Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'". Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”. Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”. Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. - Ðó là lời Chúa. ------------------------
Đoạn Phúc Âm này tiếp theo đoạn kể việc Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Thánh: MC1-C51
* Đoạn Phúc Âm này tiếp theo đoạn kể việc Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Thánh Thần ngự nơi Đức Giêsu qua phép rửa đã không dẫn Người đi chịu cám dỗ nhưng là sức mạnh của Người trong suốt thời gian này. Nếu qua phép rửa tại sông Giođan chúng ta được cho biết thiên tính của Đức Giêsu thì qua việc chịu cám dỗ, chúng ta nhận ra nhân tính của Người.
* Hoang địa được coi là nơi trú ngụ của ma quỉ (Lc 8:29, 11:24)
* (c.2) Bốn mươi ngày của Đức Giêsu nhắc lại bốn mươi năm dân Do Thái lưu lạc trong sa mạc (Nhị Luật 8:2). Trong khi bốn mươi năm của dân Chúa được mô tả là những năm thử thách và thất bại (CVTD 7:39-43), thì ngược lại, bốn mươi ngày của Đức Giêsu là những ngày chịu thử thách, nhưng trung thành và chiến thắng.
* (c.3) Làm cho đá hóa ra bánh: Đức Giêsu bị cám dỗ sử dụng uy quyền của mình cho mục đích cá nhân thay vì vâng lời Đức Chúa Cha.
* (c.4) "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh": Đức Giêsu dùng lời Kinh Thánh trích từ sách Nhị Luật (8:3) để trả lời ma quỉ. Tương tự, những câu 8 và 12 cũng được được trích từ sách Nhị Luật 6:13,16.
* "Con Thiên Chúa": Thánh Luca gián tiếp nhắc lại phép rửa của Đức Giêsu, nơi đó Đức Chúa Cha đã phán: "Con là Con của Cha" (3:22)\. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã vâng lời Cha và không sa ngã khi bị cám dỗ, trái lại dân Do Thái, cũng là con của Thiên Chúa, đã sa ngã và bất phục tùng.
* Cao điểm của những ngày chịu cám dỗ là tại Giêrusalem. Chính nơi đây ma qủi sẽ trở lại khi thời cơ thuận tiện. Nhắc đến Giêrusalem ngay từ những giây phút Đức Giêsu chuẩn bị cuộc đời rao giảng, Thánh Luca như có ý hướng dẫn đọc giả nhìn về thánh đô nơi Đức Giêsu sẽ chiến thắng sự dữ để lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện.
* (cc.10-11) Ma qủi dùng Kinh Thánh (TV. 94:11-12) để thử thách Đức Giêsu. Kinh Thánh nếu bị diễn giải sai sẽ chẳng có giá trị nữa.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỉ. Qua ngòi bút của Thánh Luca, Đức Giêsu chính là con người mà Gioan Tẩy Giả đã nói: "Đấng có quyền thế hơn" (3:16)
Suy Niệm
1. Qua việc Đức Giêsu chịu cám dỗ tôi đã học được điều gì?
2. Nếu ma quỉ biết được ba nhược điểm của tôi, thì đó là những điểm nào?
3. Trong cầu nguyện, tôi hiện diện bên Đức Giêsu, hình dung sự mệt nhọc, đói khát, nhưng lòng cương quyết của Ngài muốn vâng phục Thánh ý Cha.
Cuộc đời là một trận chiến. Dù muốn hay không con người cũng phải chiến đấu để tồn tại.: MC1-C52
Cuộc đời là một trận chiến. Dù muốn hay không con người cũng phải chiến đấu để tồn tại. Không chiến đấu đồng nghĩa tự đào thải mình. Trong Giáo Hội Công Giáo, người Kitô hữu chúng ta không ngừng được mời gọi sống chiến đấu theo gương của Đức Giêsu.
Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Đức Giêsu vào sa mạc để đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Đức Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn Thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự có khác nhau. Theo Thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Đức Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Đức Giêsu đi lệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà Thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế. Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!" (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Trong Cựu Ước, dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành niềm tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: "Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa" (Đnl 8, 3). Đức Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi người được sống.
Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi" (Đnl 6, 13).
Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Đức Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Nên Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng "Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài nời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.
Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Satan: "Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi" (Đnl 6, 16).
Đức Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường thập giá. Cuối cùng, Đức Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Đức Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua hết keo này đến keo khác.
Đọc lại đoạn phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hôi muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu trong đó sứ mạng của chúng ta là phải chiến đấu với Satan. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan, đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất Con Thiên Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta. Đức Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không thể miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.
Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người. Chẳng hạn, cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân mình đã đánh mất lương tâm, chà đạp mọi qui luật của đạo đức... Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc nào không hay.
Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hòa, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực...đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham danh vọng và quyền bính vẫn làm cho nhiều người bước vào.
Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ. Đức Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí mà Đức Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà Thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trang bị đầy con người chúng con bằng tâm tình của Chúa, biết vâng theo ý Chúa Cha, bằng sự gẫm suy và thực hành Lời Chúa, để chúng con luôn can đảm đứng về phía Chúa mà chiến đấu với những thế lực sự dữ, những khó khăn trong đời và chúng con ước mong cũng chiến thắng như Chúa. Amen.
Người mẫu tuổi teen mới nổi người Brasil, Maiara Galvao Vieira, 14 tuổi, cao 1.70 nhưng chỉ: MC1-C53
Người mẫu tuổi teen mới nổi người Brasil, Maiara Galvao Vieira, 14 tuổi, cao 1.70 nhưng chỉ nặng có 38 kg, bị chết vì chứng biếng ăn chỉ trong vòng 3 tháng trở lại đây. Trước cái chết của Galvao Vieira, 2 người mẫu Brazil khác là Ana Carolina Reston, 21 tuổi và Luisel Ramos, 22 tuổi cũng đã chết vì những căn bệnh liên quan tới việc nhịn ăn. Sự việc nghiêm trọng đến nỗi Hiệp Hội Người Mẫu Brazil đã phải ban hành một qui định hạn chế các người mẫu nhịn ăn tham gia trình diễn (Dantri.com số 19.01.2007 ).
Báo chí thời gian qua cũng nhiều lần nêu lên sự kiện cánh mày râu “lấn sân” nữ giới: Ngày càng có nhiều người đàn ông chú ý đến hình thức bề ngoài của mình bằng việc bỏ tiền đi làm thẩm mỹ viện: hút mỡ bụng, nhuộm tóc, căng da mặt, cấy tóc... Điều gì khiến đàn ông làm như vậy ? Câu trả lời: Sức ép của cuộc sống; kinh tế khá giả; nỗi lo mất giá trước phụ nữ. Trong thần thoại Hy Lạp, Narcisse si mê mình đến độ ngắm hình ảnh của mình ở trong lòng suối mãi cho đến chết ( chỗ anh ta chết mọc một loài hoa mang tên anh ta, – Narcisse – tiếng Việt gọi là hoa thủy tiên )
Một hình ảnh của những cô gái tự hành xác và một hình ảnh của những người đàn ông chăm sóc thân thể, dù chưa đến độ “nữ tính hoá”, đều có cùng một xuất phát điểm và cùng một đích đến: mong được đẹp lòng vừa ý người khác, cho dù đó là để có một dáng vẻ bề ngoài hấp dẫn ( ! ) hoặc để giữ các vòng đo “lý tưởng” ( ! ). Họ hy sinh rất nhiều, kiêng khem, tập luyện, tốn giờ tốn bạc không ít. Điều này buộc ta phải suy nghĩ nhiều khi bước vào Mùa Chay và nhất là với những cơn cám dỗ mà Chúa Giê-su trải qua hôm nay, cũng là những cám dỗ mà mỗi chúng ta phải trực diện hằng ngày, phải tự giải quyết. Vậy, bài học hôm nay hay đúng hơn, mẫu gương Chúa Giê-su để lại cho chúng ta, là gì ?
Thân xác con người vẫn luôn là “ngựa bất kham” ! Sống nghèo khổ đến tận cùng như Thánh Phanxicô Khó Khăn, mà vẫn chịu những cơn cám dỗ xác thịt đến mức làm cho ngài phải rên khóc. Cầu nguyện không đủ, đánh tội không xong, lăn lộn trong tuyết giá vẫn chẳng làm sao hạ được lòng tà ngùn ngụt, ngài đã phải trần truồng nhảy vào bụi gai, để cho các gai nhọn đâm sâu nát da thịt, thì lúc đó cám dỗ mới chịu rút lui. Hằng năm đến Mùa Chay, Thánh nhân nhờ một bác lái đò chèo ra một đảo vắng và chỉ mang theo hai chiếc bánh mì nhỏ. Sau bốn mươi ngày ăn chay cầu nguyện, ngài trở lại đúng nơi hẹn với bác lái đò, để được đưa về lại đất liền. Bác lái đò để ý hai chiếc bánh vẫn gần như còn nguyên, chỉ mất một góc nhỏ. Năm nào cũng như thế ! Về sau Thánh Phanxicô mới hé xa xa cho biết: Ngài cố tình bẻ một chút để ăn, vì không dám hoàn toàn giống như Thầy Chí Thánh.
Ngựa thì phải có cương, có hàm thiếc để thuần hoá và nghe theo điều khiển, không thể để nó mặc sức bay nhảy, phá phách theo ý. Cương dành cho con người chính là đời sống đạo; hàm thiếc để chế ngự thói hư tật xấu chính là thực hành chống trả các cám dỗ, để làm sao có được một “thói quen”, một “phản xạ” nhanh nhạy trước những hiểm nguy đe dọa linh hồn. Khác với thuyết nhị nguyên, ngoài gian nan đấu tranh với cái ác, với sự dữ, với ma quỷ, thì trong mỗi con người luôn có sự giao tranh giữa tính hai mặt ( duality ) của nó: XÁC và HỒN. “Linh hồn thì nhanh nhẹn, còn thân xác lại nặng nề yếu đuối”: đó là hệ quả của tội nguyên tổ, nhưng đó lại cũng là nét đẹp của con người, khi con người có thể tự chiến thắng bản thân bằng tự do và bằng cầu nguyện. Đó là cái giúp cho Ki-tô hữu trưởng thành trong đời sống Đạo, nên giống Chúa Ki-tô và lập công đức trước mặt Chúa. Cuộc chiến càng quyết liệt, thì chiến thắng càng vẻ vang và người chiến thắng, dù có sứt đầu mẻ trán ít nhiều, thậm chí sống sót sau chiến đấu, cũng giúp tôi luyện con người.
Ngày xưa, xác thịt là một trong “ba thù” ( ma quỷ – thế gian – xác thịt ) luôn tìm cách làm con người bị sa ngã, xa lìa Chúa. Muốn chiến thắng ba thù, phải “tề gia, nội trợ” truớc đã, nghĩa là thắng dẹp được xác thịt mình, chế ngự được con ngựa bất kham là bản thân. Ngày nay không còn việc mặc áo nhặm, dùng “lòi tói” ( dây da gắn viên sắt ) đánh tội, nhưng tinh thần ăn chay hãm mình thì vẫn chẳng khác chút nào: phải thắng dẹp xác thịt. Buông tuồng theo hỉ nộ ái ố và tham sân si, làm sao có thể vác thập tự theo Chúa Giê-su và rao giảng Tin Mừng Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa ?
Một trong các mệnh lệnh của Đức Mẹ Mễ Du là ĂN CHAY MỖI TUẦN HAI NGÀY, thứ tư và thứ sáu. Mệnh lệnh của Mẹ, dù hiện ra ở Fatima, ở Lavang, ở Guadeloupe,.v.v... đều kêu gọi ăn chay, cầu nguyện. Trong một thế giới chạy theo tiện nghi và hưởng thụ vật chất, tôn thờ xác thịt, sa chìm vào những trò dâm ô, trụy lạc, còn tâm hồn thì đầy dẫy hình ảnh, ước ao xấu xa hèn hạ, thì vũ khí duy nhất chính là hãm dẹp thân xác, dùng chay tịnh để gắn yên cương và hàm thiếc vào con ngựa không chịu thuần hoá hoặc rất dễ sa đà mà trở nên bất kham.
Lạy Chúa Giê-su, châm ngôn người Pháp có câu: ”chassez le naturel, il revient au galop”. Câu tiếng Việt cũng tương tự: ngựa quen đường cũ! Chỉ cần chúng con chủ quan, ngủ say trên chiến thắng, là những thói hư tật xấu lại quay trở về như phi mã. Những câu này giúp chúng con, Ki-tô hữu, có thêm cái nhìn đúng đắn về ma quỷ và cám dỗ. Chúng luôn rình rập và tìm cơ hội, tìm sơ hở của con người để làm cho con người sa ngã, phạm tội. Chúng con không thể chỉ dùng kiên trì và khôn ngoan để chống lại, vì đơn giản là ma quỷ có thừa kiên trì và khôn ngoan, vượt xa chúng con. Còn lại là làm sao chúng con luôn có tinh thần và thái độ cảnh giác cao độ, bằng chay tịnh và nhất là bằng sống Lời Chúa: con người không chối bỏ “cơm bánh”, nhưng còn – và chủ yếu – là sống bằng Lời Chúa. Thiếu những điều ấy, chúng con đã thua trận trước khi giao tranh !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 38
Thử thách là mối nguy cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh hơn, vì trong cơn: MC1-C54
Thử thách là mối nguy cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh hơn, vì trong cơn thử thách sự tự do của con người luôn luôn hướng đến tích cực. Thử thách giống một nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng và sứ truyền cảm của bản hoà tấu. Đức Giêsu đã muốn chịu thử thách của cám dỗ. Suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa gặp thử thách, nó là đối vị với ý định bên trong của Người. Tất cả con người Chúa hướng tới mục đích hoàn tất ý muốn của Cha. Chúa đã muốn đối đầu với thử thách trong tư thế lãnh đạo Giáo Hội. Chúa đã chịu thử thách, tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu thành phần Giáo Hội cũng phải qua cầu thử thách và phải phản ứng như Chúa. Giống Thày, tín hữu phải dùng thử thách làm dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn, nghĩa là thực hiện một sự gia nhập vững bền hơn vào thánh ý của Cha qua trung gian Đức Kitô.
Thử thách có những hình thức chính yếu nào?
1) Trước hết, là từ chối thân phận làm người với tất cả thực chất của nó. Ma quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của Người là đói thì cần có của ăn. Biết bao phen chúng ta chẳng nghe thấy người ta nói: Thiên Chúa đáng lẽ phải làm thế này thế nọ để thiết lập sự bình đẳng, để mọi người có cơm ăn áo mặc, để khỏi lao động vất vả, v.v… Thiên Chúa trả lời rằng nhân loại được ban cho một trí tuệ, một ý chí, một thân thể để tuỳ tiện sử dụng. Thảm trạng con người là ở chỗ khác. Hoạt động làm cho người ta quên mất rằng con người không chỉ sống bằng lương thực vật chất. Đức Giêsu không muốn bỏ thân phận làm người của Chúa cho nên Chúa từ khước biến đá thành bánh ăn. Tuy nhiên Chúa nói thêm rằng con người cũng sống bởi bác ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, thiếu của ăn thiêng liêng thì của ăn nuôi xác cũng sẽ thiếu, hoặc sẽ hư đi.
2) Hình thái khác của thử thách là muốn liên hiệp Thiên Chúa với những tính toán mờ ám. Ma quỷ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá chủ thế giới”. Đây là chước cám dỗ thường xảy ra.
Những luận điệu nào bàn kế cho Giáo Hội: “Nếu chịu liên minh với thế gian, Giáo Hội sẽ thu phục được thế gian?”. Giọng lưỡi nào xui chúng ta: “Nếu bạn khôn khéo điều đình thu xếp với Sự Thật, với bổn phận, v.v… bạn sẽ làm được điều này điều nọ?” –Nhưng mệnh lệnh của Đức Giêsu là: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên Chúa mà thôi”
3) Một xu hướng nữa là muốn thay thế những phương tiện của Thiên Chúa bằng những phương tiện khác thường. Chủ trương cứu độ của Đức Kitô, tức là Tin Mừng về một thế giới tốt hơn, lan truyền bằng nhưng phương tiện người ta mệnh danh là “nghèo nàn”, trong đó có nhục nhã, đau khổ và chết. Con người nhất là con người có nhiều kiến thức, luôn luôn có khuynh hướng lựa chọn những phương tiện có nhiều uy thế. Chẳng hạn, uy thế của một triết lý nào đó mà trùm lấp Phúc Âm thì kéo theo một rủi ro lớn, có thể thay đổi ý nghĩa và tinh thần Phúc Âm, cho dẫu những người chất phác thán phục hết sức trước “thắng lợi” của nó. Một mệnh lệnh khác của Chúa Giêsu là: “Ngươi chớ cám dỗ Thiên Chúa là Chúa ngươi”, nghĩa là chớ lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vào những việc gì ở ngoài công cuộc của Người.
Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: MC1-C55
Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi tiếng của nước nầy, thường được mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá”.
Ngọn đồi này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận thì toàn dân trong làng tập trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập giá.
Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết bao nhiêu người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập của xứ sở. Binh lính và công an đã làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến, người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi.
Ngày nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng tự do, và cuối cùng, của chiến thắng.
Anh chị em thân mến,
Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng có ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.
Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa mạc đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Chúa Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu đi trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa của đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế.
Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Chúa Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!” Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Chúa Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi người được sống.
Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Chúa Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Chúa Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl 6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai nhìn nhận rằng: Chúa Giêsu chẳng hề có dụng ý tranh cướp quyền lực và vinh quang của Đế quốc Rôma.
Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ ba là Satan xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Chúa Giêsu không theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.
Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường tuyệt vọng nhất – con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua dài hết keo này đến keo khác. Nó không còn chước nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào Giuđa Iscariôt (một trong mười hai môn đệ) để nộp Ngài. Trong cuộc giao chiến này, Satan sẽ cướp được mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì khác ngoài cuộc sống trần gian thì Satan đã thắng rồi. Nhưng chính lúc cướp được mạng sống của Chúa Giêsu, Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại và đặt Ngài làm Chúa, khiến cho mọi loài trên trời dưới đất khi nghe Danh Giêsu thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Đây là cuộc chiến thắng dứt khoát và vĩnh viễn.
Anh chị em thân mến,
Đọc lại đoạn Phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất con Thiên Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa Chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.
Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người.
Cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân mình đã tán tận lương tâm, chà đạp mọi quy luật của đạo đức… Có những người, vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng sinh sát anh em đồng bào mình… Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc này không hay!
Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Chúa Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham quyền bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều người mong bước vào.
Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa, nếu không muốn nói là còn lộ liễu hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.
Trong khi đem bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống: MC1-C56
Trong khi đem bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống đã thiết lập giữa phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh này khi nói tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa bản gia phả và sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách là Con Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa Giêsu sắp chịu thử thách. Người được dẫn vào sa mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con người có thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần hay đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.
Luca mượn từ tài liệu “Nguồn các lời” một sắc thái Kitô giáo về Chúa Kitô được cấu trúc bằng ba lời trích dẫn mà ông chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh hoạ một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường hợp duy nhất trong văn chương Tin Mừng: ở đây Chúa Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con Thiên Chúa phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã chịu trong cuộc xuất hành và họ đã sa ngã; khi lợi dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta canh chừng khỏi tái phạm những lầm lỗi tương tự. Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như truyền thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy trong Matthêu: bánh (chỉ tìm của cải vật chất), chóp đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian (thoả hiệp với cái ác để bảo đảm quyền lực Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để cám dỗ sau cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.
Đối thủ của Thiên Chúa –được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ trời. Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở vai trò của Người trong lịch sử cứu độ, khi bằng cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện một Công vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ mạng đích thực của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có lợi cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng như dùng quyền năng Con Thiên Chúa của mình để tự bảo vệ… và quyến rũ người Do Thái bằng những phép lạ có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở câu 12). Thấy tên quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái chống lại niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói về Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối Đấng bị đóng đinh đã sống lại.
Như vậy cả ba lần, sự trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ đã bị thử thách. Thử thách chót chính là … thử Chúa bắt Chúa phải ra tay. Đó là lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ đòi một phép lạ bằng những lời này; “Chúa có ở với chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép lạ để cứu mạng mình. Ngài cũng sẽ không xin điều đó khi Ngài ở trên thập giá (23,35).
Bởi vì Luca đã thấy rõ cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu được các sứ thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú ý về ma quỷ. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của Ngài, quỷ đã thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến và nói rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật chính và giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ đó là thử thách đầu tiên của một cuộc chiến sẽ kết thúc trên thập giá… và ở ngoài ngôi mộ Phục Sinh!
Sự chống đối giữa ma quỷ và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại giáo huấn này về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình ảnh. Chẳng hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn núi rất cao từ đó người ta có thấy tất cả các nước trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do Thái giáo, nhưng có thể người h luật pháp lại không hiểu nổi? Ông viết “trong giây lát” (c.5): bản âm không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời gian!
Người ta sẽ hỏi đâu là nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố đúng thời gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật trong một nơi không rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám dỗ dĩ nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ Mêsia trần tục, những cám dỗ ấy là một chiều kích thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có những dấu vết chính xác về các cám dỗ ấy trong một tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42…), và đã trở thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần và đau khổ. Các môn đệ là chứng nhân và sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải hiểu rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.
Một lần nữa, thử thách theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không phải là tội. Như tất cả mọi người, Con Thiên Chúa đã kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: “Con ơi! Nếu con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách” (Ch 2,1).
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.
Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách: MC1-C57
Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép rửa ở sông Giođan "nhận chức" tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để hoàn thành công trình của mình.
Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn không?
Tôi dùng tưởng tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới. Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một thời gian trong "hoang địa"?
Tại đây Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.
Theo Luca, cơn "cám dỗ" mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa. Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian "thử thách". Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem mình có thể làm được những gì và "đưa ra bằng chứng về chính mình". Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử thách", theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa "đừng để chúng con xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên: Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng "trung tín" của Người đối với Chúa Cha.
Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói.
Tôi ngưng một lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ vì đói! Bao tử co thắt - chóng mặt, nhức đầu.
Đa số các tôn giáo lớn, đều có việc thực hành "chay tịnh" tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống, họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: "Sự tự chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn chay" tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này không?
1. Cơn cám dỗ thứ nhất.
Bấy giờ quỷ nói với Người: "Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi".
Cơn cám dỗ vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ "lệch lạc", trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: "Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều đó.
Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơn bánh".
“Con người". Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại để phát huy giá trị của con người trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay: Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách... sao?
Trong Mùa Chay này, chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?
2. Cám dỗ thứ hai.
Quỷ đem Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".
Rõ ràng, trình thuật này không phải là một "phóng sự" của một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng trưng "tất cả những hình thức cám dỗ" (Lu ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp “thực sự” suốt cuộc đời của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này, cám dỗ để được "quyền hành thế gian", đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã phải đẩy lui cơn cám dỗ "cứu thế nhất thời" mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông "vua của thế gian" này theo kiểu vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương quyền để làm người "nghèo hèn" "người tôi tớ" (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận "yếu đuối" (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại". Cơn cám dỗ về "quyền hành" cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp đặt, và lợi dụng.
Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi". (Đnl 6,13)
Chống lại những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong "40 năm", và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì khác".
Câu trả lời của Đức Giêsu là "không có gì hơn Thiên Chúa". Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, "những ý thức hệ chính trị", những tiến bộ hay thời trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa". Cái tạm thời không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên "tuyệt đối", là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu” đang gạt gẫm chúng ta.
3. Cơn cám dỗ thứ ba.
Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá". (Tv 91,11-12)
Đó là cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi - Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu 'Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?
Luca đã đặt cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết: "Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần "bảo vệ". Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của "thân phận con người phải chết”. Người đã khước từ những phương tiện "ngoạn mục" để thi hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những "phương tiện hạn hẹp". Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị "Chúa Cha bỏ rơi" (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha. Người sẽ được ' "'cứu khỏi chết" nhờ sự phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình thương "cho đến tận cùng". Do đó, chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ rằng “Chúa bỏ rơi ta", cám dỗ của khuynh hướng vô thần "nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp thử thách như vậy! "
Chúa Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta cũng thường "thử thách Thiên Chúa". Đôi khi chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: "Nếu Chúa hiện hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với con". Chúng ta biết rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức tin.
Nhưng chúng ta cũng tin rằng, Đức Giêsu đang "ở cùng chúng ta". Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị "đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn một lòng trung thành với Chúa Cha.
Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
Như vậy những cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).
Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với: MC1-C58
Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa, dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới khác.
Rồi bốn mươi ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.
Đây Ngài sắp bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần. Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải chỉ bằng cơm bánh’.
Tinh thần hay cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa, nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế như là động lực mang tính cách quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại, Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự dưới đất là những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần, đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác. Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa, dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới khác.
Rồi bốn mươi ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.
Đây Ngài sắp bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần. Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải chỉ bằng cơm bánh’.
Tinh thần hay cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa, nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế như là động lực mang tính cách quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại, Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn đất, nên kẻ nào chỉ hoay hoay với những sự dưới đất là những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần, đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác. Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Chúa Giêsu cũng sẽ sử dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời, theo ý của Thiên Chúa chứ không theo sở thích của lòng mình, lại càng không theo ý muốn của mình, hay sự thúc đẩy của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo Nước Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng vật chất vẫn còn xung khắc với Kitô giáo.
Cám dỗ thứ hai liên quan đến sự ham hố quyền hành. Satan chỉ cho Chúa thấy ‘hết các nước thiên hạ’ và nói thêm: ‘Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phú thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi’. Lời gì mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính Chúa Giêsu đã gọi Satan là ‘Thủ lĩnh thế gian này’. Quyền lực tự nó đâu phải là cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh và mê thống trị. Kẻ đó không còn lo tìm Đấng toàn năng, cũng chẳng tìm Thánh ý Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều phải phụng sự Ngài.
Trái lại, họ coi quyền hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu ngạo, dương dương tự đắc quá lố như vậy tất sẽ đi đến chỗ lầm đường lạc lối. Sách Khải huyền gọi quyền thế là ‘con mãnh thú vực sâu…’. Nói đúng ra, đối với những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm hơn cám dỗ coi vật chất là số một, dù cám dỗ này cũng đã thật thô bỉ. Cám dỗ về ham quyền được nguỵ trang bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó khuyến khích việc mở rộng nước Chúa nhờ những phương tiện bên ngoài của chính trị, võ khí, tổ chức này tổ chức nọ, tiền bạc… Thậm chí có những việc khởi đầu hoàn toàn với ý hướng ngay thẳng, thế rồi dần dà cũng đi đến chỗ coi trọng q
uyền thế; tham quyền thì cố vị, và rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.
‘Vậy nếu ông bái xuống lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của ông’. khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng thờ lạy Satan. Khi ham quyền và những lợi lộc do đó mà ra, thì người ta đã đang tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền thế.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người’ Đấng Tối Cao là Đấng độc nhất mà mọi sự phải quy phục. Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở hữu và ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ quyền hành không phụng sự Thiên Chúa là một sự lạm dụng và phục vụ cho Satan, cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ mấy chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp chúng ta vào tay ma quỷ. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập Nước Thiên Chúa thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương quốc của kẻ thù.
Trong cái chết của Chúa Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng; nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và tỏ ra mình yếu kém ngay tại đó. Trót cuộc sống Chúa Giêsu là một sự phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự Satan. ‘Ngươi phải thờ phượng một mình Thiên Chúa’. Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái gì khác phải kể là đã phản bội Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba nói đến việc lạm dụng phép lạ với mục đích thoả mãn tính hiếu kỳ.
Satan đưa Chúa Giêsu, trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. ‘Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống’. Chú quỷ còn trưng dẫn Kinh Thánh nữa: ‘Vì Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân vào đá’.
Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ và ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám dân chúng, và những người tội lỗi bên bờ sông Giođan. Giờ đây, cám dỗ có ý muốn làm cho mọi chuyện xảy ra ngược lại: Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi thường. Dân chúng đang khát khao được nhìn, được thấy. Họ muốn thấy Ngài xuất hiện trên chín tầng mây chứ không phải như một người trong họ, như bao nhiêu người khác.
Trong lãnh vực tôn giáo, phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi kéo mới mẻ. Người ta từ chối không muốn phụng sự Thiên Chúa trong những khó khăn của cuộc sống thường nhật và không muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống bình thường. Họ muốn có những chuyện lạ lùng bên ngoài, bên trong cũng được. Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu nguyện thần bí.
Những chuyện Đức Mẹ hiện ra. Vị này vị nọ được in năm dấu Thánh, có sức lôi kéo họ đi hành hương bất chấp xa xôi vất vả và họ coi là có giá trị hơn là chấp nhận Lời Chúa và Thánh ý Người bằng niềm tin cùng với tấm lòng đơn sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày qua những hy sinh trong chức nghiệp bổn phận trong gia đình, những thánh giá hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ vẻ khâm phục.
Chúa Giêsu không coi rẻ phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện những phép lạ, nhưng không phải để thoả mãn những thèm khát của đại chúng hoặc để cho tôn giáo có tính chất ngoại lệ đặc biệt, một chỉ để vâng phục Thánh ý Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và do đó chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ vụ từ nơi Chúa Cha. Tất cả những gì ngoài mục đích đó đều được coi là thử thách Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa làm những phép lạ không cần thiết, cũng không theo lệnh, chẳng theo ý của Người.
Vì đó, Chúa Giêsu trả lời: ‘Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi’.
Đó là cám dỗ chống lại Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí, ý muốn và quyền năng của Người. Chúa Giêsu lướt thắng Satan nhờ Thiên Chúa và phá tan mưu chước bằng cách chạy đến Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể đứng vững trước những cơn thử thách nhờ vào sức riêng của mình được. Đứng giữa Thiên Chúa và ma quỷ, con người chỉ có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Không thể có chuyện trung lập hay lẩn tránh. Người ta chỉ có thể xa lánh Satan khi quay hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta cũng xa tránh được mưu chước cám dỗ của Satan.
Bây giờ đây, thời gian chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ phái, nhưng Ngài lại ở giữa loài người. Sinh bởi Thiên Chúa, tuy nhiên cũng là con loài người, Ngài được đầy tràn Thần khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần trí Satan. Thánh ý Thiên Chúa cũng là lề luật của Ngài, nước Thiên Chúa là bổn phận của Ngài, tất cả những gì thuộc về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ xây dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt vương quốc của Satan. Sau phần mở đầu uy hùng và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa sức lực trên cao và quyền năng dưới thế sắp bắt đầu công cuộc hành động của Ngài trên dân chúng.
Chuyện kể rằng có một ông hoàng kia rất đạo đức. Ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng: MC1-C59
Chuyện kể rằng có một ông hoàng kia rất đạo đức. Ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh. Nhưng một hôm ông quên đọc kinh. Thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, ông hòang ngạc nhiên. Quỷ liền nói: tôi là ai, điều đó không quan trọng. Việc đánh thức ngài là điều tốt. Ngài thấy không, ai làm việc lành cũng đều là người tốt cả. Ông hòang suy nghĩ: không bao giờ quỷ làm điều tốt cả. Ông nhân danh Chúa, bảo quỷ phải nói sự thật: lý do nào mà mi đánh thức ta?
Bấy giờ quỷ buộc phải nói thật: nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng thì khi thức dậy, ngài sẽ hối hận và khiêm tốn sửa chữa để sống đạo tốt hơn. Còn ngày nào ngài cũng tỏ ra sốt sắng, thì ngài sẽ kiêu căng tự phụ cho mình là đạo đức đủ rồi. (Trích “Món Quà Giáng Sinh”)
Cám dỗ là điều thường xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Cám dỗ có thể do những tác động khách quan bên ngoài, nhưng có lúc cũng do chính chúng ta. Cám dỗ của ma quỷ thường rất tinh vi. Nếu chúng ta không khiêm tốn cầu nguyện thì thì chúng ta không nhận ra được đâu là bẫy cám dỗ của ma quỷ.
Chính đức Giêsu ngày xưa mà còn bị 3 cám dỗ một lúc. Trước nhất ma quỷ cám dỗ Ngài dùng quyền phép mình để biến sỏi đá thành cơm bánh mà ăn trong lúc đói lả. nhưng ngài đã thắng vượt nhu cầu ăn uống này bằng sức mạnh của lời Chúa. Ma quỷ cũng cám dỗ Ngài về vinh hoa phú quý, giàu sang, uy quyền nhưng Ngài đã thắng vượt nó vì Ngài trung tín với Chúa Cha và đặt hết nìềm tin tưởng nơi Cha. Sau cùng, ma quỷ xui giục Ngài thử thách Thiên Chúa. Nhưng Đức giêsu đã dùng lời kinh thánh mà đánh thắng ma quỷ gian manh.
Đức Giêsu đã thắng vượt mọi chước cám dỗ của ma quỷ bằng lòng tin cậy mến vào Chúa Cha để nêu gương cho chúng ta trong việc sống đạo hôm nay. Chúa biết chúng ta thế nào cũng bị cám dỗ, nên Ngài đã cho các tông đồ ghi lại kinh nghiệm sống đức tin và cách chiến thắng cám dỗ của Ngài cho chúng ta noi gương bắt chước như lời trong thư gởi tín hữu Do Thái nói: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”( dt 4, 15-16)
Cuộc sống chúng ta hôm nay không thiếu những cạm bẫy, những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, và xác thịt. Ma quỷ thường lợi dụng phương tiện thế gian để bày ra đủ thứ chươc cám dỗ như phim ảnh, sách báo xấu, các tư tưởng sai lạc truyền bá khắp nơi khiến ai có xu hướng sống theo xác thịt sẽ dễ bị mắc lừa. Ngoài ra, thời đại tân tiến này, cái gì cũng có thể nhờ máy làm dùm. Đó cũng có thể là một cách cỗ võ con người tìm lối sống dễ dãi, kích thích tính ham hưởng thụ, lười biếng, thích nhàn hạ của con người. Chúa không cấm chúng ta sử dụng những phương tiện máy móc, nhưng Ngài muốn chúng ta tận dụng nó để có thêm thời giờ lo cho lình hồn, lo việc thờ phượng Chúa và giúp đỡ tha nhân chứ không chỉ tìm hưởng thụ cho thân xác mình.
Chúng ta là con cái Chúa, đã được chuộc bằng giá máu Con Một Chúa, hãy năng suy gẫm lời Chúa và xin Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta, giúp chúng ta sáng suốt chống lại mọi cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng ta xứng đáng là con cái Chúa và giống Thầy Chí Thánh của mình.
Có lần tôi chứng kiến hai người đang ồn ào với nhau, có những tiếng la, những tiếng cười,: MC1-C60
Có lần tôi chứng kiến hai người đang ồn ào với nhau, có những tiếng la, những tiếng cười, cùng với những âm thanh của sự té ngã. Đó là hai người đang vật lộn với nhau. Nhưng lạ thật, hai người không đồng cân sức với nhau, càng ngạc nhiên hơn nữa, võ sĩ tí hon luôn là người thắng cuộc, vì cậu ta rất nhiệt tình, cậu dùng hết sức mình, bậm môi trợn mắt, cậu nhận hai vai của đối phương xuống, nắm tóc, ghì đầu, ngồi trên mình. Còn đối phương lại là một người cao to khỏe mạnh, nhưng lại bất lực chịu thất bại cùng với những tiếng van xin, đồng thời cũng hòa lẫn với tiếng cười vui vẽ. Đến một lúc, trận đấu kết thúc. Người thua cuộc phải mang người thắng cuộc đi tắm rửa. Khi đó tôi nhận thấy, dường như kẻ thắng cuộc chưa đồng ý lắm, nhưng người thua giờ đây có vẽ cương quyết hơn, đứng thẳng lên và bước đi, mang kẻ thắng cuộc trên đôi tay của mình.
Đó là một người cha và một đứa con nhỏ. Khi người cha chấp nhận, thì đứa con con cho dù nhỏ bé như thế nào đi nữa, cũng có thể làm được mọi việc, kể cả việc nắm tóc cha mình mà kéo xuống. Nhưng khi người cha cương quyết và đứng thẵng lên, thì nó đành chịu thua trở lại và không làm được gì.
Chúng ta vừa chứng kiến một cuộc vật lộn giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Ma quỷ biết rất rỏ về đối phương, nó đánh ngay vào những yếu điểm, những nhu cầu thiết yếu của con người là của ăn, nhưng đành thất bại. "Ngưới ta không chỉ sống bằng cơm bánh". Nó liền xuất chiêu lợi hại hơn, là danh vọng giàu sang, với điều kiện là tuân phục nó, chịu thua nó thì nó sẽ ban cho những gì mà nó vừa cho nhìn thấy. " Ngươi hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi". Nhưng nó cũng đành thất bại. Giờ đây nó dùng chiêu ngoạn mục hơn là biểu diển tài năng cho mọi người nhìn thấy để thử thách Thiên Chúa. Nhưng nó cũng phải chịu cảnh tương tự như các lần khác vì đối thủ của nó quá cương quyết, không nhượng bộ, không cúi đầu cho nên nó không làm gì được. " Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nghe câu: "có thực mới vực được đạo". Câu nói trên để biện hộ cho cuộc sống lười biếng, biện hộ cho một đời sống quá nghiêng về vật chất mà quên đi Thiên Chúa của mình. Chính vì thế khi có một việc làm nào có lợi thì họ sẵn sàng không đi dự thánh lễ chúa nhật, từ bỏ cả lương tâm, từ bỏ cả những lời khuyên răn, từ bỏ cả con người ngay chính mà Thiên Chúa đã dựng nên. Để đạt được mối lợi, họ bất chấp tất cả. Ma quỷ không cần cám dỗ, nhưng chính họ tự động tìm kiếm và van xin cho được những chiếc bánh từ những hòn đá ô trọc của trần gian. Còn hơn thế nữa họ tự động muốn trèo lên đỉnh cao của cuộc sống, chấp nhận cúi đầu trước mọi thế lực, miễn sao đạt được danh vọng giàu sang. Nếu không đạt được điều mong muốn, họ quay ra phiền trách Thiên Chúa, đôi khi gay gắt hơn, họ còn có thái độ thù hận và chối từ Thiên Chúa của mình.
Những cơn cám dỗ mà ngày xưa Con Thiên Chúa làm người đã chiến thắng, thì giờ đây những hậu duệ của Ngài, đã phải té ngã cách thảm hại. Ma quỷ không cần phải bỏ đi để chờ dịp nào khác nữa, nó chỉ cần xuất chiêu là chiến thắng.
Mỗi người trong chúng ta, giờ đây nhìn lại chính mình. Đã bao lần vì miếng ăn, vì đồng tiền, vì lợi lộc, vì danh dự bản thân mà chúng ta cũng bất chấp tất cả, bất chấp Thiên Chúa của mình là ai, không cần biết Ngài đã dạy chúng ta những gì. Cũng vì thế mà chúng ta không cần biết người chung quanh chúng ta như thế nào, cho nên chúng ta cứ dẫm bừa lên dư luận, chà đạp cả công lý, miễn sao con người ích kỷ của chúng ta được lợi là đủ. Đó là chúng ta đã thất bại trước những cơn cám dỗ của thời đại. Như vậy làm sao chúng ta có thể vượt qua được sa mạc trần gian nầy để đạt tới vinh quang mà vị Thầy Chí Thánh đã dẫn dắt.
Được bao nhiêu lần chúng ta can đãm từ chối những lợi lộc bất chánh, để làm cho con người của mình được vững mạnh hơn. Được bao nhiêu lần chúng ta biết lắng nghe và nhìn thấy được những gì Thiên Chúa muốn nói, muốn chỉ dạy để sẵn sàng vâng theo. Được như thế, là chúng ta nhìn thấy được những cạm bẫy của ma quỷ và luôn đứng thẳng, cương quyết, khi đó ma quỷ như đứa trẻ nhỏ sẽ không làm gì được.
Xin chúa ban sức mạnh cho chúng ta để chiến thắng.
Mùa Chay của năm Phụng vụ 2010 đã bắt đầu. Mùa Chay là mùa Giáo hội muốn ta nhìn lại; MC1-C61
Mùa Chay của năm Phụng vụ 2010 đã bắt đầu. Mùa Chay là mùa Giáo hội muốn ta nhìn lại bản thân mình. Nhìn lại bản thân để thấy ta yếu đuối. Để rồi ta sẽ thấy mình cần Chúa như thế nào. Từ đó ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương ta ra sao. Hãy xin Chúa Giêsu cho ta trong Mùa Chay này cũng như suốt cuộc đời xác tín điều ấy luôn.
Lời Chúa trong Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ sau khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc. Do Chúa Thánh Thần thúc đẩy nên Người đã chịu cám dỗ đến 3 lần. Và cả 3 lần ma quỷ đều thất bại thảm hại.
Vì sao ma quỷ đã thất bại? Ma quỷ muốn Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình mà phản bội Chúa Cha. Nó muốn chia lìa tình yêu của Người với Chúa Cha. Thế nhưng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha quá vững mạnh nên nó đành phải rút lui.
Ngay từ những ngày đầu tiên trong vườn địa đàng ma quỷ cũng đã dùng chính bài này mà cám dỗ tổ tông ta. Nó đã nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 4b - 5)
Vua Đavit vì cám dỗ sắc dục nên ông đã phạm tội cướp vợ của người anh em và đã giết người anh em là Uria (2Sm 11, 1 -27). Ông đã dùng chính quyền làm vua của mình mà hãm hại người khác. Ông quên rằng vì yêu thương mà ông đã được Thiên Chúa chọn làm vua chứ ông đâu có công cán gì. Như vậy, phạm tội này coi như ông đã phản bội lại tình yêu của Thiên Chúa.
Giuđa chỉ vì tiền và lợi ích riêng tư mà ông cũng đã phản bội lại tình yêu của Thầy mình. Ba năm trời theo Chúa Giêsu chắc là ông đã nhận biết bao tình thương mà Thầy dành cho. Thế nhưng ông đã trả ơn bằng việc bán Thầy với giá như một tên nô lệ. (30 đồng)
Không phải Chúa Giêsu chỉ bị cám dỗ hôm nay mà dường như suốt cả đời Người luôn bị nó theo đuổi. Cách đặc biệt nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi nghĩ đến cái chết đang cận kề Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi và thấp thỏm. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến 2 lần. Lần thứ nhất: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b). Lần thứ hai: “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Đây chính là vũ khí lợi hại nhất mà Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ. Vũ khí ấy là luôn trông cậy và phó thác vào tình yêu của Chúa Cha.
Như thế, chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của ta với Chúa. Khi ta ỷ lại vào sức mình, vào khả năng của mình … mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ đấy.
Dầu vậy, khi ý thức mình đang rơi vào tròng của nó ta hãy mau mắn và can đảm trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Hãy luôn nhớ tình yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của ta.
1. LỜI CHÚA: "Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ" (Lc 4,1b).
2. CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương; MC1-C62
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy "phê". Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
3. SUY NIỆM:
- Con người "nhân vô thập toàn" và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.
- Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.
- Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:
* Về THÚ VUI:
Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được "ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê".... như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh", mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).
* Về LỢI LỘC:
Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: "Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1,33).
* Về DANH VỌNG:
Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội "trông cậy quá lẽ", tội "thử thách Thiên Chúa" do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.
4. THẢO LUẬN:
1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì?
2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬN LỜI CHÚNG CON.
Mùa chay trong năm đức tin có một ý nghĩa thật sâu xa và độc đáo. Sâu xa bởi vì năm đức tin giúp: MC1-C63
Mùa chay trong năm đức tin có một ý nghĩa thật sâu xa và độc đáo. Sâu xa bởi vì năm đức tin giúp các Kitô hữu tái khám phá lòng tin của mình, làm cho đức tin của mình sáng hơn, đẹp hơn. Độc đáo vì trong năm đức tin, mùa chay sẽ giúp người Kitô hữu hiểu về Chúa, về những lời của Người nói và những phép lạ Người làm. Hôn nay, nơi sa mạc hoang vắng Chúa Giêsu để ma quỉ cám dỗ...
Vâng, vì là con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ. Đây là một điều rất hợp lý khi Chúa Giêsu bị đặt trước thử thách phải chọn lựa! Chúa Giêsu được Thần khí Thiên Chúa thúc đẩy, thôi thúc, Ngài đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và để ma quỉ cám dỗ. Thời Chúa Giêsu, từ Giêrusalem theo hướng mặt trời đi chừng nửa giờ đồng hồ là tới sa mạc Giuđa...Từ bờ sông Giorđăng đi bộ một vài phút là chúng ta đã tới sa mạc. Trong sa mạc, Chúa Giêsu bị đặt trước tình huống phải chọn lựa. Chúa Giêsu đã dùng phương thế nào để chiến thắng sự dữ, chiến thắng cái ác vv...? Chúa Giêsu đã bị ma quỉ cám dỗ để Ngài chia sẻ với con người, cảm thông với con người. Tuy nhiên, khác với con người, Ngài đã chiến thắng cám dỗ để nêu gương cho con người, nêu gương cho mọi người.
Ma quỉ đã đánh đúng tâm lý của con người, chúng đã thừa cơ hội Chúa Giêsu ăn chay, do đó, chúng dùng cái đói để cám dỗ Ngài. Cái đói vẫn là một nhu cầu khẩn thiết của con người. Bởi vì, dân Do Thái khi xưa trong sa mạc về đất hứa, họ đã đói, đã khát, nên kêu trách Chúa...Nhưng Chúa đã ban cho họ được no thỏa ấm lòng khi ban cho họ manna và chim cút, nước từ tảng đá vọt ra vv...Ngày nay, chúng ta vẫn đang bị cám dỗ về vật chất, tiền bạc...Cám dỗ này đang dày vò nhiều người và làm tiêu hao nhiều người. Tuy nhiên, nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta dễ rơi vào mù quáng chỉ coi cơm bánh là chính yếu. Chúa đã nói " người ta sống chỉ nhờ cơm bánh mà con bởi lời Thiên Chúa phán ra " ( Lc 4, 4 ). Cám dỗ thứ hai, ma quỉ dùng quyền hành, danh vọng để dụ dỗ Chúa Giêsu bởi vì trần gian này, ai mà chẳng thích danh vọng, uy quyền. Môsê lên núi nhận thập giới của Thiên Chúa, Dân Israen dưới núi, đợi lâm họ đã thờ ngẫu tượng bò vàng. Dân chúng luôn luôn bị cám dỗ lôi cuốn Chúa Giêsu trở thành một vị Vua chính trị đầy đủ quyền thế như mọi vị Vua thế trần. Tuy nhiên, Chúa đã nhất quyết khước từ mọi thứ vinh quang mau qua của trần gian để trở thành tôi tớ phục vụ mọi người. Cơn cám dỗ này vẫn thường xuyên xúi giục con người. Chúa đã thẳng thừng phán: " Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi, và phải thờ phượng một mình Người "( Lc 4, 8 ). Cơn cám dỗ thứ ba là ma quỉ khích Chúa Giêsu để kiểm chứng lòng khiêm nhường của Người. Chúa đã không chiều theo chúng để tỏ vẻ huyênh hoang của mình. Ngài cũng bị cám dỗ thoát khỏi, trốn chạy cái chết vì cảm thấy Chúa Cha bỏ rơi mình. Tuy nhiên, Chúa đã không làm theo ý mình:không nhảy từ trên cao xuống hay không nhảy khỏi cây thập giá. Ngài đã hoàn toàn trung thành, vâng phục và làm theo ý Đức Chúa Cha.
Sa mạc là nơi cát bụi mênh mông, nắng khô cỏ cháy. Sa mạc là nơi bày ra trước mắt chúng ta muôn ngàn ảo ảnh của cuộc đời. Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là ý nghĩa đích thực của đời người, đâu là ảo ảnh phù vân.
Chúa Giêsu đã đương đầu với những cám dỗ trong sa mạc, đã chiến đấu với những cơn cám dỗ ấy một cách anh hùng và làm gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa đã xuất hiện giữa ánh sáng chói lòa và lên tiếng. Ngài đã ký một giao ước đầy yêu thương với con người. Trong sa mạc mênh mông của miền Giuđa, Chúa đã dìm mình trong chay tịnh, cầu nguyện, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng ma quỉ, chiến thắng sự dữ để đem lại sự an bình và mối giao hảo bất khả phân ly giữa Ngài và con người.
Mùa chay là mùa sám hối, ăn năn. Mùa chay là mùa trở lại với Chúa bằng chay tịnh, cầu nguyện và bố thí. Do đó, Giáo Hội mời gọi chúng ta trong năm đức tin này là hãy trở về với Chúa, quay về với đức tin tinh tuyền ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con Thần khí để Thần khí đưa chúng con vào sa mạc nội tâm sâu kín của tâm hồn chúng con để chúng con nhờ Thần khí Thiên Chúa mạnh mẽ, can đảm, dứt khoát cắt đứt tội lỗi và sống an bình. Amen.
Cuộc sống con người thay đổi luôn. Giờ chỗ này, lát chỗ nọ. Mỗi ngày ta thay đổi nhiều nơi chốn, thành: MC1-C64
Cuộc sống con người thay đổi luôn. Giờ chỗ này, lát chỗ nọ. Mỗi ngày ta thay đổi nhiều nơi chốn, thành tập quán, không quan tâm nữa. Ta để í đến nơi chốn nhiều hơn khi du lịch phố lạ, cảnh vật mới nhất là đến nơi phồn hoa, đô hội. Để tránh bị lạc ta để í kĩ hơn.
Mỗi nơi, mỗi chốn, có những cám dỗ khác nhau. Chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ mạnh, chỗ yếu. Vì thế ma quỷ lợi dụng cảnh vật đưa Đức Kitô đến những nơi chốn khác nhau sau mỗi lần chúng thất bại. Ba địa điểm chúng chọn lựa gài bẫy cám dỗ là hoang địa, đỉnh núi và nóc đền thờ.
Trong hoang địa
Hoang địa là nơi thử sức, đo tài con người. Hoang địa hay sa mạc chứa nhiều hạt cát. Điều đáng lưu ý là sức người, ý chí, tư tưởng vĩ đại, ý nghĩ táo bạo đọ sức, thử lửa, so tài với hạt cát, hạt bụi. Theo bạn trí con người bền bỉ hơn hạt cát, hay nhẹ như cát sa mạc rì rào trôi theo chiều gió.
Điều chắc chắn là khi bình an vô sự con người tự thấy mình vĩ đại, to lớn, khoẻ phi thường có thể đội đá vá trời. Đôi tay lấp biển, dời được non. Lúc nguy nan, gặp thử thách con người cảm thấy mình nhỏ bé, yếu ớt, không đủ sức chống đỡ với ngoại cảnh. Trong cơn nguy khốn, con người thấy mình nhỏ như hạt cát sa mạc, bồng bềnh như bọt nước, nhẹ như sương mai, bập bùng như đèn trước gió. Cầu mong thực tế này giúp sống khiêm nhường, thứ tha và chấp nhận thiếu sót của mình và của anh em.
Sa mạc nơi tranh giành giữa sống và chết, dằn vặt với đói khát, thành công và thất bại. Đối diện với chính mình, có cát, gió làm chứng. Tính toán sơ hở đời đi đong. Ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương.
Sa mạc tâm linh cũng pha trộn giữa thành công và thất bại, giữa đau khổ và vinh quang, giữa sống và chết. Một trận chiến trường kì, chiến đấu với bản thân, chống lại cám dỗ vô hình. Chống lại cạm bẫy ma quỉ đưa ra để lường gạt. Chiến đấu chống lại cái tôi, tính ích kỉ, tham lam, tự kiêu, tự mãn.
Trận chiến sa mạc tâm hồn đòi phấn đấu mãnh liệt và liên tục vì sa mạc tâm hồn có lương tâm làm trọng tài, đòi sống công chính.
Đỉnh núi cao
Có người trèo cao không run chân. Có người nhìn vực sâu thấy chóng mặt. Có người nghĩ đến vực thẳm chân rã rời, tay mỏi, đầu óc quay cuồng. Trái lại người thích leo núi coi toàn cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la ngút tầm con mắt, luôn mơ ước được lên cao hơn. Đỉnh núi một là khiếp sợ mà khuất phục. Hai là rạo rực muốn chiếm đoạt. Cả hai đều mở rộng cửa đón chào cơn cám dỗ. Sợ quá sẽ đầu hàng; ham quá lại chiếm đoạt. Đàng nào ma quỉ cũng có cơ hội lợi dụng gài bẫy cám dỗ.
Nóc đền thờ
Tại sao lại nóc đền thờ. Kẻ đến cầu nguyện vào trong đền thờ. Ai lại leo lên nóc đền thờ để cầu nguyện. Hành động leo nóc đền thờ tự nó đã là hành động xấu.
Cái túi lủng
Cả ba cách ma quỷ cám dỗ, bề ngoài khác nhau, nơi chốn khác nhau, đều có điểm chung đó là cái túi lủng.
Túi đầu tiên là bao tử. Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy hoá đá ra bánh mà ăn.
Túi thứ hai là túi tiền. Ông sẽ được tất cả vinh hoa, phú quí trước mắt làm cơ nghiệp nếu ông quỳ lạy tôi.
Túi thứ ba là cái tôi. Ông nhảy xuống đi vì có Thiên Sứ gìn giữ ông.
Phản bác
Đức Kitô phản bác tất cả những ý kiến, đề nghị ma quỷ đề ra. Ngài làm trái lại tất cả những gì chúng ước mong. Chúng đề nghị đường lối nhàn hạ, dễ dàng. Chúa chọn đường lối riêng. Con đường Ngài chọn là con đường khắc phục sa mạc bản thân và tâm hồn. Ngoài cơm bánh ra người ta sống nhờ Lời Chúa. Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài. Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa.
Đường nhàn hạ Chúa gọi là đường thênh thang là đường dẫn đến diệt vong, đường lối của ma quỉ. Chúa chọn con đường hẹp, hay cửa hẹp.
Bắt đầu mùa chay, chúng ta cần nhớ lại Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa đã làm những gì cho; MC1-C65
Bắt đầu mùa chay, chúng ta cần nhớ lại Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa đã làm những gì cho chúng ta. Trong sách Đệ Nhị Luật đọc ngày hôm nay, ông Mô-sê nhân dịp Lễ mừng mùa gặt để kêu gọi dân chúng nhớ lại Thiên Chúa đã làm những gì cho họ. Và yêu cầu họ lặp đi lặp lại lời nguyện đó để họ thuộc làu. Vì thế, ông Mô-sê kêu gọi dân chúng Israel nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Ông ta ghi những điều đó thành một bài kinh của đạo Do Thái: Họ nhớ lại những ngày bị tù đày ở Ai Cập, sự cứu thoát ra khỏi tù đày để đi vào Đất Chúa Hứa. Thiên Chúa là Đấng cứu thoát dân Israel và qua Chúa Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đó là Đấng cứu thoát chúng ta. Chúng ta cũng theo lời chỉ dẫn của Mô-sê để nhớ đến Thiên Chúa trong mùa chay. Thiên Chúa đã cứu thoát chúng ta vượt qua tù tội để trở về sự sống, như việc vượt qua sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô.
Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau để mừng mùa gặt mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Cũng như tổ tiên, chúng ta hãy nhớ lại Thiên Chúa đã bước chân vào lịch sử loài người, nhìn thấy chúng ta bị vây hãm trong tội lỗi. Cũng như Thiên Chúa đã làm cho dân israel, Ngài đã thật sự dự phần vào việc cứu thoát, giải vây chúng ta qua việc kết hiệp chúng ta vào Chúa Kitô. Khi là thần phần thân thể của Ngài, chúng ta được ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta.
Trong lễ mùa gặt hôm nay, chúng ta nhớ lại công việc lớn lao Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Hôm nay chúng ta mang đến bàn thờ những hoa quả mùa gặt là bánh và rượu. Bánh và rượu tượng trung sự cố gắng của chúng ta để tuân theo ý Thiên Chúa để gây dựng nước trời. Của lễ chúng ta dâng lên Thiên Chúa, ước mong mổi sự hiến dâng ấy giúp chúng ta tiếp tục chấp nhận những thử thách của đời sống người Kitô Hữu.
Năm nay chúng ta đọc phúc âm Thánh Luca trong phụng vụ. Trong những tuần sắp tới, nếu chúng ta chăm chỉ và nhớ lại câu chuyện hôm nay, chúng ta sẽ nghe những sự cám dỗ lặp đi lặp lại trong suốt đời sống Chúa Giêsu (Thánh Luca viết: "Sau khi đã xoay hết cách dể cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ thời cơ khác"). Chúa Giêsu bị cám dỗ do bởi Ngài tự lo cho Ngài, và để tránh khỏi đau đớn hay đói khát ("ông truyền cho hòn đá này nên bánh đi")
Ma quỷ đề nghị Chúa Giêsu dùng quyền phép mình để phục vụ cho mình. Và sau này, khi có thử thách về quyền năng và nhân tính của Chúa Giêsu, Ngài sẽ bị cám dỗ để làm những phép lạ để đối kháng những kẻ chống lại Ngài ("ông hãy gieo mình xuống đi"). Hoặc để lôi kéo quần chúng theo Ngài, quỷ sẽ cám dỗ Chúa Giêsu làm phép biến đá thành bánh để cho những người đói ăn. Sau khi Chúa Giêsu làm những việc lớn lao, như làm bánh và cá hóa nhiều, dân chúng sẽ kéo nhau tìm đến Ngài để đưa Ngài lên làm vua. Và đây cũng là nhắc lại một cám dỗ khác ("nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông")
Trong phúc âm Thánh Luca, Chúa Giêsu đang trên đường đến thành Giê-ru-sa-lem. Ngài nói với các môn đệ là Ngài sẽ bị thử thách, sẽ chịu đau khổ và rồi sẽ chết. Phêrô không chịu nghe Chúa Giêsu nói như vậy nên Chúa Giêsu gọi ông là satan. Phêrô là một sự cám dỗ lôi kéo Chúa Giêsu từ bỏ nhiệm vụ của Ngài. Các Tư Tế và Biệt Phái là cám dỗ như cám dỗ của quỷ; các ông muốn Chúa Giêsu cho họ dấu chỉ quyền uy của Ngài (biến đá thành bánh? Hay tự gieo mình xuống vực sâu mà không hề hấn gì?) Đấy là những cám dỗ thật sự liên tục bám theo suốt quãng đời Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu để cám dỗ thắng thì Ngài có thể để những người chưa tin trở lại tin vào Ngài.
Chúng Giêsu không muốn những người theo Ngài như những kẻ cám dỗ nói trên. Họ là những người tin tưởng và sức mạnh của Ngài để làm những việc lớn lao mỗi khi cần đến. Và rồi họ sẽ không bao giờ chấm dứt những đòi hỏi đó. Họ sẽ nói "đây, còn những việc này chúng tôi cần Ngài làm đi để chúng tôi tin tưởng vào Ngài". Họ là những người không tin vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta tin vào Ngài, chứ không tin vào những hiện thực thoáng qua.
Lẽ cố nhiên có những vấn đề quan trọng cần được giải quyết. Như khi chúng ta cầu nguyện cho bệnh nhân; cho một em bị ghiền ma túy; cho một đôi hôn nhân sắp đổ vỡ; xin tìm được việc làm sau nhiều tháng thất nghiệp... Khi không tìm được cách giải quyết chúng ta bị cám dỗ làm cho xuôi tay. Chúng ta thường nghĩ là nếu chúng ta tin tưởng thì lời cầu xin của chúng ta sẽ được chấp nhận phải không? Vậy thử hỏi đức tin của chúng ta có đủ mạnh không? Có phải vì đức tin của chúng ta chưa đủ mạnh; nên làm cho chúng ta không nghe thấy tiếng Chúa Giêsu trong lúc chúng ta cầu nguyện?
Chúng Giêsu đã bị cám dỗ để xuôi tay thối lui như chúng ta. Thiên Chúa ở đâu khi Chúa Giêsu gặp những người chống đối lời rao giảng của Ngài? Sao Thiên Chúa không trả lời Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trong vườn cây dầu trước khi Ngài bị bắt, hay khi Ngài đang ở trên cây thập giá? Hình như Chúa Giêsu cũng phải trải qua những cám dỗ mà chúng ta phải chịu là hy vọng đối kháng lại hy vọng.
Phúc âm Thánh Luca dùng trong năm C, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu không để cám dỗ lôi kéo Ngài dùng quyền lực Thiên Chúa để sửa chữa thất bại, hay để lôi kéo dân chúng theo Ngài. Chúa Giêsu thật sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài phó mình cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bỏ rơi Ngài. Thiên Chúa ở cùng Ngài, nâng đỡ Ngài khi Ngài chịu khổ hình và cứu Ngài qua khỏi sự chết.
Bắt đầu mùa chay này chúng ta cần nhớ lại. Chúng ta không tránh khỏi sự đau khổ, tài hoa, thất bại, chán nản, và sự cám dỗ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu là luôn dặt niềm tin vào Thiên Chúa mỗi khi chúng ta bị cám dỗ xa cách Chúa, sự tin tưởng vào Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ chúng ta. Chúng ta sẽ hy vọng ngược lại là qua tình thương yêu đối với Thiên Chúa chúng ta sẽ đạt đến thành quả cuối cùng. Sự cám dỗ và sự chiến thắng cám dỗ của Chúa Giêsu là nguồn sinh lực cho chúng ta noi theo. Vì Chúa Giêsu mà chúng ta tin, chúng ta không tin vào sức lực của chúng ta mà tin vào quyền lực của Ngài.
Thánh Luca nhắc chúng ta là "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần... và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa". Trong sách Công Vụ Tông Đồ do Thánh Luca viết về ngày Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ. Đó là cách Thánh Luca nhắc cho chúng ta nhớ lại; như xưa Mô-sê đã nhắc nhở dân Israel; là những Kitô Hữu sẽ phải chịu những gì khi trở về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta sẽ được Thần Khí Chúa Giêsu nâng đỡ chúng ta để chịu cám dỗ trong sa mạc. Thánh Thần Chúa đồng hành với chúng ta sẽ gìn giữ chúng ta trung kiên với Chúa Kitô là Đấng đã gọi chúng ta theo Ngài.
Xuyên suốt phúc âm Thánh Luca chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Thánh Thần: Từ ngày Chúa Giêsu sinh ra (Lc: 1:35 "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà"); lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:22 "và Thánh Thần ngự xuống trên Người"); khi Ngài giảng dạy trong đền thờ (4:18-30 "Thần Khí Chúa ngự trên tôi"); khi Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa v.v... Hôm nay Chúa Giêsu thắng quỷ cám dỗ vì Thần Khí Chúa ngự trên Ngài. Nhưng còn một lý do khách vều quyền lực của Chúa Giêsu là: Chúa Giêsu luôn luôn dùng Kinh Thánh (4:4,8,12 "đã có lời chép rằng"). Suốt trong lịch sử có những người dùng lời Kinh Thánh không phải để dẫn chứng việc buộc tội, việc trừng phạt, và việc loại trừ họ. Nhưng, trong phúc âm Thánh Luca, những việc quan trọng được nêu ra như việc Chúa sinh ra, sự chết và sự sống lại của Ngài đều được loan báo là "theo lời chép của Kinh Thánh" (như chuyện hai môn đệ trên đường Emmau (24:27, 44-49) "Người giải thích những gì liên quan đến Người trong tất cả sách thánh" "Có lời Kinh Thánh chép rằng"). Thánh Luca khuyên giáo dân là, với Thánh Thần và Kinh Thánh chúng ta sẽ không chịu thua sự cám dỗ trong việc trở nên môn đệ Chúa Giêsu, và những việc lớn lao mà Thiên Chúa làm là để nâng đỡ chúng ta trên đường chúng ta đi theo Chúa Kitô lên Giê-ru-sa-lem.
Lm Fx. Trọng Yên, OP chuyển Lm. Jude Siciliano, OP
Hôm nay Giáo Hội lại đưa chúng ta đi vào những ngày Chúa nhật mùa chay. Quả thực, mùa chay: MC1-C66
Hôm nay Giáo Hội lại đưa chúng ta đi vào những ngày Chúa nhật mùa chay. Quả thực, mùa chay là mùa sám hối ăn năn, mùa trở về với chính mình và ngước mắt lên Thiên Chúa bởi vì con người chúng ta quá yếu đuối hay sa ngã và hay phản bội. Nhìn lên Chúa để thấy chúng ta còn quá nhiều khiếm khuyết cần phải được Chúa tha thứ và yêu thương. Do đó, Chúa nhật thứ I mùa chay, năm C muốn dạy chúng ta rằng đã là con người thì luôn còn yếu đuối, luôn còn thử thách. Thử thách để chúng ta biết phải chọn lựa thế nào ? Những bài đọc Sách Thánh Chúa nhật hôm nay sẽ định hướng cho chúng ta hiểu phải làm gì ?
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Luca 4,1-13 chúng ta nhận ra một điều thật lạ lùng:tại sao Thần khí của Chúa lại đưa Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỉ cám dỗ? Đức Giêsu mà lại chịu cám dỗ được chăng ? Đó là vấn nạn. Đó là thắc mắc của con người muôn thuở. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể suy nghĩ và trả lời được. Chúa đã chấp nhận làm người dù Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn có thể bị thử thách vì Ngài là người. Thử thách có nghĩa là đặt con người vào trạng huống phải tự chọn lựa. Ở đây, sa mạc không xa là bao bởi vì từ Giêrusalem cứ theo hướng mặt trời lặn khoảng nửa giờ đã tới sa mạc Giuđa. Đức Giêsu Kitô đã bỏ các bãi cỏ xanh, bờ cát của dòng sông Giorđăng, rồi đi bộ một thời gian ngắn là đã tới sa mạc. Chúa Giêsu đã vào sa mạc theo sự hướng dẫn, thúc bách của Thần khí Thiên Chúa. Tin Mừng cho chúng ta hiểu những mưu mô quỉ quyệt của ma quỉ. Chúng bầy ra những chước cám dỗ, những thử thách để buộc Chúa Giêsu phải chọn lựa. Hoặc là chấp nhận để phản bội Thiên Chúa Cha hoặc là khước từ để luôn là người tôi trung của Chúa Cha. Ma quỉ đã đánh vào Chúa Giêsu về nhiều phương diện. Cái đói, tiền tài, sa hoa, danh vọng, phú quí. Những cám dỗ, những thử thách ấy là những cạm bẫy thực tế hằng ngày của con người. Chúa Giêsu đã dạy cho ma quỉ bài học vô giá. Đói, khát, phú quí, bả phù hoa, danh vọng chỉ là những hào quang tạm thời, mau qua. Cái chính yếu đó là tình yêu, sự trung thành Chúa Giêsu dành cho Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã toàn thắng tất cả những thử thách ấy với tất cả sự cương quyết, can đảm của Ngài. Ngài đã đẩy lui ma quỉ và Tin Mừng cho hay:" Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ, ma quỉ bỏ Người mà đi, chờ đợi thời cơ ".
Sa mạc là nơi thanh vắng. Sa mạc là nơi con người âm thầm gặp gỡ Đấng hằng sống. Nhưng sa mạc cũng là nơi ma quỉ bầy ra trăm nghìn mưu chước cám dỗ, thử thách và cạm bẫy. Tuy nhiên, sa mạc cũng là nơi con người lựa chọn giữa cái sống và cái chết, giữa hạnh phúc và bất hạnh. Nếu được Thần khí của Thiên Chúa dẫn đưa, và hướng dẫn thì sa mạc là nơi để lựa chọn giữa cái thiện và cái ác.
Sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật hôm nay nhắc lại việc Chúa Giêsu bị thử thách nơi sa mạc để giúp chúng ta hiểu sự đau khổ và thập giá Ngài sẽ phải chịu để cứu độ loài người, cứu vớt con người. Chúa Giêsu đã chiến thắng để nêu gương cho chúng ta và mời gọi chúng ta hãy mạnh dạn, bước theo con đường của Người đã đi qua để được ơn cứu độ.
Chúa dạy chúng ta những gì ma quỉ đã cám dỗ, thử thách Chúa thì chúng không ngừng cám dỗ chúng ta. Ma quỉ xúi giục chúng ta muốn khoái lạc. Chúng lôi kéo chúng con tìm danh lợi lạc thú theo ý riêng tư của chúng ta. Chúng thúc đẩy chúng ta tham lam ích kỷ mà quên đi việc thực hành những điều răn Chúa. Theo gương Chúa chúng ta dứt khoát đẩy lùi những thử thách, cám dỗ của ma quỉ và nhất mức tin theo Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm của chúng con và xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa để chúng luôn một mực trung tín với Chúa và Lời của Chúa. Amen .
Mùa chay là thời gian người tín hữu kiểm điểm lại mối liên hệ trước mặt Chúa và xét lại mối: MC1-C67
Mùa chay là thời gian người tín hữu kiểm điểm lại mối liên hệ trước mặt Chúa và xét lại mối tương quan giá trị của mỗi người: những gì là quan trọng trước mặt Chúa và quan trọng hơn trong cuộc sống người tín hữu. Mùa chay kéo dài 40 ngày, nhắc nhở cho ta 40 năm trường dân Chúa đi qua sa mạc để vào đất hứa. Thời gian 40 ngày còn nhắc nhở cho ta việc ăn chay đền tội 40 ngày của các ngôn sứ. Ðể sửa soạn cho giao ước Sinai, ông Môsê đã ăn chay 40 ngày đêm để nhận lãnh bia đá giao ước (Xh 34:28; Ðnl 9:9). Ngôn sứ Êlia đã ăn chay 40 ngày trên đường lên núi Khô-rếp (1V 19:8). Truyền thống Kitô giáo cho rằng ông Gioan Tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi ông xuất hiện từ hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối dọn đường cho Ðấng cứu thế đến. Chính Chúa Giêsu cũng đã ăn chay 40 ngày trong hoang địa trước khi bắt đầu cuộc sống công khai (Mt 4:2; Mc 1:13; Lk 4:2).
Trước khi đi vào miền đất hứa, dân Chúa phải lang thang qua sa mạc 40 năm trường. Họ được nhắc nhở để ghi nhớ những kỳ công Chúa đã làm cho họ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, và làm giao ước với họ trên núi Sinai. Trong sa mạc, họ gặp nhiều cám dỗ, thử thách, và thường họ sa ngã, vấp phạm. Họ kêu trách Chúa. Họ thách thức Chúa biểu lộ quyền năng để cứu họ. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Họ phản bội Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về.
Phúc âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày và chịu ma quỉ cám dỗ về ba phương diện: mê ăn, vinh hoa lợi lộc và kiêu ngạo (Lc 4:1-13). Theo phương diện là người, Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Và Chúa đã toàn thắng cám dỗ nhờ việc ăn chay, cầu nguyện để được trung thành với sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao phó.
Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên dân tộc mới được chọn. Chúa Giêsu cũng đưa dẫn ta tới miền nước hứa, nước mà Chúa bảo ông Nicôđêmô chỉ có những người sinh lại bởi nước và Thánh Thần mới được vào (Ga 3:5), và nước mà Chúa đã hứa với người trộm lành (Lc 23:43). Tuy nhiên trước đó người ta phải trải qua sa mạc thế gian. Ta cũng phải chịu cám dỗ và thử thách. Theo quan niệm Kitô giáo, thì cám dỗ là mưu chước của ma quỉ. Chúa để cho cám dỗ xẩy đến với những người được kêu gọi. Khi những ước muốn và nguyện vọng của ta không được toại nguyện, ta phàn nàn, kêu trách Chúa. Cám dỗ là thước đo tự do lựa chọn của mỗi người.
Trước những cám dỗ thử thách, ta có thể lựa chọn hoặc ưng thuận hay chống trả. Nếu không có tự do lưạ chọn, thì loài người không có trách nhiệm. Cám dỗ thường là triệu chứng nói lên yếu điểm của mỗi người. Mỗi người có những yếu điểm khác nhau: có người ham danh, người ham lợi, người ham thú vui. Vì thế ma quỉ thường lợi dụng những yếu điểm của mỗi người để tấn công. Và ma quỉ còn dùng chiến thuật du kích để tấn công nữa, nghĩa là đối tượng mà ma quỉ dùng để cám dỗ không phải là trực tiếp, nhưng là gián tiếp. Vì thế ta phải tỉnh táo nhận định. Ðể có thể trung thành, ta phải kêu cầu danh Chúa như thánh Phaolô dạy tín hữu Rôma (Rm 10:13) và tuyên xưng đức tin vào Chúa như ông Môsê dạy dân chúng trong Cựu ước (Ðnl 26:5-10).
Mùa chay là mùa ăn năn đền tội, là thời gian ăn chay, kiêng thịt, hi sinh, hãm mình và lam việc lành phúc đức. Màu sắc phụng vụ trong mùa chay là màu tím tượng trưng cho tâm tình ăn năn, sám hối trong mùa chay. Lợi điểm của việc ăn chay là để không những giữ gìn sức khoẻ phần xác, nhưng còn để gia tăng sức mạnh thiêng liêng, hầu chống trả cám dỗ. Nếu người ta kiêng ăn uống chỉ nhằm giữ gìn sức khoẻ phần xác, để khỏi mập, khỏi cao máu, hay làm giảm chất béo cholestorol, thì việc kiêng ăn uống không có giá trị thiêng liêng, vì thiếu động lực tôn giáo thúc đẩy. Vì vậy muốn có giá trị thiêng liêng, người ta phải đưa động lực tôn giáo vào việc kiêng cữ đồ ăn thức uống. Thiết tưởng đời nay, người ta cũng cần xét lại việc kiêng cữ đồ ăn thức uống. Sống ở một vài xã hội hiện tại và hiện đại, người ta thấy thịt thà quá dư thừa. Vì thế được dịp ăn cá cũng là tốt cho sức khoẻ phần xác. Vả lại những người thích ăn cá thì việc kiêng thịt cũng không phải là viêc hãm mình đáng kể. Có những người kiêng thịt mà lại đi ăn tôm hùm chẳng hạn, thì chắc hẳn phải đặt lại vấn đề hãm mình vì tôm hùm vừa ngon lại vừa mắc tiền.
Ngoài luật đòi hỏi người tín hữu ăn chay kiêng thịt mà đời nay có tính cách đơn giản, Giáo hội mong muốn người tín hữu tự nguyện ăn chay kiêng thịt thêm nữa. Ngoài ra Giáo hội còn mong muốn tín hữu, không những kiêng thịt, mà còn kiêng miệng lưỡi, lỗ tai và con mắt để chỉ nói, chỉ nghe, chỉ nhìn xem những gì đáng nói, đáng nghe và đáng xem, những gì làm đẹp lòng Chúa. Trong mùa chay ta nhớ lại những thất bại, những yếu đuối, những lỗi lầm trong quá khứ và ăn chay đền tội để xin Chúa nhân lành tha thứ và để sửa soạn tâm hồn mừng lễ Phục sinh. Người tín hữu không ăn chay, không hi sinh, không hãm mình, không đền tội.. như là việc gì phải làm một cách bất đắc dĩ. Người tín hữu làm những việc trên và tất cả mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Và đó là sự khác việc lớn. Và khi người tín hữu làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, tình yêu sẽ giúp biến đổi đời sống để đi vào cõi siêu việt.
Lời cầu nguyện xin cho được trung thành vói lời giao ước khi chịu Phép Rửa tội:
Lạy Chúa, cũng như dân trong Cựu ước
gặp nhiều cám dỗ trên đường đi về đất hứa,
con cũng chịu cám dỗ, thử thách về đức tin.
Xin ban cho con được trung thành
với lời giao ước con đã làm qua Bí tích Rửa tội.
Xin dạy con biết dùng việc ăn chay, cầu nguyện
hi sinh, hãm mình, bác ái trong mùa Chay thánh
để làm tăng cường sức mạnh thiêng liêng
hầu có thể chống trả cám dỗ. Amen.
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép: MC1-C68
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.
Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45;18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: "Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc.15, 34).
Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.
Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi. Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.
Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: "Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội" (Dt.4, 15; 2, 17). Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.
Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội "riêng". Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.
Lời khuyên kiêng ăn bớt uống trong mùa chay hàng năm hiện nay vượt rào nhà thờ biến thành: MC1-C69
Lời khuyên kiêng ăn bớt uống trong mùa chay hàng năm hiện nay vượt rào nhà thờ biến thành một sản phẩm thương mại thịnh hành trong thời đại bụng phệ, béo tròn trục.
Các văn phòng giới thiệu hàng hóa với kĩ thuật quảng cáo tinh vi, dám chi những món tiền khổng lồ cho việc quảng cáo trên thương trường, chắc chắn làm công việc kêu gọi khoan ăn, bớt uống hiệu nghiệm hơn lời kêu gọi của các linh mục nơi toà giảng. Người ta không phải chỉ kêu gọi suông mà còn trưng ra các hình ảnh thành công việc làm của họ. Một số nơi khuyến dụ khách hàng còn ghi rõ giá cả. Mỡ đeo trên người càng teo bao nhiêu thì cái giá phải trả để làm teo mỡ càng mập ú bấy nhiêu.
Vấn đề hút sách cũng thế. Nhiều luật lệ mới ban hành cho thấy việc hút thuốc lá bị hạn chế khắp các nơi công cộng. Trên bao thuốc in hình rữa chân, thối tay, mặt thẹo, phổi teo gây nên bởi hút thuốc. Do vậy các linh mục có khuyên bớt hút thuốc vào mùa Chay kể như làm công việc thừa thãi.
Linh mục coi như thất nghiệp vì không cạnh tranh nổi lời kêu gọi hiệu nghiệm kiêng ăn, bớt uống, cữ hút bằng các nhà thương mại. Vẫn biết họ có mục đích riêng. Nhưng việc làm giống nhau.
NHƯỜNG VIỆC
Linh mục nhường việc kêu gọi khuyên ăn, bớt uống, giảm hút cho các trung tâm cai béo lo. Để chuẩn bị cho mùa Chay năm nay lời kêu gọi cần nhấn mạnh đến những điểm then chốt khác trong việc chuẩn bị tâm hồn, thống hối đón Chúa Phục Sinh. Đây không phải là điều mới lạ gì. Hơn 2000 năm trước tiên tri Joel 2,13 đã kêu gọi.
"Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em".
Còn Đức Kitô trong Mat 6,17
"Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm."
XÉ LÒNG
Hai chữ xé lòng là chủ đích của lời kêu gọi. Kitô hữu chú trọng vào đời sống nội tâm, thánh hoá cõi lòng, làm đẹp cõi lòng. Làm đẹp thân xác là việc làm của các nhà thương mại, của các chuyên viên thẩm mỹ. Làm đẹp cõi lòng là điều tiên tri Joel mời gọi, điều Chúa muốn.
Chay tịnh và bác ái bắt đầu từ nội tâm, trong lòng. Con người không có gì để cho Chúa và Chúa cũng chẳng mong gì nơi con người, ngoại trừ lòng mến. Chay tịnh thể hiện lòng mến; bác ái thể hiện tình thương. Hai việc đi đôi như bóng với hình, không thể tách rời. Tình yêu Thiên Chúa không để con người phải chết cho phép con người cộng tác với Chúa chữa lành thương tật nội tâm do tội lỗi gây nên. Thiên Chúa không cần chay tịnh; con người mới cần chay tịnh. Đức Kitô ăn chay vì Ngài nhận thân phận con người làm mẫu mực để con người bước theo.
TÌM SỰ SỐNG
Thực thi bác ái và chay tịnh mang lại phúc lợi ngay đời này đó là tâm hồn được bình an. Tâm tịnh thì lòng được vui, trí được sáng, linh hồn mến Chúa hơn và hẳn nhiên đời sống tươi hơn, đời không còn là bể khổ mà là nguồn vui. Đời đáng yêu, đáng quý. Người ta không thể yêu tha nhân nếu không yêu chính mình. Người ta quý sự sống tha nhân vì nhận biết giá trị của sự sống. Nhận biết này có được khi đặt sự sống lên trên tất cả tiền tài, danh vọng và tự mãn vì tất cả những thứ đó có nguồn gốc từ bụi tro. Người khôn sẽ không tích trữ những gì thuộc về bụi tro. Tích trữ càng nhiều tro than, đời càng bẩn thỉu, lem luốc.
ĐÁNH BÓNG KHUÔN MẶT
Chúa dậy " khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải dầu cho thơm". Tội làm con người khô héo. Ân sủng Chúa tưới mát tâm hồn, mang đến sự sống mới, đổi mới con người. Đổi mới nhiều ít tùy thuộc mức độ thực hành đức ái. Giữ chay càng kĩ; mặt càng trong sáng. Thực thi bác ái càng nhiều, tâm càng vui. Kitô hữu có khuôn mặt ủ dột, buồn đời, hận người vì thiếu ân sủng. Chúa muốn con người tốt đẹp, sống an vui, hân hoan cả hồn lẫn xác. Bất an nội tâm tạo nên khuôn mặt bánh bao chiều vì thiếu chay tịnh và bác ái. Tâm tịnh, lòng sẽ vui, đời thắm tươi, mặt mày sáng láng.
Khác với mọi tạo vật, tình yêu Chúa dựng nên con người có cả xác lẫn hồn. Khi hồn sa vào cạm bẫy ma quỷ, cả thân xác lẫn tâm hồn sống bất an, lo âu, sợ sệt. Xé lòng và thực thi bác ái giúp chữa lành vết thương nội tâm. Xé áo mà không xé lòng khó tránh khỏi cạm bẫy ma quỷ: không cần ơn Chúa để xé áo. Xé lòng đau đớn lắm nên cần nhiều ân sủng. Xé lòng chắc chắn có bình an nội tâm. Kiêng ăn bớt uống dành cho thân xác. Nội tâm bao gồm kiêng phê bình, tránh chỉ trích, cữ phàn nàn, kềm cơn giận, không thù oán, bỏ kiêu căng, giảm tật xấu, chê chốn gian tà, xa lánh nơi tội, từ giã bất công, chớ làm chứng gian và hạn chế tin đồn.
MÙA CHAY
Chúng ta bắt đầu mùa chay thánh qua câu chuyện Chúa ăn chay 40 đêm ngày trong xa mạc. Ma quỷ cám dỗ qua nhiều hình thức. Đức Kitô dùng Lời Chúa chống lại những cám dỗ. " Người ta không phải chỉ sống bởi cơm bánh nhưng nhờ vào Lời Chúa". Kitô hữu thánh thiện không tôn thờ danh vọng, của cải vật chất mà là tôn thờ một mình Thiên Chúa. "Ngươi phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi."
Chớ tự phụ, ỷ tài, cậy mình thử thách Chúa, nhưng sống tâm tình tạ ơn. Để việc hy sinh, hãm mình, ép xác và bác ái đạt hiệu quả tối đa, ta cần kết hợp với Chúa. Lời Chúa là là đèn soi dẫn lối, chỉ đường, là sức mạnh nội tâm giúp chống trả các cám dỗ.
Chay tịnh và bác ái cần thực hiện chung với cầu nguyện, suy gẫm, đọc kinh và các việc đạo đức như đọc sách thiêng, hạnh các Thánh, Kinh thánh và năng lãnh nhận các Bí tích là những phương pháp hiệu nghiệm cho việc xé lòng.
Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, mắt ta không trông thấy chúng, nhưng ta cảm nghiệm sinh hoạt và các: MC1-C70
Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, mắt ta không trông thấy chúng, nhưng ta cảm nghiệm sinh hoạt và các hoạt động của chúng. Ma quỉ thường biểu lộ cách hoạt động của chúng bằng ba hình thức" ám ảnh, phá phách và cám dỗ ".Tin Mừng của thánh Luca 4, 1-13 cho thấy cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Cuộc đương đầu, tranh chấp này còn kéo dài mãi trong công cuộc rao giảng của Chúa, trong cuộc thương khó và cái chết của Ngài, đồng thời nó còn kéo dài mãi mãi trong cuộc sống của con người, của mỗi người cho đến ngày toàn thắng vinh quang của Chúa.
Bài Tin Mừng của thánh Luca nói đến ba đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận để ma quỉ cám dỗ, thử thách. Thánh Luca viết:" Thánh Thần đưa Chúa vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ ". Thực ra đây là 3 cách cám dỗ ma quỉ bầy ra trong trí vẽ của con người, trong tư tưởng của Chúa Giêsu. Khi ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì chúng cũng dùng ba mồi nhử rất hấp dẫn để lôi kéo chúng ta hầu làm cho chúng ta chùn bước và sa ngã: tiền tài, danh vọng và sắc dục. Ba mồi nhử này xem ra rất hấp dẫn để làm cho con người chạy theo chúng. Tiền tài là mồi thơm lôi cuốn biết bao nhiêu người. Có người quên hết tất cả để thờ thần Mammon dù rằng họ đã biết Chúa từ lâu. Danh vọng và sắc dục cũng quyến rũ biết bao người, biết bao thế hệ. Có những người bán rẻ lương tâm, bán rẻ bản thân để chạy theo những bả vinh hoa, nhục dục...Trước những cám dỗ của ma quỉ Chúa Giêsu đã hoàn toàn chiến thắng chúng bởi vì "Ngài luôn đặt niềm tin vào Thiên Chúa Cha Ngài ". Vâng, những đương đầu, những thử thách, những cám dỗ với ma quỉ còn kéo dài trong suốt cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu và cách riêng đối với mọi người chúng ta. Tiền tài, danh vọng, nhục dục là những cám dỗ lớn nhất trong đời sống của con người. Con người có thể bị cuốn hút bởi những thứ bùa mê ngọt lịm đó, nhưng để chiến thắng chúng, Chúa Giêsu nói với chúng ta " Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Có một thứ cần hơn và tối hảo là lương thực của Chúa, " Mình Máu Chúa Kitô ". Bả vinh hoa danh vọng cao vời, Chúa nói chúng ta vẫn chiến thắng và chiến thắng vẻ vang nếu" Chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa ". Nhục dục, sắc đẹp mê hồn, con người vẫn có thể vượt qua khi họ nhận ra ý của Chúa. Ma quỉ hoàn toàn bị Chúa đè bẹp và thánh Luca viết tiếp:" Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác "( Lc 4, 13 ).
Như Chúa Giêsu, chúng ta phải tỉnh thức, ăn chay, hãm mình và cầu nguyện. Chúng ta luôn tin tưởng Chúa thương ta. Chúa không muốn ta bị sa ngã, nhưng tất cả phải do ta quyết định, tin hay chối từ lòng nhân hậu của Chúa. Chúa muốn ta càng ngày càng được thanh luyện để trở nên hoàn hảo trước mặt Chúa. Vì tất cả đều là tình thương của Chúa. Tất cả đều nằm trong ý định và trong vòng tay yêu thương của Chúa.
Tin Mừng hôm nay nhắc cho ta về việc Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trong sa mạc để vén mở cho ta thấy những gì sẽ xẩy ra trong giờ phút quyết liệt và khủng khiếp của thập giá. Trong vườn Cây Dầu, Chúa đã đổ mồ hôi máu ra. Điều ấy cho thấy Chúa Giêsu bị thử thách bỏ cuộc như thế nào!
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc thử thách nối dài, cuộc đương đầu với những cám dỗ ghê gớm để hoàn toàn trung thành với Chúa Cha. Chúa đã chiến thắng hoàn toàn vẻ vang để nêu gương cho ta và mời gọi ta đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa để chúng ta lãnh lấy ơn cứu độ. Sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đưa ta đi vào mùa chay vớii những quyết tâm sâu xa. Những quyết tâm là kiên trì, tỉnh thức chống lại những cám dỗ của ma quỉ như ước muốn khoái lạc, mưu tìm danh lợi theo ý muốn riêng tư của ta, ích kỷ tham lam mà quên đi thực hành các giới răn của Chúa.
Mùa chay 2007, đối với Giáo Hội Việt Nam còn mang một ý nghĩa sâu xa" Sống Đạo". " Sống yêu Thương và Phục Vụ ". Riêng đối với Địa Phận Đàlạt, mùa chay năm 2007 còn mang sắc thái truyền giáo bởi vì cả Giáo Phận đang nỗ lực đi vào năm thánh truyền giáo cho người Dân Tộc, kỷ niệm 80 năm người Dân Tộc đầu tiên bà Maria K Trut đã được Đức cố Giám Mục Gioan Cassaigne rửa tội ngày 07/12/1927 và từ người đầu tiên biết Chúa ấy, Giáo Phận Đàlạt cho tới thời điểm tháng 2/ 2007 đã có gần 150.000 người Dân Tộc nhận biết Chúa và trở thành con Chúa, con của Giáo Hội. Do đó, mùa chay là thời thuận tiện để chúng ta tỉnh thức, kiên trì chống lại những cám dỗ đang âm thầm gieo vào lòng ta và quyết tâm tin tưởng vào ơn giải thoát của Chúa vì chỉ nơi thập giá của Đức Giêsu Kitô mới có ơn cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay, hãm mình để luôn sẵn sàng chiến thắng những cám dỗ của ma quỉ ranh ma bầy ra, để bắt chước Chúa sống yêu thương và phục vụ . Amen.
Tương tự như trong cuộc sống tư riêng của mỗi người và trong cuộc sống gia đình, trong cuộc sống: MC1-C71
Tương tự như trong cuộc sống tư riêng của mỗi người và trong cuộc sống gia đình, trong cuộc sống của một cộng đồng cũng có những ngày vui hay những thành công, nhưng đồng thời cũng có những hiểu lầm và những va chạm xích mích. Người ta có thể nói được rằng: Cuộc sống con người trong phạm vi cá nhân, phạm vi gia đình hay trong phạm vi xã hội, v.v... là một tấm thảm được đan dệt bằng đủ thứ màu sắc!
Thánh sử Luca tường thuật lại lịch sử những cám dỗ của Ðức Giêsu như là lịch sử của những cám dỗ của các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi vào khoảng năm thứ 90 sau công nguyên. Vâng, sau sự thành lập buổi đầu với bao lạc quan hứng thú và được can thiệp trực tiếp bởi những điều thiêng dấu lạ, giờ đây tất cả họ phải tự đối mặt với những cám dỗ và những thử thách nặng nề. Sự bất kiên nhẫn, nãn chí và sợ hãi đã chụp xuống trên các cộng đoàn. Là Kitô hữu thuộc thế hệ thứ ba, họ đã vô vọng chờ đợi sự xuất hiện đầy uy quyền và có sức biến đổi mọi sự của Nước Thiên Chúa. Tình trạng cộng đoàn lúc bấy giờ hãy còn non trẻ, thiểu số và thiếu tổ chức, thêm vào đó còn bị khinh miệt và thường xuyên bị theo dõi bắt bớ, nên họ dã tự hỏi; Tương lai sẽ ra sao đây ? Giữa tình trạng bất an sợ hãi như thế, thánh sử Luca đã tường thuật Tin Mừng của ngài. Tương tự như qua một tấm gương, thánh sử đã muốn cho các cộng đoàn nhận ra được cuộc sống của mình qua cuộc sống của Ðức Giêsu, hay nói cách khác; Những cám dỗ thử thách của họ hôm nay là những cám dỗ thử thách của Ðức Giêsu hôm qua. Họ phải ăn những thứ bánh nào: những thứ chính tay họ làm ra hay những thứ được trao ban ? Họ phải sống cuộc sống nào: cuộc sống trước mắt do cơm bánh một mình hay cuộc sống dám can đảm hy vọng vào Thiên Chúa của Ðức Giêsu ? Những ước muốn nào của cuộc sống xui khiến và khích động họ ?
Ðó là những câu hỏi được đặt ra cho các cộng đoàn các kitô hữu của thánh Luca xưa và cho các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta ngày nay. Và chỉ mỗi người trong chúng ta mới có thể trả lời được.
Cả sự cám dỗ thứ hai của Ðức Giêsu cũng là sự cám dỗ thường xuyên của cộng đoàn các tín hữu; Chúng ta phải vinh danh ai ? Tâm hồn chúng ta lệ thuộc vào đâu ? (x. Lc 12,22-32). Thiên Chúa hay thần linh của chúng ta là gì ? Ai là Thiên Chúa của chúng ta ?
Thật ra, những câu hỏi như thế nghe quá đường đột và thiếu nhã nhặn! Bởi vì chúng bộc lộ sự nghi ngờ là chúng ta - với tính cách là những kitô hữu sốt sắng và giáo xứ sống động - có lẽ chỉ phần nào đó, hay có lẽ chẳng bao giờ làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ cho Nước Trời, nhưng chỉ tìm danh dự và lợi ích riêng tư của chúng ta, hay chỉ tìm cách gây ảnh hưởng cá nhân, v.v...Thiên Chúa luôn nhân hậu và quảng đại. Người đã sáng tạo nên chúng ta và đã ban cho chúng ta tất cả mọi sự, để chúng ta điều khiển và hưởng dùng. Người đã ban cho chúng ta sáu ngày trong tuần để sống, chỉ còn lại một ngày - hay nói chính xác hơn: chỉ vào khoảng trên dưới một giờ đồng hồ - chúng ta cần phải tôn thờ Người. Vâng, mỗi tuần lễ Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta 167 giờ đồng hồ để sống, và chỉ một giờ chúng ta cần hy sinh để đến với Người, để cùng nhau tôn vinh Người, để cùng nhau cảm tạ ơn người ! Chúng ta có sẵn sàng làm thoả mãn chút đòi hỏi cỏn con này của Thiên Chúa không ? Ở đây, tôi xin được phép nêu lên một câu hỏi; Nếu thành thật mà nói, có khi nào chúng ta đã có ý tưởng làm vinh danh Thiên Chúa chưa ?
Tuy nhiên tôi nghĩ rằng chúng ta không nên tránh né những câu hỏi đó, vì chúng giúp chúng ta kiểm điểm lại chính con người mình, trục quay của bao nhiêu thứ!
Cuối cùng, thánh sử Laca tường thuật sự cám dỗ thứ ba của Ðức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem, còn nặng nề hơn. Ở đây có tính cách quyết định; "Hoặc được tất cả, hoặc ngã nón về không", hoặc Thiên Chúa Tạo Hóa hay các thứ bụt thần khác, hoặc chúng ta muốn nằm trong tay Thiên Chúa hay muốn Thiên Chúa nằm trong tay chúng ta!
Sự cám dỗ đó là; Chúng ta tin vào Chúa nào ? Chúng ta còn có thể tin tưởng vào một Thiên Chúa Tạo Hóa thầm lặng, kín đáo và trước mắt người đời nhiều khi xem ra bất lực không ? Một Thiên Chúa không luôn luôn làm thỏa mãn mọi chờ đợi và mong ước của chúng ta, một Thiên Chúa mà chính Ðức Giêsu trong cơn hấp hối đầy đau thương trên thập giá cũng đã vô vọng kêu lên; "Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con ?"
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải sống điều chúng ta hằng ngày cầu nguyện Thiên Chúa; "Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời!" Ðó cũng là điều chính Ðức Giêsu đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu trước khi chịu khổ nạn; "Lạy Cha, không phải ý con, nhưng là ý Cha phải được thể hiện!" và Ðức Giêsu không chỉ cầu nguyện bằng lời suông mà thôi, nhưng chính Người đã sống làm gương cho chúng ta trước! Và Người đã đạt được sự chiến thắng vinh quang của cuộc sống, cho Người và cho tất cả chúng ta!
Nói tóm lại, lịch sử những cám dỗ của Ðức Giêsu cũng là lịch sử của những cám dỗ của các cộng đoàn kitô hữu xưa kia và của các giáo xứ chúng ta ngày nay, cũng như sự cám dỗ của mỗi người trong chúng ta. Ðức Giêsu đã đứng vững được trước các cám dỗ của Người, bởi vì Người hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa, Người chiến đấu với Thiên Chúa và cho Thiên Chúa!
Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với ai và cho ai ? Chúng ta có chiến đâu với Thiên Chúa và cho vinh danh Người hay chúng ta chiến đấu một mình và cho vinh danh cá nhân chúng ta ?
Mùa chay thánh là dịp thuận tiện nhất, để chúng ta suy tư ngẫm nghĩ về điều đó và đồng thời để tìm ra được câu trả lời đúng đắn! Amen.
Các tác giả sách Tin Mừng vẫn thường nhấn mạnh mối tương quan giữa hai sự kiện Đức Giê-su: MC1-C72
Các tác giả sách Tin Mừng vẫn thường nhấn mạnh mối tương quan giữa hai sự kiện Đức Giê-su chịu phép rửa và chịu cám dỗ trong hoang địa: tại sông Gio-đan, Thần Khí Thiên Chúa đã ngự xuống trên Người, dưới hình chim bồ câu; và sau đó, cũng Thần Khí đã dẫn Người vào hoang địa. Tác giả Lu-ca đã nhân cơ hội này để phác họa chân dung hai nhân vật trong thảm kịch sẽ đạt tới cao điểm vào "thời gian ấn định", tức là ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giê-su đã đối đầu với ma quỉ, tác viên chính trong cuộc Khổ Nạn. Trong trình thuật cám dỗ này, Đức Giê-su cũng cho thấy bằng cách nào Người minh chứng thân phận của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa.
Vậy, theo Lu-ca, Đức Giê-su làm gì để chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa ? Người đã từ chối sử dụng sức mạnh như một thứ quyền lực có tính ma thuật và hướng đến những mục tiêu ích kỷ. Tiếp đến, Người so sánh vương quyền của Người với những yêu cầu chính trị của trần gian; vương quyền của Người chỉ qui phục Thiên Chúa, nhờ đó Người có tất cả quyền hành. Sau cùng, khi đuợc dẫn lên Giê-ru-sa-lem, Người đã từ chối đề nghị thử thách Chúa Cha; quỉ đã đề nghị Người xin Chúa Cha nâng đỡ cách đặc biệt để tỏ cho mọi người thấy tính cách chính thức của Người.
Như vậy, ý hướng của tác giả là muốn cho mọi Ki-tô hữu thấy Đức Giê-su là gương mẫu cho họ, bởi vì thử thách là điều vẫn xảy đến cho họ mỗi ngày.
Trình thuật Tin Mừng cuộc thử thách tại hoang địa là bản tóm lược về cuộc đời và con người Đức Giê-su. Bởi vì thử thách không phải là điều chỉ xảy ra một lần và trong khoảnh khắc; thử thách còn trở lại. Trong câu cuối cùng, bản văn ghi lại; "ma quỉ bỏ Người mà đi, chờ đợi thời cơ". Thời cơ đó chính là cuộc Khổ Nạn.
Như thế, trình thuật Tin Mừng hôm nay thực là một hình ảnh sống động về toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô. Câu nói "cứu lấy mình đi" của đám lính khi Đức Giê-su chịu treo trên thập giá chỉ là lặp lại lời thách thức hôm nay; "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi!"
Cuộc thử thách hôm nay cũng là việc lặp lại, theo chiều đối nghịch, lịch sử đầy thất bại của đoàn dân tuyển chọn. Bốn muơi ngày trong hoang địa ... Bốn muơi năm. Vẫn luôn là cơn đó, vẫn luôn là ý định bắt Thiên Chúa phải phục vụ mình, vẫn luôn là quyến rũ đạt được thành công do ngẫu tượng, các quyền lực trần gian.
Thế nhưng, Đức Giê-su, theo cái nhìn chung, vẫn là Con Người. Tác giả Lu-ca đã nhấn mạnh điều này khi nói đến sự liên tục từ nguyên tổ A-đam đến Đức Ki-tô. Với Đức Giê-su, nhân loại lại lên đường để thể hiện ơn gọi của mình.
Cuối cùng, những cám dỗ trong cuộc thử thách của Đức Giê-su là hình ảnh về những vấn đề cơ bản vẫn được đặt ra trong suốt cuộc hành trình của nhân loại. Liệu con người có nghe được lời Thiên Chúa và chấp thuận cuộc sống tư cách làm con Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã sống ?
Những thử thách muôn thuở
Vào cuối bản văn Tin Mừng, tác giả ghi lại; "Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ..." như là quỉ không còn nghĩ ra được điều gì nữa để thử Đức Giê-su. Tại sao thế ? Chẳng lẽ chỉ có ba cám dỗ, quỉ hết cách ! Hay là ba cám dỗ này đã đủ để nói lên tất cả ? Nên nhìn lại một chút để thấy rõ hơn;
* Cám dỗ thứ nhất: biến đá thành bánh. Quả là một thử thách lớn lao khi người ta bị rơi vào cảnh đói khát. Và cũng quả là một thử thách lớn khi muốn giải quyết những nhu cầu căn bản bằng chiếc đũa thần kỳ diệu, khi muốn chuyển sang CÓ trước khi LÀ. Đâu là cuộc sống đích thực của con người ? Phải chăng chỉ nhờ cơm bánh hay những của cải thu được mà không phải làm gì ? Đức Giê-su cho thấy rằng; "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh!"
* Cám dỗ thứ hai; quyền lực và vinh quang. Điều này mọi người đều biết; ai lại không khao khát mình đứng trên, có quyền trên người khác ? Khi một người bị kẻ khác đàn áp, trong công việc hay trong những điều khác, lập tức người ấy thường tìm cách thể hiện quyền của mình, có khi trên một con vật, một đứa trẻ hay trên những kẻ yếu thế hơn ... Đây chỉ là một ví dụ.
* Cám dỗ thứ ba: uy quyền của Thiên Chúa trên chính mình. Đây là một cám dỗ ghê gớm, nó vẫn thường xuất hiện tại những khúc quanh trên hành trình đức tin. Người ta thường kêu lên; "Nếu Ngài là Thiên Chúa, hãy thực hiện điều này ... hãy làm điều kia!"
Nếu Ngài không thực hiện, thì Ngài cũng chẳng phải là Thiên Chúa, vì Ngài tuân phục loài người.
Biết bao nhiêu lần, đàng sau những lời cầu nguyện, trong những ngõ ngách của tâm hồn, lại vẫn không ẩn giấu tham vọng muốn Thiên Chúa làm theo ý mình đó sao?
Đó là ba cám dỗ quỉ đã đưa ra để thử Đức Giê-su, và nó đã thất bại. Quỉ đã đưa ra những cám dỗ này như những "tuyệt chiêu" nhằm hạ thủ Đức Giê-su, nhưng Người đã dùng lời Thiên Chúa mà chế ngự. Rút cuộc quỉ đã phải tháo lui. Những người môn đệ của Đức Ki-tô có nghĩ rằng đây là những cám dỗ mạnh nhất mà họ phải đương đầu không ? Họ có nghĩ rằng những cám dỗ ấy thu tóm tất cả khát vọng của con người về sự sở hữu và quyền lực không ? Điều này tùy thuộc vào nhận thức và kinh nghiệm của mỗi người.
Ngược lại, chính tình yêu đem lại giá trị siêu việt, tình yêu thách thức với quyền lực, tình yêu là sự trông chờ Thiên Chúa.
Khi sống với tình yêu, con người sẽ thoát khỏi mọi cám dỗ, và sẵn sàng để gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu.
Tiến bước trong niềm vui
Toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta tại trần gian này vẫn thường gặp những cám dỗ như thế; tôn thờ tiền bạc; phô trương quyền lực khi sử dụng nó làm phương hại đến người khác; lệ thuộc vào tôn giáo, coi tôn giáo như một phương tiện để thỏa mãn tham vọng cá nhân. Có biết bao thứ mặt nạ mà quỉ vẫn dùng để làm cho con người nghi ngờ về cuộc sống của mình. Có biết bao người cảm thấy khó khăn khi phải nói lên lời "không" trước những cám dỗ như thế. Họ nghĩ rằng thu tích của cải thì tốt hơn là chia sẻ, củng cố quyền hành thì tốt hơn là phục vụ, và sẵn sàng sử dụng những điều tốt lành thiêng liêng vào những mục đích phàm trần.
Khi thu tóm nơi mình những cám dỗ của dân Ít-ra-en và của toàn thể nhân loại, ngay trước khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su cho chúng ta thấy Người hoàn toàn tín thác trong tay Chúa Cha, hoàn toàn tin tưởng vàolời Thiên Chúa.
Như vậy, thái độ cần phải có trong mùa Chay này là lòng tín thác vào Thiên Chúa. Sự tín thác này không giảm bớt tầm quan trọng trong những cuộc chiến và những sức mạnh đang đe dọa chúng ta. Chúng ta không thể chiến thắng được sự dữ nếu không tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúng ta sẽ gục ngã trước sức mạnh của sự dữ nếu chúng ta chỉ dựa vào sức lực riêng của mình.
Ở đây chúng ta nhớ đến lời Đức Ki-tô nhắn nhủ các môn đệ; "Giống quỉ ấy chỉ trừ được bằng lời cầu nguyện thôi" (Mc 9,29). Cầu nguyện để duy trì cuộc tiếp xúc thường xuyên với Thiên Chúa, cầu nguyện để khổ chế.
Tiếp đến, noi gương Đức Giê-su, chúng ta sống đời chay tịnh đe chia sẻ cho những người đang đói, để thanh luyện chính mình, nhất là để sám hối và tiến bước trong niềm tin.
Đức Hồng Y Phanxicô Xavie có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân: MC1-C73
Đức Hồng Y Phanxicô Xavie có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?" · Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!".
1. Tin vào Thiên Chúa, bản chất cuộc sống kitô hữu.
Cám dỗ lạm dụng chức quyền được ban và cám dỗ muốn làm theo ý riêng mình hơn làm đẹp lòng Thiên Chúa, đó cũng là điều Đức Giêsu trải qua trong bài Tin Mừng mở đầu Mùa Chay hôm nay.
Tự bản chất, Mùa Chay này giống như hoang địa làm nên hậu cảnh cho trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giêsu bị cám dỗ. Y như hoang địa giản lược con người vào những gì chủ yếu, bóc trần nó khỏi những gì bên ngoài, dư thừa, phù vân và phóng đẩy nó đến một ít điều căn bản (thức ăn, nước uống, con đường đúng, một chỗ che nắng mặt trời), thì Mùa Chay cũng muốn đưa chúng ta về lại bản chất của cuộc sống kitô hữu. Và hôm nay nó làm điều đó với ba đoạn Thánh Kinh được liên kết với nhau bởi một chủ đề căn bản, chủ đề tuyên xưng đức tin, một đức tin theo đúng nghĩa Kinh Thánh (Đnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13)
Trong ba cuộc tuyên tín này (một của tuyển dân, một của thánh Phaolô, một của Đức Giêsu), đáng kể hơn hết là lời tuyên xưng của Đức Giêsu qua trình thuật cám dỗ: tuyên xưng lòng tín thác đối với Chúa Cha và đối với chương trình cứu rỗi của Người. Được cách điệu hóa trong ba cảnh, trình thuật có một sự đảo lộn lý thú giữa cảnh hai và cảnh ba so với bản song song của Mátthêu: đối với Luca, chóp đỉnh của cuộc cám dỗ không phải là "ngọn núi rất cao" như đối với Mátthêu song là Giêrusalem, thành phố mà tất cả Tin Mừng Luca hướng về. Thật thế, người ta biết rằng tác phẩm của Luca mở ra và đóng lại ở Đền thờ núi Sion và trung tâm của tác phẩm (các chương 9-19) chính là cuộc hành trình dài của Đức Kitô tiến đến định mệnh của mình sẽ được hoàn tất ở Thành thánh. Do đó chính Giêrusalem, đỉnh cao cuộc sống Đức Kitô, cũng là đỉnh cao cơn cám dỗ và lời tuyên xưng lòng tín thác của Người.
Thật thế, ở đó hoàn tất cơn thử thách cao nhất về tính chất Mêsia của Đức Giêsu: Người sẽ phải quyết định chọn định mệnh cuối cùng của mình, một định mệnh cứu rỗi không đạt tới bằng toàn thắng vinh quang nhưng qua nghèo khổ tột cùng của thập giá. Nếu chìu theo cám dỗ này, Đức Giêsu sẽ từ khước lòng tín thác hoàn hảo của mình vào Chúa Cha và chúng ta sẽ mất niềm tin vào một vị Cứu Thế đích thực. Nhưng trên thượng đỉnh Đền thờ, Đức Giêsu đã công bố tiếng "vâng"quyết định đối với Cha, và nhờ đó, đã trở nên biểu tượng sáng ngời của đức tin như Kinh Thánh nói, nghĩa là của việc gắn bó hoàn toàn và trọn vẹn vào Thiên Chúa và vào chương trình Người đã vạch trong lịch sử.
Lòng tin đó, Đức Giêsu đã mạnh mẽ công bố trước Tên cám dỗ số một, Satan, kẻ luôn tìm cách làm lung lay lòng tín thác của Người vào Cha Người và kéo Người đi xa con đường của Cha Người. Bám vào lời Chúa, Đức Giêsu đã xây dựng một kinh Tin kính mà đỉnh cao nằm trong câu đốp lại cơn cám dỗ thứ hai: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi". Mà đó là lặp lại giới răn thứ nhất, nền tảng và là nguồn suối của tất cả Thập điều cũng như của toàn bộ đức tin Kinh Thánh: "Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta... Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ..." (Xh 20,3.5).
Chống lại tất cả những ngụy tạo về khuôn mặt Thiên Chúa mà con người qua các thế kỷ đã tưởng tượng ra theo nhu cầu sử dụng và tiêu thụ của mình, chống lại biếm họa về Thiên Chúa mà Satan cố gắng gợi lên cho Đức Giêsu, chống lại chính Satan, bóng tối của Thiên Chúa đích thực, Đức Giêsu xác quyết lại nhu cầu phải thờ phượng một mình Thiên Chúa cứu độ và hằng sống, Tạo Hóa và Chủ Tể. Trên đồng đôla của Mỹ luôn có câu "In God we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa), nhưng thực tế dân Mỹ có lẽ tin vào đồng đôla hơn!
2. Sống theo ý Thiên Chúa, con đường của kitô hữu
Tuy nhiên, việc xác quyết niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa cũng có thể biến chứng thành một thái độ lầm lạc: muốn tìm nơi Thiên Chúa nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn.
Thông thường, từ "cám dỗ"thường gợi lên cho chúng ta nhiều cuộc chiến đấu cục bộ, đặc biệt những cuộc chiến đấu thuộc loại tính dục. Nhưng ở đây, hoang địa, cái đói, việc hồi tâm mãnh liệt của Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ, nói lên cho chúng ta thấy đó là một cuộc chiến đấu mang tính tổng quát hơn nhiều, một cơn "cám dỗ vĩ đại": muốn tìm nơi TC nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn trong đời.
Trong cuộc chay tịnh 40 ngày của mình nơi hoang địa -một cuộc tĩnh tâm kinh khủng- Đức Giêsu đã lường được tính đồ sộ của những gì Người sắp khởi công: thay đổi các ý tưởng về Thiên Chúa, nói ngược các "nhà thông thái khôn ngoan", chống lại các kẻ cường quyền, đề ra một sự công chính và một tình yêu vượt rất xa những gì Biệt phái dạy.
Và này tên cám dỗ của cơn cám dỗ vĩ đại xuất hiện: "Nếu thực là Con Thiên Chúa, thì ông có biết bao quyền lực trong tay! Ông sẽ chinh phục được cả hoàn vũ". Với sức mạnh rất trầm tĩnh, bộc lộ cho thấy có Thánh Thần (Luca nhấn mạnh: "Người được đầy Thánh Thần... Người được Thánh Thần dẫn đi"), Đức Giêsu từ khước đóng vai thuật sĩ. Mầu nhiệm Nhập thể chính là Thiên Chúa đi vào thân phận con người mà không gì bảo vệ cũng chẳng quyền năng đặc biệt. Một siêu nhân khó mà bảo chúng ta: "Hãy theo Thầy, hãy học cùng Thầy".
Phần chúng ta, muốn theo Người, phải chăng chúng ta sẽ xin nhiều điều dễ dãi và nhiều quyền năng ma thuật? Hẳn bạn nói: "Tôi đâu có xin!" Nhưng bạn đã chẳng bao giờ thưa sao: "Lạy Chúa, xin làm cho cuộc sống con nên dễ dãi"? - "Chính Đức Giêsu kêu mời chúng ta xin tất cả: cơm bánh, ơn tha thứ, một sự giúp đỡ. Phụng vụ Giờ kinh bắt đầu bằng câu: "Lạy Chúa trời, xin tới giúp con" mà!"
Có một lời kêu xin giúp đỡ đúng và một lời kêu xin giúp đỡ bậy. Hãy nghe rõ câu đốp cuối cùng của Đức Giêsu: "Đã có lời rằng ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi". "Thử thách Thiên Chúa", đó là chờ đợi nơi Người nhiều cái sẽ làm sai lệch tất cả: sai lệch về Người, về chúng ta và về cuộc sống Người ban cho ta.
Chúng ta muốn một cuộc sống đỡ vất vả hơn, đỡ âu lo hơn, đầy hạnh phúc và niềm vui hơn. Và chúng ta bị cám dỗ xin những cái ấy nơi tôn giáo. Nếu không, chúng ta nghĩ, cầu nguyện để làm gì? đức tin mang lại lợi ích gì? Thật ra, đức tin không mang lại những phương tiện làm cho cuộc sống dễ dãi hơn, nhưng đem lại khả năng sống đến cùng cái dễ và cái khó. Nghĩa là khả năng sống một cuộc sống con người thực sự: trở thành đến mức tối đa cái chúng ta phải trở thành, và lợi dụng tất cả. Cha Jean-Francois Six từng định nghĩa về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng như sau: "Ngài đã lợi dụng tất cả để yêu mến". Một cách khác để diễn tả rằng "tất cả đều là hồng ân" khi người ta đã luyện được cái phản xạ cứu nguy: "Ở đấy, tôi có thể yêu thương như thế nào?" Bấy giờ ta có thể nói: "Lạy Chúa trời, xin tới giúp con!"không phải để gỡ con khỏi những gì mà cuộc sống đòi hỏi con, trái lại để ôm chầm lấy nó bằng cách đánh thức tối đa lòng can đảm của con và khai mở trí tuệ của con.
Đức Giêsu nghĩ tới điều ấy trong 40 ngày: làm những gì mình cần làm, với các phương tiện của một con người, với lòng can đảm và quả tim của một con người. Thật ngu đần cái thằng quỷ đến đề nghị với Người nhiều phương tiện ma thuật để lòe mắt và thống trị. Không đến nỗi ngu thế đâu! Nó biết làm cho cơn cám dỗ nên lấp lánh rực rỡ: sử dụng nhiều con đường ngắn và nhiều phương tiện nặng để toàn thắng. "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy sử dụng các quyền lực của ông đi nào!" Satan cũng rót vào tai ta như vậy: "Thiên Chúa yêu bạn, bạn có thể xin với Người tất cả". Thậm chí nó sẽ đóng vai ông thầy: "Đã có viết rằng..." Chúng ta sẽ cùng với Đức Giêsu trả lời nó: "Đã viết rằng" không nên xin Thiên Chúa cho thoát khỏi nỗ lực sống, thoát khỏi gian khổ của đời chứng nhân!
Mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Đức Giêsu trải qua: MC1-C74
Mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Đức Giêsu trải qua những cơn thử thách trong 40 ngày tại hoang địa ( Lc 4, 1 – 13 ).
“Khi ấy, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả” ( cc. 1 – 2a ).
Trong biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần đã được ban xuống tràn đầy trên Người. Dưới tác động của chính Thánh Thần đó, Người di chuyển trong hoang địa suốt 40 ngày, như dân Israel xưa đã lang thang trong hoang địa 40 năm. Chú ý: tác giả Luca viết “trong hoang địa” ( giới từ en + danh từ ở tặng cách ), khác với các tác giả Mátthêu và Máccô ( viết là “vào hoang địa”: giới từ eis + danh từ ở đối cách ).
Có hai yếu tố quan trọng trong trải nghiệm của Đức Giêsu suốt 40 ngày nơi hoang địa. Yếu tố thứ nhất: “Người tràn đầy Thánh Thần và được Thánh Thần dẫn đi”. Yếu tố thứ hai: “Người chịu ma quỷ cám dỗ”. Có lẽ vì muốn nhấn mạnh khía cạnh “tràn đầy Thánh Thần” mà tác giả Luca đã không kể rằng Đức Giêsu ăn chay trong hoang địa ( như trong Mt 4, 2 ), mà chỉ nói rằng “Người không ăn gì cả”: trong Thánh Thần, Con Thiên Chúa sống một cách viên mãn bởi vì chính Thánh Thần là sức sống của Người. Tuy nhiên yếu tố thứ hai ( Đức Giêsu chịu cám dỗ ) cũng được tác giả nhấn mạnh cách đặc biệt. Phần lớn trình thuật được dùng để triển khai yếu tố thứ hai này.
Như thế, cũng giống như đối với dân Israel xưa, hoang địa trong bài Tin Mừng hôm nay vừa là nơi chốn của những kinh nghiệm sâu xa về sự hiện diện hữu hiệu và đích thực của chính Thiên Chúa, vừa là nơi chốn xảy ra những cơn cám dỗ và thử thách mang tính quyết định sống còn. Đó có lẽ cũng chính là đặc tính của 40 ngày Mùa Chay này của chúng ta. Đây vừa là thời gian của cám dỗ và thử thách, nhưng cũng vừa là, và chính yếu là, thời gian của ân sủng, của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, của sự tràn đầy Thánh Thần.
“Khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi !" Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” ( cc. 2b – 4 ).
Cơn đói của thân xác sau 40 ngày không ăn đã là cơ hội để xảy đến cuộc cám dỗ đầu tiên. Và mối liên hệ với cuộc thần hiện được khắc hoạ rõ nét qua lời của ma quỷ nói với Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Thực ra, trong Tin Mừng theo Thánh Luca, không bao giờ có người nào gọi Đức Giêsu với tước hiệu Con Thiên Chúa, mà chỉ những hữu thể thuộc thế giới siêu nhiên mới sử dụng tước hiệu đó cho Đức Giêsu: Chúa Cha ( Lc 3, 22; 9, 35 ), thiên thần ( Lc 1, 32.35 ), ma quỷ ( Lc 4, 3.9.41; 8, 28 ). Tước hiệu “Con Thiên Chúa” được dùng ở đây còn nhằm cho thấy rằng Đức Giêsu bị cám dỗ trước hết là về những thực tại liên quan đến tư cách của Người là Con thảo của Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ đầu tiên: biến một hòn đá thành bánh để thoả mãn cơn đói. Trong Tin Mừng theo Thánh Luca, hạn từ “hòn đá” được dùng ở số ít, khác với trong Mátthêu ( dùng ở số nhiều ). Vậy khác với trong Mátthêu, cám dỗ này trong Luca sẽ chỉ là cám dỗ thực hiện phép lạ để thoả mãn nhu cầu của một người, chứ không phải của nhiều người. Có vẻ trong Luca, cơn cám dỗ đầu tiên này không mang ý nghĩa Mêsia.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho cám dỗ này thật ngắn gọn: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Trước hết, Đức Giêsu từ chối thực hiện phép lạ làm hòn đá biến thành bánh để thoát khỏi cơn đói đang hành hạ Người. Đức Giêsu muốn sống tư cách là Con như một con người đón nhận sự hiện hữu của mình từ Thiên Chúa chứ không tự tại nơi mình. Người có đủ quyền năng để tự mình làm ra bánh từ đá, tức là Người có thể tự duy trì Sự Sống của mình nhờ những thứ vốn không thể đem lại sự sống.
Nói cách khác, Người hoàn toàn có đủ quyền năng để tự tại nơi mình, điều mà xưa kia Ađam đã khao khát và đã kỳ vọng sẽ có được bằng việc ăn trái của cây biết lành biết dữ. Nhưng Người đã không biến đá thành bánh, vì Người muốn đón nhận Sự Sống từ Chúa Cha như một ơn huệ hoàn toàn nhưng không. Thiên Chúa đã gặp được nơi Đức Giêsu sự tuân phục hoàn hảo mà Ngài đã không thể gặp được nơi Ađam.
Thứ đến, trong câu trả lời của mình, Đức Giêsu không hề phủ nhận quyền năng Người có nơi mình, cũng không hề phủ nhận khả năng Người sẽ sử dụng quyền năng ấy. Nhưng, như thực tế cho thấy, Người sẽ không sử dụng quyền năng mà Người có trong tư cách là Con Thiên Chúa để thoả mãn những nhu cầu của chính bản thân Người, nhưng sẽ chỉ dùng quyền năng ấy để phục vụ người nghèo, còn chính Người sẽ chịu mọi thiếu thốn trên con đường thi hành sứ vụ cứu thế của mình.
“Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” ( cc. 5 – 7 ).
Ma quỷ dùng chính lời Đức Chúa ngỏ với vị quân vương Mêsia trong Tv 2, 8: “Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa.” Tác giả Luca không muốn dừng lại ở quyền sở hữu đất đai muôn dân nước mà thôi, nhưng điểm nhấn chính yếu của ông ở đây là trên cám dỗ quyền lực chính trị. Ma quỷ nhắm vào cơn khát quyền lực vốn nằm sẵn trong tâm can mỗi con người.
“Tất cả các nước thiên hạ” được nói đến ở đây trước hết có lẽ chính là đế quốc Rôma đương thời, với tất cả vẻ huy hoàng và tham vọng điên cuồng của nó. Ma quỷ hứa hẹn “toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc”, vì nó biết rằng ở phía sau mỗi thứ quyền bính thế gian đều là tham vọng cai trị kẻ khác và tham vọng biến mình thành một thứ ngẫu tượng đáng được tôn thờ.
Ma quỷ muốn Đức Giêsu bái lạy nó, tức là muốn Người thực hiện một hành vi thờ phượng. Hành vi đó sẽ đối nghịch triệt để với tư cách là Con Thiên Chúa của Đức Giêsu. Hành vi đó sẽ là sự phản bội tận căn, làm đảo ngược hoàn toàn mối tương quan con thảo của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, ma quỷ hứa hẹn một Vương Quốc Mêsia được thiết lập tức khắc, không phải qua con đường thập giá, nhưng được sự ủng hộ của toàn thể thế gian, nhưng với một điều kiện: ma quỷ được con người nhận là dung mạo đích thực của Thiên Chúa.
Ngày nay, cám dỗ đó vẫn mang tính thời sự đặc biệt đối với Hội Thánh và từng người tin: nấp dưới những vẻ bề ngoài cao thượng mà thỏa hiệp với những thế lực của sự dữ để thoả mãn cơn khát quyền lực ích kỷ của mình.
Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” ( c. 8 ). Đức Giêsu trích nguyên văn một phần của Kinh Shema ( Đnl 6, 13 – bản LXX) , tức là lời cầu nguyện mà người Do Thái đọc ba lần mỗi ngày. Bằng cách đó, Người tỏ mình liên đới hoàn toàn với những con người luôn luôn ý thức một cách mạnh mẽ về sự tuỳ thuộc của mình vào một mình Thiên Chúa. Con Thiên Chúa sẽ sống sứ vụ thiên sai của mình trong tư cách một người tôi tớ hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa cho đến chết, và là cái chết thập giá. Người sẽ đi con đường đau khổ chứ không phản bội Cha. Người sẽ chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi.
“Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" ( cc. 9 – 11 ).
Cơn cám dỗ cuối cùng liên quan đến Thành thánh Giêrusalem. Đền Thờ là Nhà của Cha. Đức Giêsu được đem lên nóc Đền Thờ, rất gần sự hiện diện của Cha. Cơn cám dỗ này, như thế, chú ý nhiều hơn đến chiều kích ‘tôn giáo’.
Ma quỷ dùng Tv 90, 11a.12b ( bản LXX ) để cám dỗ Đức Giêsu. Lời Thánh Vịnh đó tuyên xưng lòng tín thác của người công chính vào sự bảo vệ của chính Thiên Chúa. Đó là lời tuyên xưng lòng tin tưởng vào Đức Chúa YHWH ở mức độ cao nhất. Và chính Đức Giêsu, trong tư cách là Con Thiên Chúa, phải sống triệt để lòng tin tưởng này. Chính khi Người chứng tỏ lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Người sẽ chứng tỏ rõ ràng rằng Người chính là Con và là Đấng Mêsia.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" ( c. 12 ). Đức Giêsu từ chối chứng tỏ tư cách là Con Thiên Chúa của Người bằng những cách thức hành động mang tính biểu diễn. Người từ chối việc đòi hỏi những sự can thiệp đặc biệt để chứng tỏ tư cách Mêsia của Người. Tư cách là Con Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng ngay trong câu trả lời của Người: ‘Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi’.
Trái ngược với những người Israel xưa đã thử thách Đức Chúa tại Masa ( x. Xh 17, 1 – 7 ), Đức Giêsu muốn sống lòng tin tưởng thảo hiếu của Người vào Thiên Chúa trong sự tuân phục thường ngày, như một con người không hề chờ đợi những sự can thiệp ngoại thường và những ân điển đặc biệt, nhưng luôn kiên tâm đón nhận đến mức độ tận cùng thân phận của chính mình và chính trong sự kiên tâm đón nhận ấy mà nhận ra sự hiện diện thân cận của Thiên Chúa đối với mình.
Trong ngôn ngữ thường ngày, ‘cám dỗ’ là một hạn từ tiền giả định một sự liên quan đến một điều cấm đoán, và có nghĩa là một thúc đẩy người ta đi đến chỗ vi phạm điều cấm đó. Những suy niệm trên đây về ba cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã trải qua cho thấy rằng việc áp dụng hạn từ ‘cám dỗ’ vào Đức Giêsu trong trình thuật Lc 4, 1 – 13 có vẻ dị nghĩa. Phải hơn, như chúng ta đã thấy, Đức Giêsu đã trải qua những cuộc thử thách chứ không phải những cơn cám dỗ đúng nghĩa. Chính hạn từ peirasmos cũng có nghĩa là đặt vào trong một cuộc thử thách, là làm một cuộc kiểm tra để xác định lòng trung thành và giá trị của một người nào đó. Điều đó cũng đã xảy ra với cụ Abraham, với ông Gióp và với chính Israel ( trong cuộc lưu đày ).
Đức Giêsu chịu cám dỗ không phải vì Người có thể vi phạm một điều cấm đoán nào đó, hoặc có thể thực hiện một sự dữ nào đó. Người chịu cám dỗ là để thể hiện thực tại sâu kín đang có nơi Người. Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã trải qua trong hoang địa là sự tiếp tục của cuộc thần hiện đã xảy đến trong biến cố Đức Giêsu cầu nguyện ngay sau khi Người chịu phép rửa. Vậy ngang qua những thử thách được kể trong bài Tin Mừng hôm nay ( mà ta quen gọi là cám dỗ ), chúng ta được mạc khải cho biết đối với Đức Giêsu đâu là ý nghĩa của sự hiện hữu trong tư cách là Con Thiên Chúa. Người không hề tìm tự tại nơi mình, không hề để cho những con khát quyền lực và những tham vọng ích kỷ chi phối mình, nhưng luôn luôn trung thành đặt mình dưới Thánh Ý của Thiên Chúa, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ.
Những yếu tố ‘thử thách’, ‘hoang địa’, ‘40 ngày’ đề nghị cách hiểu những thử thách mà Đức Giêsu trải qua ở đây được đặt song song với những thử thách mà dân Israel đã trải qua trong cuộc Xuất Hành. Những trích dẫn Kinh Thánh của Đức Giêsu trong các câu trả lời của Người trong bài Tin Mừng hôm nay phản ánh ba biến cố điển hình của cuộc Xuất Hành. Như thế, Đức Giêsu sống lại nơi chính mình những thử thách của Israel trong hoang địa xưa. Nhưng ngược với dân Israel xưa, Đức Giêsu đã vượt thắng các cơn thử thách đó và chứng tỏ Người xứng đáng là thủ lãnh của Dân mới.
Chúng ta được mời gọi làm con cái Thiên Chúa và làm Dân Thiên Chúa. Những thử thách Đức Giêsu đã trải qua suốt 40 ngày trong hoang địa cũng chính là những thử thách mà hàng ngày chúng ta phải trải qua.
“Anh ngâm nga, để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn trề, say chới với.”
( Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử )
Lời anh ngâm, chẳng là thi ca tràn trề, say chới với. Để mở rộng cửa lòng, của ai đây ? Điều em; MC1-C75
Lời anh ngâm, chẳng là thi ca tràn trề, say chới với. Để mở rộng cửa lòng, của ai đây ? Điều em học, vẫn là Lời Vàng Chúa nói ở trình thuật, để cửa lòng mở rộng đón Chúa hôm nay.
Lời vàng trình thuật, là Lời Kinh Sách được Thánh Luca dẫn giải về việc Chúa chịu thử thách những 3 lần. Thử thách Ngài chịu nơi sa mạc 40 đêm ngày, tưởng chừng dài. Nhưng thật ra, số 40 chỉ là biểu tượng rất đặc trưng thôi. Nói đúng hơn, thử thách ấy công khai kéo dài cả một đời Ngài sống vì con người. Thử thách suốt một đời, vào mọi lúc, mãi đến ngày Ngài đầm mình những mồ hôi và máu trên thập giá ở Calvariô. Thử thách Ngài chịu, mang hình thức mê hoặc về những gì mình sống, hoặc như một khuyến dụ hãy làm những chuyện rất “rối” mà tự bản chất chuyện ấy cũng không tệ.
Thử thách lớn Chúa chịu là tỏ cho mọi người biết Ngài là Đấng Mêsia. Điều không chắc là thử thách đề ra cho Ngài có như một chọn lựa thực tiễn không ? Hay vẫn chỉ là cung cách Thánh Luca kể với người đọc về những gì nói thay cho Đấng Mêsia thời buổi đó và như thế, sẽ đánh bóng cả một diễn biến hoàn toàn khác việc Chúa đã đảm nhiệm.
Là Đấng Mêsia, có ba thử thách để thực hiện. Thứ nhất, tham gia cuộc chiến đấu giành quyền lực với đế quốc Rôma; tức thử thách chính với chúng dân thời buổi đó, do quyền uy thế lực rày trải rộng khắp dân gian loài người. Thử thách là thách thức Đấng Mêsia thi đua với Rôma để rồi chính mình sẽ trở thành Hoàng Đế toàn thế giới.
Thử thách tiếp là giải quyết khó khăn của người nghèo cùng những người vẫn cứ đói do đế quốc tạo ra. Thử thách này còn là sức cám dỗ khuyến dụ người chịu đựng phải giải quyết kinh tế, tạo cuộc sống lành mạnh cho mọi người.
Và thử thách cuối là khuyến dụ bản thân mỗi người và mọi người hãy cứ “mũ ni che tai” với mọi chuyện; chỉ nên lo việc thiêng liêng, đọc kinh lần chuỗi để rồi Chúa sẽ giải quyết hết mọi sự từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Đó là “thử thách” gặp ở Tin Mừng theo Thánh Luca.
Thử thách thứ ba ở Tin Mừng theo Thánh Luca và nơi đây là thách thức rất rõ về quyền lực. Rất rõ là vì đế quốc Rôma ngày đó đã có đủ quyền và lực sẵn trong tay. Rất rõ là đế quốc Rôma từng sử dụng nó cách mạnh bạo khiến người dưới trướng bị khuynh loát đến độ khó sống và không thể sống. Thử thách là hạ gục những người có quyền hành ở Rôma, bằng chính trò chơi họ đề ra hầu có quyền sử dụng mà dựng xây dựng cuộc sống có chất lượng cho mọi người, cả thế giới có văn hoá. Nói cách khác, đế quốc Rôma sử dụng quyền lực theo cung cách quá tệ bạc nên ta phải giành quyền và làm thay cho tốt hơn.
Người người đều muốn thế. Quyền và lực, tự bản chất không dẫn đến sử dụng cho tốt vì lợi ích của mọi người. Đức Giêsu từng từ chối coi Ngài như luật trừ, không tham ô/nhũng lạm như quyền và lực ở đời thường vẫn làm. Chúa khước từ đường lối Quyền lực từng sử dụng. Ngài chỉ trích, không chỉ mỗi đế quốc Rôma đã sử dụng quyền hành rất tệ lậu. Ngài còn chỉ trích đích danh quyền lực của trần gian. Ngài chọn tư cách không có quyền để ở với người chẳng có quyền gì, nơi thế giới.
Thử thách khác ở Tin Mừng theo Thánh Luca, là thách thức giải quyết chuyện đói kém và người đói nghèo ở xã hội. Không còn nghi ngờ gì là: người nghèo như thế đã có từ thời Chúa sống. Họ không đủ bánh ăn, vẫn bị bệnh tật hành hạ, lại chết sớm khi còn trẻ. Các vấn đề như thế do Hêrôđê tạo ra. Ông từng có chương trình rất lớn quyết hoàn thành bằng dựng xây nhanh chóng, qua việc đổ thuế lên đầu thường dân có đời sống yên hàn, rất tử tế. Bởi cứ lo đẽo đá xây dựng đền, nên nào có bánh ăn.
Thử thách là thách thức tiêu diệt người chống lại Hêrôđê. Những ngưòi dám nổi lên phá vỡ các đá tảng ông lo chuyện dựng xây, để có được bánh ăn. Là thử thách, bởi ta vẫn cứ nói: thế thì sao ? Phải chăng con người chỉ cần đủ bánh ăn là được ? Phải chăng ta cũng muốn trở nên giống những người mà mình chống đối, và tệ hơn nữa ? Chúa từ chối không coi chính Ngài là Đấng cung cấp chất liệu cho mọi người. Ngài tin rằng để được hạnh phúc cần có nhiều hơn thế nữa. Và, Ngài chọn cung cách khác để trở thành Đấng Mêsia theo nghĩa đích thực.
Thành thử, hãy cứ xem thử thách cuối gồm những gì, ở Tin Mừng theo Thánh Luca, tức thử thách thứ ba trong ba thử thách, ta vừa bàn. Thử thách đây không là quyền lực lấy được từ nhóm tuyển chọn. Cũng không phải là chuyện đáp ứng nhu cầu cho người bị bỏ rơi. Thế còn chuyện linh thiêng, linh đạo, phụng vụ thì sao ? Thế thì chuyện viện cớ làm điều thiện để rồi bắt buộc và thử thách Chúa phải can thiệp giải quyết các khó khăn của thế giới thì sao ? Và phải ngay tức khắc. Hoặc cứ dùng Đền Thờ, Hội Đường, Nhà Nguyện, Nhà Thờ Hồi Giáo hoặc sống đời đạo đức rồi bắt Chúa phải chỉnh sửa mọi thứ, sao ? Những người sống vào thời của Chúa như người ở Qumran và các vị theo Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đều sử dụng phương án này.
Với họ, thử thách là dám khống chế quyền lực linh thiêng của Thiên Chúa và kiểm soát cả lòng xót thương của Ngài nữa. Thử thách họ gặp, là dám thách thức coi lòng đạo linh thiêng của mình còn hơn cả Chúa. Đức Giêsu lại bảo: nếu thế thì, Chúa đâu còn là Chúa nữa, nghĩa là nếu Ngài làm thế, thì đâu còn là Thiên Chúa đích thực. Nên Chúa không chọn con đường thực hiện những chuyện đạo đức thêm vào niềm tin mà Ngài lại chọn đồng hành với Thiên Chúa đích thực, theo cung cách của Thiên-Chúa-là-Cha, chứ không theo ý riêng của Ngài. Chính đó là chọn lựa cũng rất khác.
Không hạ gục đối phương trong trò chơi quyền lực. Không đáp ứng mọi nhu cầu trong hỗ trợ trò chơi. Không tìm lợi nơi Thiên Chúa trong trò chơi đạo đức thánh thiện, như vậy là gì ?
Là sống trong tình trạng không quyền bính. Sống hạn chế với những gì là căn bản để sống và sống có tương quan mật thiết với nhau… chỉ mỗi thế mà thôi. Thế nhưng, phải bao gồm hết mọi người, để không ai bị bỏ rơi hết, kể cả Thiên Chúa, để Thiên Chúa cũng ở trong nhóm/hội của mình. Sống như thế, tức có mang theo niềm hy vọng. Có cả tình thương yêu con người cùng với nhau, những người vẫn có tất cả mọi khó khăn, nhưng vẫn có thể giải quyết xuyên suốt. Đó mới là đường lối Chúa thực hiện.
Chúa không bị thử thách bởi đường lối nào khác. Ngài nhìn thấu tất cả, ngang qua cuộc sống của Ngài, nên Ngài vẫn trở về với các điều căn bản ấy. Những điều ấy là những gì Chúa từng sống và từng làm. Thật sự thì đó là lý do tại sao người nghèo đã quay lưng chống lại Ngài. Tại sao đế quốc Rôma lại tìm cách giết hại Ngài. Và, cũng là lý do Thiên-Chúa-là-Cha đã có thể can thiệp để đáp lại lời cầu nhưng lại chưa từng nghe Ngài cầu nguyện.
Trình thuật hôm nay lại cũng mang đến cho Hội Thánh một thông điệp. Thông điệp ở đây là: Hội Thánh lâu nay vẫn cứ ganh đua với việc trần tục hoá nên cứ tìm cách lấy lại quyền hành về chính trị mình để mất và muốn có lại ảnh hưởng trên dân chúng. Thường thì Hội Thánh vẫn cứ bon chen với các hiệp hội trợ giúp. Cứ muốn chúng dân kính tôn mình vì mình từng ban phát bố thí tiền bạc cho nhiều người. Hội Thánh còn tìm đường thiêng liêng linh đạo rồi bắt Chúa phải đồng hành men theo con đường mình đang đi. Thật sự thì Hội Thánh đang gặp thử thách giống như Đức Giêsu vào thời trước.
Chúng ta cũng thế. Ta vẫn muốn trở thành những người tốt lành giải quyết được tất cả mọi sự và lôi kéo Chúa về phe để Ngài thực hiện những gì mình muốn Ngài làm. Cũng dễ cho ta để vứt bỏ những thử thách ấy. Có những lúc, ta biết mình chỉ là những con người bé nhỏ. Biết rằng mình vẫn phải sống với những khó khăn mình gặp mà không thể bỏ phế bỏ chúng. Và ta cũng biết mình không là nhà tư vấn của Chúa. Còn gì tuyệt vời bằng ta đã nhận ra được chuyện ấy. Bởi, tuyệt vời một điểm là ta đã có Đức Giêsu và Thiên Chúa đích thực.
Ta vẫn thuộc về quần chúng không tên tuổi, nhưng được Chúa đoái hoài, thương yêu. Ta được Chúa phú ban cho những gì để nhờ đó có thể sống hùng, sống mạnh và sống tốt lành. Dù những thứ ấy không là cơm, là bánh. Ta được dạy bảo: hãy cứ để Chúa sống đích thực là Thiên Chúa. Rồi ra ta sẽ khám phá ra rằng ta vẫn được Chúa thương yêu.
Hãy cứ cảm tạ Chúa vì Đức Giêsu đã lướt thắng các thử thách Ngài từng gặp. Hãy cứ nguyện cầu cho Hội Thánh cũng được như thế. Và, hãy nguyện chúc cho nhau điều may mắn tốt đẹp để mình có thể lướt thắng được chính mình. Nguyện chúc rồi, ta cứ hiên ngang bước vào Mùa Chay cũng rất thánh.
Trong nguyện cầu như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu thơ còn bỏ dở ở trên rằng:
“Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng, Cho trăng xuân tràn trề say chới với. Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi; Cho em buồn trời đất ứa sương khuya.” ( Hàn Mặc Tử – Trường Tương Tư )
Trời đất ứa sương khuya, nhưng đừng buồn, bởi Chúa cũng từng gặp thử thách như thế giống mọi người. Và Ngài lướt thắng tất cả, để mọi người sẽ thắng lướt như Ngài. Và khi đó, “nắng vườn ( sẽ ) vấn vương muôn ngàn sợi”, rất chới với nhưng vẫn “mở rộng cửa lòng”, cho Chúa, cho mọi người.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản lược dịch của Mai Tá
Thánh Bênêđictô đã trải qua ba năm sống một mình trong núi. Ma quỷ thường hay cám dỗ ngài: MC1-C76
Thánh Bênêđictô đã trải qua ba năm sống một mình trong núi. Ma quỷ thường hay cám dỗ ngài trở về quê nhà với đời sống tiện nghi và thoải mái. Tuy nhiên, thánh nhân đã vượt qua những cám dỗ này bằng các việc cầu nguyện và đền tội. Một ngày kia, ma quỷ lại tiếp tục cám dỗ Bênêđictô, nghĩ tưởng đến một phụ nữ xinh đẹp, mà có lần Bênêđictô đã gặp thấy ở thành Rôma. Ma quỷ cố gắng làm cho thánh nhân trở về tìm lại bà ấy. Bênêđictô dường như sắp nhượng bộ cơn cám dỗ này. Nhưng thay vào đó, thánh nhân đã sốt sắng cầu nguyện và đền tội nhiều hơn. Và từ đó trở đi, đời sống của Bênêđictô rất bình an. Bênêđictô không còn cảm thấy những cơn cám dỗ cuồng loạn như thế nữa. ( x. Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC, dịch, Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ ).
Không riêng gì các Thánh, mà bất cứ ai sống trên cõi đời ô trọc này, đều phải chịu thường xuyên các cơn cám dỗ hằng ngày. Đó là một thách đố muôn thuở của con người. Từ Thứ Tư lễ Tro vừa qua, với tinh thần sám hối, ăn năn, Giáo Hội dẫn dắt Kitô hữu vào Chúa Nhật I Mùa Chay, mở đầu bằng ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong hoang địa.
Cám dỗ bản năng
Trong 40 ngày chay tịnh, Chúa Giêsu không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi !” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh ( Lc 4, 3 – 4 ), nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” ( Mt 4, 4 ).
Bản năng sinh tồn trỗi dậy, khi cơ thể đói khát, yếu đuối, mệt nhọc, kiệt sức. Đây là cơ hội cho ma quỷ lợi dụng thao túng cám dỗ, khiến con người dễ sinh tật đói làm càn. Chúng cám dỗ Chúa hãy kiêu căng tự phụ, là Con Thiên Chúa, để vung tay làm càn phép lạ hóa đá ra bánh. Nếu nghe theo lời xúi giục, làm sao Người còn vâng lời Chúa Cha, mang lấy thân phận con người, để rồi chịu hy tế, hoàn tất công cuộc Cứu Độ.
Thông thường những cám dỗ bản năng hay được phóng đại, tô màu, khéo léo dán lên những cái mác mỹ miều, như bảo vệ an toàn sự sống, hay nhu cầu thiết yếu và chính đáng để sống còn, sống mạnh, sống dai.
Khi cuộc sống ổn định, bớt lo toan cái ăn cái mặc, tôi lại muốn ăn ngon mặc đẹp, ước muốn thỏa mãn những đòi hỏi vật chất xa hoa, cao cấp hơn. Tôi dần dần biến thành nô lệ cho bản năng, cho chính nhu cầu giả tạo. Khi đã êm ái lọt vào vòng kiểm tỏa của ma quỷ, tôi đương nhiên bị vong thân, đánh mất niềm cậy trông vào Chúa Quan Phòng, hoàn toàn xa lìa Chúa.
“Người ta sống không chỉ nhờ bánh mà còn nhờ Lời Chúa”: Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh Nguyện. Nếu không, con không có sự sống Thần Linh. ( Đường Hy Vọng, số 136 )
Cám dỗ thế quyền
Cám dỗ bản năng thất bại, ma quỷ quay ra cám dỗ quyền lực thế gian. Một thứ mà hầu hết ai cũng mê say, ai cũng cố gắng tìm cho mình một danh phận, một chỗ đứng, ít ra cũng để hãnh diện với đời. Hơn nữa, quyền lực còn đem lại của cải, sung túc, giàu có, đặc quyền, đặc lợi, cho bản thân và cả dòng tộc con cháu. Tệ hại hơn, khi “quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức” ( Albert Einstein ).
Rồi quỷ nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nều ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” ( Lc 4, 6 – 8 ).
Quyền lực chân chính luôn đem công lý, hòa bình và hạnh phúc, còn quyền lực đen nô lệ hóa cả dân tộc. Trong Cộng Đồng, hay Cộng Đoàn, Giáo Phận, hoặc Giáo Xứ, đôi khi cái bả quyền lực còn trầm trọng gây nên phân hóa, chia rẽ, cục bộ, phe nhóm, vì bị lạm dụng phục vụ cho thói háo danh, háo chức, háo quyền, địa vị.
Chẳng thế, Pierre Pasquier trong một cuốn sách khảo về xứ sở và con người Việt Nam ( Annam d’autrefois ) từng chua chát nhận xét: “Trong mỗi người Việt Nam có một ông quan và một nhà thơ”.
Còn thói gia trưởng nô lệ hóa gia đình. Ngay trong tế bào của xã hội, gia đình cũng là môi trường gay gắt tranh giành quyền lực giữa vợ chồng. Đôi bạn phối ngẫu cũng vì quyền lực mà có thể xào xáo, chia rẽ, ly thân, ly dị, huống chi trong xã hội phức tạp, nhiều giai cấp cao thấp khác biệt và chí chóe tranh sống với nhau.
“Thiên Chúa là bí quyết của nhà lãnh đạo: Ngài ban uy quyền và không bỏ ai dựa vào quyền năng của Ngài để lãnh đạo. Tinh thần khiêm nhường và lòng bác ái là căn bản; Phúc Âm của Ngài hướng dẫn nhà lãnh đạo” ( Đường Hy Vọng, số 871 ).
Cám dỗ thần quyền
Khi thách thức Thiên Chúa, người ta muốn hạ bệ Ngài, đồng thời nâng mình lên ngang hàng với Ngài. Đó là cơn cám dỗ thần quyền, là mối tội đầu, tội kiêu căng bắt nguồn từ thời nguyên thủy, khi Adam và Eva ăn trái cây biết lành biết dữ. Tánh kiêu ngạo biến tướng dưới nhiều hình thức, như lộng ngôn, phạm thượng và chống báng Thiên Chúa.
Ma quỷ bộc lộ xúc phạm công khai đến Thiên Chúa, khi thách thức Chúa Giêsu gieo mình từ nóc Đền Thờ xuống, Người đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” ( Lc 4, 12 ).
Ngày xưa, trong sa mạc, dân Israel đóng trại ở Rơphiđin, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Môsê. Họ nói: “Cho chúng tôi uống đi !” Ông Môsê nói: “Tại sao anh em lại gây sự với tôi ? Tại sao lại thử thách Đức Chúa ?” Ở đó dân khát nước, nên đã kêu trách ông Môsê rằng: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì ? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, súc vật chúng tôi bị chết khát hay không ?”
Ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân bây giờ ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con” ( Xh 17, 2 – 4 ). Đức Chúa phán bảo ông, lấy cây gậy đã rẽ nước sông Nin, mà đập vào tảng đá, cho tuôn trào nước ra để dân uống. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Đức Chúa, mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không ?” ( Xh 17, 6 – 7 ).
Bây giờ, mỗi khi khẩn cầu những điều gì mà không được như ý, tôi lại mau ngã lòng, trách cứ Chúa quay mặt làm ngơ, không chịu thương ban. Nhiều khi còn đặt điều kiện với Chúa khi kêu xin: “Nếu Chúa ban cho con ơn này, thì con sẽ làm công quả cho nhà Chúa”… Tôi đã vô tình hạ thấp Chúa xuống, như một đối tượng giao dịch, kỳ kèo, ký kết hợp đồng thương vụ. Tôi đã xúc phạm vô cùng nặng nề đến Chúa, khác chi ma quỷ dám mạo phạm thách đố Chúa nhảy xuống khỏi nóc Đền Thờ !
Lạy Chúa Giêsu, thế gian đang muốn gạt bỏ Chúa sang một bên. Xin Chúa ban cho con thêm sức mạnh, thêm dũng khí để thoát khỏi những cám dỗ nguy hiểm, những tà thuyết vô thần, mà luôn noi gương Thánh Bênêđictô ăn chay và cầu nguyện, để chống trả vượt qua.
Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con tấm lòng khiêm nhường và vâng phục theo Thánh Ý Chúa như Mẹ, để con có thể thoát khỏi những chước cám dỗ ngày càng tinh vi của ma quỷ dai dẳng hằng ngày. Amen.
Các chương Lc 1,5–4,13 giới thiệu song song Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Mục đích của những: MC1-C77
Các chương Lc 1,5–4,13 giới thiệu song song Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Mục đích của những chương này là nối kết “những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta” (1,1) với lịch sử của Israel: trong việc chuẩn bị, trong cuộc chào đời và trong những hoạt động công khai đầu tiên của Gioan và Đức Giêsu, rõ ràng là Thiên Chúa đã nhớ đến các lời hứa, đã lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Ngài và đã quyết định can thiệp để cứu giúp họ quá mức họ mong chờ. Lô-gích hoàn tất–vượt quá, chúng ta có thể tìm thấy lại trong phần tường thuật hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc 4,14–9,50).
Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu có phải đối đầu với các sức mạnh ma quỷ, là những sức mạnh vẫn hành hạ loài người để biến họ thành nô lệ. Đức Giêsu đến là để cứu loài người khỏi những sức mạnh ấy (x. Lc 4,33; 8,26-39). Người cũng thông ban cho Nhóm Mười Hai quyền giải thoát loài người khỏi các sức mạnh ấy. Các đối thủ của Người kết tội Người là liên minh với Satan, nên mới được hắn ban cho quyền trên các quỷ (11,14-23). Trong khi các đối thủ Người thì cho rằng qua Người, đối thủ của Thiên Chúa đang hoạt động, Đức Giêsu lại quả quyết rằng đàng sau Người, có quyền năng của Thiên Chúa. Tương quan thực hữu của Đức Giêsu với Satan là thế nào, ta thấy ngay ở đầu hoạt động của Đức Giêsu, trong các cám dỗ. Trong những bản văn trước, tác giả liên tục cho thấy bản chất của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Tương quan này đạt tới đỉnh cao trong lời tuyên bố của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha” (3,22). Cả trong các cám dỗ, vấn đề cũng vẫn là tương quan này. Tương quan này bị thử thách rồi được xác nhận xuyên qua sự từ khước của kẻ ở trong thế đối lập tận căn với Thiên Chúa.
Cả ma quỷ và Đức Giêsu đều trích Kinh Thánh (chẳng hạn Satan dùng Tv 91,11-12 ở Lc 4,10-11), nhưng hắn không tỏ ra được là “kẻ mạnh hơn” (3,16;11,22). Như vậy, vào lúc khởi đầu sứ mạng, Đức Giêsu được giới thiệu như là “Đấng mạnh hơn” ra sức duy trì chương trình của Chúa Cha và vâng theo Kinh Thánh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành năm phần:
1) Mở (4,1-2a); 2) Cám dỗ thứ nhất (4,2b-4); 3) Cám dỗ thứ hai (4,5-8); 4) Cám dỗ thứ ba (4,9-12); 5) Kết (4,13).
3.- Vài điểm chú giải
- được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (1): Tác giả Lời Chúa cho thấy là kinh nghiệm của Đức Giêsu trong hoang địa đã xảy ra dưới sự bảo hộ của Thánh Thần. En tô ungmic có thể hiểu là “bởi Thánh Thần” (en = hypo = bởi, x. Mt 4,1) hay là “dưới ảnh hưởng” (en = trong).
- hoang địa (1): Đây là nơi gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 2,14-15), nhưng cũng là nơi trú ẩn của dã thú và ma quỷ (x. Lv 16,10; Is 13,21; 34,14; Tb 8,3).
- bốn mươi ngày (2): Chi tiết này lấy từ Mc 1,13, có thể nhắc đến Đnl 8,2 (trong khi Mt 4,1 là “bốn mươi ngày và bốn mươi đêm”, hẳn là lấy từ Đnl 9,9; Xh 24,18; 34,28; x. 1 V 19,8).
- quỷ (2): Tác giả Lời Chúa thay thế danh xưng Satan của Mc 1,13 bằng “quỷ”, diabolos (‘thần dữ”). Satan là một danh-ngữ Híp-ri có nghĩa là “đối thủ, kẻ kết tội, người truy tố”, được Bản LXX dịch là diabolos, “kẻ vu khống”. Lời Chúa không gọi quỷ là “tên cám dỗ” (ho peirazôn) như Mt 4,3, để cho thấy là ngài muốn ungm là kẻ đối lập, kẻ thách đố Đức Giêsu.
- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Quỷ nhắc đến cảnh phép rửa (3,22).
- Đã có lời chép rằng (4): Gegraptai, “đã được viết”, là công thức đúc sẵn để đưa vào một câu trích Cựu Ước.
- Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh (4): Câu trích Đnl 8,3 giống với Bản LXX hơn.
- quỷ đem Đức Giê-su lên cao (5): Lời Chúa bỏ chi tiết “núi”, vì trong Lời Chúa của ngài, “núi” là một nơi để cầu nguyện và mạc khải của Thiên Chúa.
- Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (8): Câu trích Đnl 6,13 này trong dạng giống với Thủ bản Lời Chúa của Bản LXX, Thủ bản B viết là “ngươi phải kính sợ” (gần với bản Híp-ri hơn).
- đến Giêrusalem (9): Đỉnh cao của các cám dỗ trong Tin Mừng III nằm ở thành định mệnh của Đức Giêsu.
- Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng (11): Tv 91,11 theo Bản LXX.
- Ngươi chớ thử thách Đức Chúa (12): Đnl 6,16 trích theo Bản LXX.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Một số người trong chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng khi biết là Đức Giêsu cũng có những ngờ vực như chúng ta, Người cũng gặp những khó khăn trong khi thi hành sứ mạng, Người chỉ dần dà khám phá ra được chương trình của Cha Người về Người. Chúng ta sợ kéo Người xuống với bình diện chúng ta, thế nhưng Thiên Chúa không hề lạc hướng do sự bần khốn của chúng ta. Đúng hơn phải nói rằng Người còn nhận lấy sự bần khốn của chúng ta làm của Người, và bằng cách trở nên người phàm, đứng chung ung với người phàm (x. 3,1), Người đã đánh bại tội lỗi.
* Mở (1-2a)
Tác giả Lời Chúa cho thấy là sau phép rửa, Đức Giêsu đầy Thánh Thần. “Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, và chịu quỷ dữ cám dỗ” (Lời Chúa 4,1-2a).
Qua các cám dỗ, ta thấy tất cả tính vững chãi và rõ ràng chắc chắn của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Trong cuộc đối đầu này, ta cũng thấy rõ ràng là Đức Giêsu hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa.
* Cám dỗ thứ nhất (2b-4)
Cám dỗ thứ nhất kết thúc với câu trích Đnl 8,3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Đức Giêsu bị thách đố sử dụng quyền lực của Người là Con Thiên Chúa mà giải quyết những khó khăn mà mọi con người đều trải nghiệm, mà phục vụ lợi ích riêng tư, tìm kiếm lương thực cho mình ngoài kế hoạch của Chúa Cha. Đnl 8,1-6 nhắc đến kinh nghiệm Israel càm ràm chống lại Môsê và Aharon vì nhớ cơm bánh Ai Cập (Xh 16; Lời Chúa 11,7-8). Họ đã được Thiên Chúa ban manna và chim cút, nhưng đã bị trách mắng. Còn Đức Giêsu dứt khoát loại trừ thách đố của quỷ và nhắc tới lời Đnl mang tính khuyến thiện tóm tắt biến cố Xuất Hành.
Thử thách liên hệ đến tương quan đúng đắn với Thiên Chúa có thể đến từ nhiều phía. Trong cám dỗ thứ nhất, thử thách đến từ những nhu cầu sống còn của con người, rồi từ quyền lực và từ sự uy ung của con người và cuối cùng từ một tương quan sai lạc với Thiên Chúa. Thử thách đầu tiên bắt đầu với cái đói của Đức Giêsu. Tên cám dỗ đề nghị Người sử dụng quyền lực của Người để loại trừ cái đói. Trong cái đói, sự sống bị đe dọa. Muốn sống, con người cần cơm bánh. Không có cơm bánh, trước sau rồi cuộc sống của con người cũng phải kết thúc. Con người cần phải và có thể sử dụng cái gì để bảo vệ sự sống mình? Phải chăng sự sống này, một sự sống cần cơm bánh và lệ thuộc cơm bánh, là một giá trị tuyệt đối, biện minh cho mọi nỗ lực? Phải chăng người ta có thể tập trung tất cả các phương tiện và tất cả sức chú ý mà thỏa mãn các nhu cầu cơ bản? Đức Giêsu tuyên bố rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. Người có một sự sống cao hơn sự sống lệ thuộc cơm bánh: sự sống này hệ tại dây liên kết vô điều kiện và hoàn toàn tin tưởng với Thiên Chúa. Sau này Đức Giêsu sẽ nói với các môn đệ: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn […]. Hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lời Chúa 12,22.31). Phải dành chỗ đầu cho việc quay hướng về Thiên Chúa và tin tưởng vào quyền năng nhân ái của Ngài, chứ không được thay thế những điều ấy bằng nỗ lực đảm bảo cho sự sống mình bằng cơm bánh. Mối quan tâm đầu tiên luôn luôn phải là Thiên Chúa và dây liên kết với Ngài.
* Cám dỗ thứ hai (5-8)
Cám dỗ thứ hai kết thúc với câu trích Đnl 6,13: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm, là Đấng ungm phải phụng thờ”. Đnl 6,10-15 nhắc tới kinh nghiệm của Israel lang thang trong hoang địa và bị thu hút bởi nền phụng tự Canaan (Đnl 12,30-31) và họ thường xuyên được Môsê nhắc nhở đừng chạy theo các thần ngoại hoặc các quyền lực ngoại (Xh 23,23-33). Đức Giêsu bị thách đố chấp nhận quyền thống trị trên cách nước thế gian từ một kẻ khác Thiên Chúa. Thử thách này không nhắm minh nhiên đến Người như là Chúa Con, nhưng thách thức Người nhận biết một kẻ khác thay vì Chúa Cha như là chủ và Chúa của Người. Câu trả lời của Người trích trực tiếp một lời Môsê nói với con cái Israel, và vẫn rút từ một bài tóm mang tính khuyến thiện về một biến cố trong Xuất Hành. Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ thách đố tôn thờ bất cứ thứ gì ngoài Yhwh, Đức Chúa, Cha của Người.
Có thể nói cám dỗ thứ hai bắt đầu từ đối cực của các khả năng loài người. Cám dỗ này không nhắm tới con người đang chiến đấu để có sự cần thiết tối thiểu cho cuộc sống, nhưng nhắm tới khả năng con người nhìn xa hơn chính bản ung và sự sống của mình, và khao khát được làm chủ thế giới. Ở đây điều được nhắm tới là sự hấp dẫn của quyền lực, của quyền bá chủ tối đa. Nếu tìm quyền lực vì chính nó, người ta phải trả giá. Việc hoàn toàn chỉ tìm kiếm quyền lực không phù hợp với việc nhìn nhận quyền chủ tể của Thiên Chúa. Khẳng định ý chí thống trị của mình là đối lập lại với Thiên Chúa là Chúa Tể. Tìm kiếm và vui hưởng quyền lực là phụng sự Satan. Đức Giêsu đưa việc thờ phượng Thiên Chúa ung đối lập với việc phụng sự này. Chỉ Thiên Chúa mới là Chúa Tể và ý muốn của Ngài có giá trị hơn tất cả mọi sự. Nhìn nhận Thiên Chúa như là Chúa Tể tuyệt đối là có nền tảng để tương quan đúng đắn với Ngài.
* Cám dỗ thứ ba (9-12)
Cám dỗ thứ ba kết thúc với câu trích Đnl 6,16: “ungm đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm”. Đnl 6,16 nhắc đến kinh nghiệm Xuất Hành của Israel khi họ thử thách Đức Chúa (Yhwh) tại Mátxa và Mơriva mà đòi có nước uống (Xh 17,1-7). Yhwh đã trả lời bằng cách bảo Môsê đập tảng đá cho nước chảy ra; nhưng Môsê đã khiển trách dân đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu bị thách đố trong tư cách Con Thiên Chúa ung quyền lực Người để tỏ bày bản ung cách lẫy lừng cho người đương thời và như thế phù hợp với các ý tưởng dân gian về một lãnh tụ được phái đến từ trời cao. Đức Giêsu lại ung một chỉ thị khác của Môsê mà trả lời, cho hiểu rằng không một ai có thể xin Thiên Chúa can thiệp chỉ để thỏa mãn chuyện ngẫu hứng của mình.
Có thể diễn tả cám dỗ thứ ba thế này: “Bởi vì ngươi đẩy sự sống và quyền lực con người ra sau và đặt Thiên Chúa ở trên mọi sự, thì hãy tỏ ra hợp tình hợp lý mà sống điều này. Ngài đã hứa bảo vệ ngươi: vậy thì hãy thử nghiệm sự che chở này đi!”. Nhưng chính hành vi được đề nghị này cũng là một hình thái khác của quyền lực cho riêng mình. Chúng ta phải tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa, chứ không được đưa sự che chở của Ngài ung thử thách, chúng ta không được đẩy mình vào thế hiểm nghèo theo ý mình. Tương quan đúng đắn với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta làm trong mức khả năng cho phép và để cho Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn làm cho chúng ta. Tin tưởng vào Thiên Chúa không có nghĩa là lười biếng và thiếu suy xét cho hợp lý. Chúng ta phải sử dụng cách hợp lý và theo cách tốt nhất tất cả các khả năng Thiên Chúa đã ban cho. Cùng với sự tin tưởng, là trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.
* Kết (13)
Câu kết cho thấy quỷ đã thất bại trong dịp này, nhưng nó chưa chịu thua. Nó chờ dịp khác. Đức Giêsu đã hiểu như thế và đã lưu ý các môn đệ: “Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng ungm như người ta sàng gạo” (Lời Chúa 22,31). Và quỷ đã trở lại khi nhập vào Giuđa để xúi y bán Thầy (22,3), khi Đức Giêsu bị chao đảo trong chí hướng hiến thân (22,42), khi các thượng tế và lãnh binh đến bắt Người (22,53), khi các thủ lãnh và lính tráng chế nhạo thách thức Người trên Đồi Sọ (23,35-39). Nhưng Đức Giêsu tiếp tục dứt khoát tiến bước theo thánh ý Chúa Cha.
+ Kết luận
Đức Giêsu rất cương quyết và trung thành sống dây liên kết với Thiên Chúa. Không một cám dỗ nào có thể làm cho Người bị lung lạc, mà chỉ có thể làm cho chúng ta thấy Người bình thản và dứt khoát ở về phía Thiên Chúa và chứng tỏ Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Bằng sự vững chắc và cương quyết ấy, Người tiếp tục con đường đã theo và chỉ cho chúng ta cũng như làm cho chúng ta có thể đi vào quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa.
Có thể nói ba xen cám dỗ có chủ đề chung là sửa chữa một cách hiểu sai sứ mạng của Đức Giêsu như là Con Thiên Chúa. Dây liên kết ba xen ấy là một chuỗi các câu trích lấy từ sách Đnl nhắc lại ba biến cố Xuất Hành trong đó con cái Israel trong hoang địa đã bị thử thách và đã thất bại. Đức Giêsu được minh nhiên so sánh với họ: tại chỗ Israel đã thất bại, Đức Giêsu đã thành công. Trong mỗi xen, ma quỷ bị Đức Giêsu đánh bại bằng cách trích Kinh Thánh. Tác giả Lời Chúa không ghi lại một lời nào khác của Đức Giêsu. Như thế, Người được phác vẽ ra như là Đấng chiến thắng nhờ được võ trang bằng Lời Thiên Chúa (x. Ep 6,17).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong lời mời gọi hoán cải, Gioan khẳng định rằng ơn cứu độ không mưa từ trời xuống cho chúng ta. Chúng ta phải chủ ý thực hiện một cuộc hoán cải quyết liệt và hữu hiệu mà quay về với Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta hoán cải và Ngài giúp chúng ta thực hiện, nhưng chúng ta phải chủ động bắt tay vào. Lối xử sự của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ cứ bị méo mó đủ cách. Nhiều thực tại khác lôi kéo sự chú ý của chúng ta, tỏ ra quan trọng và có giá trị hơn chính Thiên Chúa. Cám dỗ và thử thách vẫn có đó, nên ta cần phải lấy lập trường và quyết định. Đức Giêsu nêu gương cho chúng ta: vì Người luôn ở về phía Thiên Chúa, nên Người có thể trả lời cách yên hàn, chắc chắn và đàng hoàng. Người diễn tả ra cách đơn giản, tuyệt đối rõ ràng, điều gì có giá trị.
2. Bị thử thách không phải là một điều xấu: Đức Giêsu vừa được Thánh Thần hướng dẫn vừa chịu quỷ cám dỗ. Điều xấu là để mình sa chước cám dỗ. Nếu kiên trì chiến đấu và đạt chiến thắng như Đức Kitô đã làm trong hoang địa, ta đã có dịp diễn tả lòng hiếu thảo của mình đối với Chúa Cha. Dĩ nhiên không nên tự phụ mình thừa sức chiến thắng cám dỗ bằng cách đi tìm cám dỗ! Còn khi cám dỗ đến, chúng ta bắt chước Đức Giêsu ung những phương tiện siêu nhiên có được mà chiến đấu: Lời Chúa, cầu nguyện, Thánh Thể…
3. Chúng ta bị cám dỗ khi chỉ rút vào trong mình, và đầy người khác ra ngoài; khi chúng ta ung các tài năng để chỉ thỏa mãn chính mình; khi chúng ta xác tín rằng chúng ta phải lo cho chính mình, chứ không quan tâm đến người khác. Đức Giêsu đã sử dụng quyền của Người cho kẻ khác. Phải luôn nhìn nhận quyền chúa tể của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhưng sự nhìn nhận này thường xuyên bị đe dọa bởi việc đi tìm quyền lực: “Tôi có khả năng quyết định. Lời tôi nói và ý tôi muốn là dứt khoát và phải được tuân theo. Tôi có quyền xếp đặt các con người và các sự việc!” Đức Giêsu nhìn nhận quyền bính trong thế giới loài người. Tuy nhiên các quyền bính này không được coi như có quyền thống trị trên người khác, trái lại phải được sống như một công việc phục vụ (x. Lời Chúa 3,12-14; 22,24-27).
4. Trong cuộc sống này, chúng ta không thể mong được miễn giảm một cuộc chiến đấu gian khổ. Tuy nhiên, chúng ta được biết Tin Mừng này: có một Đấng mà tên cám dỗ không làm hại được; có Đấng tuyệt đối sống trung thành với Thiên Chúa. Cho dù chúng ta không chống lại được thử thách và cứ té ngã liên tục, sự kiện có một Đấng vẫn đứng vững và trung thành với Thiên Chúa phải thổi vào lòng chúng ta niềm vui và sự can đảm. Đức Giêsu đã không cần bằng chứng để tin vào tình yêu của Chúa Cha. Thế nhưng có những Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương họ khi mọi chuyện xuôi chảy với họ, còn khi có những trục trặc, họ bắt đầu ngờ vực. Còn Đức Giêsu, ngay trên thập giá, khi những con mắt trần gian thấy dường như Người bị Thiên Chúa nguyền rủa, Người vẫn tin vào tình yêu của Chúa Cha.
5. Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thoải mái. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể ung. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không muốn bước theo một nẻo đường tiện nghi thoải mái, không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Khi rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn có đầy đủ tư cách Mêsia.
(1) Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (2) bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. (3) Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”. (4) Nhưng Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. (5) Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. (6) Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. (7) Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông. (8) Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (9) Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi! (10) Vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn”. (11) Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. (12) Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. (13) Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ.
2. Ý CHÍNH: CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ
Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn: MC1-C78
Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày, sau đó Người đã dùng Lời Thánh Kinh chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ như sau:
3. CHÚ THÍCH: - C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Lu-ca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 1,35; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.
- C 3-4:
+ “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giê-su chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22).
+ Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giê-su là bị cơn đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú thể xác.
+ “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giê-su dùng câu nói của Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).
- C 5-8:
+ Quỷ đem Đức Giê-su lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái.
+ Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giê-su.
+ Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giê-su thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa. Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Gio-an 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giê-su (x. Lc 10,22).
+ Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giê-su nhắc lại điều luật Mô-sê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).
- C 9-13:
+ Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem: Lu-ca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại Giê-ru-sa-lem.
+ Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44).
+ “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giê-su lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình.
+ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
4. CÂU HỎI:
1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tôi chưa?
2) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ?
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
3. SUY NIỆM:
- Con người “nhân vô thập toàn” và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.
- Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.
- Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:
* Về THÚ VUI:
Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê”.... như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).
* Về LỢI LỘC:
Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).
* Về DANH VỌNG:
Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội “trông cậy quá lẽ”, tội “thử thách Thiên Chúa” do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.
4. THẢO LUẬN:
1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì?
2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.
Nói đến cám dỗ, chúng ta nghĩ ngay đó là mưu chước ma quỷ sử dụng để dụ chúng ta đi vào tội: MC1-C79
Nói đến cám dỗ, chúng ta nghĩ ngay đó là mưu chước ma quỷ sử dụng để dụ chúng ta đi vào tội lỗi hoặc vào con đường đưa chúng ta lìa xa Thiên Chúa. Chúng ta cũng không thể không nghĩ đến Chúa Giê-su, gương mẫu chống trả cám dỗ, đã chiến thắng Xa-tan như thế nào. Nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta coi cám dỗ như là một cơ hội nhắc nhở giúp chúng ta thăng tiến trong đời sống thiêng liêng hay không?
Trước hết chúng ta hãy xem mưu chước của Xa-tan khi nó cám dỗ Chúa. Những lời Xa-tan thách thức Chúa Giê-su luôn luôn có cùng một từ “nếu”. Những chữ nếu thật nguy hiểm này có khi nói lên sự thật, có khi lại là điều giả dối. Tuy nhiên sự thật hay giả được Xa-tan nói lên chỉ là để mở đường cho một hành động chống lại Thiên Chúa và thánh ý Người. Thí dụ, khi Xa-tan nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”, đó là một sự thật. Còn hành động “thì truyền hòn đá này hóa bánh đi” tuy cũng là một sự thật, nhưng nếu Chúa Giê-su nghe theo nó mà thực hiện hành động này là Người sẽ đi ngược lại mục đích quyền năng Thiên Chúa ban cho Người. Cũng thế, trong cám dỗ thứ ba, Xa-tan nói với Chúa Giê-su: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”, đó là sự thật. Nhưng đứng trên nóc Đền Thờ mà nhảy xuống thì lại là hành động “thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Cũng với từ “nếu” ấy, trong cám dỗ thứ hai, Xa-tan lại đề ra một hứa hẹn: “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Nó chỉ cho Chúa Giê-su thấy mọi vinh hoa, lợi lộc của tất cả các nước thiên hạ “đã được trao” cho nó và nó muốn cho ai tùy ý. Những gì Chúa Giê-su tận mắt nhìn thấy đều là có thật. Nhưng điều kiện để có được những cái có thật ấy lại là một hành động hoàn toàn phản bội Thiên Chúa: hành động bái lạy Xa-tan.
Chúng ta đã nhận biết mưu chước Xa-tan sử dụng để thuyết phục Chúa Giê-su làm điều ngược lại bổn phận của mình với Thiên Chúa. Nhưng cách Chúa Giê-su chiến thắng Xa-tan lại còn kỳ diệu và mạnh mẽ hơn cả đường đi nước bước của nó! Trước mỗi cám dỗ, Chúa Giê-su đã nhận định rõ ràng mục đích của hành động ma quỷ thách thức Người làm. Người tự hỏi: Tôi biến hòn đá thành bánh để làm gì? Hoặc: Tôi từ nóc Đền Thờ nhảy xuống để làm gì? Tất cả đâu phải để chứng minh tôi là Con Thiên Chúa! Mà chỉ là để tôi được nổi tiếng, được mọi người khâm phục mà thôi! Dựa vào Kinh Thánh, Chúa Giê-su đã xác tín được thánh ý Thiên Chúa và sứ mệnh Người trao. Cơm bánh chỉ là một phần của sự sống, ngoài ra còn lương thực thiêng liêng nữa, vì “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Gio-an 4:34). Cũng vậy, mục đích của việc bái lạy là để được Xa-tan ban cho tất cả thế gian này. Nhưng mục đích duy nhất của việc bái lạy là chỉ để “thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có khi nào chúng ta đặt câu hỏi tại sao Chúa để chúng ta trong môi trường đầy cám dỗ? Phải chăng Chúa không muốn chăm sóc lo lắng cho tôi? Không phải đâu. Nhưng đó là vì Chúa muốn chúng ta được lớn lên. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Cám dỗ cần thiết vì là dịp để chúng ta tập chiến đấu, tập tành nhân đức, nhất là lòng trung thành với Chúa. Chúa Giê-su đã nhận thấy sự cần thiết này nên Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Gio-an 17:15).
Đặc biệt trong Năm Đức tin này, chúng ta để ý đến những cám dỗ liên hệ đến đức tin. Trong những cám dỗ Chúa Giê-su chịu, đức tin luôn luôn là đề tài Xa-tan tấn công Người dưới những chiều kích khác nhau. Nó cố thuyết phục Người thay thế niềm tin vào Thiên Chúa bằng niềm tin vào quyền lực, tiền tài và danh vọng. Nó xúi giục Người hãy hành động mọi sự theo ý riêng thay vì thi hành kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta có nhiều cám dỗ đức tin. Nhưng có lẽ cám dỗ đức tin thông thường nhất, đó là không tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện tốt nhất khi chúng ta bị cám dỗ là: “Con tin! Nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con!” (Mác-cô 9:24).
"Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ".
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi". Chúa Giêsu đáp: "Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa".
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!" Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi".
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: "Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!" Và còn thêm rằng: "Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá". Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!" Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Suy Niệm:
Mùa Chay đã khởi sự từ thứ Tư Lễ Tro. Nó chưa phải là mùa Thương Khó để chúng ta trực tiếp suy: MC1-C80
Mùa Chay đã khởi sự từ thứ Tư Lễ Tro. Nó chưa phải là mùa Thương Khó để chúng ta trực tiếp suy niệm về cuộc Tử Nạn sinh ơn Cứu Ðộ. Nó là đàng dẫn chúng ta tới chân cây Thánh Giá để được tái sinh, nhờ Máu hy tế và Nước Thánh Thần từ cạnh sườn Chúa chảy ra. Không ai có thể đi vào con đường ấy nếu không học phấn đấu...
Ðó là lý do khiến phụng vụ hôm nay nhắc lại việc Chúa Giêsu bị cám dỗ nơi sa mạc. Chúng ta sẽ đọc lại việc ấy trong sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi nhờ ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Giêsu, chúng ta sẽ xem kỹ lại bài Cựu Ước để thấy đây cũng còn là một gương phấn đấu rất hợp thời. Và chúng ta sẽ được khích lệ để thi hành các lời khuyên nhủ của thánh Phaolô trong bài Thánh Thư, mạnh mẻ đi tới ngày toàn thắng của lịch sử loài người. 1. Trước Hết, Gương Chúa Giêsu Phấn Ðấu
Cũng như hai tác giả Mátthêu và Máccô, thánh Luca đã thuật lại việc Chúa Giêsu kháng cự với Satan nơi sa mạc. Bản văn của người có những nét khác với hai tác giả thánh sử kia và có dụng ý. Nhưng, những nét giống nhau giữa ba tác giả vẫn nhiều hơn và ý tưởng chung vẫn là một.
Cả ba đã đặt câu chuyện Chúa bị cám dỗ vào lúc trước khi Chúa ra đi giảng đạo. Câu chuyện xảy ra vào lúc bấy giờ hẳn phải có ý nghĩa. Nó báo trước cuộc đời công khai đầy phấn đấu cam go của Chúa Cứu Thế. Nhất là nó cho chúng ta thấy rõ chung cuộc Ðức Giêsu sẽ chiến thắng vinh hiển, vì ngay từ lúc khởi đầu, công cuộc cứu thế của Người đã làm cho Satan phải tháo lui.
Cả ba tác giả cũng đã mô tả cuộc đọ sức giữa Satan và Chúa Giêsu như là một cuộc vận dụng Lời Chúa. Satan biết Thánh Kinh. Nó dùng Lời Chúa để phục vụ tham vọng riêng của mình. Ðang khi ấy, Ðức Giêsu có lòng thành kính đối với Lời Chúa và chỉ muốn khiêm cung vâng lời Thiên Chúa mọi đàng. Người không giống như Adong biết luật Chúa mà vẫn phạm tội. Người cũng chẳng như dân Do Thái có Lời Chúa mà toàn làm những việc khác ý Chúa. Người cho chúng ta thấy: không sức mạnh nào xô ngã được kẻ nắm vững Lời Chúa.
Cả ba tác giả cũng đã đồng ý coi việc Satan đến cám dỗ Chúa Giêsu như là hậu quả của việc Người được Chúa Cha tuyên bố Người là Con Chí Ái của Ngài. Satan đã bắt đầu cám dỗ Người rằng: nếu ông là Con Thiên Chúa... Ðiều này khiến chúng ta có thể quả quyết, không thử thách nào không nhằm tiêu diệt vinh dự của chúng ta được làm con cái Chúa. Nhưng mọi sự cám dỗ đều bất lực đối với những ai được đầy Thánh Thần, như Ðức Giêsu đã được Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp xuống trước khi vào sa mạc để chịu cám dỗ.
Tuy nhiên những nét chung và chính yếu trên đây đã được một tác giả các sách Tin Mừng trình bày với những nét riêng biệt và sắp đặt lại để phục vụ một số quan điểm riêng biệt. Ở đây chúng ta để ý đến một số nét độc đáo của tác giả Luca.
Người đã không tường thuật việc Chúa bị cám dỗ ngay sau khi Ngài chịu phép Rửa của Gioan ở sông Hòa Giang. Người đã cho xen kẻ vào giữa hai sự kiện lịch sử này một đoạn sách nói về gia phả của Ðức Giêsu. Người không muốn thiên hạ biết Ðức Giêsu về phương diện loài người trước khi Ngài là Con Thiên Chúa. Hoặc nói như thánh Phaolô, dù trước đây có ai biết Ðức Giêsu về phương diện loài người, thì họ cũng hãy làm như không biết để nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa đã, rồi hãy nhìn lại phương diện loài người ở nơi Ngài: bởi vì xác thịt nào có ăn thua gì, chỉ có thần khí là đáng kể. Thế nên Luca đã kể về gia phả của Ðức Giêsu sau khi Ngài đã được tuyên bố là Con Chí Ái của Thiên Chúa ở bờ sông Hòa Giang.
Và khi viết lại gia phả này, Luca đã không dừng lại ở Abraham, tức là ở dân tộc Do Thái... Người đã lần lên xa hơn để thấy Ðức Giêsu là người của tất cả loài người chứ không phải của riêng dân Do Thái. Và biết đâu khi nói Ðức Giêsu là con ông Adong trước khi Ngài bị Satan cám dỗ, Luca đã chẳng có ý nhắc nhở chúng ta về câu chuyện cám dỗ đã xảy ra trong vườn địa đàng? Và chiến thắng của Ngài trong câu chuyện này đã không "phục thù" cho tất cả loài người sao? Ít nhất khi nhấn mạnh việc Ðức Giêsu là Con Chí Ái của Thiên Chúa trước khi Ngài bị cám dỗ, Luca đã củng cố truyền thống của Phúc Âm hơn là đã tạo ra một nét nào khác biệt. Cả hai tác giả Mátthêu và Máccô cũng đã để cho Satan bắt đầu cám dỗ Chúa bằng câu: Nếu ông là Con Thiên Chúa...
Trong Mátthêu, Satan nói với Ðức Giêsu hãy "truyền cho các viên đá này biến thành các ổ bánh". Dường như tác giả chú trọng đến số nhiều để cám dỗ một người đang đói ăn và để khêu gợi lòng tham lam của loài người về vấn đề cơm áo. Theo Luca, Satan chỉ cám dỗ Chúa: truyền cho một viên đá này biến thành bánh mà thôi. Có lẽ Người chú trọng đến vấn đề quyền năng. Và như vậy Satan không muốn cám dỗ Chúa về vấn đề ăn uống, nhưng về việc dùng quyền năng, lạm dụng sứ mạng và ơn gọi của mình để phục vụ bản thân chứ không phải để làm theo ý Chúa. Thế nên, trong Luca, Chúa chỉ đáp vắn tắt rằng: "Người ta sống không chỉ nhờ bánh", đang khi trong Mátthêu, Ngài còn nói tiếp: "... nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa".
Rồi từ cám dỗ thứ hai trở đi, hai tác giả còn xa nhau hơn nữa, Luca đã đảo lộn thứ tự của Mátthêu. Cám dỗ thứ hai nơi Mátthêu trở thành cám dỗ thứ ba nơi Luca, vì tác giả này luôn muốn Ðức Giêsu đi dần tới Giêrusalem. người muốn nói rằng mọi việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu phải xảy ra tại thành thánh, và nếu có thể được tại Ðền Thờ nữa. Ở đây, trong ba cám dỗ, có một lấy đền thờ làm khung cảnh nên Luca phải lấy nó làm tuyệt đỉnh cho câu chuyện Người kể. Người đặt nó làm cám dỗ chót, đang khi trong Mátthêu nó là cám dỗ thứ nhì. Ðàng khác lấy Giêrusalem làm nơi "phân thắng bại" trong câu chuyện cám dỗ này, Luca muốn báo trước nơi mà Chúa Giêsu sẽ hoàn tất mầu nhiệm cứu thế trong việc tử nạn phục sinh.
Vậy cám dỗ thứ ba trong Mátthêu đã được Luca lấy làm cám dỗ thứ hai. Và viết lại cám dỗ này, Luca cũng muốn tỏ ra độc đáo. trong Mátthêu, Satan đưa Ðức Giêsu lên núi cao chót vót và chỉ cho Người thấy hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng ta mà nói với Ngài: "Tôi hiến cho Ngài hết mọi điều đó nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Tác giả dường như muốn gợi lại câu chuyện Môsê được Chúa đưa lên núi Nêbô để nhìn thấy Ðất Hứa ở đàng xa trước khi chết (Tl 34,1-4); và rõ ràng ông để ý đến "các sự vinh quang của thế gian".
Trong khi ấy, Luca chỉ nói Satan đem Ðức Giêsu lên cao; nhưng Người nhấn mạnh rằng "trong nháy mắt" nó chỉ cho Ngài thấy hết các nước thiên hạ. Hai điểm này làm cho bài của Luca không chân thực bằng bài của Mátthêu, nhưng siêu thực và hợp với một cám dỗ hơn. Nhất là ở đây Luca không chú ý đến "uy quyền" của Satan đối với các nước thiên hạ. Nó tự phụ có toàn quyền định đoạt về thế gian và muốn hiến cho ai tùy ý. Tác giả Gioan cũng có lần gọi Satan là thủ lãnh của thế gian và gọi chính trị thế giới hiện nay là "giờ" của nó. Nó muốn Ðức Giêsu về phe của nó và giữ thế gian này trong quyền hành của nó. Nhưng nó lầm. Ðức Giêsu đến để cứu thế, tức là để gỡ thế gian ra khỏi uy quyền của Satan, Ngài chỉ có thể nhận quyền bởi Thiên Chúa. Thế nên Ngài đã trả lời Satan: Ðã viết: Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ lạy một mình Người.
Nhưng tên cám dỗ không chịu thua. Nó còn cố gắng một lần nữa. Và lần nữa nó cám dỗ Ðức Giêsu nghi ngờ chính Thiên Chúa. Ngài vẫn tựa vào Chúa thì nó cần phải làm cho Ngài hoài nghi chính sức mạnh Ngài nghĩ luôn luôn gìn giữ Ngài.
Do đó, nó đem Ngài đến Giêrusalem, nơi có đền thờ Chúa. Nó đặt Ngài trên thượng đỉnh đền thờ, để Ngài có cảm giác của thời kỳ cánh chung, lúc mà tất cả các tín đồ muốn nhìn thấy vị tiên tri nào quyền phép hơn hết. Và nó xúi Ngài gieo mình xuống đất vì đã viết rằng: Chúa sẽ ra lệnh cho các Thiên Thần... nâng người trên bàn tay kẻo ngươi lỡ vấp chân phải đá. Sau này, khi bị treo trên thập giá, Ðức Giêsu cũng sẽ phải nghe một lời thách thức tương tự: "Nếu ông là Kitô, hãy xuống khỏi Thập Giá... và hãy cứu mình và cứu chúng ta nữa". Và chính lúc ấy Ngài cũng cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ rơi. Nhưng lập tức, Ngài đã phản ứng mạnh mẽ. Ngài không thể nào hồ nghi lòng tốt của Thiên Chúa Cha. Và Ngài bảo: Chớ có thử thách Chúa, Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta có quyền kiên kết câu chuyện cám dỗ hôm nay với thử thách sau này đang chờ Ðức Giêsu ở trên cây thánh giá không? Câu kết bài tường thuật việc cám dỗ trong sách Luca đã trả lời cho chúng ta. Người viết: "Khi ma quỉ đã xong mọi chước cám dỗ, thì nó lìa bỏ Ngài mà đợi dịp". Dịp nào? Rồi đây trong cuộc đời công khai truyền giáo, Ðức Giêsu sẽ có nhiều dịp đụng độ với Satan, đặc biệt những khi Ngài chữa các kẻ bị ma quỉ ám. Nhưng dịp giáp mặt quyết liệt sẽ là cuộc khổ nạn và nơi thập giá. Chúng ta sẽ thấy Ngài đắc thắng vì hôm nay trong câu chuyện cám dỗ, Ngài đã chẳng chịu nhượng Satan một điểm nào.
Như vậy, bài tường thuật hôm nay như đã báo trước những gì sẽ xảy ra trong giờ phút quyết liệt của mầu nhiệm thập giá. Nó cũng mở màn cho cuộc đời hoạt động đầy gian khổ và phấn đấu của Ðức Giêsu.
Tác giả Luca còn nói rằng: Thánh Thần đã đưa Ngài vào sa mạc mà chịu cám dỗ bốn mươi ngày. Con số này gợi lại 40 năm dân Israen đi trong sa mạc để chịu thử thách. Họ đã bị cám dỗ nặng nề khi thiếu ăn (Xh 16) thiếu uống (Xh 17) và nhất là khi gặp gỡ tà giáo ở đất Canaan (Xh 23). Họ đã muốn của cải vật chất; họ đã phàn nàn muốn thử thách Chúa; họ thèm thờ bái ngẫu tượng. Lần nào Lời Chúa cũng căn dặn họ, đừng sống nguyên vì bánh (Tl 8,2-5); đừng hoài nghi uy quyền của Thiên Chúa (Tl 6,16) và nhất là luôn chỉ được thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (Tl 6,13). Hôm nay Ðức Giêsu lập lại những lời Kinh Thánh này để xua đuổi ba cơn cám dỗ nặng nề mà con cái Israen đã vấp ngã. Phải chăng Ngài chẳng muốn gỡ lại cho loài người những lần thất bại này? Ngài đã làm lại cuộc hành trình vào Ðất Hứa của dân Do Thái mà toàn thắng Satan để cứu vớt những kẻ sa ngã trong Cựu Ước. Và đồng thời Ngài cũng muốn đảm bảo chiến thắng cho những ai sau này đi vào đường lối của Ngài ở trần gian này.
Bốn mươi ngày chịu thử thách của Ngài nơi sa mạc vì thế đã hướng về tương lai như muốn sửa chữa lại quá khứ. Và khi phụng vụ tổ chức mùa Chay trong thời gian 40 ngày thì hẳn cũng chỉ muốn chúng ta bắt chước gương phấn đấu của Chúa, để những tuần lễ mùa Chay không những đưa chúng ta đến mầu nhiệm thánh giá cứu độ mà còn thao luyện chúng ta cho tất cả cuộc đời trần gian. Chúng ta phải quý hóa thời gian này và phải luôn nhớ gương phấn đấu của Chúa để cùng Người chiến thắng mưu chước của Satan không ngớt muốn làm hư hỏng đời sống của chúng ta, cũng như nó đã không ngừng cám dỗ dân Cựu Ước. Bài sách Thứ Luật sau đây cho chúng ta thấy một khía cạnh của cuộc cám dỗ trường kỳ này. 2. Một Cám Dỗ Triền Miên
Thoạt nghe, chúng ta không thấy đoạn văn Thứ Luật hôm nay nói lên một sự phấn đấu nào. Nhưng thật ra nó che dấu một ý chí kháng cự mãnh liệt.
Theo giả định, đây là những lời Môsê căn dặn con cái Israen trước khi vào Hứa Ðịa. Nhưng như cả quyển sách Thứ Luật, đây thật là những lời khôn ngoan đạo đức được đưa ra để khuyên dân sau nhiều năm và nhiều đời kinh nghiệm tại Ðất Hứa. Trước kia, Israen là dân du mục, nay đây mai đó nơi sa mạc. Họ được Chúa hứa ban một đất chảy sữa và mật để họ trồng cấy. Sự phồn thịnh nơi quê hương mới mẻ chẳng tùy thuộc ở mùa màng tốt tươi sao? Chính dân bản xứ, những người Canaan, đã ý thức điều này. Họ chẳng thờ thần nào khác ngoài Baals, là những thần của mầu mỡ và sinh sản. Nếu không được báo trước và đề phòng cẩn thận, chắc chắn con cái Israen khi đặt chân vào Ðất Mới cũng sẽ quỳ rạp xuống bái lạy Baals. Tôn giáo độc thân sẽ gặp khủng hoảng và người ta dần dần quên Giavê. Thấy trước hiểm nguy này, Môsê đã cảnh giác con cái Israen trong bài sách hôm nay. Và chúng ta phải đọc đoạn văn Thứ Luật này trong bối cảnh đó.
Môsê dạy con cái Israen, khi vào Ðất Hứa, lúc gặt hái xong, phải đem của đầu mùa mọi thứ hoa lợi đất ruộng đến điện thờ mà dâng lên cho Chúa. Và ở đó, họ phải nhớ và tuyên xưng rằng: Chính Chúa đã ban cho họ được đất chảy sữa và mật này để họ có được các thổ sản phong phú hôm nay. Thật vậy tổ phụ của họ xưa kia là một người Aram phiêu bạt không đất đai, không nhà cửa. Ông xuống Ai Cập và sinh con đàn cháu đống. Nhưng đám dân đông đảo này phải nô lệ người bản xứ và phải chịu trăm bề vất vả tủi nhục. Chính Giavê đã xót thương, ra tay hùng mạnh đưa họ ra khỏi nhà nô lệ và dẫn họ đến Ðất chảy sữa và mật này. Không có Người và không nhờ quyền năng của Người làm sao ngày nay họ có mùa màng tốt tươi? Nên không phải Baals mà Giavê, là Chúa của họ. Và họ phải thờ lạy Người. Họ phải dâng hoa màu và đất này cho Người chứ không phải cho Baals.
Lời của Môsê thật lý sự... nhưng khó giữ làm sao? Lịch sử Do Thái cho thấy con cái Israen luôn luôn thờ cúng Baals. Ðó là một cám dỗ triền miên. Họ chỉ muốn biết có thổ thần và quên Ðấng Thánh đã làm ra lịch sử cho họ. Loài người nói chung, không giống như họ sao? Loài người luôn chỉ ngưỡng mộ những nhân tố làm ra của cải và quên Ðấng sinh thành và cứu chuộc họ. Những lời của sách Thứ Luật luôn có giá trị thức thời. Và việc Môsê dạy con cái Israen phải làm khi sinh sống tại Hứa Ðịa cũng là việc mà phụng vụ của Hội Thánh ngày nay bảo chúng ta phải làm. Hằng ngày chúng ta mang bánh rượu đến dâng lên bàn thờ, đó là hoa màu ruộng đất và lao công của con người, nhưng để trở nên của ăn, của uống thiêng liêng nuôi sống chúng ta. Và như vậy chúng ta có quan điểm của Chúa Giêsu Kitô. Người đã chống lại cơn cám dỗ thứ nhất khi lập lại lời sách Thứ Luật: con người không sống nguyên bằng bánh.
Tuy nhiên để có quan niệm ấy, người ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa của lịch sử, như Môsê đã khuyên con cái Israen và như thánh Phaolô còn dạy chúng ta rõ ràng hơn nữa trong bài thư hôm nay. 3. Một Niềm Tin Cứu Ðộ
Thánh Tông đồ đang bàn về ơn cứu độ, điều ước mong duy nhất của mọi người. Của cải, quyền bính và khả năng chỉ là phương tiện để con người được hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không nằm trong phương tiện ấy. Satan đã làm vì tưởng rằng Ðức Giêsu cũng dễ lầm như nhiều người. Họ cứ tưởng hoặc có của, hoặc có quyền, hoặc có tài là được hạnh phúc. Nhưng không, hạnh phúc là khi được cứu độ khỏi tội lỗi và sự chết.
Thế mà ơn cứu độ đã được hứa ban cho hết mọi người chẳng kỳ là Hy Lạp hay Do Thái, văn minh hay chậm tiến, ở nơi Ðức Kitô Chúa chúng ta. Người ta phải tuyên xưng Người trong tâm hồn và nơi miệng lưỡi, tức là trong tâm hồn và trong đời sống. Ai tin như vậy sẽ chẳng phải hổ ngươi trong ngày Chúa xét xử vì Người sẽ cứu họ và độ họ vào Nước Trời.
Chúng ta hết thảy đã có niềm tin như vậy, Hội Thánh thúc giục chúng ta nhóm lại niềm tin ấy trong mùa Chay này. Ðây là thời gian thuận lợi. Phụng vụ sẽ làm sống lại các mầu nhiệm cứu thế. Thiên Chúa sẽ ban ơn dồi dào. Chúng ta hãy tham dự mùa Chay của Hội Thánh. Thời gian 40 ngày này nhắc lại 40 ngày của Chúa Giêsu nơi sa mạc. Người đã phấn đấu để nêu gương cho chúng ta. Người sẽ đưa chúng ta vào mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Người để chúng ta được cứu độ. Chúng ta hãy yêu mến Người, tuyên xưng Người trong tâm hồn và đời sống, bắt chước Người chỉ tin tưởng vào Chúa Cha và Lời Sách Thánh. Mọi mưu chước của kẻ thù loài người là Satan sẽ lại thua, nếu Chúa Giêsu luôn ngự nơi tâm hồn và trong đời sống của chúng ta.
Giờ đây Người đến nơi bàn thờ để gặp gỡ và đến ở với chúng ta. Chúng ta hãy sốt sắng đón nhận Người và sống với Người hằng ngày trong mùa Chay thánh này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lc 4,1-13: 1 Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
5 Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8 Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” 9 Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 12 Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” 13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
Đoạn 4:1-13 là trình thuật cuối cùng trong tiết đoạn 3:1-4:13, nói đến việc chuẩn bị cho sứ vụ của Chúa: MC1-C81
Đoạn 4:1-13 là trình thuật cuối cùng trong tiết đoạn 3:1-4:13, nói đến việc chuẩn bị cho sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngay sau đoạn nầy, Người bắt đầu rao giảng công khai. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Bối cảnh của việc cám dỗ (4:1-2a); - 1/ Cám dỗ về bánh (4:2b-4); - 2/ Cám dỗ về quyền lực (4:5-8); - 3/ Cám dỗ về thử thách Thiên Chúa (4:8-12); - Kết luận. Ba cám dỗ không có tính cách riêng lẻ, mà liên hệ với nhau rất chặt chẽ xoay quanh bản thân Chúa Giêsu. Mỗi phần có kết cấu chung tương tự nhau: - Bối cảnh riêng của mỗi phần; - Ma quỷ đưa ra một lời đề nghị; - Chúa Giêsu lấy một câu kinh thánh để đáp lại.
Nơi Chúa Giêsu chịu cám dỗ là hoang địa. Hành trình của Người là từ các vùng của Giorđan đi vào trong hoang địa, ngược hướng với hành trình của Gioan Tẩy giả (3:2-3). Gioan vào đó để nghe tiếng Thiên Chúa; còn Chúa Giêsu, nghe tiếng ma quỷ cám dỗ. Người chịu cám dỗ do ý muốn của Chúa Cha, “được dẫn vào”, và trong liên đới với Thánh Thần, “đầy Thánh Thần” và “trong Thánh Thần” (4:1). Bốn mươi, có thể là bốn mươi năm hoặc bốn mươi ngày, là con số biểu tượng để chỉ một giai đoạn quyết định. Đối với dân Israel, đó là thời kỳ thử thách và trách phạt. Đối với Môsê, đó là thời kỳ gần gũi với Thiên Chúa để viết nên Mười Giới Răn (Xh 24:18; 34:28; Đnl 9:9.11.18; 10:10). Đối với Chúa Giêsu, đó là thời kỳ thử thách và vâng phục trước khi bắt đầu sứ vụ. Luca dùng chữ hoặc là “ma quỷ, diabolos” (Lc 4:2.3.6.13; 8:12) hoặc là “Satan” (Lc 10:18; 11:18; 13:16; 22:3.31). Hoạt động của ma quỷ chính yếu là cám dỗ: cám dỗ Chúa Giêsu (4:1-13) và các môn đệ của Người (8:13; 22:3.31.40.46). Dịp thuận tiện mà ma quỷ đến lại để cám dỗ Chúa Giêsu (4:13) chính là lúc Người ở trong vườn Giệtsêmani (22:28.40.46). Mục đích của cám dỗ là làm nên bất trung với Thiên Chúa.
Cám dỗ về bánh (4:2b-4). Bối cảnh là suốt bốn mươi ngày Chúa Giêsu không ăn gì cả, nên Người đói. “Con Thiên Chúa” đã được xác định trong biến cố phép rửa, “Con của Tôi” (3:22). Hậu cảnh của cám dỗ nầy là việc Thiên Chúa thử lòng dân Israel trong hoang địa. Người làm cho họ đói để xem lòng họ như thế nào. Họ đã hướng về Ai cập và khao khát bánh bên ấy mà bỏ quên Thiên Chúa (x. Xh 16:3). Tuy nhiên, sau đó Người đã nuôi họ bằng manna để cho họ biết là họ không phải lìa bỏ Thiên Chúa như thế để chỉ đi tìm kiếm bánh ăn. Người đã lo lắng cho tất cả và muốn họ trung tín giữ các giới răn của Người (x. Đnl 8:2-3). Chúa Giêsu không bị Thiên Chúa mà ma quỷ thử lòng. Nó muốn Người dùng quyền làm con của Thiên Chúa (4:3; 3:23) để tự cung cấp bánh ăn cách độc lập với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Người vào hoang địa chịu thử thách, có nghĩa là Thiên Chúa cũng muốn Người chịu đói. Do đó, nếu dùng quyền làm Con Thiên Chúa để làm đá thành bánh mà ăn là làm điều nghịch với Thiên Chúa. Sau nầy Người sẽ dạy là đừng để lòng vào chuyện ăn uống (12:19), và phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa và chuyện của Người trước tiên (x. 12:31).
Cám dỗ về quyền lực (4:5-8). Bối cảnh là ma quỷ chỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các vương quốc trên trần gian, và hứa ban cho vinh quang và quyền lực của các nước ấy nếu Người thờ lạy nó. “Trần gian” nầy không phải là vương quốc của Thiên Chúa, mà của con người (x. 2:1; 21:26). Và vinh quang cũng như quyền lực cũng thuộc về trần gian nầy, chứ không phải là của Thiên Chúa. Quyền năng của ma quỷ ở nơi những người bắt bớ Chúa Giêsu và các môn đệ (x. 12:11; 20:20; 23:7). “Bái lạy” là hành vi diễn tả sự lệ thuộc và tùng phục một người có quyền lực cao hơn. Có thể gọi những người ấy là “chúa” hoặc “ân nhân” (x. 22:25). Động từ nầy chỉ được dùng ba lần trong Luca: hai lần ở đây và một lần là các môn đệ bái lạy Người sau khi Người đã sống lại (24:52). Vinh quang và quyền năng của Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha: quyền năng (x. 4:32.36; 5:24;); vinh quang (9:26.31; 19:38; 21:27). Ở đây ma quỷ muốn trao quyền lực trần gian cho Chúa Giêsu với điều kiện; trong khi Chúa Giêsu sẽ ban cho các môn đệ của Người quyền năng trục xuất ma quỷ (9:1.19). So với Đnl 6:13 hay 10:20, trong câu kinh thánh được trích dẫn, chữ “kính sợ” được thay thế bằng chữ “bái lạy” và chữ “chỉ một mình” (thờ lạy Người) được thêm vào để làm mạnh nghĩa sự độc nhất của việc thờ phượng. Vì vinh quang và quyền năng của Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa, Người chỉ phục vụ và bái lạy một mình Người (x. 16:13). Vậy, Người không đổi Vị mà Người phải tôn thờ để nhận lấy vinh quang và quyền năng của trần gian.
Cám dỗ về thử thách Thiên Chúa (4:8-12). Bối cảnh là ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên Giêrusalem và đặt Người trên nóc đền thờ. Nó thách thức Người gieo mình xuống, vì với tư cách là Con Thiên Chúa sẽ có các thiên thần đỡ tay nâng. Một lần nữa ma quỷ nại đến danh nghĩa “Con Thiên Chúa” như trong cám dỗ lần thứ nhất. Điều ma quỷ quan tâm không phải là phép lạ có xảy ra hay không, mà là tương quan giữa Chúa Giêsu với Cha của Người. Trong cám dỗ lần thứ nhất, đứng trước một vấn đề đang cần thiết là bánh ăn khi đói, Chúa Giêsu đã không làm phép lạ. Phương chi trong lần nầy “gieo mình xuống từ nóc đền thờ” là làm một điều nguy hiểm không cần thiết, Chúa Giêsu càng không thể làm. Người xem đó là thách thức Thiên Chúa (4:12). Thách thức Thiên Chúa là đòi hỏi những bằng chứng phép lạ Người làm để có thể tin. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ma quỷ là câu Thiên Chúa đã nói với dân Israel (Đnl 6:16), sau khi họ đã thử thách Người tại Massah; tiếng nầy có nghĩa là “thử thách” (x. Xh 17:1-14). Tại đó, dân chúng đã nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Môsê. Họ không tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, vì họ không có nước uống tại Massah, mặc dù Người vẫn ở với họ và đã thực hiện những điều kỳ diệu cho họ (Đnl 6:15). Thách thức nầy sẽ lập lại cho Chúa Giêsu (x. 11:16.29-30; Mc 8:11) ngay cả khi Người đang bị treo trên thánh giá (23:35.37.39; Mk 15:36). Phần Chúa Giêsu, Người luôn tin tưởng vào Cha của Người, ngay cả khi phải chết tại Giêrusalem để thi hành ý muốn của Người (x. 23:46).
Ảnh hưởng của ma quỷ trên con người là không thể chối cãi. Tuy niên, nó không thể tách con người ra khỏi Thiên Chúa, nếu con người biết dùng Lời Chúa để chống lại mọi cơn cám dỗ của nó.
Cuộc đời dệt bằng những thách đố liên tục. Không có thách đố, con người không thể lớn lên. Cám: MC1-C82
Cuộc đời dệt bằng những thách đố liên tục. Không có thách đố, con người không thể lớn lên. Cám dỗ là một thách đố hay một trở ngại cản bước tiến nhân loại ? Đức Giêsu sẽ vạch rõ tất cả bộ mặt của tên cám dỗ và sẽ cho thấy khả năng của lời Chúa trong việc chiến thắng kẻ tử thù lớn lao đó.
CUỘC GIAO TRANH TRỐNG MÁI.
Hoang địa vẫn là hình ảnh lý tưởng cho dân Do thái gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng hoang địa cũng là nơi đầy thử thách. Bốn mươi năm lang thang trong hoang địa đã tạo nên cảmột lịch sử Dân Chúa. Hôm nay sắp thành lập một dân mới, Đức Giêsu cũng “được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ.” (Lc 4:2) Hai hình ảnh Thánh Thần và quỉ dữ đã nói lên tất cả những gì lý tưởng nhất và thử thách nhất trong lịch sử dân mới. Đức Giêsu muốn hoàn toàn chia sẻ tất cả những thách đố trong thân phận làm người. Cám dỗ sẽ là một dịp để con người lớn lên và xác định rõ nhân cách và địa vị của mình
Cám dỗ trước tiên có liên quan tới sự sống vật chất. “Suốt bốn mươi ngày, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói.” (Lc 4:2) Trong cảnh thiếu thốn cùng cực đó, người ta mới thấy rõ tất cả nhân cách con người. Tên quỉ vừa mời mọc vừa thách thức; “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi !” (Lc 4:3) Còn cơ hội nào lớn hơn cho Đức Giêsu xác định dứt khoát bản tính cao cả của mình ? ! Nhưng Người không mắc mưu một cách dễ dàng như vậy, mặc dù thực sự Người là Con Thiên Chúa và có dư uy quyền để làm chuyện đó. Nhưng lúc này, Người cần phải lên tiếng xác quyết có những giá trị cao vượt hơn những nhu cầu vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.” (Lc 4:4) Kinh khủng thật ! Giữa lúc bụng cồn cào, gào thét như thế mà miệng vẫn khăng khăng xác định một giá trị lớn hơn. Giá trị đó chính là “mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Đnl 8:3; Mt 4:4) Thật vậy, “vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có.” (Dt 11:3) Như vậy, Người suy tôn giá trị tối thượng của Lời Chúa tức là chính mình.
Cơn cám dỗ vật chất vẫn không buông tha Người, nhưng xuất hiện ở dạng tinh vi hơn. Tên cám dỗ vẽ lên một hình ảnh tuyệt vời về thế gian với “quyền cai trị và vinh hoa lợi lộc” (Lc 4:6) Quyền bính vẫn là một cám dỗ đáp lại nhu cầu thống trị của con người. Tên cám dỗ đầy tưởng tượng khi xác quyết; “Quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý.” (Lc 4:6) Nó tự nhận mình là Chúa tể muôn loài. Bởi vậy, nó mới lên giọng; “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” (Lc 4:7) Thật là kinh khủng ! Nó muốn đưa Đức Giêsu vào mê hồn trận ! Nhưng cơn đói vẫn không làm lu mờ trí phán đoán của Người. Người khẳng khái phản đối; “Đã có lời chép rằng; Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Lc 4:8) Con người đứng trước hai lựa chọn; Thiên Chúa hay ma quỉ. Bên nào cũng đòi phải vâng phục. Nhưng hai vâng phục hoàn toàn khác nhau. Vâng phục Thiên Chúa sẽ nâng cao và giải thoát con người. Trái lại vâng phục ma quỉ chỉ là nô lệ tội lỗi. Chính vì thế, khi Đức Giêsu chịu cám dỗ, “Thiên Chúa làm cho Đức Kitô liên đới với loài người tội lỗi (Rm 8:3; Gl 3:13) để loài người được liên đới với lòng vâng phục và sự công chính của Đức Kitô (Rm 5:19)” (Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995: 722) Trở nên công chính tức là được cứu độ. Như thế, qua cơn cám đỗ này, Đức Giêsu đã xác định mình chính là Đấng Cứu thế đem lại niềm hi vọng lớn lao cho toàn thể nhân loại.
Thực vậy, từ nay “mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng.” (Rm 10:11) Thực tế, quyền lực và lợi lộc không đủ bảo đảm hạnh phúc con người. Khi vượt lên trên những cám dỗ vật chất , Đức Giêsu đã đem lại hạnh phúc đích thực và đã qui tụ được muôn dân. Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra sau khi Người đã vượt qua cơn cám dỗ lớn nhất chính là cái chết trên thập giá. “Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết” để từ nay “không có sự khác biệt giữa Do thái và người Hy lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người.”( Rm 10: 9,12) Kêu cầu với niềm tin tưởng tuyệt đối, con người “sẽ được cứu độ.” (Rm 10:9)
Sau cơn cám dỗ quyền lực và lợi lộc vinh hoa, Đức Giêsu bước vào cơn cám dỗ về niềm tin. Địa vị và bản tính Người bị đặt thành vấn đề trước một thách thức; “Nếu ông là Con Thiên Chúa . . .” (Lc 4:9) Trong cám dỗ thứ nhất Đức Giêsu đã gặp thách thức đó rồi. Nhưng ở đây, mức độ cám dỗ mãnh liệt hơn vì xoáy sâu vào tương quan giữa Người và triều thần Thiên quốc và chính Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu chứng tỏ tất cả quyền uy và bản tính Người để kết thúc những màn vật lộn với quỷ thần; “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Lc 4:12) Tên quỉ không ngờ đã đụng phải uy quyền tuyệt đối trong một thân phận mỏng manh như thế.
CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ.
Cơn cám dỗ vẫn còn đó. “Quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ,” (Lc 4:13) để cám dỗ huyền nhiệm của Đức Kitô là Giáo hội. Quyền bính và lợi lộc vinh hoa vẫn là những cơn cám dỗ muôn đời. Nhưng Giáo hội vẫn tồn tại vì đã không ngừng “rao giảng (Lời Thiên Chúa) để khơi dậy niềm tin” (Rm 10:8) trong lòng dân Chúa, hầu đem lại sức mạnh chiến thắng tên cám dỗ và đạt đến ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô.
Con đường cứu độ duy nhất chính là “phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” (Đnl 26:10), vì “tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.” (Rm 10:13) Con người phải tự quyết định vận mệnh của mình. “Ơn cứu độ nơi Đức Kitô thuộc về cá nhân, sâu xa trong nội tâm,” (Fahey 1994:219) nhưng cũng gắn liền với nhiệm thể Đức Giêsu là Giáo hội, tức là anh em đang chia sẻ cùng một niềm tin vào sứ mệnh cứu độ do Đức Giêsu dành cho thế giới hôm nay và ngày mai.
Lý tưởng là như thế. Nhưng thực tế vẫn đầy những cám dỗ. Cùng rao giảng Tin Mừng, cùng chia sẻ một niềm tin và hi vọng, và cùng cầu nguyện với một Chúa, nhưng anh em Kitô hữu hôm nay vẫn chưa vượt qua được cơn cám dỗ chia rẽ chúng ta. Cuộc giao tranh sống mái với “cái tôi” cồng kềnh trong mọi định hướng và chương trình vẫn lấn át cả tiếng Chúa. Cám dỗ không còn là cơ hội xác định mình chỉ là nơi để Đức Kitô lớn lên. Nếu chỉ nghĩ đến những quyền lợi vật chất, vinh hoa lợi lộc trước mắt, chắc chắn Đức Kitô đã ngã gục trước mưu kế thâm độc của Satan. Sở dĩ sau bốn mươi ngày ăn chay, Người vẫn còn đủ sức chống lại mọi cám dỗ, vì “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4:34) Ý muốn đó rhể hiện rõ ràng trong Lời Chúa. Công trình của Người là cứu độ trần gian, một công trình còn dở dang trong huyền nhiệm Đức Giêsu Kitô.
Công trình đó không thể hoàn thành, nếu không bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa. “ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119:105) Nếu không, cơn cám dỗ sẽ đưa con người vào cơn lầm tưởng mình là Thiên Chúa. Kết quả chỉ là khổ đau và bất công. Tình trạng cấp bách lắm rồi ! Hơn lúc nào, người Kitô hữu “trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người.” (Mt 6:33)
Mùa Chay và Phục Sinh được Phụng vụ Lời Chúa trình bày như một cuộc hành trình đức tin để ta: MC1-C83
Mùa Chay và Phục Sinh được Phụng vụ Lời Chúa trình bày như một cuộc hành trình đức tin để ta nhận ra căn tính đích thực của Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô và Người Tôi tớ chịu đau khổ của Thiên Chúa, sẽ chu toàn sứ mệnh của mình là xóa tội trần gian, chiến thắng tội lỗi và sự chết. Đức Ki-tô là ai? Chúa Giê-su đã tiên báo Mầu nhiệm về Đấng Ki-tô khi Người cho các môn đệ biết Người sẽ bị nộp vào tay kẻ thù, bị giết chết, và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là căn tính đích thực của Người. Các tông đồ và thánh sử đã trải qua cuộc hành trình đức tin ấy và cuối cùng đã đi tới việc tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng Ki-tô. Ki-tô hữu hôm nay cũng được mời gọi lên đường trong cuộc hành trình ấy cùng với các bậc tiền nhân và toàn thể Giáo Hội, để nhờ những trình bày của Phụng vụ Lời Chúa trong “thời gian thuận lợi” này, ta sẽ gặp gỡ được “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” Bài Tin Mừng thánh Lu-ca hôm nay trình bày Chúa Giê-su là người bị thử thách trong sứ mệnh, đồng thời cũng ngầm hiểu Người là gương mẫu cho mọi Ki-tô hữu. Đã nhiều lần ta suy niệm về nội dung những cám dỗ Chúa Giê-su chịu, nay ta thử căn cứ vào cách thánh sử sắp đặt vị trí câu truyện để nhận ra được một khía cạnh mới của biến cố ấy.
a) Cám dỗ gắn liền với cuộc sống con người
Nếu nhìn qua dòng cuối cùng của đoạn Tin Mừng nói về gia phả Chúa Giê-su (Lc 3:23-38), ta thấy tên ông A-đam được nhắc đến ngay trước khi thánh Lu-ca tường thuật về cuộc ma quỷ cám dỗ Chúa Giê-su trong hoang địa. Đoạn gia phả viết: “...Ông Kên-nan con ông Ê-nốt, ông Ê-nốt con ông Sết, ông Sết con ông A-đam và ông A-đam là con Thiên Chúa.” Không phải là tình cờ Lu-ca sắp đặt như vậy, nhưng chắc là thánh sử muốn cho ta có dịp so sánh giữa hai con người bị cám dỗ: ông A-đam và Chúa Giê-su. Ở đây, ta như mường tượng lại những gì thánh Phao-lô suy tư về vai trò của A-đam và Đức Ki-tô Giê-su trong thư gửi tín hữu Rô-ma (5:12-21).
Vậy A-đam và Chúa Giê-su, cả hai đều là “con Thiên Chúa,” đã chịu cám dỗ nào và hai vị đã thắng bại ra sao?
Tuy được trình bày qua những khung cảnh khác nhau, nhưng mục đích và bản chất của cám dỗ vẫn không hề thay đổi, đó là xúi giục các ngài đừng làm “con Thiên Chúa” hay nói khác đi, đừng tuân phục và đừng thi hành những gì Thiên Chúa muốn. Cám dỗ con người hãy theo ý riêng mình để ăn trái cấm, hoặc cứ theo kế hoạch riêng của mình để “làm phép lạ” lòe thiên hạ và trục lợi cho cá nhân mình, chung quy bản chất của hai cám dỗ đều là không muốn tuân phục thánh ý của Thiên Chúa mà thôi. Đứng trước cùng một cám dỗ như thế, thắng hay bại là do mình có biết đặt ý muốn của Thiên Chúa lên trên ý riêng của mình hay không. Khiêm nhượng hoặc kiêu căng sẽ quyết định phần thắng bại của họ. Ai thắng ai bại, ta đã thấy rõ rồi. A-đam muốn “trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:5). Kiêu căng đã quật ngã ông và nhân loại. Còn Chúa Giê-su muốn “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:8). Khiêm nhượng đã đưa Đức Ki-tô đến sự phục sinh và vinh hiển.
Khi đặt Chúa Giê-su bên cạnh A-đam như thế, đoạn Tin Mừng Lu-ca cũng cho ta nhiều gợi ý khác nữa. Ngoài việc cho ta thấy cám dỗ là những gì gắn liền với cuộc sống con người, Tin Mừng còn trình bày một khuôn mẫu thắng vượt cám dỗ như thế nào.
b) “Chúa Giê-su được đầy Thánh Thần” là khuôn mẫu thắng cám dỗ.
Sau khi nhắc đến “ông A-đam là con Thiên Chúa,” thánh Lu-ca giới thiệu Chúa Giê-su như sau: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa” (4:1). Thánh sử không muốn viết đơn giản “Từ sông Gio-đan trở về, Đức Giê-su đi vào hoang địa,” nhưng ngài muốn dùng những cụm từ trên để nói rõ về con người của Chúa Giê-su như thế nào, nghĩa là một người “được đầy Thánh Thần” và “được Thánh Thần dẫn đi.” Vai trò của Thánh Thần đã rõ ràng trong chiến thắng của Chúa Giê-su trước cám dỗ. Muốn thắng được cám dỗ, điều kiện tiên quyết phải là được đầy Thánh Thần và để cho Thánh Thần dẫn mình đi. Thánh Thần là chính nghĩa của Thiên Chúa, thể hiện tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Cho nên khi ta “được đầy Thánh Thần” có nghĩa là ta có khả năng nhận ra những gì thuộc về Thiên Chúa, ý muốn và kế hoạch của Người là gì, phương cách thi hành theo ý Người phải làm như thế nào... Và “được Thánh Thần dẫn đi” có nghĩa là ta hành động theo đúng hướng và đúng cách của Thiên Chúa, chứ ta không để cho tham vọng của ta lèo lái công việc ta làm. Để được đầy Thánh Thần, Chúa Giê-su đã suy niệm, cầu nguyện và trân trọng kế hoạch của Chúa Cha từng giây từng phút cuộc đời Người, nhất là qua những dịp “ban đêm, Người đi đến nơi thanh vắng” để cầu nguyện và hiệp nhất với Chúa Cha. Người lấy việc “được Thánh Thần dẫn đi” hoặc “thi hành ý Cha” như là nguồn lương thực cho sự sống của Người (Ga 4:34).
c) Cám dỗ của ta và chiến thắng của ta
Khi cám dỗ Chúa Giê-su, ma quỷ mở đầu với lời: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì ông hãy...” Thử thách căn tính là một thử thách chung của loài người. Mỗi người có một cám dỗ về căn tính của mình. Trong gia đình, cha mẹ bị cám dỗ muốn làm bậc cha mẹ độc đoán; con cái bị cám dỗ muốn phản chứng, muốn tự do. Ông chủ tịch thì bị cám dỗ độc tài. Ông nhà báo bị cám dỗ viết trái sự thật để mưu mô đen tối. Ông đạo diễn bị cám dỗ phải cho vào phim của mình vài ba cảnh hở hang khiêu dâm thì mới ăn khách. Học sinh bị cám dỗ để ngày mai làm bài, còn kịp chán. Linh mục cũng bị cám dỗ dùng tòa giảng để trút cơn... thịnh nộ!
Nhưng nếu ta thẳng thắn và trả lời tên cám dỗ rằng: “Đúng, tôi là con Thiên Chúa. Người rất thương tôi. Người muốn điều tốt cho tôi...”, thì ta đã bắt đầu thắng cám dỗ rồi đó. Chính Thánh Thần đã làm cho ta thành nghĩa tử của Thiên Chúa, để ta có thể gọi Thiên Chúa là “Abba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Được đầy Thánh Thần, ta mới có khả năng làm con Thiên Chúa và đủ sức nói thẳng vào mặt tên cám dỗ: tôi là con Thiên Chúa. Đó là bước đầu. Tiếp đến, ta cứ để cho Thánh Thần tiếp tục đưa ta đi, vì “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3:8).
Chúa Giê-su, khuôn mẫu chiến thắng cám dỗ, ghé tai ta nói nhỏ: “Cứ thế, cứ thế...” Cho nên theo Người, chắc chắn ta cũng chiến thắng vẻ vang.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có ý thức rằng cám dỗ căn bản đối với tôi vẫn là cám dỗ phản bội căn tính của mình không? Tôi phải mô tả cám dỗ ấy như thế nào? Là một Ki-tô hữu “hữu danh vô thực”? Là một bậc cha mẹ vô trách nhiệm? Là một công nhân không ngay thẳng?...
Đâu là điều Chúa muốn (thánh ý Chúa) tôi làm lúc này và tại đây? Người muốn tôi làm điều ấy theo cách nào?
Tôi cảm nghiệm thế nào về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tôi? Tôi đã để cho Người hoạt động trong tôi như thế nào?
Lời nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con. Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu. Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức. Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ. Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con đường hẹp của Chúa, con đường nghèo khó khiêm nhu, con đường hy sinh phục vụ. Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 94)
Sống là phấn đấu và chọn lựa. Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, cũng không đi ra ngoài qui luật đó.: MC1-C84
Sống là phấn đấu và chọn lựa. Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, cũng không đi ra ngoài qui luật đó. Nếu ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thì mục đích của nó là đặt Người vào thế phải lựa chọn.
1. Chuyện: Người ta kể một giai thoại về Hoàng đế Charles Quint của Đức như sau;
Sau nhiều năm tận tụy hi sinh phục vụ Hoàng đế, một vị trung thần của ông ngã bệnh và đang phải chiến đấu với tử thần. Để tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với một con người đã suốt cuộc đời trung thành với mình, Hoàng đế đã đích thân đến bên giường bệnh của ông. Cầm tay vị trung thần, Hoàng đế nói “ Khanh đã hết lòng phục vụ trẫm, nay trẫm xin được đền đáp. Khanh hãy cho trẫm biết khanh mong ước điều gì, trẫm sẽ thoả mãn yêu cầu của khanh”.
Trong hơi thở đứt quãng, vị trung thần tâu; “Thần ao ước được nhận được từ tay bệ hạ một ân huệ”.
Đôi mắt Hoàng đế như sáng lên. Ông hỏi nhanh; “Khanh cứ nói, ân huệ gì trẫm cũng sẽ ban cho khanh”.
Người hấp hối nói một cách chua xót; “Xin bệ hạ ban cho thần được sống thêm một ngày, chỉ một ngày mà thôi”.
Nghe xong lời cầu khẩn của vị trung thần, Hoàng đế lắc đầu nói; “Trẫm được xem là quân vương quyền thế nhất trên thế gian này, nhưng điều khanh xin hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của trẫm. Sự sống thì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban mà thôi”. Trong tiếng thở dài pha lẫn sự đắng cay chua xót, vị trung thần thốt lên; “Thật là vô ích cho tôi, vì tôi đã điên rồ đến độ không biết dành nhiều thời gian hơn để phục vụ Chúa mà lại hoang phí thời giờ để phục vụ các vua chúa trần gian. Tôi đã không biết lựa chọn cho đúng, tôi đã lựa chọn sai lầm”. 2. Đức Giêsu, xét như một Vị Thiên Chúa làm người, cũng phải sống lựa chọn. Tin Mừng kể lại việc Người chịu ma quỉ cám dỗ. Đức Giêsu xuống trần gian này để xây dựng Nước Thiên Chúa và ma quỉ đã đề xuất cho Người ba điều hấp dẫn.
a/ Sở hữu, chiếm hữu, vật chất (avoir). “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này thành bánh đi!”. Chúa đã trả lời; “Người ta không phải chỉ sống chỉ nhờ cơm bánh”. Công việc của Đức Giêsu là nuôi sống con người bằng Lời của Thiên Chúa; “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27). Một đôi khi Người cũng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê, nhưng trước đó Người đã giảng Lời cho họ, bởi vì con người còn phải sống “nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Nước Thiên Chúa phải được xây dựng trước tiên trên Lời Thiên Chúa.
b/ Quyền bính, thống trị (pouvoir). “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng vinh hoa lợi lộc của các nước này (…). Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Chúa trả lời; “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và thờ phượng một mình Người mà thôi”. Nước của Chúa là nước của phục vụ, của tình yêu và chia sẻ chứ không phải là thống trị; “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Đây là nét thứ hai của Nước Thiên Chúa.
c/ Tri thức, biết (savoir). “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi”. Chúa trả lời; “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Đức Giêsu đã không muốn thử thách Thiên Chúa nhưng chấp nhận sống tuân phục và khiêm nhu và đặt tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Đây là nét thứ ba mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho Vương quốc của Người.
3. Bài học cho chúng ta hôm nay: Chúa Giêsu xét như một con người có xác thịt đã để lại cho chúng ta bài học về sự chọn lựa. Sống là chọn lựa, chọn lựa giữa các gía trị. Chính sự chọn lựa sẽ đem chúng ta đi lên hoặc đi xuống, thiên đàng hoặc hoả ngục, sự sống hay sự chết, được chúc phúc hay bị chúc dữ.
Nếu phân tích cho kỹ, chúng ta dễ nhận ra điều này; ma quỉ đã đánh vào “huyệt tử” của Người. Là con người, ai lại không thích chiếm hữu (avoir), thống trị (pouvoir) và hiểu biết (savoir)?.
Nếu ngày nay ma quỉ cám dỗ chúng ta, thì nó cũng sẽ cám dỗ về ba khía cạnh này.
a/ Chiếm hữu, vật chất. “Cơm bánh” là kiểu nói để chỉ vật chất nói chung. Ai cũng mong “có” cho nhiều tiền bạc, vật chất, tiện nghi…và nghĩ rằng thế là đảm bảo cho cuộc sống mình. Thực ra, “giá trị của con người không phải ở chỗ họ “có” cho bằng họ “là” (Hiến chế Mục Vụ). Chính vì mong ước “có cho nhiều” mà người ta quên cả Chúa và thậm chí không thấy Chúa là cần thiết cho họ nữa.
b/ Thống trị, quyền bính (pouvoir). Không những người ta thích có cho nhiều, nhưng còn thích hơn kẻ khác, thống trị người khác nữa. Những uy quyền, địa vị xã hội cũng là mơ ước thường xuyên của con người. Những điều này chẳng có gì sai trái; sự vươn lên là điều đáng khuyến khích, tuy nhiên đừng vì thế mà quên đi sự phục vụ, yêu thương và chia sẻ với người khác nữa.
c/ Tri thức, hiểu biết (savoir). Tri thức, kiến thức, sự hiểu biết là điều đáng khích lệ. Sự thăng tiến của chúng ta tuỳ thuộc phần lớn vào sự hiểu biết. Nhưng không phải bất cứ điều gì chúng ta cũng phải biết qua, phải thử nghiệm hay đòi hỏi mọi sự phải minh bạch, nhưng phải biết sống trong tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa nữa.
d/ Một nét cuối cùng chúng ta cần phải thấy nơi “chiến thuật” của ma quỉ; nó trích dẫn kinh thánh một cách chính xác, nhưng giải thích theo cách có lợi cho nó mà thôi. Chúa Giêsu cũng trưng kinh thánh nhưng giải thích theo ý Thiên Chúa muốn. Kết luận
“Ma quỉ, thế gian và xác thịt” là ba điểm mà giáo lý truyền thống của Giáo Hội dạy ta phải chiến đấu để chống lại. Theo Tin Mừng, ma quỉ không bao giờ chịu thua ai. Ngay cả đối với Chúa Giêsu cũng vậy: không phải nó chỉ cám dỗ Người một lần, nhưng cả cuộc đời Người. Cho đến khi Người bị treo trên thập giá, nó cũng chưa tha; “Nếu mi là Con Thiên Chúa thì xuống khỏi thập giá xem nào ! … Hắn cứu được thiên hạ mà chẳng cứu nổi mình … Hắn cậy vào Thiên Chúa thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn” (Mt 27, 40-43). Ma quỉ luôn giở bài “khích tướng” để con người ngã lòng trông cậy vào Chúa. Phải biết như vậy để chúng ta luôn luộn tỉnh thức và cầu nguyện (x. Lc 21, 36).
Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta tìm lại ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng ấy theo sách: MC1-C85
Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta tìm lại ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng ấy theo sách Nhị Luật luôn đồng hành với dân Người, dù là trong kiếp du mục ngoại cư trên đất Ai Cập, nhờ thế mà từ một nhóm ngoại kiều nhỏ nhoi, họ đã trở nên một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Khi người Ai Cập ngược đãi và hành hạ, Thiên Chúa đã nhìn thấy nỗi thống khổ và khốn cùng của dân Người, Người lập tức dẫn họ ra khỏi Ai Cập với quyền năng oai hùng và mạnh mẽ... ban cho họ đất chảy sữa và mật. Chân lý ấy nhiều tiên tri đã không ngần ngại lặp đi lặp lại trong lời rao giảng của các Ngài "Nào người mẹ có thể quên con mình, và nếu người mẹ nào quên con mình, Ta cũng không hề quên Ngươi". Ý thức về sự đồng hành và chia sẻ cuộc sống mà Thiên Chúa hằng trung tín thi hành cho dân Người là khởi điểm thiết yếu cho mọi cuộc hoán cải và canh tân lòng tin. Chính Môsê đã truyền dạy phải khởi sự hiến lễ dâng lên Chúa bằng tuyên nhớ lại sự đồng hành ấy.
Chính sự đồng hành của Thiên Chúa làm nên lịch sử dân Người, mà vào thời cuối cùng không phải chỉ bằng dấu lạ điềm thiêng, không phải chỉ là bàn tay mạnh hay cánh tay hùng, đích thân Con Thiên Chúa đã đến cư ngụ giữa dân Người để hoàn tất lịch sử Thánh. Đức tin giờ đây không còn phải mò mẫm qua những biến cố hay những lòi rao giảng xa xôi, mà đã đụng chạm tới một con người bằng xương bằng thịt. Một con người đã sinh ra, đã ngang qua cái chết như mọi người để đi vào sự sống vĩnh cửu. Đức Tin cuối cùng vẫn là Tin Thiên Chúa bằng ân huệ cuối cùng tuyệt đối đã cắm lều ở ngay trong cuộc sống mỗi con người trong Đức Giêsu Kitô.
Cơn cám dỗ từ khởi đầu ở vườn điạ đàng lại tái diễn với Đức Giêsu trong hoang điạ, là cơn cám dỗ của mọi người mọi thời; con người sống không cần và không có Thiên Chúa trong cuộc đời. Khi cám dỗ Đức Giêsu truyền cho đá thành bánh, hay khi cám dỗ Đức Giêsu làm bá chủ muôn dân nước, hoặc cám dỗ Người gieo mình xuống từ nóc đền thờ, cho dù đánh vào những khát vọng sâu kín về tiền tài, danh vọng hay lạc thú, thì cái ý nghĩa đích thật của mọi cám dỗ ấy cũng chỉ là không thấy, không chấp nhận, không đồng hành với Thiên Chúa trong cuộc sống. Nói khác đi chính là phủ nhận Thiên Chúa đã cắm lều ngay trong cuộc đời mình. Như thế là tiêu hủy mọi lòng Tin.
Đức Giêsu hôm nay có một chọn lựa dứt khoát, Ngài không cần biết cơm bánh, quyền năng hay lạc thú, Ngài chỉ tập trung ý chí mình vào duy Lời Thiên Chúa và lựa chọn làm theo Lời Người. Đó là khởi điểm cho cuộc chiến thắng cuối cùng trên Thánh Giá; ở đó, Người sung sướng để thưa lên với Cha "Mọi sự đã hoàn tất". Đời Người là cuộc đời hoàn thành Ý Cha, Ý luôn luôn hiện diện và Yêu thương Người, Ý sẽ tôn vinh Người, Ý luôn đồng hành với Người trong ngay cả lúc khốn cùng nhất; chính lúc Người chết đi là lúc Phaolô nghe được lời tấn phong của Chúa Cha dành cho Người "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Đời sống mỗi con người cũng như đời sống Đức Giêsu cũng còn chính là sự sinh thành cực nhọc mà Thiên Chúa sinh ra chúng ta vào sự sống vĩnh hằng. Đấy là ý nghĩa đích thật của mọi ân huệ Thiên Chúa trao ban.
Suy nghĩ như thế đem lại cho chúng ta một niềm tin hoàn toàn mới mẻ đứng trước mọi biến cố và mọi thử thách.
Ma qủy đã cám dỗ Chúa sau 40 mươi ngày ăn chay bằng biến đá nên bánh, bằng gieo mình xuống; MC1-C86
Ma qủy đã cám dỗ Chúa sau 40 mươi ngày ăn chay bằng biến đá nên bánh, bằng gieo mình xuống vực sâu, và bằng vinh hoa phú qúy, nhưng Ngài đã dạy “Phải phục lệnh một Thiên Chúa mà tôi”. Thấy không làm gì nổi Ngài ma qủy bỏ đi và các Thiên Thần đến hầu hạ Ngài. (Mt.04:01-11).
Thánh Phaolô đã dạy:
- Anh em hãy giữ vững lấy khí giới của Thiên Chúa mà chiến thắng satan, ma qủy. Satan không phải là một huyền thoại, hoang đường, nhưng là một sức lực đầy quyền uy và hiện thực, luôn tìm cách mưu hại chúng ta như bài Iin Mừng hôm nay đã nói đến, chúng tấn công Chúa Giêsu, nhưng Ngài có dư thừa quyền năng để vượt qua mọi thử thách phi thường của ma qủy và Ngài đã dứt khoát xua duổi chúng đi:
- Hỡi satan, hãy cút đi. Dù cả hỏa ngục dấy lên, chúng bay cũng không thắng nổi.
Nhưng nhân loại qua giòng thời gian vẫn không thay đỗi, nên ma qủy ngày nay vẫn dùng chiêu cũ đó là đói khát, danh vọng và uy quyền để cám dỗ. Ba chiêu thức này đã làm biến đổi bao tâm hồn theo giòng lịch sử, mà thánh Phaolô đã nhắc nhở:
- Nó như con sư tử lượn quanh tìm mồi để cắn xé. Vì thê anh em hãy tỉnh thức và bước đi dưới sự soi dẫn của Thiên Chúa.
Từ thời Adong Eva hiện diện, con người luôn hướng về tội lỗi, nhưng từ ngày Chúa Giêsu vị Cứu Chúa, Con Người đã chiến thắng vị thủ lãnh trần gian và bị đánh bật ra ngoài. Chúa đã chiến thắng ma qủy, đã quyết liệt chiến đấu với mọi cơn cám dỗ để chúng ta noi theo và trung thành với Chúa.
Ồng chủ một nông trại thuê một thanh niên đến sở nhặt khoai Tây. Công việc không có gì nặng nhọc và vất vả. Chỉ cần phân loại các củ khoai to, nhỏ và cho vào càng xé. Sau một vài ngày làm việc, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Ông chủ hỏi lý do thì anh trả lời;
- Công việc không có gì là nặng nhọc, nhưng điều làm tôi nhức óc đó là phải quyết định lựa chọn.
Lựa chọn và quyết định cả là một gánh nặng, vì không ai có thể thay thế cho mình được. Chúng ta cần người khác chỉ bảo, cần người khác góp ý, nhưng quyết định vẫn là ở mình. Thú vật không có lựa chọn mà chỉ làm theo bản năng. Con chim có thể làm tổ rất tinh vi, rất sắc sảo mà không cần học hỏi, không sợ sai lầm, trong khi đó con người vô cùng lầm lẫn, sai quấy, mặc dù học hỏi đầy đủ. Sai lầm, nghi ngờ, bất an là số phận của con người, con người phải quyết định chọn cái hay cái phải, điều tốt, Đó là điều làm cho chúng ta ray rứt, đau khổ. Vì vô phương, bất tòan nên cần sự trợ giúp của Chúa. “Con người là cái chi mà Chúa phải bận tâm ?” (Thảnh Vịnh 8). Dưới con mắt của Chúa, con người lại là một giá trị vô song, là đối tượng của tình yêu độc nhất. “Con người không đáng một xu mà không rơi xuống đất ngòai thánh ý của Chúa”. Con người cần phải lựa chọn, lựa chọn thay đổi cả một đời người như thánh Phanxicô khó khăn, như cha Damiêng Kolbe, Nhưng có những quyết định làm cho người ta ray rứt như Giuda, Dằn vặt như Madalena.
Mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy nhìn vào cuộc sống của mình; MC1-C87
Mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy nhìn vào cuộc sống của mình để thành tâm xám hối. Và để nói với chúng ta một cách đầy đủ, ý nghĩa hơn, Giáo Hội đã trưng dẫn tấm gương của chính Chúa Giêsu. Ngài đã bị thử thách và bị cám dỗ để chúng ta khỏi sa vào chước cám dỗ: “Khi ấy Thánh Thần dẫn người vào hoang địa và ở đó chịu ma quỷ cám dỗ” (Mt 4:1).
Thánh Thần hướng dẫn Chúa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm thế cho Chúa Giêsu. Thế nhưng cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là “Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ”, để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.
CÁM DỖ
Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ, và thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng như chính cái tên gọi của y. Rất tiếc Lucifer đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối.
Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã trước cám dỗ.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự. Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên ngài đã dậy chúng ta không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện, và xin ơn trên ban xuống: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”. Ngài gọi cám dỗ là một sự dữ. Sự dữ tồi tệ và khinh khủng đến độ chúng ta phải sa tránh và không được đến gần.
Vậy cám dỗ là gì mà kinh khủng và khó thắng vượt như vậy? Thánh Ký đã ghi nhận như sau:
“Sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ngài thấy đói. Tên cám dỗ đến gần và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy biến những viên đá này thành bánh đi” (Mt 4:3). Và tiếp tới sau khi đã đưa ngài lên đỉnh cao của đền thờ, hắn nói với ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi. Vì có lời Thánh Kinh chép rằng ‘Ngài sẽ truyền cho các thiên thần nâng đỡ ông, để chân ông không vấp phải đá” (Mt 4:6). Rồi sau cùng khi đưa ngài lên đỉnh non cao, cho thấy tất cả vinh quang trần thế, hắn nói với ngài: “Nếu ông sấp mình thờ lậy ta, thì tất cả thuộc về ông” (Mt 4:9).
Đọc kỹ những gì Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu như Thánh Ký đã ghi nhận, chúng ta thấy hiện ra ba hình thức cám dỗ:
Các dỗ theo bản năng tự nhiên, Cám dỗ theo tình cảm, Cám dỗ theo lý trí. Tuần tự theo nhau từ cái dễ đến cái khó khăn. Từ bên ngoài vào đến bên trong.
1. Cám dỗ theo bản năng
Có lẽ vì thấy Chúa mang thân phận con người, nên Satan đã thử dùng bản năng để cám dỗ ngài trước: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy biến những viên đá này thành bánh đi” (Mt 4:3).
Là con người thì ai mà chả đói, nhất là sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày. Đói thì tìm của ăn, khát tìm nước uống, không ai trong nhân loại thoái khỏi những hệ lụy này. Nhưng cái làm cho bản năng trở thành nguy hiểm và có thể làm cho con người bị ra hư hỏng đó là “tin vào bản năng của mình” và “thần thánh hóa” bản năng ấy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta tất cả đều cảm nhận được cái nguy hiểm và tinh vi của cơn cám dỗ này. Thái độ dối lòng mình, hoặc tự cho mình có khả năng thắng vượt thử thách đã làm cho nhiều người vấp ngã. Thí dụ, người uống rượu thường tự cho mình là có dư khả năng chừa được rượu. Hoặc uống một chút cho thiên hạ biết mình là người biết ăn chơi hoặc bản lãnh. Nhưng khi nói chuyện với một người say rượu mà bảo rằng họ là người nghiện rượu thì không bao giờ người đó nhận mình như vậy.
Những cám dỗ thuộc bản năng dầu sao cũng chỉ là những cám dỗ thuộc con người tự nhiên. Tuy vậy, cái thâm hiểm ở cám dỗ bản năng này là người bị cám dỗ không hề biết đó là những cám dỗ để cần phải xa tránh. Vì sau khi đã bị sa ngã ở đây, thường chúng ta sẽ tiếp tục vấp ngã ở những hình thức cám dỗ cao hơn do sự nghi ngờ về bản thể và bản chất của con người, cũng như tâm lý mặc cảm về những yếu đuối của mình.
Satan không trải qua những cám dỗ này, vì hắn thiêng liêng. Adong và Evà cũng không bị cám dỗ ở lãnh vực bản năng, vì lúc đó Nguyên Tổ còn đang trong thời gian mà lý trí có thể kìm hãm được bản năng. Không bị bản năng chi phối.
2. Cám dỗ theo tình cảm
Sau khi đã không thắng được Chúa Giêsu ở phương diện bản năng, Satan tiếp tục tấn công ngài về lãnh vực tình cảm. Đây là tình cảm tự tôn và tự đại. Từ trên đỉnh cao của đền thờ, hắn nói với ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi. Vì có lời Thánh Kinh ché rằng: Ngài sẽ truyền cho các thiên thần nâng đỡ ông, để chân ông không vấp phải đá” (Mt 4:6).
Cái cảm giác lâng lâng của một người nhẩy từ trên cao xuống, và nhất nữa là khi biết chắc được cha mình sẽ sai các người giúp việc đỡ lấy mình, không để chân mình chạm phải đá hẳn là thú vị lắm. Vì mình là Con Thiên Chúa mà.
Satan không qua cám dỗ này, nhưng đến Adong và Evà thì tình cảm đã nhen nhúm vào chước cám dỗ. Hai Nguyên Tổ tưởng rằng Thiên Chúa là cha thì cùng lắm cũng chỉ hù dọa thôi, làm gì đến độ phải ra tay xử nặng. Và từ cái cảm tình này đã dẫn Evà mon men đến gần cây Biết Lành Biết Dữ. Trái đẹp, thơm ngon, lại của Cha mình trồng, ăn một trái được lên cao trọng. Bất quá cha có xử thì cũng nhẹ tay mà (x. Sáng Thế 2:15; 3:6-7).
Tính chất thâm hiểm của cám dỗ đã lên cao hơn một bậc. Nó đã vượt qua bản năng tự nhiên để đi vào tâm lý và tình cảm của con người. Thất tình, lục dục là điều mà ít ai tránh khỏi. Hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Nó làm cho con người thường hay lẫn lộn Yêu thương và hờn ghét. Cảm tình và dục vọng. Buồn và vui. Thất vọng và Hy vọng.
Những cám dỗ này nếu được che dấu dưới cái mác đạo đức, thương người, dưới cái mác công bằng, tình thương, thì rất khó để chúng ta phân biệt. Nguyên Tổ đã vấp ngã. Và rất nhiều lần chúng ta đã vấp ngã.
3. Cám dỗ theo lý trí
Nhưng có lẽ cám dỗ đi vào thượng tầng trí tuệ của con người mới là những cám dỗ gây cấn và nguy hiểm. Sau khi đã thất bại cám dỗ Chúa dùng bản năng, dùng tình cảm của mình, giờ đây tên cám dỗ tấn công một “chưởng” cuối, đó là đánh vào tâm trí tự kiêu của con người. Thánh Kinh ghi khi đưa ngài lên đỉnh non cao, cho thấy tất cả vinh quang trần thế, hắn nói với ngài: “Nếu ông sấp mình thờ lậy ta, thì tất cả thuộc về ông” (Mt 4:9).
Được làm vua toàn thể trái đất, vinh quang nhất mực là điều mà ai cũng thèm khát và mong mỏi. Làm tổng thống Hoa Kỳ đã là một danh vọng tột bực mà nhiều người thèm khát. Làm đến Giáo Hoàng càng vinh quang và quyền lực hơn. Nhưng được tất cả mọi sự dưới gầm trời này thì đó là điều càng làm cho con người thèm thuồng và ham muốn hơn.
Lucifer đã ngã thua cám dỗ này khi hắn thấy mình quá khôn sáng. Hắn tưởng đã đến lúc có thể làm Chúa Trời được, nên đã hãnh diện tuyên bố:
“Ta sẽ lên trời.
Trên các vì sao của Thiên Chúa,
ta sẽ bác ngai ta.
Ta sẽ ngự trên núi Tao Phùng,
nơi bồng lai cực bắc.
Ta sẽ lên chót vót từng mây,
nơi ta sẽ đồng hàng với Thiên Chúa”
(Is 14:13-14).
Nhưng Lucifer đã không được như hắn muốn. Nơi chót vót tầng mây giờ đây trở thành vực sâu tối tăm. Và nơi bồng lai cực bắc trở thành hỏa hình muôn thuở. Hắn biết mình đã thua Thiên Chúa, nên hắn càng cao ngạo và không muốn bất cứ ai tốt lành và may mắn hơn hắn. Và vì thế mà thảm cảnh vườn Diệu Quang đã xẩy ra. Cũng bằng tâm thức cao ngạo muốn biết lành và biết dữ, muốn bằng Thiên Chúa mà Nguyên Tổ đã bị giáng phạt.
Vì không hoàn toàn tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, nên hắn đã mang cái lý trí tự kiêu kia ra, để một lần nữa mong thắng được trận chiến cuối này, vì dầu sao chiếm được lý trí, chiếm được thượng tầng suy tư của con người cũng là chiếm được tất cả con người.
Trên đây là 3 hình thức cám dỗ mà qua trình thuật của Thánh Kinh chúng ta có thể nhìn thấy và hiểu ra được. Mang thân phận con người và để đồng cảm với con người, Chúa Giêsu đã trải qua cả 3 hình thức cám dỗ ấy. Ngài muốn cho chúng ta hiểu rằng muốn chiến thắng được bản năng cần phải chiến thắng được những dục vọng đang thôi thúc nó. Những dục vọng thầm kín, những thôi thúc con người tìm cầu và khỏa lấp những ước muốn thấp hèn trong đó bản năng dục vọng được kể là mạnh nhất.
Ngài cũng muốn cho chúng ta hiểu rằng, ngoài con người bản năng ra, chúng ta còn bị chi phối bởi những thu hút về mặt tình cảm, mà sự thu hút của nó khiến chúng ta dễ giận, dễ ghét, dễ bực bội, dễ cau có. Sống theo cảm tính cũng là sống theo những đòi hỏi của những xu hướng giác quan mà thị giác là một phần quan trọng. Thanh sắc. Ít ai có thể dễ dàng chống cự nổi những cám dỗ này. Trước những lời đường mật, và trước sức hấp dẫn thu hút của sắc đẹp mà cửa ngõ đi vào là con mắt. Và đó cũng là những cám dỗ mà con người cần phải xa tránh.
Và sau cùng là trí khôn, lòng muốn, mà sự kiêu căng tự phụ là điều hết sức quan trọng. Lucifer, Adong và Evà, và ngay tất cả mọi người chúng ta, khi nói đến những sa ngã và yếu thì thường liên kết với tính kiêu căng, tự phụ. Với ý tưởng và ước muốn làm Thiên Chúa hoặc ngang hàng với Thiên Chúa. Và đầu mối tội đầu chính là sự cao ngạo của mỗi con người.
CHÚA CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Mở đầu, trích đoạn Thánh Ký đã ghi nhận một điều khiến chúng ta tìm ra được cái ý nghĩa cốt lõi của thử thách và cám dỗ: “Ngài được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang điạ”. Như vậy, khi một chước cám dỗ đến, hay nếu vì yếu đuối mà ta để mình rơi vào cơn cám dỗ, chúng ta cũng có thể nhìn ra được cái ý nghĩa sau cùng của nó, chính là Thiên Chúa đã cho một cơ hội để con người chiến thắng thần dữ. Bằng cách chiến thắng chính bản năng của mình. Bằng cách chiến thắng chính cảm tình của mình. Và bằng cách chiến thắng chính ý chí của mình. Do lời cầu xin và thái độ khiêm nhường.
Chúa Giêsu đã dùng Lời Chúa: “Có lời chép rằng”. Lời chép đây là lời Thiên Chúa, là Thánh Kinh. Mà Thánh Kinh là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
Riêng về thân phận yếu đuối của con ngưòi, chúng ta phải đến với Thiên Chúa nguồn sức mạnh và đỡ nâng để như Chúa Giêsu đã dậy, chúng ta phải hằng ngày cầu xin: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Cám dỗ. Đó là những thôi thúc, mời gọi chúng ta luôn luôn muốn tìm kiếm cái tôi, đề cao tự ái, thoả mãn dục vọng, thỏa mãn tình cảm, và nhất là dễ dàng suy phục Satan để tìm được những danh vọng, quyền lực chóng qua của trần gian mà chấp nhận mất phúc Thiên Đàng.
Lậy Chúa là Cha nhân lành, đầy tình yêu thương và săn sóc. Chúa đã bị cám dỗ và đã chiến thắng tên cám dỗ. Xin cho chúng con biết xa tránh và chiến thắng các chước cám dỗ nhân danh sức mạnh, tình thương, sự chở che, và quan phòng của Chúa. Amen.
Theo NHỮNG QUY LUẬT TỔNG QUÁT VỀ NĂM PHỤNG VỤ VÀ NIÊN LỊCH của Giáo Hội: MC1-C88
Theo NHỮNG QUY LUẬT TỔNG QUÁT VỀ NĂM PHỤNG VỤ VÀ NIÊN LỊCH của Giáo Hội thì “Mùa Chay nhằm chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Phụng Vụ Mùa Chay giúp các dự tòng và các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua. Các dự tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn khác nhau của việc nhập đạo; còn các tín hữu thì qua việc tưởng niệm Bí Tích Thánh Tẩy và việc Sám Hối” (số 27). Như vậy Mùa Chay là thời gian đặc biệt để các tín hữu chúng ta chuẩn bị cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng hành động cụ thể và thiết thực (a) tưởng niệm Bí Tích Thánh Tẩy (b) Sám Hối.
(a) Tưởng niệm Bí Tích Thánh Tẩy: Tưởng niệm không chỉ là nhớ lại, không chỉ là nghĩ tới hay nhắc đến mà còn là mừng, là sống nữa. Một trong các yếu tố mang tính quyết định của Bí Tích Thánh Tẩy là người dự tòng long trọng và công khai (a) tuyên bố từ bỏ ma quỷ, (b) đồng thời khẳng định lòng tin và sự quy phục của mình đối với Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và là Cha, Con và Thánh Thần. Nói một cách khác là nhìn nhận chủ quyền của Thiên Chúa trên tâm hồn và cuộc sống của mình.
(b) Sám Hối: Chúng ta là những tạo vật yếu đuối, mê muội và cứng đầu nên dễ sa chước cám dỗ và phạm tội khước từ Thiên Chúa, phủ nhận quyền thống trị yêu thương của Thiên Chúa và cắt đứt mối liên hệ mật thiết, có tính “sống còn” với Thiên Chúa là chính Sự Sống. Vì thế mà Mùa Chay là rất cần thiết, để chúng ta quay trở lại với Thiên Chúa và tái quy phục Người, vì chỉ có như thế, chúng ta mới xứng đáng cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Con Một Thiên Chúa và được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Mầu Nhiệm ấy.
Các Bài Thánh Kinh hôm nay và của cả Mùa Chay sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn những chân lý ấy.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đnl 26, 4-10: Lời tuyên xưng đức tin của dân được tuyển chọn
4 Ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: “Khi anh (em) đến dâng của đầu mùa, tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 5 Bấy giờ, anh (em) sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) rằng: ‘Ông tổ tôi là người A-ram phiêu bạt, đã xuống Ai Cập và trú ngụ tại đó cùng với một số người ít ỏi; tại đó, người đã trở thành một dân tộc lớn, mạnh và đông. 6 Người Ai Cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. 7 Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. 8 Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập. 9 Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. 10 Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con.’
“Anh (em) sẽ đặt lễ vật trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) rồi anh (em) phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).”
. (2) Bài đọc 2: Rm 10, 8-13: Người tín hữu tuyên xưng đức tin vào Đức Ki-tô
8 Thưa anh em, Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. 9 Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. 10 Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ. 11 Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. 12 Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. 13 Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 4,1-13: Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ
1 Sau khi chịu phép rửa, Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!" 4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh."
5 Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông." 8 Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
9 Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." 12 Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."
13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 ( Đnl 26,4-10) là những lời của ông Mô-sê giảng giải cho dân Ít-ra-en về cách họ phải đối xử với Thiên Chúa như thế nào cho tương xứng. Ông đã khéo léo nhắc lại cách vắn gọn lịch sử của dân và cách Thiên Chúa đã cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa dân vào Đất Hứa. Nhờ có đất và sự quan phòng đầy thương yêu của Thiên Chúa mà dân mới có hoa mầu, lương thực, sữa và mật… Vì thế dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa của lễ đầu mùa là để tỏ lòng biết ơn và quy phục Vị Chúa Tể Vũ Trụ và Lịch Sử của họ.
Trong đoạn Đnl 26,4-10 trên, chúng ta khám phá ra nhiều nét đáng yêu trên dung mạo của Thiên Chúa: Trước hết Thiên Chúa là Đấng đã nghe thấy lời kêu than của những người bị áp bức. Kế đến Thiên Chúa là Đấng ra tay giải thoát họ. Sau cùng Thiên Chúa là Đấng đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình về & vào Đất Hứa. Trong biến cố Xuất Hành (cũng là Vượt Qua) của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa tự mạc khải vừa là Đấng yêu thương, vừa là Đấng quyền năng. Đó cũng chính là Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm, tôn thờ và sống cùng!
(2) Bài đọc 2 (Rm 10,8-13) là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ nói về đối tượng của niềm tin của các Ki-tô hữu. Đối tượng đó là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. So với những người Do Thái thì các Ki-tô hữu chúng ta đã tiến thêm được một bước trên con đường tìm kiếm, gặp gỡ và hiểu biết Thiên Chúa. Hay đúng hơn là mạc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một giai đoạn mới: Thiên Chúa tự mạc khải trong /qua Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô. Để xứng đáng với hồng ân vĩ đại ấy của Thiên Chúa, các Ki-tô hữu vừa phải tin (trong lòng) vừa phải tuyên xưng (ngoài miệng) bằng lời nói và việc làm.
Trong đoạn Rm 10,8-13 trên, chúng ta nhận ra Lời Thiên Chúa rất gần chúng ta, ở ngay bên, thậm chí ở trong chúng ta. Hơn nữa Lời ấy đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta, làm bầu làm bạn và đồng hành với chúng ta, chuộc hết lỗi lầm của chúng ta để cho chúng ta được hòa giải và sống trong tình yêu của Cha. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta tin trong lòng và tuyên xưng ra bên ngoài. Cách tuyên xưng thuyết phục nhất là sống theo giáo lý, mệnh lệnh, giới răn của Chúa.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 4, 1-13) là đoạn Phúc âm Lu-ca tường thuật cách sống động và tỷ mỷ về những cơn/đợt/chước cám dỗ mà quỷ đã bày ra với Chúa Giê-su trong hoang địa. Quỷ tìm hết mọi cách để kéo Chúa Giê-su ra khỏi vòng thân mật và đường lối của Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su thì nhất định không nhượng bộ Xa-tan một ly một tý nào. Của cải, vinh hoa, phú quý, lạc thú, quyền lực…. đối với Người, chả là gì cả, chả có gờ-ram nào hết! Trước sau Chúa Giê-su chỉ nghe Lời của Cha, chỉ thực hiện chỉ thị của Cha, chỉ tìm kiếm những gì làm đẹp lòng Cha mà thôi!
Qua đoạn Phúc Âm Lc 4, 1-13 này, chúng ta thấy Chúa Giê-su quả là mẫu mực cho cách sống (từ suy nghĩ qua lời nói và đến hành động) quy phục Thiên Chúa với tất cả lòng yêu thương, trí sáng suốt và ý chí kiên cường. Chúng ta hãy học với Người để (a) không bị Xa-tan, thế gian và xác thịt lừa gạt hay gài bẫy và (b) để luôn được sống trong tình thân và sự quy phục Thiên Chúa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là quy phục Thiên Chúa vì Lời Chúa đã dậy chúng ra rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem hàng ngày/tuần tôi sống với Thiên Chúa như thế nào:
Tôi có chạy đến với Thiên Chúa và kêu cầu Người mỗi khi tôi bị áp bức, bóc lột, đau khổ không? Hay tôi chạy đến thày bói, tử vi, tướng số, cầu cơ, bùa ngải, người đời để cậy nhờ trong những lúc gặp khó khăn, bế tắc như thế?
Tôi có cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng hết sức gần gũi, lắng nghe, ra tay cứu vớt và ban muôn vàn ơn cho tôi không?
Tôi có bái lạy và tôn thờ chỉ một mình Thiên Chúa như Người đáng được bái lạy và tôn thờ không (Vì Người là Chúa Tể Vũ Trụ Vạn Vật, là Đấng Giải Thoát, Cứu Chuộc, Quan Phòng và Ban Ơn)? Hay tôi tôn thờ chức quyền, danh vọng, lạc thú, của cải, ma quỉ trong cuộc sống của tôi?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1. Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Vũ Trụ Vạn Vật, Chúa đã dạy chúng con qua ông Mô-sê: “Lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con!” Chúng con cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con: mạng sống, gia đình, vợ/chồng con, đất đai, nhà cửa, tài sản, sức khỏe, công ăn việc làm, hoàn cảnh xã hội…
Chúng con xin lại cho Chúa tất cả những thứ ấy. Xin Chúa chúc phúc và thánh hóa những người thân thuộc và những của cải mà Chúa đã ban cho chúng con. Xin cho chúng con biết dùng những ơn huệ Chúa ban mà làm vinh danh Chúa và sinh ích cho linh hồn chúng con. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Lạy Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và Ban Ơn, Chúa Giê-su đã nhắc lại với chúng con: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh." Chúng con cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con cơm ăn áo mặc và đã nuôi sống chim trời cá biển. Chúa còn ban cho chúng con Của Ăn Thần Linh là Lời Mạc Khải và Bánh Hằng Sống.
Xin Chúa dậy chúng con biết sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn và nhất là nhờ Lời và Mình Máu Thánh Chúa! Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Muôn Loài, là Đấng duy nhất đáng được bái lạy và tôn thờ, Chúa Giê-su đã dậy và đã sống Lời của Chúa: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
Chúng con cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con ơn nhận biết và thờ phượng Chúa. Chúng con xin quy phục Chúa và nhận Chúa làm Chúa, làm Vua của chúng con. Chúng con bái lạy và tôn thờ Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con luôn sống trong sự che chở yêu thương và quan phòng của Chúa. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Sàigòn ngày 07.02.2007
Nhiều người đang góp phần lành mạnh khóa thế hệ trẻ. Một trong những nỗ lực đó là chương trình: MC1-C89:
Nhiều người đang góp phần lành mạnh khóa thế hệ trẻ. Một trong những nỗ lực đó là chương trình đào tạo Những Nhóm Chim Non manh nha từ năm 1992 khi nhạc sư Ngô Duy Linh còn giúp rèn luyện tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, Avondale, Louisiana, Hoa Kỳ: dùng âm nhạc để chuyển hóa nhãn quan và mở hướng cho lớp trẻ có thể nhìn cao hơn lên như Lm. Ngô Duy Linh đã chia sẻ với niềm xác tín về "Sức cảm hóa vạn năng của âm nhạc."
Nhạc sư Ngô Duy Linh từ trần ngày 20 tháng 2 năm 1998 tại Arlington Texas, và được đưa về mai táng tại nghĩa trang Avondale, Louisiana, bên cạnh mộ nhạc sư Hải Linh.
Cuộc đời của Ngài là những cánh nhạc vút bay theo "Thần Nhạc Lên Ngôi" như Ngài đã từng diễn tả. Nỗ lực suốt đời là góp phần đào tạo những cánh chim có thể bay lên được như mẹ mình là chim Tiên, và bay theo lối của đàn chim Dũng Lạc, tức là 117 vị Thánh Việt qua việc tôn phong năm 1988.
Nhóm Chim Non Dũng Lạc vẫn còn sinh hoạt cho đến hôm nay, và mỗi ngày một khởi sắc thêm với sự góp tay của các phụ huynh. Các em được đào tạo thêm về tiếng Việt, hát những bài hát tiếng Việt mang tính học hỏi và thực hành những nét văn hóa căn bản của người mình, và luôn góp mặt với cộng đoàn trong những dịp như Ngày Tết và Hội Chợ.
THỜI ĐIỂM CHIM KHÔNG BIẾT BAY
Ca dao đã diễn tả hiện trạng của nhiều con chim Việt:
Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay.
Chim lại không biết bay, cá lại chết khát dưới nước! Thật là một điều nghịch lý, bất bình thường. Tại sao người Việt vẫn tự coi mình là con của chim Tiên mà bay không nổi?
Câu trả lời được tìm thấy qua một câu chuyện điển hình xẩy ra thực. Tác giả cuốn sách về tâm linh “Vượt Qua Nỗi Sợ” (Let Go of Fear) là Carlos Valles kể lại:
Một hôm ông đang đi dạo ở ven rừng vùng nhiệt đới Á Châu, thì bỗng thấy một hiện tượng khá lạ. Một con chim đang đậu trên cành cây cao mà run rẩy đờ thân ra như không còn sức gì mà bay lên được nữa. Mỏ nó líu lại không sao kêu ra tiếng nổi. Để ý quan sát, thì ông tìm thấy lý do rồi: ở dưới gốc cây là một con rắn hổ mang đang ngóc đầu lên phùng mang hướng thẳng về phía con chim. Thế là con chim như bị thôi miên cứng đờ ra mất hết tinh lực, đứng chờ sẵn để con rắn leo lên làm một bụng no nê. Điều lạ là con rắn thì ở xa mãi dưới gốc cây kia, mà con chim thì ở trên cành cây cao. Nó có cánh bay được và có mỏ hót được. Và nó có cả một bầu trời để tung mình vút cao mà nó làm không nổi.
Thấy cảnh đáng thương như vậy, Carlos Valles bèn lấy một cục đất ném về phía con rắn. Thấy động và thấy sự có mặt của một loài hơn mình, con rắn bèn rụt cổ xuống hậm hực trườn đi chỗ khác, có vẻ tiếc rẻ miếng mồi ngon bỏ qua rất uổng. Và con chim bỗng hoàn hồn tỉnh táo cất giọng hót líu lo và tung cánh bay lên thênh thang.
TIN VUI CÓ THỂ BAY ĐƯỢC
Lý do gì vậy? Con chim không bay và không hót nổi vì nó sợ quá. Nỗi sợ làm nó mờ mắt không còn nhìn thấy gì nữa, quên luôn cả khả năng và bản lãnh của nó. Hay nói đúng hơn là nó chỉ còn nhìn thấy con rắn. Chính cái thấy trong đầu con chim đã giới hạn khả năng của nó, quên rằng nó có đôi cánh và bầu trời thênh thang rộng mở bên trên. Nó đã đánh mất niềm tin vào chính mình nên cũng mất sức.
Cái thấy tạo ra phán đoán và tâm tình. Và tâm tình tạo ra hành động: sợ thì tránh; thích thì tìm. Tâm tình ở đây là sợ hãi; và hành động là run rẩy cứng đờ ra. Như vậy chính cái nhìn và cái thấy trong đầu con chim mới là sức mạnh cột chân và mỏ nó, và đủ sức làm nó bất động.
Tờ The Times-Picayune vùng New Orleans có lần đề cập tới quyền lực đào tạo trẻ em bây giờ bằng một hình ảnh gây ấn tượng rất mạnh: một đứa bé đeo kính, mà hai mắt kính là hai màn ảnh Tivi. Nó được các lái buôn đào tạo để nhìn đời bằng hai con mắt ấy, với hình ảnh đã được tính toán hẳn hòi do những người ngồi đàng sau màn ảnh TiVi, biến cả một thế hệ thành những khách hàng ”không người lái”. Chúng được bơm vào máu những thích thú mới để trở thành những con mồi qua những chương trình hoạt họa rất hấp dẫn và đầy mánh lới với kỹ thuật quảng cáo cao độ. Một thời trẻ em thích ăn Domino Pizza là vì bọn Ninja Turtles mỗi lần đi cứu thiên hạ về đều đưa Domino Pizza xuống gầm cống ăn. Hèn chi trẻ rất mê loạt phim này và đòi mua cho được bất cứ đồ chơi hay gầy dép quần áo nào có hình Băng Rùa. Rồi bây giờ là Power Ranger và còn nhiều thứ "sáng kiến" dài dài.
Những con chim non là thế hệ trẻ cũng đang bị cột chân bất động như con chim bên rừng Ấn Độ. Chúng chỉ được phép nhìn thấy có vậy. Làm thế nào để vượt thoát bay lên được? Con đường vượt thoát chính là đổi được cái nhìn và cái thấy. Đó chính là niềm tin. Harvey Cohen, một nhà tâm lý nổi tiếng đã nói: “Bạn được trao ban khả năng bay được, vì bạn có một cái đầu.”
Con đường nằm ngay trong đầu mỗi người, nhưng cần phải những giây phút dừng chân, vào nơi tĩnh lặng để phản tỉnh. Tin Vui tuần này cho thấy Chúa Giêsu cũng phải phấn đấu chọn lựa cái nhìn tức là niềm tin về chính mình. Ngài đã vào nơi tĩnh lặng bốn mươi ngày để nhìn cho kỹ: nếu chỉ giới hạn con người vào ba nhu cầu hạ đẳng là miếng ăn, quyền chức, danh tiếng, thì con người cũng chỉ là con vật như con phượng hoàng ở vườn đàng sau với đàn gà, cũng chỉ biết tranh mồi, tranh gáy mà thôi. Và sẽ bị cột chân không bao giờ bay lên được.
ĐÀO TẠO NHỮNG CÁNH CHIM NON
Tháng 11 năm 1993 dịp kỷ niệm 5 năm phong thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam do Miền Đông Nam Hoa Kỳ tổ chức tại Baton Rouge, các Nhóm Chim Non Dũng Lạc của nhạc sư Ngô Duy Linh đã góp phần rất đặc sắc nói lên tinh thần cho thế hệ trẻ: tập bay theo con chim đầu đàn là thánh Dũng Lạc, với những bài vừa hát vừa thổi sáo như Âu Ca Dũng Lạc, Đàn Chim Dũng Lạc, Chim Khuyên, Lý Tưởng, Ý Chí, Tác Phong. Lời thì đơn sơ, nhưng có sức nhập tâm rất nhanh để chuyển ra hành động:
Đàn chim Hùng, tung cánh lên. Núi cao nào cũng thấp. Đàn chim Lạc, gieo sướng vui. Khó khăn nào cũng cười.
Là Chim Non Dũng Lạc, em vươn cánh bay cao. Như Tiên Rồng góp sức, Hùng khí Việt anh hào.
Nhạc sư Ngô Duy Linh có lần đã "bật mí" kể về những ước mơ trong đời, và cho biết lý do tại sao lại có thể say mê lặn lội vất vả đi dạy nhạc cho đám trẻ, và đang soạn cuốn Phương Pháp Dạy Nhạc cho Thiếu Nhi.
Năm 1954-1956 nhạc sư theo học sư phạm âm nhạc cho thiếu nhi là Phương Pháp Ward tại Institut Catholic ở Paris. Sau khi thành lập và làm giám đốc đầu tiên Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Huế, năm 1963 có dịp sang Nhật tham dự một buổi họp về nhạc, nhạc sư đã nhận ra một điều là dân Nhật lúc đó từ 61tuổi trở xuống ai cũng biết nhạc và giỏi nhạc. Lý do là từ năm 1907 chương trình giáo dục Nhật đã đưa nhạc vào các lớp như một môn học bắt buộc với hệ số cao nhất ngang với những môn học quan trọng khác.
Mẫu giáo phải học mỗi tuần 3 giờ âm nhạc.
Trung học phải học mỗi tuần 2 giờ.
Môn âm nhạc trong kỳ thi mãn khóa trung học là môn bắt buộc với hệ số 2 như môn toán.
Như vậy tất cả dân Nhật tính đến năm 1963 tuổi từ 20 đến 61 đều đã học âm nhạc liên tục 10 năm. Mà dân Nhật tới 100 triệu người thì trình độ nhạc của đại chúng Nhật cao tới cỡ nào. Người Nhật đã nhận ra ”sức cảm hóa vạn năng của âm nhạc”.
KHI DÂN NEW ORLEANS CHỢT THẤY
Niên học 1997-1998 tại vùng New Orleans bắt đầu với một dấu hiệu lạ: hàng ngàn phụ huynh người Mỹ ghi tên cho con học thêm về nhạc, gia nhập những ban hát, ban nhạc khí nhà trường, các lớp đàn dương cầm, vĩ cầm và sáo… Người ta đã khám phá ra sức mạnh của nhạc mà nhiều dân tộc đã biết từ lâu.
Một nghiên cứu công phu do Trung Tâm về não bộ với việc học và trí nhớ của Đại Học California tại Irvine đã công bố kết quả năm 1996. Nghiên cứu này do bác sĩ Frances Rauscher đứng đầu, so sánh đám trẻ học nhạc và không học nhạc sau tám tháng, thì thấy trẻ học nhạc tăng 46% về IQ, còn trẻ không học nhạc thì chỉ có 6%.
Gwen Hotchkiss giáo sư nhạc tại đại học Loyola công nhận: "Nghe nhạc cũng tăng thông minh. Nhạc có sức tác động bộ óc, dạy cho biết tiết tấu trước sau, nhân sinh ra quả, tăng khả năng lịch thiệp và biết nhìn sự vật trong sự hài hòa". Dĩ nhiên nghe nhạc đây không phải là những thứ bài hát náo loạn làm bong thần kinh và điên cái đầu!
Trẻ có khả năng cảm nhận nhạc rất sớm. Chương trình Kindermusik cho thấy như thế. Trẻ trong vườn trẻ được cho chơi những đồ chơi nhạc khí. Bà Gloria Fisher tình nguyện đến vườn trẻ chơi nhạc với đứa cháu Carolina Liscomb mới có 22 tháng.
Nhà trường bắt đầu áp dụng có nhiều lớp dạy nhạc và nhạc khí như trường Martin Luther King cho biết trẻ có hứng thú mới, thích đi học, đạt điểm cao hơn, tối về nhà đưa kèn saxophone ra thổi serenade cho mẹ nghe thay vì lêu lổng dễ làm mồi cho băng đảng. Người ta sực nhận ra rằng khi chú tâm vào nhạc và thích nhạc, đứa trẻ tự nhiên không còn bị những dẫn dụ bên ngoài làm rối loạn. Nó biết tự tin vào bản lãnh của mình, và trở nên tốt hơn, có tư cách hơn. Chính vì thế mà một trung tâm nhạc vùng nhà giàu ở New Orleans đã viết một câu ngay lối ra vào: Đứa trẻ con nhà giầu mà không biết nhạc thì cũng chỉ là một đứa trẻ nghèo nhất.
Mà khi có chương trình nhạc của nhà trường như vậy thì phụ huynh cũng có mặt nhiều hơn với những sinh hoạt của trường. Và như vậy là lại có thêm một yếu tố then chốt nữa là việc đào tạo chỉ có thể với sự tích cực của cha mẹ.
LÒNG ĐÊ MÊ GIANG CÁNH BAY XA
Nhạc đã có sức lay động, mở lên nhãn quan mới, góp phần đào tạo một thế hệ mới, lành mạnh và có lý tưởng hơn. Nhạc chính là ngôn ngữ của Thần Linh, làm mọc cánh bay cao với nhạc sư Ngô Duy Linh hôm nay, mang theo tâm tình của Tagore trong Lời Dâng:
Lúc Người ban lệnh cất lời ca,
Tôi thấy tim mình như rạn nứt vì hãnh diện vô cùng.
Ngước mặt nhìn Người, mắt tôi ứa lệ.
Trong tôi điệu đục khàn bỗng dưng biến thành hòa khúc dịu êm.
Như chim háo hức băng qua biển cả, lòng đê mê giang cánh bay xa.
Tôi biết lời mình ca làm Người vui thích,
Và cũng hiểu chỉ khi khoác áo ca công mới đến trước Người.
Lời tôi ca vươn cánh rộng dài
Bay đến vuốt nhẹ bàn chân trước kia dám nào ước mơ chạm tới.
Say nhừ vì nguồn vui ca hát, quên bẵng thân mình,
Tôi gọi Người là Bạn, Thượng Đế của lòng tôi.
Người ta vẫn thường bảo: mùa chay là mùa của tĩnh lặng, mùa của lặng yên để mình gặp lại chính: MC1-C90
Người ta vẫn thường bảo: mùa chay là mùa của tĩnh lặng, mùa của lặng yên để mình gặp lại chính mình. Thế nhưng, thật lạ, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, thì mùa chay lại là mùa của CHIẾN TRANH. Một cuộc chiến tranh khốc liệt. Nhưng xảy ra ở đâu? Và giữa phe phái nào? Thưa cuộc chiến ấy xảy ra trong hoang địa, hoang địa của cát khô cỏ cháy, hoang địa của chính cõi lòng. Xảy ra giữa bản thân ta, với những cái bẫy của kẻ thù cực kỳ nguy hiểm nhưng giấu mặt là ma quỷ.
Vào mùa chay, chính là lúc ta rút về chiến tuyến; để kiểm tra lại kế hoạch của mình, cũng như những sách lược mà kẻ thù sẽ tấn công. Dựa theo kinh nghiệm quý báu, từ cuộc chiến một mất một còn hôm nay, giữa ma quỷ tấn công Chúa Giêsu; ta khám phá ra ba sách lược, mà ma quỷ sẽ dùng dể tấn công ta.
1.- Quyền lực kinh tế
“Nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh đi”. Đồng ý rằng: lương thực là quan trọng, nhưng con người sinh ra không phải chỉ để ăn. Ăn uống là quan trọng, nhưng không phải là điều trên hết của con người. Tất cả mọi thức ăn, chỉ để nuôi sống được thân xác. Nhưng nơi con người còn có phần cao hơn, đó là linh hồn. Chỉ mải mê, gầy dựng của cải vật chất, mà bỏ quên phần nuôi sống linh hồn, đó là một thiếu sót to lớn. Nên Chúa Giêsu bảo thẳng với tên quỷ rằng:
“Người ta sống không phải chỉ bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”. Như thế, lời Chúa là lương thực tối cần cho linh hồn con người, ấy là chưa nói tới lương thực khác còn quan trọng hơn là chính Mình Máu Chúa nữa.
2.- Quyền lực chính trị
Làm chính trị, là muốn ngồi lên cao nhất, trên đầu trên cổ mọi người. Thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình, để vang danh một thời, để được tiếng tăm, ca tụng suy tôn. Rất nhiều người đã mải miết đi tìm diều ấy. Và họ đã bất chấp tất cả, kể cả việc quỳ xuống đi bằng hai đầu gối, để mong đạt dược mục đích của mình. Họ có biết đâu rằng: làm thế, là họ đang đi vào vết xe đổ của các Thiên Thần phản loạn ngày nào, cũng như cái quyết định dại dột của bà Eva hôm xưa. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải nhác nhở: ngươi chỉ được thờ một mình Thiên Chúa, là Chúa ngươi.
3.- Quyền lực thiêng liêng
Tự mãn: Đó là điều ma quỷ muốn cám dỗ. Hãy tự mãn nghĩ rằng: Mình là một người đạo đức lắm rồi. Và vì vậy, mình cầu xin gì Chúa cũng phải cho. Mình đạo đức lắm rồi, cho nên mình làm bất cứ điều gì mình muốn, mình thích, Chúa cũng phải đứng kề bên mà phù trì. Nhưng Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Hãy cẩn thận, chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa ngươi”.
Gợi ý suy niệm:
1. Bạn thường tìm gì trong ngày sống của bạn? 2. Nếu phải quỳ xuống trước mặt ma quỷ, để được làm một giám đốc, bạn có làm không?
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về việc cầu nguyện trong MC1-C91
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về việc cầu nguyện trong sa mạc, trong thanh vắng, trong thinh lặng.
Nhìn vào thế giới ngày hôm nay chúng ta nhận thấy khắp nơi đề vang lên những âm thanh ồn ào, con người như chạy đua với vận tốc, vật lộn trong cuộc đấu tranh tìm chén cơm manh áo. Rất ít người biêt tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, tâm sự với Chúa. Rất ít người biết quỳ gối trước nhà tạm trong những giây phút rảnh rỗi. Hành động của con người thời nay thì hời hợt bên ngoài, không thấm sâu vào tâm hồn, nó chỉ dừng lại trên bình diện tự nhiên.
Là người tín hữu, chúng ta phải biết đánh giá và làm việc theo tinh thần đức tin. Điều đó có nghĩa là chúng ta không được gác bỏ những công việc bổn phận thường ngày, nhưng hãy chu toàn một cách siêu nhiên, hãy làm những công việc ấy vì lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Chúa. Có như vậy thì những công việc nhỏ bé nhất cũng có được một giá trị trước mặt Thiên Chúa, bởi vì nó đã được Thiên Chúa chúc phúc, đồng thời nó sẽ đem lại những hiệu quả tốt đẹp như lời Chúa đã phán: Không có Thầy, các con không thể làm gì được. Nếu không có sự yêu mến và gắn bó với Chúa, thì những công việc chúng ta làm, kết quả bên ngoài có thể là rất tốt đẹp, nhưng kết quả bề trong, trước mặt Thiên Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng Giáo Hội được đổi mới, được cứu độ nhờ vào những công việc rùm beng bề ngoài và mang nặng tính cách quảng cáo. Thế nhưng Thiên Chúa lại hành động một cách khác. Con người chúng ta có thể quay trở về với Chúa bằng những phương tiện siêu nhiên và chỉ có thể được cứu rỗi nhờ vào một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà chúng ta hiểu được việc Chúa Giêsu vào sa mạc để cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình, cũng như hiểu được vì sao các đấng thánh, trước khi bắt đầu một công việc trọng đại, nhất là về phương diện tôn giáo, thường cấm phòng, tĩnh tâm, thường tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện với Chúa.
Để canh tân, để đổi mới trái đất này, Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Hơn thế nữa, Ngài còn dùng 30 năm dài để chuẩn bị cho 3 năm sứ vụ của Ngài. Trong khi đó chúng ta thường thích ra tay lèo lái hơn là tồn tâm dưỡng tịnh, chúng ta thường thích hoạt động hơn là cầu nguyện. Bởi đó, giữa sự huyên náo của cuộc đời, chúng ta hãy biết dành lấy cho mình một khoảng sa mạc, một nơi thanh vắng, một thoáng thinh lặng, để thực sự cầu nguyện và kết hiệp với Chúa.
Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của MC1-C92
Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.
Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.
Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.
Cám dỗ có thiên hình vạn trạng
Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…
Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.
Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi.
Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.
Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:
“Một trà, một rượu, một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”
Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”
Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.
Cám dỗ không buông tha bất cứ ai
Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giêsu sẽ chiếm lấy.(Mc 10,37)
Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Do-thái 4,15). Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).
Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. (Gioan 6,15).
Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).
Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám dỗ trong cuộc đời
Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.
Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.
Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giêsu, cầu nguyện với Chúa Giêsu để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.
Bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến cuộc tranh chấp giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Một cuộc tranh chấp MC1-C93
Bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến cuộc tranh chấp giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Một cuộc tranh chấp sẽ còn kéo dài trong những ngày sắp tới và còn tiếp tục trong lịch sử Giáo hội cũng như trong cuộc sống mỗi người, cho đến ngày toàn thắng cuối cùng của Chúa.
Đã là một cuộc tranh chấp thì có hai đối thủ đương đầu: Chúa Giêsu và ma quỉ.
Người Công giáo chúng ta, ai cũng tin có ma quỉ, vì Thánh Kinh đã nói rõ ràng và trong đời sống, chúng ta nhận thấy hoạt động của nó. Tuy nhiên, ma quỉ - những thiên thần ngụy vốn rất khôn ngoan-, biết dấu đầu che đuôi, để làm cho một số người không tin rằng nó có. Cha Ravignan nói: “Cái khôn ngoan của ma quỉ ngày nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không có, để dễ dàng hoạt động”.
Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, chúng ta không nhìn thấy nhưng nhận thức sự hiện diện của nó qua các hoạt động. Ma quỉ thường hoạt động bằng 3 cách: ám ảnh, phá phách, và cám dỗ.
Trước hết, ma quỉ ám ảnh người ta, dùng nạn nhân như dụng cụ để nói năng hoạt động. Chúa Giêsu đã trừ quỉ nhiều lần (Mt 8, 16; Mc 1, 32; Lc 4, 41…). Chúa ban cho các tông đồ quyền năng ấy (Mt 10, 1 & Mc 3, 15). Giáo hội cũng thừa hưởng trong sứ vụ “trừ quỉ”.
Báo Express của Pháp ngày 22-4-1974, đăng tải một bài nói về những vị trừ quỉ, cho biết cả nước Pháp có 8 vị, những linh mục thánh thiện, khôn ngoan và can đảm được chỉ định để làm nghi thức trừ quỉ theo Phụng vụ khi cần đến. Một vị, Cha Henri Gesland, 66 tuổi, nói: “Tôi không cần xem phim Người trừ quỉ-Exorcist-đang làm xôn xao dư luận, vì sự thật mà tôi phải đương đầu còn hơn trong phim”.
Ma quỉ còn phá phách, nhất là những tâm hồn thánh thiện đạo đức. Thánh Gioan Vianney, Cha sở họ Ars, bị ma quỉ phá trong 35 năm và chỉ được buông tha một năm trước khi Ngài qua đời. Ở Việt Nam, câu chuyện chị Anna Diệu thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, nạn nhân của ma quỉ, được kiểm chứng và ghi trong cuốn “Le diable au Couvent” (Quỉ trong Tu viện) của Đức Cha De Cooman.
Nhất là ma quỉ hay cám dỗ chúng ta, xúi dục ta sa ngã phạm tội.
Bài Phúc Âm đề cập đến 3 đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận bị satan cám dỗ. Luca viết: “Thánh Thần đưa Ngài vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ”. Ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì nó cũng dùng ba thứ mồi nhử để lôi kéo chúng ta, là tiền tài, danh vọng và sắc dục.
Cuộc đương đầu với ma quỉ còn kéo dài. Luca viết: “Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác”, thì đối với chúng ta cũng vậy, một nhà tu đức viết: “Đó là cơm bữa hàng ngày”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay hãm mình, để bắt chước Chúa chống lại chước cám dỗ của tà thần.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha).
Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương, vua nước Tần lại muốn xâm MC1-C94
Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương, vua nước Tần lại muốn xâm chiếm nước Thục. Nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh, Huệ vương sai lấy đá tạc hình một con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Huệ vương nhờ đó sẵn lối đi, liền đem quân tiến đánh, cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, vừa để lại trò cười cho thiên hạ.
Vua Thục chỉ vì tham chút lợi nhỏ giả tạo mà mất nước, và số vàng kia cũng quay trở lại vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê nhà vua dại khờ vì đã chọn lựa sai.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa, thử thách. Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống.
Cám dỗ gắn liền với phận người tự do. Bởi tự do chỉ thực sự có giá trị và ý nghĩa khi nó đi liền với chọn lựa. Những chọn lựa thật dứt khoát của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên một thái độ mới trước những thách đố của cuộc sống, đồng thời cho chúng ta cái nhìn chân xác hơn về bản chất của những cơn cám dỗ trong cuộc đời.
Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục làm điều xấu, nhưng còn là những mánh khóe biến giả thành thật, thực thành ảo, là thủ đoạn tô hồng những khía cạnh chân thật, đánh bóng những nhu cầu giả tạo – thoạt nhìn – thật tốt đẹp và cần thiết, nhưng thật ra, đó chỉ là hình ảnh ảo, hoặc một cái nhìn rất phiến diện.
Cám dỗ thứ nhất ma quỷ đưa ra hôm nay là nhu cầu ăn uống, là đánh vào bản năng sinh tồn, đánh vào thân xác luôn đòi hỏi nâng niu, chiều chuộng. Đây quả là một nhu cầu thật thiết thân, nhưng chưa phải là nhu cầu cao nhất, càng không phải là nhu cầu độc nhất. Bởi cứ mải đánh bóng nhu cầu vật chất, nhiều người bị mờ mắt, không còn ý thức đến nhu cầu tinh thần, và nguy hiểm hơn, đánh mất phẩm giá của mình để rơi vào một hình thức nô lệ khác: nô lệ cho vật chất và cái bụng.
Cám dỗ thứ hai là một nhu cầu khác, cao hơn và hấp dẫn hơn nhu cầu ăn uống. Đó là cơn cám dỗ chính yếu của con rắn địa đàng trong bài đọc I hôm nay: “Chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt hai người sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”.
Ngày nay, đó là cơn cám dỗ nhắm vào bản năng đối kháng. Là tìm cách chạy trốn giới hạn cùng những thực tại phũ phàng để bay lên bằng ảo giác của bia bọt và thuốc kích thích,… Là thèm khát địa vị, quyền chức thế gian, nhắm vào khuynh hướng thích ngồi chiếu trên, để thống trị, áp đặt quyền lực trên người khác…
Bởi Thiên Chúa luôn có vẻ như vắng mặt, nên con người rất dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là tiện nghi, sắc đẹp, kiến thức, tài năng,…
Khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn là một khát vọng chính đáng. Nhưng mối nguy của nó ở chỗ điều kiện luôn đi kèm: phải thỏa hiệp với sự dữ. Nhiều người vì muốn thăng quan tiến chức mà phải chạy chọt, gian lận, sống luồn cúi, bất lương và vì thế, họ vô tình “bái lạy” ma quỷ mà không hề hay biết.
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ xảo quyệt nhất. Vì nó không xui giục người ta bỏ Chúa, nhưng khuyến khích người ta chạy đến cầu xin với Ngài để được ban phép lạ. Thực ra, cầu xin không phải là chuyện xấu xa, và một đời sống đạo đức, gắn bó với Thiên Chúa là điều đáng khuyến khích.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khước từ lời đề nghị của quỷ ma, vì xin không phải là thử, lại càng không phải là thách thức Thiên Chúa, đòi kiểm chứng bằng dấu lạ điềm thiêng. Đó là cơn cám dỗ tìm những pha ngoạn mục, kiếm những chuyện thần kỳ, muốn gặt hái những thành công lẫy lừng bằng những chuyện kinh thiên động địa.
Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ, dùng quyền năng Thiên Chúa để trốn tránh khó khăn, nghịch cảnh. Thích phô trương màu mè, nhưng rất ngại nghe Lời Chúa, hoặc mượn danh nghĩa việc tông đồ để cầu danh trục lợi. Không ít người đã từ bỏ, không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì xin mà không được.
Như thế, Ác thần chẳng những dùng điều xấu xa, mà còn có thể lợi dụng việc đạo đức tốt lành để đẩy con người ra xa Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc vì nó tiến từng bước: từ hạ thấp phẩm giá đến tước mất tự do của con người. Sau cùng là chối bỏ, khước từ Thiên Chúa. Cơn cám dỗ càng hiểm độc khi âm mưu nham hiểm được bọc trong lớp vỏ nhung lụa, ngọt ngào, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào sa mạc, vì 40 ngày chay tịnh đầy thử thách, không chỉ như giai đoạn thanh luyện, chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới của Ngài, mà còn là một gặp gỡ, để đón nhận sức sống từ trời cao cho hạt mầm cứu độ đâm chồi nảy lộc giữa lòng thế giới. Ngài đi vào sa mạc không chỉ để đối đầu với thử thách mà còn để sống tâm tình con thảo với Chúa Cha.
Vì thế, sa mạc không chỉ là nơi hoang vu, thiếu thốn, nhiều cạm bẫy đáng sợ, mà còn có thể là chặng dừng quan trọng, là nơi gặp gỡ của những con tim. Con tim Thiên Chúa và con tim nhân loại.
Mùa Chay vì vậy, không chỉ là mùa của kiêng khem, khổ chế trong u sầu than vãn, mà còn là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Bởi những cơn cám dỗ và lời thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa” trong Tin Mừng hôm nay vẫn có đó giữa đời thường, như gắn liền với thân phận đàn con lũ cháu của Ông Bà Nguyên Tổ.
Dù có khoác lớp áo mới hào nhoáng, hấp dẫn, tinh vi, hiện đại hơn, thì cũng là một chuỗi những cám dỗ của thuở đầu tạo dựng. Nếu lo sợ đi tìm một biện pháp giải trừ, tìm một phương cách để chống chọi hay tránh né vẫn thật sự chưa đủ. Điều cần thiết là một định hướng, một thái độ, một cách nhìn. Bởi một khi đã gạt Thiên Chúa ra khỏi những suy nghĩ của mình, chúng ta cũng rất dễ hào phóng mở lòng ra với cơm bánh, của cải và danh vọng. Vì thế, khi chọn bước vào cuộc chiến suốt 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ với thế gian rằng: Con người có thể thắng được những cám dỗ của thế lực tối tăm, nếu biết chọn đứng về Thiên Chúa và sống bằng sức sống của Ngài.
Chọn Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài, là thông điệp mà Chúa nhật đầu Mùa chay hôm nay gửi đến chúng ta, như lời gọi mời một tư thế đứng thẳng, và để lại sau lưng những ươn lười, ngần ngại. Đứng thẳng lên để cùng với Chúa Giêsu đi tới trong cuộc hành trình Mùa chay: nói KHÔNG với cái xấu, cái thấp hèn; nói KHÔNG với lối sống buông thả, gian tà, nhu nhược.
Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là cách nhìn của mỗi chúng ta về những khó khăn, thách đố của đời thường. Bởi những thách đố của cuộc sống hôm nay có thể làm chúng ta lo sợ, tránh né, hoặc thỏa hiệp với tà tâm, bất chính, nhưng cũng có thể là cơ hội cần thiết giúp chúng ta lớn lên hơn, vững vàng hơn, để sống công chính và thẳng ngay trong tư thế đứng thẳng của những người con Thiên Chúa.
Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; MC1-C95
Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô hữu, dầu là các linh mục - tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.
Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Kitô hữu?
Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ - bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.
Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:
- Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?
- Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?
- Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?
Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!
Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu Kitô, cho dầu là…” A-men.
Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai MC1-C96
Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự kiện gắn liền nhau "Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc' (Mt) "và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào samạc' (Mc) "Chúa Giêsu đầy Thánh Thần, từ giã vùng sông Giođan" (Lc), Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.
Ba nhãn quan về chính một sự kiện
Biết rằng Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn; lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một trình thuật và một cốt truyện về căn tính của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài trong lịch sử Israel.
Trình thuật trong ngữ cảnh của Luca
Trình thuật này tự nó hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự khởi đầu ('Chúa Giêsu được dẫn vào trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ"). Cuộc gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật, chia rẽ ("ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu mà chờ dịp"). Nhưng trình thuật của chúng ta là thành phần của một lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22), tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào samạc.
Đọc lại trình chúng ta thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh hiển bởi sự nhận biết ("danh tiếng Người đồn ra khắp vùng"), sẽ được hoàn tất khi thời gian tới; có nghĩa là khổ nạn bất chợt.
Một vở kịch ba hồi
Trình thuật diễn ra theo một trình tự rõ ràng. Trước hết, các diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân vật không cần được giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc của người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị, mô tả tên nó có nghĩa là một chương trình. "Satan" tiếng Dothái ("quỷ" tiếng Hylạp) chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước tiên và trước hết mọi sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán là Con.
HỒI THỨ NHẤT (V. 1-4)
Hồi thứ nhất có khung cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ nét. Đối với con người trong Thánh Kinh, samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở trong tình trạng cần thiết và mỏng giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa ra sự thiếu điều cần thiết này: "Hãy truyền cho hòn đá này biến thành bánh". Như là một gợi ý quy kết một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa. Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương với là Con Thiên Chúa.
Đứng vào cương vị quyền lực: "hãy truyền cho hòn đá này...". Tránh trật tự bình thường của bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma quỷ.
- Ra lệnh: ngươi phải vâng lời: "có lời chép". Nó ẩn chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ.
- Được mời gọi trở lại cách đặc biệt, đồng nhất với con người "người ta sống không nguyên bởi bánh". Đó là cả một chương trình. Đối với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói khác, để làm cho samạc chỉ còn là nơi mong muốn.
HỒI THỨ 2. (V 5-8).
Sự chuyển biến đột ngột ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm hữu lập tức (trong chốc lát), và trong tổng thể( tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử thách, một sự thống trị tuyệt đối trên các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.
Nếu ông là con Thiên Chúa (5,3)
Nếu ông thờ lạy tôi (5,7).
Ở đây, ma quỉ tự vạch trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt phải theo một thần biến hoá và thờ tân lượng có bộ mặt các nước thế gian.
Đối diện với lời đề nghị này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt chính ma quỉ và vị trí của nó: "ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa ". Nó dẫn Ngài lên cao để thử thách nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt ra sự khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.
HỒI THỨ 3 (V 9-12).
Cuối cùng ma quỉ mang Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết của dân Dothái.
Ở đây ma quỉ còn biện minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề nghị này rất (thô thiển). Trong thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ biết thể hiện sự thật bên ngoài. Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại với Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết rõ hơn.
Khi đó, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên. Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường.
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: "ma quỷ lìa bỏ Ngài mà chờ dịp". Để chúng ta hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít nhất là hai dấu hiệu. Trước hết Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ nạn đến, Lc viết: "Satan nhập vào Giuđa Iscariot" (Lc 22,3): đó là dấu hiệu "chờ dịp" hoàn thành.
Sử tính của cuộc cám dỗ
Hình như hiển nhiên rằng trình thuật này không phải được hiểu theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố cục được soạn thảo rất công phu, trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó là một cuộc sáng tạo từ hư không. Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để phân tích tính lịch sử của cuộc cám dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải trong đời sống công khai. Những người Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá và tự cứu mình đi" (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách cũng chính những thuật ngữ mà tên cám dỗ: "Satan, hãy lui ra, ngươi làm cho Thầy vấp phạm" (Mt 16,23). Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ kỳ dị ở một số người Dothái.
Nhưng lời giải thích này có thể rất phù hợp với một giả thuyết khác ở khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu một bước ngoặt trong đời mình, Chúa Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng, thu hút đám đông bằng những phép lạ và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược dòng với những khao khát của quần chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.
Mở ra chiều kích Kitô học
Điểm mạnh của các trình thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức mạnh chuyển tiếp các tường thuật về những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất hiện như:
- Con người ("người ta sống không nguyên bởi bánh") Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự nhiên gian truân của con người nhân loại.
- Người tin gặp gỡ Thiên Chúa của họ được mạc khải trong Sách Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.
- Người con trời gọi đến Thiên Chúa của mình để thoả mãn những nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế, quyèân lực chính trị).
- Người con gặp Cha mình trong khi nghe Lời ở đó con người tìm thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm của sự nhập thể đến tận cùng.
Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài MC1-C97
Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Và như chúng ta đã biết, sa mạc là một vùng đất bao la, hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không người và cũng không vật. Chỗ nào cũng chỉ là bãi cát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng, hết sức khó nghèo. Với thái độ từ bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối. Tinh thần sa mạc như thế là điều chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn sủng củac.
Hình như chúng ta cũng có được đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Chẳng hạn có những lúc chúng ta như bị đẩy vào một sa mạc tinh thần như khi chúng ta bị cô đơn. Có những lúc chúng ta tự tạo ra một sa mạc tinh thần như khi chúng ta sống nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy nghĩ, cầu nguyện và trút bỏ cái tôi cũ kỹ. Mặc dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc, chúng ta có thể tập được nhiều thói quen tốt, có thể uốn nắn sửa đổi lại nhiều khuyết điểm hay là có thể nghĩ tới Chúa nhiều hơn, thế nhưng chúng ta vẫn phải tỉnh thức. Bởi vì chính lúc ấy ma quỷ sẽ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn.
Cơn cám dỗ dành cho chúng ta, tuy vẫn giống như các cám dỗ của Chúa Giêsu, nhưng sẽ được hiện đại hoá. Kẻ cám dỗ chúng ta không phải là quỷ dữ, mà rất có thể là chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nội dung của cám dỗ không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không thấy ghi trong 7 mối tội đầu, nhưng lại nằm trong cả một chương trình đạo đức lớn.
Chẳng hạn thay vì bị cám dỗ biến đá thành bánh, thì chúng ta sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng để mở rộng Nước Chúa. Thay vì bị cám dỗ quỳ lạy ma quỷ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, thì chúng ta sẽ được khuyến khích thoả hiệp với một thế lực xã hội nào đó để có được một thứ quyền lực chính trị với hy vọng sẽ dễ bảo vệt và phát triển quyền lợi Giáo Hội. Thay vì bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống, mà không hề hấn gì nhờ quyền phép thiêng liêng, thì chúng ta sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thiêng liêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo của mình. Tất cả chỉ nhằm làm sáng danh Thiên Chúa của tôi và Giáo Hội của tôi.
Trong những trường hợp như vậy, nếu chúng ta không cầu nguyện và ăn chay trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ và đâu là những phương thế phải dùng để đối phó với những cám dỗ ấy.
Cuộc đời là một chuyến đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm ấm của lòng mẹ để đi vào một MC1-C98
Cuộc đời là một chuyến đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm ấm của lòng mẹ để đi vào một thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ để đi vào một cuộc đời đầy bấp bênh và thử thách. Khi về già, con người cảm thấy mình đứng vên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi dứt khoát.
Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi. Khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham. Ông đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu gian nan vất vả. Nhưng tiêu biểu hơn cả chính là cuộc ra đi của dân Do Thái. Bốn mươi năm trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ chuyến đi nào cũng đều gặp phải. Trong ký ức của dân Do Thái, bốn mươi năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua để sống tốt đẹp hơn.
Kinh nghiệm ấy Chúa Giêsu cũng muốn trai qua trong cuộc lữ hành trần thế của Ngài với 40 đêm ngày trong sa mạc. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn tới cái chết và nhớ đó thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại.
Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách này, Ngài cũng đã gặp phải thử thách và cám dỗ. Nếu dân Do Thái ngày xưa đã gục ngã một cách thảm hại, thì hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng một cách vinh quang. Tất cả ba cơn cám dỗ đều quy về một điểm chung đó là quyền lực và danh vọng.
Đối lại với con đường ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường khiêm hạ của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn con đường của vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là sự chiến thắng của lòng tin tưởng và phó thác, của sự khiêm nhường và vâng phục.
Với chúng ta cũng vậy, đời sống đức tin của chúng ta được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Cũng chào đời, lớn lên và ra đi không ngừng.
Thiết lập mùa chay, Giáo Hội muốn chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu, bởi vì cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi qua sa mạc cát nóng. Thử thách và gian nan là chuyện không thể thiếu vắng.
Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vượt qua sa mạc cuộc đời với những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ với những sai lỗi và khuyết điểm, với những ích kỷ và nhỏ nhoi, với những thất vọng và buông xuôi.
Đồng thời hãy tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta không bước đi và chiến đấu một cách đơn độc lẻ loi, bởi vì có Chúa Giêsu cùng bước đi và cùng chiến đấu với chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài chính là sức mạnh của chúng ta. Cùng bước đi với Chúa, chúng ta không còn phải lo lắng và sợ hãi chi nữa.
Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng ta lại có cơ hội trở về với chính MC1-C99
Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng ta lại có cơ hội trở về với chính mình để sám hối ăn năn. Mỗi người sẽ rất vui khi chứng kiến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và mọi người thân cận trong gia đình dành nhiều thời giờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Những giọt nước mắt ăn năn sám hối và trở về là niềm vui lớn cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn và cả các thiên thần trên thiên đàng cũng vui mừng. Mùa chay như là trạm dừng để giúp cho chúng ta tìm lại được hướng đi, sửa lại những lỗi lầm và trau dồi thêm các nhân đức. Mầu tím mùa chay giúp chúng ta gợi nhớ thân phận tro bụi bọt bèo như mây trôi và gió thoảng. Bản chất của thân xác của chúng ta bởi tro bụi và một ngày nào đó cũng sẽ trở về bụi tro. Mùa Chay không chỉ là mùa của sự than van khóc lóc lỗi lầm, nhưng là cơ hội để chúng ta phấn đấu thắng vượt chính bản thân mình qua việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện.
Tác giả Sách Đệ Nhị Luật đã nhắc nhở cho toàn dân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân Người. Ngài đã bao bọc chở che qua mọi giai đọan thăng trầm của lịch sử. Ngài đưa Dân vào miền đất Ai-cập sinh sống để trở thành một dân tộc vĩ đại. Khi bị người Ai-cập ngược đãi hành khổ, Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt và dẫn đưa về miền Đất Hứa: Thiên Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập (Đnl 26, 8). Cảm nghiệm được tình thương yêu, ấp ủ và đùm bọc của Thiên Chúa, dân chúng đã có những nghi lễ dâng hoa qủa đầu mùa để cảm tạ tri ân: Và bây giờ, lạy Thiên Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con (Đnl 26, 10). Tâm tình biết ơn của cha ông đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lòng tri ân là tinh hoa của cuộc sống con người.
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội để học hỏi, suy gẫm và thực hành sống đạo. Trong bài Phúc âm, thánh Luca đã diễn tả sự kiện Chúa Giêsu vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Các cơn cám dỗ xem ra rất thực tế có thể đáp ứng các nhu cầu đang cần thiếu. Qua nhiều ngày ăn chay nhịn đói, ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu: Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! (Lc 4, 3). Dễ thôi! Chúa có dư đủ uy quyền để biến đổi đá thành bánh cũng như nước thành rượu. Việc biến đổi trong tầm tay nhưng Chúa đã không chiều theo ý của ma quỉ. Chúa Giêsu đã dùng lời trong Kinh Thánh để hướng tới một loại bánh khác cao trọng hơn, đó là bánh lời Chúa.
Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ tìm cách độc hại hơn để cám dỗ: Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông." (Lc 4, 6-7). Thật dễ dàng, chỉ việc bái lạy ma quỉ thì được sở hữu tất cả vinh hoa lợi lộc. Chúa Giêsu nhận diện sự ma quái và ranh mãnh của cơn cám dỗ. Chúa dứt khoát dùng lời Chúa đế đáp trả rằng ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ma quỉ tước đoạt quyền cai trị và tự làm sở hữu chủ. Đây là cạm bẫy khá hấp dẫn. Đã có biết bao nhiêu người đời rơi vào những danh vọng hão huyền này. Các hoàng đế, vua chúa, nhà cầm quyền và các chế độ bạo quyền tham lam dành dật vinh hoa phú quí trần gian, tất cả cũng đã qua đi như cánh hoa phù du sáng nở tối tàn.
Ma quỉ không bao giờ chịu thua. Những nhu cầu vật chất không thuyết phục được, chúng lại giở quẻ mới để thách thức: Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!(Lc 4, 9). Đặt điều kiện, nếu…thì… rất thuyết phục. Khêu gợi sự tò mò và đánh vào lòng kiêu ngạo như xưa thần Lucifer muốn nên bằng Thiên Chúa. Ngày xưa tổ tiên Adong và Evà cũng đã bị sa chước cám dỗ vì những câu hỏi tò mò và gợi lòng tham sân si. Chúng ta lưỡng lự đôi đường chỉ vì luyến tiếc các dịp thỏa mãn bản năng đòi hỏi mà thôi. Chọn lựa thái độ dứt khoát với dịp tội luôn là cửa ngõ dẫn vào sự bình an thanh thản.
Khi một ngày mới mở ra, mỗi người đều có cơ hội làm việc thiện hay việc ác, làm sự lành hay sự dữ, vui hay buồn và có thể thành công hay thất bại. Tất cả tùy theo sự chọn lựa thái độ sống của chúng ta. Việc thiện, điều lành, niềm vui là những dấu hiệu tốt và tích cực. Thành công hay thất bại thì còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chung quanh, nhưng chúng ta vẫn có thể có thái độ lạc quan, vì thất bại là mẹ thành công. Sự quyết định chọn lựa đúng sẽ giúp chúng ta sống an vui và thư thái. Bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cơ hội: Cơ hội có thể tốt hoặc xấu và cũng như có dịp tốt hay dịp tội. Thái độ chọn lựa sẽ dẫn chúng ta đi vào những lối khác nhau có khi nghịch chiều. Có những cơ hội xấu dẫn ta đến cùng đường lạc lối. Khi gặp cơ hội tốt và dịp thuận lợi, việc làm của chúng ta sẽ sinh hoa trái tốt lành.
Người ta thường nói về dịp tội hay cơn cám dỗ, nếu chúng ta không tỉnh thức, ắt sẽ bị rơi vào bẫy sập của ma quỉ. Dịp tội là những cánh cửa đón mời chúng ta tò mò bước vào thế giới ảo. Cơ hội đến với mỗi người qua rất nhiều cách thế khác nhau. Cám dỗ đi vào lầm lạc có rất nhiều lối ngõ. Có những cơ hội lúc đầu xem ra rất đơn gian, nhưng kết cục đưa đến những hậu qủa khó lường. Kinh nghiệm cuộc đời cho chúng ta thấy có nhiều người đã hủy hoại cuộc đời, nên phóng lao đành phải theo lao. Cái xấu này níu kéo cái xấu kia. Cởi nút này lại thắt nút nọ. Đôi khi có người nghĩ rằng đã lỡ, cho lỡ luôn hay đời đã dang dở lỡ bước và dù bước lùi hay bước tới cũng vẫn dở dang. Khi bước vào cạm bẫy thì khó có thể rút chân ra. Trải qua thời gian, có biết bao cơ hội mà chúng ta đã sinh lợi trong gian dối. Nhiều khi chúng ta cũng đang say mê trong lầm lạc, nhưng không muốn nhìn nhận sai lầm. Vì ham danh lợi về của cải vật chất mà chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và đức công bằng. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm!
Sau ba lần cám dỗ thất bại, ma quỉ chờ dịp khác: Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4, 13). Cuộc đời của chúng ta cũng thế, cạm bẫy của sự dữ giăng giăng khắp nơi. Danh, lợi và thú là ba đầu mối của các cơn cám dỗ trong đời sống con người. Cạm bẫy về lợi lộc vật chất, ma túy và say mê trong đời sống thường ngày như: Bài bạc, hút sách, trai gái, nghiện ngập rượu chè, cá độ, tham nhũng, lừa đảo, bất công và các thứ trò chơi bạo lực hại mình và hại người. Cơ hội ban đầu của tất cả các dịp tội cũng chỉ là thử đỏ đen, thử thời vận và thử tìm cảm giác lạ, nói rằng thử thôi mà, không sao đâu! Các cơn cám dỗ lúc nào cũng nhẹ nhàng mời mọc, hấp dẫn, dịu ngọt và có thể đáp ứng ngay những nhu cầu đòi hỏi của ước muốn bản năng. Thời cơ xấu tạo nên dịp tội xấu. Nếu không đủ bản lãnh, chúng ta không nên thách thức, dây dưa và đối đầu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ và dịp tội giống như cái lờ bắt cá có hom. Nguyên tắc của các bẫy sập là sự hấp dẫn của mồi nhử. Sập bẫy chui vào rọ rồi thì khó lòng tìm lối thoát ra.
Trong thơ của thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Rôma, Ngài viết: Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin (Rm 10, 8). Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Tin, tuyên xưng và thực hành lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ: Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ (Rm 10, 10).
Lạy Chúa, chúng con không thể tránh mọi cơn cám dỗ đang bủa vây chung quanh. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.
Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh MC1-C100
Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say – hai là đốt nhà của mình – ba là giết chết vợ mình.
Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra.
Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi.
Quả thật, satan là tên xảo trá. Hắn dùng ngay lời Chúa Cha vừa tuyên bố về Chúa Giêsu ở sông Giođan để cám dỗ Người. Hắn khích Người dùng quyền năng của Con Thiên Chúa để thỏa mãn những nhu cầu riêng tư, nhất là khi việc này xem ra không phương hại đến ai. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của satan một cách dễ dàng như chúng tưởng. Tuy Người đang đói, nhưng cơn đói không là lý do thúc đẩy Người đi tìm thỏa mãn bằng mọi cách. Người trưng dẫn câu chuyện Thiên Chúa cho dân Israel ăn manna trong sa mạc, để cho tên quỷ biết rằng Thiên Chúa là Đấng nuôi sống con cái Ngài. Điều quan trọng không chỉ là cơm áo mà thôi. Chúa Giêsu trích dẫn lời sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan: “Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh”. Thất bại trong cám dỗ đầu tiên, satan lại bày ra mưu kế khác. Chúa Giêsu không chịu thua vì cái bụng thì hắn đánh vào cái đầu.
Tin Mừng theo thánh Luca kể tiếp như sau: “Quỷ đem Chúa Giêsu lên cao và chỉ Người thấy tất cả các nước thiên hạ, rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi và tôi muốn trao cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Satan thật ghê gớm, hắn biết Chúa Giêsu đã quyết định giữ trọn đời mình để thiết lập nước trời mới nơi trần thế, hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho con người. Một lý tưởng thật tuyệt vời. Nhưng để thực hiện thì gian lao vất vả lắm, lại không biết có thành công hay không. Satan dụ dỗ Chúa Giêsu quy phục quyền bính của hắn. Đổi lại, hắn sẽ cho Người chinh phục cả thế gian một cách dễ dàng. Satan đã lầm to, Chúa Giêsu thật sự quyết tâm sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết lập bằng việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một quyền lực nào khác. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu nhắc lại rằng: “Thiên Chúa mới là Đấng nắm chủ quyền trên các dân tộc”, và Chúa Giêsu trích lời trong sách Đệ Nhị Luật để đáp lại: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. Lần cuối cùng, satan quay lại tấn công trái tim Chúa Giêsu: “Nếu Thiên Chúa đã gọi ông là con thì hãy thử xem Người có thật lòng yêu thương che chở ông không hay Người sẽ bỏ mặc ông trong cảnh gian truân”.
Thánh Luca kể tiếp:
Quỷ đem Chúa Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đến đây mà gieo mình xuống đi, vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ lo cho bạn để luôn luôn gìn giữ bạn”. Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ ra tay nâng đỡ cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng dẫn lời thánh vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu nghe theo hắn. Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp tục dùng sách Đệ Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào dám thách thức Ngài để đáp lại lời satan: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Chúng ta vừa cùng có mặt bên Chúa Giêsu khi Người đối đầu với ba cơn cám dỗ của ma quỷ. Chúng ta đã thấy phần nào thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của satan và cũng đã thấy lập trường kiên định của Chúa Giêsu khi Người chống lại hắn.
Tấm gương mà Chúa Giêsu vừa nêu sẽ giúp chúng ta có được thái độ vững vàng khi phải chiến đấu với mưu chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ. Chúng thường tập trung vào ba lãnh vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội văn minh phát triển thì các cơn cám dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý, được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô hại. Nhất là trong thời đại hôm nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và nhu cầu hưởng thụ của con người được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái đầu và con tim của chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay những cuộc biểu dương ồ ạt của sự dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ con chỉ là những thụ tạo mỏng dòn, lại phải sống lăn lộn giữa bao cạm bẫy của satan. Ma quỷ thì tinh ranh xảo quyệt, còn con thì thường lơ là mất cảnh giác, xin Chúa luôn ở kề bên con mỗi khi con gặp cơn cám dỗ. Xin Chúa nhắc con nhớ rằng chỉ có thánh ý Chúa Cha mới là tiêu chuẩn tuyệt đối trong đời người Kitô.