Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Lễ Lá là một lễ vui mừng, nhưng lại đượm nét buồn. Hôm nay chúng ta được nghe Bài Thương Khó trong thánh lễ. Tuần Thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Hosana! Hosana! Tiếng hò reo vang vọng một góc trời khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng với những cành lá trên tay, với những cánh tay đưa lên cao để tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít. Nhưng một tuần sau, chính những cánh tay đó cũng giơ cao để gào thét, để chửi rủa chế nhạo và để đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Ôi lòng người sao tráo trở, mau đổi trắng thay đen!
Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa và cũng là con người, Ngài không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và bị giết chết. Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với tình yêu to lớn, và lập tức đau khổ mang đầy ý nghĩa to lớn.
Qua bài Thương Khó hôm nay, bạn và tôi, chúng ta hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường của cuộc Khổ Nạn, từ vườn Cây Dầu đến tận Núi Sọ… Đừng theo Chúa như một người xa lạ, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và tôi, cho bạn và cho tôi. Sau khi đã cảm nghiệm được cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, bạn và tôi sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Qua bài Thương Khó hôm nay, Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, tôi không cảm thấy đó là chuyện xa lạ. Vì trên thế giới chúng ta đang sống hôm nay, mỗi ngày vẫn còn biết bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, và nhất là đi đàng thánh giá với Ngài, giúp tôi bình an hơn với thánh giá của chính mình, nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước những cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới hôm nay.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, tôi thấy mình không phải là kẻ đứng ngoài cuộc. Tôi thấy mình có nét của Giuđa: Một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần, bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe... Tất cả đã vỡ tan khi Giuđa phản bội Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Phêrô: Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt tha thứ nào của Thầy khiến Phêrô òa khóc. Ngày hôm nay vẫn còn văng vẳng đâu đây tiếng gà gáy trong đêm và ánh mắt của Chúa trong đời tôi...
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông gào thét. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội. Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê: tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ... Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, tôi nhìn thấy những điểm sáng ngời. Điểm sáng đó từ nơi Simon: ông vác đỡ thập giá Đức Giêsu trên đường lên núi Sọ. Điểm sáng khác từ nơi các phụ nữ theo sau Thánh Giá Chúa Giêsu, họ vừa đi vừa than khóc. Điểm sáng rực rỡ hơn cả từ nơi người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng".
***
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa giang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên kiết với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Phần trình thuật về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được coi như phần giống nhau nhất trong 4 Phúc Âm. Nhưng những dị biệt cũng không ít.
Phần riêng của Luca:
c. 13-16:Luận án lần I của Philatô. c. 15-16 Giáo huấn trước lập Bí Tích Thánh Thể. c.17 với chén rượu nho thứ I. c.28-30: Phần thưởng dành cho các tông đồ. c. 51 chữa lành lổ tai bị chém đứt. c.61a cái nhìn của Đức Giêsu cho Phêrô. 23,2-5: Ba lần Pilatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội. c. 5-12: Đức Giêsu bị đưa ra trước Hêrôdê. c. 27-32: Gặp gở các phụ nữ trên đường vác thập giá. c.34: lời xin tha thứ. c. 40-43: Đối thoại với người kẻ trộm sám hối. c. 46b: Tiếng kêu của Đấng hấp hối trích Tv 31. Luca có riêng 35 câu ( hơn 20 câu trên miệng Đức Giêsu).
Những câu chung với Mc cũng không có cùng một trật tự. Sơ đồ trình thuật của Luca trong những nét lớn thì song song với Mc nhưng cũng có nhiều khác biệt. Có một số điểm giống Ga.
• Ban đêm Đức Giêsu không được điệu đến Cai pha cũng không đến Thượng Hội Đồng.
• Ba lần Pilatô muốn thả Đức Giêsu.
• Đánh đòn coi như một hình phạt thay thế án tử.
• Cuối cùng Pilatô nộp Đức Giêsu cho các người hữu trách do thái để thi hành bản án.
Hai nét Kitô học của Luca:
1. Đức Giêsu thực hiện một cách bình thản chương trình của Thiên Chúa- nhấn mạnh tính cách vô tội của Người.
2. Mời gọi nhập cuộc, dấn thân vg. Simon Cyrênê vác hộ thập giá với Đức Giêsu.
Tóm lại: cái chết của Đức Giêsu là cuộc tử đạo của người công chính là gương mẩu cho các môn đệ noi theo vg Stêphanô, Phaolô…..
Luca viết Phúc Âm thứ 3 như một đại diện cho dân ngoại cố gắng đưa dân ngoại vào chiếm một chổ đứng trong lịch sữ cứu độ. Lc 23,34: Lời xin tha thứ là nhắm dân ngoại vì họ bị coi như người tội lỗi nhưng chỉ vì họ không biết. Nhất là Lc. 23, 40-43 giai thoại về người kẻ trộm sám hối, ăn trộm Nước trời vào những giây phút chót ( có cách nói là vào giờ thứ 25).
Luca biện minh cho dân ngoại vì ơn cứu độ cũng có cho họ và Luca cũng có một nữa là dân ngoại ( Cha là ngoại). Ngoại là ở ngoài, ngài tìm cách ghép họ vào chương trình cứu độ vì ơn cứu độ phổ quát không dành riêng cho do thái.
Đó, Người đưọc treo lên cao, trên cây sào và giương cao trên đỉnh đồi núi sọ.. Xa gần đều có thể nhìn thấy.
Như con rắn đồng, treo trên ngọn sào, giương cao trong sa mạc để ai bị rắn cắn mà nhìn lên và tin Thiên Chúa thì khỏi chết. Mọi người là con cháu Adam đều bị con rắn xưa cắn không phân biệt do thái hay dân ngoại- điều quan trọng và trở nên bi đát- là có nhìn lên và tin hay không. Thánh Gioan nói: tin thì được sống không tin thì vẩn chết.
Đó, Người đã được treo lên, trên cây bẹo ( theo ngôn ngữ chợ nổi miền tây Nam bộ- ở chợ nổi Cái Răng hay Ngả Bảy, các ghe hàng bẹo món hàng muốn bán trên một cây sào gọi chuyên là cây bẹo,bẹo hàng). Trên đồi cao, được giương lên cao (như Ga: khi tôi được giương lên cao, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi).
Được treo, được giương lên như cờ hiệu thúc quân. Được chứ không bị hay chịu treo vì Người tình nguyện, là Tình Yêu cứu độ. ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ‘trao nộp’ con của mình cho thế gian để họ xử tùy ý họ.
Nhưng cái nút thắc phải mở ở đây là ‘ nhìn lên và tin vào’. Ai có thì được ‘ ơn tha thứ và hứa thiên đàng’. Còn không thèm nhìn hoặc nhìn mà chế nhạo, phỉ báng, mắng nhiết thì khác Đức Giêsu chỉ xin ơn tha thứ ‘ vì họ không biết’, chỉ cho kẻ không biết. Dân ngoại không biết. Luca muốn làm mảnh ghép còn thiếu cho hình ảnh ơn cứu độ dược đầy đủ.
Người được treo đó! Trên cao, ai cũng có thể nhìn xem.
Người được treo đó! cho tất cả, cho dân ngoại nữa. Ngoại không phải là vỉnh viển ở ngoài. Vào giờ chót, những giây chót muốn vào cũng còn được nhưng với điều kiện là nhìn lên và tin Thiên Chúa. Người kẻ trộm sám hối vào giờ phút chót được chấp nhận và hứa ‘ ngay hôm nay’ có nghĩa là ngay hôm nay, ngay giờ phút nầy, giờ của sám hối và lòng tin người kẻ trộm-dân ngoại (tội lỗi) cũng được ơn tha thứ và được hưởng ơn cứu độ như mọi người dù là người kẻ trộm. Không phải là ơn cứu độ vô điều kiện. Nhưng điều kiện không nhiều, chỉ cần sám hối và tin. Nhưng không thể không có. Vì tự do thì phải như vậy.
Người được treo đó! trên cao, không giống như những người bị treo khác. Người là con chiên vô tội, là Con Thiên Chúa, là Tình Yêu, là ơn cứu độ phổ quát. Người do thái cho tới nay vẩn không sám hối, không tin thì trở thành kẻ ngoại. Người dân ngoại là tội lỗi, là kẻ trộm (dưới mắt người do thái) nhưng giờ chót sám hối: Chúng ta chịu thế nầy là đáng kiếp. Ông nầy không có tội. Xin Ngài, khi về trong nước Ngài (Trời) xin thương nhớ đến tôi. Ngay hôm nay (ngay sau khi sám hối) ngươi sẽ ở trên thiên đàng với tôi. Ngay hôm ấy Đức Giêsu đã ở trên thiên đàng – là Chúa vào Đấng Cứu độ -không phải đợi tới Thăng Thiên. Cũng ngay hôm nay người dân ngoại được nhận và thiên đàng’ơn cứu dộ’- không còn đợi gì nữa vì có ơn cứu độ thì trời liền mở ra- đã đợi lâu lắm rồi. Ơn cứu độ là phổ quát, là cho mọi người không phân biệt do thái hay dân ngoại chỉ có tin hay không tin. Nên ngay hôm nay Luca muốn mảnh ghép còn lại được thực hiện hoàn tất. Vì Ga: Ai tin thì được sống, không có giới hạn.
Người được treo đó! Trên cao - đủ cao –hãy nhìn lên và hãy tin thì chắc chắn 1000% được cứu, được sống đời đời ! Lạy Chúa, con thấy rồi, con tin, xin cho con được sống đờo đời với Chúa trong vinh quang Phục Sinh.
Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh.
Thật thế, những gì chúng ta nhìn thấy, những gì chúng ta chiếm hữu, nó không tồn tại lâu bền, nhưng nó sẽ bị biến mất.
Chúa Giêsu vừa cho những người thời bấy giờ nhìn thấy được cái chóng qua của vinh quang trần thế. Nhưng họ nào có nhận ra. Họ đón rước Ngài như một vị vua, tung hô vạn tuế. Các môn đệ cũng vui mừng tận hưởng vinh quang của thầy, vinh quang của người đời, vinh quang ở ngay trước mắt. Nó vụt biến đi cách nhanh chóng, những gì mà người đời ca tụng giờ đây không còn nữa. Nó được thay thế bằng những gì người đời cho là ô nhục, thất bại. Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho việc nầy từ rất lâu, chuẩn bị cho vinh quang mà người đời không nhìn thấy, vinh quang bất diệt, vinh quang vĩnh cửu, vinh quang mà không ai có thể lấy đi được, vì vinh quang không phải do con người người ban tặng, nhưng là hồng ân và là chương trình của Thiên Chúa.
Các môn đệ muốn chiếm lấy vinh quang mà họ nhìn thấy.
Những người thời bấy giờ cũng muốn Chúa Giêsu đem vinh quang cho họ ngay trước mắt. Nhưng tất cả những gì họ mong muốn, đều không đạt kết quả. Họ không nhìn thấy được chương trình của Thiên Chúa. Thái độ của cũng thay đổi khi quyền lợi không được thỏa mãn.
Chúa Giêsu dùng tất cả mọi phương tiện để đem vinh quang đến cho con người, nếu họ nhận ra được Thánh Ý và tuân theo.
• Chúng ta cũng nhận ra được một Philatô trung thực nhưng lại hèn nhát, không dám thực hiện những gì mình nhìn thấy. Ông cũng nhận ra được ánh sáng chân lý, cũng nhận ra được vinh quang đang tiềm ẩn, nhưng không thể nắm bắt được vì sự hèn nhát.
• Chúng ta cũng nhận ra được một Herode muốn tìm gặp Chúa, ông đã gặp, nhưng không đạt được kết quả gì, vì không có lòng thành.
• Chúng ta nhìn thấy một Phêrô biết quay trở về với tình Yêu thương vì ông đã nhận ra được Tình Yêu, qua cái nhìn đầy cảm thông.
• Chúng ta cũng nhận ra được tâm tình sám hối của các môn đệ, khi nhìn thấy được những lỗi phạm của mình, để rồi biết quay trở về với tình yêu chân thật, mà nhận lấy vinh quang đã chuẩn bị cho các ông.
- Chúng ta cũng chứng kiến một sự chuyển đỗi ngoạn mục của người trộm lành, khi anh ta nhận ra được vinh quang bất diệt của Thiên Chúa.
- Chúng ta cũng chứng kiến một sự tha thứ cho những người lầm lỗi, để họ có thể đạt tới vinh quang đã được chúẩn bị chọ, nếu họ biết quay về với nguồn tình yêu.
Còn chúng ta. Với những điều chứng kiến, với những hồng ân chúng ta nhận được, với sự hiểu biết mà Thiên Chúa đã ban. Chúng ta có nhìn thấy vinh quang bất diệt đã được chuẩn bị, hay chúng ta cũng chỉ thấy những vinh quang nhất thời, vui mừng với nó, để rồi nó cũng từng biến mất và làm cho chúng ta hụt hẩn.
Chúng ta có được chút thành tâm như người trộm lành , dám nói lên những sự thật trong lúc cùng cực nhất. Hay chúng ta có như được Phêrô và các môn đệ, nhận ra sự yếu hèn của mình khi nhìn thấy được Tình yêu.
Chẵng lẽ, chúng ta cũng như một Philatô hèn nhát, nhìn thấy sự thật, nhìn thấy được vinh quang bất diệt, nhưng không dám với tới, vì sợ mất đi những gì đang có trong hiện tại. Hay chúng ta cũng như những người thời bấy giờ, mặc dù đã được sự tha thứ của Chúa Giêsu. Nhưng họ không hối cải, không quay trở về với Ngài vì họ chỉ nhìn thấy bản thân, cùng với những vinh quang, lợi lộc mà họ không muốn từ khước nó.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta được sáng suốt, nhìn thấy vinh quang vĩnh cửu mà Chúa đã chuẩn bị , để can đảm bước theo Chúa , tận hưởng vinh quang bất diệt.
Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh.
Câu chuyện của ngày lễ lá hôm nay tường thuật: Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giêrusalem với tiếng hoan hô vang trời dậy đất.Tất cả những điều đó làm ta liên tưởng tới những dịp bầu cử tổng thống của các nước trên thế giới, nhất là Việt nam trước năm 75: trong ngày bầu cử, người ta hoan hô tưng bừng bao nhiêu, thì ngày tổng thống bị hạ bệ, người ta đả đảo, nói xấu bấy nhiêu. Cũng thế, ngày lễ Lá, dân chúng hoan hỉ đón rước Chúa Giêsu bao nhiêu, thì ngày thứ sáu liền sau đó, họ lại sỉ vả, phỉ báng bấy nhiêu. Trước mắt dân chúng Do Thái, Chúa Giêsu không khác gì mấy ông tổng thống, mấy ông nguyên thủ quốc gia trần thế bao nhiêu; chỉ có điều, Chúa Giêsu không tìm vinh quang trần thế. Ngược lại, mấy ông kia thì khác… Câu chuyện hôm nay muốn chúng ta suy niệm thấu đáo về đề tài này.
a. Có mấy điều trước hết cần chú thích:
Nghi thức rước lá ngày hôm này, là để kỷ niệm biến cố xưa khi Chúa vào thành Giêrusalem, cũng là để khai mạc Tuần thánh, nghi thức này đã có từ thế kỷ thứ IV tại Thánh địa Giêrusalem; các nơi khác mãi tới thế kỷ VIII và IX mới có. Qua nghi thức này cho thấy Hội thánh hiểu rõ ý nghĩa việc rước lá, không đơn thuần là việc đón rước Chúa long trọng vào thành Giêrusalem, mà còn phải có ý nghĩa khác sâu xa hơn nhiều…..
Chúa cưỡi lừa: đây là nghi thức từ thời Cựu Uớc: vua hay thủ lãnh thường dùng lừa để cưỡi, ở đây Phúc âm còn lưu ý: chọn con lừa chưa dùng vào việc gì là chỉ con vật tinh tuyền.
Chúa Giêsu chấp nhận để dân chúng hoan hô đón rước Chúa, vì chính Chúa trả lời cho người pharisêu, khi họ kêu Chúa bảo các môn đệ đừng tung hô lớn nữa; Chúa nói “nếu họ làm thinh thì sỏi đá sẽ la lên”. Điều này chắc chắn làm chúng ta kinh ngạc. Dù vậy câu trả lời sẽ rất sáng tỏ nếu chúng chịu theo dõi từ đầu cho đến hết cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, thì ta sẽ hiểu ngay. Điều Người tìm kiếm không phải là vinh quang trần thế.
b. Có thể đây là cuộc biến hình thứ hai của Đức Kitô; tuy nhiên vinh quang mà dân thành Giêrusalem dành cho Chúa không mấy chốc sẽ vụt tắt, vì họ đón rước Người theo ý họ chứ không vì mộ mến và làm theo ý của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế…
Trước hết, ta thấy Chúa Giêsu muốn dân chúng Do thái đón rước mình như một vị Vua, vị Vua lạ lùng, bí nhiệm nhất trong nhân loại, nhưng lại không phải là một vì Vua trần gian theo nghĩa thường tình. Người là vị Vua hòa bình, Vua công chính, là Đấng Cứu tinh, là Đấng Thiên sai. Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu theo nghĩa này. Thực ra không có mấy người Do Thái nào hiểu được như vậy. Rồi đến ngày thứ sáu, Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn với lòng bình thản và độ lượng thẳm sâu. Trước sự yếu đuối và phản bội của các Tông đồ, Người bao dung, khiêm tốn biết bao. Trước bạo quyền, Người thinh lặng. Trước kẻ thù, Người khoan nhượng và tha thứ. Người đến với địa vị và uy quyền của một Đấng Cứu thế, giải thoát con người không phải ách nô lệ La mã, mà là ách tội lỗi, một thứ ách đáng sợ hơn ách nô lệ trần gian nhiều. tiếc thay, các kinh sư và biệt phái vì mù tối và ích kỷ nên đang tâm giết Chúa. Còn Chúa, trước khi chết, Chúa vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả kẻ giết mình. Như vậy Chúa không phải là vị Vua của Tình yêu, Vua của tha thứ sao?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
• Ngày xưa các kinh sư, biệt phái vì không hiểu mà giết Chúa. Ngày hôm nay chúng ta có hơn họ không?
• Là người kitô hữu, chúng ta có hiểu Chúa Giêsu hơn người Do thái thời xưa không? • Chúng ta có tin Chúa không? Chúng ta có ti n chúa là Vua thật của chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua Tình yêu, tha thứ, Vua công chính không?
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội bước vào tuần cao điểm của năm Phụng vụ. Đây là thời gian tưởng niệm đặc biệt cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Khởi đầu việc tuởng niệm này là việc tưởng nhớ biến cố Chúa Kitô vào thành Giêrusalem. Khi Người vào đến thành Giêrusalem, người Do thái đã đón tiếp Người nồng nhiệt. Họ đã lấy áo choàng mà lót đường và tung hô rằng: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời! ” (Lc 19, 38) Người Do thái đã tiếp đón và tung hô Chúa Kitô đúng như Người là. Chính Người là Vua và là Đấng Messia mà Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian. Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn để cứu loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Thế nhưng, thật đáng tiếc điều ấy cho tới lúc bấy giờ người Do thái vẫn chưa nhận ra. Thậm chí, các môn đệ thân tín cũng vậy. Mặc dù, Chúa Kitô đã nhiều lần dùng nhiều lời và nhiều hành động để cho họ biết đích thật Người là ai và Người đến thế gian để làm gì. Đã ba lần, Người loan báo cuộc thương khó của mình cho các môn đệ được biết. (Lc 9, 22; 9, 44;18, 31-32)
Trong tâm tưởng của người Do thái cũng như các môn đệ, Chúa Kitô sẽ là một vị vua hoàn toàn theo kiểu trần gian và Người là một Đấng Messia chính trị. Đó là khao khát luôn luôn trong suy nghĩ của họ. Họ không thể chấp nhận một Đấng Messia chịu khổ nhục. Bằng chứng là những người hôm nay tung hô Chúa Kitô là Vua thì chính họ cũng sẽ hô hào đóng đinh Chúa. Bởi lẽ, Người đã không đáp lại mong ước của họ. Chắc chắn, Chúa Kitô không thể đáp ứng lại yêu cầu của họ được. Sứ mạng của Người là phải vâng theo ý muốn của Chúa Cha. Người phải đi con đường thập giá mới cứu độ được con người.
Có thể nhiều lúc là người tín hữu nhưng ta vẫn còn theo Chúa Kitô với tâm trạng như những người Do thái xưa kia. Chúng ta theo Chúa nhưng bắt Người phải theo ý mình. Chúng ta theo Chúa Kitô nhưng lại không muốn cùng Người đi con đường Thập giá. Một nhà tu đức nọ đã nói: “ Nếu bạn tìm Đức Kitô không thập giá thì bạn sẽ gặp được thập giá mà không có Đức Kitô ” . Chính Người cũng đã nói: “ Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ” (Lc 9, 23)
Vác thập giá theo Chúa Kitô là chúng ta chấp nhận lội ngược dòng với những suy nghĩ và cách sống của thế gian.
Giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui trên hết, còn ta lại đặt Chúa là giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, còn ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Giữa một thế giới người ta xem lường gạt và đối trá là điều bình thường, còn ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô . Xin Chúa Kitô chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta.
Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.
Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.
Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm 12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao? Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?
Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.
Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu.
Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.
Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.
Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!
Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.
Tuy trung thành với lược đồ có vẻ như có từ rất sớm trong truyền thống Giáo Hội sơ khai đã tạo nên những nét chính, trình thuật Thương khó của thánh Matthêu vẫn có những nét riêng của tác giả.
Ngay từ lời khai mào bài thương khó (26,1-2) trong khi Marcô chỉ ghi thoáng qua một chỉ dẫn thời gian ("Còn 2 ngày nữa tới lễ Vượt Qua và lễ bánh không men") Matthêu chỉ rõ cả ý nghĩa của sự việc sắp diễn ra: "Các con biết rằng còn hai ngày nữa là tới lễ Vượt Qua và Con người sẽ bị nộp và bị đóng đinh”. Matthêu chỉ cho thấy Đức Giêsu là người Thầy nắm vững tình hình. Người ý thức về mọi sự sắp xảy đến, và Người tự do tiến tới để trung thành với sứ mạng cho đến cùng. Matthêu nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa lễ Vượt Qua và sự kiện Con Người sẽ bị nộp. Lễ Vượt Qua là một lễ quan trọng, hướng về cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Người Do thái nhớ lại chuyến vượt thoát khỏi Ai-Cập với Môsê, họ nhân biết rằng hôm nay họ còn sống sót là nhờ ơn Chúa; họ hướng về tương lai và chờ đợi tới lúc Thiên Chúa sẽ can thiệp, như xưa kia, để giải phóng dân Người khỏi ách nô lệ. Này đây đã tới thời viên mãn.
2. Ứng nghiệm các lời Kinh Thánh.
Điều Matthêu, tác giả viết cho Kitô hữu mà đại da số có nguồn gốc Do Thái, muốn chứng minh cho họ là Đức Giêsu đã hoàn tất đến tận cùng và viên mãn lời Kinh Thánh đã loan báo. Ngài nhắc lại: "Tất cả những điều ấy đã xảy đến để ứng nghiệm lời các tiên tri (16,56; 27,9-10). Ngài thường xuyên đưa độc giả của Ngài về Cựu ước hoặc ám chỉ (như trong những lời chế nhạo 27,43 gợi hứng từ sách Khôn Ngoan 2,13-18), hoặc minh nhiên (như khi Phêrô chối, Giuđa phản bội, khi Đức Giêsu chịu chết, lúc trút hơi thở còn cầu nguyện thánh vịnh 21); ứng nghiệm lời Kinh Thánh không có nghĩa là tất cả đã được thấy trước và chỉ cần đọc Kinh Thánh là biết hết. Kinh Thánh chỉ gợi lên hành trình đức tin của những Kitô hữu đầu tiên, sau biến cố Phục Sinh, hiểu rõ hơn ý nghĩa của các biến cố đau thương khi đọc lại Kinh Thánh. Trong suốt lịch sử dân Chúa cũng như lịch sử Đức Giêsu, vẫn chỉ là ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua những chống đối, đau khổ và cái chết. Nhưng dưới ánh sáng mới của cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, Kinh Thánh từ này rõ ràng sáng sủa hơn.
3. Khai mạc thời kỳ mới
Lúc Đức Giêsu chết, Matthêu kể ra những hiện tượng kỳ lạ có sức biểu tượng mạnh mẽ: màn trong Đền Thờ xé ra làm hai, động đất, "thi thể của đông đảo các thánh sống lại và "sau khi Đức Giêsu sống lại, đi vào thành thánh". Như thế Matthêu loan báo cho ta biết ta đang dự vào một cuộc sụp đổ của cả một thế giới và sự khai mạc của một thời đại mới. Từ nay, tất cả mọi người, trong Đức Giêsu là Đền Thờ mới, sẽ có thể tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa. Các thánh có thể theo Đức Giêsu Phục Sinh tiến vào Vương quốc Nước Trời. Nơi đầu sự chết tưởng đã chiến thắng, nơi đó sự sống chiến thắng trên sự chết và tội lỗi Thể hiện nơi viên đại đội trưởng La-mã, người tuyên xưng đức tin vào Giáo Hội: "Người này thực là Con Thiên Chúa” là tất cả dân ngoại bắt đầu nhìn Đấng chịu đóng đinh bằng cả niềm tin.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Giêsu Thiên Chúa không quyền lực (Henri Denis, "Voici lHomme", DDB).
Vì Con Người, Đấng đã có thể gọi đến cả những sư đoàn thiên thần, vẫn chịu trói chân trói tay trước mặt Philatô. Đức Giêsu bị xếp vào loại người không có thế lực, nghèo hèn, bệnh tật, bị loại trừ, để phục hồi nhân phẩm cho họ. Đức Giêsu đã tích cực bảo vệ họ đến độ chọc tức cả những người tự cho mình có thế lực trước mặt Thiên Chúa hơn Người. Và chính những người ấy lại kêu gọi đến những thế lực trần gian này để làm cho Vị Tiên tri trở thành bất lực. Đó là "sì căng đan" thánh giá. Người đã cảnh báo các môn đệ của Người rằng giữa họ với nhau, và cả với người khác nữa đừng bao giờ đè nặng lên nhau cái gánh mệnh lệnh. "Chớ gì kẻ ra lệnh hãy trở thành người phục vụ, vì Con Người không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ" (Mt 20, 27).
Vâng, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa không thế lực. Chính vì thế quyền uy của Đấng Phục sinh chẳng có gì giống với những quyền lực ở trần gian. Quyền lực của tình yêu không làm Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa các đạo binh nhưng trở thành Thiên Chúa không khí giới.
(Mt 21,1-11; Ys 50,4-7; Ph 2,6-11; Mt 26,14-27,66 hoặc 27,11-54)
Kiệu Lá:
Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11
"Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến".
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".
Không tuần lễ nào nhiều lễ nghi bằng tuần Thương khó này. Giáo hội cử hành mầu nhiệm trọng nhất, nên tuần lễ này đáng gọi là Tuần Lễ Thánh. Và để chúng ta dễ tham dự các mầu nhiệm cử hành, Phụng vụ tuần này đầy những biểu thị cụ thể, lọt vào mắt và rót vào tai. Chúng ta sẽ cố gắng tham dự hết.
Mở đầu, Phụng vụ mời gọi chúng ta cử hành việc Chúa long trọng vào thành Yêrusalem. Phụng vụ muốn chúng ta như diễn lại chính sự kiện ấy. Thế nên chúng ta làm phép lá ở chỗ này, để rồi rước vào nhà thờ, như Đức Kitô ngày trước đã đến đứng ở Núi Cây Dầu rồi mới khởi hành vào Yêrusalem.
Như chúng ta ngày nay chọn chỗ này là chỗ thuận tiện nhất trong hoàn cảnh hiện đại để khởi sự cuộc kiệu, thì ngày trước Đức Kitô cũng đã chọn nơi ý nghĩa nhất để đi vào thành. Yacaria ngày trước đã loan báo (14,4), khi đến cứu Dân, Chúa sẽ dừng chân trên Núi Cây Dầu, Núi ở trước mặt Yêrusalem về phía Đông. Người Dothái tin ở lời tiên tri ấy. Khi một nhân vật nọ muốn xưng mình là Cứu Thế, ông đã hô hào dân chúng cùng ông lên Núi Cây Dầu để xem ông ta hóa phép giải cứu Yêrusalem như thế nào. Ông ta chỉ ngụy biện thôi, chứ có làm được gì. Tuy nhiên đối với dân chúng, lời tiên tri Yacaria không vì vậy mà mất giá trị. Hôm nay mô tả Đức Kitô khởi hành vào Yêrusalem từ Núi Cây Dầu, các tác giả thánh muốn tuyên xưng Người là Cứu Thế và Người vào thành để cứu độ chúng ta.
Matthêô còn thêm chi tiết hai con lừa. Ông trích dẫn Yacaria (9,9) để làm chứng thêm Đấng vào Yêrusalem hôm nay là Vị Cứu tinh hiền hòa. Chỉ có điều ông đọc lời tiên tri hơi méo mó một tí. Ông cắt bớt mấy câu trước quá hân hoan khải hoàn để cuộc vào thành của Đức Kitô có vẻ khiêm tốn hơn. Và nhất là thay vì đọc "một lừa con, con của lừa mẹ" ông muốn có cả hai lừa mẹ cùng lừa con. Ông vẫn có thói quen tính gấp đôi như thế trong tác phẩm. Ông là người "khôn ngoan trong Nước Trời biết rút tự trong kho điều mới và điều cũ" (13,52). Yacaria chỉ nói đến "lừa con, con của lừa mẹ", là cốt nhấn mạnh tính cách mới mẻ, chưa ai động tới, chưa ai cỡi của con vật để Đấng Cứu Thế dùng. Matthêô không bỏ điều ấy, nhưng cũng không muốn thấy Đức Kitô cỡi nguyên trên một lừa con yếu ớt. Ông muốn có cả lừa mẹ, để nhấn mạnh thêm tính cách chắc chắn của việc Chúa sắp làm; và như vậy cả mới cả cũ, cả con lẫn mẹ đều được sử dụng. Tuy nhiên ý tưởng chính vẫn là việc Đức Kitô cỡi lừa vào thành hôm nay thể hiện rõ rệt lời sách Yacaria và làm chứng Người là Cứu Thế vào thành để cứu độ trong thái độ dịu hiền, khiêm tốn.
Người được đón tiếp như một Hoàng đế theo kiểu Đông phương: dân chúng tấp nập, kẻ trước người sau, trải áo trên đường, rắc lá cho sang, reo hò inh ỏi. Những tiếng "Hosanna, Con Vua Đavít Đấng đến nhân danh Thiên Chúa" nói lên niềm tin Đức Yêsu là Thiên Sai, Cứu Thế.
Nhưng đó chỉ là ý kiến của quần chúng, của những kẻ đơn sơ khó nghèo. Vào tới thành, chỗ ở của những người giàu sang, Đấng Thiên Sai hiền từ khiêm nhu không được đón tiếp như vậy nữa. Và nếu chúng ta còn nhớ: thánh Matthêô hay có những suy nghĩ về Giáo hội khi viết tác phẩm của người; và Nagiarét xứ Galilê đối với người là biểu tượng về dân ngoại, thì câu kết bài Tin Mừng vừa nghe đọc có nghĩa là: Đức Yêsu, vị Tiên Tri thành Nagiarét xứ Galilê, Vị Thủ Lãnh của Giáo hội gồm đa số các tín hữu từ dân ngoại, đang ở giữa Yêrusalem cũ, đối nghịch và không muốn chấp nhận Tin Mừng.
Như vậy, khi thuật lại việc Chúa vào thành hôm nay, Matthêô không những chỉ muốn giới thiệu Người là Đấng Thiên sai cứu thế hiền từ và khiêm nhu, đến để chịu nạn; nhưng tác giả còn muốn nhắc nhở chúng ta về thân phận của Hội Thánh, của mọi cộng đoàn Dân Chúa, của mọi tín hữu hết thảy đã đến từ dân ngoại: tất cả chỉ là hiện thân của Vị Tiên tri thành Nagiarét xứ Galilê đang đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế mà vẫn bị hất hủi. Thế thì chúng ta phải xin Người cho chúng ta được những tâm tình của Người để làm công việc vào Đền Thờ hôm nay, để rồi vào đời cứu thế như Người. Chúng ta hết thảy hãy tiến lên với những tâm tình ấy. Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá:
Ys 50,4-7; Ph 2,6-11; Mt 26,14-27,66 hoặc 27,11-54
Bản văn đã dài. Chúng ta không muốn nghe ai nói gì khác nữa. Có lẽ chúng ta còn muốn được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay. A. Bài Tường Thuật Việc Chúa Chịu Chết
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc Chúa chịu chết. Đó là điều hơi lạ. Trước hết việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", thế mà lại dài dòng tỉ mỉ về việc Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn cả khi các ông giảng về việc Chúa phục sinh nữa. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Mà như thế là vì việc Chúa chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi. Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Đạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc này. Và điều lạ thứ hai: cả bốn sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Yuđa mặc cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Đức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật, cái hôn nộp thầy của tên môn đồ phản phúc!
Còn thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Đức Yêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết...
Hai chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của bọn Yuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Yuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Đức Yêsu chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Đức Yêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Đang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Đó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Đích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54).
Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn phân nơi cực thánh xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Đức Yêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích.
Như vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Yêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Đức Yêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như Lời Đức Yêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Đức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau. B. Bài Học Chúa Để Lại Cho Chúng Ta
Thánh Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Đọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Đức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế.
Isaia ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Đức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Đức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của Matthêô làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Đức Kitô. Phụng vụ hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Đức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Đức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
1 Khi họ tới gần Yêrusalem, và đến Betphaghê, ở núi Cây Dầu, bấy giờ Đức Yêsu sai hai môn đồ, 2 vào bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi đến làng trước mặt các ngươi, và tức khắc các ngươi sẽ gặp cột sẵn một lừa mẹ cùng một lừa con bên cạnh, các ngươi hãy cởi lấy và dẫn về cho Ta. 3 Và nếu có ai nói gì với các ngươi, thì hãy đáp: "Chủ cần đến chúng, và rồi sẽ gửi đến ngay". 4 Điều ấy đã xảy ra là để trọn điều đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng: 5 "Hãy báo cho nữ tử Sion; Này Vua ngươi đến cùng ngươi; khiêm nhu, Ngài cỡi mình lừa, trên lừa tơ, con con vật chở đồ. 6 Môn đồ đã đi làm theo lời Đức Yêsu truyền dạy họ. 7 Họ dẫn lừa mẹ cùng lừa con về, trải áo choàng lên chúng, và Ngài đã cỡi lên chúng. 8 Còn dân chúng, rất đông đảo, trải áo choàng của họ trên đàng, nhóm khác chặt nhánh cây mà lót lối đi. 9 Dân chúng, kẻ đi trước, người theo sau Ngài, kêu lên rằng: "Hôsanna cho Con Đavít! Muôn chúc lành cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, Hôsanna trên chốn cao vời!". 10 Khi Ngài vào Yêrusalem, thì tất cả thành chấn động mà rằng: "Ngài là ai?" 11 Dân chúng đáp lại: "Ngài là tiên tri Yêsu, người Nazaret, xứ Galilê".
Chúa Giêsu đến Giêrusalem là một thời điểm quan trọng và có tính cách quyết định. Sứ vụ ở Galilêa đã chấm dứt, và hành trình lên Giêrusalem đã đến nơi (x. 19:1). Từ đây, mọi biến cố, lời giảng dạy, hành động và cả cái chết của Người đều sẽ diễn ra ở Giêrusalem (21:1-22:46). Đoạn 21:1-11 mở đầu cho giai đoạn nầy, mô tả việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Bối cảnh: Chúa Giêsu và các môn đệ đến Betphaghê (c. 1); - Chúa chuẩn bị vào thành (cc. 2-5); - Chúa vào thành (cc. 6-9); - Thái độ thành Giêrusalem và câu hỏi về Người (cc. 10-11). Chữ “Giêsu”, “đến gần/vào Giêrusalem” (c. 1 và 11) đóng khung đoạn nầy. Chúa Giêsu và Giêrusalem liên quan rất mật thiết với nhau.
Chủ đề chính là Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tư cách là vị vua mới của thành. Những chủ đề liên quan đến căn tính của Chúa Giêsu: “vua” (c. 5), “Con vua Đavít” (c. 9), “Đấng phải đến” (c. 9), “ngôn sứ” (c. 11). Tước hiệu “Con vua Đavít” gán cho Chúa Giêsu liên kết đoạn nầy với hai đoạn trước và sau (20:31, 21:9, 21:15).
Bối cảnh của trình thuật (c. 1)
Trong câu mở đầu, Matthêô ghi nhận các địa danh rất có ý nghĩa. Giêrusalem, là thành trì của vị Vua cao cả (5:35). Vì dân chúng tung hô Chúa Giêsu là “Con vua Davít” lúc Người vào thành (21:9), có thể nói là Matthêô muốn ám chỉ Giêrusalem là thành trì của vua Đavít và dòng dõi ông. Đavít đã tiến đánh người Giêbusai thời đó đang sống ở Giêrusalem. Ông đã chiếm thành lũy Zion, và đã cho xây dựng ở đó kinh thành của ông gọi là Kinh thành Đavít (2 Sam 5:6-12). Salômôn, con vua Đavít, khi được xức dầu phong vương đã tiến vào Giêrusalem giữa tiếng hoan hô của dân chúng (x. 1 V 39-40). Bởi đó khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, dân chúng hoan hô và gọi Người là “Con vua Đavít”. Người trở nên người thừa kế triều đại của Đavít và là vua của Giêrusalem. Vào tận cuối tin mừng người ta mới thấy vị vua nầy được đối xử như thế nào bởi thần dân của Người (27:37). Bethphagê có nghĩa là “Nhà của những trái vả chưa chín”; có thể ám chỉ loại vả không chín đúng mùa. Xem câu chuyện tìm trái vả (21:18-22). Ngọn núi Cây Dầu cách Giêrusaem chừng 4 km về phía đông, băng qua thung lũng Kidron. Núi Cây Dầu gắn liền với các diễn từ cánh chung (x. 24:3). Như thế việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem từ ngã núi Cây Dầu có tính cách cánh chung: Người là vị vua của thời sau cùng và vương triều của Người cũng thế.
Chúa chuẩn bị vào thành (cc. 2-5)
Đoạn nầy gồm hai phần: - Chúa sai hai môn đệ đi chuẩn bị (cc. 2-3) và việc ứng nghiệm lời của ngôn sứ (cc. 4-5). Ý định của việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi làm được giải thích trong phần câu 5 trích từ Zacharia 9:9. Chúa Giêsu chọn phương thế là cỡi lừa vào thành Giêrusalem. Người chủ động sai hai môn đệ đi tìm và dắt về một con lừa (cc. 2-3). Đọc lại bản văn Zacharia 9:9-10 sẽ thấy ý nghĩa của hành vi nầy. Lừa là con vật của hòa bình. Vị vua ngồi trên lưng con vật là chính trực, chiến thắng và khiêm nhu. Vua nầy mang lại hoà bình cho mọi dân tộc trên trái đất. Trong khi đó, ngựa là con vật của chiến tranh (Zach 9:10).
Việc Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem mang ý nghĩa là Người là Đấng đang đến để làm vua (c. 5a). Salômôn, người kế vị vua Đavít, đã cỡi lừa của vua Đavít đến Gihôn để được phong vương trên dân Israel (1 V 1:33). Một chi tiết rất quan trọng không thấy trong các bản dịch là tính từ sở hữu “của chúng” (của các con lừa) ở câu 3: “Chủ của chúng cần đến chúng”. Chúa Giêsu không cỡi trên lừa của bất cứ vị vua nào thuộc dòng tộc Đavít để được phong vương, mà trên con lừa của chính Người. Người là vua trổi vượt trên Đavít và dòng tộc của ông, và Giêrusalem cũng thuộc quyền sở hữu của Người.
“Thiếu nữ Zion” chính là dân thành Giêrusalem. Khi trích lại lời của Zacharia, Matthêô đã thay đổi đôi chút: “Hãy nói cho thiếu nữ Sion” thay vì “Hãy vui lên”. Việc Chúa đến được loan báo như một thông tin, vì sự vui mừng đáng lẽ ra phải có nơi thành Giêrusalem đã gây nên một sự xao động nơi họ (c. 10). Sự hiền lành, khiêm nhu, praus, là topos của vị vua. Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy học nơi Người vì Người “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (11:29).
Chúa vào thành (cc. 6-9)
Đoạn nầy mô tả việc các môn đệ chuẩn bị gần cho Chúa Giêsu vào thành (c. c. 6-7) và hành động và lời tung hô của dân chúng (cc. 8-9). Việc trải áo xuống đường cho một người đi qua là hành vi biểu tượng xem người ấy như là thủ lãnh. Dân chúng trải áo xuống đường cho Giêhu đi qua, và họ tung hô ông là vua (2 vua 9:13).
Lời tung hô của dân chúng dựa trên thánh vịnh 118:25-26. Thánh vịnh nầy được đọc vào dịp các lễ lớn như Vượt Qua, Lễ Lều. Ban đầu thánh vịnh được sáng tác như là một bài ca tạ ơn về chiến thắng để hát khi vua tiến vào đền thờ. Thánh vịnh mang tính cách thiên sai, “Đấng đang đến”. Matthêô đã thêm vào “Con vua Đavít” để ám chỉ Chúa Giêsu (c. 9). Tước hiệu nầy đã được Matthêô xác định ngay từ đầu trong gia phả của Chúa Giêsu (1:1), và tương quan của Chúa Giêsu với Đavít còn tiếp tục được đặt ra sau nầy (12:23; 22:42.43.45) Và các bệnh nhân đều dùng tước hiệu nầy để kêu gọi lòng thương xót chữa lành của Chúa Giêsu (9:27; 15:22; 20:30.31; 21:9). Như thế, việc đặt tước hiệu nầy vào trong câu trích dẫn muốn xác định rõ ràng Chúa Giêsu là Con vua Đavít. Người thật là vua, và Người chính là Đấng mà Thiên Chúa sai đến.
Thái độ của dân thành Giêrusalem và câu hỏi về Người (cc. 10-11)
Hai câu nầy là của riêng Matthêô và không tìm thấy câu tương tự trong các phúc âm nhất lãm khác. Thái độ của thành Giêrusalem là run lẩy bẩy, seiô, như động đất vậy. Trong những câu tiếp theo, Matthêô sẽ xác định rõ hơn. Đó là sự nổi giận của các thượng tế và các kinh sư khi thấy các trẻ em lấy y lời của dân chúng mà tung hô Chúa Giêsu (21:15). Sự run sợ nầy đã thấy ngay từ đầu tin mừng. “Hêrôđê và cả Giêrusalem” run sợ khi nghe tin về một vị vua mới sinh (x. 2:3). Có thể lấy sự phản ứng của Giêrusalem làm bối cảnh để giải thích câu hỏi theo sau “Người nầy là ai?” (c 10b). Dân chúng trả lời cho những người đứng đầu Giêrusalem “Người ấy là ngôn sứ Giêsu, người Nazaréth xứ Galilêa”. Câu trả lời muốn nói rõ hơn nữa về căn tính của Chúa Giêsu. Trong chương 2, Matthêô trình bày những biến cố đầu tiên xảy ra cho Chúa Giêsu, khi Người mới được sinh ra. Tại Giêrusalem vua Hêrôđê nghe tin về một vị vua mới sinh, và ông đã ra lệnh tìm giết vị vua nầy (2:16). Vị vua mới sinh phải trốn sang Ai cập, rồi sau đó về lánh ẩn dật tại Nazaréth (2:23). Bây giờ, vị vua ấy là Chúa “Giêsu người Nazaréth” đích thân xuất hiện công khai tại Giêrusalem. Người không còn lẩn tránh nữa. Tại đây, Người là Vua và Giêrusalem là thành đô thuộc về Người.
Vào Giêrusalem Chúa Giêsu không chỉ vào đền thờ, mà vào giai đoạn cuối cùng của chương trình cứu chuộc. Cuộc thương khó và sự chết đang chờ đợi Người. Tuy nhiên Người không ra khỏi thành Giêrusalem cùng một cách thế như khi Người vào thành.
Các bài Thương khó trong sách Tin Mừng đều có quá nhiều điểm để chúng ta suy niệm. Một trong những điểm đặc biệt của bài Thương khó theo thánh Mát-thêu là Chúa Giê-su biết trước những gì sẽ xảy ra và Người làm chủ tình hình, nhưng tại sao Người vẫn sẵn sàng chấp nhận mọi sự.
Trước khi xảy ra cuộc Thương khó, Chúa Giêsu đã chuẩn bị thời giờ và nơi chốn để cử hành tiệc Vượt qua với các môn đệ. “Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt qua”. Trong bữa tiệc, Chúa Giê-su không nổi giận trước thái độ giả nhân giả nghĩa của Giu-đa, nhưng vẫn tế nhị, muốn thầm kêu gọi hắn trở về. Khi lập Bí tích Thánh Thể, chắc chắn Chúa đã nghĩ tới giây phút “mình Người” bị trao nộp và “máu Người đổ ra cho muôn người được tha tội”, nhưng Người vẫn coi những việc này là cần phải làm để thiết lập Giáo Ước mới và “thứ rượu mới trong Nước của Thiên Chúa”, cho nên Người vẫn có thể “dâng lời chúc tụng” Chúa Cha. Tiếp đến là đối với thái độ quá tự tin của Phê-rô, Chúa Giê-su chỉ nhẹ nhàng cảnh báo: “Nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. Chính sự bao dung và cảm thông của Chúa Giê-su đã đủ để nhắc nhở ông hối cải, vì sau khi ông nghe tiếng gà gáy thì “sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói” và “ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết”. Trong Vườn Dầu, Chúa Giê-su “buồn đến chết được” và cần các môn đệ “ở lại mà canh thức với Người”, nhưng họ không đáp lại nhu cầu của Người. Vậy mà Người không một lời trách móc, lại còn ân cần nhắn nhủ họ cần phải “canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ”.
Lúc bị bắt trong Vườn Dầu, một lần nữa Chúa Giê-su đối mặt với kẻ phản bội là Giu-đa. Chúa vẫn tỏ ra ân cần với hắn và còn gọi hắn là “bạn”, nhắc nhở hắn về những lời tâm huyết Người thố lộ trong bữa Tiệc Ly: “Thầy gọi anh em là bạn hữu…” (Gio-an 15:15). Đối với hành động nông nổi của Phê-rô khi ông chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, Chúa Giê-su nghiêm khắc dạy dỗ ông bài học lấy đức báo oán và tuân thủ thi hành kế hoạch của Thiên Chúa để “lời Kinh Thánh được ứng nghiệm”.
Trước mặt các nhà lãnh đạo Do-thái, Chúa Giê-su chỉ lặng thinh hoặc nếu bắt buộc phải lên tiếng thì Người chỉ lên tiếng để xác nhận sự thật. Đối với tổng trấn Phi-la-tô, Chúa Giê-su tôn trọng quyền xét xử của ông và để mặc ông hành xử theo tiếng lương tâm. Người không trả lời những lời cáo gian của dân Do-thái, vì Người biết Phi-la-tô đã thừa hiểu cần phải làm gì trước sự bất công ấy. Khi bị đóng đinh trên thập giá, trước những lời nhục mạ của nhóm thượng tếm kinh sư và kỳ mục, Chúa Giê-su lặng thinh và hướng về một mình Thiên Chúa.
Những động lực nào đã giúp Chúa Giê-su có một thái độ “kỳ lạ”, khác hẳn với chúng ta, khi đứng trước đau khổ và bất công như thế? Đó là “để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm”. Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo cuộc Thương khó này trong những “bài ca của người Tôi Trung”. Chúa Giê-su chính là Người Tôi Trung trong Cựu Ước, đặt tất cả tin tưởng vào Thiên Chúa. Động lực chính là “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế tôi trơ mặt ra như đá” (I-sai-a 50:7). Một động lực khác được thánh Phao-lô đề cao trong đoạn thư Phi-líp-phê 2:6-11 nói về Chúa Ki-tô. Chúng ta có thể gọi đây chính là “Người Tôi Trung trong Tân Ước”. “Người còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Sống sứ điệp Tin Mừng
Tín thác vào Thiên Chúa Cha và vâng lời Chúa Cha là những động lực thúc đẩy Chúa Giê-su vui lòng chịu chết cho chúng ta. Nhưng chắc chắn còn một động lực quan trọng khác mà Chúa Giê-su đã nói đến: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Gio-an 15:13). Thiết tưởng chúng ta chỉ suy niệm về tình thương này của Chúa và làm điều gì để đáp lại tình thương ấy, thế là đủ rồi!
Nếu dừng lại ở thương khó và thập giá thì là ngõ cụt đáng sợ hãi và trốn lánh. Nhưng thực tế Đức Giêsu đã vượt qua và đã mở ra con đường tới sự sống và vinh quang. Bề ngoài xem ra là thất bại thê thảm nhưng thật sự là chiến thắng vẻ vang.(les plus grandes défaites sont des plus grandes victoires).
Ai có thể làm được như Đức Giêsu? Vậy không phải là Người đã chiến thắng sao? Trốn tránh hoặc nhờ bạo lực hoặc nhờ sự can đảm anh hùng? Bỏ trốn là hèn nhát. Than van, khóc lóc là yếu hèn. Đương đầu và vượt qua, không khuất phục, vẩn giữ được sự công chính, không làm hại đối phương, vẫn dịu dàng yêu thương và cuối cùng còn cầu nguyện xin Thiên Chúa tha thứ cho họ và hứa nếu họ sám hối thì sẽ được sống. Có phải tuyệt vời không? Ai làm được như Ngưới? Chiến thắng vẻ vang: yêu kẻ thù.
Người Do thái coi thập giá là gương mù. Người Hy lạp coi là điên rồ. Thiên Chúa lại dùng làm khôn ngoan và sức mạnh. Đừng chỉ thấy nơi thương khó và thập giá khốn khổ và sỉ nhục. Hãy suy tư tìm ý nghĩa tiềm ẩn mà Thiên Chúa thực hiện và muốn chúng ta nhìn thấy: sự đương đầu can đảm và vượt thắng tất cả.
Động lực là Tình yêu. Tình yêu mới phi thường.
Tin chắc "tà không thắng chính". Công chính cho đến cùng sẽ chiến thắng dù có bị giết chết cũng sẽ sống lại vinh quang. Thắng vượt mọi cám dỗ bên trong cũng như bên ngoài là chiến thắng toàn diện.
Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường. Thắng thiên binh vạn mã, nhiều người làm được. Tự thắng thì mấy ai?
Bị khổ và chết vì có tội là ác giả ác báo. Chấp nhận vì yêu thương là anh dũng. Chỉ tình yêu mới làm nổi. Đức Giêsu đã chống lại mọi cám dổ cho tới cơn cám dỗ cuối cùng "không làm cứu độ nữa, vất vả quá, xuống khỏi thập giá làm mỗt nguời bình thường" thôi! ĐG không sa chước cám dỗ. Người vượt qua trung kiên đến cùng.
Chiến thắng của Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của việc cứu chuộc. Cứu chuộc là lật lại, đổi lại. Loài người từ thuở ban sơ không vâng phục Thiên Chúa, chóng lại, phản nghịch cùng Thiên Chúa. Bây giờ Đức Giêsu đại diện dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ xứng đáng nhất là hiến tế chính mình làm lễ vật tinh tuyền, không tì ố, không nhiễm một chút nào tội của loài người, làm con chiên vô nhiễm, Cung kính không bằng vâng phuc. Vâng lời trọng hơn của lễ. Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập tự. Là con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không mở miệng.
Tất cả mọi khốn khổ Người chịu là tự nguyện để dâng lên Thiên Chúa sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục của loài người qua mọi thế hệ. Sự vâng phục chuộc sự không vâng phục để ai theo Người thì chuộc được mạng mình bằng đời sống vâng phục.
Chiến thắng của Đức Giêsu là không thua cuộc truớc cái xấu nhờ tình yêu, yêu cả kẻ thù. Kể chuyện.
Một người nhờ một tu sĩ cao thâm dẫn đi tìm một vị thần có thể chỉ cho bí quyết "khỏi đau khổ". Gặp vị thần nầy rồi vị thần nọ, nghe bí quyết nầy bí quyết nọ chỉ con đường "không đau khổ". Nhưng chưa chịu. Tới vị thần chịu treo thập giá thì ông nói "'tôi chịu ông nầy, tôi theo ông nây" vì ông nầy không tránh né mà đương đầu, vuợt qua và chiến thắng. Chỉ có cách nầy là thực hiện được và hiệu quả. Có chịu đau khổ mới cảm thông được với người đau khổ, mới giúp được người đau khổ vượt qua đau khổ. Đau khổ chỉ có thể vượt qua, chiến thắng chứ không thể tránh khỏi. Không có bí quyết để khỏi đau khổ ngoại trừ bí quyết của Đức Giêsu. Người không dạy nhưng trải nghiệm trên chính bản thân mình và kêu gọi đi theo còn hứa luôn ở bên để trợ giúp.
Thập giá là chiến thắng của người công chính can đảm.
Người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, anh mù bẩm sinh được chữa lành và cô Mác-ta, cả ba người đều tuyên xưng Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến. Vậy Đức Ki-tô là Đấng nào và Người phải đến trần gian với sứ mệnh gì? Câu hỏi này được trả lời một cách đầy đủ qua biến cố Chúa Giê-su trải qua cuộc Thương khó, cái chết và Phục Sinh. Trình thuật cuộc Thương khó của Chúa Giê-su cũng là một kết luận về căn tính của Người và trình bày sứ mệnh Người phải hoàn tất khi được sai đến trần gian.
1. “Ông này là ai vậy?” (bài Tin Mừng trước khi kiệu lá – Mt 21:1-11)
Hình ảnh Chúa Giê-su như Thái Tử Hòa Bình mở đầu cho mọi sinh hoạt Phụng vụ Tuần Thánh và Phục Sinh. “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi” (Mt 21:5). Người ngồi trên lưng lừa con, tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem giữa tiếng tung hô của dân chúng. Một người hậu duệ vua Đa-vít được dân chúng coi là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”. Người ta vẫn chưa nhận biết Chúa Giê-su là ai. Tới khi vào Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su cũng vẫn chỉ là “ngôn sứ” quê tại Na-da-rét xứ Ga-li-lê mà thôi.
Giê-ru-sa-lem được coi như trung tâm cứu độ. Cuộc cứu độ được diễn tiến từ nơi đây. Bắt đầu là Bữa Tiệc ly, tiếp theo là biến cố Chúa bị bắt và cuộc xử án bất công, rồi kết thúc là chặng đường thập giá từ nội thành Giê-ru-sa-lem tiến ra ngoại thành, một dấu hiệu ám chỉ ơn cứu độ từ Giê-ru-sa-lem lan tới muôn dân. “Vì thế , Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hóa toàn dân” (Dt 13:12). Việc Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem khởi đầu cho chặng cuối cùng trong hành trình nhận biết căn tính của Người. Do đó, dân chúng đặt lại vấn đề “Ông này là ai vậy?” Và câu trả lời của dân chúng chỉ giới hạn ở hình ảnh ngôn sứ Giê-su, chứ họ không thể đi xa hơn để nhận biết Người là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa”. Đúng vậy, qua cuộc Thương khó khi Chúa Giê-su bị đóng đinh và chết trên thập giá, ta mới nghe được những lời tuyên xưng của dân chúng, của viên sĩ quan Rô-ma và lính canh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54; Mc 15:39).
Con người và sứ mệnh của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, sẽ được biểu lộ đầy đủ và rõ ràng qua cuộc Thương khó, cái chết và Phục Sinh của Người. Đó cũng là điều ứng nghiệm những điều ngôn sứ I-sai-a đã viết (bài đọc Cựu Ước), đồng thời cũng là đề tài suy niệm của thánh Phao-lô Tông đồ (bài đọc Tân Ước).
2. Dung mạo Đức Ki-tô Con Thiên Chúa qua trình thuật Thương khó (Mt 26:14 – 27:66)
Là Con Thiên Chúa, Chúa Giê-su hằng liên kết với Chúa Cha trong mọi sự, đặc biệt là cầu nguyện trước khi bước vào cuộc tử nạn. Việc càng quan trọng, Người càng cầu nguyện tha thiết hơn. Người sống quan hệ với Chúa Cha trong đời sống cầu nguyện. Người cầu nguyện trước khi tuyển chọn Tông đồ, khi làm phép lạ để tỏ ra lòng thương của Thiên Chúa, khi một mình ở nơi thanh vắng và say sưa tha thiết với Chúa Cha. Lúc này cuộc Thương khó là thời điểm khó khăn nhất và đầy thử thách, nên việc cầu nguyện càng quan trọng. Thánh sử ghi lại chi tiết việc Chúa Giê-su cầu nguyện: Người sấp mặt xuống đất, Người cầu nguyện ba lần với cùng một lời cầu nguyện, xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha. Vâng ý Cha và để cho lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, đó là lý tưởng của Đức Ki-tô. Chúa Giê-su vâng ý Cha để trọn đạo làm Con Thiên Chúa. Người thực hiện những điều các ngôn sứ nói để làm Người Tôi Trung của Đức Chúa (Is 52:13-53:12) và làm Người Công Chính đau khổ (Tv 21 và 68), hầu gánh vác và xóa tội trần gian.
Đức Ki-tô tuyên xưng danh phận và sứ mệnh của Người trong cuộc xử án bất công. Trước khi lên Giê-ru-sa-lem, Người đã ba lần tiên báo cuộc tử nạn: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại…” (Mc 10:33). Đứng trước Thượng Hội Đồng gồm các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu, Đức Ki-tô giữ thái độ nhịn nhục, làm thinh trước những lời vu cáo. Người chịu nỗi oan ức để đền thay tội lỗi nhân loại. Vị thượng tế dồn Người vào tình thế quyết liệt: chối bỏ hay nhìn nhận danh phận Con Thiên Chúa và sứ mệnh cứu độ. “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63). Câu trả lời “phải” đã quyết định cho số phận của Người. Đức Ki-tô, Đấng phải đến, đã thưa cùng Chúa Cha: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:9). Ý của Chúa Cha là Chúa Giê-su phải chết để đền thay tội lỗi loài người. Quả thực là lời tuyên xưng đức tin gương mẫu, được đào tạo và rèn luyện từ lời “Xin vâng” của Mẹ Ma-ri-a, đồng thời cũng là khuôn mẫu cho lời tuyên xưng của các vị tử đạo và các Ki-tô hữu muốn nói lên mình là môn đệ Chúa Ki-tô. Để vị thượng tế và Thượng Hội Đồng không hiểu lầm về danh phận và sứ mệnh của Người, Chúa Giê-su còn khẳng định thêm: “Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26:64).
Sau khi tuyên bố mình là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, Chúa Giê-su bị nhục mạ và chối bỏ. Người bị khạc nhổ vào mặt, bị tát và biến thành trò cười. “Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?” (Mt 26:67). Người còn bị chính môn đệ thân yêu Phê-rô chối bỏ ba lần. Tiếp đến, Đức Ki-tô được đánh giá bằng ba mươi đồng bạc của Giu-đa, giá tiền để mua một tên nô lệ. Sau cùng, Đức Ki-tô bị Phi-la-tô đem ra so sánh với một “tên tù khét tiếng”: “Các người muốn ta phóng thích ai cho các người đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô?”
Danh phận Con Thiên Chúa cũng mang lại bao tủi nhục cho Chúa Giê-su, nhất là những phút cuối cùng trên thập giá. Những kẻ qua lại bên đường cho tới các thượng tế, kinh sư và kỳ mục, tên cướp cùng bị đóng đinh, tất cả đều chế giễu Người: “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27:40). Đáp lại những chế giễu đó, Chúa Giê-su lại càng đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Đức Ki-tô, Thiên Chúa làm người, đã kêu lớn tiếng: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Phải chăng đây là lời trách móc Thiên Chúa? Không phải đâu, nhưng những lời ấy chỉ nói lên tâm trạng con người bị cám dỗ đừng tin vào Thiên Chúa. Mà lòng tin của Chúa Giê-su làm sao sụp đổ được. Đúng là “cơn cám dỗ cuối cùng” (The Last Temptation)! Thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết vô cùng ý nghĩa: “Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn” (Mt 27:50). Vậy “một tiếng lớn” đó là tiếng gì? Mát-thêu không thể lấy ngôn ngữ loài người mà diễn tả nổi, vì đó là tiếng “xin vâng” quá vĩ đại của lịch sử nhân loại đã nói lên lòng tin vô cùng lớn lao của Đức Ki-tô Con Thiên Chúa. Người trút hơi thở cuối cùng trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng sai Người đến trần gian để chuộc tội nhân loại.
Đức Ki-tô Con Thiên Chúa đã trải qua một cuộc Thương khó kinh hoàng để minh chứng danh phận và sứ mệnh của Người. Kết thúc cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, danh phận và sứ mệnh Đức Ki-tô Con Thiên Chúa đã được khẳng định qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rô-ma và đám lính canh của ông ta: “Quả thực ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54).
3. Dung mạo Đức Ki-tô Con Thiên Chúa qua lời ngôn sứ I-sai-a và thánh Phao-lô Tông đồ (bài đọc Cựu Ước – Is 50:4-7 và bài đọc Tân Ước – Pl 2:6-11)
Nếu ta đã có thể chiêm ngưỡng dung mạo Đức Ki-tô qua trình thuật Thương khó sống động của thánh sử Mát-thêu, thì ta cũng có thể suy niệm về sứ mệnh của Đức Ki-tô qua lời ngôn sứ I-sai-a và thần học gia Phao-lô. Trước hết, bài ca thứ ba về Người Tôi Trung trong sách I-sai-a đã được sử dụng để ca ngợi những đức tính của Chúa Giê-su. Thái độ của Chúa Giê-su đối với Thiên Chúa là thái độ của “người môn đệ” đối với Thầy dạy mình. Người môn đệ chỉ “nói năng” và “lắng nghe” những gì Thầy mình dạy bảo. Nói khác đi, người môn đệ hoàn toàn tin tưởng nơi Thầy mình, “không cưỡng lại, không tháo lui”, quyết một lòng vâng theo những định đoạt của Thầy mình. Ta có thể nhìn lại cuộc đời thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Ki-tô để nhận thấy Người đã nói năng và lắng nghe Thiên Chúa như thế nào. Người chính là miệng và đôi tai của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất trong những đức tính của Người Tôi Trung là hoàn toàn phó thác trong tay Thiên Chúa. Trong cơn bách hại, Chúa Giê-su vẫn một lòng tin tưởng: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã chẳng hổ thẹn…” (Is 50:7). Mà đúng vậy, trong khi bị đánh đòn, xỉ nhục, Chúa Giê-su vẫn “trơ mặt ra như đá”, không kêu than mắng chửi trả lại kẻ hành hạ mình.
Nếu I-sai-a tôn vinh lòng tin và phó thác của Đức Ki-tô vào Thiên Chúa, thì Phao-lô lại đi vào chiều sâu thần học, đề cao lòng khiêm nhượng tự hạ và vâng lời của Đức Ki-tô (Pl 2:6-11). Trước hết Đức Ki-tô đã “trút bỏ vinh quang” làm Con Thiên Chúa trên trời để đến trần gian “trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế”. Từ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” tụt xuống làm “thân nô lệ” thì quả thực không có sự tự hạ nào trên thế giới này sánh nổi. Sự hạ mình và khiêm nhượng ấy đã đạt tới cực điểm khi Chúa Giê-su trả lời “xin vâng” với Thiên Chúa để nhận lấy cuộc Thương khó và cái chết khổ nhục trên thập giá. Suy niệm của Phao-lô về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã dừng lại ở việc Thiên Chúa tôn vinh Người Con Yêu Dấu bằng danh hiệu “Giê-su”, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ và việc muôn loài tuyên xưng “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. Suy niệm của thánh Phao-lô về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã đi vào truyền thống Phụng vụ như một Điệp ca được lập đi lập lại trong những ngày Tam Nhật Vượt Qua vậy.
4. Sống Lời Chúa
Trình thuật Thương khó không chỉ là một câu truyện lịch sử, nhưng phải là một suy niệm sâu xa về danh phận và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Tất cả ý nghĩa của Phụng vụ Tuần Thánh là để cử hành Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng phải đến để cứu độ muôn người. Tham dự các nghi lễ Tuần Thánh và Phục Sinh không phải chỉ làm để giữ luật Giáo Hội, nhưng là sống chính ơn cứu độ ta nhận lãnh được do tình yêu Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Phi-la-tô hỏi dân chúng Do-thái rằng: “Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây?”, họ đã xin ông ta cho đóng đinh Chúa Giê-su. Còn tôi, tôi sẽ trả lời Phi-la-tô như thế nào? Tôi sẽ sống câu trả lời của tôi làm sao?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Đấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc Thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật Lễ Lá)
“Được thời thân thích chen chân đến. Thất thế hương lân ngảnh mặt đi” – một vần thơ trong bài „Thói Đời” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một vần thơ lột tả được sự tráo trở trong thái độ sống của con người và chua xót hơn nữa khi đó lại là người đồng hương, thân bằng quyến thuộc! …
Chúa nhật Lễ Lá – một ngày lễ tràn đầy phấn khởi hân hoan nhưng cũng chứa đầy mâu thuẫn. Một ngày lễ có thể mô tả cho chúng ta hiểu thế nào là thế thái nhân tình. Trước tiên là một cảnh náo nhiệt của ngày đại lễ. Tất cả đều nôn nức đổ xô ra đường, tay cầm cành lá, kẻ trước người sau reo hò vang dậy: „Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Đức Chúa!” Nhưng tiếp sau đó là sự mâu thuẫn, đối đầu, phản bội, tráo trở giống như trở bàn tay. Những người trước đó rộn rã tung hô „Chúc tụng con vua Đavít!” , bây giờ lại thay đổi luận điệu chối rằng: „Chúng tôi chẳng có vua nào cả ngoài Xêda. Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Con người là thế. Chúng ta cũng vậy thôi. Tất cả đều là „cá mè một lứa”. Ngày xưa đã thế, ngày nay cũng rứa, mai này cũng thế thôi! Chúa nhật Lễ Lá - hình ảnh phản chiếu lối suy nghĩ và thái độ sống của con người và của từng cá nhân.
Hình ảnh nổi bật trong ngày hôm nay chính là hình ảnh của Phêrô. Lời chúc tụng của Chúa nhật Lễ Lá có thể đem so sánh với lời tuyên xưng của ông trước đó: „Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã.” Chẳng bao lâu sau ông thốt lên những lời độc địa và thề rằng: „Tôi thề là không biết người các ông nói đó!”. Nhưng có một bước ngoặt trong thái độ và nếp sống của ông. Đó là điều khác biệt giữa ông và những người đã phản bội và lên án tử Đức Giêsu. Ông đã khiêm tốn nhận biết lỗi lầm, thống hối ăn năn. „Ông chạy ra ngoài khóc lóc thảm thiết”.
Nơi Giuđa cũng hiện rõ nét của sự thay hình đổi dạng trong cảm xúc. Dĩ nhiên trong cuộc sống của ông đã có những lúc hạnh phúc, lòng tràn đầy niềm vui. Ông đã chấp nhận từ bỏ tất cả để theo chân Đức Giêsu. Nhưng rồi lòng nhiệt thành, niềm vui thuở ban đầu đã tàn lụi. Ông đến với các thượng tế thương lượng rằng: „Tôi nộp ông ấy cho quí vị, thì quí vị muốn cho tôi bao nhiêu”. Cũng giống như Phêrô, nơi ông cũng có một bước ngoặt, nhưng không đưa đến thống hối ăn năn mà là tuyệt vọng. Hành trình theo Đức Giêsu của Phêrô trải qua ba giai đoạn: phấn khởi, phản bội và thống hối. Hành trình của Giuđa cũng có ba giai đoạn nhưng có một sự khác biệt rất lớn: phấn khởi, phản bội và tuyệt vọng!
Hai bộ mặt tương phản của ngày Lễ Lá cuối cùng được thể hiện nơi quan Philatô. Ông dường như muốn trao trả tự do cho Đức Giêsu. Vợ của ông cũng thối thúc ông làm điều đó. Ông đã lấy nước rửa tay trước mặt mọi người và tuyên bố: „Ta vô can trong vụ dổ máu người này”. Nhưng ông không trung thành giữ thái độ này! Bài Thương Khó của ngày Lễ Lá còn tường thuật nhiều nét mâu thuẫn, tương phản khác nữa. Đó là tương phản giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu chết trên thập giá, nhưng cái chết của Người lại là sự sống dành cho chúng ta: „Đất tung, đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy”.
Chúng ta sẽ khám phá ra bộ mặt thật của chính mình như người đứng trước gương khi chúng ta cử hành nghi thức của Chúa nhật Lễ Lá – một ngày đầy mâu thuẫn, tương phản, một ngày giống như gương soi. Trong cuộc sống của chúng ta đã có những lúc rộn rã lời chúc tụng. Chúng ta đã sẵn sàng nhảy vào biển lửa, sẵn sàng chết vì đức tin. Nhưng rồi lại có những lúc khô khan nguội lạnh, tráo trở giống như dân Do thái xưa, giống như Phêrô, Giuđa và quan Philatô. Tuy là vậy nhưng chính hình ảnh của Phêrô mang lại cho chúng ta một tia hy vọng: „Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết”. Chúng ta được mời gọi sám hối ăn năn. Cửa mồ sẽ mở ra. Đức Giêsu chờ đợi chúng ta. Ngài sẽ nhìn thấu tâm can chúng ta. Ngài chính là Đấng mở cửa mồ, và sự chết của Ngài mang lại sự sống vĩnh cửu cho chúng ta.
Suy niệm về chân tính Chúa Giê-su qua bài Tin Mừng của các Chúa Nhật mùa Chay đưa ta tới cuộc Thương khó của Người. Suy niệm về cuộc Thương khó của Chúa Giê-su không phải là dễ. Nếu tách rời ta ra khỏi cuộc Thương khó của Chúa, ta sẽ giống như một khán giả đứng ngoài cuộc mà xem tuồng Thương khó, không hơn không kém. Nhưng nếu sống với Chúa trong cuộc Thương khó này, ta mới có thể cảm nghiệm được mối thao thức yêu thương và khao khát của trái tim Thiên Chúa được biểu lộ qua những khổ đau thể xác và tinh thần nơi Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, giúp ta nhận biết sứ điệp của Thiên Chúa muốn nói với ta qua cuộc Thương khó của Con Một Người. Vậy Thiên Chúa nói gì với ta qua đau khổ và cái chết của Chúa Giê-su?
a) “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Cuộc Thương khó là lời mặc khải mạnh nhất của Thiên Chúa muốn nói với ta nỗi lòng của Người: Thiên Chúa yêu ta. Chẳng có ai trên đời đã chọn phương thức này để bộc lộ tình yêu. Nếu người ta có bày ra “khổ nhục kế” thì cũng chỉ vì có lợi cho mình, vì muốn chiếm được trái tim của người họ muốn. Còn tình Thiên Chúa yêu ta là vô điều kiện, vô vị lợi và hoàn toàn vì Người muốn cho ta được điều tốt, tức là được cứu chuộc và sống hạnh phúc đời đời. Tình yêu ấy nhận ra được qua Chúa Giê-su, nhất là trong cuộc Thương khó của Người.
Suy niệm về cuộc Thương khó, ta thường nghĩ đến những khổ hình và chế giễu người khác làm cho Chúa Giê-su, thí dụ Giu-đa bán Chúa, ông Phê-rô chối Chúa, quân dữ bắt, đánh đập và đóng đinh Chúa, đám Pha-ri-sêu nhạo cười Chúa... Nhưng ít khi ta nghĩ đến những tâm tình của chính Chúa Giê-su, đến tình yêu của Thiên Chúa bừng cháy trong tâm hồn Người giúp Người đối phó với bạo lực và đau đớn.
Với sứ mệnh được sai đến trần gian để tỏ ra cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã cho ta biết bao nhiêu cơ hội để nhận biết sứ điệp tình yêu ấy. Ta thấy Thiên Chúa yêu ta qua sự kiện Chúa Giê-su nhất quyết trung thành với kế hoạch của Chúa Cha. Qua tất cả tư tưởng, lời nói và hành động của Chúa Giê-su, ta đọc được tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu nhân loại khi Chúa Giê-su ưu tiên chăm sóc người nghèo và yếu đau bệnh tật. Khi Chúa Giê-su phải đối phó với giáo quyền Do-thái để bênh vực những người bị đè nặng do áp lực của những lề luật vô nghĩa. Khi Chúa Giê-su bất chấp việc giữ ngày sa-bát để cứu chữa những người mù lòa đau ốm hoặc đã chết. Khi Chúa Giê-su không cần giữ kẽ, nhưng cứ lui tới và để tâm tới những người tội lỗi, bị xã hội khinh chê... Giờ đây, trong cuộc Thương khó, tột đỉnh của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ rõ ràng: Thiên Chúa yêu nhân loại, không chỉ “ban Con Một” mà thôi, nhưng còn vui lòng “để mất Con Một” trong cuộc Thương khó nữa.
Hiểu như vậy, ta sẽ nhận ra khía cạnh chủ động của Thiên Chúa và lòng nhiệt thành của Chúa Giê-su trong cuộc Thương khó của Người. Tình yêu đích thực không thụ động, nhưng luôn chủ động. Chúa Giê-su chịu cuộc Thương khó, không phải chỉ là “bị” người ta hành hạ và giết đi, nhưng hơn thế nữa, là hành động của người tự ý “hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
b) Cuộc Thương khó biểu lộ sống động chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa
Là tín hữu, khi nhớ lại những chi tiết biến cố Thương khó của Chúa Giê-su, ta có thể mang nhiều tâm tình như kinh sợ, buồn, đau đớn vì tội lỗi ta đã phạm, cảm tạ, yêu mến. Tuy nhiên các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng, cho thấy rõ ràng cuộc Thương khó không chỉ có tính cách cá nhân hoặc riêng tư, nhưng sức mạnh và hiệu quả của cuộc Thương khó còn mang chiều kích to lớn, ảnh hưởng tới toàn thể gia đình nhân loại. Quá thu hẹp vào phạm vi cá nhân, nhiều khi ta không nhận thấy được sự bao la của cuộc Thương khó, hay nói khác đi ta không hiểu được mức độ dài rộng cao sâu của tình yêu Thiên Chúa. Cuộc hấp hối trong Vườn Dầu và cái chết của Chúa Ki-tô không chỉ nói lên sự dấn thân tuyệt đối của một người cho chính nghĩa tôn giáo. Nhưng như thánh Phao-lô diễn tả, Chúa Ki-tô tuy là thân phận ngang hàng với Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác phàm nhân, vâng lời và chết trên thập giá để hòa giải toàn thể nhân loại với Thiên Chúa. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su nói về cái chết của Người, về việc đổ máu ra để khởi đầu cho một Giao Ước mới để đem lại ơn tha thứ tội lỗi và đưa con người về lại với Thiên Chúa. Thánh Mát-thêu hiểu rõ điều này. Ngài mô tả sống động những gì xảy ra khi Chúa Giê-su tắt thở: màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi và người chết sống lại. Nói khác đi, kể từ nay trở đi, không còn bức màn ngăn cách Thiên Chúa với con người nữa, và quyền lực của sự chết cũng không còn nữa.
Vậy tất cả những gì xảy ra trong cuộc Thương khó không chỉ mang tính cách lịch sử, nhưng là những biểu lộ đích thực nói cho ta biết Thiên Chúa yêu ta đến mức độ nào. Chúng cho ta biết Thiên Chúa, bằng bất cứ giá nào, không muốn con người bị hư đi, nhưng Người phải cứu vớt, dù phải hy sinh chính Con Một.
Tới đây, ta mới nhận ra cách sắp đặt tài tình của Phụng vụ Lời Chúa, với các bài Tin Mừng đã dẫn ta suy niệm về Chúa Giê-su qua những danh hiệu khác nhau: Đấng Mê-si-a, Đấng Cứu độ, Đấng Ki-tô, Con Người, và cuối cùng là Con Thiên Chúa. Giáo Hội mời gọi dừng lại ở cuộc Thương khó của Con Thiên Chúa là muốn ta nhận biết tình yêu vô biên và vô điều kiện của Thiên Chúa đã ở tột đỉnh rồi. Vì thế, ta không nên chỉ đứng ngoài như những tên lính “nhìn Đấng chúng đã đâm thâu qua”, nhưng là tìm đến tận trái tim của Chúa Giê-su, một trái tim bằng thịt của Thiên Chúa vô hình, để cảm nghiệm sâu xa được sứ điệp tình yêu của cuộc Thương khó và hết lòng đáp đền tình yêu của Đấng là Tình Yêu.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã có những tâm tình nào khi suy niệm cuộc Thương khó của Chúa Giê-su?
Cuộc Thương khó là một thách đố cho mọi môn đệ Chúa Giê-su, liệu họ có dám tiếp tục gắn bó với Người khi hầu hết đã chống Người hoặc bỏ Người. Vậy thách đố ấy có nghĩa gì đối với tôi? Làm sao tôi ở với Chúa trong cuộc Thương khó của Người? Nói khác đi, làm sao tôi kết hiệp đau khổ của tôi với cuộc Thương khó của Chúa?
Cuộc Thương khó cũng là một thử thách cho sứ mệnh, của Chúa và của tôi. Vậy sứ mệnh của tôi là gì? Tôi có để cho cuộc Thương khó của Chúa củng cố sứ mệnh của tôi không? giúp tôi trung thành với sứ mệnh không?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chú bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 64)
Trước khi học hỏi và suy niệm bài đọc Tân Ước của Chúa Nhật Lễ Lá, có lẽ chúng ta thử tò mò nhận xét một chi tiết tuy nhỏ, không mấy ai để ý tới, nhưng lại rất quan trọng, trong các giờ kinh sáng và chiều của Các Giờ kinh Phụng vụ Tam Nhật Vượt Qua. Đó là phần Xướng đáp trích đoạn thư Pl 2:6-11 và diễn tiến như sau:
- Kinh chiều Thứ V Tuần Thánh: "Vì ta, Đức Ki-tô đã sống phục tùng Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết."
- Kinh sáng & chiều Thứ VI: "Vì ta, Đức Ki-tô đã sống phục tùng Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, Chết trên cây thập tự."
- Kinh sáng & chiều Thứ VII: "Vì ta, Đức Ki-tô đã sống phục tùng Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, Chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Và tặng ban danh hiệu Trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu."
Rõ ràng Các Giờ kinh Phụng vụ muốn diễn tả ý nghĩa nền tảng của Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh, phù hợp với diễn tiến Phụng vụ Tuần Thánh, bằng cách mỗi ngày thêm một câu (hoặc cụm từ), từ Đức Ki-tô "sống phục tùng đến nỗi bằng lòng chịu chết" đến thực sự "chết trên cây thập tự", và vì thế Người được Thiên Chúa "siêu tôn" và "tặng ban danh hiệu". Tư tưởng của thánh Phao-lô hoặc bài thánh thi của Hội Thánh sơ khai, được sử dụng như cái sườn hoặc dàn bài cho những suy niệm và cầu nguyện trong tất cả Tuần Thánh. Như vậy chúng ta có thể hiểu được tầm quan trọng của bài đọc Tân Ước hôm nay như thế nào.
Để ngộ được ý nghĩa sâu xa của việc Đức Ki-tô đã "trút bỏ vinh quang", trước hết chúng ta cần tâm niệm Đấng Cứu Thế của chúng ta có hai bản tính: Thiên Chúa và con người. Đức Ki-tô là Thiên Chúa làm người. Ngài đã hạ mình thật thấp để thay măt cho loài người chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha và Ngài đã hoàn toàn vâng phục để chúng ta không những được ơn tha thứ của Thiên Chúa, mà còn được chia sẻ với bản tính Thiên Chúa. Hai bản tính liên kết chặt chẽ trong Ngôi Hai đã cùng hành động để thực hiện kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa.
Chắc chắn Ki-tô hữu chúng ta cảm thấy được an ủi và phấn khởi vì biết rằng tình Chúa yêu thương chúng ta thật vô bờ qua mầu nhiệm Nhập Thể. Thiên Chúa của chúng ta không sống xa cách, lạnh nhạt, nghiêm khắc như quan tòa, biên chép ghi lại tội lỗi chúng ta để phạt chúng ta xuống hỏa ngục. Nhưng Người là Thiên Chúa yêu thương, sai Con Một đến để sống với chúng ta, để chết cho chúng ta và để đưa chúng ta về nhà Cha. Thử hỏi có tư tưởng lớn nào hoặc bộ óc siêu việt loài người nào có thể phát minh được một kế hoạch kỳ diệu như vậy để biểu lộ tình yêu không? Chỉ có tâm can Thiên Chúa mới cho chúng ta một thứ "bằng chứng" tình yêu như vậy thôi.
Đức Ki-tô là bằng chứng tình yêu ấy. Ngài đã "làm chứng" bằng cả cuộc đời Ngài. Vì ta. Ngài đã đến, đã sống, đã rao giảng, đã chết, tất cả là vì chúng ta và cho chúng ta. Kinh Tin kính đã khẳng định điều này: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế,... Cuộc sống và cái chết của Đức Ki-tô được gồm tóm trong hai tiếng "phục tùng". Không phải phục tùng do áp lực của sức mạnh, nhưng do động lực của lòng yêu mến Thiên Chúa và loài người. Phục tùng trong yêu thương giúp Đức Ki-tô "bằng lòng chịu chết", một hành vi của ý chí. Rồi từ ý chí chuyển sang hành động: Ngài đã thực sự chết trên cây thập tự.
Sau khi nêu lên tấm gương phục tùng của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô hướng về chúng ta. Ngài viết: "Vậy, anh em là những người luôn luôn vâng phục..., anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người" (c. 12-13). Từ những lời này, chúng ta càng thấy rõ hơn những gì phải làm, phải sống. Chúng ta có thể hiểu những lời của thánh Phao-lô như thế này: "Nếu tôi muốn sống như người con cái vâng phục Thiên Chúa, thì tôi phải biết khiêm nhượng, tôn kính Chúa (= run sợ) và tích cực hành động để góp phần cộng tác của mình vào ơn cứu độ Thiên Chúa đã dành cho mình." Nhưng điều quan trọng là chúng ta có để cho lòng yêu thương của Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của chúng ta hay không.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đoạn thư Pl 2:6-11 sẽ giúp tôi chuẩn bị tham dự các nghi thức và cử hành Phụng vụ Tuần Thánh như thế nào? Đây có phải là tư tưởng chính hướng dẫn tôi hiểu ý nghĩa mầu nhiệm Đức Ki-tô và đặc biệt cử hành mầu nhiệm ấy trong Tuần Thánh không? Tại sao?
Bài đọc Tân Ước hôm nay đã để lại nơi tôi hình ảnh nào về Đức Ki-tô? Hình ảnh ấy nói gì với cá nhân tôi?
"Vì loài người" là lý tưởng sống của Đức Ki-tô. Lý tưởng này cũng mời gọi tất cả chúng ta lấy làm lý tưởng của mình. Vậy tôi đã chấp nhận và đã sống lý tưởng ấy như thế nào?
Mỗi lần suy niệm về tình Chúa yêu thương, chúng ta cần phải ý thức tình yêu thương ấy đã tác động đến ý chí và hành động của chúng ta như thế nào. Tôi đã thực sự ý thức điều này chưa và tôi đã để cho tình yêu Chúa tác động tới mức độ nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thánh ca mùa Chay.
* Bài đọc 1: Is 50,4-7: Bài ca người tôi trung (bài thứ ba)
(4) Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đáng thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. (5) Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không còn cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. (6) Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. (7) Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
* Bài đọc 2: Pl 2,6-11: Đức Giê-su tự hạ và được Thiên Chúa siêu tôn
(6) Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, (7) nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (8) Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (9) Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (10) Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; (11) và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa"
* Bài Tin Mừng: Mt 26,14 - 27,66: Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su:
Bài tường thuật Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát thêu rất đầy đủ và xúc động theo tiến trình dưới đây:
Giu-đa nộp Đức Giê-su (26,14-16) - Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (26,17-19) - Đức Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thày (26, 20-25) - Đức Giê-su lập bí tích Thánh Thể (26,26-29) - Đức Giê-su tiên báo thánh Phê-rô sẽ chối Thày (26,30-35) - Đức Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-si-ma-ni (26,36-46)- Đức Giê-su bị bắt (26,47-56) - Đức Giê-su ra trước Thượng Hội đồng (26,57-67) - Thánh Phêrô chối Thày (26,69-75)- Đức Giê-su bị giải đến tổng trấn Phi-la-tô (27,1-2) - Giu-đa đi thắt cổ (27,3-10)- Đức Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (27,11-26) - Đức Giê-su phải đội mạo gai (27,27-31) - Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (27,32-38) - Đức Giê-su bị nhục mạ (27,39-44) - Đức Giê-su trút linh hồn (27,45-56) - Mai táng Đức Giê-su (27,57-61) - Lính canh mồ (27,62-66).
1. Tại sao người ta giết Đức Giê-su? 2. Cái chết của Đức Giê-su có ý nghĩa gì đối với chúng ta và đối với Thiên Chúa?
* Suy tư gợi ý
1. Có nhiều lý do khiến người ta giết Đức Giê- su:
- Cả bốn Phúc Âm đều nói về âm mưu giết hại Đức Giê-su của các thượng tế và kỳ mục trong dân Ít- ra-en. (Mt 26,1-5; Mc 14,1-2; Lc 22,1-2; Ga 11,45-53) Tại sao vậy?
- Bốn Phúc Âm cung cấp cho chúng ta đầy đủ các dự kiện để chúng ta hiểu được tại sao các thượng tế và kỳ mục, các phe phái lãnh đạo Đền Thờ chẳng những không ưa gì Đức Giê-su mà thậm chí còn căm ghét Người đến độ họ quyết chí không để cho Người tồn tại. Cái chết của Đức Giê-su có ba nguyên nhân chính sau đây:
(1) Lý do thư nhất khiến Đức Giê-su bị người Do Thái không ưa và tìm cách giết hại là vì Người đã giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, làm phép lạ như một Vị Đại Ngôn Sứ có quyền uy thiêng liêng của Thiên Chúa. Hơn nữa, Đức Giê-su lại hành động một cách hết sức tự do và bất ngờ, khiến các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời không thể kiểm soát và khống chế được Người. Sự kiện này làm cho địa vị và quyền lợi của họ bị đe dọa trầm trọng, khiến họ phải tìm cách ra tay trước khi quá muộn!
(2) Lý do thứ hai khiến Đức Giê-su bị người Do Thái không ưa và tìm cách giết hại là vì Người không những đã chẳng nể nang gì những người có chức quyền trong xã hội-tôn giáo lúc bấy giờ, mà còn nặng lời xỉ vả họ và tố cáo cách sống gỉa hình, nô lệ luật lệ của họ một cách công khai trước mặt quần chúng, khiến họ chẳng còn chút danh dự, uy tín gì nữa. Đức Giê-su đã ví cách sống gỉa hình, hai mặt của họ như những mồ mả tô vôi quét sơn bên ngoài rất đẹp, nhưng bên trong chỉ có xác thối mà thôi. Đức Gi6e-su đã căn dặn dân chúng là thực hành những điều họ dạy trên tòa giảng, nhưng đừng bắt chước cách sống của họ, vì họ giảng dạy mà không sống theo lời giảng dạy! Trầm trọng hơn nữa Đức Giê-su còn dùng nhiều dụ ngôn để ám chỉ rằng họ không xứng đáng vào Nước Trời, không được Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa ban cho. Những khẳng định này đánh thẳng vào niềm kiêu hãnh dân tộc của họ vì giới lãnh đạo Do thái đương thời vẫn đinh ninh rằng họ là con cái Ab-ra-ham, là miêu duệ Đa -vít, là người thừa kế gia tài của Đấng Cứu Thế sẽ đến từ dòng dõi Đa-vít.. Tự ái dân tộc (hiểu là dân tộc riêng của Thiên Chúa) bị xúc phạm thì kẻ xúc phạm đáng phải trả giá càng sớm càng tốt!
(3) Lý do thứ ba khiến Đức Giê-su bị người Do Thái không ưa và tìm cách giết hại là vì trong các bài giảng ở đây đó, Đức Giê-su tuyên bố Người từ Thiên Chúa mà đến, Người là Con Một Thiên Chúa, Người có quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Người hành xử giống như Thiên Chúa. Những khẳng định ấy khiến các chức sắc Do thái giáo thấy Thiên Chúa của Đức Giê-su có một dung mạo hoàn toàn khác với Thiên Chúa mà não trạng, quan niệm, truyền thống của họ vẫn tô vẽ ra từ trước tới giờ. Hơn nữa, Đức Giê-su không chỉ khẳng định xuông bằng lời nói, mà Người đã hành động một cách cụ thể, công khai y như những lời tuyên bố ấy. Chúng ta thấy Người gần gũi đám đông quần chúng như thế nào, nhất là những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người bị coi là tội lỗi hay bị khinh rẻ trong xã hội lúc bấy giờ như các mục đồng, phụ nữ và trẻ thơ, nhân viên thu thuế, các cô gái điếm, những kẻ hoang đàng, những người mắc bệnh phong cùi, v.v. Rao giảng và sống như thế là Đức Giê-su đã đi ngược với xác tín tôn giáo của giới lãnh đạo Đền Thờ và đã mắc tội phạm thượng, đáng phải chết!
Vì ba lý do trên, Đức Giê-su đã rơi vào thế đối đầu với "quyền lực" tôn giáo là thứ quyền lực gần như tuyệt đối thời bấy giờ. Trong tương quan lực lượng giữa một bên là quyền-lực-bạo-lực và một bên là vị ngôn sứ của Thiên Chúa, thì đương nhiên chiến thắng thuộc về phía quyền lực: Đức Giê-su đã bị triệt hạ! Nhưng lịch sử không chỉ dừng ở đây..
2. Cái chết của Đức Giêsu có nhiều ý nghĩa:
Cái chết của Đức Giê-su có ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối với loài người mà còn đối với chính Thiên Chúa nữa:
* Đối với Thiên Chúa:
Qua cuộc sống và nhất là qua cái chết thập gía của Đức Giê-su, Tình Yêu điên cuồng của Thiên Chúa đối với loài người -với mỗi người và mọi người- được mạc khải cho con người thuộc mọi dân tộc, mọi thời đại. Bất cứ ai đọc lại câu chuyện Phúc Âm đều thấy đúng như lời Đức Giê-su đã nói với ông Ni-cô-đê-mô: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một ." (Ga 3,16) và với các môn đệ: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Tâm tình mà chúng ta phải có cho xứng hợp ở đây là tâm tình cảm tạ, tri ân đối với Thiên Chúa và Đức Giê-su!
* Đối với loài người chúng ta:
Nhưng qua cuộc sống và nhất là qua cái chết thập gía của Đức Giê-su, chúng ta không chỉ nhân ra Tình Yêu của Thiên Chúa mà còn nhận ra gía trị của chúng ta, của mỗi một con người, dù người ấy bé nhỏ, hèn mọn, tội lỗi mấy đi nữa. Tâm tình mà chúng ta phải có cho xứng hợp ở đây là tâm tình kính trọng, yêu thương đối với hết mọi người, nhất là những người thấp kém, nghèo hèn, tội lỗi!
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su và Cha chúng con, chúng con cảm tạ Cha đã yêu thương chúng con ngoài sức tưởng tượng của chúng con! Xin Cha giúp chúng con biết đón nhận Tình Yêu của Cha và xin Cha dạy chúng con biết cách "lấy tình yêu đáp lại tình yêu" của Cha!
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa, vì qua cuộc sống và nhất là qua cái chết thập gía của Chúa, chúng con không những nhận ra Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng con, mà chúng con còn nhận ra gía trị của loài người chúng con nữa. Xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận Tình Yêu của Chúa và xin Chúa dạy chúng con biết cách "lấy tình yêu đáp lại tình yêu" của Chúa! Cũng xin Chúa giúp chúng con thực thi "giới luật mới" mà Chúa đã để lại cho chúng con, nhất là đối với những người mà chúng con không ưa, không thích cũng như với những người nghi kỵ, ghét bỏ, và làm hại chúng con, để cứ dấu bác ái, yêu thương này mà mọi người nhận ra chúng con là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá!
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi qua các chặng đường của mùa chay. Hôm nay, chúng ta hãy theo Chúa vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Chúa nhật lễ lá, kỷ niệm việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng kéo nhau nghênh đón Chúa Giêsu cách long trọng. Hôm nay, họ làm cử chỉ rất đẹp đối với Chúa nhưng thứ sáu tới đây chính họ là người đòi giết Chúa, hô hào đòi đóng đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô nhưng thứ sáu họ lại chế nhạo, kết án Chúa. Vào thành Giêrusalem lần này, dân chúng trải áo choàng trên đường, trải những nhánh lá cây trên đường để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng họ tung hô Chúa: "Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến". Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu thinh lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị Vua nhưng khiêm hạ ngồi trên lưng lừa con. Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, không như họ nghĩ là vua phần xác, chỉ đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ Rôma. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình yêu thương và hòa bình.
Đi vào bầu khí cầu nguyện trong cử hành phụng vụ ngày lễ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu khi nghe các bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Ngài. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật Lễ Lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án, bị vác thập giá và cuối cùng bị treo chết trên núi Sọ như một tên trọng tội.
Suy gẫm về cảnh tượng này, chúng ta có thể tự vấn lòng mình, nếu chúng ta là người đương thời thì chúng ta không tham gia hay không liên quan gì đến vụ án cái chết của Chúa Giêsu không? Chắc gì chúng ta như ông Simon Kyrênê vác đỡ thập giá Chúa Giêsu?! Chắc gì chúng ta không đứng về phía dân chúng hô hào tham gia đòi giết Chúa Giêsu, không là Phêrô hay nhóm các môn đệ trốn chạy hay là Philatô kết án người vô tội hoặc là toán quân lính đánh đòn Chúa Giêsu. Kinh nghiệm con người cũng cho thấy, chúng ta dễ dàng đứng về phe mạnh thế, không dám lên tiếng bênh vực cho kẻ yếu thế, can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng nhưng lại dễ dàng phản bội Chúa khi gặp nghịch cảnh.
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu là một hành động tội ác của những người Do Thái và Rôma thời bấy giờ. Những người Do Thái này đã từng kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các quân lính Rôma đã đánh đập, tra tấn và giết Chúa Giêsu trên cây thập giá. Nhưng dưới cái nhìn của những người có đức tin thì quả thật cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Không mầu nhiệm sao được vì một cách nào đó người có niềm tin cũng tự thấy mình có tham gia vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng rằng "Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu độ chúng ta". Thế nên cho dù sống trong thời đại này thì tội lỗi, tật xấu của chúng ta cũng là nguyên nhân tham gia vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Thế nên, bước vào tuần thương khó là dịp chúng ta suy niệm về thập giá của Chúa Giêsu. Nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó, nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của chúng ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của chúng ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của con người và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Việc suy niệm này còn giúp chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống của mình. Khi chúng ta đón nhận những đau khổ trong cuộc sống như là thập giá của Chúa Giêsu trao cho thì đó là cách chúng ta đang đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi qua và đã làm nên chiến thắng. Con đường thập giá là đau khổ nhưng khi cùng với Chúa ta bước đi thì đau khổ sẽ thành thánh giá và nó sẽ dẫn chúng ta vào vinh quang với Người. Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Chúng ta hãy kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức"(Cl 1, 24). Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con người. Xin giúp chúng con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
Một trong những cảnh làm tôi khó quên trong phim phem Titanic là cảnh Rose và Jack cùng đeo một tấm ván lênh đênh trên mặt biển, nhưng vì tấm ván quá nhỏ không thể "cõng" nỗi sức nặng của hai người. Nên Jack chấp nhận hy sinh để cho người yêu được sống. Anh buông tay khỏi tấm ván và chìm nhanh vào trong biển lạnh trong sự đau đớn của Rose. Jack đã làm một nghĩa cử rất anh hùng mà đến chết Rose cũng thể quên được.
Đó là một chuyện tình rất đẹp, vượt trên mọi ngăn cản của thế lực, của bạc tiền.
Phải chăng đây chính là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại - một tình yêu cao cả đến hy sinh mạng sống vì người mình yêu?
Ngày nay người ta thích nói về tình yêu, nhưng ít ai dám hành động cho tình yêu. Nếu đó là một nhận xét đúng thì thật sự chúng ta đã đến gần sự chết hơn là sự sống. Nhưng may thay đó là chuyện của con người. Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Ngài đã nói về tình yêu và Ngài cũng dám hành động cho điều mình nói. Mà hành động của Ngài chẳng tầm thường nếu không nói là vượt xa những gì con người có thể hiểu được. Ngài đã chọn cái chết đau thương để cho nhân loại được sống. Chỉ có Ngài dám làm như vậy và dầu chỉ một lần thì đủ có giá trị ngàn đời.
Chúng ta đừng nghỉ rằng Đức Giêsu dùng quyền năng Thiên Chúa của mình đề trong cuộc khổ nạn Người không phải đau đớn. Giả Đức Giêsu làm như thế thì Ngài chỉ là tên lừa bịp và việc Ngài làm chẳng có giá trị. Mà nếu nại đến quyền năng Thiên Chúa thì hà tất phải sử dụng cuộc khổ nạn này để bị mang tiếng là dối gian. Còn nhiều cách khác vẹn toàn kỳ mỹ hơn, và cũng chẳng cần phải đổ máu dù là máu giả. Nơi Thiên Chúa không bao giờ có sự gian dối, nơi Ngài luôn luôn là có. Điều duy nhất của Ngài trong tất cả mọi hành động là để chứng tỏ lòng yêu thương của Ngài dành cho nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu không phải là một thước phim với những kỷ xảo nhưng là một sự thật. sự thật của một Thiên Chúa yêu thương đến cùng.
Hình ảnh của tiên tri Isaia chính là tiên trưng của Đức Giêsu chịu đau khổ - một sự thật đã được báo trước từ rất lâu trong Cựư Ước. "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ, trơ mặt như đá và không phải thẹn thùng" (Is 50,6-7). Đó là những hình khổ mà Đức Giêsu đã không được bọn lính bỏ xót một một chi tiết nào. Thế nhưng chính trên thập giá Ngài lại van nài Chúa Cha tha tội cho những kẽ đã giết mình. Vậy, "hãy xem đó thì rõ biết Chúa yêu thương ta là dường nào. Hãy xem đó thì rõ biết tội ta gớm ghiết là dường nào" (Chặng Đàng Thánh Giá). Trong suốt cuộc hành trình khổ nạn ta không hề thấy bất cứ một thái độ thù hằn, hay chống đối , hoặc chỉ là một lời bào chữa, với những người làm khổ mình. Một mực chấp nhận như chính Ngài là một tội nhân. "Nước tôi không thuộc thế gian này, bởi nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì những người của tôi đã đến chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thực ra nước tôi không thuộc chốn này" (x. Ga 18,36 ). Như vậy, ngài đã khẳng định mục đích của việc Ngài làm không nhằm cuộc sống vinh hoa thế tục nhưng nhằm chuộc về cho Thiên Chúa những linh hồn. Ngài yêu thương ngay cả kẻ giết mình. Một tình yêu chẳng còn tình yêu nào lớn hơn.
Có thể chúng ta thấy Thiên Chúa rất dạy khờ. Đâu cần phải dùng đến con đường quá đau đớn để cứu con người? Nhưng chính khi Ngài được treo lên là lúc tình yêu của Ngài được tỏ lộ rõ ràng nhất. Chính lúc Ngài chết là chính lúc sự sống của những tội nhân chúng ta được bắt đầu.
Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla sinh năm 1922, qua đời năm 1962, được ĐTC Gioan Phaolô 2, tôn phong chân phước năm 1994. Khi mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Molla khám phá ra mình mang chứng bệnh ác tính đe dọa mạng sống cả hai mẹ con; bà không do dự một giây. Luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa Quan Phòng, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu đứa con đang ở trong dạ. Bà nói với bác sĩ: - Nếu phải chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi muốn như thế! Sáng ngày 21-4-1962, bà sinh một bé gái đặt tên là Gianna Emanuela . Chỉ một tuần sau, dù được chữa trị khẩn cấp và đau đớn vô bờ, bác sĩ Gianna đã êm ái trút hơi thở cuối cùng sau khi tha thiết lập đi lập lại: "Lạy Đức Giêsu, con yêu mến Ngài", ngày 28-4-1962, hưởng thọ 40 tuổi. Ngày 16-5-2004 bà được nâng lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày 28. 04 hàng năm.
Bác sĩ Gianna đã đi qua con đường hẹp, con đường hi sinh mạng sống để cứu lấy chính sự sống của đứa con mình. Qua việc làm đó, bác sĩ Gianna đã đi chính con đường Đức Kitô lên Giêrusalem để cứu chuộc nhân loại, nhưng kết thúc buồn thảm trên Núi Sọ. Đây chính là đề tài mà hội thánh muốn chúng ta cùng suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay....
a/.Con đường Đức Kitô đi qua, đã được báo trước:
- Các tiên tri đã loan báo trong Cựu Ước: " Đây là Người Tôi tớ đau khổ của Ta. Người sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, được suy tôn đến tột cùng.. Nhiều kẻ sẽ sửng sốt khi nhìn thấy mặt mày Người tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ con người nữa...Chính Người đã gánh lấy tội lỗi chúng ta. Còn chúng ta lại tưởng Người bị Thiên Chúa đánh phạt..." (Is. 52, 13 + 53, 4)
- Chính Đức Kitô đã ba lần báo trước cho các môn đệ: "Chúng ta sẽ lên Giêrusalem; những gì các tiên tri đã báo trước về Con Người sẽ được hoàn tất. Con Người sẽ bị nộp vào tay dân ngoại, bị nhục mạ, bị khạc nhổ. Sau khi bị đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại..." (Lc 18, 31-33)
- Chính Chúa Giêsu long trọng quả quyết: "đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không hư đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó hư đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác..." (Gn 12, 23-24). Chúa nói tiếp: "Như Môisen đã treo con rắn lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người sẽ được sống muôn đời." (Gn 3, 14-15).
Con đường Đức Kitô đi qua, Người đã ý thức và đã sẵn sàng đi theo vì vâng theo Ý Chúa Cha, nhất là vì yêu thương nhân loại.
b/.Nhìn lại con đường Đức Kitô đã đi quamà suy niệm:
Đức Kitô đã khởi đầu con đuờng cứu chuộc nhân loại bằng con đường vinh quang vào thành Giêrusalem, nhưng lại kết thúc bằng con đường bi thảm là con đường lên Núi Sọ và chết ở đó. Đây thật là một con đường đầy gian khổ, không dễ gì thực hiện, nếu Con Thiên Chúa không vâng lời Chúa Cha và không yêu thương nhân loại...
Ngày hôm nay, Hội thánh cử hành Lễ Lá cùng với Nghi thức đón rước long trọng, chính là mời gọi chúng ta cùng bước theo Đức Kitô, để thấy rằng hành trình theo Chúa không dừng lại ở cổng thành Giêrusalem, với cành lá dừa, áo trải làm thảm lót đường cùng với những tiếng hoan hô long trời lở đất, nhưng phải kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những hình khổ, lời nhục mạ và hai tử tội hai bên.
Chúng ta cùng theo Chúa Kitô, để chứng kiến lòng con người nhanh chóng thay đổi. Mới hôm chúa nhật, mọi người giơ tay hoan hô nhiệt liệt; vậy mà mấy ngày sau, chính họ lại giơ tay reo hò, để kết tội Chúa, để treo Chúa cho được trên thập giá.
Theo Chúa vào thành thì dễ dàng vui vẻ, nhưng theo Chúa trên đường Núi Sọ thật là buồn thảm. Mỗi người chúng ta phải chọn lựa con đường theo Chúa. Chính thánh Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla đã lựa chọn cho mình con đường theo Chúa, và hôm nay trên bàn thờ Bà là mẫu gương để mọi người kitô hữu cùng soi chung...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Nhân ngày lễ Lá hôm nay, mỗi người chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi: Nếu tôi có mặt trong đoàn kiệu Chúa vào thành Giêrusalem hôm đó, tôi sẽ là hạng người nào? Tôi có phải là người sẵn sàng cầm nhành lá hoan hô đón rước Chúa? Hay tôi là người sẽ cùng Chúa đi lên Núi Sọ? Tôi sẽ là người chối Chúa như Phêrô? Hay tôi là người phản bội Chúa như Giuda? Tôi có phải là người khi thấy quân lính Lamã hung dữ, đã bỏ Thầy mà chạy bán mạng? Hay tôi là người hùa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi là những lý hình đánh đập và sĩ nhục Chúa trên đồi Golgotha? Cuối cùng tôi là hạng người nào trong số các người đó đã đi theo Chúa?
Con người quả có nhiều cách khác nhau để diễn tả niềm vui. Cách thông dụng nhất là lời nói. Dùng ngôn từ nói lên lời chúc tụng, tung hô. Để niềm vui được vui hơn, người ta mượn tràng pháo tay kèm theo lời cổ võ. Theo sau tràng pháo tay là những tiếng cười hoan lạc. Đôi khi còn kèm theo bài ca vui, nhảy múa diễn tả hết tâm tình, bộc trực niềm hạnh phúc. Thời giờ dư giả, tài chánh thảnh thơi hơn người ta còn tổ chức bữa tiệc mừng, cụng li, chung chén, kéo dài niềm vui. Khi có tiệc mừng là có xuất hiện y phục thời trang mới. Cách ăn mặc lịch sự của thực khách, cử chỉ trang trọng mọi người dành cho nhau. Bên cạnh đó còn có trang hoàng màu sắc, sặc sỡ, từ ngoài ngõ đến nhà cửa, kể cả mọi người xa, gần, đều là những dấu chỉ rõ ràng nhất của tâm tình chia sẻ niềm vui. Đây là những cách diễn tả niềm vui.
Hôm nay Phúc âm ghi lại một hình thức diễn tả niềm vui nội tâm hoàn toàn khác lạ so với cách thông thường. Trên đường vào thành thánh Giêrusalem, đám đông dân chúng bất ngờ gặp Đức Kitô họ vui mừng quá đỗi. Vì không chuẩn bị hay nói rõ hơn không ai biết để chuẩn bị nên người ta sáng chế ra cách bày tỏ niềm vui dạt dào trong tâm hồn. Một người lên tiếng Hoan Hô Con Vua Đavít. Hoan hô Đấng đến Nhân Danh Chúa. Một tiếng cất lên, hai ba tiếng hoà nhịp vang vọng và rồi cả con đường, mọi nghõ ngách đều chung ca bài hoan hô Con Vua Đavít.
Nhà chức trách thấy thế lên tiếng can ngăn. Họ cũng không thể ngờ được phản ứng mãnh liệt của đám đông. Họ không thể dự đoán Đức Kitô xuất hiện đột ngột như thế. Họ lên tiếng ngăn cản, cấm đoán. Cấm sao được sức mạnh của đại chúng, ngăn sao được tiếng hát vui mừng. Áp chế sao nổi bước chân nhảy nhót diễn tả niềm vui. Một cành lá làm cờ, hai cành lá làm cờ, ba cành lá làm cờ và cứ thế cành lá, cành lá biến thành rừng cây di động. Rừng cây đủ sắc thái của mọi cành lá bên đường tung bay, múa may theo nhịp phất của đôi tay. Đâu đó có người không tiếc tấm áo mới, cởi áo lót đường đón Con Vua Đavít. Mình trần, tay cầm cành lá đón chào, đám đông ca tụng Ngài là vua. Vị quân vương của đại chúng, quân vương không tiến vào thành bằng vó ngựa và cung tên nhưng cỡi lừa con, chân bước trên thảm vải áo và đi giữa rừng cành lá vẫy chào. Cảnh chào đón thật đơn sơ, giản dị nhưng chan chứa tình người, lòng ái mộ, cảm mến hết sức chân tình. Sáng kiến bẻ cành lá vẫy chào để lại cho chúng ta một ngày lễ kính với tên đơn sơ, mộc mạc đến quê mùa, nhưng lại diễn tả tâm tình rất chân thật của đám đông xưa may mắn trên đường đi gặp được Đức Kitô Con Vua Đavít. Ngày lễ kính đó chính là ngày lễ lá. Ai không biết được lịch sự của sự việc nghe sẽ chẳng hiểu tại sao lại gọi là lễ lá.
Đám đông đâu biết rằng họ là những người đầu tiên chào đón vinh quang, vinh danh Con Chúa Cứu Thế. Vinh Danh đó không lộ ra ngay trong ngày Ngài tiến vào thành thánh Giêrusalem. Vinh Danh đó hé mở rồi ẩn mất mãi cho đến ngày Ngài vinh quang sống lại từ cõi chết. Đây mới là chiến thắng thật, vinh quang thật và là niềm vui thật cho những tâm hồn thiện tâm.
Chúa nhật lễ lá hé mở cho chúng ta về một nhân vật tuyệt đối quan trọng là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại, loài người và con người. Lễ Lá bắt đầu một chuỗi những biến cố, những sự kiện mà Thiên Chúa đã dự định từ trước. Đức Kitô được Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ thực hiện kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa. Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu rỗi. Đức Kitô là Đấng được xức dầu và là Con Chiên gánh tội, xóa tội trần gian.
Lễ lá khai mào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Thánh. Chúa Giêsu trong ngày lễ lá đi vào Giêrusalem trong tiếng tung hô vang dội của mọi người như là một Vị Vua chiến thắng oai hùng, nhưng thực tế, đó lại là một cuộc khải hoàn để rồi Chúa Giêsu lãnh nhận ý định của Chúa Cha gánh tội cho trần gian qua cái chết nhục hổ trên thập giá. Cao điểm là Thứ Sáu Thánh, Thứ Bảy Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh.Đây là những Ngày Thánh của Đức tin Kitô Giáo.
Đối với người Do Thái chiều thứ năm đã bước vào ngày thứ sáu, do đó Phụng vụ cho thấy: " Chúa Giêsu đã biết giờ, Người phải ra khỏi thế gian mà về cùng Cha. Người đã đã yêu thương những người thuộc về Người trong trần gian và Ngài sẽ tỏ bày tình yêu của Ngài dành cho họ đến cùng " ( Ga 13, 1 ). Từ " đến cùng " không có nghĩa là đến cùng tận sự sống ở thế gian, nhưng thánh Gioan muốn diễn tả " tới tình yêu tròn đầy, tình yêu viên mãn ". Ở đây, Chúa Giêsu muốn diễn tả tình yêu viên mãn của Ngài qua cái chết hy tế trên thập giá. Theo từ ngữ Hy Lạp, đến cùng được diễn tả: " Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Chính cái chết trên thập giá biểu tỏ tình yêu viên mãi của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu Kitô qua hành động cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để nuôi sống nhân loại, nuôi sống con người. Đây là Mầu nhiệm vượt qua, sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giêsu đã nuôi các môn đệ và truyền cho các môn đệ cử hành Bí tích Thánh Thể để nuôi sống đời sống thần linh của con người.
Đỉnh tuyệt vời của cuộc khổ nạn là Chúa Giêsu đã thực sự bị treo lên thập giá vào chiều ngày thứ sáu trên đồi Golgotha đúng như lời Ngài nói: " Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta " ( Ga 12, 32 ). Ngày thứ bảy thánh, ngày thứ hai của Tam nhật Thánh. Chúa Giêsu nằm yên nghỉ trong mồ. Đây là sự thật để minh chứng Chúa Giêsu đã chết thật và nhân loại được mời gọi thinh lặng để chiêm ngưỡng Chúa chịu chết, và chờ đợi sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu.
Ngày tuyệt vời nhất là ngày Chúa Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, phá tan bóng đêm và ra khỏi mồ cách vinh hiển.
Lễ Lá bắt đầu tuần thánh và cao điểm là Tam nhật Thánh với niềm vui, hân hoan vì Chúa Giêsu sẽ khải hoàn ra khỏi mồ, chiến thắng thần chết. Thánh giá vẫn là dấu chỉ chiến thắng của Chúa Giêsu. Nên, thập giá chính là sự vinh quang phục sinh của Chúa.
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế ? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ong còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ong đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ong trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ong thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ong đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa ? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ: "Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Anh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này" (Thư chung 2005, 9).Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.
1. Chúa Giêsu bị bỏ rơi.
Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: "Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt 27, 46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.
"Eli! Eli! Lamma sabacthani?". Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: "Đó là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của Ngài... Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư không".
Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì "Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12). Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: "Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác" (Lc 22, 37).
"Vị xứng kỳ đức": người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.
Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?
Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn lường:
- Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, "cuộc đời đáng nôn mửa" (Jean Paul Sartre).
- Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.
- Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.
Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:
" Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.
Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha. Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên "dốt nát". Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người "tội lỗi". Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng. Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi. Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục."
Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.
- Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng.
- Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi thốt lên: "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23, 46). Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi "Người gục đầu xuống và trao Thần Khí" (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
2. Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự
Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: "Thế là đã hoàn tất" (Ga 19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ "tetelestai", đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: " Chính trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất...Công trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng ơn thánh" [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.
Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.
3. Thập giá trong đời sống của chúng ta
Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài. Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi được cứu chuộc.
Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.
Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.
" Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa". [2]
Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: "Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.
Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.
Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.
Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. "Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài" (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.
[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in: Opere, Roma, 1979, pp. 92-93. [2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr. 152
Chúa nhật Lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta nghe hai bài Tin Mừng: một bài cho nghi thức trước lễ (Mc 11, 1-10) nói về việc những người Do thái đã đón rước Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem cách trọng thể vui mừng bằng những cành lá trên tay hay trải áo xuống đất cho Người đi qua, miệng tung hô vang trời. Rồi cũng chính họ, ở bài khác trong thánh lễ, lên án và đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, dẫn đến cuộc khổ nạn của Đấng mà mấy ngày trước họ vừa tung hô "vạn tuế". Cả hai biến cố nổi bật cuối đời của Chúa Giêsu, nói lên sự kiện đầy ý nghĩa, có sức đánh động giúp ta cùng suy niệm về tình yêu hiến tế của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần phục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con, của thân nhân và bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút trầm lặng tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị nói với thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình bắt đầu nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe chính người vợ đầu gối tay ấp, nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ấy, chúng tôi vẫn có thể làm ăn sinh sống".
Câu chuyện trên có thể xảy ra bất cứ nơi đâu, trong bất cứ gia đình nào và ở mọi thời đại. Vì theo sự suy luận thông thường, chúng ta phải công nhận rằng: người vợ và thân nhân của anh chàng giả chết có lý của họ. Nhưng triết gia Pascal cũng có lý khi nhận định: "Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu nổi".
Đó là lý lẽ của con tim trong con người của Cha Maximilian Kolbe, nạn nhân của chính sách tàn bạo, tiêu diệt người Do thái của Đức quốc xã. Cha Maximilian đã đứng ra chịu chết thay cho một anh bạn tù. Có thể những người mang lý lẽ này trong con tim sớm hiểu được câu giáo huấn của Chúa Giêsu: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13).
Thật vậy, việc Đức Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách là vua người Do thái cho dù không phải là vua để cai trị, nhưng là vua để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhân loại. Nên trọng tâm của cuộc thương khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi những môn đệ hợp tác với Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp rắc rối vì sự thiếu hiểu biết và trì trệ của các môn đệ. Và Người đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của những người đã từng tiếp xúc với Chúa, và cũng là khoảng thời gian chứng minh tư cách của Người là Đấng Cứu Thế.
Chỉ có nơi Chúa, chúng ta mới có thể tìm ra sức mạnh sống cái hiện tại đầy khó khăn và hy vọng vào tương lai tưoi sáng hơn. Suy gẫm cuộc thương khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc thương khó này đang xảy ra nơi những con người đau khổ ở kề bên ta, hay nơi những con người đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, chấp nhận sống cảnh tù đày để làm chứng vì công lý và sư thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người luôn can đảm đứng vững trong niềm tin và biết sẵn sàng chia sẻ, nâng đỡ nhau, để có thể chu toàn sứ mạng của riêng mình trong tình hiệp thông huynh đệ.
Bài Thương Khó tự nó đã là một khối chất liệu phong phú giúp cá nhân cũng như cộng đoàn suy niệm. Để có điểm tựa cho việc suy ngẫm này, chúng ta có thể tìm hiểu cấu trúc bản văn.
Đôi khi người ta cho rằng Mc là tác giả viết không hay mấy. Thật ra không phải thế. Ở đây chỉ nguyên việc nghiên cứu cấu trúc của bài Thương Khó, chúng ta đã nhận ra một nền thần học sâu sắc nằm chìm trong đó. Bản văn có thể chia thành hai phân đoạn:
1. Mc 14,1-21. Phân đoạn này có cấu trúc đồng tâm như sau:
Nhiều cc. 1-2: Giới lãnh đạo âm mưu giết Đức Giêsu B cc. 3-9: Xức dầu tại Bêtania C cc. 10-11: Giuđa phản bội B cc. 12-16: Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua
Nhiều cc. 17-21: Đức Giêsu báo trước Giuda sẽ phản bội
Cấu trúc này nhắm vào hành vi phản bội của Giuđa NHIềU, đã được chuẩn bị bởi cuộc âm mưu của giới chức tôn giáo (Nhiều) và được Đức Giêsu loan báo (Nhiều). Ở bên trong cái khung này, có việc xức dầu ở Bêtania, được coi như lời báo trước cái chết của Đức Giêsu (B), còn các việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua là như những lời tiên báo về cuộc phục sinh của Đức Kitô (B). Nằm ngay trọng tâm việc Đức Giêsu cứu độ chúng ta nhờ cái chết và sự sống lại của Người, là hành vi phản bội của Giuđa.
2. Mc 14,22-16,8. Phân đoạn thứ hai này cũng có cấu trúc đồng tâm như sau:
Nhiều 14,22-25: Lập Bí tích Thánh Thể
B 14,26-31: Phêrô sẽ chối Thầy C 14,32-52: Tất cả các môn đệ chạy trốn D 14,53-65: Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa, còn thầy thượng tế thì xé áo E 14,66-72: Đáp lại Đức Giêsu tuyên xưng niềm tin, Phêrô chối ba lần F 15,1-15: Kết án vua dân Do Thái G 15,16-20a: Tôn vương vua dân Do Thái F 15,20b-27: Thi hành án tử cho vua dân Do Thái E 15,19-32: Ba lần Đức Giêsu bị chế nhạo
D15,33-39: Đáp lại sự chế nhạo, một người ngoại tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Màn Đền thờ xé ra
C15,40-41: Các phụ nữ đứng đó (họ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu: đây là tư cách của người môn đệ)
B 15,42-47: Cái chết của Đức Giêsu làm phát sinh các môn đệ mới
Nhiều 16,1-8: Đức Giêsu phục sinh là Đấng đang sống.
Bản văn đúng là một khảo luận thần học về Đức Kitô, về các môn đệ, Bí Tích Thánh Thể, tương quan giữa Đức Giêsu và các cơ cấu phượng tự Israel, sự mở rộng ơn cứu độ cho Dân ngoại. Chúng ta có thể nêu vài nhận xét:
Nhiều-Nhiều cho thấy Bí Tích Thánh Thể như là nơi Đức Giêsu đang sống hôm nay trong Họi Thánh. C-C cho thấy người môn đệ đích thực không những là người đã bước theo Đức Kitô, nhưng còn là người đã “phục vụ” (giúp đỡ) Người. Đấng Chịu đóng đinh, Đấng vừa được tôn vương, theo kiểu khôi hài nhưng có thật (G) không là ai khác mà là chính Con Thiên Chúa (D-D), nghĩa là Đấng làm trọn niềm chờ mong của Cựu Ước, là Đấng Mêsia, vua dân Do Thái (F-G-F)(như thế đã kết thúc dự phóng của Mc là nhắm cho thấy rằng quả thật Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”, Mc 1,1). Các phân đoạn D và D còn cho thấy rằng nếu người ngoại giáo có thể tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là bởi vì với cuộc Thương Khó của Người, Người đã chấm dứt chế độ tư tế Lêvi (theo Luật, cấm thầy thượng tế xé áo, x. Lv 21,10) và việc phục dịch Đền Thờ là việc bị cấm đối với người ngoại (điều này được cho thấy qua việc màn trường Đền Thờ xé ra).
Tất cả mọi điều này đã có thể xảy ra bởi vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và, như phân đoạn thứ nhất 14,1-21 nhắc nhớ, cũng là vì Giuđa đã phản bội… + Kết luận
Trọng tâm của cuộc Thương Khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi những môn đệ hợp tác với Người. Thế là “con đường” đã thành hình do các lời nói và cách sống của Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu han tục gặp phải sự ngu dốt và trì trệ của các môn đệ. Người cũng đã bị dân Nadarét loại trừ và đám đông không hiểu. Ngược lại có những tín hiệu cho thấy dân ngoại sẵn han đón tiếp Người hơn: truyện người phụ nữ xứ Xyri và việc bánh hóa nhiềuều còn dư bảy giỏ (để dành cho người vắng mặt!). Đức Giêsu đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh han của các môn đệ.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của tất cả mọi con người đã từng có cơ hội tiếp xúc với Đức Giêsu, và cũng là khoảng thời gian chứng minh cao độ nhất tư cách của Đức Giêsu là Đấng Cứu thế và ơn cứu độ viên mãn Thiên Chúa muôn ban cho loài người qua Con của Ngài. Cần chiêm ngắm những chọn lựa của Đức Giêsu. Người có thể tránh khỏi cái chết, nhưng Người là sẵn han nạp mình. Người có thể lợi dụng đám đông để gây ra một cuộc đảo lộn để gây thanh thế, nhưng Người lại im lặng, chịu cảnh cô đơn. Người có thể vận dụng quyền lực của “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” để tự giải thoát, nhưng Người đã chịu hành hạ, sỉ nhục, đánh đòn và bị đóng đinh.
Đức Giêsu giống như một con người quá yếu, yếu một cách thảm hại. Người như một kẻ bị thua, thua một cách nhục nhã. Tuy nhiên, Người lại rất mạnh trong chính tình trạng yếu thua đó, khi Người thắng vượt mọi thử thách đau đớn để trung thành với Chúa Cha. Dù như bị Thiên Chúa bỏ rơi, Người vẫn yêu mến, vẫn tin tưởng phó thác. Dù bị chế nhạo, nguyền rủa, Người vẫn một han yêu thương tha thứ. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.
2.- Gợi ý suy niệm
1. Hai cám dỗ
Khi đọc bài Thương Khó, chúng ta dễ có một trong hai thái độ, thật ra là những cám dỗ nặng nề: hoặc cảm động khi thấy Đức Giêsu đáng thương bị sỉ nhục, bị đánh đòn và bị đóng đinh; hoặc nổi giận với các thượng tế đã kết án Người phải chết và với toán lính đã giết chết Người khi hành hạ và đóng đinh Người. Các tâm tình này đúng là các cám dỗ bởi vì chúng thỏa mãn một thứ linh đạo cảm xúc, nhờ đó chúng ta cảm thấy mình có lương tâm đúng đắn, không có chút gì đáng trách cả, nhưng trong thực tế, chúng ta chẳng hề thấy mình bị han lụy gì trong bản han và trong cuộc sống chúng ta với cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta cảm thấy mình có “đôi bàn tay sạch”!
2. Một kinh nghiệm
Chúng ta cần phải đi sâu hơn vào ý nghĩa của cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta có thể dựa vào một kinh nghiệm. Chẳng hạn, chúng ta nghĩ đến một người mắc chứng bệnh nan y, đã đến giai đoạn cuối cùng, giai đoạn đau đớn nhất, giai đoạn bi đát nhất trên “đàng Thánh Giá”. Bên cạnh người ấy, là một người vợ đơn sơ, chất phác, đã mệt mỏi kiệt quệ vì bao tháng ngay săn sóc người thân yêu. Đức tin của người vợ này có đơn sơ thật, có theo truyền thống thật, nhưng cũng là một đức tin mạnh mẽ, có thể chuyển núi dời non. Làm thế nào để làm vơi nhẹ nỗi đau kia? Phải nói gì đây? Bà ấy nói: “ Con phải làm gì đây? Con ký thác cho Chúa và Đức Mẹ. Chỉ có các Đấng mới có thể giúp đỡ con”.
3. Con người đau khổ
Quả thật, chúng ta cần chia sẻ với nhau xác tín này: Chỉ có nơi Chúa, ta mói có thể tìm ra sức mạnh mà sống cái hiện tại khó khăn và hy vọng vào một tương lai ở bên kia trái đất mà Thiên Chúa đã bảo đảm cho ta. Suy ngẫm cuộc Thương Khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc Thương Khó này đang xảy ra nơi một con người đang đau khổ ở kề bên ta, giúp ta tránh được việc sống cuộc Thương Khó như một cuộn phim hết sức cảm động hoặc như một quyển tiểu thuyết khiến rơi nước mắt, nhưng thúc bách ta suy nghĩ về đau khổ của Người. Một đau khổ có thể chạm tới được, khi mà Người bị nỗi lo sợ khắc khoải đè bẹp, Người xin Chúa Cha nếu có thể được thì cất xa thử thách này, hoặc hơn nữa, khi hoàn toàn là một con người, trên thập giá, Người kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Chính con người trên thập giá, con người của đau thương ấy, thật sự đang là hiện han của đời sống chúng ta, một cuộc sống thường bị mờ tối đi vì những thử thách và khắc khoải. Tuy nhiên, đây là một đau khổ có thể đưa lại một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ theo viễn tượng của Đức Kitô, Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, Đấng đã sống lại sau khi chết. Như phụng vụ phép Rửa nhắc nhớ, qua Con của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta “niềm hy vọng vui tươi là được sống đời đời”.
Hôm nay, chúng ta cần phải thấy rõ: chúng ta có được sự sống chân thật ở nơi nào? Nơi các sứ mạnh của trần gian hay là nơi Thiên Chúa? Cần phải thấy rõ, và chọn lựa dứt khoát. Lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn vang vọng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Với Chúa nhật lễ lá, toàn thể Giáo hội bước vào tuần lễ Thánh- kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem, khai mở mầu nhiệm Vượt Qua, mang ơn cứu độ đến cho muôn người.
"Hôsanna, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Giavê Thiên Chúa"- tiếng tung hô vang dội, những chiếc áo được trải ra để lót đường, những cành ôliu rung rinh trên tay của dân chúng trong ngày Chúa tiến vào thành thánh Giêrusalem,... tất cả trông giống như mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của vị tướng và đoàn quân thắng trận. Nhưng không! Mỉa mai thay, đó lại là một khởi đầu cho cuộc khổ nạn đầy máu và nước mắt, một cuộc khổ nạn bi hùng nhất trong lịch sử nhân loại.
Xuyên suốt cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy bao trùm lên đó là sự thinh lặng và cô đơn gần như tuyệt vọng của Chúa Giêsu. Nó hoàn toàn đối nghịch với những lời cáo tội "ngậm máu phun người" của hàng lãnh đạo Dothái giáo; tiếng hò la đả đảo của dân chúng; lời nhạo báng đầy mỉa mai của binh lính cùng với tiếng va chạm của gươm giáo trong vụ án kinh thiên động địa này. Thật thế, nổi cô đơn cùng tận của kiếp người, cô đơn đến tê tái cõi lòng trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dường như dưới gầm trời này, không gì sánh nổi.
Nổi cô đơn ấy được đánh dấu trước tiên bằng sự trống vắng đến tột cùng trong lúc chỉ có một mình Chúa Giêsu cầu nguyện, còn xung quanh là đêm tối dày đặc bao trùm bởi những âm thanh nỉ non của loài côn trùng cộng với tiếng gáy ngủ say mê của các môn đệ! Chúng ta thấy, Chúa Giêsu - hơn bao giờ hết, cần các môn đệ bên cạnh, canh thức và sẻ chia nổi đớn đau xé lòng mà Người sắp chịu, thì các ông lại lăn đùng ra ngủ dù có đến ba lần thầy các ông nhắc nhở! Trước sự vô tư của các môn đệ, nổi đau ấy, vì thế, càng khủng khiếp hơn.
Đó còn là nổi cô đơn phát xuất từ sự chạy trốn cách phủ phàng từ phía người thân cận của Chúa Giêsu, cách đặc biệt là các môn đệ thân yêu của Người. Thật phủ phàng làm sao, những người mà chỉ mới đây thôi, họ cùng với thầy mình ngẩng cao đầu tiến vào Giêrusalem trước sự tung hô của dân chúng, thì giờ đây, trong vườn Ghệtsêmani, họ đã bỏ thầy để chạy thoát thân. Họ hốt hoảng bỏ chạy đến độ một trong số các ông thoát thân trong cảnh trần truồng (x. Mc 14, 52).
Cô đơn nối tiếp cô đơn. Chúa Giêsu dù phải chứng kiến lời kết án dối trá cách trắng trợn của thượng tế và thượng hội đồng Dothái; lời nhạo báng, phỉ nhổ và đánh đập của binh lính;... cũng không xót xa và đớn đau khi chứng kiến người học trò ưu tú của mình lên tiếng chối Thầy! Chúng ta biết Phêrô là môn đệ được Chúa Giêsu hết sức tín nhiệm, được tham dự hầu hết các biến cố quan trọng trong cuộc đời của Thầy. Trước khi Thầy bị bắt không lâu, ông còn hùng hổ trước mặt Thầy và anh em: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Vậy mà trước lời nói vô thưởng vô phạt của tên tớ gái, ông đã quên mất lời hứa với Thầy, chối đây đẩy rằng: "Tôi thề là không biết người đó"! Thế mới biết, cậy vào sức riêng mình thật nguy hiểm. Bởi đôi khi gặp phải một "cú hích" nhẹ dù chẳng đáng là gì cũng đủ đánh gục kẻ dựa vào sức riêng mình.
Thế rồi trên thập giá, đó là đỉnh điểm của sự thinh lặng và cô đơn mà Chúa Giêsu phải gánh chịu. Chúa Giêsu có cảm giác rằng dường như Chúa Cha cũng bỏ rơi Người, để Người một mình với nổi khổ đau tột cùng. "Êlôi, Êlôi, lama xabacthani - Lạy Thiên Chúa, sao Ngài bỏ rơi con?". Trong sự thinh lặng và cô đơn ấy, thánh sử Máccô muốn cho chúng ta thấy, sự thinh lặng tuyệt đối minh chứng rằng Chúa Giêsu tuy có đớn đau và cô đơn thật đấy, nhưng Người vẫn luôn tín thác vào tình yêu của Chúa Cha, trung tín với sứ mệnh mà Chúa Cha đã trao ban, đồng thời Người hiểu rất rõ con đường mà Người đang đi: đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Bước vào Tuần Thánh, mỗi người chúng ta hãy tự soi mình dưới đường khổ giá mà Chúa chúng ta đã đi để thấy rằng, đó đây trên mỗi chặng Thánh Giá, có sự hiện diện của con người tội lỗi chúng ta: bất công, phản bội, vu khống, a dua xu nịnh, kéo bè kéo phái, hèn nhát, ... Xin Chúa thứ tha, đồng thời xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết trở nên nguồn an ủi cho hết những ai đang đau khổ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết trở nên tiếng gáy của chú gà trống trong đêm vắng cô độc để đem lại niềm an ủi- dù nhỏ nhoi- cho Chúa trong suốt Tuần Thánh này cũng như cho anh em đồng loại đang gánh chịu những khổ đau trong cuộc sống lữ hành.
Bắt đầu lễ hôm nay, chúng ta vừa tham dự một cuộc rước, đó là việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem cách đây hơn 2 ngàn năm. Cuộc rước này Người đã sắp xếp mọi việc rất chu đáo, đến nỗi các môn đệ của Người cũng phải ngỡ ngàng, ngạc nhiên và chắc chắn các ông cũng sởi lởi tâm hồn và thầm nghĩ "Nước Chúa đã đến" (Mc.11,1-14). Thế nhưng sự việc xẩy ra lại hòan tòan khác hẳn, Chúa Giêsu thư thái ngồi trên mình lừa, biểu tượng của một vị vua khiêm nhu, và là người tôi tớ đau khổ của Giavê, sẵn sàng nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ theo Thánh ý Cha (Is.50,4-7). Và con đường tự hạ của Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa nâng lên đến tột cùng như trong thư của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philiphê (Pl.2,6-11).
Mặc dầu Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem coi có vẻ long trọng vì được dân chúng đón rước linh đình, họ trải áo, chặt nhành lá lót đường và cờ xí trong tay, cùng xưng tụng Chúa Giêsu như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, và đây là lúc Người sẽ đuổi quân Rôma ra khỏi Palestina để tái lập vương quốc Đavit, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ, nên họ cực kỳ phấn khởi hô to khẩu hiệu " Hoan hô con vua Đavit..." và các môn đệ cũng cùng tâm trạng ấy, vì nghĩ rằng mình sắp được "làm cha-chú", sắp được " ngồi hai bên tả hữu". Nhưng Chúa Giêsu lại chỉ là vị vua nhân từ cỡi trên con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, một vị vua hòa bình, hiền hòa, khiêm tốn, cứu nhân độ thế, chứ không phải ông vua chính trị như họ mong đợi, Người chỉ là vị vua chiến thắng không bằng vũ lực ngồi trên lưng ngựa, nhưng là vị vua hiền từ chiền thắng bằng cái chết trên Thập giá. Trong đoàn rước mỗi người một tâm trạng, những tâm trạng hòan tòan trái ngược với Chúa Giêsu, không ai hiểu được đúng ý của Chúa.
Họ chờ đợi và chờ đợi ... nhưng hành động của Chúa Giêsu đi ngược điều mong muốn của họ, cho nên không lạ gì chỉ vài ngày sau họ lên án tử cho Chúa Giêsu như bài Thương Khó chúng ta vừa nghe. Trước tiên là Giuda, một trong số các môn đệ của Chúa, Giuda nộp Chúa Giêsu vì những năm sống với Chúa, ông nhận thấy Chúa là người có tài, lại có quyền năng đã từng làm cho người què đi, người câm nói, người phong được sạch và người chết sống lại. Nay thấy Chúa long trọng vào thành, ông tưởng rằng đã đến thời gian Chúa ra tay, nhưng sau cái ngày được tung hô ấy Chúa Giêsu lại rút vào yên lặng và còn nói những lời chia ly khi ngồi ăn. Cho nên Giuda nộp Chúa Giêsu với mong ước là dồn Chúa vào chân tường, hi vọng khi bị bắt Người bó buộc phải hành động, nhưng Giuda đã lầm!!!
Dân chúng nộp Chúa Giêsu " hãy đóng đinh nó vào Thập giá", đây là phản ứng thất vọng, họ những tưởng Chúa Giêsu sẽ giải phóng đất nước, sẽ giải thoát họ khỏi ách đô hộ của La Mã, nhưng Chúa Giêsu lại không làm gì hết, họ hòan tòan thất vọng nên trừng trị Người. Còn các Thượng tế nộp Chúa Giêsu vì họ ghen ghét Người, nhất là mới mấy ngày đây Chúa Giêsu được dân chúng ủng hộ, hoan hô, đón rước, họ sợ bị mất ảnh hưởng với dân chúng nên nộp Chúa. Thế nhưng trong sâu thẳm và chủ động lại là chính Thiên Chúa đã nộp Con mình cho lòai người vì yêu thương con người và Chúa Giêsu cũng tự nộp mình vì người mình yêu. Chúng ta hãy suy nghĩ cách chúng ta trao Chúa Giêsu cho người khác như thế nào? Như vị thượng tế? hay như Giuda? Như Chúa Cha và Chúa Giêsu ? Hãy suy nghĩ trong Tuần Thánh này về TÌNH YÊU của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không đến để lên án mà tha thứ, mà yêu thương, phá bỏ những bất công, hận thù. Người không đến trên ngai vàng để được phục vụ mà là để hầu hạ, quí xuống rửa chân cho thần dân. Người đến để lập lại vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
Hôm nay chúng ta cũng cầm lá và hoan hô " Hoan hô con vua Đavit Đấng nhân danh Chúa mà đến ", nhưng thực sự chúng ta coi Chúa Giêsu là ai và mong gì nơi Người? Nếu chúng ta coi Chúa Giêsu như là một vị vua đầy quyền uy, chúng ta cũng sẽ tìm cách trừ khử Người như những Thượng tế. Nếu chúng ta coi Người như vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch thì chúng ta cũng sẽ thất vọng mà hô lên " đóng đinh nó vào Thập Giá" vì Người không giúp chúng ta những điều ấy. Nếu chúng ta coi Người như vị vua bá chủ quyền hành để chúng ta có thể " hét ra lửa" với cấp dưới thì chúng ta cũng như các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn, bởi vì Chúa Giêsu chỉ là một vị vua Hòa Bình, hiền từ, khiêm tốn...và đi theo Người chúng ta cũng phải như thế. Lạy Chúa, với cành lá trong tay, xin cho chúng con đừng như những người trong đoàn rước năm xưa, hoan hô Chúa hôm nay rồi mai lại nhập vào đoàn rước trên đường Sọ mà đả đảo, nhưng sẵn sàng đón nhận những đau thương của cuộc sống trong tâm tình của một con dân biết suy phục vị vua khiêm tốn, an bình và yêu thương.
Chúng ta bước vào Tuần Thánh với một nghi thức trang nghiêm và giàu ý nghĩa tượng trưng. Thánh lễ hôm nay cho thấy hai thái cực của “biến cố Giêsu”: Vinh quang và đau khổ. Đó cũng là sự tranh đấu giằng co giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tối tăm, giữa công chính và tội lỗi, giữa Thiên Chúa và thế gian. Trong cuộc chiến đấu này, xem chừng như thế gian đã chiến thắng.
Bài Thương khó kể lại những chi tiết liên quan đến những ngày cuối cùng của Đức Giêsu trên dương thế. Có rất nhiều nhân vật, từ những môn đệ hiền lành chất phác đến những người Biệt phái mưu mô; từ những người lính chỉ biết mù quáng tuân lệnh đến những vị Thượng tế là người cầm cân nẩy mực trong vụ xét xử; Các nhân vật được nhắc tới thật đa dạng và làm nên bức tranh phong phú của cuộc đời. Bức tranh ấy phản ánh rõ nét cuộc sống của chúng ta. Quả vậy, giữa thời đại hôm nay, nhiều người không ngừng la lên rằng Thiên Chúa đã chết. Họ nhân danh tự do để chủ trương phá bỏ mọi hàng rào luân lý, san bằng mọi giá trị. Ngày hôm nay, biết bao bàn tay giơ cao để muốn tiếp tục đóng đinh vị Ngôn sứ thành Na-gia-rét, muốn xoá đi hình ảnh của Người nơi cái gọi là “nền văn minh hiện đại”. Và như thế, thập giá vẫn đang đi ngang qua cuộc đời chúng ta. Đấng vác thập giá đang hiện diện giữa những gia đình tan vỡ, giữa những bất công, tàn sát, giữa những cảnh nồi da xáo thịt mà con người gây nên cho nhau. Hình ảnh Đấng Chịu Đóng Đinh cần được khắc sâu tô đậm nơi cuộc đời này, như một lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực và thực hành yêu thương tha thứ.
Bạn thân mến! chúng ta đang ở đâu giữa cuộc đời hỗn loạn này? Chúng ta đóng vai trò nào trong vở kịch cuộc đời mà qua đó chúng ta thấy Đức Giêsu đang hiện diện? Phải chăng chúng ta là một Phi-la-tô hèn nhát không dám nói lên sự thật? Phải chăng chúng ta giống như những người lính Do Thái, chỉ lao đầu làm việc mà không phân biệt phải trái? Phải chăng chúng ta giống như những môn đệ, lo sợ chạy trốn khi đến giờ khổ nạn? Phải chăng chúng ta giống như những môn đệ mê ngủ vì mắt họ nặng trĩu, hoặc tệ hại hơn, giống như Phê-rô đã từ chối thày mình, hoặc như Giu-đa nỡ tâm phản bội và bán đứng người đã từng là ân nhân của mình?
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta xét mình khi đứng bên thập giá, để qua đó chúng ta biết mình là ai, mình đóng vai trò nào trong sân khấu cuộc đời bao la này.
Phụng vụ cũng mời chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu, người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, Đấng đã tự nguyện mang trên mình biết bao tội lỗi thế gian.
Một bầu khí tang thương trầm lắng khép lại Phụng vụ hôm nay, đó là nấm mồ. Thế gian dường như đã chiến thắng. Nội dung lời giảng dạy của một người có tên là Giêsu dường như đã trở thành huyền thoại và ảo tưởng. Dường như đó cũng chính là suy nghĩ của một số người hiện nay. Họ cho rằng tôn giáo đã lỗi thời, những giá trị đạo đức đã trở thành dĩ vãng; nay là lúc tiền bạc và danh vọng lên ngôi và được tôn thờ như thể chúng là “thượng đế đích thực”. Chính vì quan niệm như vậy mà một số bạn trẻ đã có thái độ buông xuôi theo thời thế, chấp nhận những cuộc phiêu lưu không đem lại kết quả tích cực cho cuộc đời mình. Quan niệm này cũng dẫn đến hậu quả là có người lợi dụng sự ngây thơ hay bi quan chán nản của người khác để trục lợi cho cá nhân mình.
Chúng ta hãy dừng lại bên thập giá Chúa. Hãy suy tư, xét mình, cầu nguyện. Hãy nhận ra những gì Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc đời ta. Có thề mang những vẻ bên ngoài âm thầm khiêm tốn, nhưng chứa đựng niềm hy vọng và hạnh phúc tràn đầy. Đó là niềm vui của biến cố phục sinh, khi Đức Giêsu chiến thắng sự chết và ra khỏi mồ.
Chúng ta hầu như đã quen thuộc với những gì diễn tiến trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cho nên nhiều khi không biết phải suy niệm điểm gì. Vậy hôm nay chúng ta thử góp nhặt một vài tâm tình của Chúa trong biến cố đau thương này, để chiêm ngưỡng sự khổ nhục Người chịu vì chúng ta. Nói khác đi, đâu là thái độ của Chúa đứng trước cuộc Thương Khó?
Chịu cuộc Thương Khó có nghĩa là cư xử sao cho đúng với mọi người, mọi hoàn cảnh, từ nhân loại tới Thiên Chúa Cha, từ người xấu đến người tốt, từ tòa án đạo cho đến tòa án đời.
Vậy trước hết là tâm tình của Chúa Giê-su đối với Chúa Cha được biểu lộ thật sống động trong lời cầu nguyện của Người với Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Không có lời cầu nguyện nào thân mật, đầy tràn tình yêu, thành thực, khiêm tốn và tin tưởng như lời cầu nguyện này. Nó là kết tụ của cả một đời cầu nguyện, một đời sống trong yêu thương trọn vẹn. Không cần phải dài lời, nhưng nó giống như mũi tên mạnh mẽ xuyên thẳng vào trái tim Chúa Cha. Đó là lời cầu nguyện xem ra không được nhậm lời, nhưng thực ra đấy không phải là chủ đích Chúa Giê-su nhắm đến ở đây, mà chỉ là lời tình yêu khẳng định mối tương quan mật thiết Người muốn bày tỏ với Chúa Cha! Lời cầu nguyện này âm ỉ suốt cuộc Thương Khó và kết thúc bằng một lời khó hiểu: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Cũng không phải là khó hiểu nếu chúng ta coi lời nguyện của Chúa Giê-su trong Vườn Cây Dầu là tâm tình Cha Con, còn lời nguyện trên thập giá là tâm tình của con người với Thiên Chúa. Chúa Giê-su phải chu toàn sứ mệnh chịu cuộc Thương Khó vừa là Con Thiên Chúa vừa là con người, thì công cuộc cứu độ của Người mới có giá trị đích thực!
Tâm tình thứ hai của Chúa Giê-su là đối với các môn đệ. Bài Tin Mừng cho chúng ta cảm tưởng như Chúa Giê-su là chủ gia đình, đích thân chuẩn bị mọi sự cho các môn đệ cùng Người ăn mừng lễ Vượt Qua. Người cắt đặt các ông làm việc nọ việc kia. Người muốn có một bữa tiệc nói lên tình yêu, tình thầy trò, và mọi người có thể bày tỏ cõi lòng. Người tỏ ra tình yêu đặc biệt đối với những môn đệ phản bội: Giu-đa và Phê-rô. Với hai người này, Chúa có cùng một lời cảnh cáo và kêu gọi. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giê-su vẫn không nặng lời, dù ba môn đệ thân tín bỏ mặc Người trong cơn hấp hối cầu nguyện với Chúa Cha. Thực là một tình yêu trung thành, chấp nhận cả những yếu đuối của những người mình yêu thương!
Chúng ta không thể bỏ qua những tâm tình của Chúa Giê-su đối với kẻ thù. Trong cuộc Thương Khó, kẻ thù của Chúa Giê-su thật đông đảo và hùng hậu. Tất cả chỉ là để đối phó với “Người Tôi Trung của Thiên Chúa”, với “con chiên bị đem đi sát tế”. Đối chất với các thượng tế, kinh sư, những kẻ cáo gian và cả đến kẻ đại diện cho luật pháp xã hội là Phi-la-tô, Chúa Giê-su không nhiều lời. Người chỉ trả lời ngắn gọn khi cần, ngoài ra là im lặng, một thứ im lặng đầy ý nghĩa. Người không oán trách những kẻ hành hạ thân xác và tinh thần Người. Kết thúc những tâm tình đối với kẻ thù được tóm lại trong hai tiếng: tha thứ.
Tất cả những tâm tình của Chúa Giê-su trong cuộc Thương Khó đã chứng minh cho một chân lý mà viên đại đội trưởng Rô-ma đã tuyên xưng khi ông ta nhìn lên Chúa chết trên thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!”
Sống sứ điệp Tin Mừng
Dĩ nhiên chúng ta có thể khám phá nhiều tâm tình khác của Chúa Giê-su trong cuộc Thương Khó của Người, nhưng chúng ta cần trả lời thành thực câu hỏi: Vậy đâu là những tâm tình của Chúa Giê-su đối với tôi khi Người trải qua cuộc Thương Khó? Người đối xử với tôi thế nào vì tôi là môn đệ Người? Vì tôi là một kẻ tội lỗi, là kẻ thù của Người? Tôi có nhận ra được tình yêu đặc biệt Người dành cho tôi, khi Người chịu cáo gian, đánh đập, vác thập giá, sỉ nhục và cuối cùng chết quằn quại trên thập giá không? Đề tài suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa thật phong phú! Mong chúng ta hết thảy được kết hiệp với Người.
Bắt đầu bước vào Tuần Thánh, Phụng vụ Lời Chúa trong tuần này trình bày dung mạo Chúa Ki-tô vô cùng độc đáo. Chúa Ki-tô là người Tôi Trung của Thiên Chúa. Tất cả những biến cố trong những ngày cuối cuộc đời dương thế của Chúa Giê-su đã diễn tiến trong tư thế khiêm nhường của Chúa Ki-tô khi Người hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, chấp nhận chết để chuộc lại lỗi lầm của nhân loại. Hình ảnh Chúa Giê-su cưỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem được tất cả bốn sách Tin Mừng kể lại không những đã nói lên đặc tính khiêm nhường vâng phục của Người, mà còn giúp ta hướng tới một triều đại bình an Người thiết lập cho nhân loại qua cái chết của Người.
1. Suy niệm theo ngôn sứ I-sai-a: Chúa Ki-tô là người Tôi Trung của Thiên Chúa (bài đọc Cựu Ước – Is 50:4-7)
Bài ca về người Tôi Trung của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a được sử dụng hôm nay là bài thứ ba. Bốn bài ca người Tôi Trung đều có những nét độc đáo. Bài ca hôm nay lời lẽ rất đơn sơ, phác họa vài nét chính về con người và sứ vụ của Chúa Ki-tô. Trước hết bài ca đề cập tới một đặc điểm của người Tôi Trung, là luôn luôn nói năng và lắng nghe “như một người môn đệ”.
Thực vậy, trước mặt Thiên Chúa, Đức Ki-tô luôn luôn sống “như một người môn đệ”. Người đã được Thiên Chúa sai đến trần gian để thi hành sứ vụ cứu độ. Ba năm trời đi rao giảng Tin Mừng, Người đã nói năng như một người môn đệ, nghĩa là Thầy bảo nói gì thì môn đệ nói điều ấy. Chúa Giê-su đã nhiều lần khẳng định điều này. “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì… Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12:49-50). Là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Chúa Giê-su đã nói lên bằng ngôn ngữ loài người tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với nhân loại. Không chỉ là những lời Thiên Chúa dạy dỗ con người, mà còn là những lời đem lại sự sống đời đời, những lời “nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50:4). Lời uy quyền của Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh tật thể xác, an ủi người trong cơn đau tinh thần, nhất là những lời thứ tha cho những người rã rời kiệt sức vì gánh nặng tội lỗi. Tóm lại, Người nói tức là Thiên Chúa nói. Tuy nhiên cách Người nói không lên mặt dạy đời như các Pha-ri-sêu và thông luật, mà là trong tinh thần khiêm tốn của người Môn đệ hoặc Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha.
Chúa Giê-su đã nói như một người môn đệ, Người còn hành động như một người môn đệ nữa. Nghĩa là Người làm bất cứ điều gì nhất nhất đều theo thánh ý Chúa Cha. Người được Chúa Cha sai đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành. Dân chúng và các môn đệ muốn Người ở lại những nơi người ta đang ngưỡng mộ Người, nhưng Người thẳng thắn bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy con rao giảng ở những nơi đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 2:38). Thái độ vâng nghe của người môn đệ là: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5). Người Môn đệ của Thiên Chúa với đôi tai lắng nghe và tấm lòng cương quyết thi hành bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn đã chấp nhận làm một điều ta không thể tưởng tượng nổi, đó là tự chuốc lấy đau khổ tủi nhục không phải vì lỗi mình, nhưng vì tội lỗi nhân loại. Đây chính là một phần trong cuộc Thương khó Chúa Giê-su sắp phải chịu: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Sở dĩ Người dám chấp nhận một “bất công” như thế, bởi vì Người có lòng tin tưởng vững chắc vào sự phù trợ của Thiên Chúa. Diễn tiến Thương khó không chỉ là hết đau đớn này tới đau đớn kia, nhưng mặt khác diễn tiến ấy còn nói lên niềm tin Thiên Chúa của Chúa Giê-su nữa.
Sở dĩ Chúa Giê-su đã có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và hoàn tất cuộc Thương khó là vì Người luôn luôn sống như một người Môn đệ của Thiên Chúa, nói năng và làm tất cả những gì Thầy mình là Thiên Chúa muốn. Nhận rõ hình ảnh người Môn đệ theo ngôn sứ I-sai-a diễn tả, ta mới dễ dàng chiêm ngưỡng được Chúa Giê-su trải qua cuộc Thương khó như thế nào theo bài Tin Mừng ta sắp lắng nghe.
2. Suy niệm theo thánh Phao-lô: Chúa Giê-su đã trút bỏ vinh quang Thiên Chúa và vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá (bài đọc Tân Ước – Pl 2:6-11)
Ngôn sứ I-sai-a mô tả Chúa Giê-su vâng phục như một người môn đệ, thì thánh Phao-lô còn đi xa hơn nữa khi ngài nói Chúa Giê-su đã “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:8). Thánh Phao-lô đề cao cấp độ vâng lời tuyệt đối của Chúa Giê-su, từ thân phận Thiên Chúa đã hạ mình làm người phàm, rồi sẵn sàng chọn cái chết ô nhục, tất cả chỉ vì muốn vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối.
Ta cứ tưởng tượng một ông vua từ bỏ ngai vàng để sống đời dân dã cũng đã làm cho ta kinh ngạc rồi. Ta thắc mắc làm sao ông ta có thể làm một việc phi thường như vậy. Địa vị ông vua trần gian làm sao sánh được với địa vị Thiên Chúa. Vậy mà, Chúa Giê-su đã “không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” để đi con đường vâng phục, dần dần bước xuống nấc thang cuối cùng, dưới cả thân phận nô lệ, tức là phải chết hổ nhục của một tên tử tội tồi tệ tận cùng. Không còn mức vâng phục nào hơn được nữa. Đúng vậy, sự kiêu ngạo của A-đam đã xúc phạm tới Thiên Chúa siêu việt thì cũng cần phải có sự khiêm nhượng và vâng phục tuyệt độ của Chúa Giê-su mới có thể đền bù cho tội lỗi của A-đam và nhân loại. Sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Giê-su có khả năng tận diệt mầm mống của tội lỗi là sự kiêu ngạo và phục hồi cho nhân loại tất cả những gì họ đánh mất đi do phạm tội. Xác tín về sự khiêm nhượng và vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su cho ta một căn bản chắc chắn để nắm bắt ý nghĩa của cuộc Thương khó Chúa Giê-su sắp phải chịu, đồng thời ta mới thấy được hiệu quả vô song cuộc Thương khó ấy đem lại cho nhân loại như thế nào.
3. Con đường thập giá là con đường vâng phục (bài Tin Mừng – Mc 14:1–15:47)
Chúa Giê-su vác thập giá và chịu chết nhục hình không phải như một siêu nhân, nhưng như một người môn đệ và một người phàm như tất cả mọi người bình thường khác. Điểm đặc biệt duy nhất và khác với mọi người, đó là một Chúa Giê-su vâng phục, với một đức khiêm nhường tuyệt đối.
Trước hết ta hãy theo chân Chúa Giê-su vào những giờ cuối cùng trước cuộc Thương khó, bắt đầu từ làng Bê-ta-ni-a. Đang khi Người dùng bữa, một người phụ nữ đến xức dầu thơm cho Người. Người ta “gắt gỏng với cô” vì thấy cô quá hoang phí. Chúa Giê-su không lớn tiếng hoặc sử dụng uy tín của Người, trái lại, Người ôn tồn bênh vực việc làm của bà ấy. Tiếp đến, trong bữa Tiệc ly Người phải đối diện với Giu-đa, kẻ nộp Người. Ta không thấy Người trách móc hay chỉ mặt vạch tên con người phản bội, nhưng Người chỉ từ tốn và kín đáo nhắc nhở hắn. Sau đó, khi ông Phê-rô tự hào sẽ không chối bỏ Thầy, Chúa Giê-su cũng chỉ “nhắc khéo” để ông ý thức yếu đuối của ông.
Tại Vườn Ghết-sê-ma-ni, sự vâng phục của Chúa Giê-su chiếu sáng giữa đêm đen mịt mùng. Khung cảnh và tương lai càng đen tối bao nhiêu, đức vâng phục của Người càng sáng tỏ bấy nhiêu. Cử chỉ “sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy” phản ảnh một “tâm hồn buồn đến chết được”, nhưng củng ngầm nói lên đức vâng phục thẳm sâu của Người. Ba lần cầu nguyện, ba lần vâng phục. Con số ba lần mang ý nghĩa tuyệt đối.
Từ sau khi bị bắt trong Vườn Dầu, Chúa Giê-su đã phải đối phó với muôn ngàn thử thách: những xấc xược của đám đông đến bắt Người, cái hôn phản bội của Giu-đa, những khinh bỉ và hạch sách của nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và thông luật, cuộc xét xử bất công do chính quyền đạo lẫn đời, những cực hình Người phải chịu do đám lính thô bạo. Người đã chịu đựng tất cả trong đức vâng phục, vì Người luôn ý thức Thiên Chúa muốn Người là một môn đệ trung tín và một tên nô lệ phải chết nhục trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Con đường thập giá của Chúa Giê-su nhắc nhớ ta về con đường thập giá của mỗi tín hữu. Ta đi con đường thập giá, nhưng với tâm tình và thái độ nào? Với ta, nhiều khi thập giá không còn là dấu chỉ vâng phục, nhưng là dấu chỉ của trách móc Thiên Chúa, than thân trách phận, đưa đẩy tới buông xuôi hoặc đi vào con đường xấu xa tội lỗi. Con đường thập giá của Chúa Giê-su kết thúc với lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rô-ma: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39). Đây thực là một lý tưởng và thách đố cho mọi Ki-tô hữu, những kẻ tự hào vác thập giá mình mà bước theo sau Chúa Giê-su. Liệu ta có xứng đáng được người khác nhận định: Quả thật, người này là con Thiên Chúa?
4. Sống Lời Chúa
Trình thuật cuộc Thương khó của Chúa Giê-su không chỉ là trình bày những chi tiết lịch sử về cái chết khổ nhục của Người, nhưng qua đó ta có thể chiêm ngưỡng những nhân đức của Người, nhất là đức vâng phục trước thánh ý Thiên Chúa Cha. Ngôn sứ I-sai-a và thánh Phao-lô đã cho ta những suy niệm đơn sơ nhưng vô cùng sâu sắc, để ta nhận ra được động lực nào đã giúp Chúa Giê-su hoàn tất cuộc Thương khó của Người. Đồng thời suy niệm cuộc Thương khó của Chúa Giê-su cũng giúp ta tìm thấy ý nghĩa đích thực của con đường thập giá ta đang bước đi trên trần gian này, con đường đưa ta qua những khổ đau chóng qua để tiến đến vinh quang muôn đời.
Suy nghĩ: Những giây phút Chúa Giê-su cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-ni có ý nghĩa gì đối với tôi và cuộc đời của tôi? Tôi đã thưa gì với Chúa những khi tôi phải đối phó với một “cuộc thương khó” xảy đến với tôi? Nhìn lại một kinh nghiệm thập giá đã qua, tôi học được gì?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Đấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật Lễ Lá).
Khi chiêm ngắm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, bản thân tôi đang gặp nhiều đau thương trong cuộc sống hiện tại. Thân xác tôi bị bầm dập với những thương tích rất cụ thể. Hai chân vẫn còn sưng lên, nhức về chiều rồi kéo dài mãi đến tận đêm sâu. Sự bài tiết đã không còn tự kềm chế mỗi khi đêm về như một trẻ nhỏ còn măng sữa. Chưa hết, tôi còn bị dồn dập thêm những thứ đau đớn về tâm linh. Đứa con trai duy nhất lười biếng học hành, lao vào trò chơi điện tử trên mạng gây ra tiếng to, tiếng nặng, chửi bới từ người mẹ. Rồi trong công việc xã hội của vợ, những ghen tương đố kỵ, hất cẳng nhau đã xào xáo gia đình tôi như mớ bòng bong khó vượt thoát nổi. Những khi phải đối diện với những tang tóc sầu não như thế, tôi thường lặng thinh và tìm sâu vào nội tâm lòng mình.
Khi vào phòng đóng cửa lại rồi, hình ảnh thường chợt đến trong trí tôi. Đó là câu hỏi rất hồn nhiên của một cháu trai bị ung thư xương: “Tại sao Chúa Giêsu lại phải chết nhục nhã như thế?” Cháu là bệnh nhân ngoại đạo mà tôi gặp trước đây và chỉ sau vài lân gặp gỡ, cháu đã ngỡ ngàng đặt nghi vấn như trên. Trước câu hỏi bất ngờ này của cháu, tôi đã lúng túng nhưng rồi tôi cũng chỉ còn biết khơi gợi như là câu đáp trả cho chính tôi vậy: “Chỉ khi nào cháu có trái tim biết đồng cảm yêu thương người tội lỗi và khốn khổ khác, cháu mới hiểu thấu được cái chết đau thương của Chúa Giêsu như cháu đã đặt ra cho cháu và với chú. Hy vọng ngày nào đó, cháu sẽ có trái tim như Ngài!”
Khi nhớ lại biến cố cùng lời đáp trả trên và trước những vấn nạn của riêng mình, tôi thường tự nhủ: “Tôi đã có trái tim như Chúa Giêsu đã thể hiện ra trong Cuộc Khô Nạn của Ngài chưa?” Mỗi lần gặp đau khổ, mỗi lần tự soi rọi lại như thế, Thần Khí Lời Chúa luôn dẫn tôi đi sâu vào hình ảnh đau thương trên thập giá và lời cầu xin của Ngài như trong bài Tin Mừng Thương Khó Luca: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34)
Lúc đau khổ nhất trên thập tự, thế mà Chúa Giêsu đã không nghĩ đến nó. Chúa không thu về mình mà hoàn toàn chỉ biết nhìn đến nỗi đau thương của người khác. Mà lại là những người toa rập rồi hãm hại giết chết Ngài. Chúa đã yêu thương họ, bởi sự dữ đã trói cột tâm hồn trái tim của họ lại. Chúa yêu thương họ vì họ là những con người bất tòan tội lỗi, bởi chính Ngài đã mặc khải: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17) Và một khi nghĩ đến những xúc phạm đáng thương của họ, Chúa mới cất tiếng cầu xin cùng Chúa Cha tha cho họ. Hơn thế nữa, Ngài còn bào chữa cho họ, “vì họ không biết việc họ làm” và lại còn chịu đựng đau đớn vì như cô đơn cùng cực trước sự vô tình đối với tình yêu bao la mà Ngài đem đến cho nhân loại: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? “ (Mc 15, 34)
Ôi! Một trái tim chỉ toàn là yêu thương và tha thứ!
Đây cũng chính là lời sấm ngôn của Đức Chúa mà ngôn sứ Gêrêmia đã ghi lại cũng như thư Do Thái trích dẫn: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với chúng sau những ngày đó, thì Đức Chúa phán: “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng, sẽ khắc vào lòng chúng Lề Luật của Ta.” (Dt 10, 16) Lề Luật Thần Khí này được thánh Phaolô diễn tả: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật, vì đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại.” (Rm 13, 10) Một khi đã có trái tim tòan là yêu thương tha thứ thì, như Đức Chúa phán: “Ta sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác của chúng nữa.” (Dt 10, 17) Chiêm ngắm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, thánh Tông Đồ Dân Ngoại đã xác tín: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 8-9)
Nhờ biết thinh lặng nội tâm cùng chiêm ngắm không chán nản tình yêu thập giá mà tôi đã không còn nghĩ đến những đối xử tệ bạc của con trước lo toan vun đắp của mình, đến những phiền muộn bao quanh cuộc đời đầy gai góc của mình nữa. Nhờ nhận ra tình yêu thập giá và cầu nguyện cùng Chúa Giêsu mà tôi tiếp tục gánh vác, đón nhận những khổ đau trong thân xác như được thông phần với Ngài. Bởi chưng, lời nói của tên gian phi biết ăn năn đã giúp tôi tiếp tục thu về mình những mất mát thua thiệt vì: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” (Lc 23, 41)
Chính nhờ nhìn vào nội tâm xấu xa yếu hèn của mình mà người trộm lành cũng như tôi đã van xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42). Để rồi với lòng đại lượng bao la, Chúa Giêsu đã không ngần ngại tha thứ cho anh ta và cho chính tôi: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 43)
Quả là, trên bình diện công bình của xã hội, người trộm lành đã bị kết án vì những quá khứ tồi tệ của anh và cũng vì để ngăn ngừa những sai phạm, những hành vi tác hại của anh gây ra cho môi trường sống xung quanh. Nhưng đức công bình của Thiên Chúa, thì hoàn toàn nằm ở chiều sâu thăm thẳm mà chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Phàn Xét thật sự. Để tha thứ cho kẻ có tội, Đức Công Bình của Người chỉ cần một thay đổi muốn trở về nào đó là đủ. Như vậy, ít ra, ai đã quay lại với Đức Kitô thì người ấy nhìn thấy được Người Tôi Tớ Đau Khổ đã cao thượng, đã quảng đại đến như thế nào! Còn mình chỉ là kẻ bủn xỉn, nhỏ nhen và ích kỉ.
Trải qua kinh nghiệm cuộc sống và cảm nghiệm lắng đọng thâm sâu khi chiêm ngắm thập giá Đức Kitô, thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô Giêsu thì không còn bị lên án nữa. Thật vậy, Luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết. . . .” vì “ khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống thân xác chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình.” (Rm 8, 1-3)
Nhờ vậy mà Ngài đã tuyên xưng vô cùng cao cả và đã thấm sâu vào lòng tôi: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 19b-20)
Lạy Cha yêu thương,
Con xin cảm tạ Cha đã cho con đón nhận những đau thương trong tâm hồn và thân xác con.
Xin cho chúng con luôn biết chiêm ngắm thập giá của Chúa Giêsu, Con Cha, để chúng con nhận ra Thần Khí Yêu Thương của Cha đã đổ tràn trên chúng con từ Trái Tim Bị Đâm Thâu.
Và khi có được trái tim chỉ toàn là tha thứ như Con Cha, chúng con mới dễ dàng lướt thắng được những nghịch cảnh khổ đau trong cuộc lữ hành trần gian này, để rồi với niềm cậy trông chúng con cũng sẽ được sống trong cõi vĩnh hằng Thiên Đàng là cung lòng yêu thương của Cha. Amen.
( Những người lính) dùng cây sậy đập đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài, và quì gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra và cho Ngài mặc lại áo của Ngài. Rồi chúng điệu Ngài ra để đóng đinh vào thập giá ( Mc 15,19-20 ).
Con người muôn thời vẫn thích cái gì là dễ dãi, muốn bước trên những con đường rộng thênh thang, trải nhựa dát vàng. Con người tự cho mình là văn minh vượt bực, những phương tiện truyền thông đại chúng xem ra tối tân và đi đến chỗ rất tinh vi. Người ta thích danh vọng, quyền hành, tiền của. Người ta thích nói đến buôn bán, kinh doanh. Càng nhiều tiền, càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Càng tiện nghi, càng thoải mái, càng dễ dàng càng làm con người hạnh phúc và sung sướng. Người dại mới nói tới hy sinh, quảng đại, vị tha xả kỷ, chịu đau khổ và muốn cho người khác hạnh phúc. Con người hầu như cố tình hay giả bộ quên đi cuộc thống khổ của Chúa Giêsu. Cuộc thương khó này dầu rằng người ta tin có thật nhưng cũng đã đi vào dĩ vãng quá xa vời vợi không còn dính dáng gì đến hạnh phúc tương lai hay hiện tại của con người. Người ta cũng hiểu rằng dù Đức Giêsu đã chết trên thập hình khổ giá, thì những vấn đề của thời đại như đau khổ, và nhiều vấn đề thực tế khác vẫn luôn còn đó như những vết hằn sâu của thế giới con người.
Con người không muốn tham gia hay nói cách khác đi vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu do Người khởi xướng và mời gọi. Con người khó chấp nhận, khó tin vào tình yêu của Thiên Chúa và của loài người. Con người muốn tìm hạnh phúc, muốn tìm dễ dãi, muốn tìm lợi nhuận, muốn tìm sự thoải mái mà không cần đến thập giá Chúa Kitô. Họ cho thập giá chỉ là sự dại dột hay yếu hèn. Con người muốn đi lối tắt nhưng đường lối phải rộng thênh thang, dát vàng, trải nhựa.Họ không muốn đi ngõ hẹp, không muốn chấp nhận khó khăn, không muốn hy sinh quảng đại. Họ muốn khép chặt trái tim lại và làm cho con tim mình khô cằn.
Tuy nhiên, càng suy nghĩ, càng tỉnh tâm, tỉnnh thức, con người sẽ cảm nhận: chính lúc con người thích thoải mái, thích dễ dãi, chính lúc cộng đồng hay nhóm người muốn quên đi sự quảng đại, lòng hy sinh, tình yêu thương, phục vụ quên mình, sự gắn bó với thập giá Chúa Kitô….thì con người lại cảm thấy sao sao đó, cảm thấy như lạc loài, lẻ loi, đơn chiếc, neo đơn và chìm sâu trong chốn bùn lầy tanh hôi của tội lỗi, của đê hèn và thất vọng. Con người bị chìm sâu trong chốn ăn chơi trác táng, ham mê danh vọng, tiền tài, sắc dục vv…Chính những trò đùa này đã đóng đinh Chúa vào thập giá.
Do đó, hằng năm cứ vào lễ lá và tuần thánh, Giáo Hội lại cho đọc lại trong phụng vụ cách rất trân trọng các bài sách thánh tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa. Cuộc thương khó của Chúa Giêsu dù thánh sử nào ghi chép lại hay kể lại cũng muốn nhấn mạnh cho nhân loại hay rằng:” Tội Adam và Evà, tội lỗi của nhân loại đã lay động lòng Chúa, đã đụng tới sự thẩm sâu trong tâm hồn của Chúa, khiến Thiên Chúa không thể nào không mủi lòng để sai con một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian, gánh lấy tội nhân trần, gánh tội của mỗi người, đổ hết máu mình ra để chứng minh cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Con người được cứu độ là do ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Thiên Chúa đi bước trước đến với con người. Người yêu thương con người đến nỗi chấp nhận quên mình, chịu treo trên thập giá dù mình hoàn toàn vô tội để cứu độ nhân loại, cứu độ mọi người. Do đó, mọi đau khổ của con người, mọi thiếu thốn, hụt hẵng của con người, đặc biệt của những con người bé nhỏ, mọn hèn đều có giá trị góp vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa và góp vào việc cứu độ anh em khác.
Quả thực, những kẻ nhỏ bé, những Anawim của Thiên Chúa như thánh Giuse, mẹ Maria, các thánh là những gương mặt nổi bật sống Tin mừng tám mối phúc thật, sống đường ngay nẻo chính, sống vác thập giá mà theo Chúa Kitô. Chính lối sống ấy đã bù vào những xúc phạm của loài người, bù đắp những ơ hờ, những hờ hững của con người đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu vẫn còn đó. Cái chết của Chúa vẫn là một dấu hỏi lớn cho muôn người muôn thời. Tội lỗi của con người đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Tội lỗi của con người, của loài người đã làm Chúa đau khổ. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần con người xúc phạm đến con người thánh của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được nói lên lời nói này: tôi đã, đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô ?
Thánh Phanxicô Salêsiô đã nói một câu chí lý::” Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình yêu của Chúa Kitô. Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện bằng cái chết của Ngài “.
Càng gần tới cái chết khổ nhục trên thập giá, chân tính của Chúa Giê-su càng được sáng tỏ hơn. Tin Mừng Mác-cô trình bày mầu nhiệm Đấng Ki-tô như một bí mật. Sau khi làm những phép lạ, Chúa Giê-su thường ngăn cấm không cho người được khỏi bệnh nói cho người khác biết Người đã chữa lành cho họ. Ngay đến ông Phê-rô, sau khi tuyên xưng Người là Đấng Ki-tô, Người cũng nghiêm cấm các ông không được nói cho ai biết điều đó. Giờ đây, điều gì phải đến sẽ đến. Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su đã biểu lộ rõ ràng chân tính ấy vào ba thời điểm: cuộc xức dầu thơm ở Bê-ta-ni-a, lúc Người đứng trước Thượng Hội Đồng và trên Gôn-gô-tha khi viên đại đội trưởng Rô-ma tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Vậy ta hãy dừng lại ở ba địa điểm ấy, nhìn lên Chúa Giê-su, nghe Người nói và nhất là cung kính nhìn nhận sứ mệnh hy sinh của Người với tất cả lòng yêu mến và biết ơn.
a) Đấng Ki-tô được xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a
Đang khi Chúa Giê-su dùng bữa ở nhà ông Si-mon Cùi, một phụ nữ đã đến xức dầu thơm trên đầu Người. Hành vi xức dầu của người phụ nữ và những lời giải thích của Chúa Giê-su đã nói lên ý nghĩa biến cố này. Bình bạch ngọc và dầu thơm đựng trong đó đều là thứ đắt tiền, bằng với tiền lương của một công nhân làm việc ròng rã một năm trời. Vậy mà giờ đây người phụ nữ ấy “đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người”. Có lẽ bình dầu thơm ấy đã được giữ gìn cẩn thận không biết từ bao năm. Đã bao nhiêu dịp hoặc biến cố cô muốn sử dụng bình dầu thơm ấy, nhưng cô vẫn chưa thấy đủ lý do để sử dụng nó. Cô chờ đợi. Hôm nay, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa trên đường lên Giê-ru-sa-lem để được tấn phong làm Vua Cứu Thế đã dừng lại ở Bê-ta-ni-a, đúng là dịp để cô sử dụng bình dầu thơm quý giá ấy. Hành động của cô không cần lời nói gây chú ý hoặc khoe khoang. Cô yên lặng đập vỡ nút bình đã được gắn kỹ lưỡng, rồi trút dầu thơm trên đầu Chúa Giê-su. Lòng yêu mến là động lực khiến cô không chút tiếc rẻ, trái lại chỉ sợ còn chưa đủ để nói lên tất cả tâm tình kính yêu của cô. Xức dầu cho Vua trời đất là một vinh dự cô không bao giờ dám mơ tưởng.
Về phần Chúa Giê-su, Người đã nghiêm nghị sửa dạy những kẻ phê phán việc làm của cô và Người cho biết ý nghĩa việc làm ấy: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”. Chúa Giê-su ám chỉ việc xức dầu cho một vị vua sẽ chịu đau khổ và chịu chết. Ý nghĩa việc xức dầu ấy chính người phụ nữ cũng không ý thức được, nên đã được Chúa Giê-su nói lên thay cho cô. Bằng lời nói, ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô. Còn ở đây, bằng việc xức dầu, người phụ nữ đã tuyên xưng vương quyền của Đấng Cứu Thế.
Câu truyện xức dầu đã được thánh sử dùng để mở đầu cho trình thuật Thương Khó của Chúa Giê-su có một ý nghĩa đặc biệt đối với ta trong những ngày thánh thiện của Tuần Thánh này. Chúa Giê-su, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa đang mời gọi ta bước theo Người trên đường khổ giá. Ta có nhiều cách để “xức dầu” cho Chúa và tuyên xưng Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Lời Chúa Giê-su nói về người phụ nữ làm cho ta phải suy nghĩ: “Điều gì làm được thì cô đã làm”. Cô không thể xức dầu ướp xác Người ít ngày nữa, cho nên bây giờ cô xức dầu trên đầu Người. Còn ta, có rất nhiều dịp và nhiều việc ta có thể làm để tuyên xưng Người thì ta lại không làm. Nếu đặt cuộc đời ta là một hành trình cùng với Chúa Giê-su trên đường Thương Khó, thì việc xức dầu của người phụ nữ quả thực nhắc nhở ta về chân tính Đấng Ki-tô của Người và bổn phận phải tuyên xưng đức tin của ta.
b) Đấng Ki-tô tỏ ra chân tính của Người trước Thượng Hội Đồng
Cuộc Thương Khó tới hồi quyết liệt và đây là giây phút hùng hồn nhất của cả cuộc đời và sứ mệnh Chúa Giê-su. Chúa khẳng khái trả lời trước toàn thể hội đồng câu hỏi của vị thượng tế “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?”, Người nhấn mạnh từng lời từng chữ: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến”. Câu trả lời chắc chắn đưa tới cái chết. Nếu chối bỏ là chối bỏ chính con người và sứ mệnh của Người.
Động lực nào đã thúc đẩy Chúa Giê-su chấp nhận câu trả lời chết người như vậy, nếu không phải là vì yêu mến? Yêu mến Chúa Cha và yêu mến nhân loại. Hành động yêu mến khi người phụ nữ xức dầu trên đầu Chúa Giê-su được Người đáp trả không biết bao nhiêu lần khi Người nhận lấy cái chết để tỏ lòng yêu thương. Phải chi ta cũng xức dầu cho Chúa và nhận ra được Người đáp trả ta qua cái chết đầy yêu thương của Người!
Sau khi nhận lấy danh hiệu Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng, Chúa Giê-su được vinh danh như thế nào? Thánh Mác-cô cho ta những câu trả lời hết sức sống động, như đang thực sự xảy ra trước mắt ta. Không phải là những tiếng hô chúc tụng, mà là một màn hạ nhục vô cùng tàn bạo với những lời tục tĩu, chửi rủa, lên án. Chẳng có những vòng hoa dâng kính, nhưng là khạc nhổ, nước bọt, đờm rãi thi nhau phóng vào mặt mũi Người. Không phải những tiếng vỗ tay rân ran tán dương, mà là những tay đấm chân đá túi bụi vào thân hình tiều tụy của Người... Đấy, danh hiệu Con Người hoặc Đấng Ki-tô của Chúa Giê-su đã được nhìn nhận như vậy đó! Người Tôi Tớ Đau khổ của Đức Chúa cúi mặt chấp nhận mọi bất công, mọi sỉ nhục. Trong lòng Người trào dâng yêu thương. Nồng độ yêu thương tăng lên theo tỷ lệ thuận với đau khổ. Những lời giải thích của Chúa Giê-su trong ba lần tiên báo cuộc Thương Khó giờ đây ta mới hiểu thấm thía: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người” (Mc 10:33-34).
Có vài người bạn rất thân yêu của Chúa Giê-su cũng về phe với những kẻ chối bỏ Đấng Ki-tô: Giu-đa tên phản bội và Phê-rô người môn đệ thân tín nhất. Ta sẽ chọn đóng vai Giu-đa hay Phê-rô? Nếu ta nhận ra mức độ lớn lao của Người Bạn sẵn sàng thí mạng sống vì bạn hữu, ta sẽ khiêm nhượng đóng vai Phê-rô, để đời ta luôn là một cuộc trở về, đáp lại Tình Yêu của Người.
c) Tại Gôn-gô-tha, viên đại đội trưởng tuyên xưng: “Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa”
Đáng lẽ lời tuyên xưng trên phải thốt ra từ miệng các môn đệ hoặc Dân được Chúa tuyển chọn, nhưng lại được tuyên xưng do một người dân ngoại. Trước khi kể lại lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng, thánh sử Mác-cô cho ta một chi tiết rất ý nghĩa: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói...” Đúng vậy, cần phải đứng đối diện với Chúa, phải ở gần Người, chiêm ngưỡng Người quằn quại trong đau đớn mà không chửi rủa than trách, trái lại Người còn nhân từ độ lượng tha thứ cho kẻ thù, Người còn chiếu ra những ánh mắt yêu thương trìu mến..., ta mới có thể nhận ra được chân tính của Người. Nhất là lúc tắt thở, Chúa Giê-su đã lập lại tiếng kêu của một người lúng túng và bối rối trước thử thách dồn dập, nhưng với tất cả lòng tín thác tin tưởng và bình an đặt số phận mình trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Nhất cử nhất động của tội nhân Giê-su đã được ghi lại trong cặp mắt của viên đại đội trưởng. Ông nhận ra được chân tính của con người này. Nhưng điểm đáng phục ở đây là ông còn can đảm tuyên xưng trước mặt nhân loại và trước mặt cả những kẻ thù của Chúa Giê-su: “Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa”. Con Thiên Chúa, hoặc Con Người, hoặc Đấng Ki-tô, hoặc Người Tôi Tớ Đau khổ, tất cả những danh hiệu này đều nói lên chân tính của Chúa Giê-su, Đấng đã chết để cứu chuộc trần gian.
Đến đây, bí mật về Đấng Ki-tô không còn là một bí mật nữa. Người đã được tuyên xưng ở giây phút đen tối nhất cuộc đời Người. Tuy ta đã rõ được chân tính của Chúa Giê-su, nhưng liệu ta có dám bước thêm một bước nữa như viên đại đội trưởng, tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, và bước thêm một bước nữa như người môn đệ chân chính biết yêu thương và phục vụ tha nhân như Thầy Giê-su đã làm gương không?
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
“Điều gì làm được thì cô đã làm”, Chúa Giê-su nói về người phụ nữ xức dầu cho Người. Còn tôi, có bao giờ tôi hỏi mình những câu hỏi này: “Tôi đã làm gì cho Chúa Giê-su? Tôi có thể làm gì cho Người?” Chọn lấy một điều ý nghĩa nhất để thi hành cho Người, vì Người và với Người.
Tôi cảm nhận những đau khổ của Chúa Giê-su như một người quan sát hay như một người đồng hành đồng cảm với Người (companion = cùng chia một bánh)? Nếu đồng cảm những đau khổ của Chúa, tôi nhận ra mình dự phần vao những đau khổ của Người như thế nào?
Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng có ý nghĩa gì đối với tôi? Đó có phải là lời tuyên xưng của cá nhân tôi không?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá bao lâu tùy ý Cha định liệu. Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen. Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng. Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.” - Cha Karl Rahner (Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
Trong Tuần Thánh, từ Chúa Nhật Lễ Lá cho đến Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta chìm đắm trong những suy niệm về cuộc Thương khó và Sống lại của Chúa Giê-su được ghi lại trong những bài Tin Mừng. Nhưng có lẽ ít khi nào chúng ta chú ý tới một bài đọc tuy ngắn, nhưng lại vô cùng quan trọng và tóm tắt những mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chúng ta cử hành trong tuần này. Hơn thế nữa, bài đọc ấy còn là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta nhận ra “Đức Ki-tô là Đấng nào?” Bài đọc ấy chính là bài Tân Ước, thư Phi-líp-phê 2:6-11. Người ta coi đoạn thư này như một tổng luận Ki-tô học được thánh Phao-lô trình bày và quảng diễn trong hầu hết các thư của ngài. Nội dung của đoạn thư không chỉ mang đặc tính thần học, ca ngợi Đức Ki-tô và mầu nhiệm Đức Ki-tô, mà còn là đề tài suy niệm và cầu nguyện vô cùng phong phú, giúp cho tất cả chúng ta tìm thấy nơi Chúa Ki-tô một lối sống gương mẫu.
a) Đức Ki-tô là đường Thiên Chúa đến với nhân loại
Bình thường chúng ta hiểu Đức Ki-tô là đường đưa chúng ta tới Thiên Chúa, dựa vào lời Người quả quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Nhưng trước khi Đức Ki-tô là đường để chúng ta đến với Thiên Chúa, thì Người đã là đường để Thiên Chúa đến với chúng ta. Con đường ấy là con đường khởi đầu từ vô hạn đến với hữu hạn, từ không lệ thuộc vào không gian và thời gian đến lệ thuộc vào địa lý và niên kỷ, từ đứng ngoài lịch sử đến đóng khung trong lịch sử nhân loại, từ bất tử trường sinh đến tình trạng yếu đuối và cái chết... Tóm lại, con đường Ki-tô mà Thiên Chúa dùng để đến với nhân loại được mô tả bằng một từ vô cùng thực tế: hoàn toàn trút bỏ vinh quang (self-emptying; kenosis).
Mầu nhiệm của con đường là ở điểm Thiên Chúa đã chọn lựa con đường như thế thay vì chọn con đường khác. Cái lô-gích của chúng ta luôn cho là khi Thiên Chúa đến với chúng ta thì Người sẽ đến theo cách thức của một vị Thiên Chúa. Mà thực như vậy, trong Cựu Ước, những cuộc hiển linh của Thiên Chúa được mô tả bằng những hình ảnh long trọng, uy nghi. Có lửa, mây, sấm sét, cuồng phong... (Xh 19). Có sợ hãi, run rẩy, van xin “Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20). Con người chỉ có thể hiểu cách thức Thiên Chúa đến với họ như vậy thôi. Họ không thể hiểu được cái lý lẽ của tình yêu Thiên Chúa đã khiến Người chọn con đường trút bỏ vinh quang Thiên Chúa và trở thành con người như chúng ta. Con đường Ki-tô là con đường của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó đã trở thành một mầu nhiệm đối với lô-gích của con người.
b) Mức độ trút bỏ vinh quang Thiên Chúa
Đó là mức độ hoàn toàn, không còn giữ lại chút nào cho mình. Qua lối diễn tả của Phao-lô (hoặc của cộng đồng Ki-tô hữu sơ khai), chúng ta nhận ra “những bước thoái hóa” hoặc những bậc thang đi xuống, bắt đầu từ địa vị Thiên Chúa xuống tới thân phận một tội phạm chết nhục nhã trên thập giá.
Vậy những bước đi xuống của Thiên Chúa làm người tuần tự như sau: a) Từ địa vị Thiên Chúa, Đức Ki-tô từ bỏ sự ngang hàng với Thiên Chúa và vinh quang Thiên Chúa; b) Chọn làm một con người; c) Trong loài người, chọn thân phận nô lệ; d) Trong giới nô lệ, chọn làm tên nô lệ chết do khổ hình thập giá ô nhục. Từ bước trên xuống bước dưới, không phải chỉ là “đôi hia bảy dặm” nhưng là những khoảng cách không khi nào có thể thực hiện được. Khước từ vinh quang Thiên Chúa để làm người, Đức Ki-tô muốn chia sẻ tất cả những gì yếu đuối của con người, như đói khát, nghèo hèn, mệt nhọc, đau khổ và cả cái chết, chỉ trừ tội lỗi thôi. Làm một người bình thường chưa đủ, Đức Ki-tô còn muốn trút bỏ thêm, đó là bỏ đi chính ý riêng của mình để hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. Vâng phục là đặc điểm của người nô lệ. Tuy nhiên có tên nô lệ nào vâng phục đến độ bảo chết là tự thâm tâm muốn chết liền đâu? Giả như có muốn chết đi nữa thì cũng chẳng ai muốn chọn một cái chết ô nhục, nhưng ít ra cũng muốn chết như một người có nhân phẩm. Vậy mà Đức Ki-tô đã vâng phục đến nỗi vui lòng đón nhận cái chết và cả cái chết ô nhục trên thập giá nữa. Nhìn sự vâng phục thập toàn (Dt 5:9) của Đức Ki-tô, chúng ta mới hiểu lỗi lầm bất tuân phục của A-đam lớn lao như thế nào vì nó phạm đến Thiên Chúa.
c) Đức Ki-tô là đường nhân loại đến với Thiên Chúa
Qua những bước trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, Đức Ki-tô đã thực sự đến với nhân loại. Tuy nhiên con đường Thiên Chúa đến với nhân loại không phải là ngõ cụt. Nếu Đức Ki-tô không sống lại thì đúng Người sẽ là ngõ cụt. Nhưng qua sự Phục Sinh, Đức Ki-tô được Thiên Chúa tôn vinh và trở về với Thiên Chúa. Con đường Ki-tô trở về với Thiên Chúa giờ đây lại trở thành con đường để cho toàn thể nhân loại đến với Nguồn Cội của mình.
Không phải là con đường rộng rãi đưa tới sự hư mất, nhưng là con đường nhỏ hẹp đòi hỏi hy sinh, chịu đựng gian khổ và dẫn tới vinh quang. Không phải là con đường cứng ngắc với luật lệ vô bổ, nhưng là con đường của luật bác ái, yêu thương, tha thứ và nâng đỡ nhau. Con đường ấy là một con người sống động, một lối sống gương mẫu, một mời gọi khách lữ hành phải kết hợp mật thiết với chính con đường thì mới tới được quê hương đích thực của mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tại sao Phụng vụ Tuần Thánh đề cao hình ảnh Đức Ki-tô hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa? Do-thái 5:9 giúp tôi trả lời câu hỏi này như thế nào?
“Chúa Ki-tô đã chết để chuộc tội cho nhân loại” có còn là một ý niệm mơ hồ đối với tôi nữa không? Tôi có cảm nghiệm “Mầu nhiệm Đức Ki-tô” một cách tích cực và sống động không? Hoặc nói khác đi, tôi có thực sự nhận ra Đức Ki-tô đã sống, chết và sống lại cho nhân loại và nhất là cho cá nhân tôi không? Tại sao?
Tôi đã nhiều lần nghe câu Tin Mừng Ga 14:6 (“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”). Giờ đây, tôi hiểu thêm được những gì qua những lời ấy? Quan trọng hơn nữa, tôi đã lên đường đến với Thiên Chúa như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện kết thúc sau đây:
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. A-men.”
Trong đời linh mục, nhiều lần chúng tôi được chứng kiến người ta chết. Hoặc chúng tôi cũng được nghe người trong gia đình nói về người thân của họ chết như thế nào. Thí dụ: Thưa cha, cám ơn Chúa, mẹ con đã ra đi rất êm ả, bà chết thật là thánh thiện. Hoặc: Bố con khi còn sống chỉ ước ao được chết vào ngày Thứ Sáu đầu tháng, vì ông cụ rất có lòng kính mến Trái Tim Chúa Giê-su, và Chúa đã thương nhận lời... Thực tại cái chết là một chuyện, nhưng tư thái của người ta lúc hấp hối và chết là chuyện khác và nhiều khi thật quan trọng và nói lên con người đó là ai, như thế nào.
Với bài Thương khó trích sách Tin Mừng Mác-cô, chúng ta có một nhân chứng hết sức đặc biệt đã chứng kiến giờ hấp hối của Chúa Giê-su trên thập giá và đã phát biểu niềm tin của ông về Chúa Giê-su. Nhân chứng đó chính là viên sĩ quan Rô-ma, người có trách nhiệm việc thi hành án tử hình, đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá. Ông ta là người có nhiệm vụ xác nhận Chúa Giê-su đã thực sự chết rồi hay là chưa, cho nên ông càng phải quan sát kỹ lưỡng hơn ai hết. Thánh Mác-cô đã ghi lại một câu nói về ông ta như sau: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).
Tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, đó là mục đích của sách Tin Mừng Mác-cô. Khi viết sách Tin Mừng, thánh Mác-cô mở đầu với tựa đề: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, rồi kết thúc với lời tuyên xưng của viên sỹ quan Rô-ma đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Chúa Giê-su: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. Viết như thế, thánh Mác-cô muốn trình bày và mời gọi chúng ta hãy đi vào một cuộc hành trình đức tin. Vậy hành trình đức tin ấy như thế nào? Hành trình ấy bắt đầu từ một khẳng định thuộc phạm vi hiểu biết, nói với chúng ta rằng: Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa. Tiếp theo, hành trình đó đưa chúng ta đi theo Chúa Giê-su trên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nhìn những việc Người làm, nghe những lời Người giảng dạy, theo Người lên Giê-ru-sa-lem để thấy Người luôn tuân phục Chúa Cha và sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, và cuối cùng đứng dưới chân thập giá để cùng với viên sĩ quan Rô-ma tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Ở đây, lời tuyên xưng là một niềm tin phát xuất từ trái tim con người. Không còn là một khẳng định thuộc phạm vi lý trí và hiểu biết nữa, nhưng là một sự tiếp nhận, một tâm tình hay một xác tín của con tim chúng ta. Không còn là “tôi biết, tôi hiểu Đức Giê-su là Con Thiên Chúa” nữa, nhưng là chính tâm tình của chúng ta, phải giống như tâm tình của tông đồ Tô-ma khi ngài tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”
Vậy viên đại đội trưởng người Rô-ma đã nhận ra điều gì khác lạ nơi kẻ tử tội Giê-su, không giống như những kẻ tử tội khác? Sách Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thể hình dung ra được. Bình thường những tử tội quen với tính hung dữ hoặc bất mãn của mình, hay chửi rủa oán hận người khác hoặc những kẻ hành quyết mình, bằng lời nói tục tằn cay đắng hoặc cử chỉ bất nhã. Nhưng tất cả những gì viên sĩ quan Rô-ma quan sát được nơi Chúa Giê-su lại hoàn toàn khác. Không hề nghe một lời oán trách hay làm mích lòng, mà trái lại chỉ có những lời tha thứ kẻ thù, tha thứ những kẻ chế giễu mình, khích lệ người trộm lành, ân cần lo lắng cho mẹ già, cho người môn đệ dấu yêu, và nhất là những lời kinh tha thiết thưa cùng Thiên Chúa Cha. Nếu có thì giờ, chúng ta hãy lần rở những dòng Kinh Thánh ghi lại các lời vàng ngọc của Chúa Giê-su trong giây phút cuối đời, để tìm thấy qua đó hình ảnh đích thực của Đấng “đã cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình” (15:31). Rồi viên sĩ quan Rô-ma không thấy nơi Chúa Giê-su một ánh mắt thù hằn, mà chỉ thấy đôi mắt hiền từ sáng ngời bên những giọt máu, trào dâng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúng ta cũng tin rằng chính ánh mắt tha thứ và mời gọi của Chúa Giê-su đã hoán cải tâm hồn chai đá của một chiến sĩ Rô-ma và biến ông thành người môn đệ của Chúa trong tương lai.
Bước vào Tuần Thánh, qua bài Tin Mừng, Phụng vụ Lời Chúa muốn cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, để chúng ta sẽ dần dần đi vào từng suy niệm sâu xa hơn mà cảm nghiệm được tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong chính cuộc sống hằng ngày, chúng ta là Ki-tô hữu được mời gọi hãy tháp nhập những đau khổ của chúng ta vào cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su, để nhờ đó chúng ta khám phá được ý nghĩa của đau khổ mình đang chịu. Chúa muốn chúng ta đi theo con đường thập giá Chúa Giê-su đã đi qua. Chúa muốn rằng qua tư thái hoặc cách thức chúng ta chịu đau khổ, người khác có thể nhận ra những khác biệt nơi người Ki-tô hữu, nghĩa là không phàn nàn oán trách, nhưng tin tưởng phó thác trong tay Chúa, không cay đắng muốn chối bỏ, nhưng coi thánh giá là một vinh dự lớn lao. Chính trên thập giá và trong cái chết của mình, Chúa Giê-su đã được nhận biết là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa. Cũng thế, nếu Ki-tô hữu chúng ta thể hiện được những tâm tình tha thứ, cầu nguyện, yêu thương của Chúa Giê-su trên thập giá khi chúng ta chịu đau khổ, thì chắc chắn chúng ta có thể làm cho những người chung quanh chúng ta nhận ra chúng ta là ai. “Quả thực, người này là con Thiên Chúa.” Mong được như vậy.
Truyền thống Công Giáo bắt đầu một tuần lễ cực thánh, chấm dứt 40 ngày chay tịnh bằng việc cử hành tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu vinh quang tiến vào thành Giêrusalem, để rồi sau đó Ngài bị bắt, bị đánh đòn, tra tấn, bị kết tội vác thập giá lên núi Sọ, bị đóng đinh và chết trên thập tự giá, nhưng ngày thứ ba Ngài đã Phục Sinh. Cũng qua Thánh Kinh, Chúa Giêsu vinh quang khải hoàn vào thành thánh không phải ngồi trên một con chiến mã, nhưng là trên lưng một con lừa. Những người tham dự vào cuộc khải hoàn ấy không phải là những đoàn quân anh dũng, khí giới tối tân, nhưng lại là những thường dân, những em nhỏ, những con người đơn sơ và chân thật. Và điều này gợi lên trong ta ý nghĩa gì? Riêng đối với những tâm hồn yêu mến và muốn theo bước chân Ngài, chúng ta suy nghĩ gì qua biến cố rất đặc biệt này?
Suốt 3 năm miệt mài, vất vả rao truyền chân lý, chữa lành bao kẻ tật nguyền, thực hiện bao phép lạ vỹ đại, hôm nay là ngày Chúa Giêsu được vinh hiển nhất, được tôn kính trọng vọng nhất. Dân chúng đứng chật hai vệ đường, người người vui mừng reo hò. Họ tung hô vạn tuế và không ngừng ca tụng: “Hoan hô con Vua Đavít. Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Lòng sùng mộ và yêu kính của dân chúng bấy giờ đã khiến họ hành động một cách hết sức đặc biệt. Họ cởi áo ngoài trải đường như một tấm thảm kéo dài trên đường Ngài đi qua. Và họ cầm trên tay ngành vạn tuế để vẫy chào Ngài khi Ngài đi qua chỗ họ. Thánh Kinh kể lại, số người theo tung hô Ngài mỗi lúc một thêm đông, đến độ khiến các Pharisiêu phải ghen tị.
Nhưng nếu bạn là người đang đứng hai bên đường và quan sát đám rước hôm đó, bạn sẽ thấy một chi tiết có thể khiến bạn phải dừng lại mà suy nghĩ. Đó là Chúa Giêsu không cỡi trên voi, trên ngựa, hay không ngồi trên kiệu mà tham dự cuộc khải hoàn này, nhưng Ngài lại ngồi trên lưng một con lừa con. Mátthêu ghi: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các anh hãy mở dây và dẫn về đây cho thầy” (Mt 21:2). Ngài làm thế còn để ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Hãy nói với thiếu nữ Sion rằng, này vua các ngươi đang ngự đến, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, là con lừa mẹ” (Mt 21:5).
Chúa cỡi lừa con để khải hoàn vào Giêrusalem. Ngài không cỡi voi hay cỡi ngựa, hoặc ngồi trên kiệu vì Ngài không muốn làm các thiếu nữ Sion phải hoảng sợ. Ngài không muốn bất cứ ai nhìn Ngài bằng cái nhìn đầy kinh ngạc, hoảng hốt và trốn tránh. Ngài không muốn tạo hình ảnh một kẻ có quyền, hưởng thụ, và kiêu hãnh. Cỡi voi thì phải có người phục dịch. Ngồi kiệu cũng phải có kẻ khiêng. Ngồi trên lưng ngựa tuy đơn giản hơn ngồi trên mình voi hay trên kiệu, tuy nhiên, ngồi trên lưng ngựa vẫn là hình ảnh của những kẻ anh hùng, những kẻ chiến thắng. Mà đã là anh hùng, chiến thắng tất nhiên có quyền kiêu hãnh, và vì thế cũng khiến nhiều người phải sợ hãi, nể phục.
Chúa Giêsu đã không muốn bất cứ ai phải bắt buộc theo và miễn cưỡng mến Ngài. Ngài cũng không dùng sức mạnh, quyền lực của kẻ chiến thắng để khống chế và thu phục nhân tâm. Chính vì thế những hình ảnh liên quan đến sức mạnh quyền lực đều bị Ngài loại bỏ, từ chối. Ngài chỉ muốn một mình đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con, nhỏ bé để tiến vào thành. Một hình ảnh nói lên vẻ thanh bình, đơn sơ, nhẹ nhàng, và tự nhiên. Và đó chính là Ngài, con chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian.
Cũng qua Thánh Kinh bạn và tôi biết rằng Ngài là vua chứ không phải chỉ là con Vua Đavít như người ta đã chúc tụng Ngài. Danh Ngài đáng được vang vọng chúc tụng trên các tầng trời, vì Ngài còn là Chúa tạo thành vũ trụ. Cả nhân loại phải phủ phục dưới chân Ngài và trước nhan Ngài. Mọi đầu gối, như Thánh Phaolô đã viết, trên trời, dưới đất và trong lòng đất phải quì gối trước mặt Ngài. Do đó, nếu Ngài dùng voi, dùng ngựa, dùng kiệu hay bất cứ phương tiện di chuyển nào khác tối tân và tiện nghi nhất của thời bấy giờ thì vẫn chỉ là những phương tiện tầm thường chưa xứng với Ngài. Tuy nhiên, Ngài đã không làm như thế. Hành động ấy của Ngài như nói trước với chúng ta về những gì mà Ngài sẽ làm kế tiếp như rửa chân cho các môn đệ Ngài. Chấp nhận bị bọn lý hình hành hạ và chế diễu. Chấp nhận bản án bất công. Và nhất là chấp nhận bị đóng đinh chết treo trên thập tự giá.
Làm sao tâm trạng của một người mang trong mình hình ảnh chiến thắng hiển hách, ngồi trên lưng một con chiến mã, ngồi trên lưng một con voi, ngồi trong một cái kiệu sang trọng, hay như phương tiện di chuyển thời nay là phản lực cơ, trực thăng, hoặc limousine đầy đủ tiện nghị tiến lên giữa tiếng tung hô, lại có thể chấp nhận được việc quì gối xuống, bưng chậu nước đến trước mặt các môn đệ của mình để rửa chân cho họ.
Làm sao một vị đại tướng, một hoàng đế, một nữ hoàng, một tổng thống, một thủ tướng uy nghi duyệt qua hàng quân danh dự để tiến lên lễ đài giữa tiếng tung hôn vang dội của một rừng người lại có thể dễ dàng chấp nhận chịu cảnh trao nộp, chịu đánh đòn, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đội mão gai, chịu xét xử bất công, và chịu đóng đinh chết trần truồng trên thập giá mà không một lời than van, trách móc.
Ngồi trên lưng ngựa, lưng voi. Ngồi trong kiệu, trong trực thăng, phản lực cơ hay limousine thì không dễ cúi mình xuống được. Nhất là trong tư thế của kẻ có quyền, kẻ chiến thắng. Cũng không dễ chấp nhận thua thiệt, không dễ đón nhận nhục nhã, không dễ vâng phục thiên ý. Cứ nhìn bọn Pharisiêu qua thái độ ghen tức của bọn họ với Chúa Giêsu khi thấy Ngài được dân chúng tung hô, chúc tụng. Hoặc cứ nhìn vào những Pharisiêu thời đại mới hiểu rõ ý nghĩa và hành động của Ngài.
Tóm lại, phải đơn sơ, phải nhân từ, và phải hiền hậu thì họa may mới có thể đón nhận được những thử thách, bất công, và nhục nhã. Và có lẽ vì lý do đó, Chúa đã dùng con lừa để làm phương tiện di chuyển hôm đó. Làm như vậy là Chúa muốn nói với mọi người rằng, Ngài xứng đáng với tất cả mọi lời chúc tụng. Ngài chính là vua. Ngài là vua chiến thắng. Nhưng trên hết, Ngài là một vị vua nhân từ. Vua thái bình. Vua của tâm hồn con người. Và vì thế, Ngài đã cỡi lừa con mà không cỡi chiến mã.
Chúa là vua nhân từ, hiền dịu chứ không phải là vua quyền uy, độc tài, và hà khắc. Ngài thương yêu tất cả. Ngài mong mọi người hãy đến với Ngài, để học cùng Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường”. Làm như vậy, chúng ta mới dễ mở rộng lòng mình đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh mà Ngài đã thực hiện vì chúng ta và cho nhân loại chúng ta.
TỪ THÀNH LÊN NÚI SỌ
“Vạn tuế! Chúc tụng đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Vạn tuế trên các tầng trời” (Mc 11:9-10). Có lẽ trong suốt 33 năm ngắn ngủi trên dương thế, đặc biệt, sau gần 3 năm bôn ba rao giảng Tin Mừng, hôm nay là lần Chúa Giêsu được mọi người ca tụng và hoan hô nhiệt liệt nhất. Nhưng đâu là lý do chính của sự kiện lạ lùng này. Làm sao Ngài được ca tụng và được hoan hô như thế?
Thánh ký Máccô đã cho biết lý do chính khiến Chúa Giêsu được ca tụng, được tôn vinh là vì Ngài là đấng “nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11:9). Ngài đến nhân danh Chúa Cha chỉ lối cho con người về Thiên Đàng. Và Ngài đến để mua lấy Thiên Đàng cho chúng ta. Đây là lý do tại sao Giáo Hội trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá khi đã cho chúng ta nghe sơ qua về tường trình cuộc VÀO THÀNH VINH QUANG của Chúa Giêsu, sau đó lại công bố tiếp CUỘC THƯƠNG KHÓ của Ngài. Trong tường trình của cuộc thương khó này, các Thánh Ký đã ghi nhận đầy đủ những chi tiết về cuộc khổ nạn của Ngài. Ngài bị phản bội, bị bắt, bị tra tấn, xỉ nhục; nhất là bị kết án bất công và bị đóng đinh thập giá như thế nào.
Đọc kỹ các trích đoạn Tin Mừng về việc Chúa được vinh quang đón rước vào thành Giêrusalem và việc Ngài bị bắt, bị kết án, dẫn đi lên núi Sọ và chịu đóng đinh vào thập giá, chúng ta thấy có sự trùng hợp rất khít khao của yếu tố quần chúng và lãnh đạo.
QUẦN CHÚNG:
Cả trong hai cuộc tụ họp hôm Chúa vào thành và hôm Ngài bị kết án, quần chúng đã giữa vai trò hết sức quan trọng. Họ hân hoan, vui mừng, nhiệt tình cởi áo trải đường, chặt cành vạn tuế và lũ lượt đi theo tung hô Chúa: “Vạn tuế! Chúc tụng đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Vạn tuế trên các tầng trời” (Mc 11:9-10). Lòng nhiệt thành ấy đã làm bọn Pharisiêu, luật sĩ, kỳ lão, và thượng tế phải ghen tức. Nhưng hiểu được tâm lý này, nên bọn họ đã kích động và đã xúi dục quần chúng lên án Ngài trong ngày thứ Sáu tuần Thánh thay vì tung hô Ngài như họ đã làm trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá: “Đóng đanh nó đi” (Mc 15:13).
Tâm lý quần chúng cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng rằng, quần chúng thật sự vô tư và thiếu suy nghĩ. Họ chẳng hiểu gì về hành động của mình. Họ thấy người này, người khác làm thì mình làm. Họ bị cuốn hút và chi phối bởi những người chung quanh. Và vì thế, chính họ đã tạo nên đám rước huy hoàng cho Chúa, và rồi cũng chính họ đã làm nên cái chết của Người, mặc dù Philatô người xử án đã cho họ biết, ông không thấy nơi Ngài điều gì đáng chết, và đã có ý tha cho Ngài bằng cách hỏi đám đông hôm đó: “Các ngươi có muốn ta tha vua Do Thái cho các ngươi không? Vì ông biết vì ghen tương mà các thượng tế đã trao nộp ngài” (Mc 15:9-10).
Nhưng dù là bị chi phối và cuốn hút bởi tâm lý tập thể, tâm lý quần chúng. Dù chỉ là hoan hô Chúa hay đả đảo Chúa, những người Do Thái lúc bấy giờ vẫn không thể thoát khỏi cái hành động thiếu suy nghĩ của mình, và do đó, phải trách nhiệm về lời hoan hô cũng như đả đảo của mình. Tóm lại, dù thế nào đi nữa, những lời hoan hô hay đả đảo ấy cũng đã tạo cho Chúa một cảm giác vinh quang, cũng như đem lại cho Ngài cái chết tức tưởi và nhục nhã.
Ảnh hưởng tâm lý ấy mãi đến hôm nay cũng vẫn còn thấy nơi sinh hoạt tôn giáo đối với nhiều người và tại nhiều nơi. Phải rước sách linh đình. Phải tổ chức chầu, đền tạ tưng bừng. Phải hát lễ với nhiều bài thánh ca réo rắt, thánh thót. Nơi nào không làm được như vậy sẽ mặc cảm vì lòng đạo của mình, của xứ đạo mình thua kém, và cảm thấy xấu hổ. Tóm lại, nếu người khác, xứ đạo khác “hoan hô”, thì tôi và xứ đạo tôi cũng phải “hoan hô” mà còn phải hoan hô to hơn nữa. Ngược lại, nếu người khác, xứ đạo khác “đả đảo”, thì tôi và xứ đạo tôi cũng phải “đả đảo”. Càng đả đảo mạnh càng chứng tỏ mình yêu và mến Chúa. Làm gì thì làm, tôi và xứ đạo tôi không thể thua ai hoặc để ai hơn mình về lòng yêu mến Chúa cả.
Bằng với cái nhìn thần học về ơn cứu độ qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta cũng khám phá ra rằng cả chúng ta nữa, do ảnh hưởng tâm lý quần chúng ấy, bằng hành động chối từ Đức Kitô trong cuộc đời mình, và bằng tội lỗi của chúng ta, chúng ta cũng đã có mặt trong cả hai biến cố trên, và cũng “là người hoan hô hay đả đảo Chúa”. Chúng ta cũng có lúc làm vinh danh Chúa, nhưng rồi cũng nhiều lần đã đóng đanh Ngài.
LÃNH ĐẠO:
Quần chúng tuy đông đảo nhưng lại là những tác nhân lỏng lẻo và không hợp nhất. Quần chúng cần được hướng dẫn bằng lãnh đạo, được kích thích bằng những người thủ lãnh. Thiếu lãnh đạo, thiếu thủ lãnh không có những cuộc hội họp hay biểu tình rầm rộ. Bên trong đám đông ấy, bao giờ cũng có những nhân tố kích động.
Thủ lãnh trong biến cố vào thành của Chúa là các Tông Đồ. Tin Mừng ghi: “Các ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, trải áo mình lên và ngài ngồi lên lưng lừa” (Mc 11:7). Các Tông Đồ đã cởi áo trước, và biết đâu chính các ông đã chẳng là những người hô to tiếng hô đầu tiên: “Hosanna. Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến”, và cũng là người cầm cành lá vạn tuế trong tay. Đám rước bắt đầu xuất phát với sự khởi động của các Tông Đồ.
Nhưng trong cuộc kết án Chúa, thì thủ lãnh là các tư tế. Không thấy Thánh sử Máccô nói nhiều về các Pharisiêu, luật sỹ, nhưng đã ghi nhận là các trưởng tế đã xúi dục và khích động dân chúng hôm đó. Do sự khích động của các trưởng tế mà dân chúng đã la lớn xin tha Baraba. Do sự xúi bẩy và giật dây của các trưởng tế mà dân chúng đã xin đóng đanh Chúa. Bản án tử hình đã được trao cho Chúa vì sự xúi bẩy của các trưởng tế và vì sự kêu la của quần chúng.
SỐNG ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH:
Qua hai biến cố dẫn Chúa từ thành thánh vinh quang đến núi Sọ u sầu. Từ vinh quang đến cái chết, người Kitô hữu trưởng thành và đạo hạnh khám phá ra rằng, họ không thể sống bàng quan với đôi ba câu kinh, hoặc chỉ là lo đi lễ, đi lậy, hoặc rước sách. Chắc chắn cũng không phải chỉ ngồi chờ các linh mục, các người có trách nhiệm tinh thần chỉ bảo mới lo giữa đạo.
Người Kitô hữu trưởng thành hôm nay là người thực sự đóng góp và tham dự trọn vẹn vào đời sống tâm linh của Giáo Hội. Ý thức mình là “chính Giáo Hội” và phải sống trọn vẹn với ơn gọi Kitô hữu của mình.
Người Kitô hữu trưởng thành, do đó, không thể chối rằng tôi không biết Chúa. Các đấng, các bậc không bảo tôi, hoặc không bảo tôi thế này, thế khác nên tôi không biết, không giữ. Họ phải tìm gặp Chúa. Phải trách nhiệm về ơn gọi và cuộc sống của mình. Vì nếu để bị xui bẩy và khích động như những người Do Thái đương thời với Chúa, chúng ta cũng có thể bán Chúa hoặc đóng đanh Chúa. Và lúc đó, chúng ta không thể coi mình là vô tội.
Không những sống cho mình, người Kitô hữu trưởng thành còn phải có trách nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ anh chị em mình tìm gặp Chúa. Phải cởi áo mình trải lên lưng lừa,. Phải cầm cành lá vạn tuế. Và phải hô “Vạn tuế đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến” như các Tông Đồ. Có nghĩa là phải sống đạo tích cực. Và như Philliphê và Anđrê, chúng ta cũng phải là những chứng nhân đích thực mà qua hành động và lời nói của mình, người khác có thể tìm gặp và mong muốn tìm gặp Chúa.
Chúa được tung hô tại thành thánh Giêrusalem, nhưng Ngài bị lo ó, chối từ tại dinh Philatô. Cũng chỉ một Chúa Giêsu đó, hôm nay và ngày mai. Vậy Kitô hữu chúng ta nghĩ gì hôm nay khi cầm trong tay cành vạn tuế hô to: “Hoan hô đấng nhân danh Chúa mà đến”, và liệu ngày mai chúng ta có bỏ cành vạn tuế xuống, dơ cao cánh tay lên la ó: “Đóng đanh nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá”. Tất cả tùy ở sự hiểu biết và sống đạo của mỗi người. Tùy ở sự cố công học hỏi và thiện tâm của mỗi người. Dựa vào những kích thích bên ngoài hay dựa vào tâm lý quần chúng, chúng ta rất dễ ngộ nhận và nói theo ngôn từ đạo đức, chúng ta vẫn chưa trưởng thành trong suy tư, hành động, và đời sống ơn gọi của mình. T.s. Trần Quang Huy Khanh
Hôm nay chúng ta tưởng niệm cuộc vinh quang của Chúa chúng ta năm xưa, khi Người tiến vào thành thánh Giêrusalem. Đồng thời chúng ta sống lại tâm tình của các trẻ em xưa tung hô vinh quang của Đức Chúa của mình: “Hoan hô Con Vua David, hoan hô trên các tầng trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời”.
Mặc lấy tâm tình của các trẻ em Dothái chứ đừng mặc lấy tâm tình của người Dothái xưa. Vì chính họ cũng có mặt và tham gia vào cuộc rước trọng đại của Chúa, nhưng sau đó họ phản bội dữ dội. Sự phản bội lớn gấp nhiêu lần lời tung hô. Mặc lấy tâm tình của trẻ con, chúng ta hãy khiêm cung bái thờ Đức Chúa uy nghi, Chúa chúng ta. Còn xua đi hình ảnh người Dothái xưa để ta biết xua đi chính sự dữ còn ngự trị đâu đó trong tâm hồn mình.
Với hai hình ảnh: Một là sự đơn sơ của trẻ con, hai là sự bội phản một cách lạ lùng của người lớn, tôi mời anh chị em hãy tự vấn chính mình xem, ai phải chịu trách nhiệm về cái chết bi thương của Chúa, để rồi từ sự nhận ra trách nhiệm, ta sám hối thật lòng để thanh tẩy tâm hồn, để có cái nhìn mới mà nhận ra Chúa đang hiện diện trong đời ta, nơi môi trường ta sống.
1. Trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu thuộc về ai?
Dù cái chết của Chúa Giêsu là cái chết bị gây nên một cách quá độc ác, quá tàn nhẫn, nhưng người Kitô hữu không thể quy trách nhiệm cho người Dothái, vì chính Chúa Giêsu đã tha thứ cho họ (Lc 23, 34). Thánh Phêrô cũng đã từng coi hành vi thủ tiêu này là do họ “không biết” (Cv 3, 17).
Chính Hội Thánh cũng đã tuyên bố tại Công đồng Vatican II: “Không thể quy trách nhiệm một cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Đức Kitô bị khổ nạn cho hết mọi người Dothái thời đó, cũng như cho người Dothái thời nay” (Tuyên ngôn về liên lạc giữa Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kitô giáo - số 4).
Bởi vậy, thay vì quy trách nhiệm cho dân tộc Dothái, đúng hơn chúng ta phải nói rằng: Mọi kẻ tội lỗi là thủ phạm gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì tội lỗi, mỗi Kitô hữu đã xúc phạm đến chính Chúa Kitô, nên Hội Thánh không ngần ngại quy cho chính các Kitô hữu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những gì mà Chúa Giêsu phải chịu: “Chúng ta phải coi những kẻ sa ngã đi lại trong tội lỗi, là những người đã phạm lỗi tày trời ấy. Bởi lẽ, chính tội ác của chúng ta đã làm Đức Giêsu Kitô phải chịu khổ hình thập giá, thì chắc chắn rằng những ai chìm đắm trong gian tà cũng tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa, và đã công khai sĩ nhục Người (Dt 6,6). Và phải nhìn nhận rằng, tội ác của chúng ta trong trường hợp này nặng hơn tội của người Dothái. Vì theo thánh Phaolô, nếu họ đã được biết vua vinh hiển, họ đã chẳng đóng đinh Người vào thập giá (1Cr 2, 8)… Không phải quỷ dữ đã đóng đinh Người trên thập giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người vào thập giá; và còn đang đóng đinh Người nữa, khi bạn thích thú trong thói xấu và tội lỗi” (GLCG số 598).
2. Sám hối để thanh tẩy chính mình
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mặt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mặt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các cụ già giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
Cũng thế, ta rất cần một đôi mắt đức tin mới để nhận biết Thiên Chúa. Tự đánh thức tâm hồn mình bằng việc ăn năn, sám hội tội lỗi của bản thân, chính lá lúc chúng ta mang cặp mắt mới để nhận ra con người hèn hạ của chính mình.
Những người đồng hương của Chúa, vì mang con mắt cũ kỹ, con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, đã không nhận ra Chúa Giêsu. Họ không nhận ra Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là đồng hương với chính Con Thiên Chúa. Vì thiếu cặp mắt mới, cặp mắt của yêu thương, đón nhận, thiếu cặp mắt của đức tin, mà chỉ mang cặp mắt của lòng ghanh ghét, ích kỷ như thế, họ đã giết Chúa. Đóng đinh Chúa vào thánh giá, họ nghĩ rằng mình đã chiến thắng Chúa Giêsu, như chiến thắng một kẻ thù không đội trời chung với họ. Đấng Cứu Chuộc họ, lại bị chính họ giết chết, vì thế người Dothái trở thành kẻ bất hạnh vì mãi mãi vẫn tách biệt ơn cứu độ, và xa cách vô cùng với Đấng Cứu độ mình, Đấng mà lẽ ra, họ chính là những người đầu tiên được diễm phúc lãnh nhận.
Chúng ta hãy thật lòng nhìn nhận tội của mình để mặc lấy cặp mắt mới của đức tin mà trung thành thờ lạy Chúa. Ta xin Chúa hãy loại bỏ những gì là định kiến, là thiển cận, hẹp hòi nơi tâm hồn ta. Xin Người ban cho ta cặp mắt mới, không phải cặp mắt trên gương mặt của mỗi người, nhưng là cặp mắt của lòng tin, để nhờ ánh sáng đức tin soi chiếu, ta nhận ra Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời ta, hiện diện nơi anh em của ta.
Anh chị em thân mến,
Giờ đây, khi đã hiểu được trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa và tỏ lòng thành muốn ăn tội, anh chị em và tôi thành tâm dâng lời cầu nguyện, xin Chúa rộng lòng khoan thứ cho chúng ta:
Lạy Chúa, như thánh Phaolô trên đường về Đamas, Xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chan của Chúa, Để nhớ biết mình mù lòa, con được sáng mắt. Xin cho con cặp mắt mới, để nhâ#n ra ánh sáng của Chúa, Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, Bởi đó là ánh sáng phá tan bóng tối trong con, Và đòi buộc con phải hoán cải tâm hồn mình. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong đui mù, Đừng ở lại trong đen tối của ánh mắt ích kỷ, ghen tương, Nhưng xin cho con khiêm tốn, Nhận ra sự tối của chính mình, Mà mở lòng đón lấy những tia sáng của thánh ý Chúa, Những tia sáng của những tấm lòng tốt quanh con, Để con vươn lên tiến về phía Chúa. Xin cho con tìm chân lý, Để chân lý sẽ giải thoát nội tâm của con. Vì nếu được giải thoát, con sẽ bình an trong Chúa. Amen.
Thú thực tôi không biết viết gì về Chúa Nhật Lễ Lá vì không lẽ cứ viết đi viết lại những điều đã viết mấy năm nay. Suy nghĩ và cầu nguyện rất nhiều để tìm lối thoát cho tình trạng bế tắc này, trong đầu và tâm trí tôi, nẩy ra ý tưởng sau:
Tôi sẽ đề nghị mỗi bạn đọc của Trang Sống Lời Chúa hôm nay thay đổi cách đọc bài Sống Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá Năm B này. Và để hỗ trợ các bạn làm việc ấy, tôi xin đề nghị một Phương Pháp hết sức đơn giản và dễ thực hiện như vầy: Các bạn cứ đọc bất kỳ một câu Thánh Kinh nào trong ba bài đọc hôm nay, nhất là Bài Thương Khó của Chúa Giêsu theo Máccô, rồi đặt hai câu hỏi:
(1) tại sao? (2) vì ai/điều gì? để suy nghĩ và tìm ra câu trả lời!
CÁCH TIẾN HÀNH:
Chúng ta không cần phải đọc hết cả bài mà cứ thủng thẳng đọc hết câu này đến câu khác một cách trầm lắng trong suy niệm và chiêm niệm. Ở mỗi câu chúng ta hãy dành ít phút để cho Thánh Thần Chúa gợi lên những tâm tình xứng hợp trong tâm hồn chúng ta.
1. Trong bài đọc I của ngôn sứ Isaia 50,4-7:
“Tôi không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ… Tôi đã không hổ thẹn, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng”
* Tại sao vị ngôn sứ của Thiên Chúa là Đức Giêsu lại làm thế? & Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu làm như vậy?
2. Trong bài đọc 2 của Phaolô là thư gửi tín hữu Philípphê 2,6-11:
“Vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết treo trên cây thập tự”
* Tại sao Đức Giêsu lại chọn cách sống khiêm nhường: tự hạ, tự hiến và tự hủy này?
& Vì ai/điều gì Đức Giêsu chọn sống như vậy?
3. Trong bài Thuơng Khó theo Maccô: Mc 14,1-15,47.
(1) 14,1-2: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động."
* Tại sao các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt và giết Đức Giêsu đi?
& Vì ai/điều gì mà các thượng tế và kinh sư lại tìm cách dùng mưu bắt và giết Đức Giêsu đi?
(2) 14,10-11: Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.
* Tại sao Giuđa Ítcariốt tìm cách nộp Đức Giêsu cho các thượng tế? & Vì ai/điều gì mà Giuđa Ítcariốt bán Đức Giêsu cho các thượng tế?
(3) 14,18: Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy."
* Tại sao Đức Giêsu lại nói lời ấy với các môn đệ? & Vì ai/điều gì Đức Giêsu nói lời ấy?
(4) 14,22- 25: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa."
*Tại sao Đức Giêsu lập Phép Thánh Thể, biến bánh rượu thành Mình Máu Người làm lương thực cho chúng ta?
& Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể trước khi Người bước vào cuộc Khổ Nạn?
(5) 14,30: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần."
*Tại sao Đức Giêsu nói với ông Phêrô câu ấy? & Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu nói như vậy? (6) 14,34: “Tâm hồn Thày buồn đến chết được”
* Tại sao Đức Giêsu lại buồn đến chết được?
& Vì ai/điều gì Đức Giêsu buồn “dữ” vậy? (7) 14,35-36: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Ápba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn."
* Tại sao Đức Giêsu lại cầu nguyện cùng Chúa Cha như vậy? &Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu cầu xin Cha như vậy? (8) 14,43-46: Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. Kẻ nộp Đức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy !", rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người.
* Tại sao Giuđa Ítcariốt lại hành động như thế?
& Vì ai/điều gì mà Giuđa Ítcariốt lại hành động như vậy?
(9) 14,55-59: Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.
* Tại sao các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng lại tìm chứng gian để kết án Đức Giêsu?
& Vì ai/điều gì mà các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng lại làm như vậy? (10) 14,60-64: Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều kết án Người đáng chết.
* Tại sao vị thượng tế hạch hỏi Đức Giêsu và xé áo mình như thế? & Vì ai/điều gì mà vị thượng tế làm như vậy?
* Tại sao Đức Giêsu vẫn làm thinh không đáp một tiếng? & Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu im lặng như vậy?
* Tại sao Đức Giêsu khẳng định mình là “Con của Đấng đáng chúc tụng, ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và sẽ ngự giá mấy trời mà đến”?
& Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu lại khẳng định như vậy? (11) 15,1-2: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do Thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
* Tại sao các thượng tế họp bàn với các kỳ mục và kinh sư? & Vì ai/điều gì các thượng tế, kỳ mục và kinh sư họp bàn với nhau?
* Tại sao Đức Giêsu lúc trả lời? lúc Người làm thinh trước câu hỏi của Philatô? & Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu có thái độ như vậy?
(11) 15,16-20: Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: "Vạn tuế đức vua dân Do Thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.
* Tại sao Đức Giêsu bị quân lính đối xử tàn bạo như thế?
& Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu bị quân lính đối xử tàn bạo như vậy?
(12) 15,29-32: Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
* Tại sao Đức Giêsu bị kẻ qua người lạí nhục mạ, bị các thượng tế và kinh sư chế diễu như thế?
& Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu bị kẻ qua người lạí nhục mạ, bị các thượng tế và kinh sư chế diễu như vậy?
(13) 15,33-34:Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama xabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?"
* Tại sao Đức Giêsu kêu lớn tiếng như thế?
& Vì ai/điều gì mà Đức Giêsu lại kêu lớn tiếng như vậy? (14) 15,39: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa."
* Tại sao viên đại đội trưởng nhìn nhận Đức Giêsu (vừa tắt thở trên thập giá) là Con Thiên Chúa như thế?
& Vì ai/điều gì mà viên đại đội trưởng nhìn nhận và tuyên xưng như vậy?
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, chuẩn bị cho sự tiến vào thành Thánh Giêrusalem Thiên quốc. Giáo hội đặt lễ này vào ngày Chúa nhật, ngày Chúa phục sinh, ngày Chúa chiến thắng khải hoàn, chiến thắng tội ác và sự chết... Để từ đấy, mọi người tin vào Chúa sẽ cùng với Chúa chiến thắng tội ác của chính mình và thế gian, để cùng nhau vượt qua sự chết mà tiến vào thành thánh trên Trời...
Chúa tiến vào thành với dung mạo và cách thế như một vị Vua. Theo truyền thống Vua David và các vua Do Thái, Chúa cỡi trên lưng một con vật, dân chúng lấy áo choàng lót đường, với những nhành vạn tuế tung hô: "Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại vua Đavid, tổ phụ chúng ta đang tới. Hoan hô trên các từng trời!"
Nhưng Chúa chọn cỡi lừa là con vật tượng trưng cho hoà bình (thay vì chọn ngựa là con vật để lâm chiến). Chúa sẽ chiến đấu cho dân một vùng đất của hạnh phúc và trường tồn, bằng con đường hoà bình. Chúa đi giữa mùi hương xuân của những ngành lá ô-liu. Chúa sẽ lâm chiến cho Tình yêu. Trong trận chiến này, sẽ không có đổ máu của "kẻ thù" mà chỉ có máu hiến tế cho tình yêu - Trong ngày lễ này Giáo hội chọn những bài đọc về sự thương khó của Chúa. Vì đây là chiến đồ Chúa dành cho những người muốn theo Chúa chiến thắng cho công lý, hoà bình, và Tình yêu vĩnh cữu...:
- Vâng phục Thánh Ý Cha, cho đến chết, và chết trên thập giá: "Lạy Cha nếu có thể xin cất chén đắng này cho Con, nhưng đừng theo ý Con, mà cho ý Cha được trọn".
- Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu thí mạng sống vì ngưới mình yêu: "Đây là Mình Thầy...; Đây là Máu Thầy... Thầy sẽ thí mạng sống vì anh em,... Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy thì sẽ sống muôn đời... Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy".
- "Hãy tĩnh thức và cầu nguyện, để đức tin của anh em không bị lung lạc, để khỏi sa chước cám dổ..."
- Họ vu cáo và đòi giết Chúa. Trên đường lên núi Sọ, Chúa ngã... không phải vì cây thập giá nặng nhưng vì lòng oặn đau về những tội lỗi loài người! Nhưng trên thập giá Chúa đã tha thứ cho kẻ trộm biết ăn năn, và tha thứ cho những người cáo gian và ra lịnh đóng đinh Chúa.
- Chúa luôn có Mẹ Maria đồng hành trong cuộc đời, nhất là khi Chúa đi vào đường thập giá và trút hơi thở cuối cùng...
- Chúa phó linh hồn trong tay Chúa Cha... Và trong Thần Khí, Chúa đã phục sinh... để vào lại vương quốc Tình yêu vĩnh cữu của Chúa Cha hằng sống...
Hãy cầm những cành lá vạn tuế và ngành ô-liu trong tay, vẫy mạnh và hô to: "Đây là đường lối tôi muốn theo, muốn chiến đấu và chiến thắng... như Chúa của tôi." Có thể nước mắt sẽ rơi trên những nhành lá hoà bình, nhưng hãy dũng cảm trong trận chiến của Tình yêu... Nước mắt của Tình yêu sẽ mang cho ta sự bình an đích thực và sức mạnh thay vì đắng cay của thù hận. Để cuối đường đời ta có thể nói như Chúa Giêsu: "Con phó linh hồn con trong tay Cha" rồi gục đầu phó thác cho Thần Khí và tiến thẳng vào Thiên quốc nơi Chúa dành sẵn cho những kẻ chiến thắng trong hoà bình.... Sr. Tố Nhung --------------------------
Nhìn vào lịch sử Việt Nam chúng ta thấy: Lê Lai là vị anh hung đã chết cho Lê Lợi và được kể vào hàng “Tôi trung hưng quốc”. Hai bà Trưng thuộc hạng “yếu liễu đào tơ”, đã báo thù chồng và cứu được nước, được kể là “nữ tướng anh hùng”. Anh phải sống nhắc lại đôi vợ chồng bị giòng nước cuốn đi, bà vợ đã sẵn sang xuôi tay theo giòng nước cuốn, để cho chồng được sống vì đoàn con, được kể là “một mối tình trọn nghĩa”. Cuộc di cư năm 1975, nhiều người cha, người mẹ đã hy sinh lấy máu mình cho con bú để cứu sống con. Maximien Kolbe đã hy sinh cuộc đời cho bạn bè, để về nuôi vợ mọn con thơ.
Hình ảnh Chúa Kitô treo trên thập giá quá quen đối với chúng ta, đôi khi nhìn ngắm Người qua dấu Thánh Giá, qua tác phẩm điêu khắc, Chúa như con chuồn chuồn dẫy chết. Nhưng đó là một hiện tượng lịch sử đã diễn tiến và trôi theo thời gian vào dĩ vãng. Thực ra Chúa Giêsu trên thánh giá trong mùa này đang sống động trong tâm tư mỗi người: Một hy sinh vô cùng vượt mọi hy sinh chẳng những cứu quốc, cứu bạn, cứu con… mà còn cứu cả linh hồn mình, cứu cả đời mình.
Trong thời cựu ước, của lễ hy sinh đền tội là con chiên con bò sát tế. Trong thời Chúa Giêsu thì chính xác thịt Thiên Chúa lấy làm sinh lễ cúu sống muôn dân “Đấng xóa tội trần gian” (Jn.1:29). Đồi Golgotha là bàn thờ. Thánh Giá là gỗ củi hy sinh, xác hồn Chúa Giêsu là sinh lễ. Thiên Chúa đã trở nên con chiên thục tội treo trên Thánh Giá. Chúa bị đánh nát (như giã dò cho nhiễn), máu và nước tuôn đổ lai láng, Người hoi hóp như một con vật bị chọc huyết, Chúa chết cho ai tin vào ơn cứu chuộc của Ngài. Chúa đứng ra hứng chịu sự thịnh nộ của Chúa Cha, Chúa bị đánh nát như đứa con, Chúa chịu để ta được an toàn. Thánh Phêrô viết:”Anh em biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như vàng bạc mà anh chị em được khỏi tội, khỏi sự ăn ở không ra gì của tội nguyên tổ truyền lại mà do bảo huyết Chúa Kitô, máu con chiên Thiên Chúa vô tội” (I Pet. 1:18-19).
Rất mong anh chị em suy niệm sự hy sinh cao cả của Chúa cho chúng ta, vì chúng ta, để sống xứng đáng đáp đền ơn cứu sống của Chúa.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô khải hoàn vào Thành Thánh Jerusalem, giữa đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp các ngả đường đua nhau tuốn về, nhiều người trải áo mình trên đường, những người khác lấy cành lá lót lối đi. Chúa Kitô như Vua Vinh Hiển khiêm nhu cỡi trên lưng lừa, uy nghiêm tiến đi, ai nấy tay cầm cành lá, kẻ đi trước, người theo sau, vây quanh Chúa, tỏ niềm hân hoan vui sướng, miệng không ngừng tung hô ca ngợi như say mê: "Vạn tuế! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô trên các tầng trời!".
Tất cả đều tạo nên một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt và hân hoan chưa từng có trong thành Jerusalem; đồng thời, nó cũng biểu lộ được tấm lòng sùng mộ chân thành của người dân đơn sơ chất phác thời bấy giờ. Mọi việc này xảy ra là để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Các ngươi hãy bảo cho các thiếu nữ Sion rằng: Kià Vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, Người ngồi trên lưng lừa mẹ và lừa con. Các ngươi đừng sợ!". Trước sự kiện này, đã khiến một số các người biệt phái phát ghen, nên họ đã thưa với Chúa: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài im đi". Chúa đáp lại: "Ta bảo cho các ông biết, nếu họ làm thinh, thì những viên đá này sẽ la lên".
I. NHỮNG LÝ DO LÒNG SÙNG MỘ VỤ LỢI
Chúng ta vừa tái diễn cuộc khải hoàn Chúa Kitô vào Thành Thánh. Chúa như Vua Nhân Từ được toàn dân tung hô, ca ngợi và mến phục, vì họ đã từng được lãnh nhận biết bao ơn phúc Ngài ban; được chứng kiến biết bao phép lạ Ngài thực hiện: Ngài đã làm cho kẻ què đi được, kẻ điếc nghe được, người mù được thấy, người phong cùi được lành sạch, người đã chết được sống lại, kẻ bị quỉ ma ám được khu trừ... Biết bao bệnh nhân đủ các chứng bệnh, được chữa khỏi do lời quyền năng của Ngài; rồi biết bao người đã được ăn bánh, ăn cá no nê do phép lạ Ngài làm từ vài ba cái bánh và mấy con cá. Người ta còn được nghe những giáo lý cao siêu mới lạ, những lời giáo huấn đầy khôn ngoan phát ra từ môi miệng Ngài. Những giáo huấn đầy thiên duyên đó đã lôi cuốn họ từng đoàn lũ đi theo và say mê nghe Ngài giảng, đến bỏ cả công ăn việc làm từ ngày nọ sang ngày kia. Hôm nay, được dịp họ bày tỏ lòng cảm phục, kính mến và sùng mộ đó cách công khai và tập thể, đến nỗi làm cho các nhà hữu trách phải phát ghen. Thế là họ đã quyết tâm thực hiện điều họ đã bàn định, là nhất định tiêu diệt Ngài.
II. MỘT TRANG TÌNH SỬ ĐẪM MÁU
Thật là vô ơn bội nghĩa! Chỉ vài hôm sau, cũng chính Vua Kitô ấy, giờ đây lại bị điệu đi như một tội nhân trọng phạm, bị kết án tử hình, đầu đội mạo gai, vai vác thập giá, mình khoác áo đỏ, thân hình tiều tuỵ nhọc mệt, mặt vấy đầy máu, thất thểu, bước đi giữa những tên lính luôn buông ra những lời chế diễu, nhạo báng và khinh dể. Theo sau, cũng chính đoàn lũ dân ấy, trước kia đã tung hô Ngài, bây giờ đã bị mua chuộc, bị xách động, luôn hô hoán, gào thét: "Nó đáng chết! Đóng đanh nó vào thập giá! Đóng đanh nó vào thập giá!" Tất cả đều tạo nên một sự huyên náo, hỗn loạn, một tập thể lộng ngôn, phạm thượng, phản nghịch Thiên Chúa, một sự vong ân bội nghĩa xúc phạm đến chính Đấng là Tình Yêu Thương, đã từng ban muôn ơn phúc cho họ, vì thương yêu họ.
Hôm nay, chúng ta cử hành nghi lễ Chúa khải hoàn vào Thành Thánh, để mở đầu Tuần Thánh, một tuần lễ diễn lại trang tình sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, giúp chúng ta hồi tưởng và suy niệm tấm lòng Chúa yêu thương chúng ta, Người đã vui lòng lãnh nhận mọi cực hình và án chết bất công trên thập giá, đền tạ phép công bình Thiên Chúa thay cho chúng ta, để chúng ta được Ơn Cứu Độ.
III. ĐỂ ĐỀN ĐÁP TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Để đáp lại lòng Chúa yêu thương, chúng ta hãy trung thành với Đức Tin và tình yêu mến Chúa, được thể hiện trong đời sống chứng nhân hằng ngày của chúng ta như các tôi trung con thảo của Người.
Năm 1900, cuộc cách mạng của đảng cộng sản tại Trung Hoa đã tàn sát không biết bao nhiêu người Công Giáo. Bộ đội cách mạng đã chiếm giữ một ngôi Trường Truyền Giáo, rồi khóa tất cả các cửa ra vào, chỉ mở một cửa chính. Trên mặt đất trước lối cửa chính đó, đặt một tượng Chúa Tử Nạn. Ai đi ra mà đạp lên tượng Chúa thì được trả tự do, còn ai không dám đạp lên mà đi vòng qua thì bị bắn chết tại chỗ. Bảy học sinh đầu tiên đi ra đạp lên tượng Chúa đều được thả tự do. Học sinh thứ 8 là một em bé 12 tuổi, khi đi ra em đã bái qùi trước tượng Chúa, rồi cung kính đi vòng qua, thì lập tức em bị bắn chết. Sau đó, tất cả 100 học sinh còn lại, đều theo gương em bé đó và tất cả đã tỏ ra anh dũng được chết vì trung thành với tình yêu mến Chúa. Chừng 30 ngàn người Công Giáo Trung Hoa đã chọn cái chết hơn là chối bỏ Chúa trong năm 1900 ấy. Tại Việt Nam dưới thời bách hại Đạo Công Giáo của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã có chừng hơn 100 ngàn vị Anh Hùng Tử Đạo như thế. Trong số đó cũng có bé gái Lucia Liễu mới 12 tuổi, Phaolô Đạm 10 tuổi, Gioan Túc 9 tuổi, nêu gương trung kiên như em bé 12 tuổi người Trung Hoa kia... Cha ông chúng ta là các vị Tử Đạo, đã can đảm từ khước tất cả những lời dụ dỗ đường mật của vua quan, để trung thành với Đức Tin và lòng kính mến Chúa, sẵn sàng chịu chết để chứng minh lòng trung thành và yêu mến ấy; còn chúng ta, chúng ta cần có thái độ nào, để xứng danh là con cháu của các ngài?
Kết Luận
Là những con cái ngoan thảo của Chúa và Giáo Hội, chúng ta hãy lợi dụng những ngày linh thiêng của Tuần Thánh, tham dự các nghi lễ, tưởng nhớ và suy ngắm Trang Tình Sử Đẫm Máu, Chúa đã chịu chết và yêu thương chúng ta.
Chúng ta hãy noi theo mẫu gương trung kiên anh dũng của Tiền Nhân Việt Nam chúng ta, trung thành với Đức Tin, để đáp lại lòng Chúa yêu thương chúng ta, bằng chính cuộc sống hằng ngày, làm chứng nhân cho Chúa qua nếp sống thánh thiện của mỗi người chúng ta. Nếu cần, chúng ta cũng hãy anh dũng chấp nhận mọi cực hình, sẵn sàng lãnh nhận cả cái chết, để minh chứng lòng trung thành với Đức Tin và đền đáp phần nào lòng Chúa yêu thương chúng ta.
Tại sao có đoạn dạo khúc đặc biệt nơi Phúc Âm Thương Khó năm B
Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội cho Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh bao giờ cũng cử hành cùng một lúc hai biến cố đối nghịch nhau liên quan đến việc Chúa Kitô vinh hiển vào Thánh Giêrusalem và việc Người Chịu Thương Khó. Vẫn biết, theo thời gian, Chúa Giêsu chịu chết vào ngày Thứ Sáu trong tuần, ngày Giáo Hội cử hành nghi thức Thương Khó trong Tuần Thánh, thế nhưng, về phụng vụ, vì Cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô là tột đỉnh của việc Người tỏ mình ra, một biến cố Người muốn Giáo Hội phải cử hành để tưởng nhớ đến Người (x Lk 22:19; 1Cor 11:24-25), mà Cuộc Tử Nạn cần phải được cử hành vào chính Chúa Nhật. Vì Cuộc Tử Nạn là biến cố chính yếu nhất của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế nên đã được cả 4 Phúc Âm thuật lại. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật Lễ Lá mới là ngày mở đầu cho Tuần Thương Khó mà cả ba Phúc Âm Nhất Lãm là Mathêu, Marcô và Luca cho ba chu kỳ A, B và C đã được Giáo Hội cho đọc cả những gì xẩy ra trước cuộc Thương Khó nữa, như việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và tiên báo tông đồ Phêrô chối Người. Riêng Phúc Âm Thánh Gioan, được Giáo Hội chọn đọc vào hai Ngày Thứ Năm và Thứ Sáu Tuần Thánh, cũng như cho các ngày thường trong Mùa Chay từ tuần thứ 4 trở đi. Nói chung, bài Phúc Âm nào trình thuật về Cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô thường cũng nói đến những sự kiện chính yếu, như sự kiện Người bị tông đồ Giuđa phản nộp, bị thành phần lãnh đạo Do Thái vu cáo, bị nhà cầm quyền Rôma lên án, bị quân Rôma hành hạ, xỉ nhục, đóng đanh và cuối cùng được thân hữu táng xác.
Trong ba Phúc Âm Nhất Lãm trình thuật về Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, Thánh Ký Mathêu và Thánh Ký Marcô thuật lại ít là hai điều giống nhau, hoàn toàn không có trong Phúc Âm Thánh Luca, đó là đoạn Chúa Giêsu được xức dầu thơm (x Mt 26:6-13; Mk 14:3-9), và lời Người vô cùng não nuột than lên trên cập thập giá: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi Con” (Mt 27:46; Mk 15:34). Tuy nhiên, dù Phúc Âm Thánh Mathêu có đoạn Chúa Giêsu được xức dầu thơm như Phúc Âm Thánh Marcô nhưng Giáo Hội lại không lấy đoạn này cho chu kỳ Năm A theo Thánh Mathêu, song chỉ lấy cho vào riêng Phúc Âm Thánh Marcô của Năm B mà thôi. Đó là lý do trong bài suy niệm cho Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh cho chù ký phụng vụ năm B, chúng ta cần tìm hiểu xem ý nghĩa của đoạn xức dầu chỉ có ở Phúc Âm năm B này có ý nghĩa và liên hệ đặc biệt nào với cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô.
Trước hết, về thời điểm, thì đoạn xức dầu này thực sự cần phải được bao gồm trong Phúc Âm mở màn Tuần Thánh, vì việc xức dầu này ở trong thời điểm Tuần Thánh, như Phúc Âm Thánh Gioan cũng về việc xức dầu này đã được Giáo Hội cho vào ngày Thứ Hai Tuần Thánh, một thời điểm “sáu ngày trước Lễ Vượt Qua” (Jn 12:1) của dân Do Thái, tức trước Chúa Nhật Phục Sinh của Kitô Giáo. Thế nhưng, nếu biến cố này không quan trọng lắm, hay không trực tiếp liên quan đến Tuần Thánh hoặc đến cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô, thì chưa chắc Giáo Hội đã đưa vào Tuần Thánh. Chúng ta có thể sẽ thắc mắc không biết tại sao Giáo Hội không đem đoạn phúc âm xức dầu này vào cả Phúc Âm chu kỳ năm A theo Thánh Mathêu là phúc âm cũng có đoạn này? Nếu cho rằng chi tiết ấy đã có ở Phúc Âm này rồi thì khỏi cho vào Phúc Âm kia, thì tại sao Phúc Âm nào khi trình thuật về Cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô cũng có những chi tiết giống nhau như được đề cập đến trên đây; vậy thì việc chỉ có chi tiết xức dầu này ở riêng Phúc Âm năm B cũng phải có lý của nó? Và nếu biến cố xức dầu đóng vai trò như dạo khúc mở đầu Tuần Thánh này chỉ cần cho vào một Phúc Âm thôi cũng đủ thì đáng lẽ Giáo Hội nên cho vào bài Phúc Âm Thánh Mathêu năm A mới hợp hơn cho vào Phúc Âm Thánh Marcô năm B, vì năm A đi trước năm B?
Để có thể hiểu được phần nào thâm ý sắp xếp các bài Phúc Âm và nội dung của các bài phúc âm này cho cùng một biến cố hay mầu nhiệm Chúa Kitô trong Phụng Vụ, chúng ta có thể căn cứ vào đoạn mở đầu của ba Phúc Âm Nhất Lãm cho chu kỳ A. B và C. Trước hết, ở năm A, Phúc Âm Thánh Mathêu mở đầu bằng ngay việc tông đồ Giuđa âm mưu phản nộp Thày mình, trong khi đó, ở năm B, Phúc Âm Thánh Marcô mở đầu bằng sự kiện là ngay sau khi cho thấy thành phần lãnh đạo dân chúng tìm cách sát hại Chúa Giêsu thì kể lại việc một người nữ (được Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 12 câu 3 cho biết là Maria, chị em của Matta và Lazarô, tức Mai Đệ Liên) xức dầu thơm cho Người, còn ở năm C, Phúc Âm Thánh Luca mở đầu bằng ngay việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và muốn Giáo Hội phải tưởng niệm đến Cuộc Tử Nạn của Người, (chi tiết “tưởng niệm” trong việc lập Bí Tích Thánh Thể không có trong Phúc Âm Mathêu và Marcô). Như thế, tuy ba bài Phúc Âm Nhất Lãm cùng trình thật về Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào đoạn mở đầu như vừa được nhận định trên đây, bài Phúc Âm chu kỳ năm A có chiều hướng thương khó, ở chỗ, Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu được bắt đầu từ chính mưu phản nộp của một trong thành phần tông đồ thân cận với Chúa Kitô; bài Phúc Âm chu kỳ năm B có chiều hướng phục sinh, ở chỗ, Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu không phải là một đường cùng tận số dead end, mà là một cuộc Vượt Qua, như được báo trước bởi cử chỉ xức dầu của một người bạn thiết nghĩa, cử chỉ của việc sửa soạn liệm xác; và bài Phúc Âm năm C có chiều hướng truyền đạt sự sống, ở chỗ, Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến để Giáo Hội được thánh hóa trong chân lý (x Jn 17:19), một cuộc tự hiến cho chiên được sự sống viên mãn (x Jn 10:10), một cuộc tự hiến còn được và cần phải liên tục tưởng nhớ và cử hành bằng Phụng Vụ Thánh Thể, một Thánh Thể bị Tử Giá (theo chiều hướng Phúc Âm năm A) nhưng lại là một Thánh Thể sẽ Phục Sinh (theo chiều hướng của Phúc Âm năm B).
Ý nghĩa của đoạn Phúc Âm Thương Khó dạo mở
Đúng thế, qua đoạn mở đầu cho bài Phúc Âm Thương Khó của Thánh Marcô cho chu kỳ năm B Chúa Nhật tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu báo trước cho cả ba thành phần có mặt bấy giờ (các tông đồ, các thân hữu và Pharisiêu mà Simon tật phong chủ nhà là đại diện xem Mt 26:6) biết về việc Người phục sinh lần cuối cùng. Ở ba Phúc Âm Nhất Lãm chúng ta thấy các Thánh Ký thuật lại ba lần Chúa Giêsu báo cho riêng các môn đệ của Người biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mt 16:21, Mk 8:31, Lk 9:22; Mt 17:22-23, Mk 9:31, Lk 9:44; Mt 20:18, Mk 10:33, Lk 18:31-33). Còn Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu bóng gió báo cho thành phần không phải môn đệ của Người biết về Cuộc Vượt Qua của Người. Đúng thế, như chúng ta đã thấy, qua các bài Phúc Âm Chúa Nhật Mùa Chay Năm B, Phúc Âm Thánh Gioan cho biết Chúa Giêsu đã báo trước Cuộc Vượt Qua của Người thứ tự như sau: Ở Chúa Nhật 3, Người đã nói với dân chúng về việc đền thờ thân xác của Người bị dân Chúa tàn phá song tự Người sẽ xây lại trong vòng ba ngày; ở Chúa Nhật 4, Người đã nói với Nicôđêmô về việc Người sẽ bị treo lên để ai tin vào Người thì được sự sống, một sự sống Người sẽ tràn ban cho con người qua Thánh Linh Người thông truyền cho các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết; và ở Chúa Nhật 5, Người đã nói với các tông đồ về việc Người như hạt lúa miến mục nát đi (tử nạn) để sinh muôn vàn hoa trái (phục sinh).
Vấn đề của đoạn về xức dầu khai mở cho bài Phúc Âm Thương Khó của Thánh Ký Marcô thuộc chu kỳ năm B Chúa Nhật Lễ Lá đầu Tuần Thánh không phải là ở chỗ người phụ nữ đã phí của trong việc sử dụng lọ dấu đắt giá của mình để xức dầu cho Chúa Giêsu, trong khi, theo một số người có mặt bấy giờ, đặc biệt là tông đồ Giuđa (theo Phúc Âm Thánh Gioan), nhiều người đang cần đến cái phí của ấy. Tại sao lại có vấn đề khác biệt này, giữa người Maria Mai Đệ Liên và tông đồ Giuđa Ích-Ca?
Vấn đề khác biệt giữa hai con người này ở đây là lòng tin của họ nơi nhân vật Giêsu này. Một đàng Mai Đệ Liên, như chị Matta của mình, tin nhân vật Giêsu Nazarét ấy là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Jn 11:27), do đó, chị không tiếc với Người một sự gì, kể cả những gì hết sức quí hóa trước mắt trần gian, như lọ dầu đắt đỏ chị dùng vào việc xức dầu trên đầu Người là tiêu biểu. Không ngờ việc chị làm bề ngoài theo lòng tin tưởng và kính mến ấy lại là việc đụng chạm đến chính mầu nhiệm cao cả nhất của Vị Thiên Chúa Làm Người, Mầu Nhiệm Tử Nạn. Còn tông đồ Giuđa, con người được sống kề cận bên Đấng Thiên Sai, được chứng kiến tận mắt những dấu kỳ phép lạ Người làm, và được nghe thấy những lời giảng dạy khôn ngoan siêu việt hơn hết mọi bậc thày trong dân Do Thái, lại không tin rằng Thày mình là Đấng Thiên Sai, bằng không người tông đồ này có tư tưởng bán nộp Người hay chăng?
Một trong những lý do tông đồ Giuđa bất hạnh này bán Thày, ngoài chính lòng tham của người tông đồ này, một lòng tham đã được như Thánh Ký Gioan cho biết (12:6), còn có thể là vì con người này nghĩ rằng dù mình có bán Thày đi nữa, một đàng thì mình được tiền, đàng khác cũng chẳng ai có thể làm gì được Thày, như một số lần Thày đã tự thoát thân (x Jn 8:59, 10:39; Lk 4:29-30). Dù có tin vào quyền năng của Thày mình đi nữa, nhưng tông đồ Giuđa chỉ tin theo kiểu hiếu kỳ như muốn xem ảo thuật của người Do Thái, thành phần có khuynh hướng tìm dấu lạ (x 1Cor 1:22), chẳng hạn như lần họ thấy Người đuổi con buôn trong khuôn viên đền thờ ở bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ ba Năm B. Rất tiếc, kể cả cho tới giây phút quan trọng nhất cuộc đời của mình là thấy mình hoàn toàn lầm lỗi, tức nhận ra chân lý, nhưng thay vì quay về với Thày mình là chân lý thì lại sợ chân lý, lại tuyệt vọng, đến nỗi đi thắt cổ tự tử (x Mt 27:3-5), hoàn toàn ngược lại với trường hợp của tông đồ Phêrô trắng trợn và phũ phàng chối Thày, vị tông đồ cũng hết sức hối hận nhưng hối hận bằng một lòng tin yêu hết mình (x Jn 21:15-17).
Nếu Con Thiên Chúa đến để tìm kiếm những gì đã hư đi (x Lk 19:10), dù là con chiên lạc duy nhất (x Lk 15:3-7), như tông đồ Giuđa Ích Ca, thì còn gì đau lòng Người cho bằng tội nhân không chịu tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Người. Con tim của Người thực sự đã bị thành phần tội nhân hồ nghi tình yêu nhân hậu của Người đâm thâu trước khi cạnh sườn Người bị quân lính Rôma xuyên thấu sau khi qua đời. Người đã nhói đau, đau nhói đến tột đỉnh, đến không chịu được nữa, đã phải than lên cùng Cha của Người rằng: “Lạy Cha, sao Cha lại lỡ bỏ rơi Con”. Đây là lời duy nhất của Chúa Giêsu trên cây thập giá được Thánh Ký Mathêu và Marcô thuật lại. Người chắc hẳn không cố ý than trách Cha Người đã phũ phàng đầy đọa Người về phần xác hay làm nhục Người quá cỡ về danh giá, vì Người đã biết chắc chắn rằng Cha Người sẽ cứu Người khỏi chết, sẽ phục sinh Người và ban cho Người vinh quang sau khi từ cõi chết sống lại. Tuy nhiên, dù có sống lại chăng nữa, vết tích tử nạn vẫn còn trên thân xác của Người, biểu hiệu cho những gì tội nhân gây ra cho Người, thành phần tội nhân hư đi chỉ vì tuyệt vọng không tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc Ngài chẳng những ban Con Một của Ngài cho thế gian (x Jn 3:16), mà còn không dung tha Con vì chúng ta (x Rm 8:32).
Ôi, qua nhân tính của Chúa Giêsu Kitô, Vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16) chẳng những đã ở với loài người (x Jn 1:14; Mt 1:23) mà còn xuống tận vực thẳm khốn nạn của con người là âm phủ, là sự chết về phần xác, hậu quả của tội lỗi về tâm linh, để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài, có hồn thiêng bất tử, và tương tự như Ngài, có tâm linh ý thức, cũng chỉ được cứu độ khi nhận biết và tuyệt đối tin tưởng vào tình yêu nhân hậu của Ngài nơi Chúa Giêsu Kitô!
Phung phí cho Chúa là phạm đến người nghèo!
Bài Phúc Âm Thương Khó cho Chúa Nhật Lễ Lá chu kỳ Năm B mở màn cho Tuần Thánh ở ngay đoạn mở đầu có nói đến việc một người phụ nữ đến xức đầu trên đầu cho Chúa Giêsu khi Người đang ở Bêthania tại nhà của một người Pharisiêu tên là Simon bị tật phong. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật này rất hợp với câu truyện sau đây.
Số là, vào Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng 5/4/2003, sau Buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay cho Thiếu Nhi Fatima ở Torrance, thuộc Tổng Giáo Phận Los Angeles Nam California, về chủ đề “Cho đi phúc hơn nhận lãnh”, một chủ đề theo đúng Sứ Điệp Mùa Chay 2003 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng tôi có bàn đến vấn đề gây quĩ để đi tham dự Ngày Thánh Mẫu ở Missouri (7-10/8/2003), thực hiện Đường Thánh Giá Giới Trẻ lần đầu tiên vào chiều Thứ Sáu 11/8/2003, như chương trình đã được ban tổ chức sắp xếp theo lời tôi đề nghị. Chúng tôi cũng đã thành lập những tiểu ban để lo thực hiện công việc này, trong đó có ban tài chính phụ trách vấn đề gây quĩ. Em Trần Thúy, một trưởng nữ ở Đoàn Thiếu Nhi Fatima Pomona, là một trong hai người lo vấn đề tài chính. Em đã nhiệt thành đi quyên góp ở những nơi nào có thể. Sau đây là email em đã gửi cho tôi về phản ứng của một số người được em quyên góp, và tôi đã giải đáp cho em để em trả lời cho những người đặt vấn đề với em.
----- Original Message ----- From: THUY TRAN To: HailMaryQueen@thoidiemmaria.net Sent: Monday, April 07, 2003 10:30 AM Suoàect: Re: [TNFATIMA] SPECIAL REPORT
Anh Tinh, I asked a couple of people I know for donations to our Missouri trip. After telling them about our projected spending, they asked me questions I could not answer. "Why do we not donate these money to poor people?" I told them we want to make the Immaculate Heart of Mary known to more people. They said "Is that better than feeding people who do not have food to eat?" and that "We would touch people more if we give them food and besides, the people who goes to Dai Hoi Thanh Mau are already motivated Catholics, we should reach out to those who are not". Please answer these questions for me. Thanks.
Thuy Thúy mến, Trước hết, cám ơn Thúy đã hăng say nhiệt thành trong việc gây quĩ cho chương trình hoạt động tông đồ của Thiếu Nhi Fatima.
Sau nữa, để trả lời cho câu hỏi người ta đặt ra cho Thúy nói riêng và cho Giáo Hội Công Giáo nói chung, cũng tương tự như câu hỏi hôm Tĩnh Tâm Mùa Chay Thứ Bảy Đầu Tháng 5/4/2003 vừa rồi Thúy đã nêu, theo tôi, Thúy hãy trả lời cho họ thế này:
Thứ nhất, đồng ý là ai trong chúng ta, không riêng gì người Công Giáo, đều phải giúp đỡ người nghèo về cả vật chất lẫn tinh thần. Đối với Kitô hữu, thành phần nghèo là thành phần hết sức đáng và cần phải giúp đỡ, giúp đỡ không phải chỉ vì họ nghèo khổ về vật chất lẫn tinh thần, mà chính vì họ là hiện thân của Chúa Kitô. Đó là lý do trong ngày chung thẩm (tức ngày phán xét chung), Chúa Kitô chỉ phán xét tất cả mọi người, chứ không riêng gì Kitô hữu, về việc làm ơn cho mọi và mỗi người anh em hèn mọn nhất của Người, tức thành phần những người bất hạnh về đủ mọi mặt của Người. Vì Người coi đó là việc làm cho chính Người (xem Phúc Âm Thánh Mathêu 25:31-46).
Thứ hai, thế nhưng, theo tự nhiên, con người ta nói chung không ai có thể thương người một cách vô vị lợi và thương đến cùng, nếu không có tình yêu Thiên Chúa. Ngày nay vợ chồng ly dị đầy giẫy là ở chỗ không có tình yêu siêu nhiên này. Bởi thế, để có thể yêu thương tha nhân, nhất là thành phần bất hạnh, nhất là thành phần thù nghịch với mình, Kitô hữu đầu tiên phải làm sao có được một tình yêu trọn hảo như Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô. Đó là lý do Chúa Kitô dạy chúng ta phải yêu nhau "như Thày đã yêu" (Phúc Âm Thánh John 13:34, 15:12). Tuy nhiên, muốn được tình yêu này, Kitô hữu phải có một đời sống nội tâm sâu xa, được thể hiện qua những việc tôn thờ, những việc phụng vụ xứng đáng với Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả. Đó còn là lý do Kitô hữu cần phải sử dụng những Chén Thánh đẹp, quí, và cử hành trong những Thánh Đường nguy nga. Bởi vậy chúng ta thấy trong Phúc Âm Thánh Mathêu (26:6-13) và Thánh Marcô (14:3-9) Chúa Giêsu đã lên tiếng bênh vực người phụ nữ, người phụ nữ được Phúc Âm Thánh Gioan cho biết là Maria chị em của Matta và Lazarô (xem 12:2) đã sử dụng dầu thơm hảo hạng để xức trên đầu Người, một việc đã bị các người khác cho là phí của nếu bán dầu ấy đi để lấy tiền thí cho kẻ nghèo. Ngoài ra, trong việc xây đền thờ Giêrusalem cho Chúa, chính Chúa đã phải chỉ vẽ cho vua Salomon từng li từng tí để xây cho Ngài một nơi nguy nga vĩ đại hầu có thể phần nào xứng đáng làm nơi Ngài ngự trị giữa dân Ngài (xem 1Kings các đoạn 5-8), một đền thờ sau này đã được dân Do Thái cho Chúa Giêsu biết là phải mất 40 năm mới xong (xem Phúc Âm Thánh Gioan 2:20). Thế nhưng, nếu cần, như lịch sử Giáo Hội cho thấy, Giáo Hội cũng có thể bán nhẫn Giám Mục, Chén Thánh v.v. để lấy tiền cứu trợ người nghèo trong cơn nguy cấp. Điển hình nhất tại Iraq trong cuộc chiến giải giới bắt đầu từ Lễ Thánh Giuse 19/3/2003, các nhà thờ đã được sử dụng để làm nơi trú ngụ cho dân chúng trong việc lánh nạn chiến tranh.
Thứ ba, chính nhờ Giáo Hội hết sức chú trọng đến việc thờ phượng kính mến Thiên Chúa như vậy mà lịch sử thế giới cho thấy, trong tất cả các đạo giáo, hầu như chỉ có Kitô hữu nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng mới dấn thân thực hiện những hoạt động bác ái xã hội để lo thăng tiến cho tất cả mọi người, nhất là cho thành phần bất hạnh, qua những cơ sở bác ái từ thiện, như trại cùi, nhà thương, học đường, viện tế bần, cô nhi viện v.v. Còn ai nghèo hơn các tu sĩ nam nữ, những con người đã hoàn toàn tận hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, sống độc thân thanh khiết, khó khăn thiếu thốn, khiêm tốn vâng phục để có thể phục vụ anh chị em đồng loại của mình trong tất cả mọi trường hợp. Điển hình nhất là Mẹ Têrêsa Calcutta, vị đã lập Dòng Nữ Tử Bác Ái (Missionary of Charity), để phục vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo (the poorest of the poor) ở trên 120 quốc gia trên thế giới hiện nay.
Thứ bốn, Giáo Hội Công Giáo không giảng đạo bằng cách cứu khổ về phần xác cho bằng tăng sức thiêng tinh thần cho thành phần bất hạnh. Tại Nam Mỹ hiện nay đang có phong trào dụ giáo của một số giáo phái Tin Lành, bằng việc họ dùng tiền của mang theo từ Mỹ Quốc giầu có để giúp đỡ những người nghèo hở miền này, hầu dễ dàng lôi kéo tín hữu Công Giáo theo giáo phái của họ. Nam Mỹ cũng là nơi phát xuất ra Phong Trào Thần Học Giải Phóng (Theology of Liberation Movement), một phong trào chủ trương Giáo Hội cần phải cứu khổ nữa. Nếu thực sự vấn đề cứu độ (spiritual/permanent salvation) trước hết và trên hết là vấn đề cứu khổ (material/temporary salvation) thì phải chăng những người giầu sang phú quí không sống trong cảnh bần cùng và bị đàn áp đều là những người đã được cứu độ? Thực tế cho thấy, chính thành phần giầu có này lại là những người đáng thương nhất, khó rỗi linh hồn nhất, đến nỗi, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là họ vào thiên đàng (xem Phúc Âm Thánh Mathêu 19:24). Như thế, thành phần giầu có mới cần phải nghe rao giảng Tin Mừng Cứu Độ hơn người nghèo. Và tiền bạc không phải là vị cứu tinh duy nhất và trên hết của người nghèo và cho người nghèo, mà là đức tin (xem Phúc Âm Thánh Marcô 16:16).
Thứ năm, không phải đã là Kitô hữu, đã là người Công Giáo, đã lãnh nhận đức tin nơi Phép Rửa, đều tốt lành, đều hơn bất cứ người nào không phải là Kitô hữu, không phải là Công Giáo. Trái lại, thực tế cho thấy, Kitô hữu nói chung và Công Giáo nói riêng đã sống phản chứng, sống phản lại tinh thần Phúc Âm Chúa dạy để làm chứng cho Người, làm cớ cho thế gian chẳng những không nhận ra Chúa Kitô mà còn chê Kitô Giáo nữa. Vụ lạm dụng tình dục trẻ em của hàng giáo sĩ Hoa Kỳ bùng lên từ đầu năm 2002 là một thí dụ điển hình. Sự kiện Kitô Giáo chia rẽ, chia ra làm ba, Công Giáo Rôma (Roman Catholic Church), Chính Thống Giáo Đông Phương (Orthodox) và Anh Giáo (Angelican) hay Tin Lành (Protestant) cũng là gương mù trước mắt thế gian cho một Kitô Giáo đợc Đấng Sáng Lập là Chúa Kitô dạy phải yêu thương nhau để người ta cứ dấu ấy mà nhận ra họ là môn đệ của Người (xem Phúc Âm Thánh Gioan 13:35). Đó là lý do thế giới Kitô giáo Âu Mỹ, nơi truyền bá Kitô Giáo khắp thế giới ngày xưa, và cũng là nơi phát xuất ra trào lưu văn hóa sự chết (culture of death) ngày nay, là những nơi đang cần phải được tân truyền bá phúc âm hóa (new evangilization).
Hy vọng 5 ý tưởng gợi ý trên đây có thể giúp Thúy trả lời cho những vấn đề Thúy không biết trả lời làm sao:
"Why do we not donate these money to poor people?"; "Is that better than feeding people who do not have food to eat?"; "We would touch people more if we give them food and besides, the people who goes to Dai Hoi Thanh Mau are already motivated Catholics, we should reach out to those who are not."
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan cảnh vui buồn trong cuộc sống
1. Con đường khải hoàn vào thành Giêrusalem:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
2. Con đường thập giá: qua đau khổ vào vinh quang:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước vào mầu nhiệm Phục Sinh.
3. Con đường sống đức tin hôm nay:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin thế nào trong cuộc sống đời thường?:
- Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ Rembrandt thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh … Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.
- Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan... hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác…
- Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23). Vác thập giá hôm nay chính là đ1on nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp phải, những lời nói nhục mẠ bất công... Đó là những thập giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng - Làm gì trong cuộc sống hôm nay?: Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.
Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt thế gian. Không riêng gì với những người ngoài Kitô giáo, mà có thể cả những tín hữu, con chiên của Chúa cũng cảm nhận như thế.
1. Nghịch lý từ quần chúng
Sau khi tưng bừng hoan hỉ đón chào Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như vị minh quân đáng kính, tái hiện lại hình ảnh vua Salomon cưỡi con la cái của vua Đavit xuống Ghi khôn ( 1V 1, 38 ), dân chúng Israel lại sớm hùa theo các thầy Thượng Tế, Pharisêu, quay lưng trở cờ, lên án kết tội Chúa và thậm chí còn quá khích, đòi đóng đinh Người.
Một sự phản bội trắng trợn đầy kịch tính và đau xót vô cùng. Nhớ lại một thuở dân chúng đã từng mê say, háo hức đi theo Chúa, vì thấy Người đầy quyền năng, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, nuôi ăn… Nay Chúa bị bắt, bị tra khảo, đánh đập, bị lăng nhục, thì quần chúng quay ra phỉ nhổ, khinh miệt và tố cáo. Dĩ nhiên họ chịu tác động từ các thầy Thượng Tế, Pharisêu, cùng đồng bọn thù hằn với Đấng Cửu Thế.
Nghịch lý này gợi lên tính phù vân của quyền lực và vinh quang nay còn mai mất, chứng tỏ lòng dạ con người mau thay đổi, bất trung, dễ dàng phản bội, lấy oán báo ân.
Từ nghịch lý này, tưởng chừng như bóng tối đã che khuất hoàn toàn ánh sáng. Sự ác đã thắng thế trên thế gian. Nhưng làm sao thế gian biết được rằng sự tột cùng của cái ác lại nảy sinh ra Tình Yêu vĩ đại ? Đó là chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhập thế, gánh hết tội lỗi, cứu rỗi mọi người, "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" ( Ga 12, 32 ).
2 . Nghịch lý từ tình nghĩa thầy trò
Người môn đệ được giao tay hòm chìa khóa, lại tráo trở, phản phúc, âm mưu, cùng đồng lõa với giới lãnh đạo tôn giáo đã thoái hóa, biến chất, để bán đứng Thầy mình, lấy 30 đồng bạc. Phải chăng Chúa đã lầm lẫn, không biết tuyển chọn kỹ càng các môn đệ, mới để Giuđa Iscariot cùng đồng hành suốt 3 năm ?
Còn thêm một môn đệ nữa, cũng được Chúa Giêsu tin cậy, ưu ái, đã chối bỏ Chúa trước mặt đám gia nhân 3 lần trước khi gà gáy 2 lần. Mặc dù ông Phêrô đã được Chúa cảnh báo trước đó không lâu, cũng như ông đã từng thề thốt trung thành với Người. May thay ông còn kịp sám hối, ăn năn trở lại, vì còn tin cậy vào lòng Thương Xót của Chúa.
Nghịch lý này chứng minh lòng tham, lòng ham mê của cải vật chất, ham mê hưởng lạc, lòng bất trung, bất nghĩa, có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào, một khi người ta xa lìa Chúa, đánh mất đi mối hiệp thông sâu xa và bền vững với Chúa, người ta có thể dám bán đứng hay gây đổ máu cho cả người thân,
Nghịch lý này cũng minh chứng rằng: bản năng sinh tồn còn mạnh mẽ hơn cả tình nghĩa thầy trò. Cái thói tham sống sợ chết có lẽ đã nằm trong gien di truyền của loài thọ tạo. Thế mà Chúa lại dạy: “Ai quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được” ( Ga 12, 25 ). Người đã hé mở cho thế gian biết đâu là hơn thiệt.
3. Nghịch lý từ công lý thế gian
Từ dinh thầy cả Caipha, sang dinh vua Hêrôđê, đến dinh quan tổng trấn Philatô, chẳng có bản án chính thức nào có thể buộc tội Chúa Giêsu. Đến nỗi Philatô thấy Người quá oan ức, chẳng có tội tình gì, đã toan tha bổng, nhưng chính cánh “quần chúng tự phát” cứ một mực đồng thanh la lên, đòi đóng đinh Chúa Giêsu.
Ôi ! Công lý của thế gian là thế đó, nó uốn cong theo sức mạnh quyền lực và tài lực, nó chỉ răm rắp thỏa mãn cái dã tâm của nhà cầm quyền, hay tập thể lãnh đạo nào đó. Chính nghịch lý này khiến cho con người bao đời luôn luôn đói khát tìm kiếm sự thật và công lý. Điều chỉ có ở Đấng Thiên Sai mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã công khai công bố: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14, 6 ). Chỉ đến với Người, con người mới nhận được Công lý thật.
Lạy Chúa Giêsu, mầu nhiệm cuộc Thương Khó còn biết bao điều kỳ diệu, mà con chưa thể khám phá và hiểu thấu đáo. Xin cho con được hiệp thông phần nào, qua những khó nhọc, đau khổ hằng ngày, hầu con được ơn cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân ái, xin chỉ dạy con ý nghĩa sự đau khổ, cho con sẵn lòng chấp nhận, hầu ăn năn sám hối tội lỗi, lánh xa dịp tội. Biết sống trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.
Ngày xưa, tôi không hiểu tại sao Giáo Hội lại cho đọc Bài Thương Khó (Passio) trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, ngày mà Chúa Giêsu được dân chúng thành Giêrusalem tôn vinh. Đến nay thì tôi đã hiểu! Vinh quang và Thánh giá không thể tách rời. Đó là khái niệm Thần học. Còn xã hội thì sao? Tôi vẫn thường nghe câu: “Càng cao danh vọng càng dày gian truân”. Chúa Giêsu lại càng hiểu thấu điều này hơn ai hết. Khi mà uy danh Người đã được củng cố qua phép lạ Người làm, qua Lời Người giảng dạy, dân chúng đã muốn tôn Người lên làm Vua thì đó chính là lúc Người sắp bị hãm hại. Nhưng cái cách mà Người chuẩn bị để được tôn vinh cũng như cái cách mà Người đón nhận khổ hình thật… không giống ai! Trước khi vào thành long trọng lại phải đi mượn lừa, trước khi hiến mình chịu nộp lại đi tổ chức tiệc (Thật ra, cũng chẳng phải tiệc tùng thịnh soạn gì, chỉ là một bữa ăn mừng Lễ Vượt Qua, nhưng rõ ràng đây là lần đầu tiên các Thầy Trò chuẩn bị một bữa ăn chu đáo có phòng ốc hẳn hoi). Trong cả hai trường hợp đều có những người vô danh giúp cho mượn lừa và mượn phòng tiệc. Chính các môn đệ theo Chúa Giêsu ba năm ròng mà vẫn không hề biết những người đó. “Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây” (Mc. 11, 3) Một cách mượn kiểu “chơi cha thiên hạ”! Ấy vậy mà, họ vẫn sẵn lòng. Phải chăng người thời xưa sống dễ dãi hơn người thời nay?
Thưa không phải. Tôi vẫn đọc thấy những gương sống rất nhiệm mầu! Sở dĩ tôi phải dùng từ “nhiệm mầu” là vì việc họ theo đuổi được mục đích họ chọn thật là nhiệm mầu:
- Có những người sẵn sàng dùng mặt bằng để mở quán cơm từ thiện thay vì cho thuê kiếm cả chục triệu đồng một tháng.
- Có những người xây dựng nhà mồ côi để chăm sóc trẻ em và người già neo đơn thay vì dùng tiền để kinh doanh.
- Có những người tranh thủ cuối tuần để dạy nghề cho người khuyết tật thay vì đi nghỉ ngơi hay du lịch.
- Lại có những người “tàng tàng” suốt ngày đi thu gom xác thai nhi về chôn cất.
Và còn nhiều, rất nhiều người như thế giữa xã hội tưởng chừng như dửng dưng vô tình hôm nay. Họ chính là “bàn tay của Chúa”. Chúa quyền phép vô cùng có thể phán một lời tức thì liền có trời đất muôn vật, nhưng Người luôn cần sự cộng tác của con người: Cần một căn phòng cho bữa Tiệc Ly, cần một chú lừa con cho sự kiện tiến vào thành Thánh long trọng, cần những cành lá vạn tuế dâng cao, cần lời tung hô “Hôsanna” vang vọng đến ngàn đời, cần 5 chiếc bánh và 2 con cá để làm nên bữa tiệc lịch sử, cần chú cá chép để nộp thuế cho Xê-da-rê, cần đức tin của viên đội trưởng để đầy tớ ông được chữa lành, cần hai xu của bà góa để chúng ta có thêm một bài học… Điều Chúa cần nơi chúng ta thật nhỏ bé và chúng ta cũng không tự mình có được những thứ ấy. Vậy mà, tôi cứ băn khoăn do dự mãi:
- Bỏ giỏ nhà thờ 2 ngàn hay 5 ngàn đây? - Xưng tội một năm mấy lần thì đủ để không phạm luật? - Hôm nay có phải lễ buộc không? - Nên đóng góp xây dựng nhà thờ hay cho khuyết tật? - Nên vào Legio hay Huynh đoàn, bên nào thoải mái hơn?
Và thế là, tôi mất cơ hội được làm “bàn tay của Chúa”.
Tôi nhớ có lần họp mặt bạn học cũ, một anh bạn đại gia ngồi kế bên “bỏ nhỏ” với tôi:
- Cậu T. đã cho mình một bài học tín lý vô cùng quý giá. Hồi đó, mình thấy cậu ta khó khăn, nhà ở xập xệ, mình giúp cho cậu ta một khoản nho nhỏ để mong có chút vốn làm ăn cải thiện cuộc sống. Ai dè, cậu ta chỉ sắm đờn để tập hát Ca đoàn, mua sách hát và một số thiết bị linh tinh khác. Mình có phàn nàn rằng cậu ta chỉ lo việc bao đồng, muốn phục vụ lâu dài phải ấm cái thân trước đã. Cậu ta phản chứng ngay: “Cậu đã ấm thân rồi đó, cậu có lo việc bao đồng như mình được không?” Nhưng rồi sau đó cậu ta dịu giọng ngay: “Nói vậy thôi, mỗi người một sứ mạng. Cậu vẫn là bàn tay của Chúa đối với mình, cậu nên tự hào về điều đó. Mình cám ơn cậu 1 nhưng mình phải tạ ơn Chúa đến muôn nghìn”. Lúc đó mình hơi bực và nghĩ anh chàng này dở hơi. Nhưng sau về suy nghĩ lại mới thấy thấm thía. Có những thứ ta đã cho đi nhưng cứ muốn nó phải đạt một hiệu quả nào đó theo ý ta, chỉ vì ta cứ nghĩ nó là của ta và ta chưa hẳn dứt bỏ nó. Nếu ta nghĩ nó là của Chúa thì ta sẽ phó mặc cho Chúa sử dụng tùy nghi theo Thánh Ý, không bận tâm, không nặng lòng! Sau này, mình có giúp cho T. vài lần nữa, cậu ta cám ơn, mình trả lời: “Cậu nên tạ ơn Chúa chứ đừng cám ơn mình, được là bàn tay của Chúa là một vinh dự lớn cho mình rồi!”
Người cho mượn lừa, kẻ cho mượn phòng tiệc đã không quan tâm đến mục đích sử dụng của Chúa. Họ đâu ngờ rằng chú lừa con và phòng tiệc nhỏ bé kia sẽ đi vào lịch sử của nhân loại như dấu chứng của Tình Yêu từ Trời xuống giữa thế gian. Những sự vật nhỏ bé bỗng trở nên vĩ đại qua “bàn tay của Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức rằng, Chúa luôn cần chúng con trong chương trình cứu độ của Chúa. Nhờ đó, chúng con biết sẵn sàng bước theo con đường Thập tự, con đường phục vụ, cống hiến và hy sinh vô điều kiện. Bởi vì mọi sự con có được đều là của Chúa. Amen.
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa ?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà ngoại giáo giàu có kia định liệu thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa chiều bẻ lái” cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ ? Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được” ? Ấy vậy, những chuyện “quả tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai…
Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao ? Tôi có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.
Trong trình thuật đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn Người cỡi lên con lừa con chưa ai cỡi bao giờ. Hình ảnh đức Giê-su khải hoàn tiến vào Thành Thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (bức tranh Na-pô-nê-ôn vượt qua dãy Alps của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì sâu sắc khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9,9). Ý nghĩa là như thế, nhưng tại sao? Các chú giải quen thuộc như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible) thực ra chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy một nét bên ngoài đã từng được nhắc đến (như thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết trong đời thường, và đối với người Do Thái, việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay những người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Kể từ thời hậu Sa-lo-mom sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Vua Hòa Bình, khác xa quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại: Ap-ra-ham sát tế I-xa-ác và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay… và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ.
Như vậy cảnh tượng đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3, 14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt. Nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ. Đấng Mê-si-a, Đấng ngự đến nhân danh Chúa phải là như thế, không thể khác được.
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị chai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con. Amen