Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Tuy nhiên, không có gì thật và công bằng như cái chết. Chết là con đường chung cho tất cả mọi người: nam - phụ - lão - ấu, không trừ ai. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết.
Mặt khác, tuy rằng cái chết là chung cho tất cả mọi người, nhưng cách đối mặt với cái chết của mỗi người lại rất khác nhau. Hôm nay, tôi muốn được chia sẻ với quý OBACE về một cái chết hết sức đặc biệt, cái chết của một vị Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa, vì yêu thương, đã chấp nhận chết để cho người mình yêu được sống. Do đó, có thể nói: Đây là một cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hòa giải, cái chết đem lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho toàn thể nhân loại, cho quý OBACE, cho tôi.
1. CÁI CHẾT CỦA CON NGƯỜI:
Trước khi đề cập đến cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhìn lại cách mà con người thường dùng khi đối mặt với cái chết. Thông thường, khi đứng trước cái chết, thì tâm lý chung là sợ hãi và tìm cách trốn chạy.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chúng ta gặp thấy có một số người rất can đảm không hề tỏ thái độ sợ hãi trước cái chết. Chẳng hạn như các anh hùng liệt sĩ, các cảm tử quân... Đây quả là những hình ảnh thật anh hùng, quả cảm. Tuy nhiên, đàng sau những cái chết này thường là những lời dặn dò, trăn trối với những người còn sống, với bạn bè, đồng đội là "Hãy trả thù cho họ". Cái chết của những người này thường làm tăng thêm sự oán hận, căm thù nơi những người còn sống. Từ đó, hố sâu ngăn cách giữa người với người, giữa phe nhóm này với phe nhóm kia ngày càng rộng hơn, sâu hơn.
Như thế, nhìn bên ngoài thì có vẻ anh hùng, nhưng đây là một cái chết để tiếp tục cho những cái chết khác. Những người này chết để phe của họ có thể dành được chiến thắng. Cho dù để có chiến thắng đó, sẽ phải tiếp tục đổ thật nhiều máu của kẻ thù. Xét cho cùng đây cũng chỉ là cái chết bất đắc dĩ, cái chết cho tư lợi riêng của bản thân, của phe nhóm mình.
Những cái chết này nếu đem so với cái chết của Chúa Giêsu thì quả thật có sự khác biệt rất lớn.
2. CÁI CHẾT CỦA TÌNH YÊU:
Trước hết, cái chết của Chúa Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Chúa Giêsu cũng đã muốn thoái lui, nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót hải hà dành cho chúng ta, Ngài đã dâng lên Chúa Cha một lời nguyện thật cảm động: " Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng viết: "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người đã hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, ... Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá".
Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Chúa Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
Tình yêu của Chúa Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt thương xót Ngài dành cho Phêrô khi ông đã ba lần chối Ngài. Thánh sử Luca thuật lại: "Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô". Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên mất nỗi đau khổ mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta. Trên đường thập giá, mặc cho gánh nặng của thập giá, cùng với bao vết thương từ đòn đánh của bọn lính, Chúa Giêsu vẫn dừng lại để yên ủi, vỗ về những kẻ theo Ngài: "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi".
Không giống như cái chết của các anh hùng trong lịch sử, một cái chết đòi trả bằng giá máu, làm cho mối hận thù ngày càng sâu đậm hơn. Chúa Giêsu đã chết để giao hòa đất với trời. Thánh Luca cho biết ngay khi chúng ta trút hơi thở thì "màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Cha, Con phó thác linh hồn Con trong tay Cha". Nói đoạn Người trút hơi thở". Màn Đền Thờ đã xé ra để từ đây, con người có thể đến với Thiên Chúa, tôn vinh Thiên Chúa và được Thiên Chúa giao hòa. Người đầu tiên được cảm hóa bởi cái chết vì tình yêu của Chúa Giêsu chính là vị sĩ quan chỉ huy cuộc hành hình Ngài, Kinh Thánh thuật lại: "Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: "Ông này quả thật là người công chính".
3. CÁI CHẾT HÔM NAY CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU:
Chết đi cho con người cũ. Chết khi đón nhận sự vu oan, hiểu lầm từ những người thân nhất của mình. Chết khi phải từ bỏ một thói quen, một sở thích để sống theo đòi hỏi của Tin mừng. Chết khi vượt thắng sự lười biếng để dấn thân phục vụ gia đình, phục vụ cộng đoàn. Chết khi chấp nhận sống tiết kiệm, để chia sẻ cho tha nhân... Những cái chết này tuy âm thầm, nhưng kéo dài suốt cuộc sống của người Kitô hữu. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi một sự can đảm và sức mạnh nội tâm vô cùng lớn nơi mỗi người chúng ta, để có thể vượt qua. Một sức mạnh của tình yêu. Chỉ khi chúng ta yêu Chúa, yêu người được như Chúa yêu chúng ta, thì chúng ta mới có thể đi trọn vẹn theo con đường thập giá của Đức Kitô. Nhờ đó, chúng ta sẽ được thông phần vào sự sống mới của Ngài, một sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc muôn đời. Amen.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca, chúng ta như thấy toát lên con người đầy nhân ái, hay chạnh lòng thương xót của Chúa Giêsu. Nói như thánh Gioan:" Thiên Chúa là tình yêu" quả không quá đáng chút nào.Phần nói về sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu là phần rất quan trọng các sách Tin Mừng. Tuy nhiên, theo thánh Luca ngoài việc nói về sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta dễ nhận ra các chủ đề khác như Chúa Giêsu vô tội, tội lỗi của các thượng tế, ký lục, biệt phái,thánh Phêrô chối Chúa, các môn đệ khác sợ hãi, chạy trốn tán loạn, ông Simon người Kyrênê vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu. Tin Mừng của thánh Luca thật gợi cảm, nói lên đầy đủ ý nghĩa của Con-Người-Chúa-Của-Đức Giêsu: tâm tình, những thống khổ của kiếp làm người và tính thần linh của Con Thiên Chúa làm người. Chúng ta dừng lại ở 3 điểm của trình thuật này: Phục vụ của Chúa Giêsu, yếu đuối của con người và sự tha thứ của Chúa Giêsu.
1. CHÚA PHỤC VỤ NHƯ MỘT NGƯỜI TÔI TỚ:
Trong thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2006 với chủ đề:" Sống yêu thương và phục vụ". Phục vụ vì yêu thương. Yêu thương để phục vụ tha nhân và mọi người. Chúng ta thấy rõ trong đoạn Tin Mừng nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca viết " Chúa Giêsu nói với các môn đệ:"Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ"(Lc 22,27 ). Chúa Giêsu làm gương cho các môn đệ bằng cách cúi xuống rửa chân cho các ông. Quả thực, cho tới lúc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, các ông cũng vẫn chưa hiểu thêm chút nào về việc Chúa Giêsu sẽ làm và trong bữa ăn tối Tiệc Ly, các ông cũng chỉ nói lên những lo lắng hết sức trần tục của các ông. Chúa Giêsu cảm thấy cô đơn vì các môn đệ hầu như muốn bỏ rơi Chúa hoàn toàn. Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu: Nhất lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan, chúng ta như chứng kiến một chuỗi dài ngày sống của Chúa Giêsu ở trần gian là một chuỗi những ngày phục vụ, đặc biệt trong ba năm Ngài và các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Chúa và các môn đệ quên ăn, quên ngủ, cả chặng đường này là những ngày Chúa rao giảng không ngơi nghỉ cho dân chúng, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền, làm phép lạ cho kẻ chết sống lại vv...Giáo Hội Việt Nam khơi lên tinh thần sống yêu thương và phục vụ để làm nổi bật gương của Chúa Giêsu mà mọi người, đặc biệt những Kitô hữu Việt nam phải noi gương bắt chước Chúa để sống phục vụ như Ngài.
2. SỰ YẾU ĐUỐI CỦA CON NGƯỜI:
Đọc trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca cho thấy Phêrô, sau này là thủ lãnh và là đầu của Giáo Hội hoàn vũ: mau mắn, quyết tâm đó, nhưng lại dễ sa ngã, chối Chúa đến 3 lần. Phêrô được Chúa khen khi ông tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, được Chúa gọi là Kêpha nghĩa là Đá. Nền tảng Đá của Phêrô tưởng chừng vững chắc lắm nhưng ông lại yếu đuối:"Cản ngăn con đường cứu thế của Chúa và chối Chúa đến không thương không tiếc". Các môn đệ khác thì bỏ trốn Chúa một cách vô tội vạ( Mc 14, 51-52 ). Đời sống của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin nhiều thử thách, lắm chông gai. Con người có thể chối Chúa, có thể nhát đảm bỏ rơi Chúa vì thiếu lòng tin, nhưng cũng có thể vì danh vọng, vì quyền lợi mà quên đi đạo làm con Chúa.
3. CHÚA THỨ THA:
Tin Mừng của thánh Luca là Tin Mừng về lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Dụ ngôn người"Con hoang đàng"(Lc 15, 11-32 )và sự tha thứ của Chúa đối với những kẻ làm thiệt hại mình ( Lc22,34 ). Đọc toàn bộ Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta thấy rất nhiều dụ ngôn nói về lòng thương xót của Chúa chẳng hạn dụ ngôn " Người phụ nữ ngoại tình"(Ga 8,1-11). Chúng ta có thể ghiền gẫm nhiều đoạn Kinh Thánh của Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan nói lên tình thương sâu xa của Chúa Giêsu đối với con người.
Chủ đề của thư mục vụ của các Đức Giám Mục Việt Nam 2006: Chúng ta hiểu sâu hơn về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tình thương vô biên của Ngài đối với chúng ta, nhờ đó chúng ta dễ học đòi bắt chước Chúa"Sống yêu thương và phục vụ".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương và phục vụ như Chúa . Amen.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm Khổ Nạn của Đức Giêsu trong đời mình. "Vác thập giá của mình hàng ngày mà theo Thầy": đó là định mệnh của Kitô hữu (x.9,24). "Tôi đã cùng chịu đóng đinh thập giá với Đức Kitô"
(Gl 2,19). Không vác thập giá, không chịu đóng đinh, không chết với Đức Kitô, thì cũng chẳng được hưởng sự sống vinh quang với Ngài. "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài" (2Tm 2,11).
Trong Tuần Thánh, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu. Bạn cần nhìn thật lâu cách phản ứng của Đức Giêsu trước những đau khổ xảy đến cho Ngài. Thái độ của Ngài có thể làm bạn thay đổi, và lòng bạn mềm lại. Bạn vẫn cảm nghiệm những đau đớn Ngài phải chịu trên thân xác: bị đánh đòn, bị đóng đinh... nhưng bạn đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài. Đôi khi chúng ta tưởng Đức Giêsu là người thánh thiện quá đến nỗi chẳng còn biết xấu hổ, nhục nhã trước những xúc phạm, khinh chê của kẻ thù. Chính Ngài đã cứu độ chúng ta bằng nỗi đau khi Giuđa hôn Ngài bằng nụ hôn phản bội, khi Phêrô chối Ngài ba lần, khi Ngài bị bịt mặt để chơi trò bói xem ai đánh mình (Lc 22,63-65). Chúng ta cần thấm thía nỗi cô đơn của Đức Giêsu đường lên núi Sọ, sự mắc cở của Ngài khi bị lột quần áo, nỗi đắng cay khi bị người qua kẻ lại châm chọc chế diễu. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, không xa lạ với nỗi khổ đau của phận người. Ngài không "giải quyết" mầu nhiệm đau khổ như một triết gia; Ngài đón lấy đau khổ và cho một ý nghĩa, vì Ngài đón nhận nó trong tình yêu. Chúng ta đừng quên cảm nghiệm Tình Yêu của Đức Giêsu ẩn dưới mọi khổ đau Ngài chịu. Và Tình Yêu ấy dành cho từng người chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm thấy Đức Giêsu chịu hy sinh là vì mình: "Đấng đã yêu mến tôi và đã phó nộp mình vì tôi" (Ga 2,20). Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu cũng đụng chạm đến bản thân tôi hôm nay.
Cuộc Khổ Nạn như một vở kịch, có nhiều vai diễn. Chúng ta thấy mình có nét nào đó giống với họ, và qua vấp ngã của họ, chúng ta học được nhiều điều.
Trong số các môn đệ, Phêrô là người ở gần Đức Giêsu hơn cả, lúc Ngài ở dinh Thượng Tế. Nhưng ông lại là người xa Thầy. Ông chối không ở với Thầy, cũng chẳng thuộc về nhóm môn đệ của Thầy. Cái nhìn của Đức Giêsu nối lại mối dây tình nghĩa với ông. Chính lúc ông bỏ Thầy mà đi thì ông lại gặp Thầy trong nước mắt (Lc 22,54-62). Chỉ trong hơn một giờ, Phêrô đã chối bỏ ba năm trung tín. Ông đã nói dối, nhưng lời nói dối của ông chất chứa sự thật. Đúng là ông đã tách khỏi Đức Giêsu và các môn đệ khác. Đúng là ông đã trở nên xa lạ với Thầy mình sắp chịu tử hình. Khi nghe gà gáy và thấy ánh mắt của Thầy, Phêrô ý thức mình đã nói thật, và ông khóc.
Philatô là mẫu người không dứt khoát. Ba lần ông khẳng định là Đức Giêsu vô tội, nhưng ông vẫn cho đánh đòn Ngài (23,16). Ông tưởng làm thế là xoa dịu đám đông. Thật ra điều đó chỉ làm lộ ra sự yếu đuối của ông. Đám đông không bỏ lỡ cơ hội, đòi ông phải đóng đinh Đức Giêsu, và ông đã chiều ý họ. Chúng ta không thể vừa muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, vừa muốn làm đẹp lòng người đời. Cái chết của Đức Giêsu tạo ra một sự phân cách giữa những kẻ theo Ngài và những kẻ khước từ Ngài. Mỗi nhóm đều có những người ở hai phe: một tên cướp chế diễu, còn một tên lại tin vào Ngài; các người lính sỉ nhục Ngài, còn viên bách quan lại tôn vinh Thiên Chúa; các nhà lãnh đạo Do Thái nhạo báng Ngài, còn Giuse Arimathia lại dành cho Ngài ngôi mộ mới của mình; các bà từng theo Ngài ở Galilê vẫn theo đến cùng, còn các môn đệ thì chẳng thấy bóng dáng đâu.
Ước gì chúng ta đồng hành với Đức Giêsu trên đường thánh giá, chúng ta cũng đồng hành với nhân loại khổ đau hôm nay. Biết bao người trên thế giới vẫn mang thân phận của Đức Giêsu: bị vu khống, kết án, làm nhục, tra tấn, và bị xóa tên trên mặt đất. Vẫn mãi mãi cần những Simon Kyrênê, vác đỡ thánh giá cho những người đau khổ trên thế giới.
Trong khi dân chúng tin theo và tung hô Chúa, thì bọn biệt phái lại hậm hực tức tối. Tại sao thế? Vì Chúa đã đảo lộn mọi ý nghĩ trong đầu óc họ. Vì Chúa đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của họ, và Chúa đã phơi bày những tính hư tật xấu của họ. Họ nắm tay chống đối Người, và bằng mọi cách phải giết được Người. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy, nhưng Người vẫn đi con đường của Người, dù phải đau khổ, dù phải chết chóc. Qua đó, chúng ta nhận ra Người thực là Thiên Chúa.
Đúng thế, Người đã giảng dạy như là Thiên Chúa. Bọn biệt phái luôn rình rập, gài bẫy để bắt lỗi Người, nhưng Người đã nói thẳng với họ: Ai trong các ngươi có thể tìm thấy nơi Ta một khuyết điểm, một sơ hở nào? Liệu có một nhà hiền triết, một bậc quân tử, một đấng thánh nhân nào nói được như vậy chăng. Hơn nữa, Người còn nói với chúng ta bằng tất cả uy quyền của Thiên Chúa. Người truyền lệnh, Người kết án, Người chỉ cho thấy con đường cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Nếu các con tuân giữ lời Thầy, các con sẽ không phải chết.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã hành động như là Thiên Chúa. Việc làm của Người đã chứng thực cho những lời Người nói. Người chữa lành những kẻ đau yếu, cho kẻ chết sống lại, dẹp tan giông tố, tha tội cho kẻ vấp phạm. Đó là những việc làm mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền và có thể thực hiện được mà thôi. Sau cùng, chính Người đã xác quyết về bản tính của Người. Bề ngoài, Người là một người như chúng ta, nhưng thực sự Người lại là Thiên Chúa. Điều đó làm cho bọn biệt phái lấy làm chướng tai gai mắt.
Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các tông đồ cũng như dân chúng đón nhận sự mạc khải ấy. Ngay từ đầu Người đã không nói thẳng ra Người là Thiên Chúa. Nhưng dần dần, qua những lời giảng dạy, qua những phép lạ cũng như qua cuộc sống thánh thiện của Người, những người thiện chí sẽ phải đặt vấn đề. Người không phải là một kẻ tầm thường như chúng ta. Rồi từ từ Người làm cho họ xác tín Người là Con Thiên Chúa. Ngày kia Người đã hỏi các tông đồ: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô đã trả lời: thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng số. Và Chúa Giêsu đã nói: Không phải máu thịt đã tỏ lộ cho con điều ấy, nhưng chính là Cha Ta ở trên trời. Để thưởng công cho niềm tin tưởng ấy Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Khi tranh luận về cụ tổ Abraham, Chúa Giêsu đã nói với bọn biệt phái: Trước khi Abraham sinh ra thì đã có Ta. Đây cũng là lời xác quyết về bản tính Thiên Chúa của Người. Lời này khiến bọn biệt phái tức tối, muốn ném đá Chúa, nhưng Người cứ giữa chúng mà đi vì giờ Người chưa đến.
Chúa Giêsu có thể tiêu diệt những kẻ phạm thượng, nhưng Người không muốn, cũng như trên thập giá, Người có thể trừng trị những tên lý hình hạo báng, nhưng Người đã không hành động, Người muốn tình thương hơn là sự thù hận. Nhưng Người đã sống lại, ra khỏi mồ, và Người sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rõ quyền năng và vinh quang của Người. Ngày tươi sáng và hạnh phúc sẽ được dành cho những ai trung thành phụng sự Người.
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội lắng nghe và suy niệm về sự thương khó của Giêsu Kitô là Đấng Thánh. Chúa Giêsu đã thực hiện tất cả những lời tiên báo của tiên tri Isaia về biến cố đau thương của người tôi tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi (Is 50, 6). Đây là Bài ca thứ ba mà Isaia đã loan tin về Người Tôi Tớ Chúa, viết khoảng hơn 500 về trước. Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn một kiếp người, có sinh ra và có từ trần. Quãng đời của Chúa sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn 33 năm. Chúa đã sống ba mươi năm âm thầm lặng lẽ và trưởng thành nơi miền Nazaret bé nhỏ. Chúa Giêsu chỉ dùng ba năm cuối đời để rao giảng Tin mừng, làm các phép lạ và mạc khải về Nước trời.
Ba năm giảng đạo của Chúa gặp rất nhiều khó khăn thách đố. Xuất thân từ làng quê miền Nazarét, ngay từ khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã bị nhiều người nghi ngờ, khinh dể và coi thường. Với dáng vẻ bình thường của một thanh niên trẻ, Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng cứu độ. Đối diện với một hệ thống tôn giáo hình thức và xã hội có truyền thống lâu đời, từng bước Chúa Giêsu đã đánh động con tim, khơi dậy tình yêu và canh tân cuộc sống. Như một nhà cách mạng nội tâm đổi đời, Chúa Giêsu đã đối mặt với nhiều sự chống đối, tẩy chay và thách thức. Một thân một mình gầy dựng, mời gọi và chọn lựa một nhóm môn đệ nồng cốt để truyền đạt chân lý nước trời. Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Chúa vạch rõ con đường để đi tìm sự thật, bất chấp những đố kỵ, ngăn cản và thù ghét. Một niềm tin tưởng và chu toàn thánh ý Chúa Cha. Tiên tri Isaia diễn tả sự vâng phục: Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi không phải hổ thẹn (Is 50, 7).
Trong những năm giảng dậy, Chúa Giêsu đã mạc khải tất cả mầu nhiệm về Nước Trời. Chúa đã dùng mọi hình ảnh, câu truyện, kinh nghiệm cụ thể, các tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn và lời Kinh thánh để làm sáng tỏ con đường dẫn về quê trời. Mỗi một lời nói, hành động và phép lạ đều minh chứng quyền năng giảng dậy của Chúa. Chúa Kitô đã dạy, đã sống và đã hoàn tất mọi điều Ngài truyền dậy. Ngài cũng chu toàn mọi lề luật ràng buộc của xã hội. Về tôn giáo, Chúa đã đến không phải để phá hủy lề luật, nhưng làm cho kiện toàn. Đặc biệt về cách thức giữ luật ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bị các nhà Luật sĩ, Biệt phái, Trưởng Lão và các Thầy Tư Tế bắt bẻ và kết án nhiều nhất. Theo truyền thống, người Do-thái giữ luật ngày Sabát một cách rất khắt khe nhiệm nhặt. Ngay trong cuộc sống hôm nay, nhóm người Do-thái chính thống vẫn giữ ngày Sabát một cách rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Từ chiều thứ Sáu, vọng ngày Sabát, họ đã chuẩn bị nấu nướng và sắp xếp mọi thứ cần dùng. Khoảng sau 3 giờ chiều, họ sẽ không làm bất cứ một việc gì dù nho nhỏ và giữ trọn ngày Sabát. Các cửa tiệm đóng cửa và đường xá vắng tanh. Họ hoàn toàn dành giờ nghỉ ngơi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Trong cuộc hành hương Đất Thánh vừa qua, tôi có kinh nghiệm một chút thế nào là việc giữ ngày Sabát. Khi chúng tôi về tới khách sạn Ramada tại Giêrusalem, vì qua một ngày dài hành hương mệt mỏi, khi thấy cầu thang máy mở cửa, chúng tôi vội bước vào thang máy. Không để ý thang máy chỉ ngưng ở những lầu có số chẵn 2, 4, 6, 8…Chúng tôi ở lầu 7 nên không ra được. Đi lên đi xuống một vài vòng, chúng tôi phát hiện là thang máy đã được gài xét tự động vào vọng ngày Sabát. Chúng tôi đành phải đi ra để đổi sang thang máy khác. Vì người Do-thái kiêng việc xác, nên sẽ không giơ tay bấm số chọn lầu. Tôi học biết trong khách sạn, vào vọng chiều thứ Sáu và ngày Sabát, có một thang máy dành cho các lầu mang số lẻ và một thang máy dành cho các lầu có số chẵn. Còn có hai thang máy khác dành cho mọi người xử dụng chung. Đây là một trong những cách giữ luật ngày Sabát.
Vì giữ truyền thống muốn bám sát với các quan niệm và thực hành tôn giáo đương thời, các người lãnh đạo tôn giáo đã rơi vào sự ghen tị và gây nhiều sự bất đồng với những lời giảng dậy và việc làm của Chúa Giêsu. Các người Biệt phái và Luật sĩ dựa vào lời Kinh Thánh để kết án Chúa Giêsu về việc không tuân giữ luật ngày Sabát, không rửa tay trước khi ăn và tội phạm thượng… Chúa Giêsu lại dứt khoát thay đổi những hình thức thờ phượng giả tạo bên ngoài của việc ăn chay, bố thí, lễ dâng, những sự khoe khoang rỗng tuếch và những lời cầu kinh chỉ bằng môi miệng nhưng tâm hồn thì xa Chúa. Ngày qua ngày, sự ghen tương thù ghét chất chồng, nên các nhà lãnh tạo tôn giáo tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận biết sự thù oán của họ, nhưng Chúa vẫn tiếp tục mở con đường hẹp dẫn tới sự sống thật. Vì Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ. Kính thờ Thiên Chúa trong thần trí và sự thật.
Chúa Kitô đã sẵn sàng đón nhận chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã tha thiết nguyện cầu cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” (Mt 26, 42). Thời gian đã mãn, Chúa Kitô quyết định trở về Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua của người Do-thái để hoàn tất sứ mệnh cứu độ. Các nhóm lãnh đạo tôn giáo đã toa rập gây cớ để bắt và xử án Chúa. Chúa Giêsu đã nhường bước và chấp nhận mọi xỉ nhục khổ đau mà không hề than van. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi cuốn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quì gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: “Tâu vua dân Do-thái” (Mt 27, 28-29). Được dịp trả thù, các quan quyền, các nhà lãnh đạo tôn giáo, quân lính và dân chúng đã xỉ vả và hành hạ Chúa cho đến chết. Sau khi Chúa bị bắt, bị tra khảo, nhịn đói, nhịn khát, bị giam hãm, đánh đòn, đội vòng gai, vác thập giá nặng nề leo lên núi sọ, bị xô đẩy, bị đóng đinh treo trên thập giá và bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim, Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh và gục đầu trút hơi thở: Đoạn Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở (Mt 27, 50).
Cách đây hơn hai ngàn năm lịch sử, Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ và đã kết thúc sứ mệnh cứu rỗi trên một vùng đất cụ thể là nước Do-thái. Ngày nay, người ta đã cố công khơi quật hoặc xây cất những thánh đường tại những nơi đã có dấu chân của Chúa, để giúp khách hành hương đến cầu nguyện, suy niệm, cảm nhận và hun đúc niềm tin. Đến thành Thánh Giêrusalem, theo truyền thống, chúng ta có thể kính viếng những nơi mà xưa Chúa đã đi qua như thăm viếng và cầu nguyện tại vườn cây dầu, chỗ Chúa bị bắt, chịu tra trấn và hầm giam, con đường thánh giá lên núi Sọ, nơi Chúa chịu đóng đinh và chết, nơi tắm xác, Mộ Chúa và nơi Chúa Phục Sinh từ cõi chết. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu thành Philipphê đã viết: Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với thiên Chúa (Phil 2, 6). Mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình làm hy lễ trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại: Người đã hủy bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm (Phil 2, 7)
Lạy Chúa, Tuần Thánh là cao điểm việc cử hành tưởng niệm Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Xin cho chúng con thấu hiểu và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ của Chúa. Vì yêu, Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng con. Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con đã phạm. Xin đưa dẫn chúng con tham dự vào niềm vui vinh quang phục sinh của Chúa.
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu - Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7):“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
Kết luận
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
Với Chúa nhật của Niềm Vui (Laetare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.
Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu
Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4).
Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song.
Niềm hy vọng của chúng ta
Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.
Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.
Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4).
Thật là đại tin mừng: "Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.
Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).
"Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52).
"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.
Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng
Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
1. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Đám đông các môn đệ tháp tùng Ngài trong hân hoan, họ trải áo choàng trước Ngài. Người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen vang lên: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa đang ngự đến, Ngài là vua. Bình an trên trời và vinh danh trên các tầng trời" (Lc 19, 38).
Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, bình an: đó là một bầu không khí vui mừng mà con người ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn những con người đang kỳ vọng nhất giữa những con người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mặt mọi người. Ngài đã biết cảm thông với những lầm than của con người, Ngài đã tỏ lộ khuôn mặt đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và đã cúi mình chữa lành xác hồn.
Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn đến những bệnh tật và tội lỗi của chúng ta. Đó là tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Giêsu. Và thế là Ngài vào thành Giêrusalem với tình yêu thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.
Khởi đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta vẫy các cành lá. Tất cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong chúng ta và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn chiếu sáng đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta: là người bạn và là người anh em với chúng ta. Ngài soi sáng cho hành trình của chúng ta, và chúng ta đã đón nhận Ngài. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: niềm vui! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt!
Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu: Ngài đang ở giữ chúng ta; phát sinh từ sự biết rằng với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ lẻ loi ngay cả trong những lúc khó khăn, ngay cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn nạn và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và trong cuộc đời chúng ta có rất nhiều những khó khăn và chướng ngại như thế!
Trong những khó khăn đó, kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời đường mật. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng Ngài, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài đồng hành với chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để ai lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
2. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (x. Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa; với cảm thức đức tin, họ thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc I (x. Is 50,6); Ngài vào thành để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào thành để bước lên đồi Canvê. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất "vua" của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Cha nghĩ đến điều ĐTC Biển Đức XVI đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đinh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình.
Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội lỗi của chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội của cha thường nói với những đứa trẻ như cha khi còn nhỏ rằng: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và những tội lỗi của mỗi người chúng ta, chúng ta đều ý thức: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, thiếu sót trong tương quan đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác. Với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Đó chính là điều tốt lành mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta trên 'ngôi báu' của Ngài là thập giá. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.
3. Hôm nay tại Quảng trường này có biết bao là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, cha đã nhìn thấy các con trong cuộc rước, khi các con đi vào; cha tưởng tượng ra các con đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: cha mường tượng các con hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các con có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các con mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn với một tâm hồn tươi trẻ, ngay cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung!
Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các con biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và vị Vua đồng hành với chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các con không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các con hãy ôm lấy Thập Giá, vì các con hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà chúng ta đạt đến niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác.
Các con mang Thập Giá lữ hành qua mọi lục địa, qua những nẻo đường của thế giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ" (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các con hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các con thân mến, cả cha nữa, cha cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết của chân phước Gioan Phaolô II và ĐTC Biển Đức XVI.
Chúng ta đang ở gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Cha vui mừng nhìn về tháng bảy sắp tới, tại Rio de Janeiro! Cha hẹn các con tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các con hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các con, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các con phải nói với thế giới: bước theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để rao truyền Chúa Giêsu! Có ba lời là: niềm vui, thập giá, và giới trẻ.
Chúng ta hãy nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ giúp chúng ta tìm gặp niềm vui trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, tìm gặp tình yêu dưới chân thập tự, tìm gặp sự nhiệt tâm của tâm hồn tươi trẻ, để chúng ta bước theo Ngài trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời của chúng ta. Amen.
Khi nhìn vào bức tranh ở Bêtania ta thấy cái gì? Ta gặp thấy đó là một quang cảnh ở trong một bầu khí hết sức nặng nề. Nó nặng nề bởi có một cuộc âm mưu chống lại Chúa Giêsu của nhà cầm quyền Do Thái, giờ đây bầu khí lại càng năng nề hơn khi Giuđa lại đóng góp thêm yếu tố quyết định phản bội Thầy mình, như với tư cách kẻ thực thi lời Tiên Tri này, Giuđa sẽ tìm "cơ hội để nộp Ngài". Thật ra Giuđa hoàn toàn có thể chọn lựa làm hoặc không và chính sự chọn lựa là điều rất quan trọng trong cuộc sống nên:
1. Chọn lựa có mục đích và đi đúng hướng là điều cần thiết
Qua hình ảnh của Giuđa trong đoạn Phúc Âm này đã giúp cho tôi một bài học là phải xác định chính xác cho mình một con đường, lối hướng đi và hướng đi đó phải có một mục đích đúng là điều cần thiết. Khi nhìn lại con đường của Giuđa chúng ta sẽ thấy, Giuđa cũng có một chọn lựa, một hướng đi, có mục đích và có lập trường rõ ràng đó chứ! Thế nhưng tại sao Giuđa đã bị thất bại, để rồi đi đến một sự tuyệt vọng như đang rơi xuống vực thẳm mà không thể cứu vãn được, vì đã mang tiếng là bán đứng Thầy mình và vô tình đưa Thầy mình đi đến cái thật đau thương. Rõ ràng là Giuđa thất bại, thất bại vì Giuđa có lẽ tham tiền mà bán rẻ Thầy mình với giá 30 đồng bạc là cái giá của một người nô lệ theo luật đã định theo sách (Xh 21, 32), cũng có khi Giuđa còn mang một tư tưởng chính trị muốn cùng Thầy Giêsu bạo động dấy lên chống lại sự đô hộ của Đế quốc Rôma. Cuối cùng Gioan thực hiện theo ý riêng và chọn một hướng đi hết sức sai lầm của mình. Thế nhưng, cái sai lầm đưa đến chỗ tuyệt vọng lớn nhất của Giuđa là không khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình để mà ăn năn sám hối như trong dân gian có câu: "đã phóng lao thì phải theo lao" bất chấp mọi hậu quả.
Còn thái độ của các môn đệ khác thì sao! Các vị đang chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua cho Thầy mình: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu". Xem ra có vẻ các ngài rất ân cần, bận rộn lo lắng, khiêm tốn, cởi mở, luôn luôn tham khảo ý kiến và làm theo ý muốn của Thầy Giêsu. Nhưng cuộc vui đó có lẽ như khựng lại, vì trước khi bữa ăn đã bắt đầu. Một lần nữa Chúa Giêsu lại loan báo: "Một trong các con sẽ nộp Thầy". Chúa Giêsu hẳn có thể mường tượng được khi nghe câu trên, tất cả mọi người trong bàn ăn đều: "thưa Thầy có phải con không?". Chính lúc nầy đây nỗi buồn sẽ xâm chiếm các môn đệ bởi vì lời tiên báo này tố cáo quá rõ lòng trung thành mỏng manh của họ đồi với Thầy mình.
Nhìn vào thái độ Chúa Giêsu ta thấy gì! Ngài có ý sai các môn đệ chuẩn bị lễ Vượt Qua là để Thầy trò cùng nhau sum họp lần cuối: "thời gian của Thầy đang đến gần". Nhưng cũng có thể là dấu chỉ để Chúa Giêsu thiết lập Phép Thánh Thể. Đây là thời gian gấp rút của Ngài đang đến gần, đó là thời gian Ngài sẽ phải chết để đổi mới ý nghĩa của biến cố Vượt Qua của người Do Thái, một phần là để nhắc lại kỉ niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai Cập, một phần là nhắm đến cuộc giải phóng loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Và ngày hôm nay lễ Vượt Qua ấy như của lễ hy tế của Chúa Giêsu đang còn tiếp diễn mãi trên bàn thờ cho đến ngày tận thế.
2. Khi đặt mình trước Thánh Thể Chúa tôi có dám chấp nhận và từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa?
Tôi có dám tự hỏi như xưa các môn đệ hỏi Chúa: "Chúa muốn con chuẩn bị cho Chúa ăn lễ Vượt Qua ở đâu?". Tức câu hỏi này ám chỉ một ý nghĩa mỗi ngày là một của lễ hy tế, hy tế của sự ra đi dấn thân, ra đi trong sự tin tưởng phó thác, mang theo một tư thế biết chấp nhận mọi gian truân thử thách cùng đồng lao cộng khổ như Chúa Giêsu đã chịu. Dấn thân trong chấp nhận và từ bỏ. Chấp nhận con người mình là yếu kém, là giới hạn, là mỏng dòn, đôi khi có thể gặp thấy trước mắt là những thất bại. Đồng thời dám từ bỏ những ý riêng, tính ích kỷ, hay ghen ghét, bỏ những gì làm cản bước chân tôi đang đi theo Chúa Giêsu. Hãy cố gắng tập cho tôi có những nhân đức biết cởi mở, biết bàn hỏi theo ý chung trong tình huynh đệ và nhất là phải biết bàn hỏi và thực hiện theo thánh ý của Thầy mình là Giêsu.
3. Tôi cần nhận ra lòng nhân từ vô biên của Chúa
Khi nào còn trung thành gắn bó với Thánh Thể Chúa, thì tôi càng nhận ra lòng nhân từ vô hạn của Chúa. Chỉ có nơi Thiên Chúa mới có thứ tình yêu không biên giới ấy. Cụ thể nơi Chúa Giêsu đã thấy trước sự phản bội của Giuđa nhưng Ngài vẫn tôn trọng sự tự do cho Giuđa, cũng có thể hiểu rằng Chúa Giêsu vẫn còn một chút hy vọng để cho Giuđa còn kịp sám hối quay trở lại với Chúa. Về phía tôi, khi thầm đấm ngực cúi đầu trước Thánh Thể Chúa, tự nhận mình là Giuđa kẻ bán Chúa qua những tính hư tật xấu của mình, khi đó tôi ngước lên nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi như Ngài gởi đến cho tôi một thông điệp: Chúa vẫn yêu con và hy vọng rằng con sẽ sống tốt hơn mỗi ngày, cũng trong cuộc sống tốt đẹp nhất của con, là luôn mang hình ảnh tươi sáng của Cha đến cho mọi người, để ngõ hầu cùng con mang các linh hồn về với Ta. Amen.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.
Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.
Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.
Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?
Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt).
1. Ngã rẽ của đám đông.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...
Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!
2. Ngã rẽ của Giuđa.
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.
Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.
3. Ngã rẽ của Phêrô.
Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.
Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.
Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.
Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có thể chia thành hai phần: Phần thứ nhất là nghi thức làm phép và rước lá; Phần thứ hai là thánh lễ như thường lệ nhưng nội dung các bài đọc mang vẻ trầm buồn, nhất là bài thương khó kể lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Phần thứ nhất, nghi thứ làm phép và rước lá. Trong phần này của chúa nhật năm A, chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu vào thành thánh Giêrusalem. Quang cảnh rất hoành tráng. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Dân chúng đón tiếp một cách nồng hậu. Tin mừng cho biết: “Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21,8-9). Có thể nói, đây là một cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem của Đức Giêsu, toàn dân ủng hộ, không thấy một sự chống đối nào.
Phần thứ hai, phụng vụ cho chúng ta nghe ba bài đọc liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, đây là bài ca thứ ba về người tôi tớ đau khổ. Tác giả cho biết, người tôi tớ bị bách hại, phỉ nhổ, tra tấn và bỏ rơi nhưng vẫn nhịn nhục, chịu đựng, trung thành và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi…” (x. Is 50, 6-7).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là người tôi tớ mà tiên tri Isaia tiên báo: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người.” (x. Pl 2, 6-11)
Bài Thương khó được Thánh Mathêu tường thuật lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Qua cuộc khổ nạn này, Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều bài học cao quý, xin được đơn cử một số bài học sau đây:
Bài học thứ nhất: Sự can đảm, quảng đại, hy sinh vì người khác. Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ vì yêu thương nhân loại chúng ta. Đây là bằng chứng của một tình yêu cao quý. Vì,“không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Bài học thứ hai: Sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Giuđa là kẻ nộp Ngài. Ngài tha thứ cho Phêrô là kẻ chối Ngài. Ngài tha thứ cho các môn đệ là những người thân tín nhưng đã bỏ trốn khi Ngài gặp nạn. Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài tha thứ cho kẻ trộm cướp bên phải và cho anh ta được vào Thiên đàng với Ngài ngay ngày hôm ấy.
Bài học thứ ba: Sự vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha. Khi cảm thấy khó có thể vượt qua nỗi cô đơn, đau khổ, Đức Giêsu không tránh né nhưng phó thác và vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha.” (Mt 26,39 và 42). Đúng như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc II: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8)
Ngoài ra, khi suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu còn giúp chúng ta hiểu hơn về ý nghĩa của đau khổ, từ đó chúng ta biết can đảm hơn để vác thập giá của mình và sẵn sàng nâng đỡ thập giá của tha nhân.
Ở Bỉ, trong trận thế chiến thứ nhất, một trận đánh khốc liệt vừa xảy ra. Trong một nhà thờ đã được biến thành nhà thương, hàng trăm thương binh nằm la liệt. Bàn thờ được biến thành bàn mổ. Thiếu thốn thuốc men, người ta phải giải phẫu các thương binh mà không có thuốc tê hay gây mê. Một thương binh đang được giải phẫu, trong một khắc đồng hồ, anh ta phải chịu “tử đạo”, tay nắm chặt, mồ hôi đầm đìa, nhưng không một lời than trách hay rên la.
Sau khi hoàn tất ca phẫu thuật, bác sĩ hỏi anh: “Tại sao anh có thể chịu đựng được như thế? ”
Anh trả lời: “chính vì tôi đã nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã chết không một tiếng rên la vì tội lỗi nhân loại. Cho nên, tôi cũng không thể than khóc vì những đau khổ mà tôi có thể chịu để đem lại hạnh phúc tự do cho người khác.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn để chịu chết trên cây thánh giá vì yêu thương nhân loại chúng con. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Amen.
Là Kitô hữu Công giáo, vào tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là "hát và nghe bài Thương Khó". Những người hát thì vất vả cở nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các "ca viên không chuyên" ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết...
Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ "cuộc thương khó" được dịch bởi từ La ngữ "Passio", mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là "Passion", cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là "chịu đau khổ" thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XXII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vuợt mức bình thường, thành sự đam mê, thành "yêu say đắm". Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn.
1. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ich của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tình khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định.
Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: "chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người" (Mt 27,18).
Một sự say đắm "quy ngã", nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn.
2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời, tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: " Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con ngưòi chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ "cái thế này": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man - Fils de l" Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy " ngự giá mây trời mà đến" (Đn 7,13).
Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính "quy tha" nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm "con của loài người", ý định của Người là "không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).
Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào.
Người ta thường gọi các thánh là những người "điên". Có lẽ chữ "điên" hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì "bài thương khó" dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi.
Mỗi năm đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật Lễ Lá thuật lại cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu. Cùng với các môn đệ của Người và một đám đông những người hành hương cứ mỗi lúc tăng theo, Người xuất phát từ đồng bằng miền Ga-li-lê về Thành Thánh. Các tác giả Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta ba tuyên bố của Chúa Giêsu liên quan đến Cuộc Khổ Nạn, như những bước tiến lên của Người, và qua đó cũng nói đến sự thăng tiến nội tâm mà Người đã thực hiện trong cuộc hành hương này. Chúa Giêsu tiến về đền thờ- về nơi mà Thiên Chúa, như sách Đệ Nhị Luật nói, đã chọn cho "danh Ngài ngự" (x. 12: 11; 14, 23). Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất, đã tự cho mình một tên gọi, đã tự làm cho mình được khẩn cầu; qủa thật, Người đã tự làm cho mình như được tiếp xúc với con người. Không chỗ nào có thể chứa nổi Người, nhưng chính vì lí do này mà Người đã tự cho mình một nơi chốn và một danh xưng để Người, là Thiên Chúa thật, được kính tôn như một Thiên Chúa bản vị ở giữa chúng ta. Chúng ta biết rõ từ bản tường thuật Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Người đã yêu mến đền thờ như là nhà Cha của Người. Giờ đây Người lại thăm đền thờ này một lần nữa nhưng cuộc hành trình của Người vượt qua đền thờ ấy: đích điểm của những bước đi lên là Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên đã được mô tả trong thư Do Thái như là cuộc tiến về căn lều không do người phàm dựng lên, nhưng do bởi Chúa, căn lều dẫn đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Cuộc đi lên cuối cùng để gặp Chúa đi qua Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên hướng về "tình yêu cho đến cùng" (Ga 13, 1), là ngọn núi đích thật của Thiên Chúa, là nơi xác định cho sự tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người.
Trong khi Người vào Giêrusalem, dân chúng tôn vinh Chúa Giêsu như là Con Vua Đavít, với những lời của những người hành hương trong Thánh vịnh 118: "Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21, 9). Và rồi Người tiến vào đền thờ. Tuy nhiên ở đó, ở nơi đáng lẽ đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thì Người lại thấy những kẻ buôn bán súc vật và những người đổi tiền chiếm dụng nơi cầu nguyện này cho việc kinh doanh của họ. Chắc chắn những con vật để bán sẽ được thiêu đốt làm của lễ trong đền thơ; và cũng bởi vì ở trong đền thờ nên người ta không thể sử dụng những đồng tiền mang hình các hoàng đế Rôma, là những người chống lại Thiên Chúa đích thực, nên họ đã phải đổi những đồng tiền không mang hình ảnh ngẫu tượng. Tuy nhiên, tất cả những điều này đáng lẽ đã phải diễn ra ở một nơi khác: nơi đang xảy ra đây, theo mục đích đã được ấn định cho nó là lối vào các dân ngoại.
Quả thật, Thiên Chúa của Israel đích thực là một Thiên Chúa của mọi dân tộc. Và mặc dù có thể nói các dân ngoại đã không tin vào Mặc Khải, nhưng họ vẫn có thể liên kết trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa qua cửa ngõ của niềm tin. Thiên Chúa Israel, vị Thiên Chúa của mọi dân tộc cũng luôn luôn chờ đợi lời cầu nguyện của họ, sự tìm kiếm của họ, lời khẩn nài của họ. Thay vào đó, việc buôn bán lại chiếm ưu thế - những việc trao đổi đã được hợp phép hoá bởi giới chức có thẩm quyền, mà chính nó đã lợi dụng từ việc kiếm chác của các những người buôn bán này. Những người buôn bán đã hành động một cách hợp pháp, tuân theo luật pháp hiện hành, nhưng chính luật pháp lại thối nát. "Sự tham lam...là ngẫu tượng", thư gửi tín hữu Cô-lô-xê nói thế (3, 5). Đây là ngẫu tượng mà Chúa Giêsu đến để công kích và Người trưng dẫn I-sai-a: "Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện" (Mt 21, 13; x. Is 56, 7), và Giê-rê-mi-a: "Nhưng các ngươi biến thành hang trộm cướp" (Mt 21, 13; x. Gr 7, 11). Chống lại mệnh lệnh được cắt nghĩa sai trái, Chúa Giêsu với hành động mang tính ngôn sứ, bảo vệ trật tự đích thực đã ghi trong Lề Luật và Các Tiên Tri.
Hôm nay, tất cả những điều trên phải đem đến cho chúng ta là các Kitô hữu, lương thực để suy nghĩ. Đức tin của chúng ta có đủ tinh tuyền và mở rộng để thoát bỏ khỏi nó chất "dân ngoại"? Dân chúng hôm nay đang đi tìm kiếm và đặt ra những vấn nạn, họ có thể trực giác được ánh sáng của vị Thiên Chúa duy nhất, có thể kết hợp lại trong những nẻo đường niềm tin, với lời cầu nguyện của chúng ta và với những vấn nạn nêu ra đó, cũng có thể trở thành những người tôn thờ Thiên Chúa? Việc nhận thức rằng lòng tham là ngẫu tượng có đi vào tâm hồn chúng ta và đi vào việc thực hành đời sống của chúng ta không? Có lẽ chúng ta lại không để cho các ngẫu tượng, bằng cách này hay cách khác, len lỏi cả vào sinh hoạt đức tin của chúng ta? Chúng ta có sẵn sàng để cho mình không ngừng được Chúa thanh tẩy, và để cho Người xua đuổi khỏi chúng ta và Giáo Hội tất cả những gì trái nghịch với Người?
Tuy nhiên trong việc thanh tẩy đền thờ, một vấn đề khác còn quan trọng hơn là việc chống lại những lạm dụng. Một thời gian mới trong lịch sử đã được báo trước. Điều Chúa Giêsu đã giảng giải cho người phụ nữ Samarianô liên quan đến câu hỏi của bà về sự thờ phượng đích thực, giờ đây đang bắt đầu: "Giờ đang đến, và lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế" (Ga 4, 23). Giờ mà các con vật được sát tế cho Thiên Chúa đã chấm dứt. Hy tế bằng các con vật chỉ là một sự thay thế, một hành vi quá khứ tìm tòi con đường đích thực để thờ phượng Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu Do thái nói về đời sống và công việc của Chúa Giêsu, đãả dụng một câu trong Thánh vịnh 40: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã chuẩn bị cho con một thân thể" (Dt 10, 5). Thân thể Chúa Kitô, là chính Chúa Kitô đến để thay thế các hy tế bằng máu và các lễ vật bằng lương phẩm. Chỉ có"tình yêu cho đến cùng", chỉ tình thương dành cho nhân loại được hiến trọn cho Thiên Chúa mới là sự thờ phượng đích thực, hy tế đích thực. Thờ phượng trong tinh thần và chân lý nghĩa là thờ phượng với Đấng là Sự Thật, thờ phượng hiệp thông với Thân Mình Người, trong đó Chúa Thánh Thần hợp nhất chúng ta.
Các tác giả tin mừng thuật lại rằng những chứng gian đưa ra chống lại Chúa Giêsu đã qủa quyết Chúa nói: "Tôi có thể phá huỷ đền thờ Thiên Chúa, và sẽ xây dựng lại trong ba ngày" (Mt 26, 11). Đứng trước Chúa Kitô đang bị treo trên thập giá, một số kẻ thách thức Người cũng nhắc đến những lời đó: "Mi là kẻ có thể phá huỷ đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi!" (Mt 27, 40). Bản văn chính xác về những lời Chúa Giêsu nói đã được thánh Gioan truyền lại cho chúng ta trong trình thuật về việc thanh tẩy đền thờ. Đáp lại đòi hỏi bằng một dấu chỉ để Chúa Giêsu có thể biện minh cho một hành động như thế, Người đáp lại: "Hãy phá huỷ đền thờ này đi, và trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2, 18 tt).
Thánh Gioan thêm rằng khi suy nghĩ lại biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu rằng Chúa Giêsu đã ám chỉ Đền Thờ là Thân Mình của Người (x. 2, 21 tt). Không phải Chúa Giêsu phá huỷ đền thờ; nó bị để cho tàn phá bởi thái độ của những người biến nó, từ một nơi để gặp gỡ giữa các dân tộc với Thiên Chúa thành một "hang trộm cướp", một nơi buôn bán. Vẫn luôn như vậy, bắt đầu với sự sa ngã của A-đam, sự sa ngã của nhân loại trở thành một cơ hội cho chúng ta phó thác hơn vào tình yêu Thiên Chúa. Giờ của đền thờ được xây bằng đá, giờ hiến tế các súc vật giờ đây đã qua đi: sự việc Chúa đuổi những người buôn không chỉ loại bỏ được sự lạm dụng mà còn hướng tới Thiên Chúa một cách thức thờ phượng mới: đền thờ mới được hoàn thành: chính Chúa Giêsu Kitô, nơi Người tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trên nhân loại. Bằng sự sống của Người, Người là đền thờ mới và sống động. Người đã đi qua Thánh Giá và đã phục sinh là không gian sống động cho tinh thần và sự sống nơi đó hình thái thờ phượng đích thực được thực hiện. Như thế, việc thanh tẩy đền thờ, như đỉnh cao của cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu cũng đồng thời là một dấu chỉ về sự tiêu vong tiềm ẩn một công trình và lời hứa về Đền Thờ mới, một lời hứa về vương quốc của sự hoà giải và tình yêu mà khi hiệp thông với Chúa Kitô sẽ được thiết lập vượt qua mọi biên giới.
Thánh Mát-thêu mà Tin Mừng chúng ta sẽ nghe trong năm nay, đề cập vào cuối bản trình thuật về Chúa Nhật Lễ Lá, sau việc thanh tẩy đền thờ hai chi tiết nhỏ khác mà một lần nữa lại mang một đặc tính tiên tri và đồng thời soi sáng cho chúng ta biết ý định thực sự của Chúa Giêsu. Ngay sau những lời của Chúa Giêsu về ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, tác giả Tin Mừng tiếp tục: "Có những kẻ mù loà và què quặt đến với Người trong đền thờ, và Người đã chữa họ lành". Thêm nữa, Mát-thêu còn nói với chúng ta rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương tại các cổng thành: "Hoan hô Con Vua Đavít" (Mt 21, 14 tt). Chúa Giêsu xua trừ việc mua bán thú vật và đổi tiền bằng thiện tâm chữa lành. Đây là việc thanh tẩy đền thờ đích thực. Người không đến như là một kẻ phá hoại, Người không đến với lưỡi gươm của một kẻ làm cách mạng. Người đến với ân huệ chữa lành. Người hiến thân cho những ai vì những đau đớn bệnh tật phải lê lết cho đến hết cuộc đời, và cho những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa Giêsu tỏ bày Thiên Chúa như là một Đấng yêu thương, và quyền năng của Người như là quyền năng tình yêu. Như thế, Người dạy chúng ta điều luôn luôn đúng về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc.
Và lại có nhiều trẻ em tung hô Chúa Giêsu là con Vua Đavít và reo hò chúc tụng Người. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng để vào Nước Thiên Chúa điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Người, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ chúng ta, lôi kéo chúng ta về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ sự kiêu hãnh làm chúng ta choá mắt, nó muốn lôi kéo chúng ta khỏi Thiên Chúa như thể Thiên Chúa là đối thủ của chúng ta. Để gặp Thiên Chúa cần phải có thể nhìn bằng con tim. Chúng ta phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ, với một tâm hồn tươi trẻ không bị che khuất bởi những thành kiến hoặc bị đui mù vì những lợi lộc. Như thế, chính trong những người bé mọn, những người có được tâm hồn tự do và rộng mở để nhận biết Chúa Giêsu, mà Giáo Hội nhận ra hình ảnh của mình, hình ảnh của những người tin thuộc mọi thời đại.
Các bạn thân mến, giờ phút này chúng ta hãy kết nhập vào đoàn rước của những người trẻ thời đó - một cuộc rước lượn vòng đi qua toàn bộ lịch sử. Cùng với các bạn trẻ trên toàn thế giới chúng ta hãy đi đến gặp Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tự để cho mình được Người hướng dẫn để đến với Thiên Chúa, để học hỏi từ chính Thiên Chúa con đường đích thật để là con người. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa cùng với Người, bởi vì nhờ Chúa Giêsu con Vua Đavít, Người đã ban cho chúng ta một không gian bình an và sự hoà giải ôm trọn lấy thế giới với Bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy cầu nguyện với Người, để chính chúng ta cũng trở nên cùng với Người và bắt đầu từ Người, những sứ giả xây dựng hoà bình, những người thờ phượng trong tinh thần và sự thật, để nước Người được tăng triển trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Amen.
Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua quang lâm đến thăm dân chúng, như một Đức Kytô mà các Tiên tri (ngôn sứ) xưa đã loan báo:
- Tiên tri Giacaria nói “Này đây vua ngươi đến với ngươi. Ngài công minh,vinh thắng, khiêm tốn và cỡi trên một con lừa” (Giacaria 9,9).
- Dân chúng tung hô: Hosanna, Con Vua David. Tiếng tung hô này phát xuất từ Cựu ước (TV 118, Sáng thế 49, 10-11) mừng con vua David.
Như vậy, Chúa Giêsu vào thành và được dân chúng tung hô Ngài là Đấng Kytô, Đấng Cứu Tinh nhân loại, Đấng mà dân Israel đã mong chờ suốt bao nhiêu thế kỷ, mong Ngài đến để giải thoát Israel.
Vào thành thánh có những nét tỏ ra Ngài là Vua, là Kytô. Tin Mừng còn nói Ngài đã dùng quyền Kytô để thanh tẩy đền thờ: Ngài dùng dây bện lại thành roi đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ, đúng ý nghĩa “đền thờ là nhà cầu nguyện”.
Và sau cùng Ngài đã đưa ý nghĩa đền thờ lên cao nhất, là chính con người của Ngài, nơi dâng lễ vật tôn thờ Chúa Cha.
Tại vườn Ghếtsêmani, Chúa Kytô cầu nguyền trong một trạng thai hết sức căng thẳng đến mức ứa máu ra, đúng ra là một cuộc vật lộn với chính bản thân minh để đi đến quyết định: chọn cái chết
Người ta dễ dàng nói Chúa Kytô chết vì nhóm Tư tế, Ký lục, Biệt phái ra lệnh bắt Ngài nộp cho quan Philatô kết án, nhưng nội dung cái chết là làm trọn Thánh Ý Chúa Cha, vì những mục đích:
1. Để chứng minh Giáo lý Ngài rao giảng là thật và đến từ Chúa Cha nếu Ngài trốn đi thì chẳng ai tin nữa.Những kẻ chống đối viện cớ sợ chết của Ngài dễ lung lac kẻ đã tin Ngài
2. Ngài chết vì vâng lời Chúa Cha trọn vẹn vì Chúa Cha sai Ngài đến trần gian để rao giảng Chúa Cha, đưa chiên lạc về, sợ chết bỏ đi là trốn tránh nhiệm vụ, là đào ngũ.
3. Để tố cáo tội lỗi loài người hiện diện trong tội lỗi của nhóm âm mưu giết Ngài là tiêu biểu cho tội ác đến nỗi giết Con Thiên Chúa một cách tàn ác man rợ.
4. Để biểu lộ tinh thương của Chúa Cha thương nhân loại trong khi nhân loại còn phản nghịch, chống lại tình thương của Thiên Chúa, bời lẽ không có tinh yêu nào cao quý và mạnh liệt bằng tinh yêu sẵn sàng phó mạng sống mình vì người yêu, người yêu phản bội.
Cái chết đó có tác dụng biến đổi lòng người, giúp người ta quay về với Thiên Chúa. Vì cái chết đó vừa cho biết tội lỗi của chúng ta xấu xa, tàn ác tới mức độ ghê sợ, vừa chứng minh Thiên Chúa thương yêu loài người vô cùng. Suy nghĩ sự thương khó của Chúa Kytô, chúng ta hối hận vì tội lỗi ta đã phạm và nhìn lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Cha do Chúa Con làm người chịu chết trên thập giá, tự nhiên ta xúc động, cái xúc động này rất có ích cho ta vì giúp ta tin tưởng, trông cậy và sám hối. Tiếp đến nhờ sự Phục sinh của Chúa Kytô cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn, ta bước sang một đời sống mới, một hy vọng không bao giờ tàn, ta cố gắng theo giáo lý của Chúa Kytô để được sống lại với Chúa Kytô.
Khi nhìn đến người khác, ta có một tự hào. Ước gì tự hào trong khiêm tốn nghĩa là không chê trách người ta. Thí dụ chê trách người buôn bán trong đền thờ về tội tục hóa nơi Chúa ngự, chê dân Israel tráo trở: hôm nay hoan hô Chúa ngày mai xin đóng đinh Chúa, chê biệt phái tàn ác, chê Philatô hèn nhát. Lý do là khinh chê dễ rơi vào chủ quan mà không tránh cái xấu mình phải tránh. Thực tế không tránh đời sống cũ của mình thì giống như kẻ cướp chửi người khác ăn cướp của mình đã cướp.
Cái chết của Chúa Kytô vẫn tố cáo tội lỗi của chúng ta luôn. Chính ánh sáng của Lời Chúa, việc làm của Chúa soi sáng đời sống ta vừa tố cáo tội lỗi chúng ta vừa mở tay đón người tội lỗi trở lại.
Chúa luôn luôn mong con người có tội trở lại và ta phải thành tâm thưa với Chúa rẳng trong đó có con. Hễ bao nhiêu lần người ta sống trong tội lỗi là bấy nhiêu lần người ta giết Chúa trong khi ta vẫn nói người Do thái giết Chúa !?
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình.
Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này" (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.
Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi.
Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta.
Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân.
Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen.
Người ta ví Napoléon chuẩn bị cho ngày đăng quang của mình kỹ như cho cuộc chiến của ông. Tất cả các công việc chuẩn bị được giao cho tướng quân Ségur, kiến trúc sư Percier, Fontaine, nhà thiết kế Jean Baptiste Isabey, những con người tài ba nhất thời bấy giờ.
Trước khi được trao quyền, Napoléon cho tiến hành những cuộc diễu hành hàng tiếng đồng hồ khắp Paris một cách rầm rộ, hoành tráng với sự tham gia của quân đội do thống chế Murat dẫn đầu, nhằm thể hiện quyền uy tối cao.
Buổi lễ đăng quang Napoléon lên ngôi Hoàng Đế diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà Notre-Dame de Paris vào ngày 2.12.1804, trong gần 6 tiếng đồng hồ thật long trọng, sa hoa. Hoàng Đế Napoléon đã nhận Vương Miện từ tay Đức Giáo Hoàng Pius VII, rồi tự tay đặt lên đầu mình, cùng vòng nguyệt quế bằng vàng ròng giống hoàng đế thời La Mã. Ông trở thành Hoàng Đế Napoléon I, và phong bà Joséphine làm Hoàng Hậu. Tiếp đó, ngày 26.5.1805, tại Nhà Thờ thành phố Milano, Napoléon tự phong làm vua nước Ý và vua xứ Lombardy. ( Wikipedia ).
Hoàng Đế Napoléon sang trọng lên ngôi với chi phí cao ngất trời, thế nhưng triều đại Napoléon lại chết yểu, không tồn tại được hơn một trăm ngày !
Hôm nay, Đức Giêsu chẳng tiền hô, hậu ủng, đơn giản cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, công khai đăng quang Vua Tình Yêu đến muôn đời, đông đảo dân hoan hỉ đón chào. Lễ đăng quang của Đức Giêsu bắt đầu từ Người được dân chúng cung nghinh, rước vào Giêrusalem, rồi bị bắt, kết án và cực hình, kết thúc bằng cuộc tử nạn khốc liệt trên thập giá ở đỉnh Núi Sọ.
Khởi đầu lễ đăng quang
“Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ." Khiêm nhu và nhân ái, Đức Vua Giêsu chân chất, chẳng cẩm bào, chẳng vương trượng, cũng chẳng bạch mã, nhưng được dân chúng hoan hỉ, tôn vinh, nghênh đón.
Chỉ vì Người là Vua Tình Yêu, xả kỷ vị tha, chí ái, chí nhân, yêu thương thần dân, ban mọi sự, từ Lời Hằng Sống, đến những hồng ân, cho người nghèo đói được no thoả, chữa lành thương tật, hồi sinh những tâm hồn chết trong sự dữ. "Hoan hô con vua Đavit ! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời !" Đức Vua chẳng ban huấn từ, nhưng điều thiết yếu, sự thật, thì đã được dân chứng thực, xác nhận: “Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Khốc liệt lễ đăng quang
Nhưng thần dân được yêu thương và phục vụ, bỗng dưng trở nên bạc bẽo như vôi, bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất trung. Mau chóng phản bội, hùa theo thế lực sự dữ, cả thế quyền lẫn thần quyền, nhất loạt trở mặt chống đối, vu oan cáo vạ, phỉ báng, kết án Đức Vua nhân từ, khoan dung, độ lượng, đầy lòng thương xót.
Đức Vua vẫn âm thầm, lặng lẽ, cô đơn, cứ tiếp tục rộng rãi cho đi cả danh dự, nhân phẩm, thể diện, thậm chí hy sinh cả nhân tính lẫn thiên tính, nhẫn nhục, chịu đựng mọi bất công, thù hằn, đòn vọt, lăng nhục, khổ nạn, như Isaia đã tuyên bố: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.” ( Is 50, 6 ).
Kết thúc lễ đăng quang
Thê thảm hơn nữa, các môn đệ đồng loạt bỏ rơi vị Thầy nhân ái đáng kính. Kẻ tham tiền phản bội, bán rẻ Thầy, người tham sanh uý tử, cởi áo chạy trốn, kẻ tâm phúc còn hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Lúc này, Đức Vua chí ái hoàn toàn cô đơn, lẻ loi, khốn cùng như con chiên bơ vơ giữa bầy sói khát máu. Người vẫn vâng theo Thánh Ý, chấp nhận cho đi cả mạng sống của mình.
Chịu hành hạ, đánh đòn, vác thập giá, rồi chịu đóng đinh vào thập giá, nhục nhã chết trần truồng trên Núi Sọ, Đức Vua chí ái đã biểu lộ tột đỉnh Tình Yêu, khi kết thúc lễ đăng quang. Người chấp nhận gánh lấy tội lỗi của cả loài người, đổ máu, hiến mạng để giao hoà, cứu chuộc con người được trở về với cội nguồn, Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng cao cả. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” ( Ga 15, 13 ).
Thánh Phaolô cảm nghiệm lễ đăng quang đặc biệt của Đức Vua Tình Yêu: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” ( Pl 2, 8-9 ).
“Trong giờ Tử Nạn, Chúa đem theo những Tông Đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không ?” ( Đường Hy Vọng, số 699 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn chúng con trung thành theo Người, mặc dầu chúng con vẫn còn yếu đuối, hèn nhát, khiếp hãi trước các thử thách khắc nghiệt, trước quyền lực đen tối của sự dữ. Nhưng xin Chúa cứu giúp, đừng để chúng con sa ngã, bất trung, phản nghịch.
Kính xin Mẹ đồng hành cùng chúng con theo Chúa trên đường khổ nạn, để chúng con dám chết đi những thói hư tội lỗi, để được sống lại con người mới, nhờ ơn cứu chuộc Đức Giêsu Kitô. Amen.
Bản văn quá dài. Chúng ta không còn muốn nghe thêm gì nữa, chỉ muốn được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay.
1. Bài tường thuật việc Chúa chịu chết
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc Chúa chịu chết. Điều đó không có gì lạ. Vì, việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", cho nên việc dài dòng tỉ mỉ kể về sự kiện Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn nữa khi các ông giảng về việc Chúa phục sinh là chuyện đương nhiên. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Như thế việc Chúa chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi.
Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Đạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc này. Và hơn nữa, cả bốn sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Giuđa mặc cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Đức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật, khi cái hôn thay vì yêu thương là dấu hiệu nộp thầy của Giuđa!
Còn thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Đức Giêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết...
Hai chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của Giuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Giuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Đức Giêsu chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Đức Giêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Đang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Đó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Đích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54).
Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn trong đền thờ bị xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Đức Giêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích.
Như vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Đức Giêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như Lời Đức Giêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Đức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau.
2. Bài học Chúa để lại cho chúng ta
Thánh Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Đọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Đức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế.
Isaia ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Đức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Đức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của Matthêu làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Đức Kitô.
Phụng vụ hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Đức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Đức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa.
Kể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương mại Quốc tế ở New York của Mỹ.
Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết nhuộm máu đồng loại.
Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an. Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.
Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn.
Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng biết bao nhiêu của cải khác.
Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh, những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh, chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất.
Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất…
Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại?
Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa của mình.
Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh, nhỏ bé.
Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc.
Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại.
Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh ngàn đời.
Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại.
Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ, một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng để chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì thế mà lụng bại.
Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá, Thiên Chúa ban cho trần gian.
Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa:
“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 18- 25).
Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ.
Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời chúng ta tôn thờ. Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu thương con người.
Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 8, 16).
Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao ban cho ta.
Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17).
Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó.
Không ai thích đau khổ, nhưng không ai lại không đau khổ, và cũng chẳng có ai tránh được đau khổ. Chúa Giêsu còn chịu đau khổ tới tột độ thì chẳng ai thoát đau khổ ở đời này. Cái gì cũng có triết lý riêng, chắc chắn đau khổ có triết lý đặc biệt mà phàm nhân không thể hiểu nổi.
Tâm lý gia Elisabeth Kübler-Ross ( 1926-2004, người Mỹ gốc Thụy Sĩ ) nói: “Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Những người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc đời đã làm họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không tự nhiên mà có”.
Cuộc đời cho chúng ta thấy rằng những con người đẹp nhất ( đẹp đúng nghĩa chứ không là đẹp ngoại hình ) là những người từng bị đánh bại, từng chịu đau khổ, từng phải tranh đấu, từng chịu mất mát, nhưng họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu để thoát thân – tức là họ đã đi xuyên qua đau khổ. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy bén và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và biết quan tâm yêu thương tha nhân một cách sâu sắc. Như vậy, “người đẹp” không thể tự nhiên mà có.
Ôi, loại triết-lý-sống luôn thâm sâu và! Và quả thật, chính nỗi đau khổ lại có sức mạnh kỳ diệu khả dĩ làm cho người ta nên khôn ngoan đích thực. Cụ Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề: “Ai nên khôn không khốn một lần ?” Tương tự, cụ Phan Bội Châu đưa ra giả thuyết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai ?” Hai câu nghi vấn cũng là hai câu xác định, hai câu hỏi cũng là hai câu trả lời. Đó là dạng “nghi vấn xác định”.
Về tâm linh, Thánh Phanxicô Assisi thổ lộ: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương”. Như vậy có nghĩa là cái hay và cái tốt đều xuất hiện sau đau khổ. Và thật kỳ lạ, văn thi sĩ Clive Staples Lewis ( 1898-1960, Anh quốc ) xác định: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”.
Sự đau khổ thật là mầu nhiệm. Thật vậy, cũng như tình yêu, có lẽ chẳng ai định nghĩa thỏa đáng về sự đau khổ, bởi vì đau khổ có nhiều dạng và nhiều mức độ. Thiết tưởng có thể đơn giản hóa để dễ hiểu theo phương trình: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Rất dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ khóe mắt, nhưng lại rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình.
Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý Thập Giá – tức là triết lý về sự đau khổ. Thảo nào Chúa Giêsu thường xuyên nhắc nhở người ta phải vác thập giá hằng ngày và tìm cách đi vào cửa hẹp.
Trong cuộc sống đời thường, chẳng ai ưa thích gì nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó”. Những người chịu đau khổ hẳn là những người mạnh mẽ, vì Chúa biết họ đủ sức nên mới để cho họ chịu đau khổ như vậy. Thật vậy, Elbert Hubbard giải thích: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời ! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống”. Chính lúc chịu đau khổ lại là lúc người ta sống viên mãn, thật kỳ lạ vô cùng !
Triết lý đau khổ thật kỳ diệu, đúng là sự mầu nhiệm. Kinh Thánh cho biết rằng mặc dù đối mặt với các hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và chân thành cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa !” ( G 1, 21 ). Đặc biệt là dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” ( G 1, 22 ). Hai cái “không” của ông Gióp trên cả tuyệt vời. Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản !
Người đời cũng có cách nói thú vị: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm”. Có lẽ đó là cách “tự an ủi” của người đời. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa-Giêsu-làm-người. Cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa trên đường tiến vào Thành Giêrusalem. Và chắc chắn không ngoài Thánh Ý Chúa Cha.
Ngày Lễ Lá, Phụng Vụ Lời Chúa được Giáo Hội sử dụng là bài ca thứ ba trong các “Bài Ca của Người Tôi Trung”, ngắn gọn mà ý nghĩa: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” ( Is 50, 4-5 ). Quả thật, đó là điều không dễ, nhưng vẫn giữ được lòng trung tín ngay trong lúc chịu đau khổ !
Thật là kỳ lạ, đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại như loại “nước tăng lực” làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” ( Is 50, 6-7 ). Ôi, thật là mầu nhiệm, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và có thể họ sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.
Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó ! Người có thương, giải gỡ đi nào !” ( Tv 22, 7-9 ). Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, nỗi nhục nhã quá ê chề !
Người ta thường nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Điều này không khác quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này cứ tiếp tục chồng chất lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa” ( Tv 22, 17-20 ). Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì !
Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một lòng tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi ! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai !” ( Tv 22, 23-24 ).
Cầu nguyện là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này, đòi hỏi phải có niềm tin Kitô Giáo. Với người ngoài Kitô Giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú”, ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ.
Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7 ). Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 8 ). Thật đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu quá. Tuy nhiên, chỉ là “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu”.
Trong cuộc sống đời thường, người ta cũng nhận thấy rằng tình yêu nào cũng cần có “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Như một lời xác định, đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Chết mà là sống. Lạ thật, người đời mà còn nhận định được như vậy đấy !
Chắc chắn đau khổ có giá trị nhất định và rất độc đáo. Gian nan là nhịp cầu dẫn tới thành công, đau khổ là nhịp cầu dẫn tới vinh quang. Cũng vậy, sự chết là con đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ bước vào cõi trường sinh: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” ( Thánh Phanxicô Assisi ). Còn Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” ( Pl 2, 9-11 ).
Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem là lúc Ngài đi vào cõi đau khổ, và từ “biên giới” đầy gian khổ ở Vườn Dầu lại tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết nơi đỉnh đồi Canvê. Nhưng từ nơi Canvê “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có bao người khao khát sử dụng loại bản đồ này, và đã có nhiều người đạt được mục đích sống đó: Các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo.
Đời là thế. Chuyện gì đến sẽ đến – dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, dù to hay nhỏ. Đó là điều tất yếu của cuộc sống. Bài thương khó hôm nay là một bộ phim buồn khiến lòng người trĩu nặng…
Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải hay trái. Ma lực đó rất khó cưỡng lại !
Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.
Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ tá hỏa tam tinh và rầu thúi ruột, họ hỏi nhỏ nhau xem ai là thủ phạm. Chẳng ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn !” ( Mt 26, 23-24 ). Giuđa nhột gáy, nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao ?” Ngài xác nhận là đúng !
Cũng trong bữa ăn đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” ( Mt 26, 26 ). Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” ( Mt 26, 27-28 ). Đây là lúc thật linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” ( Mt 26, 29 ).
Sau khi hát Thánh Vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” ( Mt 26, 35 ). Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi… điều gì đến vẫn cứ đến !
Vào vùng đất Ghếtsêmani, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” ( Mt 26, 38 ). Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” ( Mt 26, 39 ). Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng.
Ngài trở lại chỗ ba đệ tử ruột, ôi thôi, họ lăn ra ngủ khò. Ngài nói với Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao ? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” ( Mt 26, 40-41 ). Phêrô còn ngái ngủ, chỉ biết gãi đầu thôi. Ngại ghê đi !
Rồi Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” ( Mt 26, 42 ). Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Ngài để mặc các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới !
Giuđa tỏ ra lịch sự đến chào và hôn Thầy, nhưng là để “chỉ điểm” cho những kẻ thủ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy lấy gươm chém đứt tai Mankhô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô cất gươm đi. Họ ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và bỏ của chạy lấy người, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo xống mà chạy tồng ngồng đi trốn. Nói thì mạnh lắm, cuối cùng cũng chỉ “lẻo mép”. Phàm nhân yếu đuối và nhát đảm quá !
Họ bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Caipha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh Thượng Tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Họ chất vấn Đức Giêsu đủ điều, nhưng Ngài vẫn im lặng. Vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với đầu gối còn hơn. Cuối cùng, vị Thượng Tế nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không ?” ( Mt 26, 63 ). Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Đức Giêsu mới lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” ( Mt 26, 64 ). Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết !”
Sau đó, kẻ thì khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ lại tát Ngài, rồi họ nguyền rủa và lăng mạ Ngài đủ thứ. Mỗi chúng ta cũng đã từng “khạc nhổ” hoặt “tát” vào tha nhận – cách này hoặc cách nọ, và đó là sỉ nhục chính Chúa Giêsu !
Tương tự, chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần”. Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Chắc hẳn từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy sáng, nhưng ông cũng phải cảm ơn tiếng gà gáy đó.
Kinh Thánh cho biết rằng vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một người tù khét tiếng tên là Baraba. Người ta đồng ý thả Baraba và cương quyết giết Đức Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ với công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, ông đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Nhưng đó chỉ là giả hình, hèn nhát !
Thật vậy, chính Philatô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Trên đường, chúng gặp một người Kyrênê tên là Simôn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ không đến nơi hành hình. Những người nói mạnh hứa chắc đâu cả rồi ? Những người tín cẩn của Đức Giêsu đâu cả rồi ? Những người được Đức Giêsu chữa lành đâu cả rồi ? Những người được Đức Giêsu cho ăn no nê đâu cả rồi ? Sao chỉ có mình ông Simôn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài ? Cuộc đời là thế thật sao ?
Khi đến Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi họ cứ ngồi lì đó mà canh giữ Ngài. Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.
Điều đáng buồn là những kẻ qua người lại đều nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng và hả hê chiến thắng ! Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài.
Bỗng dưng bóng tối bao phủ cả mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín ( 12 giờ trưa tới 3 giờ chiều ). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn quá lớn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” ( Mt 27, 46 ). Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn !
Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54 ). Ít ra cũng phải như thế, muộn cũng còn hơn không !
Và sự thật mãi là sự thật, dù người ta cố ý bóp méo thế nào thì cũng không thể biến hóa cách nào khác. Thắng và Thua đều cùng vần T. Sự đời lạ lắm, có những khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại là Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến ! Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ. Đúng là như thế !
Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc màu đức tin, luôn khiêm nhường vẫy chào đón Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, trong lúc vui đã đành, trong lúc buồn mới thực sự có giá trị. Được như vậy là đã hiểu được triết lý của sự đau khổ rồi đấy !
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban Thần Khí để con có thể hiểu được triết lý của sự đau khổ, thông suốt triết lý của Thập Giá, nhờ đó con đủ sức vững bước theo chân Ngài đi xuyên qua mọi đau khổ. Xin giúp con can đảm cùng chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh vinh quang với Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của con. Amen.
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ, những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc vì hiếu kỳ cùng đi theo Ngài.
Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái chết của Đức Giêsu.
1. Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu
Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý tốt”. Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này.
Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới; hay “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết, để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài nói: cả triều thần Thiên Quốc “... ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại" (Lc 9, 22); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy; không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu.
Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương, cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ hiện một Thiên Chúa là Tình Yêu.
2. Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng
Ở đời có câu: "Dò sông dò biển dễ dò - Mấy ai lấy thước mà đo lòng người". Thật vậy, trong cuộc sống, có những mối tương quan tình bạn, và sẵn sàng "rau cháo có nhau " đấy, tuy nhiên, đôi khi cũng chính vì miếng cơm manh áo, con người dễ quay lưng lại với nhau lắm. Đây là những chuyện mâu thuẫn trong cuộc sống. Khi nói về sự mâu thuẫn này, chúng ta lần dở lại lịch sử dân Dothái khi xưa, để thấy lòng họ mâu thuẫn với hành động là thế nào!
Khi sống bên Aicập, ngày đêm họ cầu khấn danh Đức Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn. Nhưng chẳng bao lâu, sự mâu thuẫn cũng đã xảy ra. Khi gặp có chút thử thách, họ đã than trách Chúa, và nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập, tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa.
Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng... Vì thế, họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Hành vi này là hành vi tôn kính, ngưỡng mộ của người Đông Phương đối với một ai đó. Đức Giêsu thuộc về số người được như vậy. Cuộc diễu hành rầm rộ làm náo lòng những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn bề ngoài, thì ta sẽ dễ dàng kết luận là đám dân đang tung hô Đức Giêsu đây có lòng yêu mến Ngài thực sự. Nhưng sự thật không hẳn như thế, chẳng bao lâu, họ đã mâu thuẫn với tất cả những gì diễn ra hôm Đức Giêsu vào thành. Thật vậy, vẫn những người đã tôn vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó vào thập giá...
Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ, bổng lộc thức thời... Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử nơi Đức Giêsu và chìa tay, nghiêng đầu để hứng lấy máu người vô tội đổ trên đầu mình khi nói: "Máu hắn đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27,25). Lý do dẫn họ đến sự thất vọng là vì sự mâu thuẫn của họ do tham sân si thúc đẩy, còn sự mâu thuẫn của Đức Giêsu thì do lòng bao dung, hướng tha và dùng chính cái chết để cứu chuộc con người, vì thế, con đường cứu độ của Ngài không là gì khác ngoài thập giá và cái chết đau thương trên đồi Golgotha. Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu.
3. Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau
Như vậy, sự mâu thuẫn của Đức Giêsu là vì tình yêu. Ngài yêu Thiên Chúa Cha tuyệt đối, nên đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Những lời dạy của Đức Giêsu có vẻ mâu thuẫn về lối hành văn, truyền thống, nhưng lại thống nhất tuyệt đối về bề ngoài lẫn bề trong nơi con người của Ngài.
Đức Giêsu chính là hình ảnh của Ađam thủa nào, nhưng khác nhau ở chỗ Đức Giêsu, Ađam mới thì vâng lời, trung thành, còn Ađam cũ thì bội ước và bất trung.
Sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và cứu chuộc con người.
Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha.
Còn sự mâu thuẫn của những người Do thái thì hoàn toàn khác:
Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay những mục đích tầm thường rẻ tiền.
Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng. Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác.
Sự mâu thuẫn này nơi dân Do thái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và cuộc sống của họ.
4. Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng
Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời... Đây chính là sự mâu thuẫn luân thường đạo lý trong xã hội.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những chuyện: “chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo, vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối. Biết nó là sự dữ, nhưng vẫn còn đó những lương tâm trai lỳ, những trái tim hóa đá, những ánh mắt bất công, khinh thị...Vẫn còn đó sự mâu thuẫn là ai cũng muốn sống, nhưng lại không thương tiếc tra tay vào việc giết đi sự sống của người khác, nhất là những thai nhi vô tội.
Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Chúa phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người.
Hôm nay, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là đỉnh cao của năm phụng vụ, đây là cơ hội để mỗi người rà soát lại lương tâm và sự lựa chọn của mình trong cuộc sống, nhằm sống sao cho đẹp lòng Chúa, ích lợi cho phần rỗi của mình và vì ơn cứu độ của tha nhân.
Vì thế, xin gửi lại nơi bạn và tôi một vài câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ:
- Tôi đang đi theo ai? Theo Chúa hay theo những mục đích thực dụng như tiền, quyền, tình?
- Khi tôi có quyền, có chức, tôi có phục vụ và làm cho người khác được hạnh phúc hay tôi lợi dụng vị trí cao của tôi để bóc lột, trà đạp nhân phẩm người khác?
- Đứng trước một việc tốt hay xấu, ta có để cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo, hay chỉ vì miếng cơm manh áo, chỉ vì sức ép lương tháng mà ta phủi tay với việc tốt và thượng tôn điều bất chính, sẵn sàng làm chứng gian hại người, đẩy người khác vào con đường cùng và ngay cả cái chết do mù lương tri?
Khi đặt ra câu hỏi như thế, mặc cho mỗi chúng ta lự chọn đứng về phía thiện hay ác, nhưng chỉ mong mỗi người chúng ta hiểu rằng: chúng ta có thể đánh lận con đen, che đậy và ngụy trang để người đời không biết những sự khuất tất của chúng ta làm, nhưng Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, Ngài biết rất rõ mọi hành vi của chúng ta, và điều tốt hay xấu, hạnh phúc hay ngược lại là do cuộc sống và hành vi của chúng ta đã làm.
Trong Ngày Chúa chết, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, bao phủ lấy chúng ta: đó là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.
Cây thập giá và Cây Thánh Giá khác nhau một trời một vực! Cây thập giá là do lòng hận thù của con người nghĩ ra, còn Cây Thánh Giá là do sáng kiến cứu chuộc của tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta.
Cây thập giá là hai miếng gổ gồ ghề, nặng nề, trần trụi, bắt chéo vào nhau như hình chữ Thập, dùng làm hình khổ rùng rợn để giết người một cách rất dã man, do người ngoại giáo độc ác bày ra để hành hạ và giết chết một cách vô cùng tàn nhẩn những ai họ cho là phạm tội ghê gớm, những kẻ nô lệ vô phước nằm trong tay họ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Cây thập giá nầy đã được Chúa Giêsu, cách đây hơn 2000 năm, vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó.
Nhưng lạ lùng thay!
Kể từ ngày Chúa Giêsu của chúng ta giăng tay chịu đóng đinh chết trên cây thập giá nầy, thì cây thập giá nầy được trở thành Cây Thánh Giá huy hoàng, rực rỡ và vô cùng cao trọng.
Đây là một hiện tượng lạ lùng trên trần gian nầy, hiện tượng mà loài người không thể nào cắt nghĩa được, nếu không được cắt nghĩa bằng Đức Tin.
Trước, thì cây thập giá quá đen tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá vinh quang!
Trước, thì cây thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi chỗ đê hèn nhục nhã, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được đặt khắp nơi, được đặt nơi trang trọng nhất, được đặt trên đỉnh núi cao nhất, được đặt dưới lòng biển sâu nhất.
Trước, thì cây thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.
Trước, thì cây thập giá chỉ được làm bằng gỗ sần sù lởm chởm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng những thứ kim loại đắt giá nhất thế giới.
Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế?
Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá địa vị ngang hàng như Thiên Chúa vậy?
Vì trên Cây Thánh Giá, có Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, vì yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu đóng đinh chết trên đó để cho loài người được sống, được sống hạnh phúc chân thật, và được sống như vậy một cách dồi dào.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nếm chịu muôn vàn đau khổ ê chề: đau khổ bên ngoài: bị lột hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân...; đau khổ thể xác: từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào là chẳng xể xài rách nát, cùng bày xương ra...; đau khổ tinh thần: bị sỉ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ...; đau khổ tâm hồn: thấy trước đủ mọi thứ tội lỗi tầy trời do con người phạm, thấy trước đủ mọi thứ vong ân bội nghĩa phát xuất từ con người...; đau khổ tình cảm: thấy những người thân yêu của mình, nhất là Mẹ mình, đang đứng dưới chân mà không làm gì được cho Mẹ thân yêu.
Nhưng dù ngụp lặn giữa đau khổ, Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá vẫn tỏ ra vô cùng nhẩn nhục, đầy lòng tha thứ, vui lòng chịu khổ để làm trọn Thánh Ý Chúa Cha và để tỏ lòng yêu thương loài người một cách đặc biệt.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu là Đấng vô tội, nhưng đã bị vu cáo; là Đấng Công Chính, nhưng đã bị kết án; là Đấng vô cùng thánh thiện, nhưng đã bị đày ải;
là Vua trên trời dưới đất, nhưng đã bị hành hạ nhục nhã, bị đóng đinh chết tất tưởi;
là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã bị thóa mạ, bị dày đạp, bị từ chối; là Ánh Sáng, nhưng đã bị tối tăm vây phủ; là Đấng vô cùng cao sang, nhưng đã bị trần truồng nhuốc hổ, treo mình chết trên hai miếng gỗ; là Sự Sống, nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng; là Sự Chết, nhưng cũng là sự Sống Lại.
Vì thế, thánh Gioan Kim Khẩu ca tụng Cây Thánh Giá hết lời: Cây Thánh Giá là hy vọng của người kitô-hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm những kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm.
Trong kinh A RẤT THÁNH GIÁ, chúng ta sung sướng kính mừng Cây Rất Thánh Giá là Cây đã chuộc muôn dân đặng rỗi, là Cây cho kẻ có phước đặng phần vui mừng, là Cây cho kẻ có tội đặng lòng trông cậy, là Cây cho kẻ yếu đuối đặng nhờ sức mạnh, là Cây cho kẻ khốn nạn đặng sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình, là Cây đưa chúng ta qua khỏi gian nan đến Nước Thiên Đàng.
Cây Thánh Giá tóm lược tất cả những tín điều vô cùng cao siêu của Đạo chúng ta: tín điều Một Thiên Chúa, tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng sâu thẳm, tín điều Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Nhập Thể, nhập thế, tín điều Cứu Chuộc!
Cây Thánh Giá dạy chúng ta nhiều bài học tín lý và luân lý:
Hình thẳng của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta mến Chúa. Hình ngang của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta yêu người.
Tay Chúa Giêsu giăng ra: dạy chúng ta ôm lấy tất cả mọi người, không xua trừ ai; tha thứ tất cả mọi xúc phạm lớn nhỏ, không trừ xúc phạm nào.
Tay Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội tay chúng ta thường phạm, là biếng nhác, cắp trộm, tức giận, dâm ô; treo cao gương cho chúng ta sống cầu nguyện, siêng năng làm việc, yêu thương giúp đỡ, rộng rãi bố thí.
Chân Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội chân chúng ta thường phạm, là đi vô ích, đi có hại, đi phạm tội; treo cao gương cho chúng ta đi Nhà Thờ, đi học giáo lý, đi làm việc đạo đức, đi làm việc bổn phận, đi làm việc hữu ích, đi làm việc bác ái, yêu thích nơi gia đình mình đang ở, yêu thích nơi cộng đoàn mình đang sống.
Tim Chúa Giêsu bị đâm thủng: dạy chúng ta lo diệt lửa dục tình, lo thắp sáng lửa nhiệt thành làm việc tông đồ, lo yêu mến Phép Thánh Thể, yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, đừng sống bạc nghĩa vô ơn đối với Chúa hằng yêu thương loài người chúng ta vô bờ vô bến.
Bốn cây đinh đóng Chúa Giêsu vào Cây Thánh Giá: dạy chúng ta lo xa lánh bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường tội lỗi, là thói quen xấu, lui tới dịp tội, ao ước thỏa mãn dục vọng, sợ dư luận; dạy chúng ta lo tập bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường nhân đức, là thói quen tốt, chu toàn các việc bổn phận của mình, hy sinh hãm mình, can đảm trước dư luận.
Thánh Casimirô, mỗi lần có dịp nhìn lên Cây Thánh Giá, thì quá cảm động, nước mắt trào tuôn!
Hãy đặt Cây Thánh Giá trong nhà bạn, trong phòng bạn. Hãy đeo Cây Thánh Giá nơi ngực bạn, nơi cổ bạn. Hãy làm Dấu Thánh Giá cho thật nghiêm trang, sốt sắng. Hãy năng nhìn lên Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá.
Và nhất là, hãy luôn mang Thánh Giá trong lòng bạn, trong tâm hồn bạn!
Hôm nay mỗi người cầm nhành lá trên tay đi kiệu là biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua. Nhiều người giơ cao nhành lá và tung hô vạn tuế Đức Vua. Số khác còn nhiệt tình cởi áo lót đường cho vua Giêsu tiến vào. Nhưng một điều rất lạ: Đức Vua đi vào thành trên lưng lừa chứ không phải là một tuấn mã oai phong. Đón mừng Ngài chỉ có đám đông môn đệ và dân chúng, chứ tuyệt nhiên không có ai trong giới lãnh đạo Do thái. Những người này có đó, nhưng không phải để đón mừng mà để bắt bẻ. Tất cả các dấu này đang báo trước một cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua.
Cuộc thương khó Chúa Giêsu nhắc lại cho ta những đê hèn tội ác mà con người đã gây ra. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của các môn đệ: Họ đã bỏ Ngài ngay những lúc Ngài cần có họ ở bên cạnh. Chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do thái: Họ đã tìm mọi cách để vu khống và giết Chúa Giêsu. Chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ củ những người lính: Họ đã hành hạ Ngài cách tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ lại những điều ấy vì chúng có liên quan với chúng ta.
Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính bài thương Khó. Điều mà tác giả Tin mừng muốn nhắc đến chính là tấm lòng của Chúa Giêsu. Điều mà chúng ta phải nhớ nhiều nhất đó là sự trung thành và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã lãnh lấy tất cả tội lỗi con người vào chính thân mình Ngài. Ngài đã dùng cái chết trên thập giá để đền thay cho tất cả. Bài đọc I, sách Isaia đã cho ta thấy hình ảnh Người tôi tớ Thiên Chúa thật đau khổ. Người tôi tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại, luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài. Người tôi tớ này không bao giờ chống lại sự áp bức của người khác. Người tôi tớ này đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Mặc dù bản thân chịu đau khổ, Người tôi tớ lại tìm cách nâng đỡ những người đang chịu khổ đau. Hình ảnh Người tôi tớ đau khổ này đã được hoạ lại nơi con người Chúa Giêsu.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch nhưng là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ trong thân xác và trong tinh thần. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Những người Do thái cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài. Các binh sĩ La mã đã hành hung, đánh đập Ngài và cuối cùng treo Ngài trên Thập giá. Một hình phạt đau đớn nhất và sỉ nhục nhất. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài đã tự nguyện gánh chịu vì tội lỗi chúng ta và vì yêu ta. Chúng ta đã tuyên xưng rằng "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta" nghĩa là chính tội lỗi chúng ta mà Chúa Giêsu đã bị treo trên thập giá. Tội lỗi chúng ta ngày nay là một lời chối bỏ, một tiếng reo hò, một sự sĩ vả hay một cái đinh đóng sâu vào thân thể của Chúa.
Nhìn lên thập giá ta thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thập giá ta còn thấy tình yêu của Thiên Chúa đang bao trùm lên cả nhân loại. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhận thấy tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu không hề có một điều kiện, một tình yêu vượt lên mọi tiêu chuẩn phán đoán của con người. Tất cả chỉ nhằm đáp ứng khát vọng hạnh phúc của con người. Vì thế, khi nhìn lên thánh giá, không phải để ta thất vọng về những gánh nặng của tội lỗi vươn mang mà trái lại, để tâm hồn thêm phấn khởi và tin yêu hơn, vì Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho con người.
Nhìn bề ngoài thì xem ra cái chết của Chúa Giêsu là một thất bại hoàn toàn. Nhưng thực ra đó là một chiến thắng: Sự thiện đã chiến thắng sự dữ, tình yêu chiến thắng hận thù, ánh sáng sự thật đẩy lùi bóng tối bất công. Chúa Giêsu, Người đã chết thay cho mọi người, Người chịu mọi đau khổ chỉ để con người được sống và sống hạnh phúc.
Tưởng niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu, chúng ta nhìn ra hậu quả đáng ghét do tội lỗi con người gây ra đồng thời giúp ta cảm nếm tình yêu tự hiến của Con Thiên Chúa. Chính Chúa đã chết vì tội chúng ta và Chúa vẫn còn tiếp tục chết trên thánh giá để tha thứ tội lỗi mỗi người. Ta hãy tin tưởng nơi tình yêu tha thứ của Thiên Chúa và sẵn sàng chạy đến Ngài để được thứ tha.
Hôm nay là chúa nhật Lễ Lá. Nhìn vào khung cảnh của ngày lễ này, ta thấy hai điễm hoàn toàn trái nghịch nhau; một là cuộc kiệu Chúa vinh quang vào thành Giêrusalem. Hai là câu chuyện bài Thương khó diễn tả về cuộc Khổ nạn của Chúa, ngày thứ Sáu tới; câu chuyện đầy ảm đạm pha màu vô cùng tang tóc... Hai khung cảnh hoàn toàn trái ngược nhau... Vậy đâu là ý nghĩa mà Hội Thánh muốn ta tìm hiểu trong ngày lễ Lá hôm nay? Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/ Xin được kể một câu chuyện: Winston Churchill, Thủ Tướng nước Anh, sau một lần diển thuyết có cả chục ngàn người tham dự, một người bạn thân hồ hởi đến bên ông và nói: này Thủ Tướng, ông có sung sướng vì cả mười ngàn người hoan hô trong cuộc diển thuyết này không? W. Churchill bình tỉnh trả lời: "không, tôi không vui sướng vì chuyện đó đâu, vì khi tôi bị treo cổ, sẽ có cả trăm ngàn người đến coi tôi mà chê bai đả đảo..."
Đúng như lời ông thủ Tướng Anh nói, Chúa Giêsu trong ngày lễ Lá được đón rước long trọng chừng nào, thì ngày thứ Sáu Thánh, lại có nhiều người đả đảo còn nhiều hơn nữa. Người ta thường nói: Tổng thống nước nào được đón rước long trọng, thì đến khi bị hạ bệ, ông sẽ có nhiều người đả đảo hơn nữa...Phần Chúa Giêsu, dĩ nhiên chúng ta biết, không phải hết toàn bộ những người lãnh đạo Do thái đều lên án giết Chúa, chỉ có một nhóm quá khích nhỏ mà thôi. Tuy nhiên câu chuyện ngày lễ Lá hôm nay có hai điễm gần như trái nghịch nhau. Đây là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày lễ hôm nay...
b/ Câu hỏi đầu tiên: Chúa Giêsu rất khiêm tốn, và thường hay tránh không để người ta tôn vinh mình, vậy tại sao trong ngày lễ Lá, Chúa để họ đón rước vào thành Giêrusalem long trọng như thế?
Thực ra câu trả lời không khó. Thứ 1: Ở đây, Chúa Giêsu muốn hoàn thành mọi việc theo Thánh Ý Chúa Cha. Dĩ nhiên Chúa chẳng ham vinh quang trần gian, vì Chúa biết trước ngày Thứ Sáu tới, chính họ sẽ lên án giết Chúa. Thứ 2: Chúa để cho dân chúng đón rước, chính là muốn làm trọn lời ngôn sứ hầu chứng minh Người là Vua, là ngôn sứ đích thật; chính Người mở cuộc khải hoàn vinh quang vào Thiên quốc, cho Người và cho nhân loại, qua con đường đau khổ và phục sinh nơi chính bản thân Chúa.
Câu hỏi thứ hai: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên khi chịu khổ nạn, Chúa vẫn có thể làm cho mình chịu roi đòn, nhưng không đau đớn, vì Chúa là Thiên Chúa nên Người muốn điều gì mà không được?
Hỏi như thế có nghĩa là những đau khổ của Cuộc khổ nạn trong thân xác Chúa là giả tạo, vậy nếu tất cả là giả tạo thì làm gì chúng ta được ơn cứu rổi? Hơn nữa, nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Thiện Mỹ, thì làm sao có sự giả tạo được? Hiểu đến đó, chúng ta mới thấy, Chúa Giêsu trong bản tính con người, khi chịu Khổ Nạn, đã chịu mọi khổ hình đau đớn trong thân xác y như ta. Chính nhờ đó, nhân loại chúng ta mới được cứu rỗi. Và vì Chúa Giêsu thực sự đã chịu đau khổ trong thân xác NgườI, vì nhân loại chúng ta, rõ ràng điều đó cũng muốn nói lên: Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, đã khiêm tốn biết bao, và chính vì cái giá của sự khiêm tốn đó, mới có thể đền thay cho bao nhiêu tội lỗi tầy trời của nhân loại chúng ta.
c/ Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, trong cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa đã tỏ ra khiêm tốn biết bao, để đền tội cho ta. Con ta là tội nhân thì lại kiêu căng quá chừng, chúng ta nghĩ sao? Ta có thấy cần khiêm tốn như Chúa không? Ta có tin Chúa là Đấng Cứu Thế, là Chúa, là Adam mới, là Anh Cả của ta, đã chết để cho chúng ta được sống không?
Khung cảnh được trình bày trong đoạn Tin mừng hôm nay có thể nói là hoàn toàn đối nghịch lại với khung cảnh trong đoạn Tin mừng của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Đức Giêsu hôm nay xuất hiện như một vị vua mới được phong vương trở về, một vị vua hiền hậu và khiêm tốn "ngồi trên lưng lừa". Dân chúng thì hết lòng tung hô và tán tụng. Họ đã "trải áo xuống đường, chặt cành cây trải lối đi", miệng thì không ngớt lời hò la " Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời".
Còn Đức Giêsu của ngày thứ sáu Tuần Thánh. Đức Giêsu xuất hiện trong hình dạng "không còn hình tượng người ta nữa", bị đánh đòn, xỉ vả và nhục mạ. Dân chúng thì hò hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá".
Điều gì đã là cho mọi sự thay đổi như thế khi cũng chính là Đức Giêsu đó và cũng chính là đám đông dân chúng đó? Tại sao lại thế? Ai đã thay đổi?
"Đức Giêsu vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy đến muôn đời". Ngài vẫn là vị Vua nhân ái, hiền từ và khiêm hạ. Ngài biết rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để cứu chuộc con người. Ngài tự nguyện chịu chết để cho con người được sống và Ngài đã làm người để cho con người được làm Chúa.
Còn dân chúng: một dạ hai lòng. Họ chạy theo lợi lộc thấp hèn. Khi thấy Đức Giêsu không chiều theo sở thích của họ và không làm theo những gì họ mong muốn, hay khi thấy Đức Giêsu có vẻ yếu thế trước mặt các nhà lãnh đạo Do thái, họ liền trở mặt lại với Ngài, chối bỏ Ngài và muốn loại trừ Ngài. Hơn nữa, Đức Giêsu là người luôn nói lên sự thật, những sự thật xem ra quá "đụng chạm" đến tự ái của họ, đụng chạm đến quyền lợi của họ... nên họ phát điên lên trong lòng. Dù mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái và dân chúng đã lên đến đỉnh điểm, nhưng việc Đức Giêsu đi vào cuộc tử nạn là do sự tự nguyện của Ngài chứ không phải có ai làm gì được Ngài. Nói cách khác, dù cho các nhà lãnh đạo hay dân chúng có giận Đức Giêsu đến sôi gan tím ruột nhưng không ai có thể làm gì được Ngài, nhưng việc Ngài chịu nạn chịu chết là do tự ý Ngài muốn và vì đó là thánh ý của Chúa Cha nên Ngài muốn chu toàn cho đến cùng mà thôi.
Andre, một tên tội phạm nguy hiểm và khét tiếng của Nước Bỉ, sau khi hoàn lương đã kể lại lịch sử của đời anh như sau: "Tôi từng là một tên tội phạm nguy hiểm, từng vào tù ra khám 5-7 lần, từng cướp nhà Băng và buôn bán ma tuý. Cuối cùng, tôi đã bị bắt và bị kết án 21 năm tù giam".
Rồi trong nhà tù, có một linh mục đến thăm anh và trao cho anh cuốn sách Phúc âm. Nhận quyển sách nhưng anh chẳng buồn đọc. Nhưng chán quá rồi cũng mở ra xem. Xem thì xem vậy thôi chứ cũng chẳng hiểu gì và cũng chẳng tin gì, vì anh cho rằng những gì kể trong sách Phúc âm chỉ là những chuyện tưởng tượng mà thôi. Rồi có một lần buồn chán quá, anh đem sách Phúc âm ra và nói những lời đầy thách thức như sau: "Này ông Giêsu, ông có thật không? Nếu ông có thật và tài giỏi giống như cuốn sách kia kể thì tối nay mời ông đến đây, chúng ta nói chuyện với nhau. Nói xong rồi, anh ta lăn ra ngủ và cũng chẳng nhớ gì. Nào ngờ, đúng 2 giờ sáng, anh ta bị đánh thức dậy, chạy ra hỏi anh giữ ngục:
"Anh gọi tôi à?"
Nhưng anh giữ ngục bảo: "không, tôi đâu có gọi anh, vào ngủ đi".
Anh vào ngủ lại và lại bị đánh thức. Lần này, có một tiếng nói rất uy nghi phía trên đầu anh: "Dậy đi con, mình có hẹn với nhau mà".
Anh ta hỏi lại: "Ai thế?"
"Ta là Chúa của mọi loài và là Thiên Chúa của con đây".
Và ngay lúc ấy, anh thấy có một luồng ánh sáng rực rỡ, ánh sáng ấy xoá tan hết những sự vật trong căn phòng và trong luồng ánh sáng đó, một con người xuất hiện, người mà anh chưa gặp bao giờ. Con người ấy mang thương tích nơi chân, tay và cạnh sườn mình. Người ấy nói: "Ta là Giêsu, Chúa của con đây. Những vết thương này là vì con đó". Anh ta bàng hoàng kinh hãi và đầy xúc động. Và lập tức, từ một con thú dữ, anh trở thành một con chiên ngoan hiền. Anh gục đầu và khóc lóc thảm thiết. Giờ đây anh đã hiểu, vậy là suốt 37 năm qua, anh đã vô tình đóng vào tay, vào chân và cạnh sườn của Chúa những cây đinh đau đớn. Anh đã hoàn toàn bị qui phục và trở nên người con cái ngoan hiền của Chúa. Đó là những lời tự thuật của Andrê với các bạn trẻ khi anh đi thuyết trình khắp nơi trên thế giới.
Như vậy, Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn, chịu thương tích là vì chúng ta đó. Chúng ta có suy nghĩ gì khi Chúa nói với chúng ta: "Những thương tích này là vì con đó!" Chúng ta có thật sự hoán cải và trở thành chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta nhận ra điều đó không? Hay chúng ta còn giữ trong mình thái độ của dân chúng ngày xưa, chạy theo những lợi lộc thấp hèn để phản đối Chúavà đòi đóng đinh Chúa của chúng ta?
Đừng làm cho những vết thương nơi thân thể Chúa tiếp tục bị chảy máu nữa. Đừng tiếp tục đóng đinh Ngài nữa!
Tham dự Thánh Lễ hôm nay, mỗi người sẽ nhận được một nhành lá được thắt rất xinh, và hầu như ai ai cũng đều gìn giữ nhành lá nầy rất cẩn thận vì nó đã được làm phép. Mỗi người một nhành lá trên tay để sống lại cảnh huy hoàng khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem năm xưa...
Thánh Matthêu diễn tả khá sinh động quang cảnh nầy. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa con, có trải áo choàng, mặt đường cũng được dân chúng trải áo. Đám đông dân chúng tay cầm nhành lá, reo hò vang dậy: "Hoan hô con Vua Đavit! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21,9). Thật hoành tráng! Khác gì người ta đang chào đón một nguyên thủ quốc gia hay một siêu sao, một thần tượng!
Thế nhưng, chính những con người nầy hôm nay hò la, tung hô thần tượng của họ, cũng lại là những người đồng ý tha cho Baraba, để nhất quyết lên án tử cho thần tượng của họ: "Đóng đinh nó vào thập giá". Thật là "dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người" !
Chúng ta vui mừng cầm lá trên tay, chúng ta hãnh diện được đứng vào hàng ngũ những kẻ "mặc áo dài trắng, tay cầm cành lá đang tung hô Thiên Chúa cùng Chiên Con" (Kh 7,9-10). Nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình đang cầm những mũi đinh nhọn tiếp tục đóng đinh Chúa không?
Có câu chuyện về một cô bé: "Lễ Lá năm ấy, cô bé khoát một bộ áo dài trắng vào người, bước ra cổng để đi dự lễ. Bỗng... "Xoạt!"... Trên nền trắng của chiếc áo dài, loang lỗ đầy những vệt nước dơ. Chị Ba cùng xóm vì tránh chiếc xe đò đã chạy vào vũng nước, làm cho nước văng tung toé lên người cô bé. Chị luống cuống dừng xe lại: "Xin lỗi em! Chị vô ý quá!". "Lỗi với phải gì! Có mắt không mà không nhìn trước sau?". Cô bé gần như quát lên...
Lựa được nhành lá đẹp nhất, cô bé hãnh diện cùng đám đông tiến vào nhà thờ... Nhưng... ngồi kế bên cô bé lại là chị. Thế là từ đó, đầu óc cô bé cứ nghĩ đến những "kế hoạch sẽ thực hiện" khi về đến nhà để cho chị "biết tay"...
"Còn chúng ta, chúng ta đối xử với Chúa hiện diện nơi người khác như thế nào?". Lời giảng của Cha chủ tế kéo cô ra khỏi dòng suy nghĩ... Cô bé nhìn xuống... Nhành lá cô bé đang cầm sao giống lưỡi gươm đến như vậy...".
Vâng, biết bao lần chúng ta tiếp tục giết Chúa bằng những mũi đinh, lưỡi kiếm là chính những lỗi lầm, sai sót của chúng ta. Chúng ta tham dự thánh lễ cách sốt sắng, nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, chúng ta chưa sống tích cực cho danh nghĩa Kitô hữu của mình, thậm chí lại còn xung đột trong tương quan với Chúa và với tha nhân.
Tung hô Chúa bằng lễ nghi thôi chưa đủ, chúng ta cần phải tung hô Chúa bằng chính cuộc sống của mình theo gương Chúa. Cuộc đời của ta phải là họa ảnh dung mạo Đức Kitô, một Đức Kitô hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,29), một Đức Kitô không mắc nợ gì ai ngoài món nợ yêu thương.
Lạy Chúa, hôm nay con cầm lá trên tay để đón Chúa, nhưng lòng con còn nhiều hận thù, ghen ghét. Đó là con mang gươm giết Ngài lần nữa. Xin Chúa biến đổi con, để con biết yêu Chúa, yêu anh em như Chúa hằng yêu mến con.
Khi nhắc đến Giuđa thì ai cũng nghĩ đến kể phản bội, một con người không nghĩ đến tình thầy trò, nhẫn tâm bán Thầy hết mực yêu thương mình với giá 30 đồng, một cái gí rẻ mạt chỉ bằng một phần mười bình thuốc thơm mà bà Maria lấy để rửa chân Đức Giêsu. Qua lời nói đầy âm mưu không chút trong sáng, nhẫn tâm đến không còn tình người của Giuđa khi nói với các thượng tế và kỳ mục: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu". "họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc". Khi nghe đến đây, thì ai trong chúng ta cũng căm hận Giuđa, một con người ham mê tiền bạc và danh vọng, thích làm tôi của cải hơn là làm môn đệ của một ông thầy âm thầm nghèo khó, căm hận vì ông chọn ông Giêsu quyền lực thế gian hơn chọn ông Giêsu đang trốn chui trốn nhủi sợ người ta bắt bớ. Qua những hành động và lời nói, cũng như suy nghĩ của Giuđa, ta dễ dàng nhận ra ông là người môn đệ có những đặc tính sau:
Ham mê tiền bạc.
Giu đa cũng được chính Đức Giêsu tuyển chọn như các tông đồ khác, nhưng tại sao Giuđa lại phản bội? Có phải Đức Giêsu quá khó khăn với ông chăng? Hay vì được giữ túi tiền nên ông đã thâm lạm. Tất cả những nguyên nhân trên hầu như không hoàn toàn thuyết phục. Chính ý tưởng bán Thầy của ông đã được hình thành khá sớm, không chỉ có ông bị ý tưởng này làm lung lạc, mà cả các tông đồ khác cũng thế. Nhưng những người khác chỉ bị lung lay trong chốc lát, rồi sau đó tỉnh ngộ ngay nhờ đức tin của Phêrô: "Thưa Thầy bỏ Thầy chúng con biết đến với ai". Còn Giuđa có tai mà không nghe, có mắt mà như mù, cứ u mê trong sự lôi cuốn của tiền bạc. Cho đến nỗi Đức Giêsu như muốn chỉ ra ông để cảnh tỉnh "Thế mà một người trong anh em là quỷ", mà ông vẫn còn chưa chịu sáng mắt tỉnh ngộ. Cách đánh giá đúng nhất về Giuda, chính là nhận định theo Tin mừng Gioan "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo".
Chạy theo danh vọng.
Không phải chính mình Giuđa mới lầm tưởng về công việc của Đấng Cứu Thế, mà hầu như tất cả. Cho đến lúc Đức Giêsu sắp chịu khổ nạn các môn đệ vẫn còn lầm tưởng về sứ mạng của Ngài, họ vẫn ao ước vào một cuộc chiến thắng khải hoàn như các vua chúa trần gian. Một cuộc khải hoàn chiến thắng tràn đầy danh vọng, chức tước, và hy vọng sẽ được chia sẻ vinh quang trần thế với Ngài. Các môn đệ vẫn còn sống trong ảo tưởng đó mãi cho đến đêm bị bắt trong vườn Giêtsêmani. Còn Giuđa thì như một con người đi quá đà, hình ảnh ông thầy Kitô của mình phải như ý mình muốn, và chính Giuđa cũng được Đức Kitô cho nhiều cơ hội để cảnh tỉnh, để lựa chọn. Nhưng trong đầu ông lúc này chỉ có danh vọng và danh vọng, không còn lòng đơn sơ chân thành, không chấp nhận Thầy nữa, mà tự tạo cho mình một Đức Kitô ích kỷ, vụ lợi. Có thể nói ông rất thất vọng vọng về hình ảnh Đức Kitô mà ông mong muốn với Đức Kitô thực tế. Vì thế ông bắt đầu ghét Ngài và bán Ngài để trả thù vì bị thất vọng.
Sống giả hình.
Trong số các tông đồ, có thể nói Giuđa là người có học thức cao nhất, nên đã được phân công làm thủ quỹ giũ tiền. Nhưng thay vì sử dụng những tài năng của mình để làm giàu cho Nước Trời, thì ông lại dùng nó như một sự khôn ranh để qua mặt Thầy vá các anh em. Như qua lời nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo". Ta dễ dàng nhận ra giữa hành động và lời nói của Giuđa không thống nhất "miệng nam mô, bụng bồ dao găm". Trong khi miệng nói như thế, nhưng lòng lại mưu mô lừa lọc định qua mặt mọi người. Hơn thế nữa, khi đối diện với chính Thầy mình, đối diện với thực tế mà ông còn giả bộ như một môn đệ trung thành khi mở miệng hỏi: "Rap-bi, chẳng lẽ con sao?". Đến giây phút cuối cùng mà Giuda còn muốn qua mặt Thầy, qua mặt các môn đệ, và cuối cùng kết thúc bằng "nụ hôn" thể hiện tình yêu nộp Thầy.
Trong cuộc sống lữ hành chúng ta đang đi trên rất nhiều con đường, có thể chúng ta đang đi trên con đường của Giuđa, con đường của Phêrô, hay con đường của Hêrôđê. Nếu chúng ta đã lầm đường lạc lối, thì tuần thánh và ngay bây giờ chúng ta hãy bắt đầu lại, hãy quyết tâm đi trên con đường mà Chúa đã đi, đã chọn và chịu chết để được Phục Sinh.
Lạy Chúa! Xin cho con biết can đảm dứt bỏ tội lỗi, bởi vì một khi con nhượng bộ cho tội lỗi là con đã bán Chúa như Giuđa ngày xưa. Amen.
- Được viết với cái nhìn hậu Phục Sinh nhưng có lẽ trước nhất trong các văn bản Phúc Âm vì ngay khi các tông đồ bắt đầu rao giảng là "Đức Giêsu mà các ông đã đóng đinh, chết treo thập giá đã sống lại vinh quang". Lời rao giảng nầy được lập đi lập lại bằng truyền khẩu rồi thì có bản văn cho nhiều người tham gia rao giảng dể hơn.
- Là phần viết có nhiều chi tiết có tính lịch sử nhiều nhất nhưng không có tông đồ nào là chứng nhân nhản tiền vì khi Đức Giêsu bị bắt các ông đều trốn mất hết chỉ có Gioan có mặt dưới chân thập giá nhưng không chắc là có theo Đức Giêsu suốt đường thập giá. Về tuần tự diển biến các sự việc thì bốn bài giống nhau như đã xảy ra.
- Các tác giả không viết tường thuật hay trình thuật như quen gọi nhưng sáng tác với ý tưởng thần học riêng như với Mt là "để Kinh Thánh được trọn". Mc và Lc thì hoàn toàn lấy từ tài liệu "rao giảng". Ga thì là "những suy tư "thần học". Biến cố Đức Giêsu còn được ghi vào ký ức của các tông đồ mỗi nguời mỗi khác tùy cơ địa mỗi người. Rồi mỗi người khi rao giảng lại lựa chọn những gì thích hợp để cống hiến cho cộng đoàn và như thế mà có các sách như Phúc Âm theo thánh Mt (đặc biệt Mt còn phải quan tâm nhiều tới những lời Kinh thánh Cựu Ước đã tiên báo). Vì vậy mà có nhiều chi tiết khác nhau (khác nhau lớn nữa).
Bài Thương Khó theo Mt có các chi tiết tóm tắt như sau:
- Đức Giêsu bị bắt: Giuda dẫn đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Chào hôn Đức Giêsu. Một trong những kẻ theo Đức Giêsu tuốt gươm chém đứt tai (4PÂ)... Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. (Mt và Mc).
- Đức Giêsu ra trước Thượng Hội Đồng: Thượng Tế Caipha, các kinh sư và kỳ mục họp sẵn. Phêrô theo xa xa. Họ tìm lời chứng gian để buộc tội Đức Giêsu... Phá đền thờ Thiên Chúa đi rồi nội ba ngày Ta sẽ làm lại. Đức Giêsu làm thinh... Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?... Chính Ngài nói đó. Hắn nói phạm thượng. Hắn đáng chết. Rồi họ khạc nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, có kẻ tát Người.
- Phêrô chối: Tôi không biết... Gà chưa kịp gáy thí anh đã chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
- Trước Philatô: Ông có phải là vua dân Do thái không? Chính Ngài nói đó. Vợ Philatô chiêm bao. Dân chúng đòi tha Baraba đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Philatô rửa tay "tôi vô can trong việc đổ máu ngưới nầy". Máu nó cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Philatô trao Người cho quân lính đánh đòn rồi đem đi đóng dinh vào thập giá.
- Đức Giêsu đội mũ gai: quân lính cho người đội mũ gai, cầm gậy là một cây sậy (vương trượng) rồi quỳ lạy"vạn tuế Đức vua dân Do thái". Chúng khạc nhổ vào Ngưới, lấy cây sậy đập lên đầu Người, mặc áo lại như trước rồi điệu Nguời đi đóng đinh vào thập giá.
- Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá: Dọc đường có Simon vác đỡ thập giá. Đến nơi gọi là Núi sọ, cho uống rượu pha mật đắng. Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng rút thăm chia áo Người. Phía trên đầu Người có bản án INRI. Bị sỉ vả nhạo cười trên thập giá: Mi phá đền thờ và trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi. Nếu là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào.... Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Người.
- Đức Giêsu chết trên thập giá: từ mưới hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều... Để coi Êlia có đến cứu hắn không. Đức Giêsu kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng. Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai, từ trên xuống dưới. Đất run đá vở, mồ mả mở toan, xác của nhiều vị thánh đời xưa trổi dậy, ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra với nhiều người. Ông đại đội trưởng và lính canh mộ sợ hãi, ông tuyên xưng "Ông nầy là con Thiên Chúa".
Vài điểm cần giải thích:
- Từ mười hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều: cách nói ẩn dụ ám chỉ "chiến thắng của tối tăm" trong một lúc.
- Trút hơi thở cuối cùng: Dịch sát chữ. Mc và Lc: tắt thở. Ga: trao trả thần khí (‘remit son esprit’ theo Bible de Jerusalem). Còn có cách nói "trút linh hồn". Có bản chú thích là Đức Giêsu "ban lại thần khí" mà Người đã lãnh nhận cho thế gian.
- Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới: sân khấu thì gọi là kéo màn ra, mở màn. Ẩn dụ ám chỉ: Bức màn trong đền thờ là để ngăn phần cực thánh (thượng tế chỉ vào được một lần trong năm) với phần còn lại của cung thánh. Kéo màn ra là mở màn không che nữa. Mạc khải cũng có nghĩa là vén màn. Đức Giêsu chết, chấm dứt mạc khải chính thức về Thiên Chúa, vì đã đầy đủ. Không còn bức màn, con người có thể đến được với Thiên Chúa. Hoàn tất công trình mạc khải "cứu độ".
- Đất run, đá vở, mồ mả mở toang, xác của nhiều vị thánh đời xưa trỗi dậy, ra khỏi mồ....: (Đức Giêsu xuống ngục tổ tông) Bình giải ý tưởng trong Cựu Ước (riêng của Mt): Khi nghe tiếng Con Thiên Chúa những kẻ ở trong mộ sẽ trỗi dậy ra khỏi mồ "sống lại". Ơn cứu độ là làm cho sống lại. Đức Giêsu đã hoàn thành ơn cứu độ. Đã có sự sống lại. Những vị thánh đời xưa là những kẻ sống lại trước vì đang chờ đợi. Để ra khỏi mộ thì mộ phải mở ra, phải có động đất "đất run, đá vỡ".
- Vào thành thánh hiện ra với nhiều người: Có vào thành hiện ra mới có người thấy mới biết. Là văn chương ẩn dụ. Còn được chú giải là "vào thánh thánh Giêrusalem "mới". Hoặc là "Đức Giêsu xuống ngục tổ tông công bố ơn cứu độ cho các tổ phụ và rước các ngài lên trời vì "trời đã mở ra". Sự chết đã bị bẻ gãy, sự sống đã được "cứu" phục hồi cho nhân loại.
Qua bài thương khó chúng ta thấy về mặt hiện tượng: Đức Giêsu chết do sự xung đột với người do thái bắt đầu ngay lúc Người khởi đầu hoạt động công khai giữa cái mới-cũ, giữa quyền lợi, địa vị và từ bỏ khó nghèo. Sự xung đột có vẻ tự nhiên nhưng cũng có vẻ là Đức Giêsu chủ động tạo ra và gia tăng để đưa tới kết thúc là cái chết. Còn ý nghĩa, cách thức, mức độ cực nhọc, đau khổ... của cái chết là do Đức Giêsu tự nguyện chọn lấy bằng cách "Người làm thinh", mặc ai làm gì thì làm. Lòng dạ độc ác thì phải đạt đỉnh nếu được "để mặc". Thần học của Giáo Hội mới giải thích ý nghĩa cứu độ tiềm ẩn bằng phạm trù của những lãnh vực khác nhau.
Bị hạ xuống rốt cùng là thể hiện sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục tích lũy từ đầu lịch sử nhân loại cho đến ngày nay. Như vậy là vì YÊU. Tình yêu là động lực.
Chúng ta không nhìn thập giá và một thây ma bầm dập, máu me, đầy thương tích mà thương khóc. Chúng ta không tôn vinh thập giá và khổ hình vì dù là của Chúa Giêsu cũng vẫn là sự dữ ghê tởm. Hãy nhìn thấy ở đó sự tự hạ tự hủy mà Đức Giêsu, tự nguyện chấp nhận, gánh lấy để tỏ hiện một sự vâng phục tột đỉnh để chuộc tội, để đền bù tội lỗi chúng ta, chết vì tội chúng ta nơi Chúa Cha. Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu chuộc tội chúng ta là vâng phục để chuộc lại sự không vâng phục của nhân loại từ thế hệ Adam đến chúng ta. Đền bù tội lỗi chúng ta cũng từ Adam vì có tội thì phải đền. Chết vì chúng ta là chuộc tội, là đền tội để cứu chúng ta thì chúng ta mới được sống. Cốt yếu là làm gương, là đi trước dẫn đường và dạy chúng ta biết ý của Chúa Cha mà vâng phục như Người để được cứu. Không phải Người đã chuộc tội, đã đền bù tội lỗi chúng ta, đã chết vì chúng ta thì chúng ta khỏi rồi, sống rồi, khỏi phải làm gì nữa. Tha hồ tiếp tục.
Chúng ta phải cảm kích tình yêu của Người, đáp lại lời mời gọi của thập giá "đi theo Đức Giêsu", vác thập giá mình, thập giá của cuộc đời mình như Người đã vác cho chúng ta thấy mà noi theo.
Ôi thập giá là muôn lời nhắn gọi Hãy đến nào, đến để cạn nguồn yêu Ôi thập giá là nhuốc nhục trăm chiều Mà chúa chịu vì yêu người nhân thế.
Theo bố cục của Tin Mừng Mt, sự cố được tường thuật lại đây là mở đầu cho tuần lễ cuối cùng của cuộc sống Đức Giêsu trên trần thế. Kể từ biến cố Đức Giêsu vào Giêrusalem cho đến bữa tối cuối cùng rồi Người bị bắt, bị xử, bị đóng đinh, và sống lại, Mt theo chính xác thứ tự của TM Mc, ngoại trừ truyện cây vả được sắp xếp lại một chút (x. 21,18-22 = Mc 11,22-26). Trong Mt, cuộc tiến vào “khải hoàn” và việc “thanh tẩy” Đền Thờ xảy ra trong cùng một ngày, đó là ngày thứ nhất Đức Giêsu ở lại Giêrusalem; trong Mc, các sự việc ấy được tách ra đặt vào hai ngày khác nhau. Mt giữ lại tất cả chất liệu của Mc ngoại trừ bài học từ câu truyện đồng xu của bà goá (x. Mc 12,41-44).
Cuộc tiến vào Giêrusalem trong bầu khí khải hoàn trên một con lừa là hình ảnh đối lại với cuộc tiến lên Núi Sọ, dưới khối nặng của thập giá. Họi Thánh đang nhớ lại cuộc Thương Khó của Chúa, nhưng cũng báo trước vinh quang (hôsanna) Phục Sinh. Đây là cuộc tỏ mình công khai của Đức Giêsu cho quốc gia nên hẳn cũng là một đề nghị mà Họi Thánh sơ khai một lần nữa ngỏ với các thành viên Hội đường để họ chấp nhận Đấng Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít (x. 23,37-39). 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu tổ chức cuộc rước (21,1-7); 2) Đức Giêsu tỏ mình (21,8-11). 3.- Vài điểm chú giải
- Giêrusalem (1): Đây là kinh đô của miền Giuđê, cũng là Sion, trung tâm tôn giáo của dân Do Thái, vì có Đền Thờ.
- Chúa (3): Sự hiểu biết và quyền chúa tể của Đức Giêsu được Mt nhấn mạnh đặc biệt ở đây.
- Đức Giêsu cưỡi lên (7): dịch sát là “cưỡi lên chúng (= hai con lừa)”; đây là một hình ảnh khó mà hình dung được. Người ta có thể tránh khó khăn này bằng cách coi “chúng” đây là các “áo choàng”. Bản dịch CGKPV Bốn sách Tin Mừng (tr. 95) cho một lời giải thích hợp lý: “Đơn giản nhất có lẽ là Mát-thêu muốn đưa lời Da-ca-ri-a (thật sự chỉ nhấn mạnh tới con lừa con mà thôi) cho hợp với trường hợp của Chúa Giê-su (thật sự có hai con lừa), mà không quan tâm tới chuyện trục trặc”.
- hôsanna (9): Từ ngữ Híp-ri hôsý‘ah-nna’, hay hôsha‘-na có nghĩa là “Xin trợ giúp (hay Xin cứu độ), con cầu nguyện”. Đây là một phần trích từ câu Tv 118,25.26, sau này thành một lời tung hô.
- náo động (10): Động từ eseisthê (động từ seiô được dùng 3 lần trong Mt) diễn tả những hiện tượng đi theo việc khai mở thời đại cánh chung. Ở Mt 27,51, động từ này loan báo hiện tượng động đất đi theo cái chết của Đức Giêsu. Ở 28,4, động từ này diễn tả nỗi kinh hoàng đến nỗi ra như chết của những người lính canh vào lúc Đức Giêsu sống lại (x. 2,3-7). 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu tổ chức cuộc rước (1-7)
Tác giả ghi nhận rằng chính Đức Giêsu muốn có cuộc diễu hành này, và Người đã lên kế hoạch thực hiện. Điều này cho hiểu là Đức Giêsu ý thức Người là Đấng Mêsia, Người làm chủ tình hình; Người có uy thế hơn các đối thủ của Người. Quả thế, Mt nêu bật rằng các môn đệ làm theo “lời Đức Giêsu đã truyền” (c. 6). Ngoài ra, vâng phục Đức Giêsu là nét tiêu biểu của người môn đệ. Lời tự xưng Đức Giêsu nói với hai môn đệ khi gửi họ đi (“Chúa”, c. 3) nhắc nhớ tới đức tin của Họi Thánh vào Đức Kitô Phục Sinh. Trong khi cộng đoàn nhắc lại một sự cố đầy ý nghĩa thuộc về Đức Kitô lịch sử, cộng đoàn lại loan báo sự hiệp thông của mình với Đức Kitô Phục Sinh (“Chúa”). Quang cảnh sắp được kể tự nó đã khá rõ, nhưng tác giả theo thói quen thấy cần minh họa bắng hai câu trích Kinh Thánh (Is 62,11: “Hãy bảo thiếu nữ Sion” và Dcr 9,9 nói về đức vua hòa bình). “Thiếu nữ Sion”trong truyền thống ngôn sứ là Israel cánh chung được nhân cách hóa, ở đây là dân cư Giêrusalem. Ở Dcr 9,9, vị ngôn sứ nói “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ”, Mt tránh lời mở đầu này bằng cách dùng công thức của Is 62,11. Ông không cảm thấy sẵn sàng mời thành thánh vui lên khi mà chẳng bao lâu nữa ông sẽ phải lên án thành này. Bản văn Is có giọng kiên quyết “Hãy bảo” nhằm nhắc nhở dân Thiên Chúa. Bản văn của Dcr thì chi tiết hơn, nhưng Mt chỉ nhắc đến những chi tiết nào phù hợp với đề tài ông đang bàn. Ông chủ ý bỏ những tên gọi “Đấng Công Chính và Đấng Toàn Thắng” để tránh làm cho người ta nghĩ đến một chiến binh hay một nhà chinh phục. Giêrusalem là thành vua Đavít, nhưng từ lâu đã phải quy phục Dân Ngoại; nay thành thấy tái xuất hiện bên trong vòng tường thành vị vua của chính mình, đã được Thiên Chúa hứa ban từ thời xa xưa (x. 2 Sm 7,14). Tuy nhiên, để dân chúng đừng hiểu lầm Đức Giêsu đến trong tình trạng khiêm nhu hiền hậu, chịu suy phục. Người là đức vua của các anawým (những người nghèo), hơn là vua của những ghibborým (những người mạnh) vẫn chầu quanh vua Đavít (x. 2 Sm 1,19.21). * Đức Giêsu tỏ mình tỏ mình (7-11)
Ý nghĩa thiên sai của cuộc biểu dương lại còn được nêu bật bởi con số đông đảo dân chúng tham gia (chỉ Mt ghi nhận điểm này), bởi những cử chỉ họ làm (trải áo và vẫy các cành lá) và bởi các lời tung hô. Khi trải áo của mình trên con lừa và trên đường, các môn đệ và đám đông chỉ làm một điều là xác nhận phẩm cách của Người (x. 2 V 9,13). Khi ghi nhận rằng người ta “chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi” (khác với Lc 19,17 và Mc 11,8), Mt muốn nhắc lại Tv 118,25-26 trong đó gợi tới những nghi thức người ta làm trong dịp Lễ Lều: dân chúng đi rước lên Đền thờ, tay vừa phất các cành lá linh thánh (lubab) vừa hát các câu tung hô rút từ Tv 118 (x. thêm 2 Mcb 1,9; 10,6). Lễ Lều nhắc lại thời gian sống trong sa mạc, nên cũng gợi đến cuộc xuất hành và giải phóng khỏi Ai-cập; do đó, cuộc cử hành Lễ Lều làm thức tỉnh lại những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia cả nơi dân chúng lẫn cấp lãnh đạo. Trong khung cảnh này, bài tường thuật việc Đức Giêsu vào Thành thánh là một sứ điệp rất khéo bố trí mà Mt gửi đến cho cộng đồng Israel.
Các lời tung hô xác nhận ý nghĩa của cuộc diễu hành đang diễn tiến. Tiếng hò la là một thể văn thuộc về nghi thức các cuộc tôn vương (x. 1 V 1,39). Lời cầu chúc của đám đông được diễn tả lặp đi lặp lại bằng từ ngữ Híp-ri hôsý‘ah-nna’, hay hôsha‘-na (Hy Lạp hôsanna) cũng rút từ Tv 118,25, ghép với danh xưng “con vua Đavít” không có trong Tv. Lúc đầu “hôsanna” là một tiếng kêu khẩn cầu và nài van (“xin ban ơn cứu độ”), nhưng với thời gian đã trở thành một lời diễn tả niềm vui và sự chờ đợi Đấng Mêsia. Tên gọi “con vua Đavít” được làm giảm nhẹ và được sửa chữa bởi câu diễn giải của Tv 118,21: “Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa”. Để tránh mọi hiểu lầm, Mt đã bỏ bản văn Mc 11,10 (“Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời”). Đức Giêsu là con vua Đavít, nhưng triều đại Người không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36). Câu cuối cùng “Hoan hô trên cõi trời cao” xác nhận mối bận tâm này. Cuộc diễu hành rất có thể trở thành một cuộc duyệt binh thật ra là một cuộc rước mang tính phụng vụ trong đó người ta khẩn khoản thỉnh cầu Thiên Chúa thực hiện những lời hứa ban ơn cứu độ. Đấng Mêsia là một sứ giả của Thiên Chúa, sẽ mang đến cho loài người không phải là các của cải trần gian nhưng là các phúc lành của trời cao.
Đám đông tham dự vào cuộc rước dường như là đoàn người đã đi lên với Đức Giêsu từ Giêrikhô (20,29.34). Mt phân biệt họ với dân cư Giêrusalem đang lãnh đạm chứng kiến sự cố. Phản ứng của dân chúng Giêrusalem (“cả thành” là một lời phóng đại, nhưng nói lên ý muốn kéo toàn thể khối đông dân chúng vào việc loại trừ Đấng Mêsia) được diễn tả bằng những từ ngữ đầy kịch tính (“náo động”). Sự rúng động này không phải là về thiên nhiên nhưng về tinh thần. Tất cả Giêrusalem biết rằng họ đang ở vào khoảnh khắc cuối cùng của lịch sử và đang ở trước một biến cố lạ lùng: gặp gỡ với Đấng Cứu độ hoặc Đấng Thẩm phán của họ. Câu hỏi họ đặt ra cho đoàn người đang tiến đi chứng tỏ điều này. Đám đông đang đi rước đã làm chứng, nhưng chứng từ của họ quá nghèo nàn: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, miền Galilê đấy”. Danh xưng “ngôn sứ” thì không rõ ràng gì mấy, bởi vì Gioan Tẩy Giả cũng được gọi như thế (11,9; 14,5; 21,26; x. 16,14; 21,11; 21,46), và lại còn là một ngôn sứ cao cả (11,9). Lời nhắc đến Nadarét và Galilê chỉ càng khiến cho người ta bớt tín nhiệm Đức Giêsu (13,57; x. 23,37; Ga 1,46). Ngoại trừ ở 2,23 (để dùng Kinh Thánh mà biện minh cho xuất xứ của Đức Giêsu) vẫn tránh gọi Đức Giêsu là người Nadarét hoặc Galilê; nếu tên ấy có trở lại, là trên môi miệng các đối thủ Đức Giêsu (26,69). Tuy nhiên, ở đây Mt vẫn để cho đám đông nhắc đến: “Vị ngôn sứ Nadarét”, đối tượng khiến người Giêrusalem phải ngạc nhiên hay gai chướng, cũng chính là con cháu vua Đavít vừa mới được hoan hô. + Kết luận
Cuộc biểu dương này ngay tại trụ sở của Do Thái giáo chính thức là bằng chứng tối hậu Đức Giêsu cung cấp cho quốc gia Do Thái. Tại toà án Rôma, chính Philatô đã giới thiệu Đức Kitô-vua cho người Do Thái Giêrusalem (x. Ga 19,14). Còn ở đây lại chính là những người Do Thái bán ngoại giáo của miền Galilê làm công việc đó. Cả hai lần giới thiệu đó đều được kết thúc bằng một sự phủ nhận, nhưng lịch sử dân Do Thái không thể xoá bỏ quang cảnh này đi được nữa. Chỉ khi Israel cũng tham gia vào cuộc khải hoàn của Đấng Mêsia Nadarét, họ mới có thể được thừa hưởng ơn cứu độ (x. Mt 23,39). 5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đứng ra tổ chức cuộc tiến vào Giêrusalem. Như thế, không phải là Người đã “hớ hênh” để rồi bị bắt và đưa đi xử tử. Chính cách thức Người chọn (ngồi trên lưng lừa, không có quân lính tiền hô hậu ủng) cho hiểu là Người là Đấng Mêsia thuộc nhà Đavít, nhưng không như Đấng Mêsia dân Israel hằng mong đợi.
2. Vũ khí của Người là sự hiền hậu; với vũ khí này, Người sẽ đánh bại sự ngạo mạn của những kẻ tội lỗi và nhất là ban sự tin tưởng lại cho những người yếu thế (x. 18,1-6), cho những người nghèo (x. 5,3-4; 11,28-30), những người bị áp bức. Con vật Người cưỡi phù hợp với sứ mạng này. Đấng Mêsia đã đi vào Giêrusalem, không phải như một nhà giải phóng quốc gia, nhưng như một đưa vua hòa bình. Đức Giêsu là đức vua thiên sai được ngôn sứ loan báo, nhưng ngược lại với các nỗi niềm chờ mong, Người không đến ban tặng cho dân cư Giêrusalem chiến thắng trên quân thù, nhưng ban tặng ơn cứu độ và tình bằng hữu của Thiên Chúa.
3. Hôm nay, chúng ta thấy mình ở trong đám đông nào? Đoàn người đi theo Đức Giêsu từ Giêrikhô hay dân cư Giêrusalem? Chúng ta thấy mình được tượng trưng bởi đoàn người vẫn đang đi theo Đức Giêsu: đây là Họi Thánh lữ hành đang tiến đi mà loan báo cho cả người Do Thái (cc. 10-11) lẫn Dân ngoại (x. 28,19) biết Đức Giêsu là “con cháu vua Đavít”, là Đấng Cứu độ loài người. Chúng ta mời gọi mọi người đón tiếp một Đấng Mêsia nghèo hèn và khiêm nhường.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ----------------------------
Để công khai tỏ mình là Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su quyết định vào thành Giê-ru-sa-lem cách long trọng. Người sai môn đệ đi trước mượn lừa, rồi ngồi lên trên và tiến vào thành giữa những tiếng reo mừng hoan hô (9). Dân chúng trải áo xuống đường, tay mang cành lá chiến thắng và miệng tung hô "Vạn Tuế" giống như cuộc đón rước vị Vua chiến thắng khải hoàn vào thành, để ứng nghiệm lời sấm của Da-ca-ri-a (x Dc 9,9) và I-sai-a (x Is 62,11) như sau: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-6: + Thầy trò đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12,1), sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần 3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò đã đến ở trọ qua đêm tại Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê, nằm dưới chân núi Ô-liu về phía Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó…: Câu này nói lên tính siêu việt nơi con người Đức Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không gian thời gian, thấu suốt tâm can con người (x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa tơ chưa một lần sử dụng, như dành riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần đến chúng”: Chủ lừa chắc là chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả lời như vậy. Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin Người là Thiên Sai.
- C 7-9: + Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường: Dân chúng ở đây phần lớn là những người từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn núi Cây Dầu. Những người này phấn khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót đường và chặt cành cây Ô-liu trải trên lối đi để bày tỏ lòng trọng kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ. + Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít” khi họ thấy Người làm cho hai người mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại (x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is 29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau và phấn khởi hoan hô Người bằng lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118,25-26).
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1: Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người ?
ĐÁP: Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền thờ ít là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần 2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5…: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13; 5,1; 12,12), và vào nhiều dịp lễ khác (x. Ga 7,10.14; 10,22-23).
ĐÁP: Đức Giê-su ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do thái đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15,10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách, giờ đây sẽ được mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô (x. Mt 11,29-30). Người cưỡi trên mình lừa thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Bên Do thái, các bậc vua chúa quan quyền thường dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18,9).
- HỎI 3: Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá gồm mấy phần ?
ĐÁP: Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay gồm hai phần: nghi thức khởi đầu vui tươi phấn khởi với bài Tin Mừng diễn tả việc Đức Giê-su được dân chúng cầm cành lá đón rước long trọng như một Vua Mê-si-a khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem (x Mt 21,1-11). Nhưng rồi trong thánh lễ, bài Thương Khó lại trình bày những sự kiện đau thương trong cuộc khổ nạn: Đức Giê-su bị bắt như một tội đồ, chịu xét xử và bị kết án trước Thượng Hội Đồng Do Thái (x Mt 26,57-67), sau đó bị điệu ra trước tòa tổng trấn Phi-la-tô và ông này dưới áp lực của đám đông Do thái đã kết án tử hình thập giá cho Người cách bất công (x Mt 27,1-2.11-26). Rồi Người còn bị quân lính hành hạ (x Mt 27,27-31), bị vác thập giá lên Đồi Sọ trước khi bị đóng đinh tay chân vào thập giá (x Mt 27,32-38) và chịu nhiều người nhạo cười nhục mạ (x Mt 27,39-44) trước khi tắt thở (x Mt 27,48-56). Sau đó Người được 2 môn đệ mai táng trong mồ đá (x Mt 27,57-61), và các đầu mục dân Do thái đã xin Phi-la-tô cho cử người đến canh mồ (x Mt 27,62-66).
- HỎI 4: Phân biệt hai con đường của Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem với con đường thánh giá của Người đi lên Núi Sọ khác nhau thế nào ?
ĐÁP: Con đường khải hoàn vào thành thánh của Người là con đường vinh quang, còn con đường lên Núi Sọ là con đường từ bỏ bản thân, chấp nhận gian khổ, nhưng lại là đường mà Chúa Cha muốn Đức Giê-su trải qua để ban ơn cứu độ cho loài người như Người đã tiên báo: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
- HỎI 5: Các tín hữu cần học với Đức Giê-su để sống đức tin như thế nào ?
ĐÁP: Trước những biến cố dồn dập xảy đến trong cuộc khổ nạn, Đức Giê-su đã nêu gương một đức tin phó thác cậy trông bằng thái độ bình thản trước mọi sự việc, bằng thái độ luôn ân cần quan tâm giúp đỡ người bên cạnh và bằng một trái tim luôn mở rộng để yêu thương như sau:
+ Đức Giê-su tỏ thái độ bình thản đón nhận các sự kiện lần lượt sẽ xảy ra trước cuộc khổ nạn: Đối với Đức Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha, Đấng mà Người luôn yêu mến và kết hiệp mật thiết, nên Người đã tỏ ra thanh thản khi bước vào cuộc khổ nạn khi sắp xếp ăn lễ Vượt Qua lần cuối với các môn đệ (x Mt 26,17-19). Người bình thản tiên báo việc bị môn đệ bội phản: “Thầy bảo thật anh em: Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Mt 26,20). Người cũng tiên báo việc Phê-rô chối Thầy: “Thầy bảo thật anh: Nội đêm nay, gà chưa gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (x Mt 26,34).
+ Đức Giê-su tỏ thái độ hiền hòa khoan dung với những kẻ làm hại mình: Người tha thứ tội đã xúc phạm và còn chữa lành cho đầy tớ thượng tế đã bị Phê-rô chém đứt vành tai. Người cảnh báo Phê-rô không được sử dụng bạo lực: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi bị Giu-đa hôn mặt chỉ điểm cho quân lính bắt, Người vẫn tỏ ra nhẹ nhàng với hy vọng đánh thức lương tâm của người môn đệ phản bội qua câu nói với anh ta: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” (Mt 26,50). Dù đang bị xét xử, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô ngầm tha thứ tội đã hèn nhát chối Thầy ba lần (x Lc 22,61-62). Cái nhìn cúa ấy kèm theo tiếng gà gáy đã thức tỉnh Phê-rô hồi tâm sám hối (x Mt 26,75). Người giữ im lặng chịu đựng những lời nhục mạ của kẻ qua người lại: “Mi là kẻ phá được Đền Thờ và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !” (Mt 27,39-40). Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế diễu Người mà nói: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền… Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn ! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27,41-43).
+ Đức Giê-su tỏ thái độ yêu thương các tội nhân có lòng sám hối và khoan dung với kẻ có tội: Trên thập giá, khi sức cùng lực kiệt, Người đã lắng nghe người trộm lành bày tỏ lòng sám hối và hứa ban ơn cứu độ Nước Trời cho anh: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Người còn cầu nguyện với Chúa Cha để bào chữa các đầu mục Do thái, đám đông dân chúng và bọn lính đã hành hạ sỉ nhục Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Tình thương của Đức Giê-su vượt qua những tội lỗi hèn yếu và phản bội của loài người chúng ta: Đáp lại các hành vi hung ác tàn bạo của những kẻ thù ghét hãm hại, Người vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Nơi Đức Giê-su: Tình yêu đã chiến thắng hận thù, đúng như Người đã dạy môn đệ trước đó: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Đây cũng là bài học cho mỗi người tín hữu hôm nay: Mỗi người chúng ta phải quyết tâm sống đức tin bằng việc thực thi sự cậy trông phó thác và lòng mến cảm thông chia sẻ và khiêm nhường phục vụ những người tội lỗi bất hạnh và bị bỏ rơi noi gương Đức Giê-su xưa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5).
2. CÂU CHUYỆN: BA THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI THÁNH GIÁ CHÚA GIÊ-SU
Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm lại để giữa các món hàng rẻ tiền này ?” Sau đó, hai vợ chồng đã mua được cây Thánh giá ấy với giá chỉ một đôla ! Về đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá trị đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn. Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá và tự nhiên hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc nhiên trước thái độ của con trai và hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ? Bấy giờ cậu bé trả lời như sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ đến tình thưong của Chúa thật quá lớn lao, và dù con đã cố kìm nén lại mà tự nhiên nước mắt vẫn cứ chảy ra !”.
3. SUY NIỆM:
1) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA THIÊN SAI:
Bài Tin Mừng khi rước lá thuật lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như đón mừng một ông vua chiến thắng khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi nước Do thái và thiết lập một triều đại mới, giống như triều đại vua Đa-vít và Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh của Đức Giê-su không phải như dân Do thái đang mong đợi. Người là Vua Thiên Sai nhưng là vị Vua Mục Tử và ông Vua Hòa Bình sẵn sàng thí mạng để ban ơn cứu độ cho đoàn chiên:
+ Vua Mục Tử: Người đến như một mục tử lãnh đạo để chăm sóc đàn chiên của mình. Người bảo vệ chiên khỏi bị sói rừng cắn xé. Người yêu thương đàn chiên của Người đến cùng, thể hiện qua việc rửa chân hầu hạ môn đệ và ban Mình Máu Người làm của ăn nuôi dưỡng họ. Cuối cùng Người sẵn sàng chịu chết đền tội thay cho nhân loại và sống lại để phục hồi sự sống cho những ai tin vào Người.
+ Vua Hòa Bình: Người đến không phải để kết án và trừng phạt những kẻ tội lỗi, nhưng để thứ tha cho những tội nhân thật lòng sám hối ăn năn như ma-ri-a Ma-đa-le-na, như người phụ nữ tội lỗi bày tỏ lòng sám hối bằng việc hy sinh bình dầu thơm, lấy nước mắt rửa chân cho Người và lấy lóc mình làm giẻ lau khô chân Người, như Gia-kêu thực lòng sám hối sẵn sàng đền bù thiệt hại đã gây ra cho tha nhân, như người gian phi sam hối trên thập giá kêu xin tinh thương tha thứ của Đức Giê-su…
2) SUY NGHĨ XÉT MÌNH:
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình: Nếu tôi có mặt trong hàng ngũ các môn đệ Chúa khi xưa, tôi sẽ phản ứng thế nào ? Chắc tôi sẽ dễ dàng hòa lẫn trong đoàn người cầm cành lá đi đón rước Chúa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng trên con đường thánh giá lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường hẻm nào ? Đường ham mê tiền bạc mà phản nộp Thầy của Giu-đa ? Đường hèn nhát chối bỏ không biết Thầy của Phê-rô ? Đường trốn chạy vô trách nhiệm của các môn đệ nói chung ? Có khi nào tôi đứng hòa lẫn với đám đông để đòi kết án tử hình và lên tiếng thách thức sỉ nhục Chúa ? Có khi nào tôi hùa theo quân lính Rô-ma để lột áo và hành hạ đánh đập Chúa ? Hay tôi sẽ trung thành bước theo chân Chúa đến đứng dưới chân cây thập giá để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a, môn đệ Gio-an, Ma-ri-a Ma-đa-len và các phụ nữ khác… cảm thông với sự đau khổ của Chúa và góp phần cứu rỗi tha nhân.
3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:
Một số việc chúng ta có thể làm để trở thành môn đệ thực sự của Đức Giê-su và xứng đáng được gia nhập vào Nước Trời của Người là Hội Thánh:
+ Vâng theo thánh ý Chúa Cha: Chúng ta cũng phải cầu nguyện vâng theo thánh ý Chúa Cha khi gặp phải các tai nạn rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng để nên giống Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Trong ngày, chúng ta hãy năng đọc kinh Lạy Cha từ khi thức giấc đến lúc nghỉ đêm, trước mỗi bữa ăn… để cầu xin Chúa Cha: “Ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
+ Chuyên cần cầu nguyện: Lý do Tông đồ Phê-rô đã bị sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần là vì đã không cầu nguyện xin ơn Chúa giúp, mà quá tự tin vào sức riêng mình khi nói với Đức Giê-su: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Trước thái độ quá tự tin ấy, Đức Giê-su đã cảnh báo ông: Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. Ông Phê-rô vẫn khẳng định: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy (Mt 26,34-35).
+ Năng ăn chay hãm mình: Phê-rô đã mất cảnh giác khi ăn uống no say trong bữa tiệc chiên Vượt Qua trước đó, dẫn đến tình trạng ươn lười ngủ say. Đức Giê-su đã nhiều lần đánh thức và trách nhẹ Phê-rô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,40b-41). Trong năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này, chúng ta cần tổ chức Giờ Kinh Tối gia đinh ra sao để củng cố đức tin cho các thành viên trong gia đình mình hầu chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa ?
+ Kiên nhẫn chịu đựng tha nhân: Noi gương Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn, mỗi người chúng ta sẽ đối xử thế nào với những kẻ tự nhiên mình có ác cảm, những kẻ cố tình nói xấu và khiêu khích mình, những kẻ đã gây thiệt hại và gây đau khổ cho mình… ?
4. THẢO LUẬN: 1) Qua thái độ đối với cây Thánh giá của ba người trong câu chuyện trên, bạn thấy thái độ nào thích hợp với đức tin nhất ? 2) Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi gặp đau khổ, bạn sẽ làm gì để noi gương Đức Giê-su ? NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần Thánh này: Vì Chúa đã lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những người nghèo khó để nhường cơm xẻ áo cho họ. Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén đắng gặp phải trong cuộc sống. Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì Chúa đã chịu xỉ nhục nhạo cười, xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân. Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề, xin giúp những ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng vác Thánh giá mà theo chân Chúa. Vì Chúa đã bị lột áo và chịu đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp chúng con biết đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá Chúa. Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin giúp chúng con biết luôn cầu nguyện điều tốt cho tha nhân. Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự xảy đến với niềm cậy trông phó thác… Nhờ đó, sau này chúng con sẽ được chia sẻ niềm vui hạnh phúc và được sống với Chúa muôn đời.
Ngày hôm, Phụng vụ cho chúng ta thấy “ Đức Giêsu mạc khải Ngài là Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình, hòa giải, Đấng Thiên Sai giầu lòng thương xót chứ không phải là Đấng Thiên Sai mang sự chinh chiến “. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đem hòa bình cho nhân loại, nhưng thực tế, người Do Thái cứng lòng,đặc biệt những vị lãnh đạo tôn giáo, các Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu lúc đó đã căm thù, ghen ghét Ngài vì Ngài không đi theo đường lối của họ…Do đó mới có bản án bất công…
Đọc Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của Thánh Gioan chúng ta hiểu được thế nào sự can đảm của Đức Giêsu khi Ngài tiến vào Giêrusalem, vào Giêrusalem đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết. Chúa Giêsu phải can đảm sâu xa, mạnh mẽ khi tiến về Giêruasalem vào dịp lễ Vượt Qua. Ngài can đảm đến dộ anh hùng như Tin Mừng của Thánh Gioan giải thích:” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu…và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ thế nào, bạn nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu !”. Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh: bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “ ( Ga 11,55-57 ). Chính vì thế, mọi người đều có quyền lo ngại cho Đức Giêsu khi Ngài cứ tiến vào thành Giêrusalem.
Vậy, ý nghĩa sâu xa về việc Đức Giêsu đi vào Giêrusalem và cách thức dân chúng tung hô, đón tiếp Ngài ? Chúng ta hãy lắng nghe thánh Gioan diễn tả:” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Chúa tiến vào thành, dân chúng trải áo trên đường, trẻ con, người lớn cầm trên tay những cành lá thiên tuế và reo lên:” Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen ! “ ( Ga 12,13 ). Thánh Gioan lại kết thúc bài mô tả bằng cách khác thường:” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).
Giacaria đã loan báo trước Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Chúa Giêsu đang thực hiện lời tiên báo của Giacaria. Ngài xác nhận Ngài là Đấng Mêsia và Ngài mạc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài.Đức Giêsu đã được dân chúng tung hô, reo hò mừng rỡ và sau đó, chính đám đông lại la hét, kết án Chúa Giêsu dù Ngài không có tội tình nào ! Dân chúng không hiểu biết gì chỉ nghe lời xúi giục của những lãnh đạo, các tư tế, thượng tế, ký lục , kỳ mục để hò hét, chống đối và lên án Chúa Giêsu. Phiên tòa được mở ra một cách vội vã dù rằng ai cũng biết Chúa Giêsu chẳng hề có tội gì. Thẩm phán của phiên tòa là ông Philatô, công tố viên là các thượng tế và kỳ mục, còn bị cáo là Chúa Giêsu. Dân chúng dự phiên tòa bất công này đều là những người được mua chuộc. Phiên tòa thật kỳ cục, là người công chính, thánh thiện lại bị xử như một tên tội đồ.
Thay vì, tòa án phải tìm kiếm, phải bảo vệ sự thật nhưng thực tế vì ganh ghét, tỵ hiềm, hận thù, tư lợi, các thượng tế, kỳ mục đã toa rập cáo gian Chúa Giêsu . Vì sợ mất chức, mất quyền hành, mất địa vị, Philatô dù biết rõ Chúa Giêsu vô tội nhưng ông không dám bảo vệ Chúa. Bởi vì Philatô đang ngồi trên tòa xét xử thì bà vợ sai người đến nói với ông:” Ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính ấy, vì hồi hôm, tôi phải khổ nhiều trong mộng vì người ấy “ ( Mt 27, 19 ) và “ Bởi ông đã biết là vì ganh tị mà họ đã nộp Ngài “ ( Mt 27, 18 ). Philatô hoàn toàn im lặng, đồng lõa với sự gian dối, không hề bênh vực Chúa Giêsu. Philatô đã lấy nước lã rửa tay trước mặt dân và nói:” Ta vô tội về máu người này; các người tự liệu lấy “ ( Mt 27, 24 ). Chính vì tư lợi và ghen ghét, Philatô đã bóp chết sự thật.Ông đã hèn nhát, vô liêm sỉ khi im lặng trước lời vu cáo của dân chúng. vÀ dân chúng đã bất công la hét, kết án, cáo gian, vu khống cho Chúa Giêsu.
Thật vậy, tòa án và bản án bất công đã được gán ghép cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã im lặng vì yêu thương nhân loại và chấp nhận ý định của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại, cứu độ con người.
Vâng, con người muôn thời vẫn còn những chuyện như thời Chúa Giêsu. Mỗi lần con người đó kỵ, hận thù, hiềm khích, đặt điều, nói xấu và kết tôi nhau là con người lại gán cho nhau những bản án bất công.
Hôm nay chúng ta cũng đang đón mừng một Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ. Ngài muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần Thánh này. Chính Đức Giêsu , Đấng Cứu Thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc này, tại đây khi chúng ta bắt đầu nghi thức rước lá.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Vạn tuế Đức Vua của Israen ! Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu đi vào thành thánh Giêrusalem để làm gì ? 2.Ngài đi bằng gì vào Giêrusalem ? 3.Dân chúng đã làm gì ? 4.Philatô có dám bênh vực Chúa Giêsu không ? Tại sao ? 5.Tuần Thánh nói gì cho chúng ta ?
Phụng vụ Lời Chúa xoay quanh đề tài cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su quá súc tích. Cả đến những chi tiết nhỏ cũng đủ để chúng ta suy gẫm thấm thía. Hôm nay chúng ta thử nhìn lại cấu trúc phần Lời Chúa để nhận ra được điểm đặc biệt nào nói lên tinh thần của Chúa Giê-su, khi Người trải qua những giờ phút kinh hoàng cuối đời. Trước bài Thương Khó, chúng ta có hai bài giới thiệu tuyệt vời, đoạn trích sách I-sai-a và thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê. Đây phải là những diễn tả đúng nhất và cảm động nhất về con người Chúa Ki-tô trong thời điểm tột đỉnh của kế hoạch cứu độ, đặc biệt là khuôn mặt hiền hậu, khiêm nhu và dạt dào yêu thương, dù là khi Người được đón rước trọng thể hay lúc chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá.
Sách ngôn sứ I-sai-a có ba bài ca về người Tôi Trung của Thiên Chúa. Đoạn sách chúng ta nghe hôm nay trích bài ca thứ ba và mô tả người Tôi Trung đã chu toàn sứ mệnh nhưng lại bị người đời hành hạ đau đớn. Tuy nhiên người Tôi Trung khi thi hành sứ mệnh thì giữ thái độ “như một người môn đệ” luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa. Còn khi bị hành hạ và chịu đau khổ vì sứ mệnh, ngài luôn đặt niềm tin cậy nơi Thiên Chúa, nên “không hổ thẹn và trơ mặt ra như đá”. Thử hỏi có hình ảnh nào chính xác hơn nữa để diễn tả thái độ của Chúa Giê-su trong suốt cuộc đời và nhất là trong cuộc Thương Khó. Chúa Ki-tô đích thực là người Tôi Trung của Thiên Chúa. Bị hành hạ đủ cách, nhưng Chúa Ki-tô vẫn giữ được sự trầm tĩnh và bình an. Bị cư xử như một tội nhân gian ác, nhưng Người không “hổ thẹn”. Tại sao Người làm được như vậy? Bởi vì “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi”.
Nếu ngôn sứ I-sai-a đã cho chúng ta một hình ảnh vô cùng cảm động về Chúa Giê-su chịu thương khó, thì thánh Phao-lô lại trình bày cùng một hình ảnh ấy bằng một suy tư thần học thật sâu sắc. Nét chính của hình ảnh Chúa Giê-su là “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” hạ mình làm người phàm. Chúng ta cứ tưởng tượng Người từ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” tụt xuống thân phận người phàm, rồi thành nô lệ, rồi thành tội nhân chịu hình phạt bị đóng đinh vào thập giá. Đến mức cuối này là hết, không thể nào xuống thêm được nữa! Cuộc Thương Khó của Chúa là mức độ khiêm nhường tuyệt đỉnh rồi. Ngoài lối diễn tả của thánh Phao-lô ra, chắc chắn không có lối diễn tả nào khác tuyệt vời hơn để nói lên thoái trình tự khiêm tự hạ của Chúa Ki-tô.
Tất cả bài Thương Khó của Chúa Giê-su luôn mời gọi chúng ta bước theo đường khổ nạn của Người và chiêm ngưỡng Người. Từng cử chỉ, từng lời nói, từng ánh mắt, thậm chí cả những khi phải đối chất với kẻ thù, Chúa Giê-su vẫn luôn biểu lộ tư cách của người Tôi Trung và của con người “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Bài đọc I-sai-a và bài đọc trích thư Phi-líp-phê là những hướng dẫn giúp chúng ta không những biết được tâm tình của Chúa Giê-su trong cuộc Thương Khó, mà còn giúp chúng ta đồng cảm với Người nữa. Có lẽ chúng ta không cần phải suy ngắm hết cả bài Thương Khó, nhưng tốt hơn hãy chọn lấy một vài sự kiện và đặt mình vào trong khung cảnh ấy để có thể sống những gì Chúa đang trải qua, trong sự kết hiệp sâu xa với Chúa hết sức có thể. Tóm lại, chúng ta không chỉ đọc hoặc nghe bài Thương Khó, nhưng là sống trong chính những gì đang xảy ra cho Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta bắt đầu một tuần lễ vô cùng quan trọng đối với mọi Ki-tô hữu: cử hành mầu nhiệm Phục Sinh. Năm tuần lễ trước là để giúp chúng ta chuẩn bị cho những ngày trọng đại này. Vậy chúng ta phải có những tâm tình nào cho thích hợp? Chúng tôi xin trích lời kêu gọi của thánh giám mục An-rê Creta: “Nào, chúng ta hãy mau mắn cùng nhau chạy đến tham dự cuộc Thương Khó và hãy noi gương những kẻ đã ra nghênh đón Người. Nhưng chúng ta không trải ra đường những cành ô-liu, những tấm thảm và áo xống hay tàu lá để đón Người. Trái lại, chúng ta lấy hết lòng khiêm nhường, trí ngay thẳng và quyết tâm hạ mình xuống mà đón Ngôi Lời đang ngự đến, để Thiên Chúa ở trong chúng ta, Đấng mà không nơi nào chứa nổi” (Kinh Sách Chúa Nhật Lễ Lá). Vậy chúng ta hãy đến với Chúa Giê-su theo lời Người mời gọi: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường!” (Mát-thêu 11:29).
Phần đầu lễ, bài Tin Mừng diễn tả cuộc khải hoàn của Đức Giê-su như một ông vua ngồi trên lưng lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của mọi người: ” Hoan hô con Vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”.
Nhưng rồi Tin mừng trong thánh lễ thuật lại buổi xử án Đức Giêsu và cuộc khổ hình Người phải vác cây thập giá lên Núi Sọ, chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp như một kẻ tội đồ. Người vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá đau thương nhục nhã của một tử tội để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-6: + Thầy trò đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12,1), sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần 3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò đã đến ở trọ qua đêm tại Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê, nằm dưới chân núi Ô-liu về phía Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó…: Câu này nói lên tính siêu việt nơi con người Đức Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không gian thời gian, thấu suốt tâm can con người (x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa tơ chưa một lần sử dụng, như dành riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần đến chúng”: Chủ lừa chắc là chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả lời như vậy. Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin Người là Đấng Thiên Sai.
- C 7-9: + Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường: Dân chúng ở đây phần lớn là những người từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn núi Cây Dầu. Những người này phấn khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót đường và chặt cành cây Ô-liu trải trên lối đi để bày tỏ lòng trọng kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ. + Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít” khi họ thấy Người làm cho hai người mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại (x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is 29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau và phấn khởi hoan hô Người bằng lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118,25-26).
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1: Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người ?
ĐÁP: Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền thờ ít là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần 2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13; 5,1; 12,12), và vào nhiều lễ khác (x. Ga 7,10.14; 10,22-23).
ĐÁP: Đức Giê-su ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do thái đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15,10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách, giờ đây sẽ được mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô (x. Mt 11,29-30). Người cưỡi trên mình lừa thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Bên Do thái, các bậc vua chúa quan quyền thường dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18,9).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐƯỜNG CỨU ĐỘ “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG” CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm lại để giữa các món hàng rẻ tiền này ?” Sau đó, hai vợ chồng đã mua được cây Thánh giá ấy với giá chỉ một đôla ! Về đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá trị đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn. Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá và tự nhiên hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc nhiên trước thái độ của con trai và hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ? Bấy giờ cậu bé trả lời như sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ đến tình thưong của Chúa thật quá lớn lao, và dù con đã cố kìm nén lại mà tự nhiên nước mắt cứ chảy ra !”.
2) MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU THAM PHẦN VÀO VIỆC ĐÓNG ĐANH ĐỨC GIÊ-SU:
Danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đã để lại nhiều bức tranh nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh "Ba cây thập giá".
Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú ý vào ba cây thập giá ở trung tâm: giữa hai cây thập giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi bật. Dưới chân thập giá là một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ sự hận thù ganh ghét... tác giả như muốn nói rằng: mọi người đều tham phần vào việc đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương mặt dường như bị mất hút trong bóng tối, nhưng chỉ cần một vài nét cũng đủ để các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của tác giả bức tranh là danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông đằng đằng sát khí thảm sát Chúa Giê-su, mà Rembrandt lại chen thêm khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất có lẽ là do ý thức về tội lỗi của ông. Rembrandt như muốn thú nhận rằng: Chính ông do tội lỗi của mình cũng đã cùng với mọi người khác tham phần vào việc hành hạ và treo Chúa Giê-su trên cây thập giá.
3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-SU TRỔI VƯỢT HƠN TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI ĐỜI:
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem ra còn quyến luyến với tình cảm gia đình nên nói với đạo sĩ: "Vợ con của con rất thương yêu con, nên chắc sẽ không bằng lòng cho con thoát tục theo thầy đâu".
Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn chứng minh cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ năng chết giả. Sau khi thực tập thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy về nhà áp dụng kỹ thuật chết giả này. Quả thật, anh ta đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả bằng việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở, nhưng vẫn nghe được tiếng khóc than của vợ con và người thân.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm người quá cố, ông bảo với vợ con đang khóc thương người thân mới chết như sau: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh này, nếu có ai đó sẵn sàng chết thế cho anh thì anh sẽ sống lại".
Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe từng người trong gia đình anh nêu ra các lý do để từ chối chết thế cho anh. Sau cùng anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe người vợ nghĩa thiết của anh đã tóm lại quyết định của mọi người như sau: "Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng tôi đâu. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể sống được ! ".
3. SUY NIỆM:
1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ ĐƯỜNG VÀO VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ:
Người tín hữu Công giáo là người chấp nhận đi trên Con Đường của Chúa Giê-su là “Sự Thật và là Sự Sống”. Là đòi phải bỏ đi ý riêng của mình để vâng theo ý Thiên Chúa muốn như lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và như Người đã dạy các môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi người tín hữu chúng ta cần ý thức rằng: Đi Con Đường Giê-su không được dừng lại trong cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên đường, và với đám đông hoan hô… nhưng phải trung thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc trên Núi Sọ, chịu chết ô nhục giữa hai tên trộm cướp như một kẻ đại gian đại ác.
- Đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người đều đi theo Chúa, đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội Chúa như Giu-đa bán Thầy, Phê-rô chối bỏ Thầy. Còn những người khác thì hèn nhất bỏ trốn…
2) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA THIÊN SAI:
- Bài Tin Mừng khi rước lá thuật lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi nước Do thái và thiết lập một Triều Đại Mới, giống như triều đại vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh của Đức Giê-su không phải như dân Do thái đang trông đợi. Người là Đấng Thiên Sai nhưng là một ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm nhường”. Người đã không xưng vương trong cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, nhưng xưng mình là Vua trước mặt Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát không còn hình tượng người như trước, khi phải đứng trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su chỉ được ghi bằng dòng chữ viết tắt “INRI”, nghĩa là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”, khi bị treo trên cây thập giá.
- Đức Giê-su chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi người khác phải hầu hạ mình, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường:
+ Người biết đàn chiên, yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng con chiên một, nhất là đi tìm kiếm những con đi hoang, băng bó những con bị thương tích, âu yếm vác chúng trên vai để đưa về đàn. Người yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng, nên đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với Hội Thánh mãi mãi và trở nên của ăn của uống nuôi dưỡng Hội Thánh. Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu chúng ta, để mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
+ Người là Vua không ngồi trên ngựa chiến và ham mê quyền lực, đòi người khác hầu hạ, nhưng ngồi trên con lừa khải hoàn vào thành Gie-ru-sa-lem. Người đến không nhằm kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, sẵn sàng thứ tha cho những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn. Người là Vua Mục Tử chiến đấu với sói dữ để bảo vệ đàn chiên, sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su?
3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:
Một số việc các tín hữu chúng ta nên thực hiện để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau:
+ Luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Khi gặp rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp nhận những đau khổ không thể tránh khỏi, coi đau khổ gặp phải như phương thế đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh em.
+ Siêng năng cầu nguyện: Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần là vì đã quá tự tin vào sức riêng hơn là tin cậy vào ơn Chúa giúp, đã ăn uống no say nên dễ chiều theo tính mê xác thịt, nhất là đã không chịu tỉnh thức và cầu nguyện như Thầy.
+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ trở thành cứng lòng và bị Chúa Giê-su trách: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.
+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với mình, như Chúa đã tha thứ cho ông Phê-rô bằng ánh mắt nhắc nhở sau khi ông đã phạm tội chối Thầy ba lần; Hãy cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình noi gương Người đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm khốn mình, vì họ không biết việc họ làm.
+ Luôn giữ thái độ bình tĩnh và dùng tình thương hoán cải kẻ thù, noi gương Chúa Giê-su đã tỏ thái độ lịch sự, tế nhị khi môn đệ Giu-đa đến hôn mặt để nộp Người cho kẻ thù.
+ Kiên nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.
+ Hãy có lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ trộm lành trên cây thập tự. Anh đã trách bạn rằng: “Mi chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều gì xấu?” Rồi anh quay sang cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su đã phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Sau cùng, mỗi người chúng ta cần bỏ đi lòng ganh tỵ những ai hơn mình, để tránh phạm tội ác như các đầu mục dân Do Thái đã tìm giết Chúa Giê-su do lòng ganh ghét, đố kỵ với sự thành công của Người.
4. THẢO LUẬN:
Trước đau khổ thập giá gặp phải do bản thân, người khác và do hoàn cảnh tự nhiên gây ra, chúng ta phải ứng xử thế nào để thể hiện đức tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su? NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần Thánh này: Vì Chúa đã lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những người nghèo khó để nhường cơm xẻ áo cho họ. Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén đắng gặp phải trong cuộc sống. Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì Chúa đã chịu xỉ nhục nhạo cười, xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân. Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề, xin giúp những ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng vác Thánh giá mà theo chân Chúa. Vì Chúa đã bị lột áo và chịu đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp chúng con biết đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá Chúa. Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin giúp chúng con biết luôn cầu nguyện điều tốt cho tha nhân. Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự xảy đến cho mình với niềm cậy trông phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhờ đó, sau này chúng con hy vọng sẽ được tham phần vào hạnh phúc với Chúa trong Nước Trời muôn đời.
Tuần lễ Thánh nói lên ý nghĩa rất đặc biệt của người Công giáo. Bởi vì, qua Tuần lễ Thánh này, Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy tham gia tích cực hơn, sốt sắng hơn vào các lễ nghi của Tuần Thánh. Hội Thánh tưởng nhớ, sống lại cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô. Do đó, Phụng Vụ tuần này làm sống lại, cụ thể và sinh động về cuộc thương khó, chịu chết và sống lại của Chúa Giêsu. Tuần này, mọi Kitô hữu trên toàn cầu hãy sốt sắng tham dự các ngày lễ Tuần Thánh và hiệp nhất với Hội Thánh để sống tâm tình Tuần Thánh dạy dỗ.
Để mở đầu, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta ý thức tham dự nghi lễ làm phép lá để mỗi người chúng ta khi cầm lá trên tay đi theo Chủ tế vào Nhà thờ, chúng ta diễn tả lại việc Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đi vào Đền Thánh Giêrusalem trong sự tung hô của các trẻ Do Thái và Dân Do Thái xưa, khai mạc Tuần lễ Thánh kết hợp với cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. TRƯỚC KHI ĐI KIỆU LÁ
Dân Do Thái và các trẻ Do Thái xưa khi rước Chúa vào thành thánh Giêrusalem, họ hãnh diện, hồ hỡi và phấn khởi vì tưởng Chúa Giêsu sẽ làm Vua theo kiểu người đời và họ tưởng Vị Vua này sẽ khôi phục lại Vương Quyền Israen, để qui tụ họ lại…Chúng ta không có suy nghĩ như các người Do Thái xưa. Chúng ta hiểu rất rõ Vua chúng ta là Vua thiêng liêng, Ngài khiêm nhu, hiền lành ngồi trên mình con lừa. vinh quang của người Công giáo là vinh quang tình yêu, cảm thông và tha thứ. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ làm hại mình. Giáo Hội của Chúa không được đi con đường nào khác ngoài con đường yêu thương, tha thứ và khó nghèo. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng Hội Thánh như Giáo Hội mà Đức Kitô đã xây dựng. Giờ đây chúng ta hãy tiến đi theo chân Đức Kitô cứu thế. SUY NIỆM TIN MỪNG THƯƠNG KHÓ
Mt 26, 14-27,66
Bài tường thuật của thánh Matthêu hôm nay nói về cuộc thương khó, tử nạn của Chúa Giêsu. Bởi vì, sự nô nức, phấn khởi của dân Do Thái khi rước Chúa Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem chỉ là một cuộc phô trương giống như những cuộc rước các Vị Vua Chúa trần gian. Dân Do Thái cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ lãnh đạo toàn dân theo kiểu người đời, rồi có quân đội, đánh Tây dẹp Bắc, thắng Nam, thắng Đông để lên ngôi trị vì và các Tông đồ sẽ được chia chác các chức vụ trong Vương quốc của Chúa Giêsu. Vương quốc của Israen sẽ được khôi phục. Người Do Thái sẽ được sung sướng, giầu sang, hạnh phúc vv…Tuy nhiên, ngai của Chúa lại là Thập giá. Rước Chúa vào Đền Thánh Giêrusalem là dẫn Người tiến lên Thập giá. Bởi vì, chỉ nơi Thập giá mới có ơn cứu độ…Ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Thập giá là cây cứu độ. Chúa Giêsu đã chấp nhận một bản án bất công, Ngài không có tội gì, nhưng người ta đã lên án Ngài vì ganh ghét, vì có một đường lối đi ngược lại với họ, Ngài dùng tình thương để cứu vớt con người, Ngài dùng thứ tha để qui tụ con người, tụ họp mọi người. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu cho chúng ta hiểu rõ Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa bởi vì Chúa bị kết án bất công, bị đánh đập, bị đóng dinh trên Thập giá, rồi được mai táng trong mồ, nhưng sau ba ngày Ngài đã phục sinh khải hoàn. Chúa chết trời đất rung chuyển, sĩ quan và quân lính đều khiếp kinh sợ hãi, đấm ngực thú nhận:” Người này chính là Con Thiên Chúa “.
Đọc bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta có buồn rầu, khóc lóc, rên xiết nhưng nếu chúng ta không thực tâm ăn năn hối cải, không mau mắn quay trở về với Chúa, mà chỉ hời hợt khóc lóc bên ngoài thì cũng chỉ là vô ích. Chúa cứu độ con người, cứu rỗi mọi người. Ngài chỉ muốn sống kiếp người tôi tớ, bình tĩnh, khiêm tốn chấp nhận ý Thiên Chúa Cha. Ngài hoàn toàn cô đơn vì nhân loại, đặc biệt là nguồi Do Thái và ngay các môn đệ lúc đó cũng tưởng Chúa sẽ là Vua thế trần. Giờ đây, tất cả bỏ Ngài vì lợi lộc thế gian họ ham muốn giầu sang, lợi nhuận, không phải Vị Vua Giêsu sẽ đem lại cho họ, nhưng Chúa Giêsu lại cứu độ, và ban cho con người, loài người sự an bình, sự cam thông, quảng đại và thứ tha. Chúa muốn loài người hiểu rõ, Ngài đến thế gian là để làm theo ý Đức Chúa Cha.
Chúa sẽ đến với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt Máu của Ngài. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa Thánh lễ mà chúng ta tham dự, hiệp dâng hay chúng ta vẫn hời hợt, nông cạn hiểu sai ý chúa. Chúa luôn muốn chúng ta hạnh phúc. Trong Tuần lễ Thánh này, chúng ta hợp nhất với nhau sống Thánh lễ cách tích cực sốt sắng hơn, để Tuần lễ Thánh đem lại cho chúng ta những lợi ích thiêng liêng tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Chúa sẽ chết vào ngày thứ Sáu Thánh, nhưng thực ra Ngài luôn mới gọi chúng ta sống cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đặc biệt trong mỗi thánh lễ chúng ta hiệp dâng hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con sống tích cực Tuần lễ Thánh hầu chúng con trở thành những môn đệ nhiệt thành làm chứng cho Chúa sống lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được sống khiêm hạ như Chúa hầu chúng con có thể làm chứng cho Chúa khiêm nhường.
Lạy Chúa Giêsut, xin cho chúng con hiểu con đường cứu thế là con đường tình thương, con đường tử nạn và phục sinh là con đường tình yêu.
Xin Chúa cho chúng con biết chôn vùi con người tội lỗi để mặc lấy con người mới là Đức Kitô. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.ÔBCBACE hiểu sao về việc Đức Kitô đi vào thành Thánh Giêrusalem ? 2.Tại sao Chúa lại ngồi trên mình lừa ? 3.Con lừa có nghĩa gì ? 4.ÔBCBACE hiểu thế nào về cuộc thương khó của Chúa Giêsu ?
2) Bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu (26,17-29)
Cảnh 2 Mt 26,17-19 – Các môn đệ chuẩn bị Lễ Vượt Qua Cảnh 3 Mt 26,20-25 – Đức Giêsu tiên báo việc phản bội Cảnh 4 Mt 26,26-29 – Bữa tối cuối cùng (Khai mạc Tiệc Thánh Thể)
3) Tại Ghếtsêmani (26,30-56)
Cảnh 5 Mt 26,30-35 – Đức Giêsu tiên báo sự phân tán và hứa qui tụ lại Cảnh 6 Mt 26,36-46 – Đức Giêsu cầu nguyện tại Núi Ôliu Cảnh 7 Mt 26,47-56 – Đức Giêsu bị bắt
4) Tại dinh Thượng tế (26,57–27,10)
Cảnh 8 Mt 26,57-58 – Đức Giêsu và Phê rô vào dinh Thượng tế Cảnh 9 Mt 26,59-66 – Luận tội trước tòa Thượng tế Cảnh 10 Mt 26,67-68 – Cuộc hành hạ đầu tiên Cảnh 11 Mt 26,69-75 – Phêrô chối Đức Giêsu Cảnh 12 Mt 27,1-2 – Đức Giêsu bị nộp cho Philatô Cảnh 13 Mt 27,3-10 – Giuđa không trả tiền lại được và tự tử
5) Đức Giêsu bị người Rôma kết án (27,11-31)
Cảnh 14 Mt 27,11-26 – Cuộc xử án trước tòa Philatô Cảnh 15 Mt 27,27-31 – Đức Giêsu bị đánh đòn và chế nhạo
6) Đức Giêsu bị đóng đinh (27,32-61) Cảnh 16 Mt 27,32-38 – Đường thập giá và đóng đinh Cảnh 17 Mt 27,39-44 – Chế nhạo Con Thiên Chúa Cảnh 18 Mt 27,45-50 – Đức Giêsu từ trần Cảnh 19 Mt 27,51-54 – Thiên Chúa trả lời cho các chết của Đức Giêsu Cảnh 20 Mt 27,55-56 – Các phụ nữ tại chân thập giá Cảnh 21 Mt 27,57-61 – Đức Giêsu được an táng
7) Đức Giêsu sống lại và hai kết thúc của Tin Mừng Mt (27,62–28,20) Cảnh 22 Mt 27,62-66 – Đặt lính canh mồ Cảnh 23 Mt 28,1-8 – Mồ trống Cảnh 24 Mt 18,9-10 – Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ Cảnh 25 Mt 28,11-15 – Kết 1: Lính canh mồ tung tin thất thiệt Cảnh 26 Mt 28,16-20 – Kết 2: Lệnh ra đi truyền giáo 2.- Chú giải và Ý nghĩa của bản văn
Cuộc Thương Khó là giai đoạn trọng yếu trong cuộc đời của Đức Giêsu. Đây cũng là trang đen tối trong cuộc đời của Người. Các môn đệ bị bắt chợt, bởi vì họ chờ đợi Thầy họ lên ngai vàng chứ không phải là cái chết thập giá.
* Mt 26,14-16 – Giuđa phản bội Đức Giêsu
Phân đoạn này được liên kết với 26,1-5: một trong Nhóm Mười Hai (x. “các môn đệ”, c. 1) là Giuđa đi gặp các đối thủ của Đức Giêsu, là các thượng tế (x. cc. 3-5), và khởi động biến cố đã được Đức Giêsu tiên báo ở c. 2. Không có liên kết trực tiếp nào với truyện xức dầu.
Phân đoạn này cũng được liên kết với phân đoạn đến sau: Ở 26,47-50, Giuđa sẽ đưa kế hoạch ra thực hiện; ở 26,21-25, một lần nữa hắn sẽ đóng một vai trò quyết định; ở 27,3, hắn sẽ trả ba mươi đồng bạc lại cho các thượng tế. Trong phân đoạn 26,14-16, Giuđa cũng hầu như là diễn viên duy nhất, vì ở c. 15b, các thượng tế có phản ứng là do hắn gợi ý.
Các lý do khiến Giuđa phản bội đã không được nói đến. Tác giả Mt chỉ ghi chính xác rằng đây là “một người trong Nhóm Mười Hai” (26,14). Rõ ràng biết Đức Giêsu và bước theo Người vẫn không đảm bảo gì (x. 7,21-23; 25,12). Có một sự tương phản nổi bật giữa Giuđa và người phụ nữ xức dầu cho Đức Giêsu (x. 26,6.13): hắn làm do tham lam, còn bà ấy làm do lòng thành kính. Quả thật, lý do khiến Giuđa phản bội, theo cả bốn Tin Mừng, là tiền bạc; nhưng Giuđa lại bán Thầy chỉ với “ba mươi đồng bạc” là giá mạng sống của một tên nô lệ (x. Xh 21,32). Khi ghi nhận điểm này, tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu bị hạ nhục đến độ nào, cũng như hành vi phản bội thì ty tiện đến đâu.
Nhưng ý nghĩa tiên quyết của bản văn là mọi sự đã được Đức Giêsu tiên báo và nay xảy đến đúng theo ý muốn của Thiên Chúa (26,1-2). Bóng tối khủng khiếp của cuộc Thương Khó nay bắt đầu với sự phản bội của Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai. Dọc theo bài tường thuật cuộc Thương Khó, tác giả cho thấy gương mặt của Đức Giêsu luôn ở trung tâm: Người chịu đau khổ; Người biết đau khổ có ý nghĩa gì; Người liên tục đẩy các biến cố đi tới và cung cấp một lời giải thích. Các độc giả cần phải hiểu rằng đây là một câu truyện về Đức Giêsu, chứ không phải là một câu truyện về các đối thủ của Người. Điều này có nghĩa là Giuđa cũng chỉ là một gương mặt nhỏ bé sẽ thỉnh thoảng xuất hiện mà thôi. * Mt 26,17-19 – Các môn đệ chuẩn bị Lễ Vượt Qua Bài Mt này song song với bài Mc (14,21-22) gồm có ba giai đoạn: chuẩn bị (cc. 17-19), nghi thức Do Thái (cc. 20-25), nghi thức mới của Kitô giáo (cc. 26-30).
Bài tường thuật của Mt, bắt đầu với một chi tiết về thời gian: “Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men” (26,17). Đức Giêsu kết thúc kinh nghiệm cộng đoàn với các môn đệ bằng một bữa ăn tối từ biệt. Bữa ăn này được các tác giả TM I đặt vào trong khung cảnh cuộc cử hành lễ Vượt Qua. Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men … lễ Vượt Qua (26,17): Thật ra, Lễ Bánh Không Men bắt đầu sau lễ Vượt Qua; nhưng tác giả Mt, cũng như Fl. Joseph (Bell. 5,99; Ant. 2.317; 17.2134; 18.29; 20.106) dùng tên này để gọi trọn lễ mừng bắt đầu với lễ Vượt Qua. Ta thấy tác giả Mt dùng đồng thời hai kiểu gọi này khiến chúng ta có thể coi là hai kiểu gọi này có cùng một ý nghĩa (x. 26,2). Các môn đệ đến thưa “với Đức Giêsu” (tô Iêsou) và hỏi Người là họ phải dọn cho Người (“cho Thầy”, soi) ăn lễ Vượt Qua ở đâu: chúng ta được nhắc rằng chúng ta đang bàn những chuyện liên hệ đến Đức Giêsu và lễ Vượt Qua của Người.
Đức Giêsu vẫn làm chủ tình hình: Người lấy sáng kiến và bố trí việc cử hành lễ Vượt Qua: Người không chỉ sai hai môn đệ (như trong Mc) mà là các môn đệ (“các môn đệ”, c. 17; “các anh”, c. 18) đi vào thành Giêrusalem, vì đó là nơi duy nhất người ta có thể cử hành lễ Vượt Qua (x. Đnl 16,16). Các ông đến nhà “một người kia”: “Người kia”, ho deina, là một người không cần nêu tên hay lý lịch ra ở đây (Mc nhấn mạnh hơn). Điều tác giả muốn cho thấy là chính Đức Giêsu truyền lệnh. Người không phải là một kẻ biết trước cách lạ lùng những điều đáng kể nhất sẽ xảy ra; Người truyền lệnh, và thế là điều Người nói đã xảy ra. Ngay “một người kia” cũng chỉ biết nghe theo lệnh của Thầy. Nhà của ông ấy hoàn toàn được dành cho Người sử dụng, chứ không chỉ vì nay đã gần kề lễ Vượt Qua và Người cần một căn phòng. Ta thấy rõ: Người không biện minh cho lệnh truyền bằng cách nói rằng là người lạ, Người không dễ tìm ra một nơi để mừng lễ Vượt Qua nay đã gần kề; Người nói: “Thời của Thầy (ho kairos mou) đã gần tới”. “Thời (kairos)” của Người (Ga: “thời”; Ga 7,6.8; “giờ”: Ga 2,4; 7,30; 8,20; 12,23; 13,1; 17,1) chính là giai đoạn cuối cùng trong sứ mạng của Người, cuộc Thương Khó. Người nói trong tư cách là người biết thời gian và cộng tác không chỉ cách thụ động nhưng chủ động, tích cực vào việc làm cho chương trình Chúa Cha đã hoạch định được hoàn tất.
Các môn đệ đã làm như Đức Giêsu truyền lệnh (c. 19. xem các “công thức về hoàn tất” trong Mt 1,20-25; 21,2-7; 28,15). Đối với tác giả Mt, tư cách môn đệ chính là thuộc về gia đình những anh chị em của Đức Giêsu, cùng thực thi ý muốn của Cha trên trời (12,50). Do đó, cả nhóm môn đệ được sai đi và cả nhóm đã làm đúng lệnh truyền: một sự vâng lời gương mẫu. * Mt 26,20-25 – Đức Giêsu tiên báo việc phản bội
Sau câu mở đầu ngắn ngủi nói về thời gian và hoàn cảnh (c. 20), có một mẩu đối thoại được kết cấu rất khéo. Đức Giêsu nêu lên một nhận định tổng quát là một môn đệ sẽ phản bội Người (c. 21). Các môn đệ kinh ngạc phản ứng: “Chẳng lẽ con sao, thưa Ngài?” (mêti egô eimi, kyrie) (c. 22). Đức Giêsu cho một câu trả lời chính xác ở c. 23. Rồi Người củng cố lời loan báo ở c. 24 bằng một tiên báo mới về đau khổ của Người và một lời lời tuyên bố “khốn” đối với kẻ phản bội. Câu 25 nhắc lại c. 22: lần này Giuđa cũng hỏi y như các anh em khác, nhưng gọi Đức Giêsu là “Rabbi, Thầy”: “Chẳng lẽ con sao, thưa Thầy?” (mêti egô eimi, rabbi) (c. 25). Với câu “Chính anh nói đó”, Đức Giêsu đã nói lời cuối cùng. Như thế, Người nói lời đầu tiên và lời cuối cùng trong phân đoạn này. Lời Người nói ở cc. 23-24 là lời dài nhất. Cách kết cấu của đoạn văn cho thấy rõ chính Đức Giêsu, chứ không phải là các môn đệ hay Giuđa, đang làm chủ tình hình.
Chi tiết về thời gian “chiều đến (opsias)” mở đầu hai phân đoạn tiếp theo. Giờ đã muộn, bởi vì phải ăn lễ Vượt Qua ban đêm (x. Xh 12,8. Theo tập tục, phải ăn xong trước nửa đêm). Đức Giêsu vào bàn tiệc: Người nằm trên giường tiệc, theo đúng tập tục. Đang khi các ngài ăn, có hai truyện xảy ra (cc. 21.26). Bữa tiệc đang diễn tiến, Đức Giêsu ngắt ngang để loan báo hơn là tố giác hành vi phản bội và kẻ phản bội. Các môn đệ rất buồn (lypoumenoi sphodra). Từng người một đã hỏi “Chẳng lẽ con sao”, nghĩa là “Chắc chắn không phải là con chứ? Chẳng lẽ lại có thể là con sao?”. Các ông chưa bao giờ nghĩ rằng Đức Giêsu lại có thể bị phản bội, nên các ông hy vọng là Đức Giêsu sẽ đưa ra một câu trả lời phủ định để các ông được miễn trách nhiệm. Và các ông bày tỏ lòng tín nhiệm vào Người bằng cách gọi Người là “Thưa Ngài (= Lạy Chúa, Kyrie)” Vậy kẻ phản bội là ai thì vẫn là một câu hỏi được bỏ ngỏ đối với các môn đệ. Thế là Đức Giêsu loan báo một cách rõ ràng hơn: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy” (c. 23). “Đĩa, tryblion” có lẽ là tên để gọi thứ bột nhão (paste) làm bằng các trái vả, táo, chà là, hạnh đào, hạnh nhân, quế, trộn với rượu hay dấm rượu. Sau khi uống chén thứ nhất, người ta chấm rau diếp và các thứ rau khác vào thứ bột này mà ăn. Tác giả viết là “kẻ vừa mới chấm chung”, vì dùng động từ embapsas (aor. part. của embaptô, “chấm vào”) khiến các môn đệ không thể hiểu mập mờ là bất cứ ai được.
Câu 24 gồm ba phần. Câu 24a là một lời tiên báo mới về cái chết của Con Người, đi với 26,2. Động từ [h]ypagein, “ra đi; đi”, hiểu là tới cuộc Thương Khó và cái chết. “Theo như lời đã chép”, tức theo Kinh Thánh, là kiểu nói tổng quát hóa: Ngoại trừ một vài đoạn rõ ràng, điều quan trọng đối với Giáo Hội tiên khởi là Kinh Thánh có làm chứng về cái chết của Đức Giêsu (x. 1 Cr 15,3-4). Chính xác tín này giúp cho các Kitô hữu tiên khởi tìm ra nhiều đoạn trong Kinh Thánh nói về cái chết của Đức Giêsu. Câu 25b là một lời tuyên bố “khốn” tương tự 18,7. Rõ ràng chương trình của Thiên Chúa không xóa tội cho con người, kể cả tội của kẻ phản bội. Câu 24c thường được gọi là “câu tov” (thà...) theo kiểu nói Sêmít (x. 5,29-30; 18,8-9). Kiểu nói này nhấn mạnh tối đa trên tội của Giuđa: điều ông sắp làm rõ ràng là một “tội trọng”. Cho dù ở đây không có ý gì rõ ràng nói đến sự kết án đời đời dành cho Giuđa, ý tưởng đó vẫn bàng bạc: đoạn 18,8-9, trong đó có chuỗi tương tự “khốn” và “thà”, có nói đến hỏa ngục và “lửa đời đời”.
Sau lời tuyên bố trên của Đức Giêsu, c. 25 có nét gì đó quái gở, bởi vì cứ y như thể Giuđa không hiểu Đức Giêsu có ý nói gì. Thái độ này hoàn toàn ngược lại với nỗi buồn thê thảm nơi các môn đệ khác (c. 22). Giuđa cũng hỏi cùng một câu hỏi như các bạn khác, chỉ có điều ông gọi Đức Giêsu là “Rabbi”, ông không thông hiệp với anh em. TM I rất cẩn thận trong việc dùng các danh hiệu mà gọi Đức Giêsu. Kiểu thưa gửi “rabbi” không giống với “thầy”, đây là kiểu tiêu biểu dành cho những người ở ngoài; chỉ Giuđa dùng kiểu gọi này (ở đây và 26,49). Chúng ta nhớ đến 23,8, là nơi “rabbi” được nêu ra như một danh hiệu mà các kinh sư Do Thái yêu thích, nên cộng đoàn Kitô hữu phải tránh. Vậy Giuđa đã ở bên ngoài rồi; cộng đoàn có thể làm gì được cho ông nữa? Đức Giêsu đã ngắn gọn xác nhận câu hỏi của Giuđa: “Sy eipas”. Câu này có thể hiểu nhiều cách tùy ngữ cảnh: hoặc là “Chính anh nói điều đó” (đó là lời anh nói, chứ không phải tôi), hoặc là một xác nhận điều người khác đã nói (“Anh đã nói ra điều đó”). Rõ ràng theo ngữ cảnh, Đức Giêsu xác nhận không chần chừ rằng Giuđa sẽ là kẻ phản bội. Bằng chính những lời của mình, Giuđa lãnh trách nhiệm về điều ông đã nói. Bản văn kết thúc với các lời này. * Mt 26,26-29 – Bữa tối cuối cùng (Khai mạc Tiệc Thánh Thể)
Như với truyện thứ nhất vừa rồi ở c. 21, tác giả Mt nhắc đến hoàn cảnh bữa ăn (c. 26a), đưa vào bầu khí lễ Vượt Qua Do Thái. Ngoài ra, các câu nói về bánh và về chén ở c. 26 và cc.27-28a hoàn toàn song song. Chỉ đến cuối câu nói về chén, c. 28b, sự đối xứng này mới không còn. Có thể nói toàn bản văn là một “báo” về những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói, chứ không nói đến việc các môn đệ đã ăn bánh uống rượu hoặc đã phản ứng thế nào trước các lời Người nói.
Tác giả Mt không kể toàn bộ nghi thức mà chỉ nhắc lại hai cử chỉ tiêu biểu của đại lễ này: bẻ bánh và phân phát bánh (mở đầu); rót đầy chén lần nữa (kết thúc), mỗi hành vi có kèm theo một công thức chúc tụng (eulogêsas: hiểu là “chúc tụng” Thiên Chúa. Đức Giêsu vẫn ở tại trung tâm câu chuyện (tên “Giêsu” được nhắc lại).
Nghi thức bẻ bánh (trong tiệc Vượt Qua, các đại lễ khác và hằng ngày) là việc của người chủ gia đình. Thường các lời chúc tụng đọc trên bánh là: “Xin chúc tụng Ngài…, lạy Thiên Chúa chúng con, vua vũ trụ, Ngài làm cho bánh đâm chồi từ mặt đất”, Ber. 6,1). Đức Giêsu bẻ bánh và phân phát cho các môn đệ: hành vi này khiến độc giả nhớ đến hai lần Người nhân bánh ra nhiều tại Galilê (Mt 14,19; 15,36). Khi làm cử chỉ này trước mặt các môn đệ, Đức Giêsu muốn nói rằng nay giữa họ đã có một sự hợp nhất mới về tương quan; họ cũng là một gia đình. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại đọc những lời khác với nghi lễ và truyền lệnh “hãy ăn”, khiến các môn đệ hiểu rằng đây là chuyện bắt buộc chứ không tùy nghi. Ngoài ra, khung cảnh tiệc Vượt Qua với chiên bị giết, khiến lời Đức Giêsu nói về “mình Người” có một âm vang hiến tế. Nói cho cùng, Người không trao một tấm bánh nguyên, nhưng những mảnh bánh bẻ ra, điều này tượng trưng thân mình Người sẽ phải bầm dập tan nát. Các môn đệ “ăn mình” Đức Giêsu có nghĩa là nhận lấy cho mình vụ việc vì đó Người đã phải chết, là cũng như Người, phải bẻ đời sống mình ra hầu phục vụ sự thiện hảo của mọi người. Tuy nhiên, một ý nhắm đến cái chết của Đức Giêsu chỉ xuất hiện lần đầu tiên với những lời giải thích Người nói sau này, tương đối còn mơ hồ với bánh, rồi rõ ràng với chén.
Bữa tiệc kết thúc bằng việc chủ nhà rót đầy chén rượu lần nữa rồi chuyền cho mọi thành viên. Đây là chén đầy cuối cùng, người ta chuyền tay nhau mà uống. Lời chúc tụng đọc trên rượu là: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Thiên Chúa chúng con, vua vũ trụ, Đấng tạo thành hoa quả của cây nho”. Trong trường hợp này, Đức Giêsu cũng lại đọc những lời khác với nghi thức kèm theo một mệnh lệnh, “hãy uống”. Rượu mà Đức Giêsu trao phải “nhắc lại” máu mà chẳng bao lâu nữa, Người sẽ đổ ra trên thập giá. Nếu các môn đệ được mời uống máu Người có nghĩa là họ cũng phải có khả năng đổ máu ra như Đức Giêsu. Chúng ta ghi nhận rằng các môn đệ được mời uống chung một chén. Lý do: giao ước được đặt nến móng trên cái chết của Người; tất cả những ai uống chén này thì thông phần vào cái chết của Người;cái chết của Người liên kết tất cả lại với nhau.
Việc bẻ bánh và uống chung một chén rượu như thế được liên kết với cái chết của Người.
Trong bản văn, c. 28 nhấn mạnh đến việc tha tội, thì có liên hệ không 1,21: Đức Giêsu, là Đấng Emmanuel, sẽ cất tội đi cho dân chúng (x. 9,6.8). Câu 29 nhấn mạnh đến tình bằng hữu giữa Đức Giêsu với các môn đệ thì liên hệ với 1,23: Đức Giêsu, là Đấng Emmanuel, sẽ ở cùng các môn đệ (x. 28,20). Điều này cũng hàm chứa ý tưởng về tình bằng hữu giữa các môn đệ với nhau (x. Mt 18). * Mt 26,30-35 – Đức Giêsu tiên báo sự phân tán và hứa quy tụ lại
Câu 30 là câu chuyển tiếp đưa ta từ bữa tiệc Vượt Qua ra cảnh trên Núi Ôliu. Các câu 31-35 là một đoạn đối thoại gồm hai lời tiên báo của Đức Giêsu (cc. 31-32.34) và hai lời phản đối của Phêrô (cc. 33,35ab). Hai lời tiên báo được liên kết bằng công thức chìa khóa “đêm nay” (cc. 31.34). Lời phản đối đầu của Phêrô nhắm vào lời “vấp ngã” (skandalizesthai, cc. 31.33 hai lần) của Đức Giêsu, còn lời phản đối thứ hai nhắm đến từ “chối” (aparneisthai, cc. 34-35). Một lời phản đối tương tự của tất cả các môn đệ được bố trí theo cách giao hoán nhắc lại c. 31 và kết thúc phân đoạn (c. 35c). Sau này, hai lời tiên báo sẽ được kể lại (cc. 56.69-75).
Cuộc khổ nạn cũng như sự phản bội của các môn đệ không phải là chuyện tình cờ. Đức Giêsu đã quan tâm báo trước cho họ: đây không còn phải là sự sa sút của một môn đệ, nhưng là “tất cả” (pantes), chính xác là “tất cả anh em”, những người môn đệ gần gũi nhất, trung thành nhất (c. 31). Họ sẽ xấu hổ vì đã ở với Người, vì đã tin vào các lời Người nói. Sự vấp phạm của các môn đệ khi thấy Người bị bắt rồi bị kết án tử hình, cũng dễ hiểu. Chính ngôn sứ Dacaria đã báo trước (Dcr 13,7). Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng ban một sứ điệp hy vọng: cộng đoàn các môn đệ sẽ lại được quy tụ sau tấn bi kịch; Đức Giêsu lại ban cho họ một điểm hẹn mới là Galilê (c. 32), sau điểm hẹn là Nước của Chúa Cha (c. 29). Điểm này không loại trừ điểm kia, nhưng lệ thuộc vào nhau. Đức Kitô Phục Sinh sẽ trở lại các nơi Người đã hoạt động công khai để bằng tư cách Đấng Phục Sinh, chuẩn nhận cho các lời Người đã loan báo. Đến đây, tác giả Mt đã nối lời loan báo về sự phản bội của Phêrô (cc. 33-34). Ông đã phản đối kịch liệt. Nhưng cũng chính ông đã phản bội Thầy ồn ào hơn những người khác. Cho dù Phêrô tỏ ra như là phát ngôn nhân của nhóm môn đệ, ở đây ông đã phá vỡ tình liên đới của nhóm, khi nói rằng cho dù “tất cả” (pantes) có vấp ngã vì Đức Giêsu, ông vẫn không sa sút. Ông là một ngoại lệ lớn lao mà!
Điều đáng ghi nhận là câu tiên báo trung tâm về cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh tại Galilê ở c. 32 rõ ràng được tách khỏi phấn kết thúc lời tiên báo đầu. Thế nhưng khi phản ứng, Phêrô không trả lời cho lời tiên báo này, mà chỉ phản ứng lại nửa đầu của lời tiên báo thôi. Sau này, qua các phụ nữ, vị thiên sứ phải nhắc lại nửa thứ hai cho các môn đệ (28,7.10). Rõ ràng các môn đệ đã không nghe được phần này của lời tiên báo ở giữa. Nhưng chắc chắn độc giả không được bỏ qua. Các độc giả phải nghe được lời loan báo về Phục Sinh và không được mất tinh thần.
Đức Giêsu đã nói thẳng với Phêrô bằng một tiếng “amen” mở đầu (c. 34). “Đêm nay” (en tautê tê nykti) đối lại với tiếng “chẳng bao giờ” (oudepoti) mạnh mẽ của Phêrô. Nội đêm nay, ông sẽ chối Thầy không dưới ba lần. Như vậy, bằng câu trả lời ấy, Đức Giêsu đã tách Phêrô khỏi nhóm môn đệ, nhưng theo cách tiêu cực. Phêrô không những sẽ chạy trốn, mà còn chối Thầy đến ba lần! So với việc các môn đệ chạy trốn, hành vi của ông tệ gấp đôi. “Chối” (aparneisthai) có nghĩa là “kháng cự lại, không nhận, tuyệt giao, nói không, khước từ, đồng ý từ bỏ”. Đối với người xưa, gà gáy là một cách chỉ giờ vào ban đêm. Giờ gà gáy được coi như là giờ liền ngay nửa đêm, và như thế là còn một khoảng thời gian dài trước lúc bình minh. Khi tiệc Vượt Qua kết thúc thì đã gần nửa đêm. Như thế, khoảng hai hoặc ba giờ sau thì Phêrô chối Thầy.
Phêrô long trọng phi bác lời Đức Giêsu: ông sẽ không chối Người bao giờ: “Dầu có phải chết với Thầy” (c. 35)! Ở 16,21-24, một đoạn trong đó có các ngữ căn skandal- (vấp ngã) và aparneisthai (chối), Phêrô đã tìm cách ngăn cản Đức Giêsu đừng nghĩ tới đau khổ; ông nói với giọng hẳn là hốt hoảng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (16,22). Đức Giêsu đã trả lời ông bằng cách gọi ông là “tảng đá vấp” (skandalon) và đã kêu gọi các môn đệ hãy “chối” (aparneisthai) chính mình. Dường như Phêrô chẳng học được bài học nào cả. Các môn đệ khác cũng không hơn gì (x. 26,35).
* Mt 26,36-46 – Đức Giêsu cầu nguyện tại Núi Ôliu
Truyện Đức Giêsu cầu nguyện tại Vườn Ghếtsêmani rất cô đọng. Các câu 36-38 giới thiệu khung cảnh và lệnh Đức Giêsu truyền cho ba môn đệ canh thức với Người. Ba môn đệ này được tách riêng ra, nhưng ta không thấy sự khác biệt nào giữa hai nhóm môn đệ. Ba đoạn ngắn sau (cc. 39-41, 42-43, 44-45a) có cùng cấu trúc và cách diễn tả như nhau. Những từ quan trọng là “canh thức” (grêgorein: 3 lần), “cầu nguyện” (proseuchesthai: 5 lần) và “với” (meta: cc. 36.38.40). Đoạn văn này gợi cho độc giả nhớ tới truyện Đức Giêsu thay đổi hình dạng trên núi (17,1; x. 26,30), vì Người cũng đưa ba môn đệ ở đây đi. Độc giả cũng nhớ lại mẩu đối thoại của Đức Giêsu với bà mẹ các con ông Dêbêđê, trong đó có nói đến uống chén của Đức Giêsu (20,22). Còn lời cầu nguyện của Đức Giêsu nhắc nhớ tới Kinh Lạy Cha.
Bản tường thuật này rất thật, nhưng cũng có tính dụ ngôn. Đức Giêsu nhận định về hoàn cảnh của Người trước mặt các môn đệ (ít ra trước mặt những người được đánh giá cao nhất) lúc này có thể nghe Người cho dù không hiểu Người. Đây là một kinh nghiệm Đức Giêsu chấp nhận đến cùng vì vâng phục Chúa Cha và Người trình bày cho các môn đệ như là chương trình sống của Người.
Đức Giêsu đưa các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếsêmani (tên Hípri có nghĩa là “ép dầu”). Người bỏ các môn đệ lại đàng sau mà không giao cho họ việc gì cả, chỉ đưa ba môn đệ chọn lọc đi theo. Mt bỏ tên hai người con ông Dêbêđê để làm nổi gương mặt Phêrô. Cảnh này nhắc nhớ đến truyện hiển dung (17,2-8). Trên núi cao, các môn đệ nhìn thấy Đức Giêsu trong tư cách Thiên Chúa; ở đây họ trải nghiệm về Người trong nỗi phiển muộn của con người. Tác giả đưa vào cơn hấp hối bằng một động từ rất ý nghĩa, “bắt đầu” (erxato): động từ này đã được ngài dùng để loan báo những khúc quanh quyết định trong hoạt động của Đấng Cứu thế. Ghếtsêmani không chỉ đơn giản là một khúc quanh, nhưng mở ra giai đoạn chung kết của chương trình cứu thế. Lúc này, tâm trạng của Đức Giêsu là buồn rầu, lo sợ, khắc khoải; sự chắc chắn và cương quyết Người vẫn tỏ ra nay như đã tan biến cả. Người hoang mang xao xuyến, cần có ai để tâm sự, cần một nơi để nương tựa (“canh thức với Thầy”: 26,38.40). Người diễn tả nỗi khắc khoải bằng những lời Kinh Thánh (x. Tv 41,6.12; 42,5 LXX).
Đây là cảm giác về cái chết, về thất bại, về kết cục bất công và không vinh quang: perilypos đã có nghĩa tối thượng cấp là “buồn rầu cùng cực”, nay còn được tăng thêm bằng cụm tử “đến chết” được (heos thanatou). Đây là một hoàn cảnh tâm lý không sao chịu nổi. Từ heos ở đây không rõ, vì có hai nghĩa: nghĩa mục đích (buồn đến mức muốn chết), nghĩa hậu quả (buồn có thể làm cho chết). Đức Giêsu đã mời ba môn đệ “canh thức với Thầy” (cc. 38.40). Không phải chỉ ở đây mà ngay từ đầu, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến đòi hỏi hiệp thông này (“đi cùng với các ông”, c. 36; “đưa theo Người”, c. 37). Theo Mt, “canh thức” là thái độ riêng của người tín hữu (x. 6,13; 24,37-51; 25,1-13). Nhưng ba môn đệ không thể “canh thức và cầu nguyện” được. Ở trên núi Hiển dung cũng như ở đây, Đức Giêsu chờ đợi ba môn đệ làm một điều gì đó đặc biệt, nhưng họ đều không làm được. Trong tình trạng kiệt quệ, Người đã “sấp mặt xuống đất” (26,39): Hẳn là tác giả cũng muốn nói đến tình trạng kiêt quệ của Đức Giêsu, như Mc (14,35); tuy nhiên, “sấp mặt xuống đất” là sự “phủ phục” nhằm bày tỏ sự tôn kính đối với một người nào (x. St 17,3.17; Ds 14,5; 16,4; …), ở đây là “phủ phục” trước nhan Thiên Chúa để cầu nguyện. Cảm nhận về thất bại, nỗi đau khổ, lo sợ khắc khoải không thể lung lạc lòng tin của Đức Giêsu; Người vẫn quay về với Thiên Chúa và gọi là Cha, hẳn vẫn là tiếng Abba quen thuộc, Người vẫn giữ được sự thân mật với Thiên Chúa:
Người gọi Thiên Chúa là “Thưa Cha của con” (pater mou) (c. 42), để bày tỏ thái độ con cái thẳm sâu. Người vẫn tin tưởng vào thánh ý của Thiên Chúa và ký thác vào tay Thiên Chúa, như Người đã từng khuyến khích các môn đệ (x. 6,10), dù lúc này nỗi đớn đau cay đắng chồng chất đã được gom lại thành hình ảnh “chén” (x. 20,22). Lần này, không phải là Satan (4,1-11) hoặc Phêrô (16,23) gợi ý cho Người tránh đi, mà là chính lòng dạ của Người. Tuy nhiên, Người cũng chiến thắng vì Người luôn đặt ý Người sau thánh ý Chúa Cha. Chính vì thế, cuối cùng Người lại tìm lại được sự vững vàng và làm chủ được tình thế; Người bình thản ra gặp các đối thủ (c. 46). * Mt 26,47-56 – Đức Giêsu bị bắt
Bản văn này có ba cảnh nhỏ: Đức Giêsu bị bắt do cái hôn của Giuđa (cc. 47-50); người đầy tớ vị thượng tế bị chém đứt tai (cc. 51-54); các lời bình phẩm Đức Giêsu nói với dân chúng và nhận xét kết thúc (cc. 55-56a). Có những từ móc nối làm cho bản văn nên cô đọng: đám đông được “các thượng tế và kỳ mục” sai đến (c. 47) và từ “bắt” (cc. 48.50) đưa chúng ta trở lại với khởi đầu của bài tường thuật về cuộc Thương Khó (26,3-4).Giuđa lại gọi Đức Giêsu là “rabbi” như ở 26,25. Họ “tra tay bắt (epebalon tas cheiras epi)” Người, việc này đã được Người tiên báo (17,22; x. 26,45).
Hành vi bắt Đức Giêsu được mở ra bởi Giuđa, “một người trong Nhóm Mười Hai” (c. 47; x. 26,14), cái kiểu gọi mà Hội Thánh tiên khởi phải ghi nhớ với sự buồn phiền và nhục nhã. Tên phản bội đi đến với một nhóm đông người, mang gươm và gậy, do các thành viên vị vọng của Thượng Hội Đồng gửi đến. Hành vi mà người tông đồ làm là hôn Thầy (c. 50), một cử chỉ thường môn sinh làm để bày tỏ lòng quý mến và kính trọng. Tác giả Mt ghi là ông hôn thắm thiết (katephilêsen). Đức Giêsu gọi ông là etairos, “đồng nghiệp, bạn”: Mt đã sử dụng từ này ở 20,13 và 22,12, lần đầu như một cách nói để giữ khoảng cách, khẳng định vị trí trên dưới, lần sau với giọng đe dọa. Vậy đây không phải là một từ để nói về tình bạn chân thật, mà là một từ mỉa mai. Rồi Đức Giêsu cho biết rằng chuyện này chẳng bất ngờ đối với Người; Người nói: “Bạn đến đây vì mục đích này, nghĩa là để phản bội tôi (ep’ ho parei)” (c. 50). Thật ra có nhiều cách giải thích câu này, nhưng giải thích không như là một thách thức, cũng không phải là một đọan tuyệt dứt khoát, nhưng là một lời trách pha lẫn hy vọng, là đơn giản nhất.
Đức Giêsu vừa nói xong, thì họ “tra tay bắt Người” (c. 50b). Từ “bàn tay” (cheir) khiến độc giả nhớ lại lời tiên báo của Đức Giêsu ở 17,22 và 26,45.
Một môn đệ (Phêrô: Ga 18,10) liền vung gươm bảo vệ Người, chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế (c. 51). Chỉ có TM Mt nhấn mạnh rằng Đức Giêsu phản đối dùng vũ lực, vì con đường của vũ lực không giải quyết được gì, mà lại còn có thể làm hại chính người sử dụng. Câu 52b, “tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”, nhắc lại câu đối nghĩa thứ năm trong Bài Giảng trên núi, “Đừng chống cự người ác” (5,39). Nếu muốn, Đức Giêsu có thể điều khiến “mười hai đạo binh (legiôn) thiên thần” mà bảo vệ Người (c. 53). Một “đạo binh” lúc đó gồm 5.600 người; toàn quân đội của hoàng đế là 25 “đạo binh”. Vậy Đức Giêsu có thể gọi khoảng 70.000 thiên thần đến trợ giúp Người, nhưng Người từ khước chứng tỏ quyền lực của Người. Điều này khiến các độc giả nhớ đến chước cám dỗ thứ hai ở 4,5-7, khi Đức Giêsu từ chối nhờ các thiên thần trợ giúp, nếu như Người nhảy từ nóc Đền Thờ xuống. Do vâng phục Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, có tất cả quyền lực trên trời dưới đất, đã từ chối biểu dương quyền lực của Người. Đến đây, Đức Giêsu kết thúc các lời Người nói với các môn đệ bằng cách quy chiếu về Kinh Thánh. Cũng giống như ở 12,26 và 22,43, “nhưng như thế thì (pôs oun)” đưa vào một câu hỏi mà thính giả phải trả lời. Người cho hiểu rằng nếu Người không vâng theo ý muốn của Thiên Chúa và nếu Người làm một cuộc biểu dương quyền lực của Thiên Chúa, Kinh Thánh mang lời chứng về chương trình của Thiên Chúa không thể ứng nghiệm được.
Rồi Người quay ra nói với đám đông “mang gươm giáo gậy gộc” (c. 47): Người là một tên cướp sao? Mỗi ngày Người vẫn ngồi giảng dạy trong Đền Thờ, tức là một công việc được nhìn nhận (x. 21,23-24). “Ngày ngày” (kath’ hêmeran) cho hiểu là không phải chỉ vài ngày.
Tác giả kết thúc phân đoạn với một nhận xét: “Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ” (c. 56). Công thức này tương ứng với câu mở của lời trích thứ nhất về Kinh Thánh nên trọn ở 1,22 (“Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ”) và tạo ra một cấu trúc đóng khung cho toàn thể câu truyện về Đức Giêsu: phải hiểu cuộc đời Đức Giêsu từ đầu đến cuối như là một sự ứng nghiệm Kinh Thánh. “Các ngôn sứ” đây có thể hiểu rộng ra là các bản văn Kinh Thánh (Cựu Ước). Đây là chìa khóa để hiểu cuộc đời Đức Giêsu.
Bản văn kết thúc với c. 56b: “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Các độc giả đã được chuẩn bị cho sự cố này rồi, ở 26,31. Người chăn chiên đã bị đánh; đàn chiên bị tan tác là hậu quả đương nhiên.
Chúng ta ta ghi nhận từ đầu cho đến cuối, Đức Giêsu làm chủ biến cố. Một cách rất uy dũng, Người phản ứng lại với Giuđa (c. 50a), với các môn đệ quá nhiệt thành (cc. 52-54), và với đám đông vũ trang đến bắt Người (c. 55). Người nêu bật quyền lực thần linh của Người, cho dù vì muốn vâng phục Cha Người, Người không biểu dương quyền lực này (c. 53). Vẻ uy hùng của Đức Giêsu trong Mt được diễn tả rõ nét hơn trong Mc. Nhu thế, bài tường thuật Mt bắc một cấy cầu đưa tới bài tường thuật Ga 18,1-11. * Mt 26,57-58 – Đức Giêsu và Phêrô vào dinh Thượng tế
Đoạn dẫn nhập ngắn này được liên kết với cc. 48, 50, 55 bởi động từ “nắm lấy, bắt lấy” (krateô) và gợi nhớ đến 26,3-4, vị tại đây các nhà lãnh đạo dân chúng đã “nhóm họp” trong “dinh của vị thượng tế”. Câu 57 dọn đường cho cc. 59-66, c. 58 dọn đường cho cc. 69-75.
Những kẻ đi bắt Đức Giêsu điệu Người đến dinh thượng tế Caipha (c. 57). Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu về đó, nhưng đây không phải là một cuộc gặp gỡ chính thức của Thượng Hội Đồng. Chúng ta phải chờ đến sáng hôm sau mới thấy: ngay từ sớm, “toàn thể Thượng Hội Đồng” (c. 59) đã họp lại, có lẽ vẫn tại nhà Caipha, để cứu xét vụ việc.
Bây giờ chúng ta để ý đến Phêrô: ông theo Đức Giêsu “xa xa” (c. 58). Khoảng cách như thế liên kết với động từ “bước theo” (akoloutheô) chuẩn bị các độc giả đi đến phân đoạn cc. 69-75. Phêrô cũng đến dinh (aulê) của vị thượng tế và “vào bên trong”. Sau 26,3, các độc giả vẫn hiểu aulê là “dinh”, nhưng đến c. 69, họ lại ghi nhận rằng Phêrô ngồi “bên ngoài” en tê aulê, thường được dịch là “ngoài sân”. Phải chăng Phêrô đã di chuyển trong khi Đức Giêsu bị tra vấn? Không phải. Chính cái nhìn của người tường thuật đã di chuyển: lúc đầu, nhìn diễn tiến câu truyện từ Ghếtsêmani, ngài ghi nhận Phêrô “vào bên trong”, nhưng ở c. 69, nhìn từ phòng họp Thượng Hội Đồng, ngài thấy Phêrô ngồi “bên ngoài”. Vậy theo Mt, Phêrô ngồi ở đâu? Vì aulê vừa có nghĩa là cái sân vừa có nghĩa là quần thể các tòa nhà quanh sân, tác giả Mt có hai cách nhìn: ở c. 58, ngài muốn Phêrô phải ở gần tối đa với sự cố trong Thượng Hội Đồng, có thể để có một chứng nhân tận mắt. Tuy nhiên, ở c. 69, Phêrô phải ở ngoài, nơi “người đầy tớ gái, paidiskê” và những người khác đang ở đó, và từ đó ông dễ dàng chạy ra ngoài. * Mt 26,59-66 – Luận tội trước tòa Thượng tế
Lời kết tội đến nhanh (cc. 59-66) và như thế là chấm dứt phiên tòa Do Thái và tôn giáo. Tác giả Mt mô tả khái quát. Trước tiên có một cuộc thẩm vấn dựa theo các lời tố cáo của các chứng nhân (cc. 59-61). Như vậy, cuộc thẩm vấn gồm hai thì: a) cứu xét các lời kết tội (cc. 61-63a) và các nghi vấn (cc. 63b-64); b) bản án do thượng tế tuyên bố (cc. 65-66). Cuối cùng bản án đã được công bố không phải trên những gì Đức Giêsu đã nói hoặc đã làm, nhưng trên những gì người khác đã nghĩ và nói về Đức Giêsu. Và họ đã làm đúng thể thức vì “hai người” làm chứng (cc. 60-61; x. Đnl 19,15). Lời tố cáo có thể có giá trị nhất đối với những người xử án là tố cáo Đức Giêsu là Mêsia giả hiệu; thật ra Người không bao giờ tuyên bố như thế, nhưng không khó gì mà không suy ra được là Người nhận mình là “Mêsia”, là Đấng Thiên Chúa sai đến. Thật ra nếu Đức Giêsu là Mêsia theo kiểu quân sự chính trị mà dân chúng đang chờ mong thi không sao; đàng này Người lại là Mêsia kết án giới chức và các vị thầy chính thức của Do Thái giáo. Họ không chống Đấng Mêsia, nhưng Đấng Mêsia không theo hứơng của các vị thầy Do Thái đã xác định.
Một lần nữa, tác giả nhắc đến “các thượng tế”, tức nhóm nổi bật trong Thượng Hội Đồng và “toàn thể Thượng Hội Đồng” (c. 59). Vậy Hội Đồng tối cao, thời ấy đã có 71 thành viên, đã nhóm họp chính thức. Ngay từ đầu, họ đã tìm những chứng gian để chống Đức Giêsu. Họ không tìm một cuộc xử công minh, nhưng chỉ nhắm đạt cho được cái chết của Đức Giêsu như họ đã dự tính (x. 26,4).
Thượng tế đã nhắc lại dưới dạng câu hỏi lời tuyên xưng của Phêrô tại Xêdarê: “Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” Đây là đỉnh cao hoặc tổng hợp của Kitô học Mt, được đặt vào miệng của vị quan tòa để nêu bật sự mù quáng chủ ý, tội lỗi của ông và của dân ông. Tác giả Ga cho tổng trấn Rôma tuyên bố về tư cách vua Mêsia của Đức Giêsu cho người Do Thái (x. Ga 19,14), còn tác giả Mt đặt vào miệng uy quyền tôn giáo tối cao của xứ. Dù sao, Đức Giêsu không phải là Mêsia theo kiểu ái quốc như các nhà chức trách và đám đông vẫn chờ đợi, hoặc nhà ảo thuật như Satan gợi ý, nhưng là Con Thiên Chúa, ngoan ngoãn đi theo tiếng nói và các đề nghị của Ngài. Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu còn quan trọng hơn; Người không nhắc lại danh hiệu “Mêsia” hoặc “Con Thiên Chúa”, tuy có chấp nhận cách gián tiếp, nhưng nại đến một danh hiệu khác và những sấm ngôn còn minh nhiên hơn. Người loan báo, như cho các tông đồ trong bài diễn từ cánh chung, một quang cảnh sẽ khẳng định tính khách quan của các danh hiệu được gán cho Người: “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” (Đn 7,13; x. Tv 110,1), tức là chia sẻ quyền lực với Thiên Chúa. Thế là Thượng Hội Đồng nối tiếp vị thượng tế, quyết định về cái chết của Đức Giêsu. Tuy nhiên, bản án của họ chẳng những không chặn đứng được điều Đức Giêsu vừa nói, mà còn mở đường cho nên thành sự. “Từ nay” (ap’arti) là công thức nêu bật một sự đoạn tuyệt với quá khứ và khởi đầu một thời đại mới. Thời đại mới này bắt đầu vào lúc họ tuyên bố cái chết của Đức Giêsu. Kể từ lúc đó, các đối thủ của Đức Giêsu ca bài hát chiến thắng, nhưng Đấng Mêsia cũng bắt đầu khẳng định về bản thân Người cho tới cuộc Quang lâm chung cuộc. * Mt 26,67-68 – Cuộc hành hạ đầu tiên
Cuộc hành hạ sau đó rất có thể là ở trong sân dinh thượng tế. Trò chế nhạo họ bày ra là một trò chơi của trẻ em. Họ bịt mắt tù nhân, đang rồi bảo đoán xem ai đã đánh mình. Ở đây hẳn còn có một lý do khác để họ chơi trò này: Đức Giêsu đã nhận và bị kết tội là “ngôn sứ”. Đức Giêsu đã chấp nhận chương trình của Người tôi tớ, các sỉ nhục và chế nhạo, với ý thức và với nghị lực. Sứ mạng của vị ngôn sứ quả thật không dễ. * Mt 26,69-75 – Phêrô chối Đức Giêsu
Đoạn này được liên kết với cc. 58-59: “Ông Phêrô ... vào bên trong ngồi”. Cũng giống trường hợp cc. 36-46, đoạn văn này gồm ba phần. Giữa một câu giới thiệu ngắn (c. 69a) và một kết luận nặng nề (cc. 74b-75), có ba lời chối (cc. 69b-70.71-72.73-74a). Các nơi chốn thay đổi. Các nhân vật cũng thay đổi. Tầm mức của hành vi cũng thay đổi.
Tác giả cắt ngang truyện Đức Giêsu để bắt đầu một phân đoạn mới. Phêrô đã được nhắc đến ở c. 58, nay trở thành tâm điểm của sự chú ý. Trong cuộc xử án, ông ngồi “ở bên ngoài” trong “dinh/tòa” (aulê); độc giả dễ dàng nghĩ rằng đây là sân ngoài phòng xử. Một người đầy tớ gái vô danh (paidiskê) đến nói với ông rằng ông đã “ở với” ông Giêsu, người Galilê. “Với Đức Giêsu” là từ chìa khóa của toàn chương 26, vì trong đó, đề tài là việc “ở với Đức Giêsu” của các môn đệ. Khi nào tác giả nói đến việc các môn đệ “ở với” Đức Giêsu, là nhắm tới sự suy sụp của các ông (26,23.38.40.51); còn khi nói tới việc Đức Giêsu “ở với” các môn đệ, tác giả muốn nói đến sự trung tín của Người (26,18.20.36; x. c. 29).
Phêrô phản ứng mạnh mẽ và chối mọi sự. Ông không muốn biết đến những gì người tớ gái vừa nói. “Trước mặt mọi người, emprosthen pantôn” cho hiểu rằng một đàng lời trò chuyện là công khai, một đàng nhắc tới 10,33: “Ai chối (arnêsetai) Thầy trước mặt (emprosthen) thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Đây là một lời nhắc nhở rất nặng cho độc giả, vì gợi đến cuộc phán xét chung. So với Đức Giêsu đang ở trước tòa án thượng tế, Người không chối, Người nhìn nhận, ta thấy hoàn cảnh của Phêrô tương đối ít nguy hiểm hơn, vì chỉ là một người đầy tớ gái nói.
Ông đi ra ngoài thêm một chút nữa, “ông đi ra đến cổng” (c. 71). Lại một người tớ gái khác thấy ông, thì lưu ý những người ở đó hầu như cũng bằng những lời như trước: “Bác này cũng đã ở với ông Giêsu người Nadarét đấy”. Vùng địa lý đã thu hẹp lại, vì không còn là “miền Galilê”, nhưng là “thôn làng Nadarét”. Có vẻ như vòng vây siết chặt hơn, làm rõ gương mặt của Phêrô hơn. Ông càng sợ. Ông chối Đức Giêsu lần thứ hai bằng những lời mạnh mẽ: “Tôi không biết người ấy” (c. 72). Ông tránh nhắc đến cả tên Đức Giêsu, mà gọi bằng kiểu bất kính “người ấy” (anthrôpos). Lời này lại khiến độc giả nhớ đến các bản văn nói về phán xét cuối cùng. Vào ngày phán xét, Con Người sẽ nói “Ta không biết các ngươi” với những ai không sẵn sàng cho Người (25,12; x. 7,23). Phêrô hỗ trợ lời chối bằng một lời thề. Thế là ông đã có bạn đường là vua Hêrôđê Antipa, vị này đã dính líu vào vụ giết Gioan Tẩy Giả do một lời thề với một cô gái (14,7), và một bạn đường khác là vị thượng tế, vị này vừa thề với Đức Giêsu (26,63); nhưng ông không là bạn đường của Đức Giêsu, Đấng đã cấm các môn đệ thề vì bất cứ lý do gì (5,33-37).
Đến lúc này Phêrô đã được mọi người ở đó chú ý đến, thế mà ông lại đang tìm mọi cách để rút lui cho thoát chuyện này. Những người ở chung quanh đến gần ông và xác nhận những gì người tớ gái vừa nói: “Đúng là bác cũng thuộc bọn họ” (c. 73). Bây giờ vòng tròn đã siết lại chỉ còn là “bọn họ/những người ấy”, tức là các môn đệ của Đức Giêsu, đồng bạn của Phêrô thôi. Những người này nêu lý do: chính giọng nói đã tố giác ông. Đó là vì giọng Aram thuộc miền Galilê của Phêrô (x. c. 70) khác với giọng nói ở Giêrusalem. Đến đây, Phêrô hoàn toàn hốt hoảng. Ông bắt đầu rủa và thề (= thề độc). Từ “rủa” (katathematizô) xuất hiện trong Mt ở đây như là lần đầu tiên trong nền văn chương cổ. Động từ này dẫn xuất từ danh từ katathema (= anathema). Tiếp đầu ngữ kata nhằm nhấn mạnh. Tuy là động từ ngoại động (transitive), ta không thấy túc từ. Phải chăng Phêrô rủa mình là nếu ông không nói thật thì sẽ gặp tai họa? Hay là ông rủa những ai đang đứng đó? Thật ra đối tượng là chính Đức Giêsu (“người ấy”).
Thình lình gà gáy (c. 74b). Thế là Phêrô nhớ lại lời tiên báo của Đức Giêsu (c. 35), mà ông đã ra sức bác bỏ. Lời tiên báo ấy đã được ứng nghiệm từng chữ. Bây giờ ông đi vào con đường còn tối; ông tránh được những người hỏi phiên phức, nhưng ông khóc nức nở vì hối hận. Dù ông không được nhắc tên nữa, ta biết ông sẽ được tha thứ, vì đã có mặt tại ngọn núi Galilê (28,16-20).
Phêrô là diển hình cho người Kitô hữu có “đức tin yếu kém”, vì pha trộn sự tin tưởng với sợ hãi (14,28-31), đức tin với phi bác (16,16-20), bội giáo và hối hận. Dù sao quyền năng của Đấng Emmanuel, Đức Giêsu Kitô, mạnh hơn sự sa sút đen tối nhất của người môn đệ. Việc Phêrô chối điều trung tâm nhất của đức tin, “ở với Đức Giêsu”, là rất nặng. Tuy nhiên, Đức Kitô là Đấng trung tín và mạnh thế hơn. Do đó, cuối cùng, câu truyện Phêrô lại trở thành một câu truyện về niềm hy vọng. * Mt 27,1-2 – Đức Giêsu bị nộp cho ông Philatô
Thật ra Giêrusalem không phải là một thành “tự do”; đặc biệt về vấn đề tư pháp, người Do Thái lệ thuộc pháp chế Rôma. Các thành viên Thượng Hội Đồng Do Thái muốn chấm dứt nhanh vụ việc Giêsu, thì cũng nhất thiết phải tủi nhục đệ trình vấn đề lên tổng trấn Rôma, Philatô, nổi tiếng cứng rắn và bài Do Thái. Thế là trời vừa sáng, tất cả các đối thủ quen thuộc của Đức Giêsu trói Người lại và điệu đến dinh tổng trấn. Mới là thẩm phán, bây giờ họ lại đóng vai người tố cáo và làm chứng. * Mt 27,3-10 – Giuđa không trả tiền lại được và tự tử
Tới đây chúng ta nghe tường thuật về Giuđa. Câu truyện Phêrô có liên hệ với truyện Giuđa, vì đây là hai môn đệ duy nhất đã theo Đức Giêsu vào cuộc Thương Khó của Người, nhưng lại không cung cấp được một quang cảnh xứng với ơn gọi của họ. Giuđa đã nhận ra sự sai lầm của mình, hẳn là vì điều ông nhắm trước tiên không phải là đưa Thầy đến chỗ bị kết án. Tuy nhiên, sai lầm của ông là không đi thú nhận điều này với đúng những người ông phải đến gặp. Ông nghĩ rằng ông đã lý một hợp đồng sai trái, nên trả tiền lại để rút lại hợp đồng. Và y như thể hành vi trả lại tiền không nói lên hết, ông tự kết tội mình (“tôi đã phạm tội”, [h]êmarton) và minh oan cho Đức Giêsu (“oan”, “vô tội”, athôon) (27,4). Lý luận của ông đúng, nhưng thiếu cơ sở hoặc ngây ngô. Cac thủ lãnh đã có một kế hoạch rõ ràng, chứ không phải chỉ bị động theo sự phản bội của ông, do đó ông có làm gì cũng không kéo lui được sự việc. Hẳn là Giuđa đã tưởng mình làm một nhân vật chìa khóa trong tấn bi kịch Đấng Mêsia, nay khám phá ra là mình chỉ là một dụng cụ tùy thời. Thế là ông nổi giận, căm tức, nổi điên (ném bạc vào Đền Thờ) và cuối cùng tuyệt vọng để đi đến chỗ tự tử. * Mt 27,11-26 – Đức Giêsu bị kết án; dân Do thái lãnh trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu
Bản văn này có ba phân đoạn:
a) Các câu 11-14: Đức Giêsu bị hỏi cung bỡi Philatô, nhân vật chính. Vấn đề duy nhất: Đức Giêsu có phải là “Vua dân Do Thái” không. Câu 12 nói đến vai trò năng động của các nhà lãnh đạo Do Thái nhằm kết tội Đức Giêsu, nhưng Philatô không bao giờ ngỏ lời trực tiếp với họ cả. Tuy nhiên, lại chính là những gương mặt phụ thuộc này đã tạo ra sự chuyển biến các các biến cố.
b) Các câu 15-23: Philatô vẫn là diễn viên có quyền tối thượng, còn Đức Giêsu không còn vai trò tích cực nào nữa. Bây giờ chính đám đông đối thoại với Philatô. Câu hỏi quyết định là: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây?” (c. 17; x. c. 21). Thế rồi các dung mạo phụ thuộc là các nhà lãnh đạo Do Thái (c. 18), vợ quan Philatô (c. 19) lại xuất hiện để tác động lên Philatô. Đến c. 20, các nhà lãnh đạo trở thành chủ động, gây ảnh hưởng dứt điểm lên dân chúng. Đến khi tổng trấn hỏi là phải đối cử với Đức Giêsu thế nào, chính dân chúng trả lời ông hai lần: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (cc. 22-23: staurôthêtô).
c) Các câu 24-26: cao điểm và kết luận. C. 24 và c. 25 như là một bức tranh bộ đôi. Philatô phủ nhận mọi trách nhiềuệm, còn dân chúng nhận lấy mọi trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Cuối cùng Philatô đã chiều theo ý họ.
Bản văn này nhắc nhớ tới cuộc xử trước Thượng Hội Đồng ở 26,59-66. Vị thẩm phán hỏi về lý lịch của Đức Giêsu (26,63; 27,22), và Người khẳng định cách gián tiếp (26,24; 27,11) hoặc im lặng (26,62-63; 27,12-13) dù người ta tố cáo thế nào (26,62; 27,13). Cả hai phiên tòa kết thúc bằng lời tuyên bố có tội và cuộc hành hạ (26,67-68; 27,26-31). Mt 27,24-25 không những nhắc đến 27,4, mà cả 23,35-36.
Bản văn này còn gợi đến phần đầu của TM Mt (ch. 2). Cả hai nơi đều nói đến “Vua dân Do Thái” (2,2; 27,11). Tại cả hai nơi, chính là dân ngoại (các hiền sĩ và vợ Philatô) đã nhờ một giấc mộng mà tuyên bố về sự thật. Tại cả hai nơi, “cả thành Giêrusalem” cùng với “các thượng tế và các kinh sư trong dân” (x. 2,3-4). Ở đầu, Đức Giêsu thoát nạn, còn các anh hài Bêlem bị giết thế vào chỗ của Người (2,16-18). Còn ở đây, Đức Giêsu không thoát được nữa. Chu kỳ truyện Đức Giêsu đã khép kín.
Đức Giêsu bị điệu đến tòa tổng trấn. Tức khắc quan Philatô hỏi Người có phải là “Vua dân Do Thái” không (c. 11). Câu này sẽ có thể đưa đến chỗ bị kết án là phạm thượng đối vối hoàng đế Rôma. Thế nhưng quan đã không kết án gì cả. Đức Giêsu trả lời như ở 26,64: “Chính ngài nói đó”. Câu trả lời này vừa là một khẳng định vừa là một cách giữ khoảng cách với Philatô: nếu câu hỏi của quan có màu sắc chính trị, thì câu trả lời của Đức Giêsu là một câu phủ định. Đến đây, tác giả nhắc qua các kỳ mục và thượng tế, và ghi nhận Đức Giêsu không trả lời họ khiến ta nhờ lại 26,62-63. Sự thinh lặng của Người là sự thinh lặng của người công chính bị kết tội, hoặc của Người Tôi Trung của Đức Chúa (x. Tv 38,14-15; 39,10; Is 53,7).
Câu hỏi của ông Philatô: “Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?” nêu bật sự thinh lặng của Đức Giêsu, một sự thinh lặng lạ lùng của một người rõ ràng không hề bận tâm đến việc cứu lấy mạng sống mình trước mặt quan tòa. Thái độ này khiến ông “ngạc nhiên” (thaumazein), một phản ứng tích cực. Dù sao, Philatô biết rõ rằng sự thinh lặng của Đức Giêsu không hề có nghĩa là Người nhận tội và như thế, Người không phải là một tên nổi loạn làm chính trị.
Đến đây tổng trấn vận dụng một tập tục: cho phép dân chúng xin tha một tù nhân. Lúc đó, có một người tù “khét tiếng” (episêmos, “biết rõ, trổi vượt, nổi tiếng”) là Barabbas (có nghĩa là “con của Abba”). Philatô cũng không nói với các kỳ mục và thượng tế. Ông cũng không cho dân chúng chọn bất cứ tù nhân nào, mà yêu cầu họ chọn ngay một trong hai người này: “Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?” (27,17). Philatô đã tinh tế sắp xếp như thế, vì ông biết giới lãnh đạo đã nộp Đức Giêsu chỉ vì ghen tị (27,18; x. 9,33-34; 12,23-24; 21,15-16): đoàn dân đã từng hoan hô Đức Giêsu khi Người vào Thành thánh (21,9), một đoàn dân mà giới lãnh đạo sợ họ phản đối (26,5), sẽ có cơ may bảo vệ Đức Giêsu.
Ông đang ngồi xử án thì vợ ông cho người đến nói về giấc chiêm bao và xin ông đừng nhúng tay vào vụ này (x. các giấc chiêm bao: Mt 1,20; 2,12-13.19.22). Cũng như ở 2,1-12 và 15,21-28, một người ngoại lại thấy rõ trong khi một vị vua Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thì bị mù. Bà vợ Philatô can thiệp như là chứng nhân thứ hai về sự vô tội của Đức Giêsu. Chứng nhân thứ nhất là Giuđa (27,4). Tuy nhiên, tin nhắn của bà đã không thể xoay chuyển dòng trôi của các biến cố. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Do Thái ra sức xúi giục đám đông đòi tha Baraba và xử tử Đức Giêsu.
Sau những thông tin đó, Philatô lại xuất hiện với câu hỏi ở c. 17. Lần này ông nhận được câu trả lời rõ ràng: Baraba phải được phóng thích. Tổng trấn hỏi, đám đông quyết định. Giới lãnh đạo Do Thái không cần xuất hiện nữa. Philatô hỏi tiếp: “Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?” Đám đông trả lời: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (cc. 21-22). “Tất cả” (mọi người, c. 22) đều trả lời; tiếng “không” của dân chúng dành cho Đấng Mêsia thật rõ ràng. “Tất cả/mọi người” (pantas, c. 22) đi trước “toàn dân” (pas [h]ô laos) ở c. 25. Một lần nữa, Philatô lại nêu vấn nạn, bởi vì Đức Giêsu không làm điều gì gian ác cả (c. 23). Như thế, ông đồng ý với ý kiến của vợ. Tuy nhiên, ông đã không dùng quyền imperium để bảo vệ người vô tội. Ông đã tính toán sai và tự rơi vào bẫy. Bởi vì dân chúng muốn ông thả Baraba, ông nghĩ là ông phải kết án Đức Giêsu. Dĩ nhiên, ông đâu có bị chèn ép thật sự. Ông không hề hỏi dân chúng là ông phải làm gì với Đức Giêsu. Không một ai có thể ngăn cản ông, là tổng trấn Rôma, thả cả người tù thứ hai, mà ông tin là vô tội. Nhưng ông đã không làm việc này. Bài tường thuật được kết cấu theo cách khiến độc giả không tức khắc nhận ra là Philatô lúc này không bị buộc phải hành động như ông đang làm. Thay vì thế, độc giả lại có cảm tưởng là Philatô xoay chuyển quyết định sang cho dân chúng và bây giờ ông phải làm điều họ muốn. Và điều dân chúng muốn cũng quá rõ: “Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá !"” (c. 23). Vị toàn quyền tên là Philatô, mà tác giả Mt cố ý gọi là “tổng trấn” (hêgemôn), nay trở thành đấu thủ “dự bị”.
Philatô thấy rằng không thể thay đổi ý muốn của dân chúng; giống như các nhà lãnh đạo Do Thái, ông muốn tránh một vụ ồn ào. Ông lấy nước rửa tay trước mặt mọi người. Đây không phải là nghi thức thanh tẩy một người có tội, mà là nghi thức của Kinh Thánh nhằm miễn cho mình khỏi chịu trách nhiệm về việc đổ máu người nào (x. Đnl 21,1-9). Dĩ nhiên ông không nại đến Thiên Chúa; ông chỉ long trọng tuyên bố ông “vô can trong vụ đổ máu” Đức Giêsu.
Chúng ta thấy ở trong Kinh Thánh có những sự cố tương tự: 2 Sm 3,28; Mt 27,4. Với cùng một kiểu diễn tả của các thượng tế (“Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!”; Mt 27,4), Philatô đẩy trách nhiệm đổ máu sang cho dân chúng: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (27,24). Sau Giuđa (c. 4) và vợ ông (c. 19), Philatô là người thứ ba làm chứng rằng Đức Giêsu vô tội, không những cho các nhà lãnh đạo Do Thái và dân chúng, mà còn cho cả độc giả hôm nay nữa. Nhưng như thế Philatô có vô can không? Khi liên kết c. 4 với c. 24 (như kiểu “đóng khung”), tác giả đã đặt Philatô vào cùng một chuỗi với Giuđa và các thượng tế rồi. Ông giống như một người trong họ, cho dù ông cố gắng náu mình đàng sau trò nghi thức rửa tay va tránh đồng lõa trong tội ác đối với Đức Giêsu.
Tác giả ghi nhận toàn dân (laos) đáp lại nghi thức rửa tay của Philatô nhằm tránh trách nhiệm. Chúng ta có thể lấy làm lạ là ở c. 24, tác giả nói đến “đám đông” (ochlos), còn ở đây là “dân” (laos). Trong Bản LXX cũng như trong Mt, laos có nghĩa là “dân Thiên Chúa, Israel”, còn ochlos là một đám người đông đảo. Có những tác giả cho rằng laos tương đương với ochlos. Có những tác giả khác thì bảo rằng toàn thể dân Thiên Chúa chọn hôm ấy đã sát cánh với giới lãnh đạo để nói “không” với Đức Giêsu. Hẳn là tác giả Mt không có ý nói là toàn dân Thiên Cúa, tức từng cá nhân người Israel, vào ngày hôm đó đã kết án Đức Giêsu. Nhưng ngài muốn gợi ý là hoạt cảnh này phác ra những gì sẽ trở nên rất rõ sau Phục Sinh: tiếng “không” của “toàn thể” dân Israel.
Vậy, ngược lại với Philatô, dân chúng lãnh lấy trách nhiệm giết Đức Giêsu. Họ cũng dùng những lời có âm vang Kinh Thánh: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (x. công thức: St 31,16; Xh 17,3; nội dung: 2 Sm 3,28-29; 1 V 2,32-33). Họ đã chấp nhận trách nhiệm dối với cái chết của Đức Giêsu và cả hình phạt của Thiên Chúa sẽ xảy ra khi thành Giêrusalem bị tàn phá.
Philatô đã làm những gì dân chúng yêu cầu. Ông phóng thích Baraba và cho đánh đòn Đức Giêsu, như bước đầu của án tử hình. Không thấy có việc tuyên án. Không phải là luật không buộc làm. Không phải là tác giả Mt lờ đi để khỏi gán cho Philatô cái tội tày trời. Chỉ là vì bây giờ vị tổng trấn chỉ còn là một cái “bung xung”, chỉ biết làm những gì dân chúng yêu cầu. Ông “trao” (động từ paradidômi xuất hiện lần cuối cùng trong Mt) Đức Giêsu vào chặng cuối, đóng đinh vào thập giá. * Mt 27,27-31 – Đức Giêsu bị đánh đòn và chế nhạo Đoạn văn này có cấu trúc đồng tâm như sau: 27 Trong dinh, lính tập trung (synêgagon) cả cơ đội lại quanh Đức Giêsu. 28 Chúng lột áo Người ra (ekdysantes), khoác cho Người một tấm áo choàng (chlamys).
29a Đặt một vương miện gai trên đầu (epi tês kephalês) và trao cho một cây sậy (kalamos). 29b Chế nhạo (enepaixan) Đức Giêsu và tôn vinh Đức Vua dân Do Thái (basileus tôn Ioudaiôn). 30 Lấy cây sậy (kalamos) mà đập vào đầu Người (eis tên kephalên). 31a Sau khi chế giễu (hote enepaixan), chúng lột (exedysan) áo choàng (chlamys), và cho Người mặc áo lại. 31b Điệu (apêgagon) Người đi đóng đinh.
Trung tâm của bản văn là cuộc tôn vinh nhằm chế nhạo “Đức Vua dân Do Thái”. Những người duy nhất làm một chuyện gì đó trong toàn bản văn là những người lính. Tên mà họ gọi Đức Giêsu (“Vua dân Do Thái”) tương ứng với lời kết án của Philatô (27,11) cũng như cảnh chế nhạo sau phiên xử trước Thượng Hội Đồng với tên gọi “Kitô” tương ứng với câu hỏi của thượng tế (26,68; x. c. 63). Hai cảnh chế nhạo liên hệ với nhau bằng việc khạc nhổ (26,67; 27.30).
Lính tráng của Philatô chịu trách nhiệm về Đức Giêsu. Họ đưa Người “vào trong dinh (praitôrion)”, có lẽ là vào sân trong của dinh Hêrôđê. Hẳn là tác giả phóng đại khi nói tập trung cả “cơ đội” (speira) lại, bởi vì một speira là một phần mười một binh đoàn (legion), tức khoảng 500-600 người. Họ chế nhạo và hành hạ Đức Giêsu. Trước hết, họ lột áo và trao cho Người ba vật mô phỏng các biểu hiệu của một vị vua Cận Đông: áo choàng (chlamys) đỏ tươi thay vì hoàng bào màu đỏ tía, một vương miện bằng gai thay vì một vương miện vòng nguyệt quế bằng vàng, và một cây sậy làm gậy thay vì một vương trượng bằng gỗ hay vàng. Sau đó, họ quỳ gối chúc tụng chế nhạo vị vua ăn mặc như thế. Từ ngữ “chế nhạo” được dùng ở đây (c. 19b), ở cc. 31 và 41; ở 20,19, khi tiên báo về cuộc Thương Khó, Đức Giêsu cũng đã báo trước rằng Người sẽ bị nhạo báng: Người là vị vua bị khinh miệt thậm tệ.
Các biểu hiệu vương quyền có thể được dùng theo những mục đích khác. Ở c. 30, lính tráng khạc nhổ vào Người, như các nhà lãnh đạo Do Thái đã làm ở 26,67. Như thế, cả người Do Thái lẫn Dân Ngoại đều tích cực và độc ác tham gia vào việc hành hạ và giết Đức Giêsu. Rồi lính lấy cây gậy liên tục đập (vì thế tác giả dùng etypton, thì vị hoàn của động từ typtô, “đập”) lên đầu Người. Người bị đau nhiều, vì trên đầu có vòng gai.
Trò nhạo báng thô bạo đã chấm dứt. Đức Giêsu phải trả áo choàng lại, và nhận lại áo của Người. Con đường lên Đồi Sọ bắt đầu.
Toàn cảnh vừa rồi được bao trùm trong sự mỉa mai. Vua Giêsu mặc bộ áo của thằng khùng và bị biến thành trò hề lố bịch. Khác với TM Mc, Mt cho thấy cuộc “tôn vinh báng bổ” chưa phải là kết thúc. Thái độ phục tùng giả dối ở c. 29b tràn ra thành bạo lực ở c. 30, còn “vương trượng” biến thành cây gậy để đánh đập. Độc giả “sống” cảnh này thế nào? Phải chăng vương quyền của Con Thiên Chúa vẫn sáng chói ở đây như ở 26,64? Hoặc đã đến lúc vương quyền ấy bị che phủ hoàn toàn? * Mt 27,32-38 – Đường thập giá và đóng đinh
Các bản văn nói về các chặng đường đi lên Đồi Sọ rất vắn tắt, chứ không chi tiết như Đàng Thánh Giá. Chúng ta chỉ có giai thoại ông Simôn và các phụ nữ Giêrusalem khóc than.
“Đang đi ra” (c. 32). Chúng ta hiểu là đi ra ngoài thành, chứ không phải ra khỏi dinh, bởi vì các cuộc hành hình thường được thực hiện ở bên ngoài thành. Tác giả không nói rõ là Đức Giêsu vác cả cây thập giá, hay là chỉ vác thanh ngang. Đến mỗ nào đó, họ “gặp một người Kyrênê, tên là Simôn”, tình cờ. Hẳn ông là một người Do Thái, quê Kyrênê là thành có một phần tư dân cư là Do Thái. Bọn lính bắt vác thập giá của Đức Giêsu hẳn là vì Người đã kiệt sức. Không biết ông Simôn có sẵn sàng vác thập giá chăng, và hẳn đây là thanh ngang. Các độc giả có thể nhớ đến lời Đức Giêsu ở 16,24: ai muốn làm môn đệ Người, “hãy vác thập giá mình mà theo”. Thế nhưng có những chi tiết không đi với nhau: ở đây là thập giá của Đức Giêsu, còn ở kia là chính thập giá của người môn đệ. Ở đây ông Simôn bị ép vác thập giá, còn ở kia là đời môn đệ tự do chọn lấy.
Khi đến Gôngôtha, tiếng A-ram có nghĩa là “Đồi Sọ”, họ cho Đức Giêsu “uống rượu pha mật đắng” (c. 34). Mc nói đến thứ rượu có những chất làm giảm đau; Mt thì nghĩ đến Tv 68 LXX: Đức Giêsu hoàn tất Thánh vịnh này khi bị hành hạ, bị chế nhạo và phải uống rượu đắng.
Cuộc đóng đinh của Đức Giêsu được nhắc đến vắn tắt, không hề nhắc đến những chi tiết thê thảm độc dữ. Tác giả quan tâm đến việc quân lính chia nhau áo xống của Người, vỉ khiến ngài nhớ đến Tv 21,19 LXX (rõ hơn cả trong Mc 15,24). Mục đích của ngài ở đây cũng như ở những chỗ khác khi ngài nhắc đến Tv 22 (LXX 21) là cho thấy rằng những đau khổ của Đức Giêsu đều đã được tiên báo trong Kinh Thánh, được Lời Thiên Chúa yểm trợ. Bản án được treo trên thập giá khiến độc giả nhớ lại câu hỏi của Philatô (27,11) và trò chế nhạo của bọn lính (27,29), và biết rằng đây là chuyện của người Rôma. Họ vẫn biết vương quyền thật sự của Đức Giêsu nằm ở đâu (x. 2,1-12) dù Người đã vào thành Giêrusalem như một vị vua nghèo hèn (basileus prays) theo Dacaria (21,5), để rồi ngày nào đó sẽ xét xử muôn dân (Mt 25,34.40).
Đến đây, “hai tên cướp (lêstai)” được nhắc đến lần đầu tiên, có thể là những tên gian phi, hay là thành viên của Nhóm Nhiệt thành. Đức Giêsu được đóng đinh ở giữa, hẳn đây là một ám chỉ kín đáo đến vương quyền của Người, một ngày kia sẽ ngự tòa với con nhà Dêbêđê bên phải và bên trái (x. 20,21.23). tuy nhiên, hình ảnh “Đức Vua Israel” bị đóng đinh giữa hai tên cướp lại đưa đến một trận chế nhạo khác. * Mt 27,39-44 – Chế nhạo Con Thiên Chúa
Trong khi giai thoại trước tường thuật các biến cố rất ngắn ngủi, bản văn này lại cung cấp nhiều chi tiết. Hai lần chế nhạo đầu (cc. 39-40.41-43) được cấu trúc tương tự. Trước tiên những kẻ chế nhạo được giới thiệu, rồi những điều họ nói được tường thuật. Cả hai lần, Đức Giêsu đều bị thách thức xuống khỏi thập giá (katabêthi [katabatô] apo tou staurou); cả hai lần, Người đều bị chế nhạo như là Con Thiên Chúa; cả hai lần, Người đều bị thách là cứu lấy chính mình (sôzô + đại từ phản thân). Lần chế nhạo này nhắc đến lý do khiến Đức Giêsu bị tòa án Do Thái xét xử (x. c. 40: 26,61.63). Lần chế nhạo thứ hai, dài hơn, do các nhà lãnh đạo Do Thái, thì có khoảng cách: họ không trực tiếp nói với Người. Ở c. 43, khi chế nhạo Đức Giêsu, chính các nhà lãnh đạo đã dùng Tv 21,9 LXX để nói ra những gì tác giả muốn nói với các độc giả. Lần chế nhạo thứ hai nêu lý do của phiên tòa Rôma (x. c. 42: 27,11). Về lần chế nhạo thứ ba, do những tên cướp cùng bị đóng đinh, chúng ta không có chi tiết nào.
“Kẻ qua người lại đều nhục mạ (eblasphêmoun) Người và lắc đầu” (c. 39). Blasphêmein có thể là “nói phạm thượng” hay là “nói điều xấu về”. Tuy nhiên, từ ngữ này khiến nhớ lại cuộc xử trước Thượng Hội Đồng: tại đấy, Con Thiên Chúa và vị Thẩm Phán thế giới là Đức Giêsu bị kết tội nói phạm thượng (eblasphêmêsen; 26,65). Và giờ đây các đối thủ đang “nói phạm thượng” đến Người! Trong Kinh Thánh, “lắc đầu” là cử chỉ tiêu biểu của việc “làm trò cười” Có nhiều bản văn nói tới cử chỉ này (x. Ac 2,15; Is 37,22; Tv 109,25), nhưng rõ ràng tác giả khai thác đặc biệt Tv 21 LXX (Tv 21,8; x. 21,7 LXX: oneidos [c. 44]; 21,9.22 LXX: sôzô [cc. 40-41]; 21,9.21 LXX: ryomai [c. 43]).
Họ nhắc lại nhưng phóng đại lời Đức Giêsu nói về Đền Thờ (x. 26,61) và chế nhạo Người đã tự cho mình là Con Thiên Chúa (x. 26,63-64). Vì Người đã cho rằng Người có quyền lực lớn lao, thì hãy xuống khỏi thập giá. Chắc chắn Người có thể xin Cha Người phái mười hai cơ binh thiên thần, có thể phá hủy và xây lại Đền Thờ (26,53.61), thì cũng có thể xuống khỏi thập giá, nhưng Người đã dạy môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất” (16,25). Nếu bây giời Người không xuống khỏi thập giá, thì Người qua được trắc nghiệm của giáo huấn Người. Độc giả cũng không thể không nhớ lại lời của Satan ở đầu Tin Mừng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa...” (4,3.6). Truyện phép rửa và cám dỗ (3,17; 4,3.6) và 27,40.43.54 là một đóng khung. Như thế đến cuối hành trình của Người, những đối thủ Do Thái của Người đã nhận lấy vai trò của Satan, và thế là Đức Giêsu lại trải nghiệm cuộc cám dỗ cuối cùng của Satan. Người đã chống lại được và đã chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa. Người là Đấng ngay khi phải chết vẫn vâng theo ý muốn của Thiên Chúa và thay vì tự cứu lấy mình thì để mặc việc ấy vào tay Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu chịu đóng đinh không cần trả lời các chế nhạo của các đối thủ.
Pha chế nhạo thứ hai dài nhất và quan trọng nhất. Bây giờ các nhà lãnh đạo Do Thái (thượng tế, kinh sư, kỳ mục) lại xuất hiện để tấn công Đức Giêsu lần cuối trước khi Người tắt thở. Cũng như trong lần tiên báo đầu tiên về Thương Khó (16,21), ba nhóm này đều được nhắc tới, họ chế nhạo một cách tinh vi. Họ không nói trực tiếp với Đức Giêsu, cũng không nói với nhau như trong Mc (15,21); họ nói công khai, với mọi người, và trên hết, nói với các độc giả: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Quả thật, Đức Giêsu đã cứu nhiều người (x. 8,25; 9,27; 14,30). Những phép lạ chữa lành đủ loại cho hiểu rằng Người mới là Đấng sẽ “cứu thoát” Israel (1,21). Thế rồi chẳng phải do đức tin, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã tuyên xưng Đức Giêsu là “Vua Israel”, theo Philatô (27,11) và theo bản án trên thập giá (27,37). Rõ ràng họ bắt tay với người Rôma để tiêu diệt Đức Giêsu.
Họ tiếp tục dùng lời lẽ của quân vô đạo mà chế diễu Đức Giêsu (c. 43; x. Tv 21,9 LXX). Lời lẽ của họ bây giờ còn gian xảo hơn c. 42, vì họ nói cả về Thiên Chúa: “Hắn cậy vào Thiên Chúa”. Họ càng chứng tỏ họ có đầu óc vô đạo khi nhắc lại lời Đức Giêsu khẳng định Người là “Con Thiên Chúa”. Câu Kn 2,18 rất giống với Mt 27,43. Hẳn tác giả Mt có nghĩ tới Kn 2,5 nói về người công chính là con Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” theo một nghĩa hoàn toàn khác (x. 3,17; 11,27; 14,33; x. 16,16; 17,5).
Tác giả TM chỉ nhắc đến pha chế nhạo thứ ba, vì cũng một nội dung như thế. Cả những tên cướp cũng chế nhạo Người. Không hề có tình liên đới nào trong đau khổ (khác Lc 23,40-43). Trong cuộc cám dỗ cuối cùng, Đức Giêsu hoàn toàn cô đơn. Không có một ai trong dân Israel đứng về phía Người. * Mt 27,45-50 – Đức Giêsu từ trần
Câu 45 là mở đầu cho biến cố trung tâm, cái chết của Đức Giêsu. Bóng tối bao phủ mắt đất trong vòng ba giờ. Sau đó, Đức Giêsu kêu lẩn thứ nhất ở c. 46, lần thứ hai ở c. 50, cả hai lần đều “lớn tiếng” (phônê megalê), rồi tắt thở liền. Trong cc. 47-49, giữa hai tiếng kêu lớn, tác giả cho thấy dân chúng đứng đó không hiểu, lại còn chế nhạo nữa, chi tiết này được đóng khung bởi các quy chiếu về Êlia (cc. 47.49). Lần cho uống thứ hai là trung tâm (c. 48). Sôsôn (“cứu”; c. 49) là phân từ tương lai duy nhất trong Mt, nhằm nhắc lại các lời chế nhạo ở cc. 40-42.
Tác giả không giải thích “ý nghĩa” của giờ thứ sáu, tức giữa trưa, hay của hiện tượng bóng tối bao trùm cả mặt đất trong vòng ba giờ, như Lc 23,45. Dù sao, bóng tối vào lúc này không phải là một hiện tượng thiên nhiên, mà là do Thiên Chúa can thiệp. “Đất” (gê) theo cách dùng của Mt có nghĩa là “trái đất”; nếu ngài muốn nêu ý nghĩa “vùng, miền” (= Giuđê), thì ngài sẽ kết nối thêm một thuộc tính (x. 2,6.20-21; 4,15; 9,26.31; 10,15; 11,24; trừ 5,5; 23,35).
Cùng với thánh Anbéctô Cả, nhiều học giả hiểu “bóng tối” là khởi đầu những việc diệu kỳ Đức Kitô thực hiện trên thập giá. Nếu vậy, “bóng tối” thuộc về chuỗi những việc lạ lùng xảy ra sau khi Đức Giêsu tắt thở (màn trướng Đền Thờ xé đôi, động đất, người chết sống lại, và cả tiếng kêu lớn cuối cùng của Người nữa). Tuy nhiên, cách giải thích này không vững, bởi vì ở c. 51, có sự thay đổi giọng văn bằng từ kai idou, “Và này!” hoặc “Thế rồi, đây!”, báo cho biết có điều gì mới đang bắt đầu. Tác giả phân biệt rõ ràng giữa những gì xảy ra trước khi Đức Giêsu tắt thở và những gì xảy ra ngay sau đó. Phải chăng “bóng tối” là một dấu chỉ về nỗi buồn của trời cao (x. Am 5,18; 8,9-10; Ge 2,2; 3,15; Xp 1,15; Is 13,10-11; Gr 15,9)? Hay đây chính là mặt trời che mặt đi vì tủi nhục, không muốn nhìn xem điều đang xảy ra? Cứ đứng tại bình diện tường thuật, có thể giải thích được. Vào giờ thứ sau, trời ra tối tăm. Không có lời giải thích nào cả. Tối tăm toàn diện, không thoát được. Bóng tối bao trùm cả thế giới. Không có chuyện gì xảy ra cả trong vòng ba giờ (có những đoạn song song: Kh 8,1; 2 Edr 7,30-31). Vũ trụ im hơi lặng tiếng. Câu 45 y như thể là một khoảng không. Hẳn là có chuyện kinh thiên động địa sắp xảy ra?
Sau ba giờ, bóng tối kết thúc, còn truyện cái chết của Con Thiên Chúa vẫn tiếp diễn. Vào khoảng giờ thứ chín (= 3g chiều), Đức Giêsu kêu một tiếng lớn. Tác giả không ghi thời gian chính xác; ngài không hề quan tâm đến một thời gian biểu mang tính khải huyền, cũng như đã chẳng ghi lại thời gian đóng đinh, là giờ thứ ba, như Mc 15,25. Chúng ta cũng không được giải thích “tiếng kêu lớn” (phônê megalê), một thuật ngữ của Kinh Thánh (x. St 27,34; 1 Sm 28,12 LXX; Gđt 4,9; 7,23; Is 36,13; Ed 11,13), là Thiên Chúa lên tiếng xét xử hoặc thậm chí tiếng kêu xét xử của vị Thẩm Phán Thế giới, là Con Người. Dựa theo ngữ cảnh, đây là tiếng kêu của một người đang cầu nguyện (x. Tv 17,7 LXX; 21,3.6.24 LXX; 68,4 LXX; Ed 11,13. Anaboaô thường được dùng trong Bản LXX để nói về việc cầu nguyện lớn tiếng). Nội dung của lời cầu nguyện là Tv 22,2, tiếng kêu phó thác của Đức Giêsu.
Câu 46 vẫn gây ra nhiều vấn nạn.: Đức Giêsu bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa hay là diễn tả sự thất vọng? Theo quan điểm thứ nhất, các nhà chú giải cho rằng Tv 22 đưa đến kết thúc là lời ca ngợi ở cc. 23-32. Cứ cho đi là tác giả nghĩ đến toàn thể hay phần lớn Tv 22, các câu trích lại chỉ nói đến hoàn cảnh eo hẹp của Đức Giêsu (Mt 27,35: Tv 22,19; cc. 21-29.39: x. Tv 22,8; c. 43: x. Tv 22,9; c. 46: Tv 22,2), chứ không có chỗ nào trong bản văn gợi ý là phải nghĩ đến Tv 22,23-32. Hơn nữa, c. 46 là đỉnh cao của một chuỗi sự cố: Trước tiên, Đức Giêsu bị các môn đệ (26,56), rồi bị cả Phêrô (26,69-75) bỏ rơi; cuối cùng, Người hoàn toàn cô đơn ở giữa đám kẻ thù, và bây giờ dường như bị cả Thiên Chúa bỏ rơi. Sự tiệm tiến trong tường thuật như thế dường như không cho phép hiểu là Đức Giêsu bày tỏ sự tin tưởng?
Vậy với Tv 22,2, chúng ta nghe ra tiếng than của Đức Giêsu, vì cảm thấy bọ Thiên Chúa bỏ rơi, đang kêu lên với Thiên Chúa của Người bằng những lời lẽ của thánh vịnh. Bóng tối bên trong và bóng tối bên ngoài tương ứng với nhau trong cc. 45-46. Trong tình trạng tối tăm hoàn toàn này, không còn có thể thấy được gì về uy quyền của Đức Giêsu, lúc này ý thức về giờ của Người và về chương trình của Thiên Chúa trong các biến cố (x. 26,2.18.45). Đức Giêsu kêu lên nỗi đau đớn và cảm nhận bị bỏ rơi, Người kêu to, chứ không cam chịu theo ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây, nỗi đau không được thắng vượt hay chấp nhận bên trong; đơn giản, nó đang ở đó, rất đau đớn và tăm tối, y như bóng tối chung quanh Người.
Tuy nhiên, Đức Giêsu không chỉ kêu vào bóng tối vô danh; Người kêu to, hầu như với giọng kết án nữa, với Thiên Chúa. Mặc dù không thấy Thiên Chúa (bóng tối nuốt trửng mọi sự), ở đây không còn có một ai để Người quay về trong tình trạng bị bỏ rơi ngoài Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, Đức Giêsu thưa với Thiên Chúa trực tiếp (ngôi thứ hai). Người không dùng lời lẽ của Người, nhưng ngôn ngữ cầu nguyện có sẵn của Kinh Thánh.
Nội dung lời kêu của Đức Giêsu (“Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”) như thế nào? Từ êli tương ứng với bản văn Híp-ri của Tv 22,2, nhưng nó cũng có thể là kiểu nói Híp-ri trong ngôn ngữ A-ram. Lema thì đúng là từ A-ram (chứ không phải là lama của Mc). Còn sabachthani thì chắc chắn là A-ram. Vậy bản văn Tv 22,2 trong Mt không phải là bản phóng tác từ bản văn Híp-ri, nhưng là bản văn A-ram được chuyển tự đúng đắn. Có thể tác giả Mt đã thay đổi bản văn Mc vì ngài muốn cho thấy rõ làm thế nào người ta lại có thể làm lời cầu nguyện này với lời gọi ông Êlia hoặc bởi vì ngài nghĩ rằng tiếng kêu tương ứng sát hơn với bản văn Tv 22,2 A-ram mà ngài đã quen. Bản văn Hy Lạp lại không hoàn toàn theo bản LXX.
Đức Giêsu không nhận được một câu trả lời nào từ phía Thiên Chúa, nhưng rất có thể Thiên Chúa trả lời qua những người đang đứng đó. Họ ghi nhận rằng thế này: “Hắn ta (houtos, “tên này”, có thể hàm ý khinh bỉ) gọi ông Êlia!”. Rõ ràng họ nghĩ đến Êlia không như một dung mạo cánh chung, nhưng như một đấng trợ giúp trong những hoàn cảnh khó khăn, theo kiểu hiểu đạo đức bình dân. Còn đối với các độc giả đã quen lời Tv, để hiểu được tiếng kêu của Đức Giêsu, đây là một sự bóp méo nhạo báng ác độc. Như thế, Đấng chịu đóng đinh bị nhạo báng lần cuối cùng. Những kẻ nhạo báng này hẳn là người Do Thái chứ không phải là đám lính, vì họ đã quen với nền đạo đức Do Thái bình dân. Rồi, một người đã đi thấm đầy giấm vào miếng bọt biển buộc vào đầu cây sậy mà đưa lên cho Đức Giêsu; nếu người này là lính, hẳn đã dùng mũi giáo mà đâm vào miếng bọt biển cho tiện. Có lẽ nhóm còn lại tiếp tục nhạo báng.
Như thế, khác với Mc, tác giả Mt phân biệt giữa người cho Đức Giêsu thứ gì đó mà uống (c. 48) với những người khác tiếp tục nhạo báng (c. 49). Phải chăng người kia đã làm một việc tốt? Trong Mc, đấy cũng là một cách nhạo báng ác độc. Câu trả lời một phần tuy thuộc cách giải thích động từ aphei, “khoan đã/bỏ đi”, một phần tùy vào cách hiểu oxoi là “giấm/rượu”. Nếu chúng ta hiểu aphei theo nghĩa cổ điển như là một mệnh lệnh cách độc lập (“bỏ đi, dừng lại đi”), thì có vẻ những người chế nhạo khác ở c. 49 muốn cản bạn họ làm một việc tốt. Nếu hiểu động từ này theo nghĩa sau này như là một từ để mời hoặc lưu ý không có nghĩa độc lập (“thế thì..., xem nào...”), thì những người chế nhạo khác đang ủng hộ bạn của họ. Nghĩa sau này có lý hơn vừa do phương diện ngữ học vừa do ý nghĩa thực tế của từ ngữ oxos. Oxoi có thể là một thứ rượu chua rẻ tiền hoặc “giấm”. Nếu có nghĩa là rượu chua, thì việc cho Đức Giêsu uống vừa nhắm giải khát vừa nhắm kéo dài sự sống cho Người. Hợp lý hơn nên cho rằng tác giả muốn nhắc độc giả nhớ đến Tv 68,22 LXX (đã được gợi đến ở c. 34), từ đó ngài rút ra ý là “giấm”. Như vậy, việc đưa giám cho Đức Giêsu uống là đề hành hạ Người, tương tự ở c. 34. Và như vậy, ở c. 49, các đồng bạn của người kia không ngăn cản anh ta làm một việc tốt, nhưng đang hỗ trợ trò nhạo báng của anh ta. Những người này, cũng như những người ở cc. 40.42, chẳng hề nghĩ rằng Êlia thật sự có thể “cứu” được Đức Giêsu.
Như vậy, Đức Giêsu hoàn toàn cô đơn, bị cả Thiên Chúa lẫn loài người bỏ rơi. Không giống như trong Lc và Ga, trong Mt, không có một người tốt lành nào đứng bên thập giá của Người.
Thế là sang c. 50, Người kêu một tiếng lớn thứ hai, rồi “trút linh hồn”. Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là một tiếng kêu không lời và là một tiếng kêu chiến thắng (Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Tôma Aquinô). Trong thực tế, tác giả nhấn trên những điểm khác. Tiếng kêu cuối cùng của Đức Giêsu không hề biện minh cho tư tưởng về phán xét, chiến thắng, thời đại mới đang đến. Người “lại (palin) kêu một tiếng lớn (phônê megalê)” đưa trở lại với c. 46, còn “kêu” (kraxas) nhắc lại Tv 22 (x. Tv 22,3.6 LXX). Như thế, tác giả Mt đã hiểu tiếng kêu cuối cùng của Đức Giêsu rõ ràng như tiếng kêu thứ hai để cầu nguyện, tức không nhất thiết là không lời. Và như thế, tác giả chỉ đơn giản nói rằng Đức Giêsu kêu lên Thiên Chúa một lần nữa, rồi chết. * Mt 27,51-54 – Thiên Chúa trả lời cho các chết của Đức Giêsu
Kai idou, “Và này!” hoặc “Thế rồi, đây!” cho thấy một phần mới được mở ra. Kế đó trong cc. 51-52 với giọng văn hoàn toàn khác hẳn phần trước, một chuỗi biến cố được kể nhanh mà không được giải thích, có năm câu ngắn với chủ ngữ ở đầu và động từ ở thì aorist thái bị động. Chuỗi các biến cố của cc. 51-52 được kết lại ở c. 53 bằng một câu dài hơn chứa hai động từ chính được đưa vào bằng một phân từ. Câu 53 không đưa ra một chủ từ mới, nhưng cung cấp thêm chi tiết, điều này chứng tỏ câu kết này (nói về người chết) là câu quan trọng hơn cả, và năm câu kia dẫn đến kết luận này như tới một cao điểm. Các câu nhỏ được liên kết với nhau bằng những từ móc nối (“rung” [seiô] / “động đất” [seismos], cc. 51.54; “rung, vỡ” [schizô], c. 51 hai lần; “mồ mả”” [mnêmeion], cc. 52-53; “trỗi dậy” [egeirô] / “trỗi dậy” [egersis], cc. 52-53; “nhiều xác/người” [polys], cc. 52-53; “thánh” [hagios], cc. 52-53. Câu 54 có vai trò như một lời hoan hô các phép lạ trước (cc. 51-53). Tham gia vào việc hoan hô này, không chỉ có viên đại đội trưởng, mà còn có những người của ông.
Có những điểm liên kết chặt chẽ bản văn này với truyện Phục Sinh ở 28,1-10, khiến ta hiểu đây là một bản văn báo trước Phục Sinh: “trỗi dậy” (egeirô/egersis) của cc. 52-53 đưa đến 28,6-7; “mồ mả” (mnêmeion) của cc. 52-53 đưa đến 28,8; “rung / động đất” (seiô / seismos) đưa đến 28,2.4; và ngữ căn “sợ: (phob-) ở c. 54 đưa đến 28,4-5.8.10. Bởi vì các biến cố được mô tả ở cc. 51-53 đã xảy đến bất ngờ và bột phát, hợp lý là không có những liên kết với các phân đoạn trước, ngoại trừ đối với những người lính ở c. 54 (x. c. 36).
Các biến cố xảy ra dồn dập. Trước hết, “bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (c. 51). Trong Đền Thờ, không chỉ có một bức màn trướng duy nhất, nhưng ở đây tác giả chỉ nói đến “bức màn trướng” (to katapetasma). Thường ở Đền Thờ, có một tấm màn phân cách Gian Cực Thánh, nơi mà chi thầy thượng tế được vào Ngày Xá Tội, với phần còn lại của Đền Thờ (x. Xh 26,31-35; Lv 16,2) và tấm màn ở cổng chính ngăn cách Sân Israel với tòa nhà Đền Thờ (x. Xh 26,36-37; 38,18). Nếu là tấm màn che Gian Cực Thánh, thì sẽ giải thích theo hướng phụng tự: Gian Cực Thánh lâu nay không ai thấy được, nay mở ra cho mọi người. Nếu là tấm màn ở ngoài, thì sẽ giải thích như là một dấu chỉ về thảm họa đã từng được Đức Giêsu tiên báo (23,37–24,2; x. 26,61; 27,25). Đây là tấm màn duy nhất thấy được và công chúng có thể đến đó mà nhìn thấy những gì đã xảy ra. Lại có những bản văn liên kết cửa chính Đền Thờ với những dấu chỉ vế thảm họa loan báo cuộc tàn phá Đền Thờ. Cả hai tấm màn đều có thể được giải thích theo hai cách trên, bởi vì việc tàn phá Đền Thờ có nghĩa là chấm dứt nền phụng tự.
Đối với các độc giả đã biết lời Đức Giêsu tiên báo về việc tàn phá Đền Thờ (23,38–24,2) và biết rằng Người có quyền phá hủy Đền Thờ và trong ba ngày thì xây lại (26,61), mặc dù Người đã không làm, họ thiên hơn về cách giải thích theo hướng Đền Thờ bị phá hủy. Chính Thiên Chúa đang bắt đầu cho những gì Đức Giêsu tiên báo xảy ra: thái bị động “bị xé ra” (eschisthê, aor. pass. của động từ schizô, “xé ra”) cho hiểu là Thiên Chúa hành động. Tấm màn bị xé rách hoàn toàn, từ trên xuống dưới, thành hai, nên không thể chắp nối lại được: nó bị phá hủy hoàn toàn bởi một sự can thiệp của Thiên Chúa. Cũng có thể quan niệm biến cố này là cách diễn tả một lời than van (x. St 37,29.34; 2 V 2,12): chính Thiên Chúa thương khóc cái chết của Đức Giêsu bằng cách xé “áo” của nhà Người.
“Đất rung đá vỡ” (c. 51b), đây cũng là những thái bị động để nói rằng Thiên Chúa đang hành động: eseisthê, aor. pass. seiô, “rung”; eschisthêsan, aor. pass. schizô. Trong Kinh Thánh, động đất là dịp để Thiên Chúa tỏ mình ra; động đất thuộc về việc Thiên Chúa tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc phán xét chung (x. chẳng hạn Is 5,25; 24,18; Ed 37,7 LXX; Ge 2,10; 3,16; Nk 1,5-6; Kg 2,6; Xp 14,5). Với sự cố màn trường Đền Thờ bị xé toang thành hai, độc giả nghĩ đến một phán xét của Thiên Chúa; với những hiện tượng đất rung đá vỡ, tức một trận động đất siêu nhiên, tư tưởng ấy được đào sâu thêm: chính Thiên Chúa sẽ xuất hiện. Với lại, nếu đá đã vỡ ra trong một trận động đất dữ dội, thì mồ mả phải mở ra, và người chết có thể trỗi dậy (c. 52).
Các hiện tượng ở c. 52 cũng được mô tả bằng thái bị động thay tên Thiên Chúa: aneôchthêsan, aor. pass. anoigô, “mở ra”; êgerthêsan, aor. pass. egeirô, “trỗi dậy”. Chính Thiên Chúa mở các huyệt và cho các thánh trỗi dậy. Theo ngữ cảnh và trong ngôn ngữ Kinh Thánh, “thánh” đồng nghĩa với “công chính”. Từ Aben đến Dacaria (x. 23,35), con số các vị này rất đông. Phải chăng đây là khởi đầu của cuộc phục sinh cánh chung, khi đó mọi người công chính sẽ sống lại? Tuy nhiên, bản văn không nói đến một cuộc phục sinh toàn diện những người công chính, mà là “xác” của “nhiều” vị thánh. Vậy, đây quả là việc Thiên Chúa làm, nhưng không phải là cuộc phục sinh mọi người công chính vào thời cánh chung; cùng lắm, có thể cho rằng đây là dấu chỉ của thời cuối cùng.
Câu 53 xác nhận rằng không nên giải thích việc nhiều xác thánh trỗi dậy theo hướng trực tiếp và một chiều là biến cố khải huyền cánh chung. Bởi vì sau khi sống lại, thay vì được trải nghiệm niềm vui của cuộc sống cuối cùng với Thiên Chúa, các ngài đi vào Giêrusalem, mà đây là là nơi Đức Giêsu Phục sinh không đi vào! Giêrusalem đã từng ném đá và giết các ngôn sứ và những đại diện của Thiên Chúa , nên sắp bị Thiên Chúa trừng phạt (23,37-39). Đối với các độc giả, “thành thánh” (hagia polis) Giêrusalem là thành đã gây ra cái chết cho Đức Giêsu, vì “toàn dân” đã sẵn sàng cho máu của Người đổ xuống trên họ và trên con cháu họ (27,25). Vậy các thánh đã qua đời nay hiện ra tại Giêrusalem và hiện ra với nhiều người là dấu chỉ cho thấy cuộc phán xét của Thiên Chúa sắp xảy ra. Vậy đây là một điềm báo không có gì tốt lành cho dân thành Giêrusalem.
Bây giờ, không những viên sĩ quan ngoại giáo mà cả những người lính dưới quyền ông đã phản ứng như một dàn đồng ca trước trận động đất và những sự cố đi kèm theo. Khác với Mc 15,39, phản ứng của họ không phát xuất từ cái chết của Đức Giêsu mà là từ những gì xảy ra sau cái chết của Người. Dựa vào văn cảnh, có thể nói lời “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (c. 54) đầy ắp ý nghĩa của một lời tuyên xưng đức tin Kitô giáo. Đáng lưu ý là các người lính ngoại giáo phản ứng rất khác với những người Do Thái chế nhạo ở cc. 39-44. Trong khi những kẻ nhạo báng yêu cầu người bị đóng đinh nhận mình là Con Thiên Chúa hãy chứng thực điều đó bằng khả năng quyền lực của chính mình, những người lính ngoại giáo lại dựa trên những gì Thiên Chúa đã làm mà nói rằng Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này chỉ được chứng thực bởi chính Thiên Chúa mà thôi. Dù có bị những kẻ nhạo báng thách thức, Đức Giêsu từ chối bày tỏ bất cứ quyền lực gì, Người chứng thực điều đó chỉ bằng sự vâng phục. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thể mạc khải Đức Giêsu chính là Con của Người, và ở đây là tuyên xưng của những người lính đang đáp lại mạc khải ấy. Việc những người lính ngoại giáo nhắc lại lời tuyên xưng của các môn đệ ở 14,33 và 16,16 cho thấy lệnh truyền của Đức Giêsu đang được thực hiện: Tin Mừng phải đến với muôn dân (28,19-20). Và đây là mặt khác của cuộc phán xét của Thiên Chúa trên Israel. * Mt 27,55-56 – Các phụ nữ tại chân thập giá
Đoạn văn ngắn ngủi này tách biệt khỏi c. 54, vì các bà “đứng nhìn từ đàng xa”. Các bà được nhắc đến ở đây để làm cầu nối đưa tới câu truyện an táng (27,61) và Phục sinh (28,1-10).
Quang cảnh các phụ nữ “đứng nhìn từ đàng xa” cho hiểu là Đức Giêsu không bị mọi môn đệ bỏ rơi, cho dù trước khi xảy ra cuộc đóng đinh, tác giả Mt chỉ nói đến các đối thủ của Người đang chế nhạo Người là kẻ bị mọi người bỏ rơi. Lời nhắc đến các phụ nữ ở đây là một niềm an ủi, một tin mừng. “Từ đàng xa” (apo makrothen) do thận trọng hay là vì chưa dấn thân hẳn (trường hợp Phêrô ở 26,58)? Bản văn không xác định ở đây. Chúng ta phải chờ đọc tiếp.
Ba phụ nữ được xác định (c. 56): bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê và Giôxếp, và bà mẹ các con ông Dêbêđê. Bà Maria Mácđala đóng một vai trò chìa khóa trong cả bốn Tin Mừng (x. Mc 16,1tt; Lc 8,2; 24,10; Ga 20,11-18). Còn bà Maria mẹ các ông Giacôbê và Giôxếp hẳn được các độc giả Mt biết rõ do hai người con. Chắc chắn bà không phải là mẹ Đức Giêsu, cho dù theo 13,55, Người có “anh em” là Giacôbê và Giôxếp; nếu không, hẳn bà này đã được gọi là “mẹ Đức Giêsu”. Phải chăng bà là mẹ của ông Giacôbê con ông Anphê theo Mt 10,3? Chúng ta không rõ. Còn người phụ nữ thứ ba, mẹ các con ông Dêbêđê là Gioan và Giacôbê, chúng ta đã gặp ở 20,20. Đi từ ghi nhận “các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê”, ta hiểu bà này gần gũi với Nhóm Mười Hai. Vì sao bà lại thế chỗ bà Salômê ở Mc 15,40? Phải chăng Mt không còn biết gì về người phụ nữ mà Mc gọi là Salômê, nên ngài đã thay thế bằng tên một bà mà ngài biết rõ, giống như ở 27,32, ngài không nhắc đến tên của các con ông Simôn Kyrênê? Hay là bởi vì ngài biết rằng mẹ của các con ông Dêbêđê được gọi là Salômê, nên ngài chỉ xác định thêm?
Các bà sẽ tái xuất hiện (27,61; 28,1-10). Đến sáng Phục sinh, các bà sẽ là những nhân vật chính đón nhận sứ điệp của hoạt động cứu độ của Thiên Chúa. Còn đang ẩn mình trong bóng tối của thập giá, các bà phác ra khởi đầu của một câu truyện về hành động của Thiên Chúa, hành động này sẽ tỏ hiện vào sáng Phục sinh trong ánh sáng chan hòa. Theo nghĩa này, các bà là những người của Thiên Chúa mang niềm hy vọng. * Mt 27,57-61 – Đức Giêsu được an táng
Bài tường thuật việc ông Giôxếp Arimathê an táng Đức Giêsu được soạn ngắn ở cc. 57-60. Ngoại trừ c. 58b, trong cả đoạn, ông là chủ ngữ duy nhất hành động. Đến cuối c. 60, ông lại biến mất. Có những từ “móc” tạo một cầu nối giữa cuộc đóng đinh và truyện Phục Sinh (“mộ”, mnêmeion: 27,52-53; 28,8; “xác”, sôma: 27,52.58.59; “(núi) đá”, petra: 27,51.60; “(tảng) đá”, lithos: 27,66; 28,2.
Bản văn kết thúc bằng một ghi chú rời ra, nói về các phụ nữ, với giọng văn tương tự c. 55. Các bà không có gì phải làm trong việc an táng Đức Giêsu; các bà chỉ có việc ở gần bên. Câu này cũng chuẩn bị cho truyện Phục Sinh.
Ông Giôxếp, sinh tại Arimathê, một người giàu có và là một môn đệ của Đức Giêsu. Arimathê được cho rằng ở gần Lod (Diospolis) về phía tây Giuđê, dường như cũng được gọi là “Armathem”. Mc 15,43 ghi nhận ông là một “thành viên có thế giá của hội đồng”. Nhưng vào thời Mt, cái hố ngăn cách giữa các môn đệ Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo Do Thái lớn đến nỗi ngài không còn có thể tưởng tượng ra được là một thành viện của Thượng Hội Đồng lại thân thiện với Đức Giêsu (trong Mt, không có lời khen nhà thông luật của Mc 12,34, mà là câu Mt 22,34). Vì thế, người Do Thái đạo đức thành viên của Thượng Hội Đồng vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa (Mc 15,43) đã biến thành một môn đệ của Đức Giêsu. Thế thì ít ra có một môn đệ đã không bỏ Đức Giêsu. Ông là một người giàu: thế thì nếu được Thiên Chúa giúp đỡ, không phải là không thể tìm ra đường chui qua lỗ kim (x. Mt 19,24-26).
Ông đến vào lúc “chiều tối” (opsia): chúng ta không biết chính xác giờ nào. Tuy nhiên, đến c. 62, chúng ta sẽ thấy là tác giả Mt đồng ý với tác giả Mc 15,42. Ông gặp quan Philatô và xin thi hài Đức Giêsu. Hẳn là những người giàu có dễ gặp tổng trấn hơn. Với lại chúng ta biết rằng tuy Philatô yếu ớt và lưỡng lự, lúc này không phải là ông không có hảo ý đối với Đức Giêsu. Đàng khác, có khi thi hài của các tử tội được người Rôma trả về cho gia đình hoặc bạn bè để chôn cất, nếu như không còn gì phải đáng ngại về mặt chính trị. Philatôi đã đồng ý vớ ông Giôxếp mà không cần điều tra gì thêm (x. Mc 15,44-45).
Trong bản văn Mt, không có nói đến việc ông Giôxếp “hạ xác” (kathelôn) như Mc 15,46, phải chăng lính Rôma đã hạ thi hài xuống, và Giôxếp chỉ việc nhận lấy? Ga 19,31-32 cũng giả thiết là lính đã hạ Đức Giêsu khỏi thập giá. Cũng lạ là không có việc tắm xác, mà đối với người Do Thái, dây là việc quan trọng nhất phải làm cho một thi hài. Cũng không có chỗ nào nói đến việc tẩm liệm, ướp thuốc thơm. Sau khi người phụ nữ vô danh ở Bêtania đã làm một cử chỉ báo trước việc này (26,12), thì việc này không cần nữa. Tác giả chỉ nói rằng Giôxếp bọc thi hài vào trong một “tấm vải gai (sindôn) sạch” (27,59). Sindôn có thể là tên loại vải, hoặc hình dạng chữ nhật của tấm vải. Vào thời ấy, các thi hài thường được mặc cho một chiếc áo dài bằng vải gai. Động từ entylissô (“gói, bọc”) không phù hợp với thói tục đó, vì làm ta nghĩ đến một tấm vải. “Sạch” hẳn là vì không có vết hoen ố, do chưa bao giờ được dùng.
Ông Giôxếp đặt Đức Giêsu vào “ngôi mộ mới, được đục sẵn trong núi đá, dành cho ông” (c. 60). Chúng ta không biết chi tiết nào khác, ngoài tảng đá to được ông lăn ra mà lấp cửa mộ. Dựa vào Mc 16,5 với cái thế thiên sứ ngồi và Ga 20,5-7, ở ngoài có thể thấy được khăn liệm, có thể suy ra là mới an táng Đức Giêsu là một mặt phẳng dài hoặc một cái máng, chứ không phải là một cái hốc nhỏ đục trên tường để đẩy thi hài vào. Cần ghi nhận là Đức Giêsu được an táng theo cách danh giá. Người không bị chôn cất cách vô danh trong nghĩa địa Do Thái dành cho những tên gian phi hay chỉ được chôn trong một nghĩa địa dành cho người nghèo. Ở đây, Người được an táng theo cách cao quý, trân trọng. Dù nhiều điều không được nói đến (tắm, xức dầu, than khóc), không hề có dấu gì chứng tỏ là có sự vội vã vì sắp bắt đầu ngày sabát. Do đó, ấn tượng vẫn là Đức Giêsu được an táng với tất cả sự tôn kính dành cho Người.
Rồi ông Giôxếp lại biến mất khỏi bài tường thuật (c. 61). Hai trong ba phụ nữ đã được nhắc đến ở cc. 55-56 ở lại: bà Maria Mácđala và bà “Maria khác”, tức mẹ của ông Giacôbê và Giôxếp. Các bà không góp phần vào việc an táng. Các bà cũng không cần làm người chứng về vị trí của ngôi mộ như trong Mc 15,47, bởi vì bây giờ Đức Giêsu được mai táng không phải trong bất cứ ngôi mộ nào, nhưng là trong ngôi mộ gia đình của bạn đồng môn là ông Giôxếp, nên vị trí ngôi mộ được biết rõ. Thế thì tại sao lại nhắc đến các phụ nữ? Tác giả chỉ nói rằng họ “ngồi đối diện” (kathêmenai apenanti) với ngôi mộ. Họ có mặt để làm gạch nối với truyện Phục Sinh: bây giờ các bà biết rằng trong mộ, thi hài của Đức Giêsu đang được đặt ở đó, để rồi đến sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà sẽ là những người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống và gặp Đức Giêsu phục sinh (28,1-10), và sẽ thành những người đi loan báo sự Phục Sinh cho các môn đệ (28,10-11). Vậy các bà sống trước “cuộc canh thức Vượt Qua” mà nay các chúng ta cử hành. Ngôi mộ là con dấu đóng trên cuộc đời trần thế của Đức Giêsu; nhưng câu truyện từ đây sẽ bắt đầu lại cho một diễn tiến mới. * Mt 27,62-66 – Mồ được canh giữ
Phân đoạn này tường thuật những gì xảy ra tại dinh Philatô và tại mộ Đức Giêsu vào ngày sau khi an táng Đức Giêsu, nghĩa là kể lại cách các thượng tế, với phép của Philatô, đã niêm phong ngôi mộ và đã đặt tại đó một toán lính canh.
Tác giả Mt kể cho biết các thượng tế và người Pharisêu đã quy tụ (synagesthai) đến dinh Philatô vào ngày hôm sau việc chuẩn bị ngày sabát. Vào lần thứ nhất (26,3), họ đã quyết định bắt và giết Đức Giêsu; vào lần thứ hai (26,57), họ đã yêu cầu kết an Người tử hình; bây giờ họ muốn đảm bảo là thi hài của Người được giữ yên trong mộ. Sẽ đến một lần thứ tư (28,12), khi đó họ bảo lính tráng cứ phao tin thất thiệt là thi hài của Đức Giêsu đã bị đánh cắp. Tất cả nỗ lực của họ đều tập trung vào một Giêsu đã chết. Cùng với các thượng tế, nhóm Pharisêu tỏ ra là những đối thủ chống phá quyết liệt nhất cả bản thân lẫn công trình của Đức Giêsu.
Chính các thượng tế đã nộp Đức Giêsu cho Philatô để đạt được cái chết cho Người (27,1t). Kể từ đó, tất cả những gì liên hệ đến Đức Giêsu đều tùy thuộc quyết định của Philatô, như ta đã thấy qua việc Giuse Arimathê xin thi hai Đức Giêsu (27,57). Còn các thượng tế và các người Pharisêu tìm cách đảm bảo là thi hài của Đức Giêsu vẫn còn trong mộ. Họ xin Philatô giữ sao cho ngôi mộ không bị xâm hại cho đến ngày thứ ba.
Lời thỉnh cầu của họ dựa trên một cái nhìn về quá khứ, nghĩa là về các lời tiên bào của Đức Giêsu là Người sẽ sống lại, và cũng dựa trên một cái nhìn về tương lai, nghĩa là về lời các môn đệ Đức Giêsu loan báo Thầy đã sống lại. Họ vẫn nhớ tất cả các thông tin về cuộc phục sinh của Đức Giêsu, àm họ coi là lừa dối dân chúng . theo họ lý luận, nền tảng duy nhất cho các sứ điệp ấy rất có thể là một cuộc cưới xác. Do đó họ ra sức ngăn chặn cuộc trọm xác này. Chi tiết lính canh mộ cũng cho hiểu là sự dữ đang thắng thế: Đức Giêsu dường như hoàn toàn thất bại; nhà giải phóng đã bị khóa miệng và nay được an táng trong mồ rồi.
Khi thưa với Philatô bằng danh hiệu “ngài” (kyrie; chỉ có ở đây) họ đã công nhận ông là người làm chủ hoàn cảnh và có quyền lấy một quyết định (keleuson, “xin quan lớn truyền”); họ không quan tâm đến chuyện có một “Chúa” khác.
Họ không nói tên Giêsu ra, nhưng gọi Người bằng một tên khinh bỉ: “tên bịp bợm ấy” (ekeinos ho planos) (x. Mt 24,11; Ga 7,12.47) và nhắc lại một lời Người đã nói khi còn sống. Mặc dù đã đưa được Người đến cái chết, họ vẫn còn sợ những hậu quả của lời Người giảng dạy. Họ nói đến “trỗi dậy vào ngày thứ ba”. Chúng ta không rõ họ ghi nhận điều này vào dịp nào (còn các môn đệ: 16,21; 17,23; 20,19). Họ xin Philatô lấy một quyết định liên hệ đến ba điểm phải tránh: việc các môn đệ di chuyển thi hài Đức Giêsu; loan báo cho dân chúng rằng Đức Giêsu đã sống lại; chuyện bịp cuối cùng này sẽ tệ hại hơn chuyện trước. Đây là các hậu quả dây chuyền. Ta hiểu các thượng tế đang tự giới thiệu như là những người bảo vệ chân lý và che chở dân chúng. Chúng ta ghi nhận là ở đầu và ở cuối chương nói về cái chết của Đức Giêsu, chúng ta gặp các thượng tế bên cạnh Philatô. Vả hai lần, Philatô đều để mặc cho các thượng tế lấy các biện pháp (x. 27,24 và 27,65). Lần này, Philatô giao cho họ cho một toán lính. Ông đổ hết trách nhiệm lên họ: “theo cách các ngươi biết”. Đây cũng là những biện pháp con người lấy đối lập với quyền năng của Thiên Chúa. Và họ đã làm hai việc: niêm phong mộ và cắt lính canh (c. 66). + Kết luận
Bài tường thuật cuộc Thương khó của Đức Giêsu đã được mỗi tác giả Tin Mừng viết lại theo bút pháp riêng. Độc giả bắt gặp được ở đấy các đau khổ, thể lý và luân lý, của Đấng Cứu thế, nhưng đấy không phải là ý nhắm của các ngài. Ngược lại, các ngài gỡ Đức Giêsu khỏi mọi nỗi lo lắng, sợ hãi, quay quắt, ngờ vực, khi cho ta thấy Người làm chủ tình hình với một uy quyền tối cao. Mt cũng cho thấy Đức Giêsu chiến đấu không phải là với sự yếu đuối của một con người, nhưng với sự sáng suốtvà sức mạnh của một Thiên Chúa. Trong những đau đớn cùng cực của cuộc đóng đinh, không một tiếng rên rỉ, tiếng thét gào thốt ra trên môi miệng Người. Quả thật, tác giả có nhắc lại các giờ phút cuối cùng của một cuộc tử đạo, nhưng đầy tính cách thần linh; ngài không nhắm gợi lên sự thương cảm, nhưng là sự thán phục và tin tưởng nơi Người. Cho dù bị kết án tử hình, Đức Giêsu vẫn là Đấng Cứu thế, Con Người, Đức Chúa (26,22.64; 27,43). Thay vì gặp mặt đối mặt với Đức Kitô lịch sử, khiêm nhường và đau khổ, độc giả lại tiếp cận với Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc Thương Khó cho thấy sự hạ mình thẳm sâu của Đức Kitô, nhưng cũng là bằng chứng về lòng vâng phục tối cao của Người với Chúa Cha. Đây không phải là một thất bại, mà là một chiến thắng. Tại đây, chúng ta gặp vấn đề của các cộng đoàn tiên khởi: không phải là làm cho người ta chấp nhận cuộc Thương Khó của Đấng Cứu thế, mà là chấp nhận tình trạng hiện tại của Người là Đức Chúa vinh quang, mặc dù có kết cục nhục nhã. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không thiếu kín đáo mà tố giác Giuđa; Người nhắc nhở, để ông có thể xét lại và quay lại, nhưng ông không nói gì cả: ông lưỡng lự hoặc ông không muốn quay lại. Để soi sáng và trấn an các môn đệ và có lẽ cũng để cố gắng kéo Giuđa trở về thêm một lần nữa, Đức Giêsu nhận định và tình hình: đây không phải là chuyện không may do người môn đệ phản bội, nhưng là điều nằm trong chương trình của Chúa Cha. Số phận của Đức Giêsu do Chúa Cha quyết định, nhưng điều này không xóa đi hay giảm thiểu trách nhiệm của kẻ phản bội: “Thà người đó đừng sinh ra thì hơn” (26,24).
2. Với sự giúp đỡ của Philatô, các đối thủ của Đức Giêsu đã khử trừ được Người. Cái chết của Đức Giêsu đã kết thúc ảnh hưởng của Người trên dân chúng. Đối với dân chúng, Người là một tên lừa bịp (27,63); đối với Thiên Chúa, Người là một kẻ nói phạm thượng (26,65). Kiểu nói “tên bịp bợm ấy” tổng hợp cách giới lãnh đạo Do Thái đánh giá công trình của Đức Giêsu. Tuy nhiên, điều vẫn còn đó và sẽ có thể tiếp tục gây ảnh hưởng trên dân chúng, đó là các lời Người đã nói và các môn đệ của Người.
3. Trong tiệc Thánh Thể, như trong tiệc Vượt Qua xưa kia, tín hữu không được chỉ ở tư thế khán giả, nhưng phải cảm thấy mình được lôi kéo can dự vào trực tiếp. Thánh Lễ cũng tái diễn lễ Vượt Qua, nên người tham dự không chỉ tưởng niệm cuộc giải phóng của một đoàn dân xa lạ, nhưng sống biến cố giải phóng chính mình.
4. Các môn đệ đã hoàn toàn thất bại khi ở trong Vườn Ôliu với Đức Giêsu. Họ không canh thức nổi với Người (c. 38); họ ngủ. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ đồng nghĩa với cái chết, sự bất động, sự tê cứng. Ít ra các trinh nữ quên mang dầu cũng cìn thú nhận thiếu sót của mình; ở đây các môn đệ nói được một lời cáo lỗi. “Mắt họ nặng trĩu” (c.43), nhưng như thế có nghĩa là họ hoàn toàn quên, hoàn toàn ở ngoài tấn bi kịch lớn nhất mà họ đang chứng kiến: Đức Giêsu đi vào cuộc Thương Khó của Người, nhưng cộng đoàn đã không đi theo Người.
Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sẽ còn phải tốn rất nhiều thời gian và giấy mực để viết về đề tài tình yêu, vì người ta sẽ không thể nào giải thích, cũng không thể diễn tả hết được tình yêu cha mẹ dành cho con cái, tình yêu đôi bạn trẻ dành cho nhau. Người ta sẽ không thể giải thích được tại sao có những đôi bạn trẻ dám chấp nhận mọi nguy hiểm kể cả mạng sống để có thể đến được với nhau, hay những người cha, người mẹ chấp nhận đau khổ, hao mòn và cả cái chết để cho con mình được sống. Ngược lại, xã hội không thể hình dung được có những người con đang tâm đem mẹ già bỏ ngoài vỉa hè trong mùa đông giá rét, sau đó, người mẹ chết thì không đứa con nào muốn đưa xác mẹ vào nhà.
Tin Mừng Marcô hôm nay cũng cho thấy những mảng sáng và mảng tối trong một bức tranh về tình yêu, trong đó bao gồm cả sự ngưỡng mộ, yêu mến lẫn sự phản bội bẽ bàng đối với tình yêu của Chúa Giêsu.
Bằng một giọng văn chân chất, tác giả cho thấy tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ và nhân loại như một dòng chảy tự nhiên xuất phát từ trái tim của một người cha dành cho con. Chúa Giêsu được trình bày như một người cha cặm cụi chuẩn bị từng chi tiết, lo lắng hy sinh cho con đủ điều và kết cục là chấp nhận cả cái chết để cho con mình hạnh phúc. Trước khi kể về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Thánh sử đã kể lại hai biến cố tương phản nhau để cho thấy sự đáp trả của con người đối với tình yêu Thiên Chúa.
Trước hết là câu chuyện xảy ra ở Betania, tại nhà ông Simon Cùi. Sự kiện là, đang khi mọi người dùng bữa, thì có một phụ nữ xuất hiện. Trong mắt mọi người, cô ấy là một đứa lăng loàn mất nết, vậy mà, phụ nữ này đã dám đập bể một bình dầu thơm cam tùng hảo hạng để xức chân Chúa. Việc làm này khiến nhiều người ở đó cho là vô lý và phí của. Họ trách cô rằng: Tại sao không bán bình dầu lấy tiền cho người nghèo ? Họ đã mượn danh người nghèo để phê bình hành động của cô, vì người ta không thể hiểu tại sao cô làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã hiểu, đã cảm nhận được và còn biết thấu tâm hồn cô, Ngài đã nói với mọi người rằng cứ để cho cô làm. Vì những người này đã lấy những lý luận thông thường của lý trí để xét đoán hành động của người khác, còn Chúa Giêsu, Ngài nhìn hành động của người khác bằng con mắt của trái tim để thấu cảm với họ.
Chúa Giêsu cũng điều chỉnh thái độ mượn danh người nghèo để phê bình hành động của người khác khi nói với họ: Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh, còn tôi thì các ông chẳng có mãi đâu. Cô ấy lấy dầu thơm xức chân tôi là dấu chỉ của việc mai táng… thiên hạ sẽ nhớ đến việc làm này của cô.
Nếu như câu chuyện thứ nhất đem lại cho Chúa Giêsu sự an ủi, thì câu chuyện thứ hai lại gây tổn thương, đau lòng cho Ngài. Giuđa là một trong những môn đệ của Chúa lại trở thành kẻ phản bội, môi giới trao nộp Thầy với cái giá bán một tên nô lệ. Cái đau khổ nhất trong tình yêu đó là khi thấy mình bị phản bội, mà kẻ phản bội lại là kẻ gần gũi nhất với mình. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau bị phản bội ấy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn hy vọng anh ta hối hận khi Ngài dành cho anh cử chỉ của tình yêu. Ngài nhiều lần nhắc anh trong bữa Tiệc Ly, nhưng anh không nhận ra tín hiệu yêu thương của Chúa, anh đã từ chối ánh sáng để chọn bước vào bóng tối. Dù bị phản bội và vấp phải sự cứng lòng của Giuđa, nhưng Chúa Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ tình yêu của Ngài dành cho các môn đệ.
Cao điểm của bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng này, Chúa Giêsu đã thực hiện hết tất cả những gì trái tim mách bảo và tình yêu thúc đẩy. Ngài cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Ngài cầm chén và trao cho các ông: Đây là chén máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người. Với việc làm cho bánh rượu trở nên mình và máu rồi trao cho các môn đệ để các ông cầm lấy mà ăn mà uống, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọn vẹn cả con người của mình, trở nên như một quà tặng đặt vào tay các ông. Nếu như người phụ nữ chỉ đập bể một bình dầu, các ông đã lấy làm xót xa, thì giờ đây, Chúa còn bẻ nát cả con người của mình để trao cho các tông đồ làm của ăn của uống nuôi các ông. Hành động này chỉ có thể hiểu được bằng trái tim mà thôi.
Liền sau đó, Tin Mừng thuật lại chi tiết việc Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn: kẻ phản bội thực hiện ý đồ của mình ; những thượng tế và luật sĩ là những kẻ chủ mưu thì hả hê vì chiến thắng ; các môn đệ, những người được yêu, thì dửng dưng nằm ngủ, rồi khi thức dậy thì sợ hãi bỏ trốn hết. Lúc này, Thánh Marcô muốn cho thấy: Chúa Giêsu đã bằng lòng bước vào trần gian vì yêu nhân loại, thì giờ đây, Ngài cũng bằng lòng đi hết con đường trần gian vì yêu nhân loại. Đoạn đừng cuối cùng ở trần gian của chúa Giêsu lại là đoạn đường bi thương nhất do chính những kẻ được yêu gây ra cho Ngài. Những luật sĩ, thượng tế đã muốn loại trừ Ngài ra khỏi cộng đồng. Họ hành hạ Ngài cho thỏa cái ác trong lòng họ. Họ trút xuống trên Ngài sự thù hận mà họ nuôi dưỡng.
Câu chuyên Tin Mừng cho thấy một bên là tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Ngài hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả ; còn bên kia là bộ mặt thật của con người khi bị cái ác điều khiển, bị ma quỷ thống lĩnh, khi lương tâm không còn nhạy bén, khi sự thù hằn lên đến đỉnh cao thì sẽ dẫn đế tình trạng loại trừ người khác và hành động dã man như thế.
Sự dã man, gian ác đang nằm sẵn trong mỗi người và ma quỷ là kẻ rất xảo quyệt, khéo léo khơi dậy cái ác và sự dã man trong mỗi con người. Cùng với ma quỷ là tình trạng tội lỗi sẽ làm cho lương tâm con người bị chai lì và bóp nghẹt trái tim khiến con người trở nên vô cảm trước nỗi đau của anh em đồng loại. Tình trạng này đang diễn ra ở nhiều nơi và nhiều tâm hồn con người.
Thật đáng buồn khi ta thấy cái ác đang diễn ra trong xã hội và ngay trong khu vực chúng ta đang sống. Cái ác đang xảy ra ngay trong xóm đạo, trong gia đình những người Công Giáo. Điều đó chứng tỏ rằng, nơi đó đang thiếu vắng tình yêu, nhất là thiếu vắng Thiên Chúa. Họ thiếu vắng Thiên Chúa không phải vì Thiên Chúa không có mặt ở nơi đó, mà là do chính những con người ấy đã muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của họ. Họ không muốn Thiên Chúa can thiệp vào đời sống và công việc của họ.
Bạo lực cũng đang xảy ra nơi gia đình. Nhiều cha mẹ đã không còn tình yêu quảng đại và sự hy sinh dành cho con cái, thay vào đó là sự ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến con cái. Nhiều vợ chồng không còn muốn hy sinh cho nhau, nhiều cha mẹ ngại hy sinh, sợ vất vả vì con. Vì thế, họ đã biến gia đình thành nơi để trút xả những cơn giận dữ. Họ chửi bới, khiến cho gia đình không còn là mái ấm tình yêu nữa. Cũng vậy, nhiều bạn trẻ đã để cho bản năng và sự ác điều khiển, khiến dễ dàng cư xử với nhau bằng bạo lực, cơ bắp, bằng sự nóng nảy thay vì bằng tình yêu thương, sự quảng đại và tha thứ.
Chỉ có tình yêu mới có thể đem đến hòa bình, chỉ có tha thứ mới có thể chữa lành được vết thương của hận thù. Xin cho mỗi người bước vào Tuần Thánh, nhìn lên thập giá Chúa Giêsu để học nơi Chúa bài học yêu thương và tha thứ. Hãy đón Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng và để Ngài hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết để cho trái tim và tình yêu thúc đẩy, để mỗi người dám hành động vì tình yêu dù có phải chấp nhận hy sinh. Amen.
Để giúp giáo dân sốt sắng tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, nhiều nơi trong giáo hội Việt Nam có thói quen diễn lại “tuồng Thương Khó”, bắt đầu từ Chúa Nhật lễ Lá. Sau Công đồng Vatican II, chúng ta cử hành phụng vụ bằng tiếng Việt, cho nên việc theo dõi cuộc Thương Khó của Chúa không còn trở ngại nữa. Tuy nhiên câu hỏi cốt lõi là chúng ta chỉ “xem” hoặc “nghe kể lại” cuộc Thương Khó như khách bàng quan, hay chúng ta thực sự tham dự vào cuộc Thương Khó với tất cả tâm tình kết hiệp với Chúa Giê-su? Làm thế nào để cuộc Thương Khó đem lại cho đời sống thiêng liêng của chúng ta những hoa trái tích cực?
Thực ra mọi người chúng ta đã nghe hay đọc bài Thương Khó nhiều lần và hầu như đều đã biết được những gì xảy ra trong đó. Nếu muốn suy niệm tất cả, e rằng chúng ta có thể “bội thực thiêng liêng” mất thôi! Do đó, chúng ta cứ dừng lại ở vài ba chặng Thương Khó của Chúa, đặt mình trong khung cảnh ấy và cảm nghiệm ý nghĩa nỗi đau khổ Chúa Giê-su phải gánh chịu vì chúng ta.
Điểm dừng đầu tiên là cuộc ăn mừng lễ Vượt Qua của Chúa Giê-su và các môn đệ tại phòng Tiệc Ly. Trời đánh còn tránh miếng ăn! Nhưng Chúa Giê-su không tránh, Người công bố một tin sét đánh và rất buồn: “Thầy bảo thật, một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. Nghe tin ấy, ai cũng muốn rằng kẻ nộp Thầy không phải là mình, cho nên mọi người lần lượt hỏi Chúa: Chẳng lẽ con sao? Chúa không trả lời dứt khoát là phải, nhưng cách Người trả lời rõ ràng ám chỉ hết mọi người: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy”. Tất cả các môn đệ đều chấm chung một đĩa với Chúa, nên mọi người đều là kẻ nộp Thầy! Dĩ nhiên, kể cả chúng ta hôm nay nữa cũng là kẻ nộp Chúa, chỉ cách này hay cách khác mà thôi.
Điểm thứ hai là vườn Ghết-sê-ma-ni, nơi Chúa Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha và xin vâng ý Người mà chấp nhận cuộc Thương Khó. Chúa Giê-su cầu nguyện cho bản thân Người, nhưng cũng là cầu nguyện cho chúng ta. Đúng vậy, cuộc Thương Khó này được thực hiện là vì ích lợi cho chúng ta. Chúa muốn chúng ta hiểu rõ chân lý “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gio-an 15:13). Việc Chúa cầu nguyện nhắc nhở chúng ta đáp trả tình yêu của Người. Do đó, nếu Chúa Giê-su tha thiết cầu nguyện như vậy, mà chúng ta cứ lăn ra ngủ mê như ba môn đệ thì thật là vô ơn bạc nghĩa!
Điểm thứ ba là Gôn-gô-tha. Tại đây Chúa Giê-su chịu đóng đinh thập giá và trút linh hồn. Cuộc Thương Khó kết thúc ở đây, nhưng là giai đoạn cam go nhất. Đã phải chịu cực hình đóng đinh vào thập giá, đau đớn mà vẫn chưa đủ, Chúa Giê-su còn phải chịu những đau đớn tinh thần trước những lời nhục mạ của dân chúng và các nhà lãnh đạo Do-thái nữa. Giữa đám dân chúng bạc tình ấy, có bạn, có tôi… Chúng mình đều “tham dự” vào cuộc đóng đinh và cái chết hy sinh của Chúa Giê-su đấy!
Cũng tại Gôn-gô-tha, những người “bạn” của Chúa đã làm gì? Các phụ nữ đã đi theo Chúa từ Ga-li-lê thì “đứng nhìn từ đàng xa”. Nhưng may mắn còn có người môn đệ tên là Giô-xép, can đảm đến gặp Phi-la-tô và xin ông cho phép mình lo việc an táng cho Chúa. Chúng ta đều là bạn hữu của Chúa, vì Người đã gọi chúng ta như thế (Gio-an 15:15). Nhưng chúng ta sẽ làm gì khi thấy người “Bạn” đã phải chết để cứu chúng ta?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Vậy phải làm thế nào để tham dự tích cực vào cuộc Thương Khó của Chúa đây? Có lẽ hai hình ảnh mô tả Chúa Giê-su như Người Tôi Trung (I-sai-a 50:4-7) và Đấng trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ (Phi-líp-phê 2:6-11), là những động lực thúc giục chúng ta hãy tháp nhập những đau khổ cuộc đời chúng ta vào cuộc Thương Khó của Chúa. Chúng ta hãy để cho hai hình ảnh ấy về Chúa Giê-su luôn hiện rõ trong tâm hồn chúng ta, nhắc nhở chúng ta nhận biết giá trị vô biên của cuộc Thương Khó, và đón nhận một cách biết ơn Tình Yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta.
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem giữa lúc dư luận đang xôn xao bàn tán về Ngài: Ngài có phải là Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ đến hay không? Dân chúng phần đông, vì những tình cảm nhất thời, chứ không phải vì lòng say mê, muốn tìm hiểu sự thật. Còn bọn Biệt phái thì tức giận, bởi vì họ không muốn để Ngài xóa bỏ mất niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai. Và lần này, Chúa Giêsu chính thức lên tiếng tranh luận.
Lời của Ngài như một lưỡi dao sắc bén. Ta đã nói với các ngươi rằng Ta là Con Thiên Chúa, trước khi có Abraham, thì đã có Ta. Phải chăng đây là một lời nói phạm thượng, không thể nào tha thứ. Vì vậy họ đã lượm đá để ném Ngài, nhưng Ngài đã ẩn mình đi.
Bịt tai, hò hét, xách động và đập phá, phải chăng đó là cách thức con người thường hành động khi không muốn nghe. Đây không còn là một vấn đề thuần túy về hiểu biết, nhưng là vấn đề chọn lựa và yêu thương.
Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi. Đây cũng là điều thường xảy ra trong dòng thời gian, phản ảnh cho sự cứng lòng của con người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chúng tôi không muốn ông ấy cai rị chúng tôi trong lãnh vực chính trị cũng như quân sự, trong lãnh vực kinh tế cũng như tài chánh, trên phim ảnh sách báo, cũng như trên truyền thanh và truyền hình.
Có người lại thầm nghĩ nếu như bây giờ Chúa Giêsu trở lại, hẵn Ngài sẽ dẹp tan những biến động của thời đại. Thiết tưởng lời ước mơ này chỉ lả một cái gì ấu trĩ, và thiếu nến tảng. Bởi vì Chúa Giêsu chỉ trở lại vào ngày tận cùng của trời và đất. Tuy nhiên, mặc dù bây giờ Ngài có trở lại chăng nữa, thì người ta vẫn cứ ném đá Ngài như thường. Lập trường của con người vẫn không có gì thay đổi: Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi!
Chúa Giêsu đã ẩn mình đi không phải vì sợ hãi, nhưng vì giờ Ngài chưa đến. Thực ra, Ngài không cần phải ẩn mình đi, vì quyền năng của Ngài có thể lập tức vô hiệu hóa những viên đá của những kẻ phẫn nộ.
Chiến thuật của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với chiến thuật của chúng ta. Ngài không cưỡng bức, không ép buộc một ai. Ngài không xuồng khỏi thập giá để mọi người phải tin vào Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người. Và Ngài chỉ chấp nhận sự cho đi, sự dâng hiến một cách tự nguyện. Chiến thật ấy, ngày hôm nay Ngài vẫn còn áp dụng. Ngài mãi mãi vẫn là một vị Thiên Chúa ẩn dấu. Những sự dữ xảy ra và dường như Ngài đã chẳng can thiệp. Không phải là như vậy. Ngài muốn tôn trọng sự tự do của con người và mong ước con người phục vụ Ngài trong tin yêu.
Lạy Thiên Chúa ẩn dấu, Nếu Ngài còn thinh lặng, nếu Ngài còn là Đấng vô hình, xin hãy củng cố niềm tin nhỏ bé và yếu đuối của con, đừng để vì thế mà con tuyệt vọng và mất đi lòng cậy trông.
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?" (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu - tu sĩ - linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội". Người không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
****
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: "Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: "Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!" Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: "Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ" (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu. Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.
Buổi sáng một ngày nọ, Chúa Giêsu lên đường về Giê rusalem, có rất đông thiên thần tháp tùng ca ngợi tình thương của Chúa đối với nhân loại. Các thánh ký đã thuật lại cuộc đón tiếp tưng bừng, mà hết mọi người đều say sưa hoan hô Chúa: “Vạn tuế Đức Hoàng Đế, nhân danh Chúa đến với chúng ta! Hoan hô Thái Tử của Đavít.” Tuy bề ngoài chẳng có gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như thế. Chúa đến, cưỡi trên một con lừa nhỏ. Chẳng có gì lộng lẫy. Nhưng chính Thánh ý Thiên Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng cho Chúa Con một niềm tin kính huy hoàng.
Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe tiếng Thiên Chúa nói tỏ cho mọi người tham dự đều nghe hiểu được: “Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn vinh Con nữa.”
Thiên Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm mức rộng rãi khác thường. Chúa sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống u ngục. Tại đây, các thánh được xem thấy những gì diễn biến tại Giêrusalem, và các ngài hát lên nhiều ca vịnh, mừng Chúa Cứu Chuộc chiến thắng tội lỗi, sự chết và hỏa ngục. Ngoài ra, tất cả những người đã biết Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những ở Palestina, mà cả ở Ai Cập hay các nơi khác, đều được Thiên Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan và tăng thêm niềm tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày vui đó phải nhuốm màu tăm tối cái chết: không một ai chết trong ngày đó. Chúa cũng không cho phép ma quỷ, thu được một lợi lộc nào trong suốt thời gian khải hoàn ấy: Chúng bị xô xuống vực sâu hỏa ngục hết thảy. (Văn Hải, Maria Agrêđa, Từ Tabôrê đến rước lá, Thần Đô Huyền Nhiệm)
Giây phút đăng quang tưng bừng, rộn ràng niềm vui quá ngắn ngùi, Bài Tin Mừng thứ nhất diễn tả một thoáng huy hoàng Đức Vua Tình Yêu lên ngôi, chỉ sôi nổi diễn ra vài giờ rồi chấm hết. Rồi bài Thương Khó tiếp theo sau, Đức Vua Tình Yêu lẻ loi, cô đơn, chịu khổ hình, đau đớn và chết nhục nhã trên cây thập tự, diễn tả sứ vụ đã hoàn thành, cũng là thời điểm Đức Vua Tình Yêu chiến thắng sự dữ, hận thù, tội lỗi và cái chết.
Đức Vua bị bỏ rơi
Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai, Đức Vua hoàn toàn cô đơn, lẻ loi trước cuộc khổ nạn khốc liệt. Hàng vạn người đã tưng bừng chào đón Đức Vua cưỡi lừa vào Thành Thánh, hàng ngàn người đã được ăn bánh no nê, hàng trăm người được chữa lành bệnh, tật nguyền, hàng chục người chết sống lại, nay đang ở đâu, khi Đức Vua khủng hoảng trước sự dữ?
Dân chúng bạc bẽo bày đàn chạy theo thói thực dụng đã đành, còn ba môn đệ thân tín thì lại thản nhiên chiều theo bản năng, vô tư ngù vùi, mặc cho Thầy Giêsu kịch liệt chống trả cám dỗ, đến nỗi máu và mồ hôi toát ra giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. Phải chăng vì xác thịt quá nặng nề, vì tình nghĩa dành cho Thầy còn quá hời hợt, nông cạn, xốc nổi, nên trò mới dửng dưng bỏ rơi Thầy lúc ngặt nghèo? Mặc lời mời gọi khẩn khoản của Đức Giêsu với ba mộn đệ như rơi vào hư vô, không một tiếng hồi âm. “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” Lần hai, rồi lần ba cũng hoài công, vô vọng.
Đức Giêsu càng thấm thía nỗi cô đơn sầu não hơn nữa, khi quân dữ xông đến bắt Người, các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy chạy trốn, hoặc sau đó, ba lần Phêrô công khai chối Thầy. Còn gì đau đớn hơn khi bị người thân cận yêu thương nhất phản bội? “Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Lc 22, 61) Cái nhìn độ lượng, nhân từ, xót xa, lẫn khiển trách, đã thức tỉnh Phêrô quay về.
Thân bằng quyến thuộc đều bỏ rơi Người trong cơn nguy khó. Chính vì Vâng phục, Đức Giêsu phải chịu đựng nỗi cô đơn, sự bỏ rơi lạnh lùng đến vô cảm của thế gian. Người chỉ còn duy nhất trông cậy, cầu nguyện, tha thiết khấn xin Thiên Chúa Cha: “Abba Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.”
Nỗi cô đơn dày vò lên đến đỉnh điểm, khi Đức Giêsu hấp hối trên thập giá đã thảng thốt: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Thánh Phaolô vô cùng ca ngợi và vinh danh nhân đức Vâng Lời của Đức Giêsu. Nhờ vậy, mà nhân loại mới được trở nên công chính và được cứu rỗi khỏi sự chết: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh người công chính.” (Rm 5, 19)
“Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là chết cho ý riêng.” (Đườnmg Hy Vọng, số 402)
Đức Vua chịu nhục hình
Không chỉ chịu đòn roi, khổ hình hành hạ thể xác, Đức Vua Tình Yêu còn chịu đựng những lời phỉ báng, khinh miệt, những lời vu oan cáo vạ tày trời! Nhưng đau đớn hơn cả là hành vi ác ý bẻ cong, cắt xén, chụp mũ, xuyên tạc Lời Hằng Sống: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" (Mc 14, 58) “Hãy nói tiên tri đi!”
Chịu nhiều cực hình tra tấn nhục nhã ê chề vẫn chưa hết, Đức Vua còn bị liệt vào hạng người còn hèn mạt, tồi tệ, đáng khinh hơn cả phạm nhân Barbara cướp của giết người. Đáng đóng đinh vào thập giá. Nhưng gương mặt mới hôm nào hân hoan rạng rỡ chào đón Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem, nay bừng bừng sát khí, đồng thanh phản bội lập đi lập lại: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Gánh hết tội lỗi thế gian, Đức Giêsu cam chịu khổ hình, đền thay cho tội nhân mọi thời, mọi nơi. Thánh Phaolô khẳng định một sự thật kinh thiên động địa:“Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.” (Dt 9, 26)
“Thương tích của Chúa Kitô dạy ta cái gì? Những thương tích đó dạy rằng: Đời là một cuộc chiến, ngày cánh chung, chúng ta cũng được sống lại như Ngài đã sống lại. Nếu đời ta không có thập giá, tất cũng không có mồ táng trống không. Nếu không có ngày Thứ Sáu thụ nạn, tất không có Chúa Nhật Phục Sinh. Không có vành gai, tất không có hào quang ánh sáng. Nếu ta không cùng khổ với Ngài, tất ta không được cùng Ngài sống lại.” (ĐHY Fulton Sheen, Trên Đỉnh Cao Thập Giá) “Trong giờ tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?” (Đường Hy Vọng, số 699)
Đức Vua chịu đóng đinh
Cơn cuồng nộ của dân chúng vẫn còn chưa chịu chấm dứt, khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá. Kẻ qua người lại tiếp tục ra rả chửi rủa, khinh miệt, nhục mạ phỉ nhổ, xỏ xiên, khích bác, dè bửu, mạt sát Đức Vua.
Sự dữ tưởng như chiến thắng. Ma quỷ hả hê, hí hửng, tưởng chừng tiêu diệt được đạo lý, sự thật và sự sống. Nhưng không phải vậy, Tình Yêu đã khải hoàn, Đức Vua Tình Yêu đã hoàn toàn chiến thắng thế gian, ma quỷ và xác thịt, khi Người toàn tâm toàn ý vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Sẵn lòng làm hạt lúa chết đi, để trổ sinh hoa trái cứu độ cả nhân loại.
Hướng về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Thánh Phaolô khuyên nhủ hãy cởi bỏ gánh nặng trần thế, lo toan sự đời, ham hố vinh hoa, phú quý và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho tín hữu: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Dt 12, 2)
“Đau khổ không những giúp con can đảm, nhẫn nại, nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, số 706)
Lạy Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, xin cảm hóa chúng con, biết ăn ăn, sám hối, canh tân, trở nên khiêm hạ, vâng phục Thánh Ý Chúa, dẫu có chịu cô đơn, hành hạ, nhục hình và thậm chí chịu tử nạn vì sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, khấn xin Mẹ dẫn dắt chúng con đồng hành với Mẹ trong cuộc thương khó tới tận đỉnh đồi Canvê. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết bỏ mọi lưu luyến thế gian, từ bỏ cả bản thân, mà vác Thánh Giá theo Chúa cho trọn. Amen.
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại Đại học St. Thomas, Thánh Phaolo, Minnesota) “Ngài đã khiêm nhường tự hạ - vâng phục cho đến chết, và chết trên Thập giá” (Pl 2,8)
Tin Mừng Mát-thêu giới thiệu Chúa Nhật lễ Lá với bài Tin Mừng chứa nhiều trình thuật mang đậm những lời tiên báo của các Ngôn sứ thời Cựu Ước. Những trình thuật đó mô tả Đức Giêsu như là người được Thiên Chúa hứa ban, Đấng sẽ đến để thiết lập Vương Quốc Nước Trời. Mát-thêu trình bày lời Ngôn sứ trong Dacaria 9,9 để mô tả việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem: “Nào Thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi Thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng, Khiêm Tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Mát-thêu đã không nói về dáng vẻ oai phong của một vị tướng quân theo phong cách Do Thái hay Hy Lạp, nhưng ngài chỉ nêu lên 2 phẩm tính căn bản nơi Đức Giêsu, và đó cũng là tâm điểm của lời Ngôn sứ “Vị Vua khiêm tốn và vị vua tiến vào Thành Thánh trên lưng của một con lừa.
Đây là lời tiên tri xem ra có vẻ khập khiễng, bởi vì khiêm tốn không phải là bản chất của các vua chúa. Các ông vua thường tiến vào thành bằng những chiến xa có ngựa kéo với long bào lộng lẫy và đầy uy lực. Sự khiêm tốn của Đức Giêsu không phải để trình diễn, nhưng đây là chính ý định của Ngài khi tiến vào Giêrusalem, và hiểu rộng hơn, khi Ngài đến trần gian mang lấy kiếp người. Một con ngựa chiến biểu thị cho chiến tranh, ngược lại một con lừa gợi đến viễn ảnh hòa bình. Dẫu sao, Dacaria cũng tiên báo về một vị vua “oai hùng và chiến thắng”.
“Oai hùng và chiến thắng” dường như là những lời xưng tụng trên môi miệng đám đông khi Chúa vào Giêrusalem. Người ta hoan hô Ngài, gào lớn tiếng “Hosanna con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa ngự đến, hoan hô trên các tầng trời”. Chúa Giêsu biết rằng lời tung hô từ đám đông không đem lại chiến thắng và vinh quang. Ngài biết mình là ai, và Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu thế như thế nào. Vì thế, Ngài nhận ra rằng: việc cưỡi lừa vào Giêrusalem, thực hiện lời Ngôn Sứ Dacaria đòi phải có một phong thái khiêm tốn, không màng quyền lực, không gây tàn phá, hận thù hay chiến tranh để cho hoạch định cứu chuộc của Chúa Cha được thực hiện qua đau khổ của chính Ngài. Cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, với đám đông tung hô bên đường, phải thấm đượm cay đắng, đan xen ngọt ngào. Ngài biết những gì đang xảy ra, và Ngài biết con đường trước mắt sẽ như thế nào?
Câu hỏi được đặt ra là có khi nào Đức Giêsu thực hiện trọn vẹn lời Ngôn Sứ nói về sự khiêm hạ và tự nguyện nơi Ngài khi Ngài không còn một chọn lựa nào khác để xây dựng Vương Quốc Nước Trời? Có khi nào việc Ngài biết trước những biến cố sẽ xảy ra, làm giảm đi giá trị của việc tự hiến nơi Ngài? Như Thánh Phaolo đã nói trong thư gửi Giáo đoàn Philipphê, Đức Giêsu “đã tự hạ” bằng cách mang lấy thân phận loài người, bằng việc Ngài đã “biến mình ra không” và chọn cuộc sống làm người rất thấp hèn. Hơn nữa, trong tư cách là một phàm nhân, Ngài đã “trở nên vâng phục cho đến chết – và chết trên Thập giá”. Khi tiến vào Giêrusalem và đón nhận cái chết, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm tốn, sự vâng phục một cách tự nguyện.
Lẽ dĩ nhiên, chúng ta có thể lý giải rằng cuộc thương khó của Đức Giêsu là do sự trở mặt của đám đông. Dân chúng thay đổi thái độ hoàn toàn, từ việc tung hô chào đón một con người mà họ kỳ vọng sẽ là một ông vua, biến trở thành thái độ chống đối, đòi kết án và loại trừ Ngài. Tuy nhiên, chính Đức Giêsu biết những điều đã, đang và sẽ xảy ra. Ngài cũng nắm bắt được những gì xảy đến cho dân chúng và cả những người lính hành quyết Roma, để cả họ cũng được cứu độ. Đó là lý do Ngài đã trở nên tự hạ, và tự hạ để thương xót cả những con người đã mỉa mai và kình chống Ngài.
Một điều cũng quan trọng, không phải mọi người đã quay lại phản bội Chúa Giêsu, cho dù nhiều người không thể hiểu được nguyên do tại sao Ngài tự nguyện hiến mình cho đến chết. Nhiều người vẫn theo Chúa đến tận chân Thập giá, cho dù những người khác lại bội phản và chối từ Ngài. Sự khiêm hạ và vâng phục nơi Đức Giêsu là quà tặng được trao ban cho chúng ta, cho mọi người và cho cả những ai không chấp nhận, lúc đó hay ngay bây giờ.
Dấu ấn đậm nét nhất khi nhìn vào bản tính Thiên Chúa, chính là Vương Quốc Ngài được xây dựng trên thân xác mong manh của Người Con. Vương quốc đó được trao hiến cho kiếp người, và vinh quang từ Vương Quốc đó đã bị cất giấu đi nơi chính Người Con này. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng sự khiêm hạ, không bằng sức mạnh, để dạy chúng ta biết rằng tình yêu vị kỷ là chính bản tính của Thiên Chúa. Một Đức Giêsu uy quyền và chiến thắng không phải là một Đức Kitô dương oai thị võ, nhưng là một Đấng rất khiêm hạ. Khiêm hạ không phải là con đường Đức Giêsu muốn một mình dấn bước đến Giệtsêmani, nhưng là con đường Ngài đã chọn để vác Thập giá trong vâng phục đến nơi mà chúng ta cần Ngài đi đến.
Nhất lé nhì lùn, hay nhất lý nhì lỳ, từ trong gia đình tới ngoài xã hội đều phải nể; người có sức mạnh về tiền của, sức mạnh cơ bắp, hay sức mạnh tâm trí, luôn được coi là một lợi thế. Ở thời nào cũng vậy, bạo động hay bạo lực đều đáng sợ, nguyên nhân dẫn tới bạo động, bạo lực, là do không hiểu biết, hoặc thiếu lập trường. Chẳng ai có thể sống an vui trong hoàn cảnh: một gia đình hai chủ, một đất nước hai vua ! Gia đình xã hội theo bản chất phải gồm những người yêu thương nhau mà tiền nhân ta gọi là tứ hải giai huynh đệ, vì mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ giúp nhau đạt tới hạnh phúc.
Để dĩ hòa vi quí trong ứng xử, các bậc tiền bối đã để lại kinh nghiệm cho con cháu câu thành ngữ: khôn làm cột cái, dại làm cột con. Nếu chấp nhận được nguyên lý ấy, gia đình, xã hội, sẽ không còn phải sử dụng lý lẽ, thay vào đó văn hóa ứng xử luôn có cụm từ đáng yêu: bổn phận, nghĩa vụ. Bước vào Tuần Thánh, người Kitô hữu được nhắc nhớ về lập trường tin-yêu và sống-đạo của mình, cho dù là em bé, hay người lớn chúng ta đều hiểu Chúa Giêsu chịu chết là vì tội lỗi của ta của nhân loại.
Đi sâu vào mầu nhiệm thương khó hôm nay, chúng ta sẽ đối diện với nhiều phức tạp, có người cho rằng Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá thuộc về trách nhiệm của các luật sĩ biệt phái và đám đông dân Do-thái. Các nhà đạo đức cho rằng Đức Giêsu chịu chết là vì yêu nhân loại, vì muốn giải thoát con người khỏi tội lỗi sự chết. Sẽ không bao giờ bình thường đối với lý của kẻ mạnh, tình của người đang yêu, và kinh nghiệm của tiền nhân còn cho biết: khôn ngoan đừng cãi người già, chớ dại mà chửi nhau với người trẻ.
Giới lãnh đạo tôn giáo đã dùng sức mạnh của quyền lực, dùng mưu mô kích động dân chúng, kết án Đức Giêsu phải chết và tha Baraba. Đức Giêsu thì sẵn lòng chịu chết để diễn tả tình yêu Thiên Chúa, đó là lý chứng mạnh mẽ và vĩ đại nhất. Rất nhiều người đã đọc và hiểu: chân lý không thuộc về đám đông, thế mà không phải xưa, mà nay, thiên hạ vẫn lên án người tốt một cách vô căn cứ…
Nếu hiểu theo lý lẽ tự nhiên: cha mẹ hy sinh cho con cháu không bao giờ là vô nghĩa, con cái nhớ tới công sinh thành dưỡng dục sẽ chẳng khi nào mất ơn phúc. Chúa Giêsu vì yêu các tông đồ, vì yêu thương nhân loại, nên dù hiểu sai, dù đám đông dân chúng có a-dua tham dự vào việc giết Chúa, cuộc tử nạn phục sinh của Chúa vẫn mang lại giá trị cứu độ cho những ai biết thật lòng sám hối ăn năn. Từ lâu người ta vẫn nói: quân tử phòng thân, chứ không ai nói: quân tử liều thân, hay không bao giờ người quân tử tự đi tìm cho mình cái chết vô lý…. Đồng ý rằng ai sống trên đời rồi cũng phải chết, và Chúa Giêsu có từ chối không để người Do-thái đóng đinh thập giá, thì mang thân xác loài người, Đức Giêsu cũng sẽ đối diện với sinh lão bệnh tử. Sở dĩ có Tuần Thánh là để con người suy xét về cách sống niềm tin của mình, biết đến căn nguyên tội lỗi của mình. Hiểu biết tình yêu của Chúa mạnh hơn sự chết, mọi người luôn cần được cứu độ, được hưởng ánh sáng tự nhiên, nên rất cần được ánh sáng phục sinh soi chiếu tâm hồn và cuộc đời hiện tại.
Nhiều người đã chia sẻ, tôi thấy thật là khủng khiếp khi nghĩ tới gánh nặng gia đình: còn tiền còn của, thì còn anh anh, em em, hết tiền hết tình, hết vợ hết chồng, hết con yêu ! Đúng, chỉ một số ít người theo Đức Giêsu tới chân thập thập giá đồi Canvê, còn lại vì sợ liên luỵ, sợ nguy hiểm tới tính mạng, kể cả 12 tông đồ, lúc ấy các ông cũng nhát như thỏ mà thôi. Trong đời sống siêu nhiên, lý của kẻ mạnh nhất định không phải do tài giỏi, giầu có, sức khỏe cơ bắp; lý của kẻ mạnh là biết khiêm tốn cậy trông vào sức mạnh của đau khổ thập giá Đức Kitô.
Không biết có khi nào chúng ta đặt vấn đề, nếu tôi có mặt ở thời Chúa Giêsu, tôi có là một Philatô sợ mất ảnh hưởng ? tôi có là môn đệ nhút nhát ? hay tôi sẽ là một người dân vô tội dửng dưng đứng ngoài cuộc ? Gợi lên như thế, cũng là dịp để chúng ta suy xét về con người thật của mình vô cùng yếu đuối, là dễ dàng đứng về phe kẻ mạnh thế, khó lòng đủ can đảm đứng lên bênh vực cho công lý tình yêu thương.
Xã hội hôm nay cho rằng, người khôn ngoan là người biết sống quan điểm: gió chiều nào theo chiều ấy, đỉa bám chân ai, tự người ấy gỡ. Đức Giêsu bị án chết, thế là đủ, không nên kéo theo kẻ khác phải đau khổ, chết thê thảm theo làm gì. Hiện thân của Chúa Giêsu thời nào cũng là người công chính, người dám sống cho sự thật, tuy nhiên người nghèo, người không có địa vị, họ vẫn đang bị đối xử thiếu công bằng, liệu ai trong chúng ta dám bênh vực cho công lý tình yêu thương ? Sau hết, vì tình yêu của Đức Kitô được ban cho người Kitô hữu, chúng ta phải có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô được lớn mạnh lên như một bổn phận, ta hãy sống yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Amen.
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha. Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại Đã có đồng tiền dở cũng hay Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng Tính chi li xem có lợi cho mình Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc...
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giêsu. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
Những người có đức tin mạnh mẽ thích cầu nguyện và mong được tham dự Thánh Lễ và các bí tích vào những ngày cuối đời. Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài cũng thích đến thánh đường. Ngài và các tông đồ tiến về đền thờ trong dịp lễ trọng, lễ ‘Bánh Không men và Vượt Qua’. Hai lễ này xảy ra cùng dịp- ‘Không Men’ vì dân Israelites dời bỏ đất Ai Cập, đến vùng đất chảy sữa và mật ong Chúa hứa ban. Họ ra đi trong hấpt ấp, vội vã. Vội vàng đến độ không đủ thời gian chờ cho bánh lên men trước khi nướng. Vượt Qua còn mang một í nghĩa trọng đại nữa vì Chúa dùng quyền năng rẽ sóng biển giúp họ vượt qua biển an toàn. Vượt Qua còn mang í nghĩa siêu nhiênlà vượt qua thời gian nô lệ tiến đến thời gian làm con cái Chúa, vượt qua bóng tối của sự chết tâm linh, thiếu tự do tôn giáo, quyền làm người để tiến đến cuộc sống mới tự do, tương lai huy hoàng.
Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài và các môn đệ biết rõ nhà nước đang tìm cách giết Ngài. Các môn đệ Đức Kitô biết rõ điều này và các ông đã phản đối việc Đức Kitô về đền thánh khi các ông nói: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (Ga 10,16)
Đức Kitô còn nói rõ hơn khi người phụ nữ đến xức dầu chân Ngài bằng chai dầu thơm đắt giá. Một số người ngồi cùng bàn cho rằng phụ nữ đó kia phí phạm chai dầu đắt giá tốt hơn nên dùng tiền đó bố thí cho người nghèo khó. Đức Kitô biết họ nghĩ thế Ngài lên tiếng bênh vực cô ta và nói rõ lí do: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng tôi” (Mc 14,8)
Đức Kitô trong những ngày cuối đời Ngài xem ra có vẻ bận rộn hơn ngày thường vì còn một số việc Ngài cần làm xong trước khi bị bắt. Đó là việc chuẩn bị bữa tiệc cuối cùng được biết đến là ‘Bữa Tiệc Li’. Ngài đã âm thầm chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết cho ngày lễ, từ nơi chốn đến thực phẩm, phòng ốc và ngay cả phương tiện di chuyển. Các môn đệ dù sống cạnh bên vẫn không hề hay biết chi cho việc Ngài âm thầm chuẩn bị. Họ chỉ biết làm điều Đức Kitô sai bảo và mọi sự đã xảy ra đúng như những gì Ngài chuẩn bị.
Người ta thường chuẩn bị cho ngày chết. Đức Kitô không chuẩn bị cho ngày chết nhưng chuẩn bị cho ngày sống lại. Bữa Tiệc Li là bữa tiệc chuẩn bị cho sự sống lại vinh quang. Tiệc Li có thể hiểu là li trần, dời khỏi trần thế. Dời khỏi trần thế không có nghĩa là chết mà là vượt qua trần thế đến cuộc sống thanh bình muôn thuở. Nếu Tiệc Li không là tiệc sống lại thì không thể giải thích cho việc lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Kitô từ lời nói đến việc làm luôn mang í nghĩa trọng đại, vượt trí tưởng. Trong bữa Tiệc Li Đức Kitô cầm bánh và rượu dâng lời chúc tụng Chúa Cha rồi nói cùng các môn đệ;
Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Ta (Lc 22,19)
Nếu không có sự sống lại thì việc lập bí tính Thánh Thể không có mục đích. Đức Kitô biết rõ Ngài sẽ chết cách đau khổ và Ngài sẽ sống lại vinh quang. Cử hành bí tích Thánh Thể là tuyên xưng việc Chúa sống lại và đoàn liên kết cùng Đức Kitô trong việc bẻ bánh.
Kitô hữu không chuẩn bị chết lành như thường nghe nói nhưng chuẩn bị để gặp Đức Kitô, đoàn tụ cùng Đức Kitô. Theo í nghĩa đó Kitô hữu chuẩn bị cho sự sống lại, cho cuộc sống trường sinh bên cạnh Đức Kitô. Kitô hữu chuẩn bị chết bình an trong Chúa. Lễ an táng là an táng thân xác còn tâm linh thuộc về Chúa nên các bài đọc và lời cầu trong lễ an táng luôn hướng về sự sống lại, sống trường sinh.
Ta vừa đi lại con đường "vinh quang" ngày xưa Chúa đã đi. Chúa đã vào thành Giêrusalem một cách hiên ngang, một cách hoành tráng.
Ta thấy Thánh Matthêu vừa kể lại cho ta kỷ niệm đẹp đó. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Đavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Quá đẹp!
Cũng dễ hiểu bởi lẽ phần đông trong cái đám đông ngày hôm đó là những người được Chúa chữa lành, được Chúa làm phép lạ, được Chúa cho ăn uống no nê. Ta còn nhớ là sau lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều thì dân chúng đã muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua và rồi Chúa phải trốn sang chỗ khác để lánh dân chúng.
Cảnh vinh quang chợt thấy đó để rồi ta bước vào cảnh bi đát của cuộc đời Chúa Giêsu.
Trên con đường Thánh Giá mà chúng ta vừa đi lại, ta thấy quá bi đát cho một phận người, cho một cuộc đời. Mới hôm nao được người ta tôn vinh, chúc tụng, hô hào nào là nhân danh Chúa, nhân danh Chúa, chúc tụng này chúc tụng nọ... để rồi ngày hôm nay lầm lũi lê bước mà không phải lê bước trên con đường bằng phẳng mà phải bước từng bước lên đỉnh đồi.
Phải nói rằng không còn cái nhục nào cho bằng cái nhục này cả. Người ta có làm thịt một con chó, một con mèo người ta cũng không làm như thế. Thế nhưng, nghịch một cái ở đây lại là một con người hẳn hoi nhưng người ta đã hành xử như vậy. Có lẽ không còn một ngôn từ nào để dành cho con người này nữa.
Trong cái đám đông la ó đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá chắc hẳn cũng là cái đám người mà mới ngày hôm kia hôm kìa gì đó chúc tụng tôn vinh. Cũng dễ hiểu và dễ lý giải chứ không khó lắm. Cũng chi do lòng dạ con người bất nhất nó mới ra như thế.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta thấy rõ nét về những con người như thế này. Khi được Thiên Chúa ban cho ơn lành thì nhiệt thành theo Chúa. Thế nhưng khi cơm đủ no, áo đủ ấm thì lại đi thờ thần khác, thần ngoại bang và cứ ngỡ rằng họ là đấng cứu độ đời mình chứ không phải Thiên Chúa.
Những biệt phái, luật sĩ và đám dông dân Do Thái cũng vậy. Họ tưởng nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đến trong thế gian này với dáng vẻ quang lâm oai phong lẫm liệt chứ nào nhục nhã như thế này.
Điều nghi ngờ này không phải chỉ mới ngày hôm nay trên con đường lên núi Sọ nhưng nó xảy đến từ cái ngày Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời. Người ta không thể nào tin nổi Hài Nhi ấy. Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cũng thế, người ta vẫn coi thường và vẫn xem đây là người con của ông phó mộc Giuse, có Mẹ là Maria thôi.
Đơn giản và dễ hiểu bởi lẽ họ không tin nên họ hành xử như thế đối với cái con người ra pháp trường hôm nay. Không phải ra theo kiểu bình thường mà ra theo kiểu kỳ quái không ai hiểu được.
Khi có dịp, ta xem lại bộ phim này ta hình dung ra phần nào phần tủi nhục mà Chúa Giêsu phải chịu trước đám đông dân chúng. Thấy vậy để rồi ta rất dễ suy ra đời ta. Đời ta cũng có khi ở trong cái đám đông đấy và cũng có khi là một trong những môn đệ nhiệt thành của Chúa Giêsu ấy.
Trong vụ án giết cái người vô tội mang tên Giêsu đó, ta là ai ắt hẳn ta là người biện phân rõ hơn ai hết.
Ta có phải là một Philatô sẵn sàng rửa tay vô trách nhiệm trên những chuyện bất công hay không?
Ta có phải là Hêrôđê vì muốn hưởng lợi danh nên muốn giết cái ông Giêsu hay không?
Ta có phải là những môn đệ thân tín cùng chấm chén với Thầy nay lại bỏ Thầy ra đi biền biệt chăng?
Ta có phải là Phêrô đã can đảm chối Thầy mình đến 3 lần khi gà chưa kịp gáy lần thứ 2 chăng?
Hay tệ hơn ta có phải là đệ tử ruột mang tên Giuđa đã cam tâm bán Thầy mình với cái giá quá bèo siêu khuyết mãi 30 đồng bạc không?
Ta là ai trong cái đám đông được chữa lành bệnh, được làm phép lạ, được cho ăn no nê... Nay lại hùa theo đẻ giết Chúa.
Có thể ta cũng sẽ chối bây bây rằng ta không bao giờ làm những chuyện đó. Ta có thể chối người đời được nhưng với Thiên Chúa ta không thể nào chối được.
Ngày hôm nay, bước vào Tuần Thánh, ta cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn. Ta đừng bước nhanh nhưng hãy bước chầm chậm và nhất là để lòng ta lắng xuống để ta nhìn thấy rõ hơn cái khuôn mặt của ta trong vụ án mang tên Giêsu.
Xin Chúa cho ta chìm lắng tâm hồn trong tuần này để rồi ta đối diện với ta, ta đối diện với Chúa để ta nhìn rõ khuôn mặt của ta hơn. Và, ta cũng nên nhớ rằng luôn luôn có một ánh mắt chạnh thương của Chúa Giêsu trên con đường khổ giá luôn nhìn đến đám đông luôn luôn tung hô giết Ngài.
Xin cho ánh mắt của ta chạm đến ánh mắt của Chúa và lòng ta chạm lòng của Chúa cách mật thiết hơn trong tuần Thánh này.
Trong sách “Kẻ du hành”, ông Mattheson kể về nhóm người khám phá ra thứ năng lượng giúp con người đi ngược lại dòng thời gian. Và người đầu tiên dùng tàu du hành để đi ngược dòng thời gian là ông Jairus. Ông là người không tin Chúa, nhứt là không thể tin Chúa Giêsu chịu chết khổ giá vì thương nhân loại. Ông nhứt định đi ngược dòng thời gian đến thời Chúa Giêsu chịụ đóng đinh xem thực hư thế nào.
Không bao lâu, ông đã đi lùi lại thời gian: 100 năm, 1000 năm, 2000 năm… và kìa ông thấy trước mắt 3 cây thập giá. Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây giữa đầu đội mão gai, thân mình đầy máu!... Ông cảm động quá không cầm được nước mắt!... Chẳng ngờ Chúa Giêsu thương loài người đến thế. Và ông đã tin Chúa.
-----
Cái chết đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá là dấu chỉ tình yêu vô biên của Người đối với nhân loại, là lời mời gọi mọi người đáp trả tình yêu của Người bằng sự cải thiện đời sống vì yêu mến Người, và bằng sự thương yêu như Lời Người: “Hãy yêu thương nhau như thầy thương yêu các con”. (Theo “Sunday homilies”).
2. Ba nỗi đau thương
Trong thế chiến thứ hai, Cha Titus Brandsma bị Đức quốc xã bắt lúc làm viện trưởng đại học Hòa Lan, và giam tại trại tập trung ở Đa-Châu trong cái cũi nhốt chó. Lính gác bắt cha phải sủa lên mõi lần chúng đi ngang qua. Thật là nhục nhã xấu hổ. Nhưng Ngài cố gắng cam chịu với Chúa, theo gương Chúa… Cuối cùng, Ngài chết vì bị tra tấn dã man…
Trang nhật ký để lại, Ngài nói: - Tôi chịu nỗi đau đớn tủi nhục nhờ biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ sỉ nhục trước tôi!
Theo Chúa Giêsu chịu thương khó.
-----------
Sự thương khó Chúa Giêsu đã từng là nguồn sức mạnh cho vô số người trong suốt dòng lịch sử. Những ai gặp đau khổ, thử thách, sỉ nhục, thất vọng, chán nản, tủi nhục nhờ Người mà vượt thắng can đảm.
Và Chúa chịu thương khó cả ba hình thức: đau khổ tinh thần trong Vườn, chết đau đớn thân xác khi bị đòn, bị đóng đinh, và đau khổ tâm linh đặc biệt lúc sắp chết trên khổ giá như bị Chúa Cha ruồng bỏ: “Lạy Chúa Con, sao Chúa bỏ con!...”
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba nỗi đau đớn chúng ta có thể gặp trong cuộc sống. Mỗi khi gặp đau khổ thử thách dưới hình thức nào đều có Chúa thông cảm nâng đỡ, nếu chúng ta nhìn lên Người (Theo Cha M. Link)
3. Anh không có gì hơn để cho em
“Phía trên đầu người, chúng đặt bản án xử tội Người viết rằng: Người này là Giêsu, vua người Do Thái” (Mt. 27,37).
Một số thợ lặn đã khám phá chiếc tàu bị đắm. Một trong những vật quý mà họ tìm thấy trong tàu là chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Trên mặt chiếc nhẫn có khắc hình một bàn tay nắm chặt trái tim. Bên dưới có dòng chữ:
“Anh không có gì hơn để cho em”. Dòng chữ đó cũng được khắc vào thập giá Chúa Giêsu:
“Cha không có gì hơn để cho con”
Bằng cái chết đau khổ trên thập giá. Chúa Giêsu đã cho chúng ta tất cả những gì Người có: Mình Máu Thánh Người, tình yêu và mạng sống của Người. vì yêu thương chúng ta và để cứu rồi chúng ta!...
Chúng ta đã cho Chúa được gì? Bao nhiêu? Thời giờ? Sức khỏe? Mạng sống?...Điều gì cản trở chúng ta đáp trả tình yêu vô biên của Chúa?... (Theo “Viễn tượng 2000”).
4. Xử án Thiên Chúa
Một người mơ thấy ngày tận thế. Mọi người được tập trung chịu Chúa phán xét. Nhiều người run sợ, nhưng có kẻ phẫn nộ.
Một phụ nữ nói: Sao Ngài xét xử tôi được? Ngài có biết đau khổ là gì đâu? Còn tôi bị đòn bị đánh muốn chết. Vừa nói nàng vừa vạch tay cho thấy vết sẹo.
Kế đến, một người da đen cúi đầu xuống, cho lộ ra sợi dây thừng trên cổ chỉ vì tội là người da đen, bị bán làm nô lệ!...
Rồi bao nhiêu người tiếp tục tố cáo Chúa: nào là ở trên trời sung sướng, nào là không đổ giọt mồ hôi, nào là không biết gì về đói khát, bệnh tật, tù đày, đau khổ, nhục nhã như con người.
Thế rồi họ đồng thanh kết án Ngài, bắt Ngài xuống sống dưới trần gian như mọi người. Họ còn góp ý:
- Bắt Ngài làm một người Do Thái. - Buộc Ngài phải làm việc bù đầu đến nỗi người nhà cho mất trí. - Ngài phải khổ đau vì bạn thân phản bội. - Ngài phải bị kết án là kẻ lừa đảo và bị xử tử. - Ngài phải nếm cảnh chết chóc cô đơn khủng khiếp vv…
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người đều im lặng… Và bỗng nhiên họ nhận ra Ngài thi hành bản án ấy của họ từ lâu!... (Floor Mc Carthy).
5. Tình yêu đòi hỏi đau khổ
“Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy, chế diễu chán, chúng lột áo điều ra và cho Người mặc lại áo của mình. Sau đó, chúng điệu Người ra để đóng đinh vào thập giá” (Mc.15, 19-20).
Trong cuốn sách “Chúa Giêsu là ai” tác giả Anthony Padovano viết: “Chịu khổ hình thập giá không có nghĩa là chịu đau khổ vì đau khổ, mà còn vì một cái gì khác. Chúa Giêsu chịu đau khổ không phải vì đau khổ tự nó có giá trị, nhưng là vì tình yêu đòi hỏi đau khổ. Chúng ta được cứu rồi không chỉ vì cái chết thể xác củ Chúa Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Tôi đã đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô? (Trích “Viễn tượng 2000”).
“Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình yêu của Chúa Kitô.Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện bằng cái chết của Ngài” (Thánh Phanxicô Salesiô)
6. Chúa vô tội
“Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-Thái không? Bởi ông thừa biết chỉ vì ganh tỵ mà các thượng tế nộp Người” (Mc. 15,9-10).
Một nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi Châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết đau khổ trên thập giá của Người. Người vô tội, nhưng chết vì tội lỗi loài người!...
Ngồi trước bục giảng là tên tù trường. Ông chăm chú nghe nhà truyền giáo. Khi nghe tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, ông đứng phắt dậy nói:
-Ngừng lại. Hãy đem Người xuống khỏi thập giá. Chính tôi mới là kẻ đang bị đóng đinh trên đó, chứ không phải Người, vì Người vô tội, tôi là kẻ có tội.
Phải chăng vì tội chúng ta mà Chúa Giêsu phải chịu chết đóng đinh trên khổ giá, để đền tội chúng ta? (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
7. Chết để cứu con
Bà Giana Moletta qua đời cách đây 30 năm, được Đức Thánh Cha phong chân phước năm 1994.
Bà sinh năm 1922. Lớn lên lập gia đình, sinh được ba người con, trong đó có 2 người làm linh mục, chồng bà làm kỹ sư, bà làm bác sĩ. Cả hai vợ chồng cùng liên kết trong một niềm tin và một lý tưởng phục vụ người nghèo khổ. Thật là một gia dình hạnh phúc! Nhưng thảm kịch đã đến với họ!...
Năm 46 tuổi, bà có thai một lần nữa. Cái nhọt trong tử cung bà lại biến thành ung thư. Là một bác sĩ, bà biết rõ những gì sẽ đến với bà… Nếu giải phẩu để cứu sống bà thì đứa con phải chết. Nếu cứu đứa con thì chính bà phải hy sinh. Cuối cùng bà tự nguyện hy sinh bản thân để cứu sống đứa con!...
----------
Bà Giana Moletta là hiện thân tình yêu Thiên Chúa ở giữa trần gian. Cái chết tự nguyện của bà nối dài cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên thập giá. Bà chịu chết để cứu sống đứa con. Chúa Giêsu chịu chết để toàn thể nhân loại được sống (Theo “Thiên Đàng là thế đó”).
8. Xin phó thác hồn con
“Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. (Lc. 23,46).
Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã bị Đức quốc xã hành hình trước ngày lễ Phục Sinh. Bác sĩ nhà tù nói về cái chết của ông như sau:
“Tôi thấy mục sư Bonhoeffer quỳ trên sàn, chăm chú cầu nguyện. Tôi xúc động bởi cách ông cầu nguyện, thành khẩn và chắc chắn đến nỗi Thiên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. tại nơi hành hình, ông can đảm và bình tĩnh leo lên những bậc thang dẫn đến chỗ treo cổ. Cái chết của ông diễn ra vài giây sau đó. Trong suốt khoảng 50 năm với tư cách một bác sĩ, tôi chưa bao giờ chứng kiến một người chết hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa như vậy” (Ebekhardd Bethge).
----------
Nhờ đâu mà mục sư Bonhoeffer sẵn sàng lãnh nhận cái chết can đảm bình tĩnh như thế? … Vì sao Chúa Giêsu phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha?... Và tôi, tôi quan tâm đến những gì khi biết tôi chỉ còn sống vài giây phút nữa?...
“Chết không phải là nhảy vào khoảng trống, mà là gieo mình vào tay Chúa”. (Pedre Arrupe) (Trích “Viễn Tượng 2000”).
9. Sống vì Đấng đã chết
Một trong những câu chuyện nổi tiếng thế giới là câu truyện về Robinson Crouse, được dịch ra tiếng Việt là “Lỗ-Bình-Sơn phiêu lưu ký”. Robinson là một người rất thích phiêu lưu. Một ngày kia tàu ông bị đắm và tắp đến hoang đảo, ông sống ở đó một mình mười năm tròn.
Một lần kia, ông cứu được một người bản địa khỏi bị bộ lạc giết ăn thịt, và đặt tên cho y là Thứ Sáu. Vì cảm kích ơn cứu tử, Thứ Sáu bằng lòng làm tôi ông suốt đời. Suốt đời còn lại, y chỉ sống cho Robinson…
----------
Khi anh Thứ Sáu được cứu sống. Robinson không phải thiệt mạng, không bi thương tích cũng chẳng bị thiệt hại gì, mà anh Thứ Sáu còn sẵn lòng làm tôi tớ ông suốt đời, huống chi Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng, chịu thương tích và đổ hết máu ra cứu chúng ta khỏi chết, chúng ta phải có thái độ nào đối với Người? (Trích “Chuyện hay ý đẹp”).
Thánh Phao lô dạy:
“Đức Ki tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không phải cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta”. (2Cr.5,15) 10. Chiến thắng nhờ thập giá
Lúc 23 tuổi, Constatin được quân La mã đóng tại York tôn lên nối ngôi người cha là Constantius. Để được lòng đế quốc, ông phải chiến thắng kẻ thù.
Ngày 28 tháng 10 năm 312, ông đến sông Tiber, khúc có cầu Milvian ở Bắc La mã, quân Maxentius mạnh hơn ngăn chận không cho ông qua sông. Lúc đó thình lình ông thấy một cây thập tự sáng chói trên bầu trời, phía dưới có hàng chữ: “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng” (In hoc signo, vinces). Sáng hôm sau trước khi vào trận, ông vội vã ra lệnh tướng sĩ sơn hình thập giá trên mũ của họ và của ông. Họ xáp chiến can đảm và ông đã thắng trận. Ông tin nhờ thập giá mà ông chiến thắng. Do đó năm 313, ông đã ký sắc lệnh Milan, hủy bỏ cuộc bắt đạo và cho mọi người hoàn toàn tự do theo đạo nào mình chọn.
----------
Constantin nhờ thập giá mà thắng được giặc. Chúng ta sẽ nhờ ai để chiến thắng ma quỷ xác thịt thế gian? … Phải chăng thánh Phao lô trả lời: “Chính người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1Gr.1,8) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
Linh mục George Parkec là giám quản xứ Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Hoa kỳ. Năm 1996, Ngài đã được nghị sĩ Dodd giúp cho số tiền 5000 đô la. Nhưng ngài đã gửi trả lại để phản đối ông ta là một nghị sĩ Công Giáo mà liên tục bỏ phiếu ủng hộ dự luật phá thai
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích mến phục, nên đã gửi giúp cha khoảng 61.000 đô la. Nhưng nghị sĩ Dodd bực tức, đã vận động cất chức quản xứ của Cha, buộc lòng cha phải nghỉ hưu đang khi còn có thể phục vụ giáo dân được.
----------
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu tâm trạng Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Thánh Gioan thuật lại: “Sắp đến lễ Vượt qua, nhiều người đi Giêrusalem…Họ tìm kiếm Chúa Giêsu và hỏi nhau: Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ. Còn bọn tư tế và biệt phái thì ra lệnh: Ai biết ông ấy ở đâu phải báo cho họ đến bắt” (Ga. 11,55-57). Như thế, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không chút sợ hãi. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì yêu thương nhân loại, Người không sợ bị bắt bớ, chết chóc. Người cương quyết lên Giêrusalem đang khi người ta tìm bắt giết Người.
Chúng ta có dám hy sinh vì Chúa vì anh chị em chúng ta như thế không?
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
- Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
- Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
- Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
----------------------------------- [i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành. [ii] sđd trang 232-269.
Hôm nay, tường thuật về cuộc thương khó được trích từ Tin Mừng theo thánh Maccô. Đây cũng là một chứng tá vì, theo truyền thống, thánh Maccô đã có mặt trong vườn Cây Dầu: Một thanh niên theo Chúa Giêsu; Người chỉ khoác một tấm vải trải giường. Người ta túm lấy anh, nhưng anh ta bỏ tấm vải trải giường lại mà thoát thân”. Thánh Maccô cũng là kẻ đã được thánh Phêrô trao đổi tâm sự: thánh Maccô đã là bạn đồng hành với thánh Phêrô sau khi Chúa Phục Sinh và hai người đã cùng nhau rao giảng Tin Mừng. Maccô cũng đã nhiều lần nghe kể câu chuyện về con gà gáy vào lúc rạng đông và kết thúc cái đêm phản bội ấy.
Vậy đây là một vụ án với một chứng nhân trực tiếp, một chứng nhân nhớ lại nhiều chi tiết mà những người khác không nhớ.
Một vụ án bình dân.
Nơi thánh Maccô, vụ án của Chúa Giêsu là một vụ án bình dân. Một con người bị điệu ra trước đám đông, một đám đông kinh ngạc vì tất cả những biến cố đang dồn dập xảy đến. Đám đông này ngày mai sẽ không biết trả lời thế nào nếu người ta hỏi tại sao đã la lên: “Giêsu Nadaret” thay vì “Barabas”. Quần chúng hành động theo bản năng vì hoảng hốt; họ la lên trước một việc nhất thiết phải xảy đến.
Trong vụ án này có nhiều nhân vật, đó là những chứng nhân ít được biết đến mà các thánh sử khác đã bỏ qua, và những chứng nhân này hầu như không có gì để làm cả, nhưng vẫn có mặt ở đó.
Còn chúng ta, chúng ta làm gì trong vụ án này? Chúng ta, những chứng nhân trực tiếp cuộc tử nạn của Chúa Kitô ngày hôm nay: chúng ta, trong một đám đông vô danh, chúng ta không biết mình la lên vì ai!
Lễ Lá cho chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu.Ngày Chúa khải hoàn đi vào Giêrusalem tưởng chừng như một cuộc vinh quang lớn của một Vị Vua. Người ta trải đường cho Chúa, trẻ con cầm cành Ô liu, và cành vạn tuế để tung hô Chúa. Người ta tưởng tượng đây là cuộc chiến thắng khải hoàn của một Vị Vua thắng trận.Tuy nhiên Chúa vào Giêrusalem để chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha.
Thực vậy, con đường của Chúa Giêsu là con đường Thập giá. Con đường đau khổ, con đường hẹp, nhưng đó là con đường tình yêu.Tin Mừng của Thánh Gioan cho chúng ta hay Chúa Giêsu phải can đảm hết mình bởi vì người Do Thái, đặc biệt các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục đang tìm cách bắt Ngài. Do đó, việc đi vào Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua làm chúng ta không thể nào tin nổi:” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu ? “. Bọn Tư tế và Biệt phái đã ra lênh: bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “ (Ga 11, 55-57 ). Và như thế, mọi người đều lo ngại cho việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có ý nghĩa gì ? Và dân chúng đón chào Ngài có ý làm sao ? Thánh Gioan cho chúng ta hiểu:” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cưỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cưỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các cành thiên tuế và reo lên:” Hosanna ! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen “ ( Ga 12, 13 ). Thánh Gioan kết thức đoạn Tin mừng này bằng lời bình luận bất thường như sau:” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa đến chốn vinh quang, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).
Chúng ta hiểu thế nào về sự trái nghịch đó ? Điều này nằm nơi chú lừa ! Người ta thường cho rằng lừa là con vật chậm chạp, đần độn. Nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại khen con vật này. Họ cho lừa là con vật hiền hòa khác hẳn với giống ngựa là giống vật dùng cho chiến tranh thường chở các chiến binh vào chiến địa vv…Ngôn sứ Giacaria đã tiến báo Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Đức Giêsu là như thế, Ngài quả quyết hai điều: thứ nhất Ngài là Đấng Mêsia của dân Israen, thứ hai Ngài vén lộ, mạc khải cho muôn dân biết sứ mệnh Thiên Sai của Ngài là gì ?
Vâng, vào thời Đức Giêsu người ta hiểu rất mơ hồ về vai trò, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai. Họ cứ nghĩ Đấng Thên Sai phải là một Vị Vua oai hùng đánh Đông dẹp Bắc, quy tụ mọi người Israen tản mác, đánh đuổi Đế Quốc La Mã ra khỏi vùng Palestina, đẩy chúng nhào xuống biền khơi vv…Đức Giêsu cỡi trên con lừa hiền lành tiến vào Giêrusalem đã đi ngược lại ý tưởng của họ. Đức Giêsu lúc đó không đáp ứng được đúng yêu sách và những điều họ suy nghĩ về Ngài. Ngài phải là Vị Vua chinh chiến, bắt quân thù làm nô lệ và hầu hạ mình. Nhưng Đức Giêsu lại là một vị Vua hiền lành, yêu thương, nhân hậu đến để phục vụ chứ không để được phục vụ. Ngài cúi mình rửa chân cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu đã không làm những việc nhưng dân chúng tưởng tượng, Ngài đến để quy tụ con người, những người thành tâm để chống lại nghèo nàn, đói khổ. Đức Giêsu đến không để kết án nhưng để tha thứ. Đức Giêsu đến để đem hòa bình, tình thương cho con người cho mọi người.
Hôm nay, chúng ta đón Đức Giêsu và tung hô một Vị Vua hiền hòa, khiêm nhượng. Hosanna! Tung hô Con Vua Đa Vít !.
Đi vào cuộc thương khó và Phục sinh của Đức Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa bằng đời sống đạo đức, thánh thiện của chúng ta. Hãy làm những việc tử tế và tỏa sáng để đời số của mỗi người chúng ta luôn tỏa chiếu ánh sáng huy hoàn của Thầy Chí Thánh: Vua Giêsu hiền từ, nhân hậu và đầy lòng Thương Xót.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận con đường Thập giá, con đường mà Chúa đã đi để cứu rỗi nhân loại, cứu độ nhiều người.Xin cho chúng con đi vào Tuần Thánh với tất cả tấm lòng yêu thương, với tất cả đức tin của chúng con.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa đi vào Giêrusalem để làm gì ? 2.Dân chúng tung hô Ngài để làm gì ? 3.Con lừa theo nghĩa người đời và theo nghĩa các nhân vật Kinh Thánh ? 4.Vua Giêsu là Vua thế nào ? 5.Dân Do Thái nghĩ gì về một Vị Vua mà họ mong đợi ? ----------------------------
Chúa nhật Lễ Lá năm B hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta đọc và nghe bài Thương Khó theo thánh Marcô. Tác giả Tin Mừng đã làm nổi bật lời của viên sĩ quan Rôma, người ngoại quốc, sau khi tham dự vào số những người hành quyết Chúa Giêsu, chứng kiến tận mắt cảnh Chúa bị đánh đòn, bị ngược đãi, bị treo trên thập tự giá và trút hơn thở, ông đã phải thốt lên cách ngạc nhiên: “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Câu “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39) không phải dễ để viên sĩ quan tuyên xưng như thế. Anh đã thấy gì nơi khuôn mặt hầu như không còn hình dạng người ta nữa, để đưa ra một tuyên bố như vậy. Bằng mọi cách, anh phải khám phá ra Chúa Giêsu là người vô tội, bị bỏ rơi, và thậm chí bị phản bội; hay có thể là một con người bị đối xử không công bằng trong một xã hội bất công; Người không hề mở miệng, chịu đau khổ mà chẳng than van, chấp nhận mọi sự xảy đến cho mình, thật không hiểu nổi. Có lẽ, viên sĩ quan này cảm thấy mình là một kẻ đồng lõa với sự bất công khi thấy người vô tội mà anh không giơ ít là một ngón tay lên để ngăn chặn nó, anh nghĩ mình giống như bao người đã rửa tay trước những khó khăn của người khác.
Hình ảnh của viên sĩ quan người Rôma là hình ảnh của người có cái nhìn với lòng thương xót. Cùng lúc đó, niềm tin của một người ngoại đạo được tuyên xưng. Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã bị đánh đòn, bị bỏ rơi và bị giết chết, đồng thời, anh tin vào ý nghĩa sâu xa của sứ mạng, với “cái còn lại của tình yêu” và tin vào ý nghĩa sứ mệnh cao cả của Chúa, mà những vết thương còn hằn trên thân xác là bằng chứng.
Nhưng trước khi những điều điều trên xảy đến, Chúa Giêsu đã tiến vào Giêrusalem và được dân chúng tung hô là Đấng nhân danh Chúa mà đến (x.Mc 11,9). Hôm nay, chúng ta cũng hô cũng hát, nhưng tiếng hô hát của chúng ta không phải là ảo tưởng và vô thức, giống như của dân thành Giêrusalem xưa. Lời tung hô của chúng ta hướng về Đấng đã trải qua thử thách đến nỗi hiến thân hoàn toàn và đã chiến thắng.
Sau cùng, nếu khi xưa dân chúng cầm cành lá dừa vừa đi vừa hát, họ còn trải áo lót đường Chúa đi. Thì hôm nay chúng ta sẽ không trải áo hoặc càm cành lá vô tri, những cành cây chỉ làm vui mắt trong chốc lát. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta giục lòng tin thật, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta. Amen.