làm sáng lên cuộc đời ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Đời người là một hành trình vượt qua bóng tối, để vươn tới ánh sáng chân lý và tình yêu.
Ánh sáng là sự thuần khiết của tâm hồn, là sự thanh khiết của một tính cách, là sự tinh khiết của một phẩm hạnh.
Trong ánh sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa, chúng con trở nên ánh sáng cho trần gian, và đạt tới Ánh Sáng là chính Đức Giêsu.
Ánh sáng Chúa chan hòa khắp chốn, không chỉ chiếu soi, thanh luyện, nhưng còn chữa lành, gia tăng sức sống, và thần hóa tất cả những ai tin vào Ngài.
Thế nhưng thế giới vẫn còn đầy những bóng tối, bóng tối của sự dữ gieo rắc bao nhiêu là tội lỗi, bóng tối của gian dối, hận thù, ích kỷ, kiêu căng… bóng tối của nhập nhằng chẳng biết đâu hư thực.
Bóng tối làm con lo sợ và nao núng, vì thấy sự ác luôn thao túng hoành hành, không còn thấy sự hiện diện tốt lành của Chúa, làm cho bao người cũng héo úa niềm tin.
Cũng như các tông đồ xưa trước bão giông, thấy Chúa bất động trong cơn biến động, nhưng đó cũng là một cách Chúa hành động, tạo nên một chuyển động trong lòng các ông.
Xin cho con cứ an tâm dù ánh sáng không còn, nhưng còn tay Chúa luôn che chở và nâng đỡ, ánh sáng ấy chỉ ẩn khuất để lòng thêm khao khát, để con biết phó thác mà không sợ trước nguy nan.
Xin cho con đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối, mà luôn thắp sáng tình yêu để dẫn lối đưa đường, không chán chường dù gặp cảnh đau thương, dù lòng người đã khép lại nhưng lòng con vẫn mở, để khi gặp Chúa càng hớn hở mừng vui. Amen.
(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 47) Lm. Thái Nguyên
Volta, người sáng chế ra pin Volta năm 1880, và cũng năm đó, Edison, người hoàn thiện phát minh bóng đèn tròn đốt bằng dây tóc trong chân không để đưa vào sản xuất hàng loạt đã giúp cho nhân loại mau chóng thoát khỏi cảnh tăm tối và được sống trong tràn ngập ánh sáng, cả hai ông cho biết họ tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài là vị kỹ sư vĩ đại nhất mà họ đặc biệt tôn trọng. Những nhà bác học này nhắc chúng ta nhớ đến Thiên Chúa là Đấng tạo thành ánh sáng. Và Ngài cũng chính là Ánh Sáng, ánh sáng thiêng liêng soi sáng chúng ta đi vào cõi mầu nhiệm để cảm nhận được Chân Lý ở nơi Thiên Chúa. Tin Mừng Gio-an cho biết Ánh Sáng đó đã đến thế gian. Ánh sáng đó là chính Đức Giê-su: “Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5)
Mời Bạn:
Triết gia Plato nói: “Bi kịch thực sự cho con người là khi họ sợ hãi ánh sáng.” Nhờ ánh sáng chúng ta thấy được vẻ đẹp của vũ trụ. Thật là tai hoạ nếu như ánh sáng đó mất đi. Thế nhưng còn bi kịch hơn khi người ta thấy hoặc sợ hãi trước ánh sáng siêu nhiên, vì lúc đó họ sẽ không thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Đức Giê-su là chính Ánh Sáng đó. Ngài kéo chúng ta từ chốn tối tăm tội lỗi để trở nên con cái sự sáng. Ngài là ánh sáng chiếu soi vào trái tim và tâm trí chúng ta, để trái tim chúng ta bừng nóng vì được yêu thương, để tâm trí chúng ta được no thỏa hạnh phúc, vì thấy hướng đi và ý nghĩa của cuộc đời.
Sống Lời Chúa: Dâng lời tạ ơn vì được biết Chúa Giêsu là ánh sáng thật.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin mở mắt cho con nhìn thấy ánh sáng tình yêu Chúa và xin giúp con loan truyền ánh sáng của Chúa. Amen
Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì? Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.
Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.
Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Hôm nay chúng ta cùng các anh chị em dự tòng bước vào cuộc sát hạch thứ hai về đức tin: Chúa Ki-tô là ánh sáng trần gian. Đề tài Phụng vụ Lời Chúa dĩ nhiên nói về ánh sáng. Câu chuyện Thiên Chúa tuyển chọn Đa-vít trong số các con trai của ông Gie-sê cho thấy Thiên Chúa nhìn chúng ta theo ánh sáng của Người, cái nhìn thấu suốt tâm hồn chứ không phải vẻ bề ngoài. Đặc biệt nhất là bài Tin Mừng, một câu chuyện khác vô cùng sống động xoay quanh phép lạ Chúa mở mắt cho anh mù bẩm sinh được nhìn thấy và đưa anh đến tuyên xưng đức tin vào Người. Sau cùng là suy niệm của thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng vì ta đã được Chúa Ki-tô cứu khỏi bóng tối tội lỗi để làm con cái sự sáng của Thiên Chúa, nên ta hãy sống như con cái sự sáng.
1. Thiên Chúa nhìn theo ánh sáng của Người. Sở dĩ chúng ta nhìn và nhận ra mọi vật chung quanh là nhờ ánh sáng. Càng nhiều ánh sáng, chúng ta càng thấy rõ. Nhưng đó là cái nhìn bằng đôi mắt thể chất của chúng ta và nhờ ánh sáng tự nhiên, ta chỉ thấy được những gì là vật chất chứ không thấy được những gì là thiêng liêng hay vô hình. Thiên Chúa thì khác. Người tạo dựng muôn loài muôn vật và chúng luôn hiện diện trước mắt Người. Người dựng nên ta có thân xác và linh hồn, nên Người thấu suốt tâm hồn chúng ta nữa. Khi Gie-sê đem bảy người con trai trình diện trước mặt ông Sa-mu-en, ông Sa-mu-en cũng chỉ dựa trên hình dáng bề ngoài của họ mà chọn lấy một người để tấn phong làm vua Ít-ra-en. Cả bảy người con đều không được Thiên Chúa tuyển chọn, vì “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cuối cùng, cậu út Đa-vít đang bận chăn chiên ngoài đồng được gọi về để ra mắt ông Sa-mu-en. “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn”. Trời ơi, cái anh “công tử bột” này mà làm vua Ít-ra-en sao? Chắc ông Sa-mu-en phải lắc đầu chịu thua cách nhìn của Thiên Chúa mất thôi! Nhưng Chúa thấy rõ tâm hồn của Đa-vít. Người biết rõ cậu có những đức tính người khác không nhận thấy được và thích hợp cho vai trò làm vua Ít-ra-en. Đúng vậy, Chúa đâu có chọn lầm chàng trai này, như chúng ta thấy Cựu Ước đã chứng minh khi ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của cậu. Thế là sau khi được Sa-mu-en xức dầu tấn phong, “Thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi”.
2. Chúa Giê-su là ánh sáng giúp chúng ta tin vào Người là Đấng Ki-tô. Như chúng ta biết, thánh Gio-an không sử dụng từ “phép lạ” nhưng dùng từ “dấu lạ” để ám chỉ những việc lạ lùng Chúa Giê-su đã thực hiện. Mỗi dấu lạ đều nhằm nói lên một chân lý về Chúa Giê-su. Do đó, mục đích dấu lạ chữa anh mù bẩm sinh là để chứng minh rằng Chúa Giê-su là ánh sáng trần gian. Dấu lạ giúp chúng ta nhận ra một thực tại thiêng liêng đằng sau một câu chuyện cụ thể, cho nên thánh sử Gio-an thường kể lại dấu lạ một cách vô cùng sống động và chi tiết, như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay và Chúa Nhật tới. Thực ra dấu lạ chữa anh mù bẩm sinh rất ngắn gọn: “Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: ‘Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa’. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được”. Chỉ có vậy thôi. Tuy nhiên, thánh sử dường như muốn ta chú ý nhiều hơn đến sự kiện anh mù được chữa lành đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su khi anh phải đối chất với nhóm Pha-ri-sêu là kẻ thù của Chúa. Năm lần bảy lượt, anh bị nhóm Pha-ri-sêu cật vấn và thuyết phục anh rằng Chúa Giê-su là “người tội lỗi” vì đã chữa lành anh vào ngày sa-bát! Anh mù cũng chẳng vừa. Anh đưa ra những lập luận chắc chắn để phản bác họ và xác tín về Chúa Giê-su rằng: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì!” Điều thích thú là suốt quá trình đàn hạch anh mù, Chúa Giê-su không xuất hiện. Người để anh mù đóng vai chính, cho đến khi anh bị bọn họ “trục xuất” anh. Chúa đến gặp anh để anh tuyên xưng Người. Người hỏi anh: “Anh có tin vào Con Người không?” Đây là tuyệt đỉnh của việc tuyên xưng đức tin. Quả thực, sau khi Chúa tỏ mình ra, anh đã thưa “Tôi tin” và sấp mình xuống trước mặt Chúa, một cử chỉ thờ lạy Chúa Giê-su là Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Thiên Chúa đã ban ánh sáng thiêng liêng cho ông Sa-mu-en để ông nhận ra Đa-vít là kẻ ông phải xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en. Chúa Giê-su thì mở mắt cho anh mù bẩm sinh, để không những anh nhìn thấy mọi vật mà còn nhận ra một thực tại thiêng liêng: Chúa Giê-su là Con Người, tức Đấng Ki-tô. Chúa cũng mở mắt chúng ta nữa! Thánh Phao-lô khẳng định: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng”. Rồi ngài khuyên: “Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”. Chúa Giê-su đã chết để cứu chúng ta khỏi đêm tối của tội lỗi, được trở thành thụ tạo mới trong Người và được sống thân phận con cái Thiên Chúa. Là con cái sự sáng, chúng ta phải làm “tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật”. Tuy nhiên, vì là những con người yếu đuối nên ta vẫn bị bóng tối bao phủ. Thì đây, thánh Phao-lô kêu gọi ta: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” Vậy bạn đang ngủ hay đang thức? Bạn có thấy Chúa Ki-tô chiếu sáng cho bạn không?
Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay, chu kỳ phụng vụ năm A đều có chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói.
Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được. Thế mới thấy những ảnh hưởng và hậu quả tai hại từ những thành kiến trong cuộc sống của chúng ta. Những thành kiến này đôi khi dìm sâu con người, không cho họ cơ hội làm lại cuộc đời để sống như một con người bình thường. Những người Do Thái kỳ thị không muốn thấy anh mù được chữa khỏi. Họ không muốn nhận ra anh, điều đó có nghĩa là họ muốn cho anh mãi mãi là anh mù.
Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm.
Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa.
Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại. Trong khi đó, những người anh em khác của Đavít xem ra đầy đủ điều kiện theo cái nhìn loài người, thì lại không được chọn. Thiên Chúa luôn luôn có cách nhìn của Ngài. Cách nhìn ấy không giống cách nhìn của chúng ta.
Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng.
Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).
Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.
Dù một người thuộc bất cứ dân tộc nào, Thiên Chúa vẫn là Đấng tạo dựng họ, vẫn là Đấng yêu thương họ đặc biệt. Thiên Chúa lo lắng chăm sóc tất cả mọi người. Ngài chăn dắt dân Ngài qua các vị lãnh đạo, Ngài nói với mỗi người qua lương tâm, và yêu thương con người đặc biệt qua Đức Yêsu.
1. Qua những vị lãnh đạo
Có hai quan niệm nơi người Do Thái trong buổi đầu thời đại quân chủ. Một quan niệm cho rằng, chấp nhận có vua là mặc nhiên từ chối Thiên Chúa cai quản hướng dẫn mình; quan niệm khác lại cho rằng Thiên Chúa muốn dùng một vị vua để hướng dẫn dân Ngài. Khi tiên tri Samuel xức dầu phong vương cho Saul và sau đó cho Davít, thì quan niệm vua là người Thiên Chúa dùng để cai trị dân đã được đa số người Do Thái chấp nhận.
Thời buổi này, không còn mấy nước theo chế độ quân chủ nữa, nhưng vẫn có những người tương tự, như tổng thống và chủ tịch nước. Những người này là những đại diện Chúa, nên chúng ta phải vâng phục họ. Tuy vậy, khi có những người lãnh đạo hành xử không theo luật Chúa, thì chúng ta không được vâng phục. Chẳng hạn khi họ cho phép hoặc khuyến khích phá thai, thì điều này không có nghĩa là Thiên Chúa muốn điều đó, nên chúng ta không được vâng phục; trái lại, nếu có thể, chúng ta không chỉ có thể mà còn phải phản đối nữa, vì khi đó họ đã dùng quyền hành Thiên Chúa ban để giết hại con người. Chúng ta chỉ không vâng phục trong những điều sai trái thôi, còn những điều khác thì vẫn phải vâng phục. Điều này áp dụng cả cho những bề trên đấng bậc trong Đạo: nếu một người “bề dưới” bị “bề trên” sai bảo làm điều tội hoặc trái lương tâm, thì người “bề dưới” không được vâng lời.
Kitô hữu là người có thể sống dưới mọi chế độ. Ơn gọi Kitô hữu cũng hàm chứa đòi hỏi góp phần xây dựng một xã hội công bình và tốt đẹp hơn. Vì mọi người đều được Thiên Chúa hướng dẫn, nên Kitô hữu cũng phải tin vào những người thành tâm thiện chí cho dù họ không cùng tôn giáo với chúng ta, để cùng họ xây dựng thế giới này. Sống theo điều thiện hảo, cũng là sống theo Chúa và vì Chúa. Khi vì một điều tốt đẹp mà phải hy sinh hay thiệt thòi, thì cũng là tử đạo theo một nghĩa nào đó. Chẳng hạn trường hợp Yoan Tẩy Giả chết vì lên tiếng cản ngăn không cho Hêrôđê lấy vợ anh mình. Yoan đã chết vì Chúa, cho dù ông chết vì đã nói sự thật, nói lên ý muốn của Chúa biểu lộ qua luật lệ hay nơi lương tâm con người.
2. Qua tiếng lương tâm
Thiên Chúa tỏ lộ ý muốn của Ngài qua Kinh Thánh, qua luật lệ cả Đạo lẫn đời, và Ngài còn tỏ lộ ý muốn của Ngài cho mỗi người cách đặc biệt nơi lương tâm mỗi người. Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa qua “lý trí hướng về điều thiện hảo”. Chẳng hạn, phải làm điều tốt, phải tránh điều xấu, điều này xấu không được làm, điều kia tốt nên làm.
Không ai được làm ngược tiếng lương tâm của mình. Nếu tôi thấy điều nào không tốt, tôi không được làm theo. Lương tâm là “lý trí hướng về điều thiện”, không phải là lý trí biện minh cho hành động của mình. Có nhiều trường hợp, con người dùng lý trí để biện minh cho điều mình muốn làm, hoặc biện minh cho điều có lợi cho mình. Trường hợp này lý trí là công cụ của lòng tham muốn và cái tôi, chứ không là lương tâm, không là dụng cụ Thiên Chúa nói với con người. Trong cuộc sống, ở những trường hợp đặc biệt, lương tâm là tiêng nói cuối cùng mà mỗi người phải tuân theo.
Không hề có sự mâu thuẫn giữa luật Chúa và lương tâm, vì cả hai đều bởi Chúa. Nếu có mâu thuẫn, thì hoặc mình hiểu sai luật Chúa, hay mình ngộ nhận là tiếng lương tâm mà thực sự không phải.
3. Qua Đức Yêsu Kitô
Thiên Chúa nói tiếng nói dứt khoát của tình yêu qua Ngôi Lời Nhập Thể- Đức Yêsu. Đức Yêsu là người trọn vẹn, là người như tất cả mọi người. Ngài chia sẻ thân phận con người, chịu đói chịu khát, có những khuynh chiều của thân xác như tất cả mọi người, bị cám dỗ mãnh liệt như tất cả những ai khác. Để rồi qua Ngài, con người biết làm sao để trở nên người tuyệt vời. Con người trở nên tuyệt vời, trong mức độ họ sống và suy nghĩ, chọn lựa, hành động như Đức Yêsu đã sống, suy nghĩ, chọn lựa và hành động.
Qua việc chữa người mù từ thuở mới sinh, Đức Yêsu mặc khải cho biết Ngài là ánh sáng. Ngài không chỉ là ánh sáng, hiểu theo nghĩa giúp người mù được thấy, nhưng Ngài là ánh sáng hiểu theo nghĩa, qua Ngài con người nhận biết sự thật uyên nguyên là chính Thiên Chúa, và cũng nhờ Ngài con người hiểu biết hơn về chính con người. Khi con người nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và cũng nhận biết con người là tạo vật tuyệt vời. Nếu con người không đáng quý và tuyệt vời, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Được làm người, đó là một ơn vô cùng lớn.
Chọn lựa trong cuộc sống hằng ngày, là chọn lựa Thiên Chúa hay không. Chẳng hạn, người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay không sẵn sàng đón nhận Đức Yêsu- một con người mà họ gặp trong cuộc sống, là họ không đón nhận Thiên Chúa. Chấp nhận tha nhân trong sự thật, là đón nhận Thiên Chúa. Anh mù, mù về thể lý, nhưng sáng trong việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa; trong khi những người biệt phái là những người có học và có tiếng là đạo đức, thì lại không nhận ra Đức Yêsu là người của Thiên Chúa. Có tật mù thể lý, nhưng cũng có tật mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật, đó có thể là thành kiến về tha nhân, hoặc chính cái tôi che khuất không cho mình thấy sự thật.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin liệt kê những nét xấu và nét đẹp của Đavít. Theo bạn, đâu là nét đẹp nhất của Davít? 2. Đâu là tiêu chuẩn đánh giá con người, của bạn và của Đức Yêsu? 3. Với ánh sáng “Đức Yêsu”, bạn nhận ra điều gì đặc biệt trong đời? 4. Bạn có nhận ra Thiên Chúa can thiệp và hướng dẫn đời bạn không? Xin chia sẻ.
Đức Yêsu đã chữa người mù bằng cách, nhổ nước miếng trộn làm bùn xức vào mắt anh mù và nói anh đi rửa tại ao Siloam, anh đã đi rửa và đã thấy. Vào trường hợp của tôi, tôi có để Đức Yêsu làm như vậy không?
Anh mù được sáng mắt, khi người ta không biết có phải anh là người mù vẫn ngồi ăn xin không, anh đã can đảm nhận mình đã là người mù ngồi ăn xin tại đền thờ! Anh mù được sáng đã dám nhận quá khứ "ăn xin" của mình, còn tôi, tôi có can đảm chấp nhận quá khứ của đời mình không?
Anh mù dám tỏ quan điểm lập trường của mình về Đức Yêsu, và dám giữ lập trường này trước bao người có quyền thế chống lại Đức Yêsu, thậm chí cả trong trường hợp bị trục xuất khỏi hội đường! Tôi có can đảm như anh mù không?
Cái gì đã ngăn cản những người biệt phái nhận ra Đức Yêsu từ Thiên Chúa đến? Cái gì đã làm họ hiểu sai về Đức Yêsu khi cho rằng Ngài là người tội lỗi (Ga.9, 24)? Tại sao người vô học như anh mù lại có nhận định đúng về Đức Yêsu, còn những người học cao hiểu rộng như những người biệt phái và luật sĩ lại hiểu sai về Đức Yêsu?
Người biệt phái đã kết án Đức Yêsu là người tội lỗi, vì Đức Yêsu không giữ ngày sabbat! Với Đức Yêsu: làm sao để cứu con người; còn với người biệt phái: làm sao để giữ luật. Luật là tuyệt đối đối với người biệt phái; còn với Đức Yêsu, con người rất quan trọng! Trong cuộc sống, chúng ta có coi những luật lệ và nguyên tắc là tối cao không? Có bao giờ chúng ta nhân danh luật lệ và nguyên tắc để xúc phạm và hủy diệt con người không?
Cha mẹ người mù "quá khôn ngoan" nên đã từ chối câu trả lời về Đức Yêsu, để được yên thân! Trong cuộc sống, tôi có lấy "sự khôn ngoan" đó làm tiêu chuẩn sống của tôi không?
Xin Chúa mở mắt con, để con nhận ra những kỳ công Ngài thực hiện cho con người, để chúng con ca tụng Chúa, và yêu thương tôn trọng con người như Chúa đã yêu thương và tôn trọng.
Tin mừng Ga 9: 1-41: Anh chị em thân mến, người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thật may mắn. Anh đã thóat khỏi sự mù lòa thể lý mà hơn nữa, anh còn được sáng mắt về mặt tâm linh nữa...
Tối ngày 02/01/1987, ông bà Richard Evensen bị xe hơi cán chết khi họ băng qua đại lộ Georgia MC 4-A141
Tối ngày 02/01/1987, ông bà Richard Evensen bị xe hơi cán chết khi họ băng qua đại lộ Georgia, tiểu bang Maryland. Cả hai ông bà đều bị mù. Ông Evensen bị mù từ bé, nhưng sau nhiều năm cố gắng học hỏi, ông đã trở thành một chuyên gia quốc tế về hệ thống chữ Braille là chữ nổi dành cho người mù. Ông là người phụ trách về chương trình phát triển chữ Braille của thư viện quốc hội ở Washington. Công việc của họ là chuyên dịch các lọai sách Anh ngữ ra tiếng Braille cho các độc giả người mù. Còn bà Evensen thường xuyên tổ chức các lớp học cho những người khiếm thị ở tiểu bang Maryland.
Nhưng vào buổi tối ngày 02/01/1987, hai ông bà vừa từ bến xe điện ngầm đi lên và đang bước đi theo con chó hướng dẫn để băng qua đại lộ thì bị xe đụng. Theo cảnh sát cho biết thì chỗ họ băng qua không có đèn đỏ, cũng không có vạch sơn trắng dành riêng cho người đi bộ.
Một cách nào đó, hai ông bà đã thóat được cảnh tối tăm của kiến thức, nhưng vẫn chưa thóat khỏi cảnh mù lòa thể lý. Chính vì vậy hai ông bà đã bị xe cán chính vì sự mù lòa của mình.
Anh chị em thân mến, người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thật may mắn. Anh đã thóat khỏi sự mù lòa thể lý mà hơn nữa, anh còn được sáng mắt về mặt tâm linh nữa.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng hôm nay quả là một tấm gương sáng cho chúng ta. Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả, nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được một đức tin như thế. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisiêu. Cuộc hành trình đức tin của anh như bị khựng lại bởi những lời hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo Do Thái.
Cuối cùng thì anh cũng đã vượt qua được cuộc hành trình đầy cam go để đến với một đức tin ngời sáng như đôi mắt anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabat, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực Đức Giêsu và mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình: "Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Ngài, thì Ngài nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không là người bởi Thiên Chúa, thì ông ta đã chẳng làm được điều đó" (Jn 9,31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do Thái, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được?
Hóa ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hóa ra mù.
Họ mù vì họ cho rằng những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc.
Họ mù vì tự cao tự đại, luôn cho mình là thông thái, đạo đức thánh thiện, nên không nhận ra những sai sót của mình.
Họ mù vì lòng chai dạ đá, không cảm thông được những nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của kẻ đựơc sáng mắt.
Và nhất là họ mù vì đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt là chính Đức Giêsu. Lạy Chúa, chỉ có những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa, mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình và sẽ không được cứu độ.
Tin Mừng Ga 9:1- 38 Dân Do thái cũng như nhiều dân tộc khác, vẫn cho tai nạn, bệnh tật, đau khổ là do hình phạt bởi tội lỗi, hoặc do tội lỗi của đương sự (Ed 13, 20) hoặc do tội của cha mẹ (Xh 20, 5).
Anh chị em thân mến,
Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh MC 4-A142
Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?". Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy khi trời còn sáng ; đêm đến không ai có thể làm được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là áng sáng thế gian".
Dân Do thái cũng như nhiều dân tộc khác, vẫn cho tai nạn, bệnh tật, đau khổ là do hình phạt bởi tội lỗi, hoặc do tội lỗi của đương sự (Ed 13, 20) hoặc do tội của cha mẹ (Xh 20, 5). Có lẽ, câu hỏi của các môn đệ cũng không nằm ngoài quan niệm đó. Các môn đệ muốn đi tìm nguồn gốc phát sinh ra bệnh mù của anh chàng thanh niên. Tuy nhiên, Chúa Giêsu thì lại đưa ra một giải đáp khác. Chúa không giải thích bệnh tật theo quan niệm Cựu ước nói trên (Ga 9, 2 ...) Người chỉ nhìn bệnh tật như một dấu chỉ của quyền lực Satan trói buộc con người mà ở nơi đó con người dễ dàng đồng ý với cám dỗ đó. Vì thế, với tình trạng của anh mù, Chúa Giêsu đến để giải thoát anh khỏi trói buộc của quyền lực Satan. Qua đó, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa vượt trên Satan và Ngài có khả năng tái tạo lại vết thương tội lỗi mà ma quỷ đã gây ra từ khởi đầu cho đến hiện tại.
Ta thấy, hình ảnh Chúa Giêsu “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Ga 9: 6-7). Hình ảnh này gợi lại cho chúng ta hình ảnh thuở ban đầu khi Thiên Chúa sáng tạo ra con người từ bụi đất, nhưng nơi đây con người đã bị “Mù Mắt” vì quyền lực và khát vọng mù quáng của bản thân, nên đã bị sa ngã trước lời mời gọi nghe êm tai của Satan. Ngay lúc này, con người đã bị Mù con mắt của tâm hồn, không phải chỉ vì phạm lỗi, nhưng còn vì không nhận ra lỗi lầm của mình: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3, 12). Điều đó khiến cho con người phải bước đi trong đêm tối trước những đau khổ, những lỗi lầm gây ra cho chính mình cũng như cho người khác.
Với hình ảnh của Ađam và Eva, cũng như anh mù trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nhận ra rằng: Tội lỗi sẽ khiến cho chúng ta sống trong tình trạng của đêm tối.
Chúng ta hãy quay trở lại với câu hỏi của các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”.
Có lẽ câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta, của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta chỉ cố gắng đi tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9: 39). Các người Pharisêu luôn cho rằng họ sáng mắt, họ thông làu mọi thứ, nên khi Chúa Giêsu nói vậy họ liền khó chịu. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9: 41)
Thưa anh chị em,
Điều kiện tiên quyết cho những ai muốn bước đi trong ánh sáng, đó là phải nhận biết bóng tối mù lòa của chính mình. Chỉ những ai biết mình mù tối mới khát khao sự sáng và mới chân thành đón nhận ánh sáng. Chỉ những ai chịu nhận biết mình có nhiều lỗi lầm thì mới khao khát được sửa sai. Khi họ chịu nhận mình có nhiều lỗi lầm, cho dù lớn hay nhỏ, thì điều đó giúp cho họ mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây tìm cách ăn năn và cố gắng khắc phục những lỗi lầm đó, nhờ đó họ mới có khả năng trở nên hoàn thiện, và sự hoàn thiện đó giúp cho họ bước đi trong ánh sáng.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta điều đó khi ngài nói: "Trước kia, khi chưa lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn là tối tăm. Nhưng ngày nay, qua Bí Tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy, chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục sinh chiếu soi".(x.Ep 5,8-14).
Câu hỏi được đặt ra cho mỗi người chúng ta là: Có ai trong cuộc đời này mà không có lỗi lầm? Có ai trong cuộc đời này từ đầu tới cuối cuộc đời mà hoàn toàn trong trắng không? Có ai trong cuộc đời này là người trọn vẹn hoàn hảo không? Chắc chắn câu trả lời sẽ là KHÔNG.
Chúng ta thấy có bao giờ tồn tại một tờ giấy trắng hoàn toàn trắng không? Trong bất kỳ một tờ giấy trắng nào trong vũ trụ này luôn luôn tồn tại những chỗ chưa thật trắng, những chỗ hơi ngả vàng, thậm chí là những chỗ trở nên ố vàng …. Thế nhưng, chúng ta lại không bao giờ vất nó đi, nhưng chúng ta vẫn sử dụng nó cho tất cả mọi việc. Khi viết những dòng chữ lên đó, thì người ta sẽ không để ý đến những chỗ khiếm khuyết đó nữa, mà người ta sẽ để ý đến nội dung của trang giấy trắng mà thôi. Điều đó cho chúng ta thấy nội dung của trang giấy trắng quan trọng hơn là những khiếm khuyết của trang giấy.
Đời người trải qua mỗi ngày cũng như lật từng trang giấy trắng, nên cũng có những khoảng thời gian, những ký ức đen tối, lầm lỗi, nhưng quan trọng là chúng ta ý thức được điều đó, ý thức được những sai lầm, những thiếu xót của mình, để rồi viết lên trên những ký ức lỗi lầm đó những nội dung mới tốt đẹp, thì có lẽ cuộc đời của mỗi người chúng ta sẽ trở nên sáng tươi trước những khiếm khuyết, những lỗi lầm đã qua. Và đặc biệt, khi chúng ta biết đón nhận những khiếm khuyết, những lỗi lầm trên trang giấy cuộc đời thì chính Chúa cũng giúp ta khoả lấp đi những khiếm khuyết đó, làm cho trang giấy cuộc đời của chúng ta trắng sáng trước những vết ố của lỗi lầm và tội lỗi.
Đặc biệt, trong Mùa Chay thánh năm nay, mỗi người chúng ta hãy lần lượt lật lại từng trang giấy cuộc đời của chính mình để làm 2 điều quan trọng:
- Thứ nhất: chúng ta hãy rà soát lại những khiếm khuyết, những vết ố của trang giấy cuộc đời. Để qua đó chúng ta nhìn thấy những lỗi lầm, những trót dại của chúng ta.
- Thứ hai: Qua những lỗi lầm và trót dại đó, chúng ta hãy soát lại xem chúng ta đã sửa chữa được bao nhiêu lần và bao nhiêu phần trăm.
Thiết nghĩ đó là điều cần phải làm trong mùa chay này, và không chỉ là trong mùa chay này mà là trong suốt cuộc hành trình của trang giấy cuộc đời chúng ta khi mỗi ngày chúng ta phải lật qua từng trang mới.
Mỗi khiếm khuyết trên trang giấy cuộc đời chúng ta là những cơ hội mà Chúa gửi trao chính chúng ta, nhờ đó chúng ta mỗi ngày trở nên hoàn thiện hơn trên đường trọn lành. Nhưng quan trọng là mỗi người chúng ta phải nhận ra và đón nhận những khiếm khuyết của trang giấy cuộc đời mình. Nhờ đó, chính Chúa sẽ giúp chúng ta bù đắp những khiếm khuyết đó. Amen.
Câu chuyện anh mù từ khi mới sinh được thánh Gioan thuật lại, là một câu chuyện thật ly kỳ MC 4-A143
Câu chuyện anh mù từ khi mới sinh được thánh Gioan thuật lại, là một câu chuyện thật ly kỳ vừa khôi hài. Ly kỳ vì không ai có thể làm một việc lạ lùng như thế. Mở mắt một người mù bẩm sinh bằng cách xức cho anh ta một chút bùn pha nước miếng rồi bảo anh đi rửa mắt ở một cái hồ nước, và anh ta được sáng mắt, không phải ai cũng làm được. Các bác sĩ nhãn khoa cũng không làm được dù kỹ thuật hôm nay rất tân tiến. Khôi hài vì sự ngớ ngẩng của mấy ông Pharisêu.
Các ông này không thể tin được và vì thế họ gạn hỏi anh mù đủ thứ và đòi hỏi cha mẹ anh phải xác nhận là con của mình, mù từ khi mới sinh. Họ vẫn không tin được. Nhất là việc này được thực hiện trong ngày sabat là ngày không được chữa bệnh. Họ nghiến răng tức tối.
Thánh Gioan tường thuật câu chuyện rất tỉ mỉ và cũng pha vào đó một chút mỉa mai. Nhưng điều thánh Gioan muốn cho thấy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian như Ngài đã nói; “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống”. Ánh sáng đó không như ánh sáng mặt trời chỉ thấy bằng mắt phàm trần. Ánh sáng của Ngài phải nhận bằng niềm tin.
Anh mù không thấy ánh sáng mặt trời, nhưng đã thấy được ánh sáng đức tin. Những ông Pharisêu thấy rõ mọi sự trần gian, nhưng không đạt đến ánh sáng đức tin. Chính Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Nếu các ông mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn”.
Cuộc hỏi cung anh mù thật buồn cười, là một trò hề mang tính chất khoa học, pháp lý và đạo đức giả.
“Ngươi hãy tôn vinh Thiên Chúa”, họ bảo anh mù như thế, và anh mù đã làm. Anh đã tôn vinh Thiên Chúa bằng sự chân thành và bằng sự thẳng thắn của anh, đang lúc những ông Pharisêu lại cố tình không nhìn nhận sự thật hiển nhiên rành rạnh trước mắt các ông, và lại muốn phủ nhận dấu lạ không thể chối cải đó.
Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến nỗi không nhận ra anh. Người thì nói đó là tên ăn xin, người lại bảo không phải, vì họ không thể tin được rằng anh mù bẩm sinh kia, anh ăn mày kia lại được sáng mắt. Họ lao xao bàn tán, không hiểu việc gì đã xảy ra. Anh mù xác nhận: “Chính tôi đây, tôi là tên ăn xin đui mù đây”. “Nhưng nhờ đâu mà sáng mắt?” “Người tên là Giêsu đã trộn chút bùn, xức vào mắt tôi, bảo tôi đến hồ Xilôác mà rửa. Tôi đi, tôi rửa mắt và tôi được thấy”. Chỉ có thế thôi. Những việc hết sức đơn thường đã mang một kết quả không thể ngờ được. Thế nhưng mấy ông Pharisêu không nhìn thấy. Anh đã tường thuật việc này cho mấy ông, mấy ông cũng không nhìn thấy. Họ chỉ khư khư rằng, ông Giêsu kia đã lỗi phạm luật sabat, là một người tội lỗi. Thật đáng buồn cười! Sự cố chấp của các ông này thật khó hiểu!
Chúng ta tưởng rằng chúng ta sáng mắt hơn mấy ông Pharisêu chăng? Biết bao nhiêu bằng chứng Chúa tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài, chúng ta có thấy không? Chúng ta được yêu thương đến tận cùng, chúng ta có thấy không? Chúng ta tưởng rằng chúng ta đã yêu mến Chúa hết mình rồi, nhưng trong thực tế không như chúng ta tưởng. Chúng ta tự dối mình thôi. Hãy nhìn nhận rằng chúng ta vẫn đui mù. Hãy cầu xin Chúa mở mắt chúng ta ra để chúng ta thấy được hạnh phúc Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta vang lời ngợi khen hơn là cứ đòi hỏi, thắc mắc.
Như đối với người phụ nữ Samari, Chúa Giêsu đi từng giai đoạn, từ vật chất Ngài dẫn anh mù đến nguồn suối đức tin. Khi được hỏi: “Ai đã làm cho anh sáng mắt?” Anh trả lời: “Người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi…” Anh chưa biết Ngài vì anh mù, chỉ nghe nói thôi.
Khi các ông Pharisêu hỏi, anh lại tuyên xưng: “Ông ấy là một ngôn sứ”. Anh đã nhận ra nhưng cũng chưa rõ. Và anh chỉ dựa vào thực tế để xác tín hơn: “Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được… Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy… Nếu không phải là người của Thiên Chúa, thì ông ta đã chẳng làm được gì”.
Anh đã tiến tới một bước mới là nhìn nhận Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa.
Vào giai đoạn cuối cùng, sau khi đã bị trục xuất khỏi Hội Đường, anh đã gặp lại Chúa Giêsu và khi Ngài hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đã tin: “Anh sấp mình xuống trước mặt Người”. Niềm tin của anh đã vững chắc. Anh đã đi từ bóng tối đến ánh sáng và đã chấp nhận ánh sáng, đang lúc các ông Pharisêu lại từ chối ánh sáng.
Chúng ta có từ chối ánh sáng không? Chúng ta có cố chấp trong sự đui mù của chúng ta không? Trong các cộng đoàn giáo xứ, thường xảy ra những trường hợp tương tự. Người ta cứ lên án người này, nói xấu người kia, không thương xót, chà đạp tất cả những người thiện chí hay những người yếu đuối. Dòng giống Pharisêu vẫn còn sống rất mãnh liệt. Nhiều người tưởng mình đạo đức lại chuyên nghề vạch lá tìm sâu, loại trừ những người đạo đức, làm nhục chí những người thành tâm. Đó phải chăng là đui mù hơn người mù? Đó phải chăng là từ chối ánh sáng? Và như thế, họ tưởng rằng họ làm sáng danh Chúa và độc quyền làm sáng danh Chúa. Pharisêu của thời đại mới!
Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường, nhọc mệt đi tìm những người thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật, những người biết khiêm tốn phục vụ trong âm thầm, không đòi hỏi được một chỗ đứng nào. Ngài đã căn dặn một cách rõ ràng: “Đừng phô trương công đức, chỉ để Cha trên trời chứng kiến và thưởng công cho các ngươi”.
Mùa chay là thời điểm thuận tiện để chúng ta trở về với sự thật của chính mình, nhìn nhận sự đui mù tăm tối của mình và chấp nhận ánh sáng đến từ nguồn duy nhất là Người Con Một đầy ân sủng và chân lý, là ánh sáng thật, ánh sáng ban sự sống. Chúng ta chỉ đi đúng hướng khi chúng ta chấp nhận để ánh sáng Chúa soi dẫn. Chúng ta chỉ có một Thầy là Đức Kitô, một người hướng dẫn duy nhất đó mà thôi vì Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống”. “Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
Chúng ta đã nhận ánh sáng ấy từ nơi giếng rửa tội. Thánh Gioan tường thuật phép lạ chữa anh mù bẩm sinh là để khơi lại trong chúng ta nguồn ánh sáng của Bí tích Rửa Tội. Nước hồ Xilôác, việc rửa sạch vết bùn trên mắt, sự chan hòa ánh sáng, đôi mắt được mở ra, đó là những dấu hiệu của một cuộc tái sinh mà chỉ bắt nguồn từ Đấng là ánh sáng ban sự sống. Bám vào Ngài, lắng nghe lời Ngài và hơn nữa ăn lấy Ngài, chúng ta mới được tái sinh, được trở nên con cái sự sáng, trở nên ánh sáng cho trần gian: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên”… Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sự sống muôn đời”.
(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay này giúp chúng ta hiểu bí tích Thánh Tẩy, mà MC 4-A144
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay này giúp chúng ta hiểu bí tích Thánh Tẩy, mà các tân tòng chuẩn bị để lãnh nhận vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.
1Sm 16: 1, 6-7, 10-13
Bài Đọc I thuật lại việc Đa-vít được xức dầu phong vương thay thế vua Sa-un, vị vua tiên khởi của dân Ít-ra-en, vì tội bất trung. Từ đây, vua Đa-vít là người được Chúa chọn, mặc một tính chất thánh thiêng và tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Vua Đa-vít là hình ảnh của Đức Ki-tô, Đa-vít của thời đại mới.
Ep 5: 8-14 Trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyên những Ki-tô hữu sống sao cho phù hợp với cách ăn nếp ở của “con cái ánh sáng”.
Ga 9: 1-41
Tin Mừng Gioan tường thuật việc người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Bài trình thuật này thuộc giáo lý bí tích Thánh Tẩy, vì sau khi rửa trong hồ Si-lô-ác, mắt anh mù liền thấy ánh sáng, anh là tiền thân của người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong ánh sáng của đức tin, người Ki-tô hữu thấy và hiểu được những mầu nhiệm mà người khác không thể thấy và hiểu được.
BÀI ĐỌC I (1Sm 16: 1, 6-7, 10-13)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm tháng đầu tiên của thể chế vương quyền Ít-ra-en (1020-1010 BC). Sau một thời gian dài do dự (không phải Đức Chúa là vua duy nhất của dân Ít-ra-en đó sao?) và vì những hoàn cảnh đòi buộc, dân Ít-ra-en thử nghiệm thể chế quân chủ. Kinh nghiệm đầu tiên này không thuận buồm xuôi gió: vì vua Sa-un bất tuân, Thiên Chúa đã quyết định truất phế vua. Ông Sa-mu-en, người của Đức Chúa, lại nhận sứ mạng đi tìm kiếm một vị vua mới.
1. Cách thức tuyển chọn lạ lùng của Thiên Chúa
Câu chuyện xảy ra ở Bê-lem. Tình tiết của câu chuyện mặc khải cách đặc biệt cách thức Thiên Chúa chọn lựa những tôi trung ưu ái của Ngài: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Quả thật, Bê-lem là một vùng quê nhỏ bé không tên tuổi đến nỗi ngôn sứ Mi-kha nói “ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (Mk 5: 1); hơn nữa, Đa-vít là con út trong gia đình đông con của ông Gie-sê.
Sự chọn lựa của Thiên Chúa luôn luôn gây kinh ngạc. Để bày tỏ niềm ưu ái đối với những kẻ bé mọn và khiêm hạ, Ngài chọn con út hơn là con cả. Xưa kia, Thiên Chúa đã chọn ông Ghít-on để giải phóng Ít-ra-en khỏi sự áp bức của người Ma-đi-an. Ấy vậy, ông là cậu con trai út trong gia đình thuộc bộ tộc “nhỏ bé nhất ở Mơ-na-se”. Ông Mô-sê cũng được nhìn nhận là “người khiêm tốn nhất trong số con cái loài người”. Lịch sử đã cho chúng ta biết bao ví dụ như thế.
2. Đa-vít, cậu bé chăn chiên
Vua Đa-vít xuất thân từ một cậu bé chăn của miền Bê-lêm nhỏ bé nghèo hèn, nơi mà ngàn năm sau đó Đức Giê-su sẽ chào đời. Sự kiện Đấng Mê-si-a giáng sinh ở nơi hẻo lánh này sẽ là một trong những dấu hiệu về Đấng Mê-si-a thuộc “dòng dõi Đa-vít”. Những người chăn chiên Bê-lem sẽ là những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su.
3. Khung cảnh phong vương Đa-vít
Khi đến Bê-lem, ngôn sứ Sa-mu-en hiến tế một con bò cái tơ lên Đức Chúa để “thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ” (1Sm 16: 5b). Trước khi ngồi vào bàn, ngôn sứ Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi Đa-vít tới đây”. Vị ngôn sứ đã hiểu rằng chính cậu út Đa-vít là người Thiên Chúa chọn. Chính trong bữa ăn thánh thiêng này mà Đa-vít được xức dầu phong vương.
4. Tước hiệu “Xức dầu tấn phong”
Xức dầu là nghi thức thánh hiến, thường nhất là nghi thức phong vương. Được “người của Thiên Chúa” xức dầu tấn phong, vị tân vương trở thành một con người thánh thiêng. Dầu tăng sức lực cho thân thể là biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa, thần lực này đến ở với vua: “vua đầy tràn Thần Khí Thiên Chúa”. Tước hiệu: “Đấng được xức dầu” theo tiếng Do thái là “Đấng Mê-si-a” và được dịch sang tiếng Hy lạp là “Đấng Ki-tô” (“Christos”). Như vậy, những lời loan báo về Đấng Cứu Thế trước hết là Đấng Mê-si-a vương đế.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 8-14)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô từ Rô-ma, trong cảnh lao tù, giữa những năm 61-63. Thư này được gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, chủ yếu là những Kitô hữu gốc lương dân. Bức thư gồm hai phần: trong phần thứ nhất thuộc đạo lý (1: 3-3: 21), thánh Phao-lô giải thích mầu nhiệm cứu độ phổ quát được ban cho dân Do thái cũng như dân ngoại ở nơi Đức Ki-tô. Trong phần thứ hai thuộc luân lý (4: 1-6: 20), thánh nhân khuyên các tín hữu sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai này.
Thánh nhân vừa mới nêu lên nhiều chủ đề khác nhau và nhiều hình ảnh đa dạng, rất quen thuộc với khoa giáo lý bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, như là “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát… và phải mặc lấy con người mới, đó là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân tập trung sự chú ý vào chủ đề ánh sáng.
1. Người Ki-tô hữu là ánh sáng
“Xưa kia anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh em lại là ánh sáng”. Ở nơi câu này, bí tích Thánh Tẩy được mặc nhiên đề cập đến. Bí tích Thánh Tẩy được gọi là “ơn thần khải”, người chịu phép Thánh Tẩy là “người được ơn thần khải” và giếng Thánh Tẩy được gọi rất ý nghĩa: “nơi lãnh nhận ơn thần khải”. Ngược lại là bóng tối. Việc đối lập ánh sáng và bóng tối, một chủ đề Kinh Thánh rất xưa và rất phổ biến như gặp thấy trong những bản văn của cộng đoàn Qum-rân, được thánh Phao-lô và đặc biệt thánh Gioan lấy lại.
Qua cặp tương phản ánh sáng và bóng tối này, thánh Phao-lô kêu gọi những Ki-tô hữu gốc lương dân ý thức rằng cuộc sống của họ đã được biến đổi sâu xa biết bao, họ đã trở nên khác biệt biết mấy; vì thế, cuộc sống của họ phải làm chứng điều này: “Hãy vạch trần những công việc của bóng tối”. Chắc chắn câu này phải được hiểu rằng cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu có thể khiến cho những tội nhân thay đổi cách sống, bởi vì ánh sáng chiếu soi vào bóng tối và làm cho bóng tối biến tan: “Tất cả những gì đã bị vạch trần, đều lộ ra ánh sáng; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng” .
2. Người Ki-tô hữu chỗi dậy từ bóng tối sự chết
Qua bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu “chỗi dậy” từ bóng tối sự chết. Chắc hẳn thánh Phao-lô trích dẫn vài câu từ một bài thánh thi về bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, và phải là khá phổ biến. Chúng ta gặp thấy bài thánh thi này, khá đầy đủ hơn, trong tác phẩm của Giáo Phụ Cơ-lê-men-tê thành A-lê-xan-ri-a vào cuối thế kỷ thứ hai:
“Hãy tỉnh giấc đi, hỡi người đang ngủ. Hãy chỗi dậy đi từ những vong nhân. Và Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi. Ngài là ánh sáng Phục Sinh, được sinh ra trước khi sao mai xuất hiện; Ngài ban sự sống bởi ánh quang rạng ngời của Ngài” (Protriptique 9, 84, 2)
Bài thánh thi này minh chứng hùng hồn đạo lý Thánh Tẩy mà thánh Phao-lô không ngừng nhắc đi nhắc lại: chết cho tội lỗi và tái sinh trong Đức Ki-tô Phục Sinh. Hơn nữa, bài thánh thi đậm đà hương vị Kinh Thánh gợi nhớ vài hình ảnh của các ngôn sứ như:
“Này những kẻ nằm trong bụi đất, hãy trỗi dậy, hãy reo mừng! Vì lạy Chúa, sương Người ban là sương ánh sáng, và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19)
Hay:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của Người đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60: 1-2)
Đoạn thư này giúp chúng ta hiểu rõ hơn địa vị Ki-tô hữu của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đành rằng ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa, nhưng chỉ trở nên hiệu lực khi nào chúng ta mở rộng lòng mình cho Đấng chúng ta tin.
TIN MỪNG (Ga 9: 1-41)
Bài trình thuật này gợi lên nhiều điểm tương đồng với bài trình thuật về việc Đức Giê-su chữa lành người bại liệt (Ga 5 : 9-11). Quả thật, cả hai bài trình thuật đều ghi nhận rằng Đức Giê-su chỉ xuất hiện vào lúc bắt đầu câu chuyện để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của nó (9 : 1-7 và 5: 1-8), và vào lúc kết thúc câu chuyện để long trọng tuyên bố bản án (9 : 35-41 và 5: 14-18)). Giữa thời gian ấy, Đức Giê-su rút lui vào hậu trường để hoàn toàn nhường sân khấu cho một bài trình thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động về những phản ứng khác nhau từ phía những hạng người khác nhau trước dấu lạ của Ngài (9: 8-34 và 5: 9-13). Tuy nhiên, với tính hồn nhiên, cởi mở, thông hiểu và dũng cảm: ăn miếng trả miếng của mình, anh mù đã cho thấy trổi vượt hơn người bại liệt thụ động và kém linh hoạt.
1. Dẫn nhập (9 : 1-7)
A- Vấn đề tội lỗi
“Vấn đề tội” đóng chức năng đóng khung toàn bộ câu chuyện: ở đầu câu chuyện, chính các môn đệ nêu lên: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (9 : 2) và ở cuối câu chuyện, chính Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội của các ông vẫn còn đó” (9 : 41).
Câu hỏi mà các môn đệ nêu lên về quan hệ nhân quả của tội dường như chỉ nhằm tạo cơ hội để Đức Giê-su thực hiện dấu lạ và ban giáo huấn. Tuy nhiên, câu hỏi này nói lên tâm thức của người đương thời. Vào thời đó, người Do thái tin rằng nguyên nhân của những bất hạnh như tai ương hay bệnh tật là án phạt của tội, kể cả tội trước khi sinh ra hay còn trong bào thai. Vì thế, cảnh đời bất hạnh mà người mù từ lúc mới sinh phải chịu là án phạt vì tội của cha mẹ mình. Tuy nhiên, sách Gióp đã nêu lên tại sao người công chính phải chịu đau khổ, nhưng không đưa ra một câu trả lời thỏa đáng nào, ngoài trừ ý định khôn dò của Thiên Chúa. Sau này, sách Tô-bi-a đã bước thêm một bước nữa: thiên sứ đã mặc khải cho ông Tô-bi-a cha, một người công chính thực thi những việc lành phúc đức, rằng Thiên Chúa để cho ông bị cảnh mù lòa là để thứ thách ông (Tb 12: 13).
Đức Giê-su bác bỏ quan niệm nhân quả của tội. Ngài tách biệt rõ ràng điều bất hạnh và án phạt, sự đau khổ và tội. Cảnh đời bất hạnh của anh mù không do tội của anh hay tội của cha mẹ anh, nhưng là cơ hội để Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài qua việc cho anh mù được sáng mắt. Từ đó, Đức Giê-su sẽ công bố Ngài là “ánh sáng thế gian”. Như vậy, giả sử trước ở đây, sự mù lòa duy nhất cấu thành tội chính là sự mù lòa của sự cố chấp không chịu tin.
B- Một ngày của Đức Giê-su
Đức Giê-su sánh ví sứ vụ của Ngài với một ngày. Thời điểm đánh dấu việc kết thúc sứ vụ của Ngài được sánh ví với thời điểm “đêm đến”, nghĩa là giờ của bóng tối, giờ của những kẻ chống đối Ngài. Trong khi chờ đợi giờ của bóng tối, Ngài phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Ngài khi trời còn sáng, bởi vì bao lâu Ngài còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Để minh chứng Ngài “là ánh sáng thế gian”, Chúa Giê-su sẽ cho người mù từ lúc mới sinh được thấy ánh sáng, cả ánh sáng thể lý lẫn ánh sáng tâm linh (x. Is 42: 6-7).
C- Dấu lạ
Dấu lạ được mô tả chỉ trong hai câu (9: 6-7), bởi vì người kể chuyện chú trọng hơn đến những cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và những hậu quả mà anh mù được sáng mắt phải gánh chịu.
“Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù”. Theo niềm tin dân gian phổ biến vào thời đó, nước miếng có hiệu lực chữa bệnh. Trước đây rồi, Đức Giê-su đã dùng nước miếng của Ngài để chữa lành người câm điếc (Mc 7: 32) và người mù ở Bết-xai-đa (Mc 8: 23). Nhưng ở đây, Đức Giê-su trộn nước miếng với đất thành bùn và xức vào mắt người mù. Phải chăng Đức Giê-su muốn họa lại cử chỉ sáng tạo, qua đó muốn nói rằng Ngài sẽ làm cho người mù thành một con người hoàn toàn mới? Hay đơn giản hơn, phải chăng sự kiện xức bùn vào mắt và đòi hỏi anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác là một hành vi đức tin, một yếu tố cần thiết để đón nhận dấu lạ? Quả thật, hiệu quả chỉ xuất hiện sau khi người mù đến rửa trong nước hồ Si-lô-ác.
Nước hồ này được xem là thánh thiêng. Vào lễ Lều, vị tư tế phải đến múc nước ở đây để dùng cho các nghi thức thanh tẩy. Nước này bắt nguồn từ suối Gi-bon và được dẫn đến hồ Si-lô-ác qua một lạch ngầm dưới đất (2V 20: 20; 2Sb 32: 30; Hc 48: 17). Ngay cả tên của hồ này cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai đi”. Dường như thánh Gioan muốn nhắc lại ý nghĩa của tên Si-lô-ác này, vì thánh nhân muốn quy chiếu đến tác giả đích thực của việc chữa lành chính là Đức Giê-su, “Đấng được Chúa Cha sai đi”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su thường dùng tước hiệu “Đấng được sai đi” để chỉ về chính mình.
2. Hai thái độ tương phản: (9: 8-34)
Trong phần này, Đức Giê-su vắng mặt, tuy nhiên Ngài vẫn là tác nhân chính yếu gây nên những phản ứng từ phía những hạng người khác nhau. Việc người mù được sáng mắt sẽ nêu bật hai thái độ tương phản mà sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đòi hỏi con người phải chọn lựa.
A- Thái độ của người mù được sáng mắt
Anh mù được sáng mắt là một con người có lương tri ngay thẳng, vẫn một mực trung thành với sự thật, biết sử dụng lối nói mĩa mai, thậm chí châm biếm, lại còn biết phi bác sự thông thái của những người Pha-ri-sêu: “Chúng tôi biết rằng…” (9: 29) bằng cách viện dẫn nguyên tắc thông thường: “Như mọi người điều biết…” (9 : 31-32; x. Is 1: 15; Tv 66: 18; 109: 7; Cn 15: 29, vân vân) và cuối cùng bày tỏ tấm lòng rộng mở trước ánh sáng khác, ánh sáng đức tin.
Con đường đức tin của người mù là con đường tiệm tiến: từ những lời tra hỏi từ phía những người láng giềng cho đến những lời chất vấn của những người Pha-ri-sêu, chân tính của Đức Giê-su càng lúc càng sáng tỏ hơn ở nơi anh. Khởi đầu, anh bày tỏ một sự hiểu biết mơ hồ về một người đã thi ân giáng phúc cho mình: “một người tên là Giê-su” (9: 11), đoạn, anh bắt đầu nhận ra ở nơi người ấy: “một ngôn sứ” (9: 17) và tiếp đó: “Đấng được Thiên Chúa sai đến” (9: 33). Cuối cùng, khi đối diện với Đức Giê-su, Đấng tự tỏ mình ra cho anh, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Ngài, tôi tin” (9: 38) và thờ lạy Ngài.
B- Thái độ của những người Pha-ri-sêu
Trong khi sự kiện dần dần được chứng thực từ phía những người láng giềng, cha mẹ của người mù được sáng mắt và chính đương sự, thì thái độ của những người Biệt phái càng lún sâu vào những tà ý, cố chấp, từ chối ánh sáng và để lộ mình là những người mù đích thật.
Trong câu chuyện này, hai chi tiết đáng chú ý do hậu cảnh lịch sử của chúng. Trước hết, những người Pha-ri-sêu bất đồng với nhau về vấn đề Đức Giê-su: “Thế là họ đâm ra chia rẽ”. Về sự kiện này, các sách Tin Mừng và sách Công Vụ cung cấp nhiều ví dụ khác nữa: trong số những người Pha-ri-sêu có vài người có tinh thần rộng mở, họ âm thầm gắn bó với Đức Ki-tô. Trong câu chuyện này, chính thành phần cố chấp nhất mực nhắm mắt trước sự thật. Trong con mắt của những con người ngoan cố này, Đức Giê-su đã vi phạm ngày sa-bát, vì vậy là một con người tội lỗi, mà đã là một con người tội lỗi thì không thể nào thực hiện dấu lạ như thế. Vì thế, họ không chỉ từ chối từ dấu lạ và chân tính của Đức Giê-su, nhưng còn buộc người mù phải thú nhận là mình sai lầm vì đã tuyên xưng ông Giê-su này là một ngôn sứ.
Ngoài ra, đối với đọc giả Tin Mừng Gioan, việc anh mù được sáng mắt bị trục xuất ra khỏi hội đường vang dội tính thời sự của cộng đoàn Gioan. Các tông đồ và các môn đệ của thế hệ thứ nhất đã giảng dạy trong các hội đường, nhưng sau đó bị trục xuất khỏi hội đường. Những người Do thái nào tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô cũng bị trục xuất khỏi hội đường và trở thành đối tượng của những quấy nhiễu, hạch sách và bắt bớ. Việc người mù được sáng mắt bị trục xuất ở đây báo trước hoàn cảnh của Giáo Hội sau này.
3. Phần kết (9 : 35-41)
Đức Giê-su lại xuất hiện và bày tỏ thái độ của Ngài đối với người mù được sáng mắt và đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp.
A- Thái độ của Đức Giê-su đối với người mù được sáng mắt
“Sau khi nghe nói họ đã trục xuất anh, Đức Giê-su đến gặp anh”. Đối với những ai chịu đau khổ vì làm chứng cho Ngài, dù không nhận biết Ngài, Ngài sẽ mặc khải chân tính của Ngài, như anh mù được sáng mắt hôm nay. Sau khi đã mở đôi mắt xác thịt của anh để anh thấy ánh sáng, Ngài mở đôi mắt tâm hồn anh để anh khám phá Mặc Khải.
B- Thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp
“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại đui mù”. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho những ai mở rộng tâm trí sẵn sàng đón nhận ánh sáng của Ngài. Còn những ai tin tưởng vào ánh sáng của riêng mình mà tìm cách ngăn chận những kẻ khác tin vào Ngài, thì những người đó trở nên đui mù.
Đối với những người Pha-ri-sêu, những người chất vấn Ngài phải chăng họ đều đui mù hết cả sao, Chúa Giê-su đưa ra một bài học thâm thúy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó”. Những lời này nêu bật thần học xét xử của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su không xét xử ai cả, chính mỗi người tự xét xử chính mình, hoặc mở mắt ra mà tin nhận Đức Giê-su hoặc khép mắt lại mà khỏi phải thấy những việc Ngài làm để khỏi tin vào Ngài. Đó chính là tội cố chấp và bản án đã có sẵn ở đây rồi, và ngay bây giờ chứ không phải đợi đến ngày chung thẩm.
Câu chuyện mở ra với lời công bố rằng sự mù lòa thể lý không có tội và đóng lại với lời công bố rằng sự mù lòa tâm linh mới có tội.
Cũng như cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria gần giếng Giacob, Tin Mừng MC 4-A145
Cũng như cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria gần giếng Giacob, Tin Mừng về người mù từ lúc mới sinh là một trong những bản văn lớn của Gioan mà Giáo Hội ở thế kỷ đầu dành cho việc nhập môn của các tân tòng.
Nếu sự việc xảy ra trong một ngày Sabbat ở cửa ra vào Đền thờ, sự việc ấy diễn ra trong khung cảnh lễ Lều. Trong lễ này, ngoài nghi lễ rảy nước từ chính giếng Siloê còn nghi lễ ánh sáng buổi chiều tối, với cuộc rước đuốc, diễn tả sự chờ đợi ánh sáng tràn đầy đã hứa cho Israel trong ngày của Đấng Messia. Cũng trong khung cảnh này, Đức Giêsu tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian".
Chúng ta ở trung tâm cuộc luận chiến. Suốt hai chương trên, Đức Giêsu luôn là mục tiêu cho đối phương quấy rầy. Ở đây sự chống đối của người Pharisêu tập trung trên việc kẻ mù được lành và đang trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
1. Hành trình để nhận biết.
Cũng như Chúa nhật vừa rồi, nay Gioan đang đưa ta đến sự nhận biết.
Sự ra vào của các nhân vật ăn nhịp với các giai đoạn và kết cấu của câu chuyện.
Lúc đầu có mặt, sau đó Đức Giêsu vắng mặt ở sân khấu cho đến lúc tìm thấy lại người mù, Ngài đặt cho anh ta một câu hỏi căn bản: "Anh có tin Con Người không".
Giữa khởi đầu và kết thúc của câu chuyện, người mù được lành chỉ trơ trọi một mình, mặc cho các người "thân cận" và "người quen" tự đặt câu hỏi về anh, người Pharisêu thì quấy rầy anh ta bằng những câu hỏi, với cha mẹ ruột đang tìm cách tránh né vì sợ bị liên luỵ, người Pharisêu đòi anh ta đến lần thứ hai, và sau một cuộc đối thoại gay gắt, họ "tống anh ra ngoài".
Sự thay đổi danh xưng của Đức Giêsu, một sự tiến bộ trong sự nhận biết: trước hết Chúa được chỉ như là "người mà người ta gọi là Giêsu, sau đó một "tiên tri" và như kẻ từ Thiên Chúa mà đến, cuối cùng anh mù tuyên xưng Ngài như là "Con Người”. Những từ chính (mots clés) được dùng nơi đây với ý nghĩa sâu xa trong vai trò của chúng:
Trong suốt hành trình, từ "bị mù" (cụm từ được lặp lại 15 lần) đối lại với "thấy" (13 lần).
Ở mỗi một giai đoạn, cùng một công thức được lặp lại “Ngài đã mở mắt cho tôi". Tất cả đến 7 lần, con số ấy là hoàn hảo, chỉ ý nghĩa tượng trưng rằng người được lành hoàn toàn.
Đúng vậy cuộc gặp gỡ lần thứ hai với Đức Giêsu cho ta thấy rõ sự chữa lành thể xác chỉ là một dấu chỉ một sự chữa lành sâu xa hơn, cho phép từ nay anh “thấy” trong việc "tin". Anh hỏi: "Ai là Con Người để tôi tin?”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh đang thấy đấy, chính Ngài đang nói với anh".
2. Dồn về một tuyên xưng đức tin.
Tất cả bắt đầu bằng cái nhìn của Đức Giêsu khi Ngài ra khỏi đền thờ. Ngài "thấy trên đường đi một người mù từ thuở mới sinh". Theo niềm tin dân gian, bệnh hoạn là kết quả của tội lỗi, vì thế các môn đệ liền hỏi Ngài: "Thưa Thầy, tại sao người này mù từ lúc mới sinh? Tại tội lỗi của anh ta hay tội lỗi của cha mẹ của anh?” "Không phải do tội lỗi của anh ta, cũng không do của cha mẹ anh", Đức Giêsu trả lời, nhưng nhờ sự dữ mà con người khốn khổ này đang chịu, "hành động của Thiên Chúa" được biểu lộ, và việc anh ta được tỏ ra như dấu chỉ “ánh sáng trần gian" nhờ dấu lạ buộc mỗi người phải có thái độ đối với anh ta.
Đức Giêsu lấy bùn trộn với nước miếng. Từ thế kỷ thứ II thánh Irênê de Lyon đã thấy trong cử chỉ của Đức Giêsu đắp mắt người mù, chính là sự hoàn thiện cử chỉ của Thiên Chúa đắp nên thân xác của Adam. Bôi bùn lên mắt người tàn tật, Đức Giêsu ra lệnh cho anh ta đứng dậy đi rửa mắt tại giếng Siloê" (Siloê có nghĩa là được sai đi). "người mù liền đi và rửa mắt, khi anh trở lại anh thấy được". Phép lạ này được kể lại cách đơn sơ vỏn vẹn trong hai câu, vì thánh sử có ý dẫn ta từ dấu chỉ đến Đấng mà dấu chỉ mặc khải! Đấng được sai đến ".
Anh đã được lành. Đức Giêsu đã bỏ đi khỏi nơi xảy ra sự kiện. Từ nay anh chỉ một mình ở giữa cuộc tranh luận về việc anh đã được lành và về lai lịch của người đã chữa anh lành.
Trước hết là những "kẻ lân cận" và những người "quen" anh ta. Cái nhìn của họ chỉ ở trên bề mặt của biến cố. Họ sinh ra chia rẽ trên chính thực tế của việc được chữa lành (Người thì nói: phải chăng chính là người thường đứng ăn mày ở đó? Kẻ khác nói: chính anh ta, kẻ khác nữa lại bảo không phải anh ta, đó là kẻ giống anh ta thôi). Họ tỏ ra lưu ý đặc biệt đến việc "tại sao" được lành, và đến tung tích của người đã thực hiện: "và ông ta, ông ta đâu rồi?”.
Câu hỏi cuối cùng làm cho anh mù ngày xưa không biết trả lời sao: "Tôi không biết. A. Marchadour quảng diễn: Anh phải trải qua một hành trình dài trước khi khẳng định đức tin mình vào Đức Giêsu, đi từ dấu chỉ đến việc tiếp nhận Đức Giêsu, ánh sáng thế gian... Nhưng việc Đức Kitô đi qua trong đời của anh mù và giữa mọi người đã có một hậu quả chắc chắn là chia người ta ra làm hai phe: "những người chấp nhận dấu chỉ và những người từ chối Đức Giêsu" (Tin Mừng thánh Gioan, Centurin, 1992, trang 135).
Sau là những người "Pharisêu” với ánh mắt đầy vẻ nghi ngờ, vì việc làm trên diễn ra trong ngày Sabbat. Họ cũng hỏi. Họ cũng chia rẽ. Và người Pharisêu nói.: "Ông này không từ Thiên Chúa mà đến vì không giữ luật nghỉ ngày Sabbat”, kẻ khác đáp lại: “Làm sao người tội lỗi lại làm được những phép lạ như thế?”
Nực cười là chính anh mù lại trở thành một trọng tài: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh trả lời: “Là một tiên tri”.
Sau cùng là "cha mẹ ruột anh mù". Người Do Thái đòi họ đến, họ xác nhận anh ta là con của họ thật, và mù từ thuở mới sinh. Nhưng né tránh để khỏi liên luỵ cuộc tranh cãi, họ đề nghị một cách giễu cợt: "Các ông hãy hỏi nó, nó đã đủ khôn lớn để trả lời”.
Đề cập đến nguy hiểm bị người Do Thái trục xuất khỏi hội đường, A. Marchadour viết: "Có lẽ thánh sử diễn dịch ra đây những nguy hiểm bị dứt phép thông công ở cuối thế kỷ thứ nhất đối với những ai tin vào Đức Giêsu. Thời Đức Giêsu chưa có chuyện này. Nhưng trên bình diện câu chuyện, sự tách biệt đối với người mù nói lên rằng, tin vào Đức Giêsu luôn luôn là một hành động cá nhân, trong đó cha mẹ đâu có thể định đoạt thay cho người môn đệ được. Sự chọn lựa này không phải không nguy hiểm vì có thể dẫn tới sự gẫy đổ với tôn giáo của anh ta? (O.C. trang 137).
Từ đó sự căng thẳng giữa người mừ xưa và người Pharisêu bị mù mắt bởi đam mê của họ lên đến tột độ. Họ đòi anh đến lần thứ hai và yêu cầu anh một lần nữa phải nói Đức Giêsu đã làm thế nào để mở mắt anh, anh bạo dạn đáp lại cách mỉa mai: “Sao các ông lại muốn nghe tôi nói lần nữa? Hay các ông cũng muốn làm Môn đệ của Ngài?”. Và việc hỏi cung thành dịp nguyền rủa. Anh tuyên bố với họ: “Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến thì không làm được chuyện gì đâu. Quá quắt lắm rồi, người Pharisêu đuổi anh ra ngoài và đứt phép thông công anh.
Đức Giêsu tái xuất hiện với một sáng kiến mới: "Biết họ đã trục xuất anh, Ngài liền giúp anh". Và cuộc đối thoại với anh mù đã được lành, dẫn anh tới việc tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu là "Con Người": "Lạy Thầy con tin" anh tuyên xưng và "sấp mình xuống trước mặt Ngài ".
A. Marchadour giải thích: Đức Giêsu đã đưa anh qua một giai đoạn quyết định, từ một "Giêsu tiên tri" đến một Giêsu là Con Người", Đấng Cứu Thế đưa anh vào cộng đồng của thời kỳ cuối cùng. Người mù sấp mình xuống trước con Người", nhận ra thiên tính của Ngài, bởi vì theo thánh Gioan, sự thờ lạy chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa; và danh xưng Chúa (Seigneur) nói lên căn tính thần linh của Đức Giêsu. Nhận ra Đức Giêsu như là Đấng mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa việc thờ lạy Ngài là đỉnh cao của cuộc hành trình của anh mù" (O.C. trang 139).
Giai thoại được kết thúc với một lời tuyên bố của Đức Giêsu dưới hình thức một lời phán xét. Nó bộc lộ những gì diễn ra trong thầm kín của tâm hồn: "Tôi đến thế gian này để đặt lại vấn đề: cho những ai không thấy được thấy và ai thấy lại không được thấy". Từ "để cho", cha Guillet cắt nghĩa, ở đây không chỉ mục đích, nhưng là hậu quả.
Đối với mọi người, anh mù trước Đền thờ không có của cải: anh ăn xin, một người không quyền thế: anh mất hút trong đám người cùng khổ đến chung quanh nơi thánh, một người không hiểu biết: sinh ra mù, không không đọc được sách luật, người ta cho anh là suốt đời tội lỗi.
Nhưng thật ra con người này đã trải qua một hành trình tuyệt diệu, con đường từ tối tăm đến nhận ra “Đấng là ánh sáng”.
Về phần người Pharisêu, họ theo một hành trình ngược lại. Họ là những con người danh giá, những con người được coi như là điểm tựa của xã hội thời đó, họ cho họ "biết" và tưởng mình "thấy", nhưng họ lại đi sâu vào trong sự mù tối (câu 15-18; 29,34). Họ tố cáo Đức Giêsu là "người tội lỗi và người mù thì trầm mình trong tội lổi từ lúc mới sinh", họ "ở trong tội lỗi của mình. Lời tố cáo họ định gán cho Đức Giêsu, quay trở lại gán người đi kiện trở thành người bị cáo.
J. Potin kết luận; “Trong lúc người mù được thấy, người Do thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng: Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Môsê và lúc Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sabbat. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người”, trong lúc đó, những kẻ "thấy”, những người Do Thái lại trở nên mù tối, bị loá mắt vì những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ ("Jésus, l’histoire vraie" Cent. 1994, trang 364)
BÀI ĐỌC THÊM:
Hành trình của người mù từ lúc mới sinh, đường dẫn tới Phép Rửa của chúng ta. (H. Denis, trong "100 mots pour dire la foi" Déchée Brouwer, trang 123-124).
Dĩ nhiên người ta nói nhiều về Phép Rửa trong khi hướng về Phục Sinh. Đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà chúng ta gợi chuyện anh mù từ thuở mới sinh, nhờ vào câu chuyện rất sống động ấy, mà thánh Gioan đã viết cho chúng ta. Tại sao lại người mù từ thuở mới sinh? Vì đó là bước di của một tân tòng, là đường nhập môn của Phép Rửa. Trước hết phép Rửa là một sự toả sáng. Điều đó không có nghĩa là mọi người chịu phép rửa đều chìm trong trạng thái thiên cảm (illuminisme), cũng không phải là một hành động ma thuật, bởi vì người mù phải đi tới giếng Siloê. Nhưng điều đó có nghĩa là có một bước đường mầu nhiệm, từ tối tăm đến ánh sáng, từ một nhân loại còn đóng kín trong vô nghĩa và trong lầm lạc, tới một nhân loại mở ra đón ánh sáng Đức Giêsu, một nhân loại được đánh thức trước một sự sống viên mãn.
Nhưng chúng ta biết anh mù được chữa lành phải đối đầu vôi biết bao nhiêu là cản trở, cũng vì anh được lành. Người tín hữu mới cũng phải trải qua thử thách, nhất là khi so sánh đức tin mình với sự không tin hay dửng dưng của gia đình (đức tin không di truyền), hơn nữa còn phải đụng chạm với những thế lực khác biệt về chính kiến hay về tôn giáo, coi người chịu phép rửa là kẻ phải loại trừ hay đáng nghi ngờ (Phép rửa không lẫn lộn với sự thừa nhận của xã hội, quốc gia, chính trị hay tôn giáo).
sau hết, đến ngày người mù được lành sẽ thừa nhận Đấng Cứu chuộc mình chứ không phải chỉ được lành mà thôi. Mọi Kitô hữu, mọi người chịu phép ngày nào đó cũng được mời gọi, rất sớm hay muộn màng hơn, sống một cuộc gặp gỡ có tính quyết định, bởi vì Đức Giêsu đã không tìm thấy họ đó sao? Ngày ấy các bạn sẽ hỏi: Ai là "Con Người". Và Ngài sẽ trả lời bạn: "Chính tôi, người đang nói với anh đây. Lúc ấy sấp mình xuống, bạn sẽ nói: "Lạy Chúa, con tin”. Đó là ngày phục sinh của bạn.
Hãy chỗi dậy từ cõi chết, Ngày đã bừng sáng, Hãy thức dậy đi từ cõi chết. Hãy toả sáng (cf. Eph 5,14).
Ga 9:1- 38 Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2).
Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do MC 4-A146
Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2). Ông bối rối vì sợ mất ngai vàng, mặc dầu là vua kế nghiệp David, nhưng ông không đọc Kinh Thánh để hiểu sự xuất hiện của Chúa là để thực hiện lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, chứ không để tranh giành ngai vàng của ông. Quyền lực thế trần đã làm ông mờ mắt và không còn nhìn thấy ánh sáng của lời hứa cứu độ, vàông đã quyết định tìm Chúa Giêsu để giết.
Chứng kiến người mù từ khi mới sinh được Chúa chữa lành, những người Pharisiêu, một tầng lớp lãnh đạo trong dân Do Thái, thay vì chia vui với người mù được chữa lành, họ hoảng hốt lo sợ. Cho dầu là những người hướng dẫn Dân chúa, nhưng họ không chịu nghiên cứu Thánh Kinh để khám phá sự xuất hiện của lời hứa cứu độ. Mải mê với quyền lực và chỗ đứng trong xã hội, họ hăng say đi tìm cho được người đã dám chữa lành cho người mù trong ngày Sabat. Phải chăng họ yêu mến lề luật? Thưa không, họ yêu mến quyền lực mà họ đang chiếm gữ, và quyền lực đó đang đứng trước nguy cơ phá sản, vì có người mạnh thế hơn họ, quyền năng hơn họ, bởi người đó đã có thể chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Rồi đây dân chúng sẽ quay lưng với họ để chạy theo con người có quyền năng đó. Vì quyền lợi thế trần họ quyết loại trừ Chúa, mặc dầu có thể họ cũng nhận ra rằng Đấng đã chữa lành cho người mù phải là Đấng đến từ Thiên Chúa, điều mà ngừoi mù đã minh định: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì."
Việc loại trừ Đức Kitô không dừng lại ở giai đoạn Người hiện diện hữu hình trog lịch sử Dân Do Thái, việc đó còn được tiếp tục cho đến ngày hôm nay, cho dẫu Tin Mừng Chúa Giêsu được loan báo mang lại bào là vui mừng và hy vọng. Đức Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng đã diễn đạt niềm vui của những con người gặp gỡ được Đức Kitô: Các môn đệ “vui mừng” (Ga 20:20) khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các Kitô hữu tiên khởi “dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (2:46). Bất kể các môn đệ đi đến đâu, “ở đó, người ta rất vui mừng” (8:8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “ngập tràn niềm vui” (13:52). Viên quan thái giám vừa mới được rửa tội “tiếp tục lên đường, lòng đầy hoan hỉ” (8:39), trong khi người cai ngục của Phaolô “và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa” (16:34). (Số 5). Thế mà tại sao nhân loại luôn tìm cách loại trừ Tin Mừng?
Cũng như Hêrôđê, hay các người Pharisiêu, người ta đã cố tình bắt bớ các Kitô hữu, giết chết những người tin vào Chúa Kitô vì Tin Mừng Chúa Kitô đụng chạm tới quyền lợi vật chất của họ. Họ không thể chấp nhận Tin Mừng khi Chúa Giêsu dạy yêu thường và tha thứ cho kẻ thù, người ta không thể đón nhận Tin Mừng khi Chúa Giêsu dạy bán của cải mình có để chăm lo cho người nghèo. Người ta không thể chấp nhận ánh sáng Tin Mừng, bởi vì ánh sáng đó đã tỏ cho họ thấy những thủ đoạn hèn hạ, lòng tham lam vô đáy và những đam mê ăn chơi vô độ đã giết chết sự sống đích thật, cần phải từ bỏ, sám hối và trở về. Không chỉ họ từ chối lời mời gọi trở về, nhưng còn tìm cách để huỷ diệt ánh sáng đó. Họ muốn mãi bước đi trong bóng đêm của sự chết vì sự giả dối của thế trần đã làm cho họ ra u mê. Vâng, Tin Mừng của Chúa Kitô luôn là lời thách đố cho người thời đại hôm nay, một thời đại đang bị tục hoá, và chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ đang nở rộ trong xã hội hôm nay, để người đương đại đắm chìm trong một lối sống ích kỷ, vô cảm và tha nhân trở thành kẻ thù của nhau.
Lạy Chúa, Chúa đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh, xin cho ánh sáng Đức tin luôn soi dẫn cuộc sống chúng con , để chúng con nhận ra những hiểm nguy làm tổn hại đến cuộc sống đức tin của chúng con để chúng con can đảm xa tránh, và mạnh dạn làm chứng cho Tin Mừng. Amen.
Trong cuộc sống, chúng ta thường coi thường nhau bởi thái độ định kiến. Vì có thái độ định kiến MC 4-A147
Trong cuộc sống, chúng ta thường coi thường nhau bởi thái độ định kiến. Vì có thái độ định kiến này, mà chúng ta không phám phá điều mới mẻ tốt đẹp và tích cực của nhau. Vì thái độ định kiến này, chúng ta coi thường người khác, quen quá biết rõ nhau quá mà, chẳng xa lạ gì cho nên dể dàng vui mừng trước thất bại của người khác, khó chịu khi người khác thành công. Vì vậy, chẳng lạ gì, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân này. Cụ thể, người Do thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do thái luôn luôn có sẵn một định kiến không hay về Chúa Giêsu. Từ đó họ luôn một cái nhìn, một lối nghĩ, một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giêsu, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả mọi người, dù đó là ai, có lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi cho sự sống, họ cũng cho là quân tội lỗi... Chẳng hạn, một người bị khiếm thị từ khi mới sinh, được Chúa Giêsu chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: "Mày sinh ra trong tội". Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội vì anh khiếm thị bẩm sinh chứ anh có tội gì, và hôm nay anh được Chúa chữa lành vậy anh chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do thái. Thế mà Chúa Giêsu và anh bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.
Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh khiếm thị đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy. Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi lang thang khắp đó đây ... Lẽ ra dấu lạ sáng mắt kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không ai làm được nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng. Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi khiếm thị, Đức Giêsu, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ (đã không chữa được cho anh), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ còn nói Chúa Giêsu thế này: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa. Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi".
Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thay vì Chúa Giêsu trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù nhân cách, lương tâm và con tim. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác, đưa người ta đến chỗ kết án mà quên kiểm tra mình, làm cho mình không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là tốt nhất, thiện nhất và vô tội còn mọi người xung quanh không làm được gì, chẳng tốt gì mà có tốt chỉ là một việc nào đó, còn toàn là tội thôi…
Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho tất cả chúng ta, chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình: Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm dù đã thi hành án xong hoàn lương, một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt dù đã cải tạo tốt; một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận; một người lỡ mắc bệnh dịch COVID 19 thay vì được thông cảm, chúng ta nhìn người ấy bằng ánh mắt khi dễ… Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn.
Chúa Giêsu không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Giacop, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sám hối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Giacôbê và Gioan. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm giáo hoàng của Phêrô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giuda nặng nề: "Mày sinh ra trong tội", như người Do thái lên án anh khiếm thị hôm nay, dẫu Chúa Giêsu có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giuda phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: "Xin Cha tha cho họ...". Và hôm nay, Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta dù có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quên tội ta, quên tất! còn chúng ta thì cứ tái phạm...
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta để mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Amen.
Chắc nhiều người trong chúng ta biết người đàn bà phi thường Helen Keller, người Mỹ là một MC 4-A148
Chắc nhiều người trong chúng ta biết người đàn bà phi thường Helen Keller, người Mỹ là một nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội và giảng viên đại học vừa khiếm thị vừa khiếm thính. Bà là người khiếm thị khiếm thính đầu tiên trên thế giới nhận bằng thạch sĩ nghệ thuật. Bà Hellen Keller sinh ra là một bé gái bình thường, nhưng chỉ sau một trận sốt bại não, cô bé đã không nhìn thấy và không nghe thấy âm thanh. Sau đó, mẹ cô Hellen đưa con gái của mình tới học tại trường dành cho người khiếm thị. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne và với tình yêu kiên nhẫn, cô giáo đã giúp cho bé Helen vượt lên số phận cách kiên cường: Bà Helen đã không chỉ biết đọc biết viết và nghe được và trở thành nhà văn huyền thoại đi vào lịch sử nhân loại hôm nay. Thật khó có thể kể hết những gian nan vất vả của bà Helen trên hành trình tìm đến với ánh sáng và âm thanh. Đành rằng Helen may mắn gặp được cô giáo Anne có trái tim nhân hậu và nhiệt huyết song nếu cô bé Helen chẳng chịu hợp tác với cô giáo, chấp nhận buông trôi cuộc đời mình vĩnh viễn trong tăm tối thì cô giáo Anne cũng đành phải bó tay. Nhưng Helen đã không chịu đầu hàng số phận, đã nhẫn nại, kiên trì và đầy nghị lực để chứng mình cho mọi người biết rằng mình tàn nhưng không phế.
Vâng, người khiếm thị trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa là chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người bởi Thiên Chúa mà đến, là Con Thiên Chúa, là Ánh sáng của trần gian. Nhưng điếu đáng chú ý ở đây là đâu phải một sớm một chiều mà anh có được con mắt thể xác và đức tin ngời sáng như thế. Anh đã phải mò mẫm đi đến với Chúa dù bị người ta khinh chê, xua đổi vì cho anh là kẻ có tội. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của của những người Pharisêu sáng mắt hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ nhưng anh một mực chứng minh rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người khiếm thị từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33). Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Chúa và được lòng thương xót Chúa chữa lành đôi mắt thể xác và đức tin cho anh.
Nơi con người có rất nhiều loại khuyết tật, nhưng khuyết tật khiếm thị là một trong những khuyết tật khổ sở nhất, bất hạnh nhất vì người ta nói rằng: “. ”. Như thế, đã là người có mắt mà không nhìn thấy gì cả, chỉ là một màn đen thui, thì có phải là bất hạnh không! Thưa quý ông bà anh chị em. Chúng ta thật hạnh phúc khi chúng ta không khiếm thị thể lý cũng như tinh thần nhưng trong cuộc sống mắt chúng ta mờ vì lỗi phạm những điều bất chính: tham sân si, ham muốn xác thịt, lòng ghen ghét, giận hờn... Mình biết rõ những hành động đó không đúng nhưng vẫn làm như thường. Có khi mình biết nhưng biết lơ mơ, không có khả năng giúp mình nhận rõ vấn đề không chỉ nhìn bằng mắt mà còn bằng trái tim và đức tin. Rõ ràng chúng ta thiếu ánh sáng Lời Chúa. Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời của Thiên Chúa. Tin vào sự thật là Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Tin vào Chúa Giêsu, chính Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi khiếm thị thiêng liêng. Tin như thế chúng ta sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Chúa Giêsu và Người sẽ giúp cho ta “ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8).
Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời Chúa. Chúng ta cũng vậy, Lời Chúa đến không chỉ qua các Giám mục, linh mục mà còn là những người trong gia đình, người bạn mà mình gặp gỡ trong cuộc đời. Lời Chúa còn đến với chúng ta qua chính kinh nghiệm của cuộc sống, thường là những kinh nghiệm đau thương, nghèo nàn, cô đơn... làm chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có mặt trong cuộc đời chúng ta làm chúng ta bình an vượt khó vượt khổ như bà Halen. Cho nên, chàng niên thoát ra cảnh khiếm thị là ánh sáng của Lời Chúa và chỉ trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta nhìn thấy ánh sáng là bình an và thánh thiện. Để Lời Chúa trở thành ánh sáng bình an và thánh thiện cho đời ta thì chúng ta phải chấp nhận trả giá. Anh thanh niên đã trả giá là phải chịu bao nhiêu gian khổ, dù người đời xua đủa nhưng anh đã đến được với Chúa để anh có đức tin, có Chúa trong đời anh làm cho đời anh tươi sáng và rạng ngời như anh mong muốn.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn tối tăm. Nhưng ngày nay, qua bí tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh chiếu soi” (x. Ep 5,8-14). Vì thế, sống tinh thần Mùa Chay là bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô, là làm bừng sáng lên ánh sáng của Tin Mừng trong cuộc đời chúng ta bằng những hành động cụ thể thiết thực như Ngôn sứ Isaia đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu Mùa Chay: “Hãy xóa bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi thứ gông cùm, chia cơm bánh cho người nghèo đói, tiếp rước kẻ phiêu bạt không nhà, cung cấp áo quần cho ai rách nát, không né tránh trước đồng bào cốt nhục” (Is 58,6-8).
Vì vậy, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường chúng ta phải đi và những việc chúng ta phải làm để đạt đến hạnh phúc thật là được phục sinh với Chúa muôn đời. Amen.
Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh..... Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang MC 4-A149
"Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa Giêsu."
Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.
Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được "cát đỏ" (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:
"Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều"
Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.
Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai. Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là "Chúa". Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này.
Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc. Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác. Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: "Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt. Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liềân được trông thấy."
Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người.
Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: "Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?" anh ta liền đáp: "Ông ấy là một tiên tri". Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước. Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri. Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.
Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa. Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: "Anh có tin vào CON NGƯỜI" không? Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin. Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh". Anh đáp ngay: "Lạy Chúa, con tin!" vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.
Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước. Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà "muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối" (Pl 2: 10). Ân sủng đức tin, hay "ánh sáng tâm linh" mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.
Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.
Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị "đui mù tâm linh" như anh mù trong Phúc âm hôm nay. Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta. Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.
Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay. Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy. Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường. Đến lúc lớn lên. Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn. Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa. Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta. Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy. Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế. Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.
Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu. Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai. Schweizer viết: "Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thủơ xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển. Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: "Hãy theo Ta!". Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ. Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được "NGÀI là ai?".
Đau khổ, thất bại, cuộc sống mất định hướng, ai chẳng mong được trợ giúp, được tham mưu, vấn MC 4-A150
Đau khổ, thất bại, cuộc sống mất định hướng, ai chẳng mong được trợ giúp, được tham mưu, vấn kế, với hy vọng sẽ có một kết quả tốt đẹp. Thành đạt, cuộc sống ổn định, có phải người ta vẫn mơ ước sự trợ giúp: để được uy danh, để được nổi tiếng ? Dù là tình đời, tình người, tình máu mủ ruột thịt, hoặc tình đôi lứa, thì mục tiêu hướng tới chính là hạnh phúc. Người xưa có câu: người bạn tốt là người bạn khi ta cần thì họ xuất hiện, trong khi những kẻ khác bỏ đi, sợ phải liên luỵ ! Đồng ý rằng, ai cũng có tự do chọn lựa, được nhắc nhớ nghĩ tốt, nói tốt, trong các tương quan, dù hoàn cảnh sống mỗi người mỗi khác. Giầu nghèo, khôn hay khờ, khoẻ mạnh hoặc ốm yếu, tất cả chỉ tồn tại trong tình yêu, mọi thứ rồi tan biến theo quy luật thời gian. Nghịch cảnh, khổ đau, khiến một số gục ngã, nghịch cảnh cũng tác động số khác kiên cường, phá vỡ kỷ lục thế giới.
Thưa Thầy: mù loà, câm điếc, bại liệt, ngu dốt, là do hậu quả tội lỗi, đó là hình phạt chính đáng, đúng không ? Đức Giêsu quả quyết, không phải thế: “không phải anh ta tội lỗi, cũng không phải cha mẹ anh phạm tội, mà là để công viêc Thiên Chúa tỏ ra nơi người mù từ lúc mới sinh”. Đức Giêsu quan tâm đến sứ mạng yêu thương, trong khi các môn đệ, và số đông chúng ta, luôn bị ám ảnh bởi hình phạt, vì những ưu ái bên ngoài. Lời khuyên của các chuyên gia: hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ lui ra sau bạn. Hãy nhìn những việc làm tốt đẹp của người anh chị em, ta sẽ buông bỏ được những suy nghĩ tiêu cực về người ta không ưa thích. Trước khi mở mắt người mù, Đức Giêsu nói: “bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Trước khi gặp Đức Giêsu, cuộc đời của anh mù chỉ là bóng đêm, khổ đau, ngồi xin ăn, nhưng tâm trí anh không mất niềm hy vọng về một ngày tươi sáng.
Tất cả cơ hội, niềm vui có thể đến với ta bất cứ lúc nào, tất cả đau khổ hạnh phúc, mất và được, sống và chết, tội lỗi hay thánh thiện, đều tuỳ thuộc sự tự do chọn lựa của ta. “Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta”. Trước khi mở mắt người mù, Đức Giêsu có ý nói tất cả việc làm phải phát xuất từ tình yêu. Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn có thời gian suy xét về sự thánh thiện, hay sự giới hạn đầy bất xứng của mình. Khoa học phát triển, giới y bác sĩ hôm nay chữa được nhiều bệnh tật hiểm nghèo, nhưng người mù từ khi mới sinh, hẳn chỉ Đức Giêsu mới chữa trị được. Sứ mạng của Đức Giêsu là mở mắt tâm hồn, mở mắt đức tin, hôm nay Ngài còn mở mắt thể lý, mở ra nhiều hy vọng, tất cả vì yêu, chắc chắn không phải vì tiền hay vì danh.
Tất cả là hồng ân, tất cả vì yêu, tất cả vì muốn hạnh phúc cho con người, Đức Giêsu thực hiện quyền năng giữa “thanh thiên bạch nhật”, xoa bùn lên mắt người mù và bảo: “anh hãy đến hồ Silôê mà rửa”. Câu chuyện người mù được khỏi, gây thắc mắc, liên luỵ phiền phức đến nhiều thành phần: “đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin ở đây sao ?” “Làm thế nào mà anh ta được sáng mắt ?” Khi ở trong tối tăm, anh mù chỉ im lặng trước tình thế phải ngồi xin ăn. Sau khi được sáng: anh nói năng lưu loát, công nhận Đức Giêsu là người tốt, tuyên xưng Đức Giêsu là Ngôn Sứ. Anh ta trả lời hết sức khôn ngoan trước các điều tra viên: “Ông Giêsu có phải là người tội lỗi hay không thì tôi không biết; tôi chỉ biết trước kia tôi mù, và bây giờ ông ấy đã làm cho tôi trông thấy”. Đúng như câu thành ngữ: người thật tâm, thật tình, chưa chắc đã có kết quả tốt hơn ai, nhưng khi thật tình thật tâm, bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc. Người mù được sáng mắt, sáng lòng, anh ta mới thực sự bước những bước đầu cho sứ vụ và ơn ban của người tin theo Đức Giêsu.
Tất cả mọi thứ đều quý ở hai thời điểm: trước khi có được và sau khi mất đi. Tất cả là ơn ban, tất cả là vì yêu, tất cả là những tác động nhằm mở mắt trí lòng anh mù, và mọi người, giúp nhau đi tới hạnh phúc thật ở phía trước. Sau khi mắt sáng, trí lòng thông suốt theo sau, biết bao tranh luận sôi nổi làm đảo lộn mọi giá trị. Người sáng mắt bỗng dưng như tối lại, kẻ tự cho mình thông biết lại đuối lý, anh mù Bartimê cho ta cảm nhận: khi trí lòng sáng, người ta sẽ hiểu tình Chúa và tình người luôn hiện diện trong các tương quan. Không phải chỉ anh mù Bartimê được yêu thương, mà tất cả các luật sĩ biệt phái và chúng ta đều được thương yêu, được có điều kiện để thích nghi với tình hình mới. Hãy lưu tâm đến lý trí tự do mà ta đang có, hành động đúng đẹp sẽ nói lên điều ta cần hiểu.
Chính vì tình yêu, vì được tác động bởi ơn ban, người ta mới đủ lý lẽ để nói: “làm sao một người tội lỗi lại làm được những sự việc thể ấy ?” Tất cả vì yêu: vì không một hành động tử tế nào, dù là nhỏ bé tí teo, lại bị lãng phí. (Aesop). Tất cả vì yêu, người mù loà không thấy đường đi lối lại, nhưng anh ta lại sáng mắt tâm hồn, hết sức nhạy bén, Đức Giêsu nói đi rửa ở hồ Silôê là đi ngay, không cần phải thắc mắc, nghi ngờ… Cha ông chúng ta nói: Chúa thương ai, Chúa gởi thánh giá đến, và bằng hành động yêu thương, ai cũng có cơ hội để bày tỏ niềm tin, để minh chứng chúng ta vừa sáng mắt vừa sáng lòng. Chỉ khi trải nghiệm, chúng ta mới nhìn rõ trắng đen cuộc đời, mới nhận ra sức mạnh và tình yêu của Chúa đang giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin và đức ái. Amen.