Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 1-50 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới ------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Năm C: -------------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê, một ngọn núi cao khoảng 600 thước, và cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang rực rỡ của Ngài, cũng như một ngày kia cho các ông được chứng kiến cơn hấp hối thương đau của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đau khổ và vinh quang luôn gắn liền với nhau. Thực vậy, mỗi khi loan báo về cuộc khổ nạn, Ngài đều nói :
- Con Người sẽ bị nhiều khổ đau, sẽ bị giết chết nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.
Trong những lời giảng dạy, Ngài cũng cho biết như thế :
- Hạt lúa có mục nát đi thì mới đem lại nhiều bông hạt.
- Người đàn bà khi sinh nở thì đau đớn, nhưng sau đó sẽ mừng vui vì đã đem lại cho đời một người con.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Chính Ngài đã phải trải qua những khổ đau của ngày thứ sáu tuần thánh, để rồi mới có được vinh quang của ngày Phục sinh. Chính vì thế, chúng ta có thể xác quyết :
- Đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới Phục sinh.
Nếu Chúa Giêsu đã đi con đường đau khổ, con đường thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh, thì chúng ta, những người môn đệ của Ngài, muốn tiến tới vinh quang, muốn tiến tới Phục sinh thì cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ, ngoài con đường thập giá.
Thực vậy, giáo lý nhà Phật đã bảo :
- Đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Trong khi đó chúng ta lại bảo đời là một thung lũng nước mắt, như trong kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vốn thường đọc :
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Đứng trước vấn đề đau khổ, nhiều người đã chán nản và tuyệt vọng để rồi xa lìa Chúa, nhiều người đã phẫn uất để rồi chống đối Chúa. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân từ tại sao Ngài lại để cho tôi phải khổ đau ? Thái độ này không giải quyết được gì hết, bởi vì đau khổ chúng ta vẫn phải chịu và nó còn trở nên nguyên nhân gây nên những bực bội và tức tối, những thất vọng và buồn phiền.
Với chúng ta, những người có đức tin thì khác, chúng ta luôn vui mừng và hy vọng, bởi vì đau khổ và thập giá sẽ là như những hạt giống nảy sinh ra cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không dừng lại ở những đau khổ với thái độ bi quan. Trái lại, chúng ta sẵn sàng chấp nhận khổ đau, và hơn thế nữa, chúng ta chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, bởi chúng ta biết rằng sau những khổ đau, sau những thập giá là vinh quang của sự phục sinh. Cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa đông lạnh giá là mùa xuân nắng ấm.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa những vất vả và khổ đau, những buồn phiền và cay đắng trong cuộc sống, vì mỗi hy sinh sẽ là một góp phần nhỏ bé của chúng ta vào vào thập giá Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục sinh với Ngài.
Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Chúa Giêsu biến hình, đặc biệt riêng cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Biến cố Chúa Giêsu biến hình được thánh Luca kể lại liền sau những lời Chúa Giêsu mạc khải cho các tông đồ về cuộc thương khó mà Ngài sẽ phải chịu tại Giêrusalem và những lời Chúa loan báo về con đường thương khó mà những đồ đệ của Chúa phải đi qua : “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Những lời loan báo này có thể làm cho các tông đồ lúc đó chưa hiểu thấu về con người và sứ mạng của Chúa, làm cho các ông phải ngã lòng, nên biến cố Chúa Giêsu biến hình liền sau đó có thể hiểu như là một hồng ân đặc biệt Chúa cho các tông đồ và không phải cho tất cả, nhưng chỉ cho một nhóm nhỏ, cho những ai mà Ngài muốn mà thôi. Và để củng cố lòng tin của họ vào Thiên Chúa, Phúc âm thánh Luca ghi lại biến cố Chúa Giêsu biến hình như sau : Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, tức là những lời : “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta… và Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện”.
Thân phụ của văn hào nổi tiếng người Anh là André Possa thuộc Hàn lâm viện Pháp là một người bạn thân của Đức Thánh Cha. Ông đã hơn một lần tự kiêu và tự mãn công bố : “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ông ấy rút đi, vì không ai thích ông ấy nữa cả “. Rồi chính André Possa sau này trong cuộc đời thanh xuân cũng đã là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Nhưng một hôm ông được đánh động bởi sự hiện diện của Thiên Chúa, nói được là đã gặp được Thiên Chúa biến hình trong cuộc đời ông, nên ông đã ăn năn trở lại và sốt sắng tuyên bố : “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”.
Lời tuyên xưng này trở thành bất hủ vì được chính văn hào André Possa chọn làm tựa đề cho tập sách tự thuật kể lại chính đời sống và cuộc trở lại nổi tiếng của mình : “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài”. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Paris số phát hành ngày 8.3.1988, André Possa đã nói về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của mình như sau : Khi người ta may mắn gặp được Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng.
Chúng ta đã trải qua hơn một tuần lễ của mùa chay, đây chính là thời gian của ân sủng, của sự gặp gỡ Thiên Chúa, của sự canh tân đời sống. Nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta có thể có thái độ kiêu ngạo như thân phụ của văn hào André Possa mời Thiên Chúa đi chơi chỗ khác, mời Thiên Chúa rút lui khỏi cuộc sống của chính mình. Đó là những lúc chúng ta sống không theo lời dạy của Chúa mà theo cái bụng, theo cái lợi lộc ích kỷ của mình. Đó là nếp sống mà thánh Phaolô tông đồ phải buồn sầu mà nói ra với các tín hữu Philipphê sống nghịch lại với thập giá của Chúa Kitô, sống theo mệnh lệnh của cái bụng, của điều lợi lộc vật chất nghịch lại thập giá, sống trong tội lỗi.
Xin Chúa nhân từ cho chúng ta nhận ra được ân sủng của Ngài. Xin Ngài hãy đến đưa chúng ta lên núi và cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô biến hình như là Thiên Chúa vinh quang và đồng thời như là Đấng chịu treo trên thập giá để cứu chuộc con người. Xin cho chúng ta được gặp Chúa và khiêm tốn thốt lên như văn hào André Possa : “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài, và chứng minh rằng ta đã gặp Ngài bằng một đời sống thánh thiện. Lắng nghe lời dạy của Thiên Chúa, mệnh lệnh duy nhất Thiên Chúa Cha truyền cho ba tông đồ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô biến hình trước mặt các tông đồ đó là : “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Một đời sống vâng phục Thiên Chúa, lắng nghe Chúa nói, đọc Kinh thánh, đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, chúng ta hãy để cho chính Lời Chúa biến đổi cuộc sống của mình. Chúng ta thử xét mình xem tôi đã đọc Lời Chúa như thế nào ? Tôi đã gặp được Thiên Chúa Cha chưa ? Xin Chúa thương đến với chúng ta và cho phép chúng ta được gặp Chúa để canh tân đời sống mình trở về với Chúa và với anh chị em xung quanh.
Lời kêu mời của Giáo hội hướng chúng ta sống chay tịnh trong mùa chay này đã bắt đầu được hai tuần lễ. Trong hai tuần lễ vừa qua, chúng ta cũng đã chuẩn bị tâm hồn mình để trở về với Chúa. Dấu hiệu đầu tiên của sự trở về đó là sự tha thứ. Chúng ta không thể nào tha thứ được, nếu chúng ta không có sự khiêm nhường trong đời sống. Trong thánh lễ này chúng ta hãy hợp ý với nhau để xin Chúa cho chúng ta biết sống chay tịnh, biết bắt chước những ngày chay tịnh của Chúa trước khi Chúa dâng hiến chính mình Ngài để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta đang ở vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, chúng ta đã khởi sự mùa chay thánh này vào ngày thứ tư lễ tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày thứ tư lễ tro này ? Thưa rằng, chúng ta đã để cho vị đại diện của Giáo hội xức tro lên trên đầu của chúng ta với dấu hiệu là chúng ta từ bụi đất sẽ trở về đất bụi.
Qua bài Phúc âm Chúa nhật thứ I mùa chay tuần qua, chúng ta đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ mà Ngài đã phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến dũ ma quỉ sẽ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này khi chúng ta sống trong bầu khí của mùa chay. Việc Chúa Giêsu biến hình trước sự hiện diện của Phêrô, Gioan và Giacôbê trong bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta khám phá ra được một sự thực, sự thực đó được diễn tiến như sau : Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ như cách diễn tả của thánh sử Luca chúng ta có thể thấy rằng, biến cố xảy ra vào lúc ban đêm, vì như chúng ta biết là sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu thường đi vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện, ăn chay và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra, đó là việc Phêrô và hai bạn của ông đang ngủ. Dù cho ban đêm, bài Phúc âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây có thể biểu hiện cho khuynh hướng xấu để hiểu cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người. Nó cũng là một trong những điều được thánh Luca diễn tả khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn cho người đọc.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo Chúa Giêsu biến đổi khác thường, ánh sáng chói lòa, nhưng Ngài vẫn là Ngài, Ngài vẫn là Chúa Giêsu Con của Thiên Chúa Cha. Có khác chăng chỉ là diện mạo và sự biến đổi xung quanh, một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Elia và Môisen đến nỗi khi được chứng kiến và chiêm ngắm, các môn đệ hốt hoảng như trong một cơn mê sảng : “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, tôi sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Môisen”. Quả thực, ba môn đệ đã được diễm phúc chứng kiến cuộc đàm đạo trong vinh quang của Thầy Chí Thánh. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác chỉ nói rằng, cái chết của Chúa Giêsu thực hiện tại Giêrusalem, một cái chết không phải là kết thúc chương trình của ơn cứu chuộc, nhưng là một cái chết để sống lại trong vinh quang. Trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thì sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu Kitô là sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn thể hiện trong chính cái sinh hoạt là ăn năn, tha thứ trong 40 ngày chay tịnh. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng, qua những điều này, Chúa Giêsu Người đã lãnh nhận và thánh hóa Bí tích Rửa tội nơi sông Giócđan để trao ban cho chúng ta. Ngài là Con Thiên Chúa, là Con của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại hãy đón nhận Ngài. Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô và hai bạn ông chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới.
Đó là một diễm phúc, chúng ta tham dự trong bất toàn của nhân tính trong con người của Chúa Giêsu, để rồi chúng ta mới được tham dự vào nhân tính bất diệt là làm con Chúa trong ngày phán xét. Biến cố biến hình của Chúa Giêsu không chỉ là mạc khải cho chúng ta nhận biết được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Nhưng biến cố này còn cho chúng ta thấy tính cách của nhân loại, tính cách tối hậu của đời sống hạn chế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố biến hình còn nhắc nhở và vạch sẵn cho chúng ta một cách sống trong mùa chay. Đi sâu vào chay tịnh của mùa chay thánh, chúng ta cần phải nổi bật trong sự vinh quang của Thiên Chúa là nhờ vào việc chay tịnh và thống hối của chúng ta. Anh chị em chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho nhau để sao cho mỗi người sống xứng đáng với ý nghĩa trong mùa chay thánh này.
Mỗi năm, vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng về việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Hiển dung là thế nào ? Là thay đổi hình dạng. Chúa tỏ hình dạng Thiên Chúa, Chúa bộc lộ thần tính của Ngài cho các môn đệ thấy. Nói một cách đầy đủ và đúng nghĩa là Chúa Giêsu để cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin Mừng cho biết : ba môn đệ đã thấy “vinh quang” của Ngài.
Đó là ý nghĩa của việc hiển dung. Còn mục đích của việc hiển dung là gì ? Có hai mục đích : Thứ nhất, Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Chúa ba năm rồi, đã nghe biết bao lời Chúa giảng dậy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, nhưng họ vẫn chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài. Hôm nay, qua sự kiện hiển dung, Chúa cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
Mục đích thứ hai là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết : phải trải qua đau khổ mới vào cõi phúc, cõi hằng sống được.
Cũng như Chúa Giêsu đã dùng sự kiện hiển dung để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận biến cố Vượt Qua, thì Giáo hội cũng làm như thế : trong khi dẫn chúng ta đến chiêm ngắm và tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua như điểm tới của mùa chay, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết : khổ giá mà không có vinh quang Phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Chúa Giêsu đã hiển dung cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng : đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mọi người mong đợi.
Sống trên đời, ai cũng có đau khổ, có mặt trên đời là có khổ : “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Đời người là một chuỗi đau khổ đầy ứ. Nhà Phật thường nói : “Đời là bể khổ”. Kinh Thánh nói : “Đời là thung lũng nước mắt”. Một thi sĩ đã nói : “Đời là cây đàn thất huyền, có một dây vui và sáu dây sầu”. Như vậy, ai cũng có đau khổ, người khổ tinh thần, người khổ thể xác, có người khổ cả hai ; người khổ lúc này, người khổ lúc khác, nên có người đã nói : “Đau khổ là một khách câm, không bao giờ bảo cho chúng ta biết tại sao nó đến phá rối đời chúng ta”. Không ai muốn đau khổ mà tại sao cứ gặp hoài ? Vì đời trần gian là thế.
Chúng ta đều biết : đau khổ tự nó là một điều xấu, chẳng có giá trị gì cả. Nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc, chính là cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu chúng ta chán nản, buông xuôi, thất vọng, thì đau khổ càng đè nặng trên chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Chúa Giêsu, can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống. Bởi vì chính những đau khổ ấy sẽ biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, nhiệt tình hơn, khiêm tốn hơn, biết từ tâm hơn và biết thông cảm kẻ khác hơn.
Do đó, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ kêu trách Chúa, Chúa đâu có gửi đau khổ đến cho chúng ta, Chúa đâu có muốn chúng ta phải đau khổ. Vì vậy, phàn nàn, kêu trách Chúa là oan cho Chúa và xúc phạm đến Chúa. Cũng thế, chúng ta đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi. Nhưng hãy gia tăng cầu nguyện để xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói : “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với tôi, tôi sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Chúng ta nên nhớ : Chúa nói Ngài “nâng đỡ, bổ sức” cho chúng ta chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta đâu. Bởi vì Ngài xuống trần gian không phải để làm cho hết đau khổ, nhưng chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị của nước trời.
Nếu chúng ta biết nương nhờ vào Chúa, Chúa sẽ giúp chúng ta. Người ta kể rằng : một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò đứng lại. Xe bò sụp lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo : “Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy. Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong công việc hàng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, uy quyền hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không nhờ cậy vào Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp ? Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.
Trong Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho dân riêng. Elia đã ròng rã 40 ngày đêm lên núi Horeb để gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa Giêsu lên núi giảng dạy về các mối phúc.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng nói đến việc Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi với Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem : Tại sao Chúa Giêsu lại đưa ba môn đệ lên núi với Chúa ? Cuộc lên núi này có ý nghĩa gì đối với các môn đệ và có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta hôm nay ?
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu, sự sợ hãi ban đầu đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Cho tới lúc Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin vào Thầy là : “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” – tám ngày trước biến cố lên núi – thì hành trình theo Chúa của các ông quả là tràn ngập niềm vui : Thầy đi đến đâu dân chúng đi theo đến đó, để lắng nghe Thầy giảng dạy và để được Thầy chữa lành mọi bệnh tật. Thầy nổi tiếng trò cũng được thơm lây. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như nhóm Biệt phái và Luật sĩ có lên giọng hạch sách, bắt bẻ ư ? Lập tức Thầy liền khóa miệng họ bằng những lời lẽ thật khôn ngoan. Các môn đệ ngỡ rằng hành trình theo Chúa cứ thế mà xuôi chèo mát mái.
Nhưng chính lúc này đây, Thầy lại bảo rằng : “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục khai trừ, bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại”, và chính các ông sẽ phải “vác thập giá của mình để theo Người”. Rồi Thầy hứa thêm rằng : “Một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.
Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy làm sao các môn đệ có thể chấp nhận Thầy bị bắt bớ, bị giết chết. Từng tuyên xưng Thầy là Đấng Mêsia làm sao họ có thể chấp nhận Đấng Cứu Thế cũng phải trải qua đau khổ, sự chết. Từng mơ ước theo Thầy sẽ làm nên sự nghiệp lớn, làm sao họ có thể chấp nhận từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy. Rồi còn lời hứa của Thầy ? Không thể hiểu nổi, không thể chấp nhận, họ hoang mang, lo lắng, thất vọng. Chính lúc này đây, Chúa Giêsu đưa họ lên núi với Chúa.
Ba môn đệ đã được đưa lên núi biến hình với Chúa. Một khi đã leo lên trên đó, các ông được đi vào một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ.
Từ trên núi, Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Người cho các môn đệ. Từ trên núi, Phêrô, Giacô bê và Gioan đã nhận ra được Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến và cao điểm sứ mệnh cứu độ của Người là đón nhận đau khổ và cái chết mà Ngài sắp trải qua tại Giêrusalem. Và các ông cũng phải vác thập giá mình mà theo Người, phải vâng nghe lời Người. Từ trên núi, các môn đệ đã thấy vinh quang của Chúa như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường – con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Nhưng tiếp đó, họ phải xuống núi trở về với cuộc sống thường ngày. Người ta không lên núi để ở lại đó mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường đó là đau khổ và cái chết đang chờ đợi Người và Người đã xuống núi để giáp mặt với đời, để tiếp tục hành trình qua đau khổ, thập giá đến vinh quang. Từ trên núi, Chúa Giêsu cũng muốn đưa các môn đệ xuống núi trở lại với đời thường, trở lại gian lao, thử thách đang chờ họ.
Như thế, từ những người mù mờ về con người và sứ mệnh của Thầy, các môn đệ đã được hé mở cho thấy Thầy chính là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần gian. Từ những người coi khổ nạn thập giá là cớ gây vấp phạm, các môn đệ đã nhận ra khổ nạn thập giá là con đường phải đi qua để đến được vinh quang.
Có thể nói rằng, cuộc lên núi với Chúa của các môn đệ đã thực sự biến đổi ý nghĩa cuộc đời họ. Còn mỗi người chúng ta thì sao ? Cuộc lên núi với Chúa có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta ?
Có thể nói, ba môn đệ trong Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của mỗi Kitô hữu chúng ta. Trong hành trình đức tin, cho dù có say ngủ và thổn thức bất an hay sa lầy trong thói tật xưa cũ trên đường, chúng ta vẫn được Chúa mời gọi lên núi với Chúa. Vẫn có những giây phút chúng ta được đưa lên núi với Chúa : Núi của thánh lễ, núi của những phút giây cầu nguyện, núi của những lần hồi tâm sám hối trở về, núi của những dịp tĩnh tâm mùa chay. Đối với chúng ta, đó là những giây phút lên núi vắn vỏi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó xuống núi với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
Nếu việc Chúa đưa ba môn đệ lên núi với Chúa đã làm cho tâm hồn các môn đệ được bình an, từ đó Người đã cùng với các ông từng ngày một đến gần cuộc thương khó và tử nạn mà Chúa Cha muốn để cứu độ nhân loại. Đối với chúng ta đó là được an bình trong những thử thách cam go, đồng thời tăng thêm nghị lực để chúng ta đi tới với thập giá trên vai, tiến về vinh quang nước trời.
Vấn đề còn lại là chúng ta biết theo Chúa lên núi, ở với Người một đôi phút trong mỗi ngày sống, nhìn thấy Người trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình, của dòng lịch sử cứu độ, và lịch sử con người. Người còn đó khuôn mặt Người rạng rỡ yêu thương, để chúng ta tin tưởng Người và làm hết những gì mà chúng ta có thể làm, để cho từng ngày sống của chúng ta tốt đẹp hơn.
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã đưa các ông lên núi với Chúa, cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin cho các ông trong bước đường khổ nạn sắp tới. Hôm nay, Chúa biết chúng ta cũng yếu đuối, dễ sa ngã. Và như ba môn đệ cũng sắp sửa cùng Chúa bước vào tử nạn, vì thế Chúa cũng mời gọi chúng ta lên núi với Chúa, để gặp gỡ Chúa, sống với Chúa và để Chúa củng cố đức tin cho chúng ta.
Ước mong mỗi thánh lễ Chúa nhật trong mùa chay này thực sự là một cuộc lên núi với Chúa của mỗi người chúng ta. Để nhờ đó, chúng ta có đủ sức mạnh và vững tin dấn bước vào đời, chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận vác thập giá mà không bỏ cuộc, chấp nhận bước theo Chúa trên con đường qua tử nạn – thập giá, đến Phục sinh – vinh quang.
Có sự khác biệt lớn giữa giao ước và hợp đồng. Giao ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân thiện, trái lại, hợp đồng là một sự sắp xếp công việc kinh doanh một cách chặt chẽ. Xã hội của chúng ta không còn có nhiều giao ước nữa, nhưng hầu hết mọi việc thường được xúc tiến bằng hợp đồng. Hợp đồng bị vi phạm, và mất đi sức mạnh ràng buộc của nó, khi một trong hai bên đối tác không thực hiện được phần việc của mình, theo như đã thương lượng với nhau. Thiên Chúa không ký kết hợp đồng với con người ; nhưng Người đã thực hiện một giao ước với chúng ta.
Thiên Chúa là một Thiên Chúa của sức mạnh. Nhưng Người cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Trong cách cư xử với chúng ta, Thiên Chúa chọn lựa đi theo con đường của tình yêu, hơn là con đường của sức mạnh. Thiên Chúa muốn được chúng ta yêu mến, chứ không phải là sợ hãi. Nếu bạn yêu mến một người nào đó, bạn nhường chỗ cho người đó, và tạo cho họ có quyền được là chính bản thân họ. Nếu bạn muốn có quyền lực trên người nào, thì bạn cứ cố gắng kiểm soát người đó, và buộc họ phải làm theo ý thích của bạn, mặc dù họ muốn hoặc không muốn. Nhưng bạn không thể đồng thời vừa yêu thương vừa sử dụng quyền lực, hai yếu tố này xung khắc với nhau.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta phạm vi để chọn lựa. Người không thể dành lấy tất cả mọi quyền lực, và không để lại chút gì cho chúng ta. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì nhiều hơn là chủ đề về một Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật. Đây phải là sự thỏa thuận một cách tự do giữa hai bên đối tác tự do.
Nếu chúng ta vâng phục Thiên Chúa, bởi vì chúng ta e sợ Người, bởi vì quá bị quyền lực của Người áp đảo, đến nỗi chúng ta không dám phản kháng, thì Người chỉ có sự vâng phục của chúng ta, chứ không có được tình yêu của chúng ta.
Bài đọc 1 nói về giao ước long trọng mà Thiên Chúa đã thực hiện với Abraham. Sau câu chuyện cuộc sáng tạo, đây là giây phút chủ yếu trong Cựu ước. Có thể nói rằng câu chuyện cứu độ của chúng ta được bắt đầu ở đây. Thiên Chúa không từ bỏ dân tộc đã bị sa ngã của Người, nhưng thông qua Abraham, Người đã đi vào một tương quan đặc biệt với họ. Mối tương quan này không giống như tương quan tồn tại giữa các bên đối tác trong kinh doanh, mà tương tự như mối tương quan tồn tại giữa vợ chồng. Có thể tóm tắt mối tương quan này trong một công thức, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu ước : “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Không phải Abraham, mà là chính Thiên Chúa, đã đi bước đầu trong mối tương quan này. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Người cũng hứa rằng dòng dõi của ông sẽ có một vùng đất riêng của họ, và nói rằng thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông.
Mặc dù con người đã vi phạm giao ước của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn không từ bỏ họ. Thay vào đó, thông qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Người đã tự ràng buộc mình vào gia đình nhân loại một cách gần gũi hơn, bằng một sự ràng buộc không bao giờ có thể bẻ gãy được.
Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham đã được nên trọn nơi Đức Giêsu. Chính thông qua Người, mà tất cả các dân tộc trên trái đất đều được chúc phúc. Đức Giêsu đã hàn gắn lại giao ước bằng chính máu của Người. Thông qua Người, chúng ta được gần gũi hơn bao giờ hết với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những người con trai và con gái của Người, chúng ta thuộc về gia đình của Người.
Đức Giêsu là người đứng đầu trong dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người đang đưa dẫn chúng ta hướng tới không phải là vùng đất nào đó ở trên trái đất, nhưng là vùng đất của sự sống đời đời.
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng : “Saulê, sao người bắt bớ Ta ?”. Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành tông đồ dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa ; từ gái giang hồ thành thánh nhân ; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng ; từ kẻ khô khan đến người sốt mến ; từ người tham lam, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại sao thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Elia, tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau : “Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác”.
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quí tạo tâm kiêu và bất cẩn Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường chinh” trong âm thầm, chịu đựng, tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị em và của tôi.
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
- Cùng xảy ra trên một ngọn núi : núi biến hình (Tabor ?) và núi Cây dầu.
- Ở hai nơi Chúa Giêsu đều biến hình : ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
- Cả hai sự biến hình đều diễn ra trước ba nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và hai điểm phụ : hai lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.
Nhưng hai cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau : Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó ; trên núi cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. Hai biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm hai biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta : trong ta có một phần là Ađam con của xác thịt, một phần là con của Chúa.
- Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng ; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa quá, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình…
- Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng ; phần Ađam nổi lên lấn át phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ : Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạch Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi cây dầu).
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng “mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn : “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy : họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…Chúng ta cũng thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, “mặt” chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau : khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá. Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy nét mặt thật của mình ? Tại sao người ta hay mang mặt nạ ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình ? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời.
Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài. Sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả. Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta đã có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông…
Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài : vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quí của Ta”. Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che giấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm. Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin, đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời.
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời : Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu. Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói : “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng”.Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được. Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa : lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến. Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết : “Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng : Đây là Con yêu quí của Ta. Ta hài lòng về Ngài. Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hàng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách.
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xảy ra, bèn nói với nhà thiên văn: Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy ?”
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói lòa, cả hai ông Môsê và Elia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá !”. Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn cây dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày : “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biến đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Trong Chúa Nhật vừa qua, lời Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Phụng vụ lời Chúa tuần này lại cho chúng ta biết rằng Đức Kitô chính là Lời của Thiên Chúa, và cũng là Thiên Chúa. Do đó, cùng với việc tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa duy nhất, phụng vụ mời gọi chúng ta cũng đặt trọn niềm tin của mình vào Đức Kitô qua việc lắng nghe lời Người.
Đức Giêsu chính là Đấng đến thực hiện trọn vẹn những gì Cựu Ước đã chuẩn bị và loan báo. Và như thế, Ngài trở nên Đấng Cứu Độ duy nhất mà muôn dân hằng mong đợi. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta cùng đọc lại phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
1. Đức Giêsu, Đấng hoàn tất Cựu Ước:
Trước hết là bài đọc một thuật lại giao ước mà Giavê - Thiên Chúa đã thiết lập với Abram. Lúc đó, Abram đang ở tại Haran, “Thiên Chúa đã dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Và để xác nhận giao ước này, Thiên Chúa đã bảo với Abram: “Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram đã bắt tất cả các con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nữa này đối diện với phân nữa kia… và khi mặt trời lặn… có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi”. Như thế, qua hy tế của các con vật, Thiên Chúa đã thiết lập với Abram một giao ước, chọn ông làm tổ phụ khởi đầu cho một dân, dân riêng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, giao ước này chỉ là hình bóng cho một giao ước mới mà Đức Kitô sẽ lập bằng chính máu của Ngài với toàn thể nhân loại. Trong cuộc biến hình trên núi mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng, chúng ta thấy có hai nhân vật nổi tiếng của Cựu Ước: một là Môisen, đại diện cho Lề luật, và một là Êlia, đại diện cho các ngôn sứ đến đàm đạo với Chúa Giêsu. Mà nói đến Lề luật và các ngôn sứ là nói đến toàn bộ Cựu Ước. Hơn nữa, đề tài mà hai vị này đàm đạo với Đức Giêsu chính là “sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.
Như thế, nhờ sự chết của mình Đức Giêsu đã lập nên một giao ước mới bằng chính máu Ngài đổ ra trên thập giá. Và nhất là với sự phục sinh của mình, Đức Giêsu đã khai mở ra một thời đại mới, thành lập một dân mới đó là Giáo Hội. Giao ước cũ với Abram khi xưa nay đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu trở thành Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thể nhân loại và từng người chúng ta.
2. Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất:
Từ đây, con người không phải trông chờ một Đấng cứu độ nào khác ngoài Ngài. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ Duy Nhất hôm qua, hôm nay và mãi mãi (x. Dt 13, 8). Đây cũng là điều mà Đức Thánh Cha trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu đã nhiều lần nhắc nhở. Chính tuyên ngôn Dominus Jesus (Chúa Giêsu) do Hồng y Ratzinger, tổng trưởng Bộ Đức tin ký ngày 16/6/2000 và được Đức Thánh Cha phê chuẩn vào ngày 6/8/2000 cũng đề cập đến đặc tính cứu độ duy nhất và phổ quát của Đức Giêsu.
Mặt khác, niềm tin vào Đức Giêsu của từng người chúng ta còn được củng cố bởi chính lời phán dạy của Chúa Cha trong cuộc biến hình trên núi của Đức Giêsu mà chúng ta vừa nghe thánh sử Luca thuật lại trong bài Tin mừng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời nhắn gởi của Chúa Cha với các tông đồ khi xưa như còn vang vọng đến mỗi người chúng ta hôm nay. Không chỉ nghe xuông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi đi theo con đường mà Đức Kitô đã đi, đó là con đường thập giá. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta theo chân ngài bước theo con đường thập giá: “Anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi”.
Thánh nhân xác tín rằng: Con đường thập giá đối với người đời là một cớ vấp phạm nhưng lại là con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Đó chính là kinh nghiệm của các tông đồ, như lời chia sẻ của thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Phần chúng ta quê hương của chúng ta ở trên trời, nơi đó, chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chính Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”. cùng chung một cảm nghiệm đó, tác giả Thánh vịnh đã tuyên xưng: “Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?”. Vâng, có Chúa phù trợ và ở cùng, chúng ta không còn phải sợ điều gì, cho dù trước mắt chúng ta con đường thập giá vẫn còn nhiều gian truân, trắc trở. Vịnh gia mời gọi chúng ta: “Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa”. Chúng ta cần “vững vàng trong Chúa”. Chúng ta cần có cùng một niềm xác tín như tác giả Thánh vịnh: “Tôi tin rằng, tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh”.
Tóm lại, cùng với lời tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong Chúa Nhật vừa qua, lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đặt trọn niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, và là Đấng hoàn tất mọi điều Cựu Ước đã loan báo.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cố gắng thi hành điều Chúa Cha phán dạy: đó là nghe lời Đức Kitô, vì đây chính là lời Thiên Chúa, lời hằng sống, lời có sức cứu độ. Lời Ngài sẽ là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, gian truân trong đời sống mỗi ngày. Vì thế, để thực hiện việc lắng nghe này cách cụ thể, ngay từ bây giờ mỗi người chúng ta hãy chú tâm và dành nhiều thời gian hơn cho việc lắng nghe, học hỏi Lời Chúa, nhất là trong Thánh lễ và can đảm sống Lời Chúa đó trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy cố gắng tận dụng thời gian và cơ hội Chúa ban vì sẽ đến lúc chúng ta không còn cơ hội, không còn thời gian và cơ hội thuận tiện nữa đâu.
Nếu mỗi người chúng ta luôn sống dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa, tôi tin chắc rằng gia đình chúng ta sẽ bình an, cộng đoàn chúng ta sẽ an hoà và như thế, không cần nhiều lời, nhưng chính cuộc sống của mỗi người chúng ta sẽ là một lời rao giảng hùng hồn cho mọi người về Tin mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Amen.
Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngưỡng trước vinh quang Chúa Giêsu tỏ hiện cho các môn đệ trên núi- điều mà Người sẽ lãnh nhận trọn vẹn sau khi Người trải qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh.
Trước những biến cố trọng đại, Chúa Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Chúa Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố Hiển dung là một biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Chúa Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.
Điểm khác biệt quan trọng trong Tin mừng Luca so với Mátthêu và Máccô chính ở chỗ đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì dung mạo Người bỗng “đổi khác” chứ không phải “biến đổi” như hai tác giả Tin mừng trên. Sở dĩ Luca sử dụng từ ngữ như vậy là vì trong ngôn ngữ Hylạp và nhất là trong những câu truyện thần thoại, “biến đổi” vốn được hiểu là sự hoá thân, hoá kiếp của một nhân vật nào đó. Đang khi cầu nguyện, nghĩa là đang khi Chúa Giêsu trò chuyện, tâm tình với Chúa Cha, tiếp xúc với Chúa Cha thì chính con người nhân loại của Người đổi khác. Cho hay, cầu nguyện là việc rất quan trọng để có thể đổi mới tâm thần, biến cải con người và là nền tảng cho việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Không phải ngẫu nhiên mà Tin mừng Nhất lãm đều nói đến sự hiện diện của hai nhân vật trong Cựu ước là Môsê và Êlia. Chúng ta biết, Môsê và Êlia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng như trong lịch sử dân Dothái. Môsê đại diện cho Lề luật dân Dothái. Thông qua ông, Giavê Thiên Chúa đã ban xuống cho dân Người những giới luật làm kim chỉ nam, hướng dẫn tinh thần cho dân tộc Dothái. Môsê chính là con người của Biển Đỏ, con người của núi Sinai và là con người của cuộc Xuất hành. Còn Êlia là một Ngôn sứ vĩ đại, ông đại diện các Ngôn sứ. Chính ông là người chịu nhiều đau khổ vì Giavê Thiên Chúa, vì dân tộc Israel để rồi sau đó được cất lên trong vinh quang. Cả hai ông đều có kinh nghiệm tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa và được chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Sinai và Khôrếp. Đặc biệt hơn, khi nhắc đến tên hai ông, Tin mừng Nhất lãm không chỉ chỉ nhắc đến những công trạng của các ông mà còn nhắc đến toàn bộ Kinh thánh Cựu ước (Lề luật + Ngôn sứ = Kinh thánh) mà hai ông đại diện. Mà Kinh thánh Cựu ước là gì nếu không phải là lời loan báo về một Đấng Mêsia chịu nhiều đau khổ để đạt đến vinh quang?
Cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với hai nhân vật Cựu ước xoay quanh cuộc “Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Như dân Dothái xưa đã trải qua cuộc xuất hành, nghĩa là ra khỏi Aicập, ra khỏi sự thống trị, sự đau khổ để vào miền Đất Thiên Chúa hứa ban, thì nay các ngài cũng bàn đến việc Chúa Giêsu sẽ đi qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh để bước vào vinh quang Thiên Chúa.
Về phần các môn đệ, chúng ta thấy trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông vẫn ngủ mê mệt. Điều này cũng giống như khi ở núi Ôliu, đang khi Thầy các ông cầu nguyện và tâm hồn của Người đang trong trạng thái xao xuyến đến nổi “đổ mồ hôi máu” thì chính các ông vẫn thản nhiên ngủ ngon lành khiến cho Chúa Giêsu phải trách : “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (x. 22, 39-46). Điều đó cho thấy các môn đệ chưa được biến đổi, chưa hiểu gì nhiều về người Thầy của mình. Các ông chợt tỉnh và nhìn thấy vinh quang của Thầy mình thì cũng là lúc Môsê và Êlia đang rời xa Chúa. Dù cho Phêrô có nhanh nhảu xin Chúa dựng ba lều hay gì gì đi nữa, tất cả chỉ là những giây phút gây hứng khởi nhất thời mau qua, không đủ giúp các ông trung thành theo Chúa đến cùng. Các ông cần phải được biến đổi và chính Chúa Cha sẽ làm công việc này. Thật vậy, lời của Chúa Cha giới thiệu cho các môn đệ không chỉ chứng thực cho các ông biết người mà các ông đang theo, đang tôn là Thầy, chính là Môsê mới, các ông phải vâng theo mà đó còn là những ân ban của Chúa Cha nhằm củng cố niềm tin vốn đang còn non yếu đồng thời mời gọi các ông biết đón nhận những biến cố trong cuộc Khổ nạn - Phục sinh của Thầy để có thể trở nên những chứng nhân đích thực.
Chúa Giêsu Hiển dung, điều đó cho thấy Người sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, chấp nhận Thập giá để mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng cần được hiển dung, cần được biến đổi khi sẳn sàng chấp nhận một cuộc thanh tẩy tâm hồn, để cho những cạm bẫy tội lỗi, những thú vui chóng qua, những ích kỷ nhỏ nhen,.. ra khỏi con người mình hầu xứng đáng bước đi trên con đường của Thầy Chí Thánh.
Nếu nhìn theo mắt người phàm, cuộc biến hình của Chúa Giêsu xem ra thật hấp dẫn và đẹp mắt. Mà không đẹp, không hấp dẫn sao được khi Tin Mừng của thánh Luca nói:” Đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh rực rỡ”( Lc 9, 28 b ). Chúa biến hình trên núi để tỏ uy quyền và vinh quang của Chúa cho các môn đệ thân tín. Các môn đệ còn ngái ngủ và khi tỉnh dậy, các ông thấy Đức Giêsu chói lòa trong vinh quang. Cái hào nhoáng bên ngoài làm các môn đệ lóa mắt. Các ông vẫn sống trong say xưa của vinh quang Thầy mình. Ngộ giả chỉ thấy vinh quang của cuộc biến hình của Chúa Giêsu, rồi đứng yên ở vinh quang ấy thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu sau này, chắc chắn các môn đệ không bao giờ dám màng, dám nghĩ đến.
CUỘC BIẾN HÌNH CỦA CHÚA GIÊSU LÀ PHẦN THƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA CHA:
Thường Con người sinh ra trên trần gian này vẫn ước mong được may mắn, hạnh phúc hơn là gặp rủi ro, đau khổ. Chấp nhận đau khổ để được sự sống vĩnh cửu sau này là phần thưởng cho những con người có đức tin. Vinh quang, hạnh phúc may mắn đâu có tới dài dài cho cuộc sống của một con người vì nếu cứ luôn luôn được ca tụng, tâng bốc, sáng láng luôn mãi sẽ làm cho con người dễ tự kiêu, tự đại, dễ quên đi Đấng tạo dựng nên họ. Suốt cuộc đời ẩn dật và ba năm rao giảng của Chúa Giêsu cũng vậy, cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời mai ẩn, Ngài ẩn dật và chỉ muốn khiêm hạ để con người nhận ra và tự do yêu mến Ngài. Chúa Giêsu không bắt buộc con người phải tung hô, phải ca tụng Chúa, Ngài mai ẩn và để con người hoàn toàn tự do đến với Ngài.
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi hôm nay cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan là một cuộc đáp trả của Thiên Chúa Cha khi Chúa Giêsu sẵn sàng vâng phục ý Chúa Cha để gánh tội cứu chuộc loài người. Các môn đệ thân tín thoáng thấy vinh quang của Chúa Giêsu, họ đã cảm thấy ngất ngây vì ánh sáng tuyệt vời của Ngài. Anh sáng này là phần thưởng của cả một sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Anh sáng này, Chúa Giêsu sẽ được Chúa Cha trao ban khi Người làm cho Đức Kitô từ trong cõi chết sống lại. Thiên Chúa Cha luôn yêu thương tôn trọng Chúa Con và đáp trả tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu, Con của Người, Chúa Cha đã mặc vinh quang và ánh sáng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được biến đổi ngay trong lúc cầu nguyện ngay trong lúc đang thân mật với Chúa Cha và lúc đó tiếng Chúa Cha làm ta suy nghĩ nhiều:” Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.
CUỘC BIẾN ĐỔI CỦA CHÚA GIÊSU NÓI GÌ CHO TA ?
Các môn đệ sau cuộc biến hình của Chúa Giêsu, lại gặp Ngài với con người thường nhật của Chúa. Và chỉ sau khi Chúa sống lại, các môn đệ lại thấy con người vinh quang của Chúa. Luca khi tường thuật cuộc hiển dung của Chúa Giêsu chỉ ra hai thực tế: thần tính-nhân tính và khiêm hạ-vinh quang liên kết với nhau. Sự việc biến hình xẩy ra khi các môn đệ đang ngủ và sự kiện này gợi ra cuộc thương khó Chúa Giêsu sẽ chịu ở Giêrusalem vì tình yêu vâng phục Thiên Chúa Cha.
Quả thực, mọi người chúng ta đã được Kinh Thánh, Phụng vụ, Giáo Huấn của Hội Thánh dậy bảo nhiều. Với những nghi lễ phụng vụ nghiêm trang, đạo đức và đẹp mắt chúng ta vẫn tham dự, chúng ta trở về với thực tế cuộc sống hằng ngày, Chúa vẫn hiện diện, vẫn đồng hành, vẫn có mặt với ta trong mọi biến cố cuộc đời. Và như thánh Phaolô nói: “Chúng ta phản chiếu sự sáng láng của Chúa, và chúng ta được hiển dung theo cũng chính hình ảnh này càng ngày càng chói sáng”(1 Co 3, 18). Vâng, cuộc hành trình đức tin của ta dù có nhiều thử thách, gian nan, thánh giá, nhưng nếu ta kiên tâm chịu đựng, sẵn sàng đi theo Chúa, chúng ta sẽ gặp được Ngài trong thâm giao êm ái và chắc chắn, ta sẽ được hiển dung với Chúa vì ta được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết kiên tập chịu đựng để chúng con cũng noi gương Chúa làm mọi sự vì tình yêu vâng phục Chúa Cha, xin cho chúng con được hiển dung với Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao Chúa hiển dung ?
2. Biến hình nói gì với chúng ta ?
3. Phêrô, Giacôbê và Gioan có hiểu ngay sự biến hình của Chúa Giêsu ?
1. Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo Ngài thay đổi, y phục chói lòa, sự hiện diện của Môsê và Êlia có ý nghĩa gì?
2. Đức Giêsu có thần tính, vì Ngài là Con Một Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có thần tính và có là con cái của Thiên Chúa không? Thần tính của Ngài và của ta khác nhau chỗ nào?
3. Ý thức về thần tính của mình quan trọng thế nào trong sự phát triển tâm linh? Bj không ý thức về nó, ta có sử dụng được nó không?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa mặc khải thần tính của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng nói về việc Thiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các ngôn sứ loan báo mấy trăm năm trước. Trong đời sống thường ngày ở bên cạnh Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được nhân tính của Ngài. Vì Ngài sống không khác bất kỳ một người bình thường nào: cũng ăn, uống, cũng vất vả, mệt nhọc, cũng vui buồn, tức giận… y hệt mọi người. Nếu có gì khác thì chỉ là Ngài làm được những phép lạ phi thường. Điều này chỉ gợi ý cho các ông nghĩ rằng Ngài là một người phi thường tương tự các ngôn sứ xưa mà thôi, vì các ngôn sứ ngày xưa cũng lắm khi làm được những phép lạ.
Nhưng hôm nay Thiên Chúa tỏ cho các ông thấy Đức Giêsu không chỉ có nhân tính, mà còn có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh. Tuy nhiên, tất cả những gì các ông thấy hôm nay chỉ là những biểu tượng thần bí nói lên bản tính thần linh nơi con người Đức Giêsu mà các ông không thể thấy được bằng trí tuệ hay con mắt xác thịt của các ông.
- Trước hết các ông thấy: «Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà». Tin Mừng Matthêu nói: «Dung nhan Người chói lọi như mặt trời» (Mt 17,2). Và có tiếng phán từ trong đám mây «Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!». Đó là những biểu tượng cho các ông thấy Đức Giêsu có thần tính: Ngài là Con Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa.
- Các ông còn thấy «có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia». Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật pháp, vì ông là người lập ra luật pháp, nền tảng thành văn của Do Thái giáo. Êlia, ngôn sứ vĩ đại nhất, đại diện cho các ngôn sứ là những tiếng nói của Thiên Chúa giữa con người. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. Trong sách Đệ Nhị Luật, Môsê viết: «Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy» (Đnl 18,15). Còn Êlia được ngôn sứ Malakia tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giêsu đến: «Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng» (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến (x. Mt 17,10-12; MC 9,12-ABC13).
2. Thần tính của chúng ta, những người Kitô hữu
Đức Giêsu có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh, cũng là Thiên Chúa. Thế còn chúng ta, những con người được Thiên Chúa tạo dựng thì sao? Kinh Thánh mặc khải cho ta biết con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6), được tạo dựng «giống như Thiên Chúa» (St 1,26b). Hình ảnh của một người không phải là người ấy nhưng giống hệt như người ấy, khiến ai nhìn vào hình ảnh ấy có thể phần nào thấy được chính người ấy. Hai vật hay hai người đã gọi là giống nhau, nhất là khi nói người này là hình ảnh của người kia, ắt phải giống rất nhiều điểm, hay rất giống ở những điểm cốt yếu. Người và chó đều có thân xác vật chất (cũng có đầu, mình, tứ chi, mắt mũi, v.v…), nhưng không ai nói người và chó giống nhau. Vậy, con người «giống như Thiên Chúa» ở chỗ nào?
Thánh Phêrô hé mở cho chúng ta biết: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Như vậy, điều khiến con người giống Thiên Chúa chính là bản tính thần linh mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta. Bản tính thần linh chúng ta có được là do Ngài thông ban cho khi tạo dựng nên ta, khác với bản tính thần linh ở nơi Ngài là do tự bản chất vốn có của Ngài.
Nếu không có bản tính thần linh này trong chúng ta, chúng ta không bao giờ có thể nên thánh như Thiên Chúa đúng như Đức Giêsu đã mời gọi ta được: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Cũng như con chó không có bản tính người nên không thể có những đặc tính như con người (suy nghĩ, nói năng, yêu thương, hướng thượng, tự do…). Thiên Chúa tự bản chất là tình thương và là thánh, con người vì giống Thiên Chúa từ bản chất nên cũng có khả năng yêu thương và nên thánh. Vua Đavít đã được thần hứng để nhận ra và nói lên chân lý này: «Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao» (Tv 82,6; x. Ga 10,34-35). Nếu chúng ta không có bản tính thần linh, chúng ta không thể là con cái Thiên Chúa đúng nghĩa như Kinh Thánh vẫn nói: chúng ta «là con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6). Chính vì chúng ta có thần tính mà Đức Giêsu dám quả quyết: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Điều quan trọng để thần tính ấy hoạt động là đức tin.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, biểu tượng nói lên bản tính thần linh của các tông đồ là: «có một đám mây bao phủ các ông». Tiếng của Thiên Chúa phán ra từ đám mây, vì thế đám mây tượng trưng cho thần tính. Và trong bài đọc II, thánh Phaolô cho ta thấy nguồn gốc hay «quê hương của chúng ta là ở trên trời» (Pl 3,20; x. Dt 11,16). Đó cũng là một biểu trưng cho thần tính của chúng ta.
3. Ý thức bản tính thần linh của mình và sống với bản tính ấy là cốt tủy của đời sống tâm linh kitô hữu
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu cho thấy bản tính thần linh của Ngài. Chỉ những ai được Thiên Chúa mặc khải mới biết bản tính ẩn dấu này ở nơi Ngài. Thần tính của Đức Giêsu là thần tính thường hằng, không thay đổi. Còn thần tính của chúng ta là thần tính cần phải vun trồng mới phát triển. Có thể minh họa điều này bằng sự phát triển của một cái cây. Thần tính được Thiên Chúa thông phần và ươm sẵn trong chúng ta tương tự như một cái hạt có thể nảy mầm và phát triển thành cây tùy theo sự vun trồng, chăm sóc của mỗi người. Nếu không có sự quan tâm, chăm sóc, vun trồng, thì cái hạt tâm linh của ta vẫn mãi mãi là một cái hạt, hoặc nếu có nẩy mầm thì sẽ thành một cái cây èo ọt, không sinh hoa kết trái. Trái lại, nếu được vun trồng và chăm sóc cẩn thận, nó sẽ phát triển thành một cây lớn với cành lá xum xuê và sinh nhiều hoa trái. Dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu (x. Mt 13,31-32; MC 4,30-32; Lc 13,18-19) có thể áp dụng cho thần tính hay Nước Trời, được ươm giống trong bản thân mỗi người chúng ta.
Điều quan trọng nhất để hạt giống thần linh hay mầm thần tính ấy phát triển là phải tin vào thần tính ấy, thường xuyên ý thức về nó, và sống phù hợp với thần tính ấy. Nếu không có thần tính, chúng ta không thể có sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh. Nếu không ý thức về thần tính ấy, sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh của ta không phát triển được. Thật vậy, làm sao sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh có thể phát triển khi ta không hề ý thức mình có nó hay không hề cảm nghiệm được nó nơi bản thân? Càng ý thức về nó, càng sống phù hợp với ý thức đó thì tâm linh càng phát triển cùng với sức mạnh và quyền năng của nó. Người có đời sống tâm linh phát triển - tức người ý thức mạnh mẽ và thường xuyên về thần tính của mình - sẽ luôn luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc, đầy tự tin vào sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa nơi mình. Thánh Phaolô kể ra những hoa trái của đời sống tâm linh hay sự sống bằng Thần Khí ấy: «Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-ABC23). Ý thức thường xuyên về thần tính của mình là một hình thức cầu nguyện và kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu. Nó sẽ đem lại một sự thay đổi sâu xa trong đời sống tâm linh của ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã thông ban thần tính hay sự sống siêu nhiên của Cha cho con người ngay từ khi tạo dựng nên con người. Con người sẽ hạnh phúc biết bao khi biết và ý thức được điều ấy, nhất là khi hưởng được hoa trái của thần tính ấy trong đời sống hằng ngày của mình. Xin cho con ý thức được ân huệ cao quí ấy mà Cha đã ban cho con. Đừng để con giống như người có một kho tàng vô cùng lớn lao nhưng không hề biết đến nên không hưởng được một ích lợi nào từ nó cả. Amen.
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ nạn của Người sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba tông đồ sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Chúa trong Vườn Cây dầu. Việc ba Tông đồ phản ứng về cuộc Biến hình của Chúa đáng cho ta lưu ý. Thoạt tiên các ông tỏ ra phấn khởi với thị kiến biến hình, nên Phêrô đại diện ba Tông đồ thốt lên: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Lc 9:33). Cái hiệu quả của thần linh hiện diện khiến họ say mê đến nỗi muốn lưu trữ kinh nghiệm biến hình để làm bảo vật bằng cách xin dựng lều ở lại. Tuy nhiên khi nghe tiếng từ trời phán, họ lâm vào tình trạng sợ hãi.
Người Kitô giáo sống đức tin cũng có thể trải qua những kinh nghiệm biến hình nào đó trong cuộc sống. Có những khi họ phấn khởi trước tiếng gọi nên thánh. Đôi khi việc bày tỏ sự thánh thiện không là gì khác ngoài cảm giác cao hứng sống đạo giống như hiệu quả của thuốc kích thích thần kinh. Sách tu đức thần bí diễn tả cái hiện tượng khác thường như vậy là xuất thần hoặc bay bổng. Tuy nhiên những cảm giác đạo đức khác thường như vậy không bảo đảm cho sự thánh thiện. Người Kitô giáo cũng không nhất thiết phải có cảm giác thiêng liêng về đạo giáo như vậy. Đôi khi người ta nghe những lời phàn nàn cho rằng đạo giáo không giúp gì cho đời sống của người theo đạo được thay đổi. Người ta thấy không có gì khác biệt giữa người Kitô giáo và người không phải Kitô giáo. Cách suy tư hay lý luận như thế chẳng qua nảy sinh ra từ cái tiềm thức muốn thấy đức tin phải tạo ra những gì khác biệt hay những hiệu quả kỳ diệu.
Những người mang tâm trạng như vậy ôm áp cái ảo tưởng cho rằng đạo giáo phải cung ứng cho họ những cảm giác đạo giáo khác lạ. Có những người đòi hỏi Chúa làm cuộc biến hình trước mắt họ, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ cho họ thấy những việc kỳ diệu trước khi họ đặt tin tưởng vào Người. Họ muốn đi tìm những cảm giác thiêng liêng về đạo giáo. Nếu có cảm giác rồi, họ muốn đi tìm thêm nữa, nghĩa là họ nghiền cảm giác. Họ để cho cảm giác điều khiển cuộc sống thiêng liêng, nghĩa là khi cảm thấy thích thú thì họ giữ đạo, còn không thì bỏ cuộc.
Họ là loại người nhanh chân đi tìm đến những nơi mà người ta cho rằng có phép lạ hay hiện tượng lạ. Cái tính tò mò về đạo giáo của họ là muốn có kinh nghiệm bằng cảm giác, và khi cái tò mò tính của họ không được toại nguyện, họ đổ lỗi cho đạo giáo, đã không cung ứng cho họ cảm giác. Hôm nay ta cần nhận thức rằng cảm giác chỉ là cảm giác. Ngay cả cảm giác về đạo giáo cũng chỉ có ích lợi tới mức mà có thể là khởi điểm của việc hoán cải nội tâm, hoặc là khởi điểm cho việc thiết lập mối liên hệ gần gũi với Chúa. Ước mong quá nhiều cảm giác đạo giáo, hay tuỳ thuộc quá nhiều vào cảm giác đạo giáo là dấu hiệu chưa trưởng thành về đời sống đức tin.
Người công giáo không thể chỉ mong Chúa làm phép lạ biến hình cho thấy vinh quang của nước Chúa, hoặc cho họ cảm giác đạo giáo như là điều kiện để theo Chúa và để sống đạo. Người công giáo không thể để cho cảm giác đạo giáo điều khiển cuộc sống, như là hễ có cảm giác vui, hứng khởi về đạo giáo thì mới giữ đạo và thực hành đức tin. Người công giáo phải nhớ rằng không phải hết các tông đồ đều được thấy cảnh biến hình của Thầy mình, mà chỉ có ba ông được thấy. Và Chúa căn dặn các ông đã thấy cảnh biến hình ‘ không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’ (Mt 17:9). Phúc âm ghi lại các Tông Đồ ‘tuân giữ lời căn dặn đó’ (MC 9:10) và ‘suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.’ (Lc 9:36). Các Tông đồ không thấy cảnh biến hình của Chúa cũng đã chấp nhận hy sinh, đau khổ và thánh giá. Vậy nếu thấy được cảnh Chúa biến hình, hoặc nếu có được cảm giác đạo giáo, thì là điều tốt. Tuy nhiên người Kitô giáo không thể để cho cảm giác điều khiển cuộc sống. Chỉ có quyết định mới là quan hệ, vì những quyết định người ta làm bây giờ sẽ định hướng cho tương lai của cuộc đời. Để được tham dự vào cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, người Kitô giáo phải sẵn sàng vác thánh giá Chúa gửi đến, chứ không phải chỉ tìm cảm giác vui thích và hứng khởi về đạo giáo.
Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối giòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã
quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Yêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu đem Phêrô, Yoan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Yêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Yêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Yêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các ki-tô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Yêsu. Chính Đức Yêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Yêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
Một trong những trách nhiệm của người chủ chiên là phải canh chừng đoàn chiên không cho chúng đi lạc lối. Chúa Giêsu vẫn thường dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên trong lời giảng dạy của Ngài. Một trong những dụ ngôn đẹp nhất là "Dụ Ngôn Về Đàn Chiên Lạc." Lập đi lập lại Ngài miêu tả mình là một "Chủ Chiên Tốt Lành" với những người theo Ngài.
Nếu bạn hỏi bất cứ một người chăn chiên nào họ cũng sẽ nói với bạn là các con chiên không bao giờ được tự rời khỏi đàn chiên và đi lạc như là một hành động bất tuân quyền hành của chủ mình. Con chiên không bao giờ tự quyết định là không theo người chủ của mình nữa. Ngược lại, nó cứ quanh đi quẩn lại một cách lơ đãng không chú ý về sự nguy hiểm. Hễ khi nào nó thấy một đống cỏ tốt hơn chỗ nó đang ăn, thì nó chạy lại, và cứ như thế cho đến khi nó đi lạc. Một người chăn chiên lành nghề đã nói rằng con chiên đi lạc là bởi vì nó cứ lân la gặm cho đến khi lạc.
Trong đoạn thứ sáu của Phúc Âm Thánh Máccô có diễn tả một đoạn về Chúa Giêsu, về thể lý, Ngài đã mệt mỏi, và Ngài đã nói với các môn đệ của Ngài tìm chỗ để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, cả ngàn người đã ồn ào kéo đến muốn nghe Chúa Giêsu giảng dạy và không để cho Ngài được nghỉ yên. Khi nhìn thấy dân chúng, Chúa Giêsu thương xót họ như những đàn chiên không người chủ chăn, và Ngài bắt đầu giảng dạy họ (MC 6:34). Không một chút nghi ngờ, một số người lắng nghe, và một số thì không; một số người đã chú ý và một số người thì lơ đãng; một số người đã thực hành lời họ nghe được, và một số thì không; một số hiểu rõ và có những nhận thức mới về Lời Chúa; còn một số khác thì cứ từ từ gặm và lạc lối.
Điều mà chúng ta đang nói là những gì mà các cuốn sách "giúp chính mình" đã nói tới. Đó là chúng ta cần phải tìm lại con người thật của mình. Đó là chúng ta cần phải tập trung vào bản chất của chính mình. Đó là chúng ta cần phải đào sâu xuống cõi lòng của mình và xem coi điều gì cản trở bước tiến của mình.
Vấn đề là ở chỗ nhiều khi chúng ta đã cố gắng để tiêu hóa tất cả những thứ đó, tuy nhiên chúng ta vẫn cứ từ từ gặm cho đến khi mình bị lạc lối. Sự tai hại của rất nhiều người là họ bắt đầu từ một chỗ sai lối, đi tìm chính mình. Cách giải quyết tốt nhất cho các cơn khủng hoảng không bắt đầu từ chỗ đi tìm mình, nhưng là Thiên Chúa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, sức mạnh vô biên của Chúa được tỏ hiện với ba người môn đệ của Chúa Giêsu trên núi biến hình. Ở đó, trong sự hiện diện của Phêrô, Giacôbê, và Gioan, vinh quang của Chúa Kitô được mặc khải với ánh sáng chói lòa. Sau đó, một giọng nói từ trời phán với ba môn đệ, "Đây là Con Ta yêu dấu, Người Ta tuyển chọn. Hãy nghe Lời Người!" (Lc 9:35).
Hãy nghe Lời Ngài, hỡi tất cả mọi người trên thế giới đang bận rộn lo gặm cỏ và để cho mình đi lạc lối. Hãy nghe Lời Người!
Những ai tự đem mình lên sẽ bị hạ mình xuống, và những ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Ai muốn làm lớn ở trong anh em, thì hãy phục vụ mọi người.
Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta là con cái của Thiên Chúa tình yêu, tất cả đều đáng mến trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải biết nhìn nhau bằng cũng con mắt đó, biết kính trọng nhau, yêu thương nhau. Trong khi chúng ta làm những điều đó, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa Tình Yêu.
Nói về Thiên Chúa thì có lẽ quá sức tưởng tượng của nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, trong con mắt Thiên Chúa, nếu chúng ta biết trung thành để giữ các điều Ngài truyền dạy, thì chúng ta sẽ tìm thấy được câu trả lời về con người của mình.
Nếu chúng ta còn chưa biết đem ra thực hành những lời Thánh Kinh dạy, thì chúng ta còn đang gặm cỏ dần dà rồi đi lạc hướng luôn.
Khi cầu nguyện, chúng ta đừng có ra lệnh cho Chúa. Chúng ta chỉ cần khiêm nhường tỏ bày tâm sự của mình với Chúa, bởi vì những ai khiêm nhường thì sẽ được nâng lên. Chúng ta cùng cầu nguyện:
Xin cho con, trong những lúc mệt mỏi, được một chút phấn khởi. Xin cho con biết phục vụ tốt hơn đối với những người mà con đang phải cố gắng chiến đấu. Xin cho con, trong lúc bị cám dỗ, được một chút dũng lực. Xin cho con được biết chiến đấu mạnh mẽ với tất cả nghị lực của con. Xin cho con được biết sống hiền lành với những người yếu đuối hơn con. Xin cho con được biết nghĩ đến những người đang sống chung quanh con.
"Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui..." Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu đã chẳng phải chọn một niềm vui. Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.
Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ. Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha. Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình: khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22). Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.
Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha. Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ. Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường. Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia. Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng. Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác. Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu, nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó. Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu, ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.
Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Đêm bừng sáng như ban ngày! Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ, đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh. Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.
Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:
"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn",
và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: "Hãy vâng nghe lời Người".
Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu tỏa sáng thật cần thiết. Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem. Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy, để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).
Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người. Vinh quang ấy lóe sáng lúc Ngài biến hình trên núi. Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.
Vinh quang tỏ tường chỉ bừng tỏa khi Ngài trở lại.
Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi. Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại, với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.
Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng. Và chúng ta cũng cần được biến hình.
Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.
Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.
Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.
Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?
Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.
Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: "Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi".
Gần đèn thì sáng.
Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng tỏa: "y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng".
Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.
Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.
Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.
Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng... Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.
Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.
Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.
Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.
"Các ngươi hãy nghe Ngài": một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?
"Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới": Bạn có tin điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
(c.28) Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã xảy ra vài ngày sau khi Ngài "nói những lời ấy". Lời ấy là điều Chúa dạy các môn đệ trong câu 23-27 "Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình... ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất".
(c.28) Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng bằng lời cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trước khi làm các phép lạ. Ngài dạy các tông đồ cầu nguyện. Trong đoạn Kinh Thánh hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang cầu nguyện khi Ngài biến hình. Như chính Chúa Giêsu đã dạy trong đoạn 11:13, Thánh Thần sẽ được ban cho những kẻ cầu xin.
(c.29) Áo trắng tượng trưng cho niềm vui và liên hoan. Các thiên thần hiện ra mặc áo trắng, chói lòa lúc Chúa Giêsu sống lại, và lúc Chúa Giêsu lên trời.
(c.30) Ông Môsê và Êlia là hai nhân vật trong Cưụ Ước. Ông Môsê tượng trưng cho Lề Luật của Chúa; Ông Êlia là tiên tri đã truyền Lời Chúa cho dân. Sự hiện diện của hai ông là dấu chỉ việc Chúa Giêsu làm phù sẽ hợp với lề luật và ý Thiên Chúa.
(c.31) Chúa Giêsu sẽ làm việc gì? Hai vị bàn với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành, có nghĩa là cái chết Ngài sẽ chịu tại Giê-ru-sa-lem. Hình ảnh thương khó được lồng trong khung cảnh biến hình vinh quang của Chúa Giêsu.
(c.33) Khi ông Phêrô nói muốn dựng lều cho Chuá Giêsu, ông "không biết ông nói gì" vì như sách Tông Đồ Công Vụ đoạn 7:48 chép rằng "Đấng Tối Cao không ở trong nhà do tay người làm ra".
(c.34) Đám mây biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa.
(c.35) "Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!". Thiên Chúa giới thiệu Con, là Đấng sẽ trở về với Cha qua thập giá.
Hãy vâng nghe Chúa Giêsu, và đi theo Người. Con đường đến sự sống đời đời phải đi qua đau khổ.
Suy Niệm
Tôi nghe Chúa Giêsu như thế nào? Làm sao tôi biết đó là tiếng NgàI? Tôi có thể làm gì để giúp tôi nhận ra tiếng Ngài rõ ràng hơn?
Khi tôi không làm theo ý tôi, tôi cảm thấy khổ sở. Hồi tưởng lại, đâu là những lần, vì làm theo ý tôi (thay vì nghe lời người khôn ngoan hơn) mà tôi đã bị những hậu quả xấu (về nghề nghiệp, chọn lựa tình cảm, v.v.).
Quan niệm về sự trọn hảo/ viên mãn (fullness) là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các bài đọc. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mạc khải sự trọn hảo của Lề Luật và Sấm Ngôn khi Ngài xuất hiện cùng với ông Môisê và ông Êlia trước mặt các tông đồ; và Ngài cũng bày tỏ sự trọn hảo vượt xa bản tính con người của Ngài khi Ngài tỏa sáng và biến hình. Bài đọc I ám chỉ lời hứa đặc biệt dành cho Apram được viên mãn nơi Đức Giêsu Kitô. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy chúng ta biết sự trọn hảo của Đức Giêsu được thông ban cho các kitô hữu là những công dân nước trời, vì Người "sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người."
SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Đức Giêsu Kitô, sự Viên mãn tuyệt đối. Từ "tròn đầy" (fullness) được dùng để nói về khả năng của một vật hay một người. Nhưng nó không chỉ dùng để nói về giá trị định lượng (sức chứa của một cái ly hay một cái bình) nhưng chính yếu là để chỉ giá trị phẩm chất (tình yêu tròn đầy, ơn cứu độ sung mãn). Sau cùng, ý niệm này không nằm ngoài lề lịch sử, nhưng đúng hơn là liên kết chặt chẽ với lịch sử (sự trọn vẹn của năm lịch sử, của một triều đại). Những điều vừa nói trên giúp ta hiểu rõ hơn ý niệm về Đức Giêsu là chính sự viên mãn. Trước hết, chính bản thân của Ngài đạt đến sự viên mãn nơi sự kiện biến hình, nhân tính của Ngài đã tràn ngập trong vinh quang thần tính, và tiếng từ trời công nhận Ngài là "Con Yêu Quý". Trong chính kinh nghiệm biến hình, Đức Giêsu đạt được sự viên mãn của mạc khải, tập trung nơi hai khuôn mặt của Cựu Ước, tượng trưng cho hai phần quan trọng trong mạc khải của Thiên Chúa: Luật hoặc truyền thống chữ viết (Môsê) và Sấm Ngôn hoặc truyền thống truyền khẩu (Êlia). Đức Giêsu là đỉnh cao mà cả Lề Luật và Sấm Ngôn đều vươn tới. Đức Kitô cũng là sự trọn hảo của lời hứa cho Ápram: được chúc phúc, được đất đai và được sung túc.
Quả vậy, Chúa Cha đã ban cho ta mọi ân phúc trong Đức Kitô, Ngài cho ta thông hiệp vào trời mới đất mới, Ngài đã làm cho ta thành một dân mới sinh hoa kết quả bằng chính máu cứu độ của Con Ngài. Cũng vậy, Đức Giêsu cũng là sự viên mãn của lịch sử. Lịch sử được nêu ở đây đã đạt đến cùng đích của nó trong cuộc đời tại thế của Đức Giêsu Nagiarét. Trước khi Ngài xuất hiện trong lịch sử, mọi việc đều quy chiếu về Ngài; sau khi Ngài rời bỏ thế giới này, Đức Giêsu vẫn là chuẫn mực của lịch sử và mọi người nam nữ bước theo Ngài với ý thức rằng họ không thể vượt qua Ngài về sự trọn hảo trên bình diện nhân tính và thiên tính. Sau cùng, sự viên mãn của Đức Giêsu không chỉ lấp đầy mà còn vượt lên trên lịch sử. Thật vậy, sự trọn hảo của Đức Kitô, mà chúng ta chia sẻ nhờ ân sủng, sẽ đổ tràn ngập trên chúng ta khiến chúng ta trở nên những người con trong Người Con (Chúa Con). Nước trời hiện nay không gì khác hơn là sự viên mãn của Đức Kitô hiện hữu trong mỗi con người được cứu chuộc.
Sự Viên mãn của Đức Kitô thách đố chúng ta. Điều này đã xảy ra cho Ápram, vì lời hứa và giao ước của Thiên Chúa với ông chỉ đạt được sự tròn đầy nơi Đức Giêsu. Ápram tin tưởng và vâng phục Thiên Chúa, nhờ đó đã mở ra cánh cửa lịch sử hướng đến Đức Kitô. Sự viên mãn của Đức Kitô thách đố Môsê, vì có thể nói mười giới răn mong ước được kiện toàn nơi Luật của Đức Kitô - sự viên mãn của mười giới răn và các luật lệ của con người. Sự viên mãn của Đức Kitô thách đố Êlia, vị giải thích lịch sử trung tín cũng như bao vị ngôn sứ chính danh khác sẽ tiếp nối, vì ý nghĩa đích thực và dứt khoát chỉ được Đức Kitô trao ban nơi thập giá và từ công trình cứu rỗi của Ngài. Thực vậy, Đức Kitô không chỉ là một Vị giải thích khác đối với một phần của lịch sử nhưng Ngài chính là Vị giải thích cao cả và tối hậu của lịch sử và của toàn lịch sử nhân loại. Sự viên mãn của Đức Kitô thách đố Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những môn đệ đã được ban cho một kinh nghiệm duy nhất về mầu nhiệm của Đức Kitô để chuẩn bị cho sứ mạng tương lai; qua các vị đó, Đức Kitô cũng thách đố tất cả chúng ta, là môn đệ và tông đồ của Ngài. Sự viên mãn của Đức Kitô thách đố Phaolô và các kitô hữu, những người được Đức Kitô nâng lên hàng công dân Nước Trời, phải sống sao cho xứng đáng với địa vị này và không phải để trở thành thù địch với thập giá Đức Kitô. Đức Kitô, từ nơi Ngài mà chúng ta nhận được sự trọn hảo, thách đố hết mọi người, vì Ngài là con người viên mãn và cũng chính là sự viên mãn cho con người.
GỢI Ý MỤC VỤ
Chúng ta nhận lãnh tất cả từ sự viên mãn từ Đức Kitô Sự Viên mãn của Đức Kitô và việc mỗi người thông phần vào sự Viên mãn này không phải là điều gì do Đức Giáo Hoàng hoặc các Đức Giám Mục sáng nghĩ ra; nhưng đúng ra đó chính là một phần của mạc khải kitô giáo. Giả như một tín đồ Phật Giáo, Do Thái giáo, hay Hồi Giáo được yêu cầu loại bỏ đi một phần của các sách thánh của họ, hoặc một tín điều mà họ xem như mạc khải linh thiêng, họ sẽ phản ứng thế nào? Làm sao ta lại có thể từ bỏ điều mà chính Thiên Chúa đã cam kết? Là kitô hữu, chúng ta phải là những người trước tiên chứng tỏ rằng mình cư xử theo mạc khải kitô giáo gồm cả Cựu ước và Tân ước. Để cư xử đúng theo niềm tin của mình người kitô hữu chúng ta phải tỏ ra kính trọng đối với các tín đồ của các tôn giáo khác, nhưng chúng ta cũng phải yêu cầu họ trân trọng niềm tin của chúng ta. Về phần người kitô hữu, đây là một sáng kiến hay khi dùng những hình thức đơn sơ và thuyết phục để giải thích sự Viên mãn của Đức Kitô, chẳng hạn : Viên mãn là gì và ảnh hưởng thế nào trong mối liên hệ với các tôn giáo khác, sự Viên mãn giải thích thế nào về ơn cứu rỗi phổ quát mà Thiên Chúa muốn, làm thế nào để chúng ta hiểu nhau hơn, nhờ đó tránh sự hiểu lầm, hàm hồ và lợi dụng. Người ta đang nói nhiều về đối thoại liên tôn và đại kết. Điều nay thật tuyệt nhưng nên nhớ rằng nền tảng cho mọi sự đối thoại phải là sự tôn trọng con người và căn tính của người mà ta đối thoại. Chúng ta hãy nói về chân lý kitô giáo với lòng bác ái và tôn trọng. Chỉ như thế mới có được một cuộc đối thoại đích thực và hiệu quả đối với những ai đang tìm kiếm và yêu mến chân lý.
Một cuộc sống được "biến đổi". Cảm nghiệm của Phêrô, Gioan và Giacôbê chỉ xảy ra trong giây lát. Tuy nhiên, hiệu quả còn kéo dài trong suốt cả đời. Phải chăng đó là một điều không thể nào quên được và có hiệu quả biến đổi sâu xa? Trong đời sống chúng ta đã và sẽ có những giây phút "biến hình", khi đó ta cảm nghiệm hạnh phúc sống động trong Chúa. Đôi lúc, cảm nghiệm này kéo dài trong chốc lát hoặc có khi suốt đời, nhưng thường thì cường độ của cảm nghiệm đó không còn nữa sau đó. Tuy vậy, nó vẫn để lại dấu ấn. Tôi gọi dấu ấn ấy là "cuộc sống được biến đổi", Nói cách khác, cuộc sống của những người đã và đang nhìn thấy mặt Thiên Chúa trong những cảnh huống và biến cố cuộc đời họ. Họ nhận ra Thiên Chúa nơi đứa trẻ năng động, dễ thương cũng như nơi đứa trẻ tàn tật. Họ nhận ra Thiên Chúa nơi đôi mắt trong sáng của một thiếu nữ có tâm hồn trong sáng tận hiến toàn cuộc đời cho Thiên Chúa. Nhưng họ cũng nhận ra Thiên Chúa nơi đôi mắt của cô gái điếm bị bó buộc trong công việc cưỡng bức này để mưu sinh và để giúp đỡ cha mẹ, con cái. Họ nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong hình bánh rượu, cũng như khám phá ra những tia sáng cứu chuộc từ sự cứng rắn của một lương tâm chai đá và lỗi lầm. Tất cả đều được biến đổi, bởi vì một cách nào đó tất cả đều mang chính hiệu là được Thiên Chúa tạo dựng. Lm Phêrô Phạm Ngọc Lễ
Lobsang Rampa là một thiền sư Tây tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm "Con mắt thứ ba" (Le troisième oeil. Collection "J'ai lu". Viện Văn hóa Nghệ thuật VN đã dịch nó thành "Các lạt ma hóa thân"). Ở trang 51-52 (bản việt ngữ), tác giả viết rằng: "Theo khoa học Huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn hay "Chân Ngã"... Quanh con người có một vầng hào quang thô thiển phản ảnh nguồn sinh lực bên trong. Một người thánh thiện hay khỏe mạnh thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân. Một người tội lỗi hay yếu đuối thì hào quang mờ tối, thu sát vào thể xác.
Khai mở Thần Nhãn để quan sát vầng hào quang này, ta có thể biết được chân tướng mọi người mọi vật hay tình trạng sức khỏe của một người để chữa bệnh... Đúng kỳ sinh nhật thứ 9 của tôi, tôi được đưa vào một căn phòng đặc biệt. Bốn vị Lạt Ma Trưởng Lão trong đó có sư phụ tôi cũng đến đó truyền dạy cho tôi những phép bí truyền để khai mở Thần Nhãn... Sau chín tháng công phu luyện tập, tôi đã thành công... Lần đầu tiên tôi mở mắt ra quan sát chung quanh, một kinh nghiệm lạ lùng xảy ra khiến tôi xúc động. Tôi thấy cả bốn vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa. Về sau tôi hiểu rằng các vị Trưởng Lão đã có một đời sống rất tinh khiết mới có được hào quang như vậy. Khi tôi khai mở Thần Nhãn, tôi phát hiện những rung động khác nữa, xuất phát từ cái trung tâm hào quang đó. Nhờ đó tôi có thể đoán biết tình trạng sức khỏe của một người ra sao. Cũng như thế, bằng cách xem sự thay đổi màu sắc của hào quang, tôi có thể đoán biết kẻ đó nói thật hay nói dối"...
Không biết trong câu chuyện Biến hình (hay Hiển dung) hôm nay, ba tông đồ thân tín có được Đức Giêsu bất ngờ ban cho Thần Nhãn như vị thiền sư Tây tạng trên kia chăng. Nhưng dẫu có hay không, thì cuộc Hiển dung của Đức Giêsu (và chứng từ của Lobsang Rampa) tiết lộ cho chúng ta hai chân lý. Một là về Đức Giêsu, hai là về chính chúng ta.
1. Dung mạo của Đức Giêsu
Trước hết, có lẽ ta dễ bị cám dỗ nghĩ rằng trong đêm Biến hình như Luca kể, thần tính của Đức Giêsu đã đột ngột làm vỡ tung các dáng vẻ phàm nhân của Người. Nhưng như đã được mạc khải cho ta, mầu nhiệm thần tính-nhân tính của Người không phải là việc đặt cận kề một cái bên trong và một cái bên ngoài, một nhựa sống sôi trào và một cái vỏ bình dị, song là một sự tương nhập trọn vẹn giữa hai. Ánh chói của Đức Giêsu hiển dung là một sự mạc khải vinh quang Thiên Chúa, vinh quang làm sáng tỏa một con người. Cuộc Hiển dung là lễ mừng các khả năng của con người được đẩy tới cực độ, lễ mừng cuộc thần hóa chúng ta.
Tác giả Tin Mừng chồng chất những nét huy hoàng: y phục trắng tinh chói lòa, Môsê và Êlia rạng ngời vinh hiển, và cuối cùng là vinh quang của Đức Giêsu. Nhưng lời ghi nhận đáng kinh ngạc thán phục nhất, dù vẫn rất kín đáo, đó là kỷ niệm mà ba môn đệ đã giữ về khuôn mặt Đức Giêsu: "Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác". Ở đây, tác giả Hugues Cousin giải thích: "Mặc lấy vinh quang có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng tinh như ánh chớp có nghĩa là Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đàng. Như thế, Đức Giêsu như tạm thời mặc trước nguồn vinh quang phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng sau khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chận luồng vinh quang ấy chiếu tỏa ra từ thân thể Người"
Chúng ta như vậy trở thành những người chứng kiến cái khôn tả, của thời gian vỡ tung và của không gian mở rộng. Quá khứ tôn giáo đồ sộ có đó với Môsê và Êlia; tương lai mở ra với việc đàm thoại về "cuộc xuất hành" của Đức Giêsu, nghĩa là cuộc tử nạn, phục sinh và thăng thiên của Người. Nhưng đặc biệt chính vĩnh cửu đã hé mở cho hiện tại rồi. Việc diện đối diện thường xuyên và bí ẩn của Đức Giêsu với Cha Người được tiết lộ cho chúng ta trong chốc lát. Đang khi cầu nguyện, khuôn mặt Đức Giêsu đổi khác và giọng nói của Chúa Cha mời chúng ta chiêm ngưỡng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!"
Dĩ nhiên, chúng ta không được chiêm ngưỡng Đức Giêsu như các tông đồ, tuy nhiên chúng ta có đức tin được Tin Mừng soi sáng. Hôm nay, dung mạo "đổi khác" của Người, dung mạo vinh quang của Người, phải giúp chúng ta nhớ lại các khuôn mặt khác của Người: Ngôi Lời, bác thợ mộc Nadarét, bậc thầy khôn ngoan, kẻ bị đóng đinh, con người sống lại, vua vinh hiển bên hữu Chúa Cha và Đấng quyền năng sẽ tái lâm ngày tận thế.
Trên mọi khuôn mặt ấy (mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô phong phú biết bao!), cuộc Hiển dung dạy chúng ta nhìn hai cặp thực tại liên kết với nhau: thần tính-nhân tính và hạ mình-vinh hiển. Khi nói đến một mầu nhiệm đêm tối ("Họ ngủ mê mệt") và khi nhắc đến "những gì sắp hoàn thành tại Giêrusalem" (cuộc Khổ nạn nhưng cũng là cuộc Phục sinh), Luca làm nổi rõ mặt tối và mặt sáng của cuộc sống mà Cha của Đức Giêsu và nhân loại đã tạo cho Người. Tuy nhiên, mặt tối chỉ là tạm thời, là điều kiện cho sự phát huy mặt sáng trong ngày Phục Sinh. Muốn biến hình (transfiguré) trong vinh quang, Đức Giêsu cần phải biến dạng (défiguré) trong đau khổ trước đã.
2. Dung mạo của chúng ta
Tiếp đến là mầu nhiệm chúng ta: "Chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, thánh Phaolô nói, như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn" (2Cr 3,18).
Phải chăng đó là một lý tưởng hơn là một thực tại? Đúng, nhưng ở đây có lẽ chúng ta cũng thiếu ý chí chiêm niệm. Cho dẫu dè sẻn trên điểm này, các phương tiện truyền thông vẫn nói với chúng ta về nhiều kẻ biến hình và đôi khi trình bày khuôn mặt họ cho chúng ta thấy. Câu chuyện của thiền sư Lobsang Rampa ở đầu bài là một ví dụ. Chung quanh chúng ta, chúng ta chẳng bao giờ thấy nhiều khuôn mặt bừng sáng sao? Như khuôn mặt của Mẹ Têrêxa thành Calcutta, khuôn mặt của Đức Gioan-Phaolô II chẳng hạn!
Mà thậm chí trên nhiều khuôn mặt bị hành hạ hay bị giằn vặt, chúng ta vẫn có thể khám phá, giữa hai đau khổ, "một dung mạo hoàn toàn khác": thánh Maximilien Kolbe, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng mà vô số hình ảnh đã được Chúa quan phòng trao lại cho thế kỷ này. Đôi lúc, ngay sau hơi thở cuối cùng, sự tỏa sáng biết bao! Trên khuôn mặt của một người bạn, chết rất trẻ vì ung thư, một linh mục nọ đã thấy vinh quang qua thập giá. Trong cuốn "Cha Đa-miêng, Tông đồ người hủi" (Tủ sách Ra khơi 1956), trang 118 đã có viết rằng: "Sáng thứ hai, 15/4/1889, cha Đa-miêng đã tắt thở trong cánh tay thầy Giắc một cách dễ dàng như người ngủ. Ngài đã sống được 50 tuổi. Một phút sau, bao nhiêu vết phong hủi ở mặt Ngài đều biến mất, Đó phải chăng là triệu báo Cha đã được vinh hiển. Không còn bị một chuyện gì mờ ám, tên tuổi "người hủi tình nguyện" sắp sửa chiếu giãi ra trên thế giới như "một ánh sáng tinh ròng".
Ta hãy trở lại với khuôn mặt của chính chúng ta. Có lẽ chúng ta đã không để lộ ra cho đủ bình an, niềm vui sâu thẳm của mình, lòng nhân hậu của mình. Có nhiều khuôn mặt cứng cỏi, khó chịu, lo lắng, soi mói, hãi sợ (nhất là sợ cường quyền) khiến ta tự hỏi phải chăng mình đang đứng trước một đứa con của Tin Mừng. Có thể đó chỉ là vẻ bên ngoài, nhưng trong trường hợp này, cũng đáng bỏ công làm cho khuôn mặt đẹp lại, cố công cách khiêm tốn, cách vụng về, nhưng với sự kiên trì, trở thành một hình ảnh của Chúa Hiển dung theo mức độ chúng ta.
Ngành điện toán đang tiến những bước nhảy vọt, nhất là từ khi có mạng lưới toàn cầu. Tin tức, sách báo, hình ảnh, âm thanh, từ khắp nơi trên thế giới được chuyển qua mạng lưới một cách nhanh chóng và tiện dụng. Nhưng trước đây mỗi lần vào mạng lưới thì tiếng Việt mình gặp trục trặc lớn, vì "ngôn ngữ" mạng lưới không hiểu những ký hiệu đánh dấu chữ Việt, thành thử chỉ hiện lên như một rừng rậm ngổn ngang khó mà đọc ra chữ gì. Rồi lại có nhiều kiểu đánh dấu khác nhau, thành ra càng làm rối thêm, vào mạng lưới mà gặp tiếng Việt là bị vướng lưới liền!
Mới đây VNI đã giúp gỡ được tình trạng vướng lưới bằng một đóng góp quan trọng qua việc cho ra thị trường một phương cách "luyện mắt thần" là web-eye. Con mắt này đã tài tình hiểu được và xếp lại mọi lộn xộn thành thứ tự nếp nang, nên có thể đọc được tiếng Việt một cách dễ dàng. May quá. Cám ơn anh Hồ Việt và VNI.
CẦN LUYỆN MẮT THẦN
Tình trạng vướng lưới này không chỉ trong ngành điện toán với mạng lưới toàn cầu, nhưng trong nhiều hoàn cảnh cuộc sống. Tự nhiên cái bị lưới chụp xuống, càng giẫy càng bị vướng thêm!
Truyện kể về một ông vua Ấn Độ thời nước Anh còn "bảo hộ". Một hôm ông vua này được đưa sang "mẫu quốc" để chiêm ngắm những kỳ công vĩ đại mà bái phục. Một trong những trò mới lạ mà Ấn Độ chưa bao giờ có là bóng đá. Trận bóng đang diễn ra thật hào hứng, khán giả hò hét vỗ tay rầm rộ, kể cả vua nước Anh ngồi bên cạnh cũng đứng lên tán thưởng theo hứng khởi của mọi người. Nhưng ngược lại ông vua Ấn Độ thì luôn nghiêm nghị và tỏ dấu tội nghiệp những " bể khổ trầm luân" của đám cầu thủ. Một hồi lâu chịu hết nổi, ông đứng lên xin ra về, và không quên rút ra trong túi một bó tiền bảo cận thần: "Đi mua cho mỗi cầu thủ một trái banh. Gì đâu mà hơn hai chục đứa tranh nhau có một trái!"
Cũng giống như truyện một bà cụ lần đầu được đi tham dự một buổi hòa tấu và trình diễn những bài hát đa âm. Mọi khi bà vẫn thưởng thức những bài hát câu nào ra dấu đó nên hôm nay bà chê ra mặt: "Hát chả ra làm sao cả! Gì mà lộn xộn quá chẳng đều nhau, đứa này phải hát đuổi theo đứa kia, bè trên bè dưới chia rẽ chẳng biết đoàn kết nhất trí!"
Như vậy cứ nói là chia rẽ hay đoàn kết thì nghĩa cũng tương đối lắm. Nhiều khi tự tạo cho mình và đè trên cổ người khác những khổ đau và khó chịu không cần thiết. Cũng chỉ tại chưa luyện được con mắt để nhìn rộng hơn cái vốn khư khư nhốt giam trong đầu mình.
ƯỚC CHẤM GỎI LÊ THỊ THÀNH
Nhà xứ Lê Thị Thành ở New Orleans "chuyên trị" một loại nước chấm gỏi nổi tiếng, ai ăn được một lần là quên mọi thứ nước chấm khác. Vì cách pha chế tài tình biến thành khoái khẩu như thế mà được đặt tên là Nước Chấm Gỏi Lê Thị Thành,dung hóa được những chanh chua, mắm mặn, đường ngọt, riềng ớt cay. Ấy cũng là để ca ngợi một người mẹ, một thánh nữ duy nhất của Việt Nam, đã biết "điều quân" biến chế mọi mùi vị cuộc đời thành "khúc hát dâng tình".
1. Trộn mắm và chanh, quấy khoảng 1 giờ, mắm thơm dần ra. Có thể dùng máy đánh trứng mà đánh cho nhàn và nhuyễn hơn. Nên để ngoài trời hay dưới máy hút cho khỏi hôi nhà. 2. Nấu nước sôi, pha đường, để nguội. 3. Rang mè cho vàng, để nguội. 4. Riềng xay hay giã. Riềng tươi thì ngon nhất. Có thể dùng riềng nhiều hơn nếu thích.
CÁCH PHA CHẾ
Sau khi đã quấy mắm xong, lấy mắm pha với nước đường, quấy cho đều. Cho riềng, rượu lễ, ớt (tùy thích ăn ớt hay không), quấy đều. Nếm thử, nếu thấy nhạt thì thêm nước mắm vào, nếm cho vừa. Đây là lúc khá quan trọng.
Khi ăn, đổ mắm ra tô, rắc mè lên cho thơm và đẹp.
Mắm dùng để ăn gỏi cá, thịt nướng, bún. Tuyệt lắm, khỏi chê vào đâu được.
TIN VUI GỬI NGƯỜI GẶP RỐI (Tuần 2 Mùa Chay)
Trên đây là một đoạn trích trong sách Đường Nở Hoa Lê Thị Thành. Những trái nghịch trong cuộc sống thì nhiều lắm, gỡ cái này chưa xong thì lại sinh ra cái khác! Mà nhiều khi càng gỡ càng rối càng vướng thêm!
Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ một lối gỡ rối khác với những nhà truyền đạo khác: là phải biết nhìn ra cái ích lợi của nghịch cảnh để nối kết, dung hóa và biến chế thành niềm vui mà thưởng thức. Nghịch cảnh như những màu sắc tím xanh đỏ vàng, như những xung khắc cạnh tranh trong sân thể thao, như những trầm bổng trong một bài hát đa âm, như chanh chua, mắm mặn, riềng ớt cay... Mọi sự xem ra trái ngược quá đi! Chê ghét chối bỏ chúng thì chỉ có thiệt thôi, mà còn bị chúng hành hạ nữa. Chứ với con mắt thần như thánh Phaolô thì nhìn ra được "mọi sự xảy ra đều đi liền với nhau sinh ích cho những ai được Chúa thương yêu" (Roma 8:28).
Đúng vậy. Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ "lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến như thế" (MC 9:1). Các môn đệ tất nhiên là thích thú lắm: "Thầy ơi, ở đây sướng quá". Nhưng rồi Chúa Giêsu nói ngay: để được sáng lên như vậy thì phải trải qua đau khổ và thập giá. Quả là Ngài đã luyện cho các môn đệ con mắt nhìn nối kết được những tím xanh đỏ vàng để thấy được cầu vồng rực rỡ, điều hợp được những gì xem ra lộn xộn và trái ngược để thấy được niềm vui, được vẻ huy hoàng. Đó là đạo Trời. Cũng vì vậy mà các sơ dòng Mến Thánh Giá có khẩu hiệu: qua thập giá tới vinh quang (per crucem ad lucem).
Vậy đâu là những nghịch cảnh tôi đang phải đối đầu? Đâu là những màu tím xanh đỏ vàng, những chanh chua mắm mặn ớt cay, đâu là những lộn xộn đang làm tôi vướng lưới? Xin cho con mở được con mắt của niềm tin, để nhìn vượt qua được những lưới vướng rối tung, những nghịch cảnh không sao tránh khỏi, để thấy được lẽ tất nhiên của đạo Trời, như Chúa đã chỉ cho các môn đệ trên núi. Và con cất lời như thi hào Hàn Mặc Tử sau khi bị hành khổ khốn cùng bỗng được mở con mắt thần nhìn vượt qua cả bốn mùa trầm bổng nối tiếp để thấy được lúc nào cũng chỉ là mùa xuân ân sủng:
Tứ thời xuân, tứ thời xuân non nước, Phút thiêng liêng nhuần gội áng thiều quang. Thiên hạ bình và Trời tuôn ơn phước. Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.
Người ta kể lại câu chuyện sau đây: một vị thánh ẩn tu đang nguyện ngắm trong chòi giữa khu rừng vắng. Nghe tiếng động ngoài cửa, vị thánh cất tiếng hỏi: -Ai đó? xin mời vào. Một người đàn ông trung niên mặc áo cẩm bào rực rỡ, đầu đội triều thiên lộng lẫy, oai nghi tiến vào. -Ông là ai? vị thánh ngạc nhiên hỏi. -Ta là Đức Kitô, Thiên Chúa của con tôn thờ. Vị thánh lưỡng lự một chút rồi hỏi:-Nhưng dấu đanh của bàn tay ông đâu, cho tôi xem. Câu hỏi vừa dứt thì người lạ biến mất, để lại mùi hôi nồng nặc. Vị thánh đã kịp khám phá ra đó là ma qủi giả dạng Chúa Kitô vì trên bàn tay hắn không có dấu tích đau khổ của Chúa Kitô thực.
Phúc Âm hôm nay tường thuật lại việc Chúa biến hình vinh quang trên núi Tabor. Tuy nhiên, theo dõi Phúc Âm chúng ta biết trước đó 8 ngày thì Chúa đã nói cho các môn đệ biết điều kiện phải có để theo Ngài: Bỏ mình, vác thập giá theo Chúa. Ai cũng ngại bỏ mình vì phải chịu khổ hơn, hy sinh hơn, lép vế hơn, thiệt thòi hơn. Đôi khi bỏ mình phải trả một giá đắt đỏ: như bị tai nạn, rủi ro, hiểu lầm, mất người thân, tàn tật, bệnh nạn khó chữa... Nhưng Thiên Chúa nhìn xa trông rộng hơn con người. Ngài nhắm tới hạnh phúc vĩnh cửu hơn hạnh phúc tạm thời, tới quê hương thật hơn là mảnh đất lữ hành, tới linh hồn hơn là thân xác chúng ta. Ngài biết những vui thú, chiều chuộng, sung sướng. . . là cớ đẩy người ta xa Chúa, là những mồi ngon nhử người ta tới bất hạnh đời đời. Vì thế Ngài mời gọi chúng ta hãm mình, hy sinh, chấp nhận đau khổ một phần nào ở đời này để được hạnh phúc đời sau.
Theo Chúa Kitô thì chúng ta hãy cố gắng chấp nhận và thánh hoá những khổ đau, đừng để cho những khổ đau thành vô ích, vì thế đừng bao giờ đi tìm một Chúa Kitô không có thánh giá và cũng đừng bao giờ đi vác một thánh giá mà không có Chúa Kitô. Vì một Chúa Kitô không có thánh giá là Chúa Kitô giả, và một thánh giá mà không có Chúa Kitô là thánh giá thừa. Giả thì không tốt, mà thừa thì cũng uổng công. Chúa Kitô không "dại dột" gì kêu gọi chúng ta vác thập giá theo Ngài rồi cuối cùng là "huề vốn" hay "thiệt thòi". Bởi vì sau ngày Thứ Sáu tử nạn là ngày Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi nhắn nhủ các môn đệ bỏ mình thì Chúa đã biến hình vinh quang cho các ông thấy.
Đạo Công Giáo không đi vào ngõ cụt, chúng ta không phải là những người tuyệt vọng, vì thực sự có phục sinh sau cái chết, có vinh quang sau khổ nạn, có hạnh phúc sau đắng cay, có Thiên Đàng sau đời lữ hành, và có một Thiên Chúa Chân, Thiện, Mỹ, cho tất cả những ai dám đồng khổ nạn với Ngài.
Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People, Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:
Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.
Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?
Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.
Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: "Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút." Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu tư trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: "Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ."
Steve kết luận bài viết của mình: "Bạn có thể tượng tưởng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ."
Nhờ "thấy"được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để "thấy"được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã "thấy"được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?
Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta. Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bái ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.
Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.
Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Anh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.
Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: "Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy."
Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: "Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài"(Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc "nghe lời" Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi "giới răn nào trọng nhất"của một luật sĩ và qua câu chuyện "Người Samari Nhân Hậu" như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.
Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi "Hãy nghe Ngài". "Nghe Ngài" là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ "coi trời bằng vung", nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.
Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau" (Gn 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.
Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp chúng ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày mai Phục sinh tươi sáng.
Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc thương khó, sự kiên Chúa Giêsu biến hình là để củng cố đức tin cho các Tông Đồ trước cuộc thương khó sắp tới. Vì cuộc thương khó của Chúa là một thử thách rất lớn cho đức tin của các Tông Đồ.
Cùng với việc Ba vua thờ lạy Chúa, tiếng Chúa Cha phán khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, phép lạ nươc hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana, việc Chúa biến hình hôm nay cũng là một sự kiện Chúa hiển linh :Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa.
SỰ HIỆN DIỆN CỦA ELIA VÀ MÔ-SÊ.
Sự hiện diện của hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước, Môsê và Elia nói với ba Tông Đồ rằng Chúa Giêsu là chính Đấng mà các tiên tri đã loan báo. Sự hiện diện của hai nhân vật nầy cộng với sự kiện Chúa biến hình làm cho các Tông Đồ thấy rõ Ngài là Đấng Messia. Có lẽ nhờ chứng kiến sự kiện hiển linh trên nên và nghe tiếng Chúa Cha phán : "Đây là Con Ta yêu dấu", mà sau nầy, khi Chúa hỏi các Tông Đồ: "Các con bảo Thầy là ai?, Phêrô liền tuyên xưng đức tin rằng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Khi đọc lại sự kiện Hiển Linh nầy, và dựa vào niềm tin của các Tông Đồ, chúng ta thấy niềm tin của mình vững vàng hơn , thấy Chuá là Thiên Chúa thật.
LẠY THẦY, CHÚNG CON ĐƯỢC Ở ĐÂY THÌ TỐT LẮM.
Được chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình, ba Tông Đồ hết sức phấn khởi, và Phê-rô đại diện anh em, thưa với Chúa Giêsu như nói trong mơ rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm." Họ muốn ở lại đó: "ở đây thì tốt lắm", không muốn trở về thế gian nữa.
Nhưng để được chứng kiến cảnh huy hoàng và nếm cảm được bầu khí thiên đàng đó, các môn đệ đã phải khó nhọc trèo lên núi Tabo, một ngọn núi khá cao, và phải ở với Chúa Giêsu trên núi, và cầu nguyện với Ngài; bởi vì khi Chúa rút lui vào nơi thanh vắng, lên núi, vào sa mạc , là để cầu nguyện.
Khó nhọc trèo núi hôm nay là cố gắng vào cửa hẹp ; ở với Chúa hôm nay là cầu nguyện, là nghe Lời Chúa, là rước lấy Chúa trong BT.Thánh Thể. Một khi chúng ta thực thi những điều đó cách nghiêm chỉnh thì chúng ta cũng sẽ được gặp Chúa, cũng sẽ được chứng kiến vinh quang của Chúa. Và khi ấy chúng ta cũng sẽ có một tâm tình như các Tông Đồ trên núi Tabo: "Lạy Thầy,chúng con được ở đây thì tốt lắm.".
HỌ CHỈ THẤY MỘT MÌNH CHÚA GIÊSU.
Sau khi đã củng cố niềm tin cho các Tông Đồ bằng sự kiện biến hình, Chúa Giêsu đem họ về với thực tại của trần gian. Cùng Ngài, họ xuống núi. Và Chúa Giêsu lại trở về với trạng thái cũ của Ngài, một con người bình thường và tầm thường là đằng khác. Nhưng kể từ đây, đối với các Tông đồ thì, đằng sau cái vỏ tầm thường ấy, ẩn dấu một kho tàng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao. Họ giữ bí mật đó trong lòng, không dám nói ra.
Trong cuộc sống, có những cái không nên nói ra và không được nói ra, nếu không thì dễ mất, dễ tan vỡ, như tình yêu chẳng hạn . Một tình yêu càng kín đáo, như một bí mật của cuộc sống, lại càng mạnh liệt và sâu xa, và càng đẹp. Khi các thánh được ơn Chúa, họ ít tỏ ra bề ngoài, họ thường giữ kín trong lòng :"Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến."
Muốn thấy được vinh quang Phục sinh của Chúa Giêsu đã tỏ cho các môn đệ trên núi, muốn hưởng niềm vui của các Tông Đô trên núi Tabo, chúng hãy cùng nhau trèo lên núi với Chúa Giêsu, nghĩa là sống mùa chay thánh nầy một cách nghiêm túc trong đời sống sám hối và đền tội; cùng nhau ở với Chúa Giê-su, nghĩa là siêng năng nghe lời Chúa và rước lấy Chúa mỗi ngày.
HÃY BIẾT BẮT ĐẦU LẠI.
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một linh mục và nói:
-Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả ! Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh , bảy mối toi đầu con đều phạm hết. Con nản quá ! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng hơn lànằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào! Vị linh mục cười và nói:
-Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi! Cả hai cha con cười xòa. Vị linh mục nói tiếp:
-Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Người cha an ủi: Thôi con ơi, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông thì nhất nông nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sớm mai vác cuốc ra ruộng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ?
Người cha biết sự việc , không la rầy, ôn tồn nói với con: Mỗi ngày con làm cho cha chừng 20 mét vuông thôi, con làm được không ?-Dạ ít vậy thì được. Và cứ như thế , chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.- Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi, rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi. Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào vị linh mục, rồi nói: cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Đức Giêsu biến hình:
1. Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Đức Giêsu chịu chết và sống lại:
- Việc biến hình xảy ra "khoảng 8 ngày sau", tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
- Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài "về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
- Tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn" là trích những đoạn Cựu Ước nói về Người
Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.
Như thế Đức Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
B.... NẨY MẦM.
1. "Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác" cầu nguyện là lúc con người được biến đổi trở nên giống Chúa hơn.
2. "Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá": ai mà không muốn sống mãi trong ánh sáng vinh quang. Thế nhưng muốn đến vinh quang thì trước đó phải đi qua con đường thập giá.
3. "Hãy vâng nghe lời Ngài": các môn đệ Đức Giêsu - và cả chúng ta - rất sung sướng được ở trong vinh quang của Chúa. Họ khó chịu khi nghe Ngài nói tới con đường thập giá. Thậm chí Phêrô còn cản ngăn Ngài. Nhưng Chúa Cha bảo "Hãy vâng nghe lời Ngài", nghĩa là phải chấp nhận đi theo Ngài trên con đường thập giá trước rồi mới được tới vinh quang. Nhưng thực ra, nghe lời một Đức Giêsu vinh quang thì dễ hơn nghe lời một Đức Giêsu thập giá nhiều!
4. Mùa chay là thời gian cho mỗi người chúng ta "biến hình": biến từ hình dạng méo mó của loài người sau khi phạm tội trở lại hình ảnh tốt đẹp ban đầu khi mới được Thiên Chúa tạo dựng; biến hình nhờ cầu nguyện và nhờ đi theo con đường thập giá của Chúa.
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; MC 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. "Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, "Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (MC 9:3). Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về "Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực" (MC 9:1) và xác tín "Thày là Đức Kitô" (MC 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Elia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Elia, thì "có một đám mây bao phủ các ông" (MC 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha : "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (MC 9:7). Lời trìu mến chừng nào !
Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu ! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta" (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). "Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em"6 (1 Cr :20).
"Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết" (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không ? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận ! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì "sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. "Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng" (MC 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ "ngủ quên trên chiến thắng". Ngay trên núi, vừa mới chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông bị trả về thực tế. "Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi" (MC 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh : "Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê" (MC 9:12).
Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông ? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây : "Hãy vâng nghe lời Người". Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi "Con Người từ cõi chết sống lại" (MC 9:9). Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh.
Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao "Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại" (MC 9:9). Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng "nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người" (Fisichella 1995:669). Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. "Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành"(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này. Vẫn còn hi vọng ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm.
Cuốn phim Mask (Mặt nạ) diễn lại một câu chuyện có thực của một chú bé 16 tuổi tên là Rocky Dennis. Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ khiến cho sọ và xương mặt chú to hơn bình thường. Do đó gương mặt chú bị biến dạng trông thật khủng khiếp có nhiều người trông thấy chú là quay mặt đi vì ngượng ngùng, có nhiều người thì chọc ghẹo chế nhạo chú. Dù vậy, Rocky chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân và cũng chẳng hề nổi giận. Chú cảm thấy ngoại hình mình xấu xí, nhưng vẫn chấp nhận nó như một phần cuộc sống mình.
Ngày nọ, Rocky và một vài người bạn đi thăm khu công viên vui chơi. Họ đi vào nhà kính (nhà có gắn kính tứ tung) và bắt đầu cười đùa chế diễu thân mình và khuôn mặt bị biến dạng của họ. Bỗng nhiên Rocky giật mình khi trông thấy một chiếc gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai. Lần đầu tiên trong đời, lũ bạn chú đã nhìn thấy chú ở trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú được bộc lộ ra bên ngoài.
Một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay. Trong lúc Ngài biến hình, các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Lần đầu tiên họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa được bộc lộ ra bên ngoài. Điều này khiến ta tự hỏi: “Tại sao cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại được xếp vào hàng số những bài đọc của mùa chay là mùa thường mang màu sắc ảm đạm thay vì được xếp vào những bài đọc mùa Phục sinh thường dính dấp với sự vinh quang của Chúa Giêsu? Để trả lời chúng ta phải đọc toàn bộ bài Phúc Âm nói đến cụôc biến hình. Việc này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu báo cho các môn đệ rằng Ngài phải đi Giêrusalem để chịu nạn và chịu chết. Khi nghe Chúa Giêsu báo thế, Thánh Phêrô liền la lớn: “Lạy Chúa, xin đừng! Điều đó đừng xảy đến cho Ngài”. lập tức Chúa Giêsu đã trả lời cho Phêrô: “Hỡi Satan, Hãy xéo đi! Đừng cản trở ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối của Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối của con người” (Mt 16 : 22-ABC23). Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần được chích một mũi thuốc bổ thiêng liêng sau khi bị “cú sốc” chướng tai vì lời loan báo cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Và có lẽ đó cũng là lý do Giáo hội đặt đoạn Kinh thánh nói về cuộc biến hình vào số các bài đọc mùa chay, vì muốn trợ lực cho chúng ta trước khi hướng chúng ta đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vào thứ sáu tuần thánh.
Tuy nhiên, còn một lý do khác khiến cho Giáo Hội đặt đoạn Kinh thánh nói về cuộc biến hình của Chúa giêsu vào trong số các bài đọc mùa chay, là vì cuộc biến hình có những điểm nổi bật tương tự với cơn hấp hối trong vườn Giêsêmani xảy ra trên một ngọn núi, núi Cây Dầu, còn cuộc biến hình cũng xẩy ra trên một ngọn núi, Núi Tabor. Cơn hấp hối cũng như cuộc biến hình đều chỉ có ba môn đệ này chứng kiến, là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cơn hấp hối xảy ra vào ban đêm, cuộc biến hình cũng xảy ra vào ban đêm trong cả hai trường hợp các môn đệ đều say ngủ đang khi Chúa Giêsu vẫn tỉnh thức cầu nguyện. Và cuối cùng lý do đặc biệt hơn cả là hai biến cố trên hấp hối và biến hình bổ túc lẫn cho nhau. Trên núi Tabor, ba môn đệ nhìn thấy Chúa Giêsu lúc Ngài xuất thần. Đây là lần đầu tiên thiên tính Ngài được biểu lộ trước mắt họ. Còn trên núi cây dầu thì ngược lại, họ chứng kiến Chúa Giêsu trong giờ Ngài hấp hối, đây cũng là lần đầu tiên nhân tính Ngài bộc lộ rõ rệt nhất. Núi Tabor và núi Cây Dầu mặc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính Chúa Giêsu. Hai biến có trên hai ngọn núi không thể tách lìa nhau như hai mặt của cùng một đồng bạc cắc. Chúng cho thấy trọn vẹn hai chiều kích nơi Chúa Giêsu: Ngài vừa là người vừa là Thiên Chúa
Sau đây là sứ điệp thực tiễn rút ra từ biến cố xảy ra trên hai ngọn núi đó. Giống như Chúa Giêsu, chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adam và một nét giống Thiên Chúa. Giống như Chúa Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng từng cảm nghiệm những phút giây xuất thần, khi mà nét giống Chúa toả sáng rực rỡ hầu như chói loà cả mắt chúng ta, chúng ta cảm thấy sao mà gần gũi Chúa quá đến nỗi dường như chúng ta có thể đụng chạm được Ngài. Trong những phút giây này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà đẹp quá, chúng ta cảm thấy yêu mến hết mọi người, muốn bá vai bá cổ bạn bè và sẵn sàng tha thứ cho mọi kẻ thù của chúng ta. Nhưng xét mặt kia, cũng giống như Chúa Giêsu trên núi Cây Dầu, chúng ta đã từng cảm nghiệm được những phút giây “hấp hối”, khi mà nét giống Adam cháy rực trong ta đến nỗi khiến cho nét Chúa nhạt nhoà gần như mất hẳn. Những giây phút này cuộc sống tồi tệ làm sao!
Chúng ta cảm thấy hình như không ai yêu mến mình, chúng ta gây gỗ với bạn bè và nguyền rủa kẻ thù. Chúng ta nghi ngờ giờ khắc hấp hối hay xuất thần xảy đến, chúng ta nên nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor, và Cây Dầu, chúng ta hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được cả hai khoảng khắc quang vinh và ảm đạm nhất trong cuộc đời dương thế của Ngài. Và quan trọng hơn chúng ta cần phải nhớ rằng trong cả hai khoảnh khắc ấy, Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện. Nếu sự cầu nguyện là cách thức Chúa Giêsu dùng để đáp lại những khoảnh khắc ấy thì chúng ta cũng nên làm giống như Ngài, nhờ đó chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta như Ngài đã nói với Chúa Giêsu trong cuộc biến hình trên núi Tabor “Đây là Con Ta yêu dấu…” và cũng như Chúa Giêsu từng chịu hấp hối trên núi Cây Dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa đang chạm đôi tay Ngài để chữa lành cho chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc bài giảng bằng lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin cho chúng con cảm nghiệm được những giây phút xuất thần giống như Chúa Giêsu đã xuất thần trên núi Tabor. Khi cảm nghiệm như thế, xin hãy giúp chúng con những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện, và cho chúng con nghe được tiếng Cha nói với chúng con: “Con là Con yêu dấu của Cha”.
Một trong những bức hoạ lớn nhất xưa nay của Raphael là bức: “Chúa Biến Hình” trong hành lang Vatican ở Roma. Bức hoạ có ba cấp, cấp trên cùng chúng ta thấy Chúa Kitô đứng trên cụm mây, Mặt Người và hình dáng Người biến đổi, chứng tỏ Người là Thiên Chúa dọi sáng qua thân xác của Con Người.
Ngay cấp dưới, chúng ta thấy Phêrô, Giacôbê và Gioan thay mặt cho những người trên đường đến với Chúa. Ở cấp dưới cùng, Raphael tô mầu xậm, một nhóm môn đệ và một gia đình vây quanh một thiếu niên bệnh hoạn. Thật tương phản giữ sự chói sáng của Chúa Giêsu ở trên với sự tối tăm của phong cảnh ảm đạm phía dưới.
Raphael đã cố gắng trình bày một trong những bài học trong bài Tin Mừng hôm nay; Đức Kitô là hy vọng, là Đấng chữa lành tất cả, cậu trai sầu khổ biểu tượng bạn và tôi, và mọi người bệnh tật thân xác cũng như linh hồn. Bức tranh tuỵêt tác của Raphel làm nổi bật hai nét đó: một người môn đệ chỉ tay vào cậu bé bệnh hoạn người môn đệ khác chỉ thẳng lên Chúa Giêsu.
Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta có một vai trò, có một bổn phận, vâng, chúng ta cần chú ý đến những bệnh nhân, người nghèo khó, người tàn tật xung quanh chúng ta chúng ta phải lắng nghe lời kêu cứu của nhân loại. Nhưng quan trọng hơn chúng ta phải biết hướng về đâu, tìm nơi đâu sự nâng đỡ. Chúng ta phải nhìn lên Đức Kitô.
Chúng ta phải làm tất cả những gì trong khả năng con người để giúp đỡ những kẻ không nơi nương tựa. Nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải van xin Đức Kitô sự trợ giúp đầy đủ để chúng ta có thể giúp lẫn nhau. Bằng mọi cách chúng ta phải hành động để giải quyết những vấn đề hàng ngày: nạn đói, chiến tranh, ma tuý, rượu chè, phá thai, và bệnh tật. Nhưng giải đáp sau cùng và hữu hiệu chỉ có thể được qua Đức Giêsu. Qua sự thúc đẩy của Người với lòng quảng đại của chúng ta và qua quyền năng vô hạn của Người, Người sẽ chữa lành và trợ giúp.
Hãy nhìn lên Đức Kitô trong Thánh lễ này. Hãy nhìn lên Người qua nước mắt của những người nặng nhọc và khổ đau hàng ngày. Hãy nhìn lên Chúa Kitô vì bạn và vì hàng trịêu người chưa được nghe nói về Chúa và chưa bao giờ nhìn lên Chúa. Bạn và tôi phải xin Người chữa lành chúng ta, bạn và tôi phải xin Người chữa những ai chưa bao giờ biết Chúa.
Đó là một lý do Chúa Giêsu đã tỏ sự sáng sự vui mừng và niềm hy vọng, quyền năng của thiên tính và sự tốt lành trong việc biến hình, để mọi tâm hồn được khích lệ và chân nhận Người là Cứu Chúa, là Đấng chữa lành. Đó là lý do chúng ta hát bài đáp ca hôm nay; Chúa là ánh sáng… Chúa là nơi trú ẩn.. xin thương xót con và đáp lời con… Chúa là Đấng con tìm kiếm… Chúa là Đấng phù trợ con… con trông đợi Chúa!
Chúng ta đang ở trong bóng tối của tội lỗi, của đau khổ. Nhất là trong mùa chay này, chúng ta cần nhìn lên Chúa Kitô vinh hiển, Chúa Kitô Biến Hình. Người tỏ vinh quang và quyền năng để khích lệ bạn và tôi trong những hy sinh của Mùa chay, trong những khó khăn của đời sống. Được hướng dẫn và củng cố bởi Đức Kitô trong Thánh lễ, chúng ta sẽ làm mọi sự theo khả năng để giúp đỡ những người bệnh hoạn, khổ đau. Nhưng chúng ta đừng bao giờ quên hướng về Chúa Kitô, Người ở trên bàn thờ này cũng như xưa trên Núi Tabor. Như Phêrô đã thưa với Chúa: “Chúng con ở đây tốt lắm” chúng ta cũng thưa: “Chúng con ở đây trong Thánh lễ này tốt lắm”. Chúng ta hãy lắng nghe Cha trên trời phán bảo; “Đây là Con Ta… hãy nghe lời Ngài”. Xin Chúa chúc lành bạn. Amen. ------------------------------------
Bình thường ít ai suy nghĩ về cuộc đời. Chỉ khi nào đối diện với đau khổ, ta mới suy nghĩ nhiều. Tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Có những lúc, dường như đau khổ vùi dập cuộc đời mình, tôi tự hỏi như bao nhiêu người đã từng thắc mắc: Đời là gì? Tự tìm cho mình câu trả lời, tôi chỉ nhận ra, hình như cuộc đời con người là những bước đi trong một cánh rừng dày đặc, đen tối, không lần ra nổi một lối đi, dẫu chỉ là một lối mòn. Điều mà bản thân suy nghĩ, Pascal cũng đã từng nghĩ như thế. Cứ cho là tôi bi quan, nhưng chắc cũng có lúc đúng lắm. Nhất là những lúc mà đau khổ trong cuộc đời như muốn đè bẹp thân phận mình, như muốn nhận chìm tất cả tương lai của mình. Lúc đó mình cố tìm cách để xoay sở, để bớt khổ tâm hơn, thì có khi lại càng bí lối. Đau khổ không những không giảm mà còn như bám chặt hơn. Những lúc đó, cuộc đời đúng là một cánh rừng đen tối.
Bạn ạ, nếu tuần rồi, Chúa nhật I mùa Chay, tôi đề nghị hãy dùng nghị lực, dùng ý chí để thắng chước cám dỗ, để không phạm tội. Hoặc nếu vì yếu lòng, đã lỡ lầm, sa ngã, cũng hãy dùng ý chí, nghị lực đứng lên, trở về với Chúa. Nghị lực và ý chí để vượt thắng ấy, chính là do chúng ta noi gương Chúa Kitô, sống Lời Thiên Chúa mà có được.
Tuần này, bạn và tôi tiếp tục sống nghị lực và ý chí để giữ vững đức tin trong cuộc đời của mình, dẫu cho đức tin đó có phải chịu thanh luyện trong đau khổ cách mấy đi nữa. Cũng vẫn là một công thức không thể thiếu: để có nghị lực, để có ý chí giúp mình vượt lên trên đầu sóng, ngọn gió của cuộc đời, cách duy nhất chúng ta cần làm, và cần ưu tiên trước hết, chỉ có thể là dựa vào chính Lời Thiên Chúa đã dạy, nhằm trui rèn nghị lực và ý chí cho đời sống đức tin của mình.
Thánh Kinh có rất nhiều tấm gương về đức tin cho ta noi theo. Trong số những tấm gương ấy, hình ảnh của Tổ phụ Abraham, mà hôm nay Giáo Hội đề nghị con cái mình suy niệm trong bài đọc I, là một tấm gương nổi bật.
Một ngày nọ, Tổ phụ Abraham được Chúa kêu gọi: “Hãy bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho” (St 12, 1). Thế là Abraham ra đi. Đi trong mịt mù. Đi trong tăm tối. Đi mà chẳng biết mình đi đâu.
Suốt đời ông mơ ước có một đứa con nối dõi tông đường, vậy mà cũng chẳng có. Đến khi ông cả trăm tuổi, vợ ông cũng cao niên chẳng kém gì, Thiên Chúa mới hứa ban cho ông một đứa con. Một lời hứa như thế thật khó chấp nhận làm sao. Thế nhưng Abraham vẫn tin.
Đến khi đứa con trai duy nhất của ông, đứa con thừa tự, đứa con của lời hứa, đứa con ngọc, đứa con ngà đã lớn khôn, Thiên Chúa lại đòi ông đem đứa con đó đi sát tế cho Người. Có tội ác nào lớn cho bằng tội của một người cha giết con. Có còn lời dạy nào khủng khiếp cho bằng dạy một người cha giết chính đứa con là máu, là mủ, hơn nữa là cả cuộc sống của người cha già nua đã từng rút ruột mình sinh ra. Và còn đâu là một Thiên Chúa yêu thương, một Thiên Chúa gần gũi với con người, hay chỉ là một Thiên Chúa tàn nhẫn và say máu cho đến độ đòi một người cha phải thủ tiêu con của ông làm của lễ tế hiến cho mình. Đúng là một Thiên Chúa độc ác, không còn gì độc ác hơn!
Càng suy nghĩ như thế về hình ảnh của Thiên Chúa bao nhiêu, ta càng thấy đức tin của Abraham lớn bấy nhiêu. Cứ bắt đầu bằng tình cảm con người, ta suy diễn, sẽ thấy, chắc tâm hồn ông chao đảo lắm, lương tâm ông giày vò lắm, cuộc sống của ông chắc mất bình an lắm. Có lẽ nước mắt đã tràn ngập, đã dàn dụa tâm hồn ông. Và có lẽ giọt nước mắt ấy rất âm thầm, vì ông không thể để lộ cho con mình biết được. Làm sao dám cho con biết khi chính ông sẽ giết chết con! Mà tiếng khóc càng âm thầm, tiếng nấc càng nghẹn ứ, nước mắt càng chảy ngược vào hồn nhiều bao nhiêu, thì nỗi đau càng dằn xé, càng tê tái, càng buốt giá bấy nhiêu. Nhất là mỗi khi ông nhìn đôi bàn tay của mình. Ngày nào đôi tay ấy bồng ẳm con, nâng niu con, bây giờ cũng chính đôi tay ấy sẽ thủ tiêu con. Là cha, là mẹ như bao người cha, người mẹ khác, Abraham se thắt lòng mình.
Trước nỗi đau đớn khó diễn tả thành lời ấy, Abraham đã vượt qua. Trước lòng tin vững như đá, rắn như thép của ông, Thiên Chúa đã trả lại cho ông đức con duy nhất đó. Ngay chính lúc ông giơ dao sát tế con mình, thiên Thần Chúa đã đưa tay đỡ lấy lưỡi dao ấy. Ông xứng đáng được Thánh Kinh gọi là Cha của những kẻ tin. chính đức tin đã nắn đúc ông thành một con người ngị lực và ý chí vô cùng. Và trong đức tin ấy, hôm nay chính chúng ta, đông lắm, đông như sao trên trời, như cát ngoài biển, là miêu duệ của ông…
Các môn đệ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng vậy. Bài Tin mừng hôm nay kể rằng, các môn đệ hạnh phúc nhìn ngắm vinh quang khi Chúa biến hình trên núi một cách say mê, như chiêm bao. Những tưởng hạnh phúc ấy kéo dài, để còn cất lều, dựng nhà mà chiếm hạnh phúc ấy chứ! Nào ngờ đó chỉ là một ánh chớp chợt lóe lên rồi lịm tắt, trả các môn đệ lại với đời thường.
Dẫu vậy, vẫn chưa thể ở yên trong đời thường ấy. Vinh quang núi cao chấm dứt, thay vào đó là vường Giêtsêmani. Ở đó các môn đệ chứng kiến Thầy của mình hấp hối, sợ hãi trước cái chết, đến nỗi toát mồ hôi pha trong máu. Các ông sẽ còn chứng kiến cảnh tượng sỉ nhục không gì sỉ nhục bằng, một cảnh tượng làm đau không chỉ thể xác, nhưng nỗi đau ấy xé nát tinh thần: bị lột sạch cho đến trần trụi, không đơn thuần là mảnh áo mà còn là nhân vị con người; cuối cùng giang tay chịu treo giữa trời giữa đất, giữa muôn tiếng sĩ vả, nguyền rủa, để rồi gục đầu chết tức tưởi. Điều còn lại chỉ là thất bại và ê chề.
Đức tin của các môn đệ bị thách thức quá lớn. Theo Thầy là để được cái gì chứ, đàng này mất tất cả. Chính Thầy lại là người mất mạng sống trước tiên. Có còn gì thua thiệt cho bằng để mà nói, để mà có thể so sánh !
Có một điều hết sức quan trọng, chính trong tăm tối của đức tin, các môn đệ biết Thầy của mình đã sống lại. Chính các ngài đã vượt qua nỗi đau cuộc đời, vượt qua sự tăm tối của bất hạnh để đặt nền mống cho Giáo Hội khắp nơi trên thế giới này. Mãi cho đến nay, dẫu đâu đó, vẫn còn bị bách hại cách này, cách khác, Giáo Hội vẫn đang trải rộng và phát triển.
Tôi nghĩ, cũng như Tổ phụ Abraham, đó là nghị lực, là ý chí của các môn đệ. Còn bạn và tôi thì sao? Chúng ta cũng quá dư kinh nghiệm về nỗi đau trong cuộc đời của mình. Có lẽ phần nào đã nắn đúc nên nghị lực và ý chí của chúng ta ?
Đau khổ là một sự thật trong cuộc đời. Nó cũng là một cú đấm thẳng vào đức tin của người tin vào Chúa. một cú đấm không khoang nhượng, đấm mạnh. Chính thực tế chứng minh điều đó. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không thể vượt qua nỗi khổ đau, đã thua buồn, đã đánh mất đức tin, đã ngã lòng trông cậy vào Chúa. Có người còn lên tiếng oán trách Thiên Chúa: Tại sao tôi thờ Chúa, mà Chúa lại để tôi ra nông nổi này? Chúa ở đâu? Chúa có thương tôi không? Có Chúa thật không? Nếu Chúa có thật, nếu Chúa thương tôi, vậy tại sao con tôi, chồng tôi, vợ tôi, gia đình tôi, bản thân tôi… lại phải chịu cảnh bi thương này. Vì sự thật, đã có nhiều người không thể vượt qua, đã đánh mất đức tin. Bởi thế, ở khía cạnh này, tôi dám nói, đau khổ là một cú đấm thẳng vào đức tin của những ai tin Chúa.
Bạn ạ, tôi cũng như bạn: là người Công giáo chính hiệu. Dù là người Công giáo, cũng như mọi người sống trong cuộc đời này: có đau khổ và hạnh phúc. Rất có thể đau khổ triền miên, còn hạnh phúc lại chỉ như một ánh chớp lóe lên, rồi lịm tắt, để lại một cuộc đời tămtối mênh mông. Lúc đó đức tin của mình bị thử thách nặng nề nhất. Vậy ta phải làm gì để giữ đức tin? Hãy nhìn vào mẫu gương của Abraham và các môn đệ của Chúa Giêsu, nhờ đó thêm nghị lực và ý chí mà sống đời sống đức tin của mình.
Abraham đã đi trong đêm đen dày đặc, các môn đệ đã vác thập giá với Thầy chí thánh. Chính Thầy cũng đã chết ô nhục trên thánh giá. Cuộc đời của mỗi con người cũng giống y như thế: Biết bao nhiêu cạm bẫy đe dọa. Nhưng đạo Công giáo không chỉ có thập giá. Sau thập giá sẽ là phục sinh vinh quang. Biến cố Chúa biến hình trên núi, dẫu thoáng qua, nhưng là hy vọng của chúng ta.
Nếu các môn đệ ngày xưa, được Chúa cho thoáng thấy vinh quang núi cao, để chắp cánh, dẫu chỉ là một đôi cánh mỏng, cho niềm hy vọng phục sinh của mình, thì biến cố ấy rất nhiều lần lặp lại trong cuộc đời ta, qua những giây phút hạnh phúc, vui cười… Ta hãy xem đó là niềm hy vọng, giúp chúng ta ngã mình vào bàn tay Thiên Chúa để mà tin, để mà hy vọng, và dâng hiến lòng mến của mình.
Xin cho chúng ta tràn đầy nghị lực và ý chí để luôn tin tưởng vào Chúa. xin cho chúng ta vững tin rằng, sau thập giá sẽ là phục sinh, sau cuộc đời đầy long đong, sẽ là hạnh phúc miên trường.
Phần lớn những tháng ngày sống trên trần gian, Đức Giêsu đã chọn cho mình một cách sống ẩn mình, nên thiên hạ không biết đích xác Người là ai. Nhưng đôi khi vì nhu cầu Mạc khải, Chúa Giêsu cũng tỏ mình ra cho các môn đệ và dân chúng biết một phần nào về Người. Như sự kiện xẩy ra bên dòng sông Giocđan sau khi Đức Giêsu chịu Phép Rửa (Lc 3,21-22). Như cuộc hiển dung hay biến hình của Đức Giêsu trên Núi Tabo trong bài Phúc âm hôm nay (Lc 9,28-36). Chúng ta sẽ tìm hiểu xem biến cố này có ý nghĩa gì đối với chính Đức Giêsu, với Thiên Chúa, với lịch sử Cứu độ, với các môn đệ xưa và với chúng ta ngày nay ?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: St 15, 5-12.17-18: (a) Sách Sáng thế gồm 2 phần rõ rệt. Phần từ chương 12 đến hết, trình bày các truyền thống về thủy tổ của dân Ítraen và giải thích sự có mặt của họ trên đất Ai Cập. Còn 11 chương đầu là một nỗ lực suy tư khởi đi từ kinh nghiệm tôn giáo của Ítraen nhằm lý giải nguồn gốxc vũ trụ và con người, nguồn gốc sự ác và ơn cứu độ (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Cựu Ước, trang 21).
(b) St 15, 5-12.17-18 là tường thuật việc ĐỨC CHÚA thiết lập Giao ước với ông Apram là ông tổ của Ítaren và của hết mọi kẻ tin. Giao ước được thực hiện bằng việc ĐỨC CHÚA chấp nhận lễ vật mà ông Ápram dâng lên Người khi Người cho ngọn lửa cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Nội dung của Giao ước là “ĐỨC CHÚA ban cho dòng dõi Apram mảnh đất chạy dài từ sông Ai Cập đến sông Cả tức sông Euphơrát” Điều kiện của Giao ước là Apram tin vào lời hứa của ĐỨC CHÚA. Nhờ lòng tin ấy mà ông được ĐỨC CHÚA xem là người công chính.
2.2 Bài đọc 2: Pl 3,17-4,1: Là những lời Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Philípphê để củng cố và chấn chỉnh đời sống đức tin của họ, vì trong số họ có nhiều người đang sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, tức trái ngược với lòng tin. Những người này chạy theo miếng ăn, chức quyền và danh vọng thế gian là những cái chóng qua và không đem lại sự sống thật; trái lại rất dễ dẫn đưa con người đến chỗ hư vong. Chỉ có cách sống tin/dựa vào Đức Giêsu Kitô mới đưa con người đến hạnh phúc thật vì chỉ mình Người mới có “quyền năng biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 9,28b-36: (a) Là tường thuật của Luca về cuộc biến hình hay hiển dung của Đức Giêsu. Chúng ta ghi nhận những chi tiết thú vị và quan trọng sau đây:
* Sự kiện hiển dung hay biến hình xẩy ra trong lúc Đức Giêsu cầu nguyện trên núi. Cầu nguyện là giây phút kết hiệp với Thiên Chúa. Núi (theo Thánh Kinh) là nơi Thiên Chúa ngự trị. Biến cố xẩy ra trong không gian và thời gian mang tính thần linh.
* Những người được diễm phúc chứng kiến sự kiện khác thường này là ba môn đệ thân tín nhất: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Chính ba môn đệ này là những người đã được chứng kiến mẻ cá lạ (Lc 5,1-11) và sau này được Đức Giêsu đưa vào vườn Cây Dầu trong đêm trước khi Người bị bắt.
* Những người thuộc “cõi trên” xuất hiện bên Đức Giêsu và đàm đạo với Người là ông Môsê và Elia, hai cột trụ của Cựu ước: Môsê tượng trưng cho Lề Luật, còn Elia tượng trưng cho Ngôn sứ. Cả lịch sử Cứu độ như cô đọng lại ở đây !
* Nội dung cuộc trao đổi giữa ba Vị là: “Cuộc Xuất Hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” tức về cuộc Khổ Nạn Thập Gía của Đức Giêsu.
* Những chi tiết diễn tả sự hiển linh (Epiphania) của Thiên Chúa: “Dung mạo Đức Giêsu bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa- Hai ông Môsê và Elia hiện ra rạng ngời vinh hiển – Đám mây bao phủ các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê- Tiếng nói từ đám mây.”
* Tác động của sự kiện trên Phêrô là: “Lạy Thày, chúng con ở đây, thật là tuyệt! Chúng con xin dựng ba lều: một cho Thày, một cho ông Môsê và một cho ông Elia. ( Còn chúng con sống ngoài trời và nằm đất cũng sung sướng lắm rồi! )”
* Mục đích hay sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi cho các môn đệ và chúng ta là: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.”
III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
3.1 Ý nghĩa của sự kiện biến hình hay hiển dung của Đức Giêsu:
3.1.1 Đối với chính Đức Giêsu ? – Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người để thể hiện Lòng Yêu Thương vô biên của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại và để cứu hết mọi người, bằng sự tự hiến tế mình trên Thập giá. Người đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa và sẽ chỉ nhận lại vinh quang ấy sau khi đã chết trên Thập giá. Hy sinh, từ bỏ, vác thập giá chính là con đường dẫn tới vinh quang đối với Con Một Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc hiển dung hay biến hình của Đức Giêsu đối với chính Đức Giêsu.
3.1.2 Đối với chính Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu ? – “Thiên Chúa (Cha) đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Biến cố hiển dung, với tiếng phán ra từ đám mây:“Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35) bộc lộ kế hoạch, chương trình và ý định của Cha, về Con Một Người, về phần rỗi mọi người. Đối với Thiên Chúa Cha, biến cố hiển dung của Đức Giêsu còn có nghĩa là Đức Giêsu, Con Một Cha, đã sẵn sàng vâng phục Cha cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá, để thực thi Thánh Ý của Cha.
3.1.3 Đối với lịch sử Cứu độ ? Sự xuất hiện của hai ông Môsê và Elia (tượng trưng cho Lề Luật và Ngôn sứ) bên cạnh Đức Giêsu và cuộc đàm đạo giữa 3 Vị về cuộc Khổ Nạn Thập Giá của Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cả Cựu Ước và Tân Ước đều quy tụ đồng tâm tại nơi Đức Giêsu, Thiên-Chúa-bị-đóng-đinh-thập-giá (Dieu Crucifié). Người là tột đỉnh của Lịch sử Cứu độ.
3.1.4 Đối với các môn đệ xưa ? Các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, bỗng chốc, được dẫn vào một khung cảnh thần tiên, vừa bất ngờ, vừa vượt ra ngoài sức tưởng tượng của các ông. Các ông thấy vẫn một Đức Giêsu ấy nhưng khác xa nhau là dường nào, chỉ trong một khoảng khắc ngắn ngủi. Các ông được hé mở cho thấy Chân Dung Đích Thực của Thày và mối tương quan mật thiết của Thày với Lề Luật và Ngôn Sứ là hai nguồn cội bền vững của dân Ítraen và nhất là mối tương quan mật thiết của Thày với Thiên Chúa Cha vừa siêu việt vừa gẫn gũi. Các ông được cho hiểu rằng: Thày mình sẽ vinh quang như thế và hơn thế nữa sau cuộc Khổ Nạn Thập Giá. Mục đích của hồng ân vô cùng lớn lao và đặc biệt này là để các ông vững tin mà theo Thày, tuân phục Thày và thực thi những lời Thày truyền dạy.
Nhưng thực tế cho chúng ta thấy các ông đã chẳng đáp ứng được sự mong đợi của Thày và của Cha Thày, vì trong cuộc Thương Khó của Thày, Phêrô đã chối Thày; Giacôbê đã biến đâu mất; Chỉ có một mình Gioan đứng bên chân Thập giá của Thày mà thôi. Các ông vẫn thích ở lại trên núi hơn là xuống núi để đi vào đời thường và nhất là đi vào Giêrusalem và Vườn Cây Dầu. Chỉ sau này khi Thánh Thần Đức Giêsu đã xuống tràn đầy tâm hồn các ông, các ông mới làm được những điều mà Thày và Cha Thày mong đợi ở các ông. Phêrô và Giacôbê đều đã chết vì Đạo, vì Thày; còn Gioan thì suốt đời chiêm niệm và ca tụng Tình Yêu Thập Giá của Thày: Phúc âm thứ 4, hai thư và Sách Khải Huyền của Gioan là những bài ca bất hủ ca tụng Tình Yêu Hiến Tế của Con Chiên.
3.2 Ý nghĩa của sự kiện biến hình hay hiển dung của Đức Giêsu đối với chúng ta ngày nay ? Giữa một thế giới càng ngày càng tục hóa và trước “Những biến chuyển nội bộ” đáng lo ngại mà Giám mục Gioan Baotixita Bùi Tuần nêu lên trong bài “Truyền giáo và những biến chuyển nội bộ” (là hiện tượng bỏ đạo, hiện tượng tin đạo nhưng không giữ đạo và hiện tượng giữ đạo rất ít lệ thuộc vào cơ chế), biến cố Chúa Giêsu hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay mang một ý nghĩa hết sức hiện sinh và thời sự cấp bách. Cốt lõi của vấn đề vẫn là: mỗi Kitô hữu chúng ta có xác tín rằng Đức Giêsu là Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa không ? và là Đấng đã chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta không ? Những hiện tượng vừa được nêu ở trên chỉ là kết quả đương nhiên của tình trạng rất nhiều Kitô hữu không xác tín về nội dung Niềm Tin Kitô. Nếu xác tín thì các Kitô hữu mới có đủ sức mạnh và quyết tâm để thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô trong đời sống cá nhân và cộng đoàn. Nếu xác tín thì các Kitô hữu mới sẵn sàng hy sinh, từ bỏ, chấp nhận thiệt thòi, mất mát để nên giống Chúa Kitô và đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
IV. CẦU NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa là Cha quyền năng và yêu thương, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha, vì Cha đã ban Con Một là Đức Giêsu cho chúng con. Xin Cha ban cho chúng con “Ơn vâng nghe lời Người”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là người Con đã được Cha tuyển chọn, chúng con cảm tạ, ngợi khen chúc tụng Chúa, vì Chúa đã chết trên thập giá, vì yêu chúng con, để cứu chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con “Ơn Tin mạnh mẽ và kiên cường” để chúng con sống và thể hiện niềm Tin ấy bằng hành động cụ thể, chẳng những trước mặt anh chị em đồng đạo và còn và nhất là trước mặt anh chị em lương dân sống chung quanh chúng con. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng Thánh Hóa và là Sức Mạnh biến đổi các tâm hồn và bộ mặt trái đất, chúng con nài xin Chúa ban cho chúng con “Ơn được biến đổi” mà Chúa đã ban cho các Tông đồ và Cộng đoàn tín hữu đầu tiên, để cá nhân và cộng đoàn trở thành những cá nhân và cộng đoàn Chứng Nhân Tình Yêu.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhan nhản những khác thường nơi đồng loại. Đang vui vẻ bỗng dưng biến thành khóc thương tang chế. Gia đình đang đoàn tụ ấm êm hạnh phúc, bỗng chốc xụp đổ chỉ vì một ghen tương nhỏ nhoi do không biết nhẫn nhục và tha thứ. Lại có những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, chính y bác sĩ cũng khoanh tay bất lực, thế mà lại bỗng dưng phục hồi cách nhanh chóng. Khiến cho hết thảy những ai biết chuyện đều cho là khỏi bởi phép lạ! Đời là thế đó. Có người buồn lại có kẻ vui. Người thân khóc than khi trong nhà có thành viên qua đời thì cũng cùng cái chết ấy là niềm vui bán được hàng của ông chủ trại hòm!
Có đôi bạn trẻ yêu nhau và cưới nhau. Chiều thứ bảy lễ cưới, ngày chúa nhật rước dâu, đám cưới. Sau tiệc cưới họ hàng hầu như đã về, chỉ còn lại một vài người bạn chí thân của chú rể vẩn đang tiếp tục chén và cụm ly liên tục mừng ngày hạnh phúc của bạn. Rốt cuộc tất cả cũng ra về, chỉ còn lại một anh bạn quá “xỉn” nên chú rể phải chở bạn về. Tai hoạ đã xảy ra vì cả hai người đều có men rượu. Không làm chủ được mình, cả hai đã lạc tay lái và chiếc xe Hon da của họ đã đâm thẳng vào một chiếc xe tải ngược chiều khiến chú rể và anh bạn nọ chết ngay tại chỗ! Tội nghiệp thay cho cô dâu và cả hai họ. Đang tiệc hỷ biến thành tang chế. Như một ván bài đang đỏ chuyển thành đen mấy chốc. Cô dâu phút chốc trở thành “goá chồng”. Biết bao chuyện tương tự như thế. Nào những trận động đất xảy ra giữa lúc mọi người đang ngủ. Những quả mìn trong chiến tranh được gài sẵn đã bất thần nổ tung đoàn xe quân sự trên đường công tác. Trớ trêu hơn cả là cầu thủ bóng đá chết ngay trên sân cỏ khi trận đấu đang hồi gay cấn! Mọi sự đều bất ngờ, khác thường khó ai lường trước được.
Bài Tin mừng thánh Luca trình thuật hôm nay cho chúng ta cùng với ba thánh Phêrô, Giacôbê, Gioan chứng kiến và mục kích một sự kiện lạ xảy ra khi Thầy Giêsu đang cầu nguyện. Diện mạo Người biến đổi khác thường. Chúng ta cùng khám phá những khác thường này: <B>1. Nguyên nhân:
Bài đọc một sách Sáng Thế Ký cho chúng ta thấy việc Thiên Chúa thiết lập giao ước với Abraham tổ phụ chúng ta. Việc bất thường ở chỗ rất bình thường tự nhiên. Thiên Chúa muốn Abraham ngước mắt nhìn sao trời và đếm sao trời. Rồi Ngài cho biết con cái, cháu chắt, dòng dõi ông cũng sẽ đông đúc như sao trên trời vậy. Tổ phụ chúng ta đã tin, tin giữa lúc cả hai vợ chồng già tuổi đã quá cao. Tin cách không do dự đắn đo, đặt trọn niềm tin vào Đấng làm Chủ mọi sự. Sự khác thường đã xảy ra thật khi Abraham tin Chúa. Chúa đã ban cho ông bà sinh con trong lúc tuổi già. Chúa đã ban cho đất mầu mỡ làm gia nghiệp. Từ ông đã phát sinh cả một dân tộc, làm tổ phụ cả một dòng dõi đông đúc. Sự khác thường vượt lên từ sự bình thường cho chúng ta một cảm nhận tình bằng hữu của Thiên Chúa và mối giây liên lạc thần linh giữa Ngài và loài người chúng ta.
Khía cạnh nổi bật nhất đó là lòng tin. Ba vị tông đồ được chứng kiến cũng có phần thưởng của niềm tin trong đó. Các ông đã theo Chúa, đã nghe Chúa, đã lên núi cầu nguyện với Chúa. Các ông là những ngư phủ nước trời. Xứng đáng khi được chứng kiến cuộc biến hình khác thường của Thầy mình.
2. Ngãng trở:
Bài đọc hai, Thánh Phaolô tông đồ xoáy chặt thân xác tín hữu vào thân xác hiển vinh của Đức Giêsu Kitô khi người tín hữu để chính Đức Kitô biến đổi. Vì dù sao chăng nữa, đích cuối cùng của chúng ta vẫn là quê hương trên trời. Ngài khuyên và khích lệ các tín hữu hãy luôn luôn vững vàng trong Chúa. Một khía cạnh rõ nét nhất trong biến cố biến hình của Chúa là việc xày ra đang khi Ngài cầu nguyện. Phải, chính việc cầu nguyện kết hợp mật thiết đã cho kết quả này. Thế đó, cầu nguyện vẫn luôn là một việc thiết cần đối với chúng ta. Cầu nguyện là tâm sự trực tiếp với Chúa. Là gạch nối giữa Chúa và ta để Ngài cùng chung hưởng niềm vui với ta khi ta vui và cùng san sẻ nỗi buồn đau khi ta gặp khổ tâm, khóc lóc. Thiên Chúa trở nên Đấng Ủi An, vì Ngài là nguồn an ủi nhân loại chúng ta. Nhưng ngãng trở lớn nhất của việc con người kết hợp, gần gũi Chúa vẫn là những yếu đuối, thiếu sót, thiếu bền đỗ, kiên tâm. Chung quy vì thần tôi nơi mỗi người con to, còn lớn quá. Đam mê luôn đè bẹp ý chí, nghị lực. Thế là nên cớ cho ma quỷ chiến thắng. Có rất nhiều ngãng trở trong việc đầu tư vào nước trời của chúng ta. Ngược lại dòng chảy thời gian, ngay bước khởi đầu ở Vườn Địa Đàng, nguyên tổ loài người đã trái lệnh Thiên Chúa. Chỉ một thời gian ngắn sau khi được Chúa đưa tầu gia đình ông Nôê thoát lụt đại hồng thuỷ. Con cháu ông đã sống truỵ lạc, xa lìa, thách đố cả Thiên Chúa. Còn Giuda Ích Ca thì sao? Chúa đã tin ông, trao cả tài sản cộng đoàn cho ông. Nhưng ông Giuda vẫn một mực rắp tâm phản bội, bán thầy.
Bí tích rửa tội đã làm chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, tuy nhiên không phải cứ chỉ như thế là đã đủ cho ta cái vé vào Nước Trời. Chiếc vé ấy sẽ bị xé huỷ ngay khi ta phạm tội trọng. Để đề phòng tai họa xảy ra cho linh hồn. Thuốc ngừa sự bất hạnh ấy chính là chúng ta phải biết xa lánh nguyên nhân làm ta xa Chúa. Tiếp theo là biết bức phá để vượt qua những rào cản, những ngãng trở làm cho linh hồn ta trở thành thất sủng trước mặt Chúa. Để được vậy, chúng ta cùng hạ quyết tâm:
3. Quyết tâm:
Để cuộc hành trình đến được đúng thời gian đã ấn định, trước hết người lữ hành cần phải biết tiên liệu, tính toán từ những cái nhỏ đến những việc lớn lao. Từ thực phẩm, phương tiện, sức khỏe, an ninh, thời tiết, khí hậu. Nên trong cuộc đời tiến đức, tiến thánh nơi mỗi Kitô hữu cũng cần dựa theo những nguyên tắc tiên liệu này để nhắm đích. Hãy đặt ra cho mình những điều dốc lòng, những hạ quyết tâm vào tâm điểm đức tin
- Kiểm tra lại xem hiện tại Chúa đang muốn ta làm gì, làm cách nào, nói cách nào để hài lòng Ngài. Hiện lúc này đây mức độ yêu giữa Chúa và con đang ở mức độ nào. Lương tâm đang an bình hay bất ổn? Làm được và tự đặt ra được thế, chắc chắn như máu châu lưu trong cơ thể mỗi người chúng ta thế nào thì Chúa cũng đang “châu lưu” trong linh hồn chúng ta như vậy.
- Luôn moi móc, bới tìm các ngõ ngách xem trong con người của ta đam mê nào nổi cộm nhất. Phát hiện kịp thời kịp lúc những tư tưởng xấu xa, thiếu ngay thẳng mỗi khi chúng lẻn vào đầu óc. Xua đuổi ngay tức khắc, không nuối tiếc, không tò mò, không trả giá. Có như thế tâm hồn ta mới được phẳng lặng như mặt ao, mặt hồ không gợn sóng. Thật sự một tâm hồn bình an và đầy Chúa.
- Thanh thản trong cuộc sống. Phó thác tin cậy vào Đấng Tạo Tác Vũ Hoàn. Điều gì có thể làm được thì cứ làm, còn điều gì vượt quá sức mình hay không thể được thì thôi, đừng bận tâm băn khoăn lo lắng. Quyết tâm can đảm từ bỏ. Kiên vững và vững mãi niềm tin để chịu đựng được những bất công, nghịch lý xảy ra cho ta trong cuộc sống hằng ngày.
Lạy Chúa, con phó thác tâm hồn con trong tay Chúa. Chúa hãy luôn là nơi cho linh hồn con nương ẩn.
Lạy Mẹ Maria, chính Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng hiền mẫu từ nhân của Mẹ. Cúi xin Mẹ khứng ban cho con luôn mãi cùng đồng hành với Chúa Giêsu con Mẹ, để con cũng luôn biết lệ thuộc, tin yêu, phó thác. Ngõ hầu khi linh hồn con rời bỏ thân xác hư nát sẽ được biến hình đồng hưởng vinh phúc trên cõi vĩnh hằng đời đời bên Chúa Giêsu con của Mẹ.
Một tù nhân đang bị đầy đọa trong lao tù cộng sản Việt Nam đã kể truyện đời mình và xác quyết về hạnh phúc của ông: Tôi là một sĩ quan cao cấp trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, lúc còn tại chức, người ta thường thấy tôi là người có quyền bính trong tay, kẻ hầu người hạ, kẻ đón người đưa, lệnh truyền ra là từng đoàn đông đảo binh lính phải tuân theo; thêm vào đó tôi lại là kẻ có nhiều tiền của giầu sang phú quí, vợ đẹp con khôn... Tôi cũng đã nếm đủ mọi thứ khoái lạc trên đời: Sòng bạc, hộp đêm, tiệm nhảy, yến tiệc nhậu nhẹt... Nhưng bất hạnh, đang lúc cuộc đời trụy lạc, ăn chơi trác táng đó, nước Việt Nam hoàn toàn rơi vào tay cộng sản, tôi cũng đồng số phận với nhiều sĩ quan khác, bị tước đoạt mọi tài sản, vợ con tan nát, và bị còng tay nhốt tù với muôn cực hình: Đói rét, tra tấn, lao động cùng cực trong suốt nhiều năm... Giữa lúc mất tự do với muôn vàn nỗi khó khăn này, tôi lại được hưởng một niềm hoan lạc và dám xác quyết với các bạn rằng: Chưa bao giờ tôi thấy cuộc sống tôi có ý nghĩa và sung sướng hạnh phúc như hiện nay. Vì chính tại nơi lao tù này, tôi đã được Đức Tin, nhận biết Chúa và tôn thờ Người, tôi đã được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, làm con Chúa và Giáo Hội. Cuộc sống trước kia, tôi có mọi sự trần gian, ai cũng lầm tưởng là tôi được hạnh phúc, nhưng thực sự tôi lại là kẻ bất hạnh nhất vì lương tâm luôn trách cứ tôi vì cuộc sống trác táng của tôi; nhưng hiện nay, trong khi người ta thấy tôi là kẻ bất hạnh, thì chính tôi lại tự thú nhận cách chân thành rằng : " Tôi là người hạnh phúc nhất; chính Đức Tin đã ban cho tôi niềm an vui và hạnh phúc ngay chính lúc tôi mất tự do, nghèo nàn, đói rét cùng cực nhất".
I. ĐỨC TIN LÀM CHO NÊN CÔNG CHÍNH
Bài đọc một trích bởi sách Sáng Thế Ký chúng ta vừa nghe, tổ phụ Abraham được Thiên Chúa tuyển chọn, ký giao ước và thề hứa với ngài là Chúa sẽ ban cho dòng dõi ngài trở thành một dân tộc vĩ đại, đông đúc như sao trên trời và như cát bãi biển. Chính Sách Thánh đã xác nhận Đức Tin của tổ phụ Abraham đã làm cho ngài trở nên người công chính. Như chúng ta đã biết: Tổ phụ Abraham đã 100 tuổi và Sara, vợ ông lại son sẻ không con và bà cũng đã 90 tuổi. Cả hai đã cao niên còn sức đâu mà sinh con, thế mà Chúa lại lập giao ước và thề hứa sẽ ban cho dòng dõi ngài đông đúc như sao trên trời cát bãi biển. Thực là oái om và phi lý! Để thực hiện lời hứa, Chúa đã ban cho ông bà sinh một ngươi con trai và đặt tên là Isaac. Nhưng khi Isaac khôn lớn, Chúa lại truyền cho tổ phụ Abraham giết con làm lễ vật toàn thiêu tế lễ Chúa. Thực là tuyệt vọng, chỉ có một người con trai duy nhất Chúa ban, bây giờ Chúa lại truyền giết con để tế lễ Chúa, trong khi Chúa đã thề hứa sẽ ban cho dòng dõi ông đông đúc như sao trên trời cát bãi biển phát sinh do người con duy nhất yêu quí đó. Dầu vậy, tổ phụ Abraham luôn vững niềm tin vào Chúa, một Đức Tin kiên vững không hề lay chuyển, ngài đã hoàn toàn tuân phục mệnh lệnh Chúa truyền đem con lên núi, giết con để tế lễ Chúa. Abraham đã tin và đã sống niềm tin đó, ngài được nên công chính, Chúa đã nhận tấm lòng thuần phục của ngài, Isaac con ông đã khỏi phải chết và thực sự dòng dõi ngài hiện nay đã đông đúc như sao trên trời, cát bãi biển rải rác khắp thế giới. Đó là những kẻ tin vào Chúa là chính chúng ta.
II. ĐỨC TIN CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA
Nhiều anh em trong các giáo phái ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo chủ trương: Chỉ cần có Đức Tin vào Chúa là được cứu độ. Mọi tội lỗi đều được tha thứ hết, vì công nghiệp của Chúa Kitô quá dư tràn để cứu độ chúng ta, ngoài ra không cần gì khác nữa. Do chủ trương đó, mà người ta chối bỏ nhiều điều khác, chẳng hạn Bí Tích Xá Giải. Chúng ta cần nhận định chắc chắn rằng: Đức Tin Công Giáo do Chúa mạc khải, cần thiết chúng ta phải có niềm xác tín vào Chúa mới có thể đạt tới Ơn Cứu Độ. Nhưng theo giáo huấn của Thánh Giacobê và Phêrô đã quả quyết: "Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết!" Chúng ta tin Chúa, nhưng còn phải sống theo niềm tin, Đức Tin phải được chứng minh qua cuộc sống, nơi các việc chúng ta làm hằng ngày. Chỉ tin mà không thực hành niềm tin thì dù có tin cũng vô ích, không thể làm cho chúng ta nên công chính, không thể ban cho chúng ta Ơn Cứu Độ, lại còn khiến chúng ta bị trừng phạt. Nếu chúng ta chỉ cần tin vào Chúa, rồi cứ buông theo nếp sống ăn chơi trác táng, gian dâm, trộm cướp, xì ke, ma túy, giết người, cướp của, cờ bạc và lao mình vào đủ thứ đồi phong bại tục... thì dù có tin vào Chúa, tuyên xưng niềm tin suông ngoài miệng, chịu Phép Thánh Tẩy, ghi tên vào giáo phái nọ, Giáo Hội kia cũng vô ích.
Kết Luận
Theo giáo huấn của Giáo Hội, điều quan trọng hơn hết trong Mùa Chay Thánh này là: Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta đã sống Đức Tin thế nào trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta?
Đức Tin đã làm cho cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và biến cuộc sống chúng ta nên hạnh phúc ngay giữa lúc chúng ta gặp muôn nghịch cảnh: Nghèo nàn, túng cực, đầy đọa hoặc mất tự do như người sĩ quan trong lao tù cộng sản, khi đã đặt niềm tin nơi Chúa chưa?
Đức Tin thực sự đã làm cho chúng ta nên công chính như tổ phụ Abraham chưa? Ngài đã hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, ngay chính lúc tuyệt vọng, không còn lý do để tin tưởng. Chính do lòng tin tưởng thuần phục đó, tổ phụ Abraham đã được toại nguyện, đúng như lời Chúa hứa ban.
Mẹ Maria còn nêu cho chúng ta một tấm gương Đức Tin cao cả hơn muôn ngàn lần tấm gương của tổ phụ Abraham. Mẹ đã hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và sẵn sàng hiến tế Người Con Yêu Dấu duy nhất của Mẹ là Chúa Kitô để chịu chết, đền tạ phép công bình Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta. Xin Mẹ chia sẻ niềm tin của Mẹ cho chúng ta.
Thường đời người được nếm trải những cuộc hiển dung nho nhỏ hay vĩ đại tùy theo từng bước ngoặt cuộc đời như dịp Rước Lễ lần đầu, lãnh bí tích Thên Sức, xa hơn một bước nữa là ngày ra trường đầy vinh dự, ngày lên xe hoa trọng thể, hay khấn dòng, thụ phong linh mục... Những mốc điểm quý giá đó như một hồng ân để con người được san sẻ với Thiên Chúa một phần rất nhỏ ánh sáng quang huy của cuộc biến hình trên núi thánh. Để rồi sau những ngày ghi dấy ấy chúng ta sẽ tiếp tục sống chuỗi tháng năm quen thuộc. Thử hỏi đâu là cuộc hiển dung đích thực mà chúng ta phải trải qua để đạt tới cứu cánh đời người.
Có một con sâu nhỏ bò mãi, bò mãi cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong:
- Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy!
- Lạy Chúa, xin dạy con biết phải làm gì bây giờ?
- Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu hơn một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi!
Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hoá thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.
Con sâu là biểu tượng của mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những cuộc cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bày trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi. Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, toả sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, "Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" Vì chính lòng nhẫn nại tín trung vào ơn Chúa sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mọi nghi ngại, mọi suy tính đầy vụ lợi. Và lòng khiêm nhường thẳm sâu sẽ phá tung lớp vỏ kén tự mãn để trao tặng chúng ta đôi cánh đức tin hy vọng cao bay xuyên qua những đám mây mờ của tháng ngày thử thách gian nguy.
Lạy Cha chí ái! Chúng con được cứu rỗi không do bởi những công đức của chúng con nhưng do lòng tin chúng con luôn quy hướng về Chúa. Xin giúp chúng con biết đổi mới cuộc đời qua từng biến cố thường nhật. Khi chúng con được phúc đón nhận Chúa Giêsu ngự vào lòng, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an đem tình thương an bình đến với tha nhân. Khi chúng con tìm kế sinh nhai, xin cho chúng con trở nên cánh tay hoà bình yêu thương của Chúa. Khi chúng con có cơ hội cầu nguyện, xin cho chúng con biết để Chúa biến đổi trái tim chúng con nên mềm dẻo và ngoan ngùy trước thánh ý Chúa. Để trong mọi sự chúng con luôn tôn vinh danh thánh Cha muôn đời. Amen.
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê đã được thấy Chúa và các ông đã cảm nghiệm được cái hạnh phúc thật khi sống với Ngài trên đỉnh núi cao, đến nỗi không muốn trở về với cái thực tại của mình nơi dương thế nữa. Các ông muốn dựng nhà ngay trên núi này sống cho thoải mái.
Việc "xem thấy Chúa" là một thách đố lớn lao đối với chúng ta, vì mình là một tạo vật tùy thuộc vào vật chất, còn Chúa là hữu thể thuộc linh. Nhiều người trong chúng ta bị lung lay về đức tin tại điểm này "Nếu Chúa có thật thì cho tôi thấy để tôi tin Ngài". Không thể chứng minh Thiên Chúa bằng khoa học được hay nhìn thấy Ngài như một chất thể. Dù Chúa có cho thấy đi nữa họ cũng chẳng tin như người Do Thái đã thấy Chúa Kitô vậy.
Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rõ cái vật chất của mình như sau: "Tôi ứa lệ mà nói với anh em, có nhiều người trong anh em đã sống nghịch với Chúa Kitô. Họ chỉ biết sống theo cái hư vong và ưa chuộng những cái thuộc vật chất. Phần chúng ta có quê hương thật ở trên trời, nơi chúng ta mong đợi Đức Kitô Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi cái thân xác vật chất hay chết của chúng ta nên giống thân thể hiển vinh sáng láng của Ngài" (Phil.3:19-21).
Trong bài ca kính Thánh Thể nhắc cho chúng ta một niềm tin sâu xa về Thiên Chúa rằng: "Ta hãy lấy Đức Tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì". Lời kinh này đã khiến cho một vị vua rất thông minh, sáng trí cũng không thể hiểu được Chúa thế nào theo cảm nghĩ bằng trí óc phàm trần của ông. Ngày nọ ông phát điên lên vì nghĩ không ra. Ông cho quân quốc đến triệu một vị Giám Mục về cung và ra lệnh: "Trong một tuần lễ phải làm thế nào cho ta thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu". Vị Giám Mục đã giải nghĩa cho vua về giới hạn của con người, nhưng vua không chịu, cứ muốn nhìn thấy Chúa tận mắt. Phải chăng đó là một đòi hỏi càn dở của vua. Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại ý muốn điên rồ và thách thức của nhà vua?
Biết được ý muốn "khùng" của nhà vua, một người chăn chiên nhà thờ đến thăm Đức Giám Mục và xin phép cho ông được chỉ cho vua thấy Thiên Chúa. Sau khi hai cha con bàn luận, Đức Giám Mục đồng ý để ông dạy cho vua một bài học.
Sáng hôm ấn định, người chăn chiên dẫn vua đến cánh đồng cỏ, nơi ông thường thả đàn vật. Đến nơi thì mặt trời đã lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên vui vẻ tả: "Trời hôm nay đẹp quá, cây cỏ xanh tươi, không khí trong lành, núi đồi càng thêm hùng vĩ và rực rỡ huy hoàng dưới ánh nắng mặt trời... Tuyệt quá, ông đưa tay chỉ lên mặt trời mời vua:
- Thằng khùng, ngươi muốn ta mù mắt sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào mặt trời chói chang vậy.
Lúc ấy, người chăn chiên quỳ xuống trước mặt vua mà tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, mặt trời chỉ là một tạo vật Thiên Chúa dựng nên mà ánh sáng của nó còn chói chang đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn vào chính Thiên Chúa huy hoàng tuyệt diệu được.
Ngay lúc ấy nhà vua đã thấy Thiên Chúa không phải bằng con mắt của thân xác, mà bằng chính con mắt đức tin.
Mỗi vật trong vũ trụ diễn tả lại một chút vẻ đẹp của Thiên Chúa và mỗi hữu thể là một chứng từ về sự hiện hữu của Ngài. Thế mà nhân loại không nhận ra Ngài. Có khi cố ý làm ngơ, coi như không hề có Thiên Chúa, để dễ bề thao túng theo cá tính của mình.
Trên núi Tabor Thiên Chúa đã phán bảo các môn đệ: "Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Hãy vâng nghe lời Ngài".
Ngài có ý nhắc khéo chúng ta đấy. "Hãy vâng lời Ngài". Lời Ngài là chân lý, lời sự thật, lời sự sống, lời lành.... Lời đã được loan truyền để chúng ta tuân theo. Lời đó đã được Chúa in vào lòng chúng ta, mà ta gọi là tiếng lương tâm. Lời chân thật đó cũng còn ở trong sự khuyên dạy của cha mẹ, của ông bà. Lời chân thật đó cũng ở trong con cái, trong người họ hàng, chòm xóm, trong bạn bè... Hãy nghe theo các lời chân thật mà người ta nhắc bảo. Sự vâng lời này sẽ đem lại cho chúng ta được thấy Chúa là sự thật, là sự sống, là đường đi dẫn chúng ta tới hạnh phúc muôn đời.
Lời chân thật của người trên, lời lành của người dưới, lời chân chính của bạn bè.... Hết thảy đều là lời Chúa dạy phải tuân theo, là lời đẹp lòng Thiên Chúa. Hãy vâng nghe lời họ dạy, đừng tự ái, cũng đừng làm ngơ trước lời chân thật của Chúa. (Chúa nhật 2C) (3.2004).
* BÀI ĐỌC 1: Sáng thế 15, 5-12; 17-18= Lập Giao ứơc với Abraham: Một đời sống đức tin trong Chúa là Abraham đã đặt đức Tin của ông trong Ngài./ Covenant with Abram: A living faith in God is Abraham put his faith in the Lord.
* BÀI ĐỌC 2: Philip 3, 17-4= Công dân trong Nước Trời: Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Philipphê theo ông như ông theo Đức Kitô/ Citizenship in Heaven: Paul invites the Philippians to follow him as he follow Christ.
* TIN MỪNG (Gospel): Luca 9, 28-36=. Đức Giêsu là một người cầu nguyện.Cầu nguyện là một điều bạn phải học và thực hiện luôn luôn./ Jesus was a man of prayer. Prayer is something you must learn and by doing it regularly.
A- Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay nói về Đức Giêsu lên núi cầu nguyện với các môn đệ như sau: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” Khi tôi cầu nguyện từ đáy lòng, chính là tình yêu Chúa thúc đẩy, tôi sẽ gặp được Ngài như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp hay trong vườn cây dầu; đây chính là thập giá cuộc đời có Chúa cùng đồng hành với tôi trong moị lúc vui bùồn. Tôi chia sẻ cách cầu nguyện chung và riêng trong Gia đình thế nào?(Sùng đạo)
“While He was praying, His face changed in appearance and His clothes became dazzlingly white.” (Lc. 9, 29)
2/ Trong lúc các môn đệ đang bang hoàng sợ sệt thì: “từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta, người đã được tuyển chọn, haỹ vâng nghe Lời Người.” Đây chính là mời gọi của Chúa Cha với mọi Tín hữu là theo Đức Kitô thì hãy bỏ mình vác thập giá hàng ngày. Đây cũng là ân huệ Chúa ban cho bạn để trở nên môn đệ đích thực của Ngài. Những phương thế nào đã giúp bạn phục vụ anh em?(Hành đạo)
“Then from the cloud came a voice which said: This is My Son,My Chosen One. Listen to Him.” (Lc. 9, 35)
3/ Sách Sáng thế nói về lòng tin của Abram như sau: “Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.” Người đời ai cũng tìm tư lợi, nhưng Chúa chỉ tìm phần rôĩ và tiến bộ cho tôi, khi
tôi ký thác tất cả lo lắng nơi Ngài. Những cứu cánh mọi của cải là chính Chúa, hy vọng duy nhất vào Chúa là an uỉ hơn hết của đời tôi. Kể kinh nghiệm cụ thể khi để Chúa hoạt động trong đời tôi?(Sống đạo)
“Braham put his faith in the Lord, who credited it to Him as an act of righteouness.” (S.thế. 16, 6)
4/ Trong thư gởi Tín hữu Philipphê, thánh Phaolô kêu gọi: “Xin anh em hãy cùng nhau bắt chước tôi và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi…” Ông muốn nói lên mình cũng chỉ là người quyết noi gương Đức Kitô và muốn bạn cũng làm như ông. Đó là không tham, sân, si, được coi là những cản trở lớn làm bạn không gặp Chúa được. Thí dụ: gặp một chuyện nhỏ là ta nổi giận và muốn trả đũa ngay, có thể làm bạn mất ngủ! Nói những khó khăn bạn phải đối đầu trong cuộc sống?( Học đạo)
“Be imitators of me, my brothers. Take as your guide those who follow the example that we set.” ( Phil. 3, 17)
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God’s Word )
ĐÂY LÀ CON TA, NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC TUYỂN CHỌN, HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI.
This is My Son, My chosen One. Listen to Him. (Luca 9, 35 )
Mẹ Maria: Người con Mẹ sinh ra đã được Thiên Chúa đặt làm trưởng tử trong nhiều anh em. (GH# 62)
Vatican II: Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình để rao giảng Tin Mừng. (GD#2
C- Ngay tuần này tôi phải làm gì để lắng nghe Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action )
Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống
D- Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
Lạy Cha, Cha đã long trọng phán bảo: Đây là con Ta, người đã tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người. Xin Cha giúp con bắt chước và thực hành những điều Đức Kitô dạy và làm gương cho con.
Lời hay ý đẹp: ĐỨC TIN SỐNG LÀ ĐỨC TIN HÀNH ĐỘNG A living faith is a working faith Ptế. Nguyễn Định
Tuần trước Chúa vào sa mạc, chay tịnh, vượt thắng cám dỗ của ma quỷ, hôm nay Chúa lên núi, biến đổi thân xác một cách lạ thường. Đây đúng là mẫu thức bất di bất dịch của Chúa, chính Ngài đi trước làm gương, mở đường cho bạn và tôi, cho bất cứ người nào tin và theo Chúa : qua thập giá, mới đến vinh quang. Vì không có trường hợp ngoại lệ, miễn trừ, hôm nay Chúa đem theo ba môn đệ ưu tuyển lên núi cầu nguyện, Ngài biến hình làm cho các ông thích thú, cho thấy trước hạnh phúc, vinh quang các ông sẽ gặp. Ngài khuấy động đức tin, để các ông chuẩn bị tinh thần, đừng nao núng vì thập giá đang đón chờ Ngài phía trước.
Nhằm cũng cố đức tin các môn đệ, Chúa cố tình làm cho các ông thấy Ngài là Con Thiên Chúa, trung tâm của vũ trụ, Ngài dựng nên và toàn quyền trên mọi tạo vật của mình, Ngài kêu hai đầy tớ ưu tuyển : một đại diện cho lề luật, và một cho tiên tri trong thời Cựu Ước đó là Môsê và Êlia đến để đàm đạo. Rồi đám mây xuất hiện và lời phán của Thiên Chúa Cha : ban vinh quang và danh dự cho Con Mình, thế nhưng các môn đệ vẫn không hiểu -mãi lâu sau, khi Chúa đã về Trời, Thánh Phêrô mới nhận ra điều này, Ngài khẳng định trong thư thứ hai 1: 16-18- của mình.
Sự biến hình của Chúa hôm nay, chỉ là điển hình đơn giản, trong bối cảnh hạn hẹp dành riêng cho ba môn đệ, nếu so với bốn biến đổi quá mức tuyệt vời -mà trí khôn loài người không thể tưởng tượng nổi- trong chương trình cứu độ của Ngài : 1/ Trong Mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã thực sự trở thành con người bằng xương bằng thịt. 2/ Trong Mầu Nhiệm Thập Gíá, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu vô biên, sâu thẳm của mình đối với nhân loại. 3/ Trong Mầu Nhiệm Phục Sinh Ngài đã tỏ hiện cho chúng ta thấy quyền năng và vinh quang vô hạn của Ngài. 4/ Trong Mầu Nhiệm Thánh Thể Ngài tỏ hiện một cách thân thương, gần gủi trong Bí tích Tình Yêu.
Ngài biến đổi, Ngài cũng muốn chúng ta biến đổi. Trong lúc đang cầu nguyện Ngài biến đổi, phải chăng điều này dạy chúng ta rằng : muốn biến đổi phải cầu nguyện như Ngài. Hay nói cách khác phải kết hiệp với Ngài chúng ta mới có thể biến đổi. Là người Kitô hữu chúng ta quá quen thuộc với điều này, đến nỗi có người nói rằng cầu nguyện là sở trường của người tin Chúa, hoặc “Người chiến sĩ của Chúa Kitô, chiến đấu hay nhất bằng hai đầu gối của họ”. Trong mùa chay thánh này, mùa của nhìn lại chính mình, mùa tập luyện để biến đổi, ý thức lại về giá trị của việc cầu nguyện, cũng như tập thành thói quen cầu nguyện, là điều hết sức nên làm.
Sự Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay ban cho chúng ta niềm hy vọng, cho chúng ta thấy trước sự vinh quang với Chúa và trong Chúa. Nhưng muốn biến đổi không phải là điều đơn giản, vì nó không phải là cái gì có sẵn, hay dễ dàng, mà đòi hỏi thời gian, vì đây là một tiến trình vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta đối diện với thực tại hàng ngày của cuộc sống, nhiều khi phải lội ngược dòng đời, lột xác từng tí một, nhiều lúc phải chấp nhận thua thiệt, đắng cay, mất mát. Hôm nay năm đầy tớ ưu tuyển của Chúa, tiêu biểu cho cả Cựu và Tân Ước cùng chứng kiến sự kiện lạ lùng này. Họ cũng được can dự vào sự “biến đổi”. Họ là những chứng nhân sống động cho ý định độc đáo của Thiên Chúa là muốn hướng dẫn mọi người đến với vinh quang, đó là lý do Ngài đến trong thế gian này. Không phải Ngài nhập thể chỉ với ý định giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng còn hàm chứa một ước vọng ngập tràn yêu thương khác nữa : muốn cho nhân loại được tham dự vào sự sống vinh hiển, vĩnh cửu của Ngài.
Tóm lại, sự thay đổi là trọng tâm của mùa chay, và mục đích của Giáo hội là tìm cách cho con cái mình lãnh nhận dồi dào ân sủn g, để biến đổi họ trong vui mừng của Mầu Nhiệm Phục Sinh. Hôm nay Chúa dạy cho chúng ta bài học cầu nguyện, cầu nguyện thật sự, đúng cách sẽ biến đổi được tâm hồn con người, sẽ làm cho người khác nhận diện được sự thay đổi lạ lùng ấy -dĩ nhiên là qua những việc làm lành thánh-, đó là cầu nguyện, đàm đạo với Chúa về con đường đi đến đồi canvê, con đường khổ giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn từng ngày, từng lúc. Ước gì trong mùa chay thánh này, mỗi người tín hữu sẽ nhận ra được giá trị thật sự của cầu nguyện, biết trở về với Giáo Hội để lãnh nhận ân sủng, những ơn cần thiết, được ban nhưng không, để cùng được biến đổi, cùng được dự phần vào ngày vinh thắnng của Chúa. Nếu như không có Thứ Sáu Chịu Nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục Sinh. Đây là định luật bắt buộc cho bất cứ ai muốn tiến vào Vương Quốc Vĩnh Cửu của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng thuật lại cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên một quả núi, trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan (x. Lc 9,28).
Việc hiển dung này xảy ra vào “khoảng tám ngày” sau khi Đức Giêsu tiên báo lần thứ nhất về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp phải chịu (c.22). Trong lúc cầu nguyện, “Dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (c. 29), có hai vị chứng nhân của Cựu Ước là Môsê vàÊlia hiện ra đàm đạo với Người về “cuộc Xuất Hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c.31). Phêrô trong lúc cao hứng đã lên tiếng xin Đức Giêsu cho các ông dựng ba cái lều cho ba vị (c. 33). Rồi có một đám mây bao phủ lấy các ông và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha tuyên phán : “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (c. 34-35).
Sau khi cuộc biến hình chấm dứt, các môn đệ đã “nín thinh, không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã chứng kiến” (c. 36).
2) CHÚ THÍCH :
- Hôm ấy Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9,28b-29) :
+ Đức Giêsu lên núi : Núi này có thể là núi Her-mon, cao 2.795 mét ở gần thành Xê-da-rê Phi-líp. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải nghiêng về ý kiến thứ hai : Đó là núi Tha-bo, cao 562 mét, cách thành Xê-da-rê Phi-líp một đoạn đường đi bộ từ 6 đến 8 ngày.
+ Cầu nguyện : Tin Mừng Luca nhiều lần ghi lại những lần Đức Giêsu gặp gỡ cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 10,21; 22,41-42; 23,34.46).
+ Đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê : Ba ông này là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu. Là những người nhiệt tình yêu mến Thầy và sau này sẽ được trao những nhiệm vụ khó khăn (x. Ga 20,21; 21,15-17), sẽ được chứng kiến giờ đau khổ tột cùng của Thầy trước khi bị bắt (x. Mt 26,37), nên Đức Giêsu đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để các ông thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua cơn thử thách ấy.
+ Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác : Vì giảng Tin Mừng cho các tín hữu gốc ngoại giáo theo văn hóa Hy-lạp, nên Luca tránh dùng từ “biến đổi hình dạng” (x. Mt 17,2; MC 9,2). Trong tiếng Hy-lạp, từ biến hình mang tính huyền thoại, nên Luca diễn tả bằng một ngôn ngữ khiêm tốn hơn : Gương mặt Đức Giêsu trở nên “khác thường”. Sự đổi khác này phát xuất từ trong tâm hồn biểu lộ ra ngoài mặt và được gọi là “vinh quang của Người” (Lc 9,32; 2 Cr 3,18).
+ Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa : Y phục trắng tinh chói lòa là dấu chỉ của các vị thánh trên trời. Chẳng hạn : Vị Bô Lão : “Ao Người trắng như tuyết” (x. Đn 7,9); Các thiên thần : “Hai người đàn ông y phục sáng chói” (Lc 24,4b); hay các tín hữu được tham phần vinh quang với Đức Giêsu Phục Sinh : “Ai thắng sẽ được mặc áo trắng…Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế” (x. Kh 3,4-5; 7,9).
- Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Elia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (Lc 9,30-31) :
+ Ông Môsê và ông Elia : Ở đây hai ông Môsê và Elia xuất hiện như những chứng nhân của Cựu Ước.
* Môsê : Một nhà thiết lập Lề Luật, sống vào thế kỷ XII trước Công Nguyên. Sứ mệnh của ông là cứu dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn họ trở về miền đất hứa là Canaan. Môsê chính là tiền ảnh của Đức Giêsu sau này.
* Elia : là một ngôn sứ trứ danh sống vào thế kỷ IX trước Công Nguyên, trong thời kỳ các vua. Ong có sứ mệnh chấn hưng tôn giáo, giải phóng dân Do thái khỏi thần tượng Ba-an của dân ngoại đang chiếm chỗ của Thiên Chúa. Ong là tiền ảnh của vị tiền hô là Gioan Tẩy Giả sau này, được báo sẽ đến trước Ngày của Đức Chúa (x. Ml 3,23-24), để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lưu truyền Do thái tin rằng Elia chưa chết và sẽ trở lại trần gian khi Đấng Thiên Sai quang lâm (Ê-nóc; 4 Et-ra); Lưu truyền này thể hiện trong Tin Mừng khi các Tư tế và Lê-vi hỏi Gioan : “Ong có phải là Êlia không?” (Ga 1,21); Các Kinh sư tin rằng Elia sẽ đến trước Đấng Thiên Sai (x. MC 9,11).
+ Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển : Vì được tham dự vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, nên Môsê và Elia cũng được tham phần vào vinh quang của Đức Giêsu.
+ Nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem : “Xuất hành” nghĩa là ra đi. Cuộc xuất hành của Đức Giêsu sẽ gồm ba mầu nhiệm là : chết, sống lại và lên trời. Những ai tham dự vào các mầu nhiệm này với Đức Giêsu, cũng sẽ được cùng Người đến với Thiên Chúa. Cuộc “xuất hành” của Đức Giêsu sẽ được hoàn tất tại Giêrusalem.
- Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho Môsê, và một cái cho ông Elia”. Ông không biết mình đang nói gì (Lc 9,32-ABC33) :
+ Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt : Sự kiện các môn đệ ngủ mê cho thấy việc Hiển Dung xảy ra vào ban đêm. Vào trước cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cũng đưa ba ông này đi theo đến vườn Ghết-sê-ma-ni (nghĩa là Bồn ép dầu). Trong lúc Người cầu nguyện thì các ông lại cũng ngủ mê, đến nỗi Người phải nhiều lần phiền trách (Mt 26,40. 43-45).
+ Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người… : Các môn đệ bấy giờ đang nửa tỉnh nửa mê. Các ông không thể nói rõ ràng khi tiếp xúc với thần linh. Khi Môsê và Elia rời đi thì Phêrô mới ấp úng để xin được dựng lều.
+ Chúng con ở đây thật là hay !…Ông không biết mình đang nói gì ! : Phêrô mơ ước kéo dài cảnh này. Ông nói trong lúc còn nửa mê nửa tỉnh
+ Chúng con xin dựng ba cái lều : Một cái cho Thầy, một cái cho Môsê và một cái cho ông Elia : Lúc đó là tuần lễ Lều tại Giêrusalem (x.Lv 23,33-34; Ds 29,12-ABC38).
* Về ý nghĩa của Lều : Cũng như lễ Vượt Qua và Ngũ Tuần, lễ Lều có hai ý nghĩa : Lúc đầu mang ýnghĩa mừng lễ dâng sản phẩm đầu mùa. Đây là lễ tưởng nhớ công ơn Đức Chúa đã cho “thu hoạch lúa đầy sân và rượu đầy bồn” (x. Đnl 16,13; Xh 23,16). Về sau, người ta nối kết lễ này với việc kỷ niệm biến cố Xuất hành như Lời Đức Chúa tuyên phán như sau : “Vào tháng Bảy, các ngươi phải mừng lễ đó. Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây…(Lv 23,41-43).
- Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta, ngươi đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh. Và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy (Lc 9,34-36) :
+ Có một đám mây bao phủ các ông : Đám mây bao phủ các môn đệ giống như thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35; Ds 9,18-22; 10,34). Khi truyền tin, sứ thần cũng dùng từ “rợp bóng “ như sau: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
+ Các ông hoảng sợ: Đây là thái độ thường tình của người phàm khi tiếp xúc với Thần Linh. Chẳng hạn : Dacaria “hoảng sợ” khi thấy sứ thần hiện ra trong lúc đang dâng hương trong Đền Thờ (x. Lc 1,11-12); Sứ thần cũng trấn an Đức Maria khi truyền tin : “Đừng sợ” (x. Lc 1,30); Sau mẻ cá lạ lùng, Phêrô sợ hãi sấp mặt dưới chân Đức Giêsu (x. Lc 5,8.10); Trong lúc Đức Giêsu biến hình, ba môn đệ “hoảng sợ” khi được đám mây bao phủ (x. Lc 9,34b); Các môn đệ “hoảng hốt” và “sợ hãi” la lên, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển (x. Mt 14,26-27); Mấy người phụ nữ đi thăm mộ Đức Giêsu đã “sợ hãi” khi gặp hai thiên thần (x. Lc 21,5); Các môn đệ đã “kinh hồn bạt vía” khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh (x. Lc 24,37-40).
+ “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” : Chúa Cha phán từ trong đám mây xác nhận Đức Giêsu là Con. Đức Giêsu chính là “Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 49,7). Ngoài ra, trong cuộc khổ nạn, các thủ lãnh cũng sử dụng từ này : “nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được tuyển chọn” (Lc 23,35)
+ “Hãy vâng nghe lời Người !” : Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 1,14). Người luôn nói lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34) và lời Người cần phải được đón nhận.
+ Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh…không kể lại cho ai biết gì cả những điều mình đã chứng kiến : Cuộc hiển dung chấm dứt sau lời tuyên phán của Chúa Cha. Các môn đệ giữ im lặng, chờ ngày các mặc khải kia được thực hiện. Sau khi Đức Giêsu lên trời, các ông đã ra đi cống bố Tin Mừng, thâu nạp muôn dân làm môn đệ của Người, để nghe Lời Người, và được chia sẻ vinh quang với Người.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
Chủ đề : Thời kỳ hoán cải đổi mới
- Lời Chúa : “Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9,29)
- Câu chuyện 1 : Một cuộc hoán cải lạ lùng
Trong một nhà tù giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là Si-Ta Đe-Li (Starr daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say xỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố như sau : “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả bao nhiêu. Phải nói thật là : chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh ! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án được. Lần này anh bị phạt tù 10 năm”.
Sau đó, khi vào tù Đe-li vẫn tỏ ra ngoan cố, coi thường kỷ luật nhà tù hơn mấy lần trước. Anh ta thường xuyên gây sự và đánh đập các bạn tù và có thái độ chống lại nhân viên cai tù, đến nỗi cuối cùng anh ta bị biệt giam trong một hầm tối tăm dơ bẩn và đầy chuột cống…Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đe-li nghe thấy có tiếng nói với mình như sau : “Hỡi Đe-li, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này ? Tại sao mọi người đều thù ghét mi ? Tại sao mi không dùng sức lực để làm điều tốt, mà cứ làm điều ác chống lại kẻ khác ?…” Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn Đe-li khiến anh luôn suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đe-li đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời từ năm 12 tuổi. Từ đó, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn anh và nói với anh những lời dạy mà anh đã từng thuộc lòng khi học giáo lý trước đây : “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”; “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”…Anh cảm thấy tâm hồn bình an mà từ trước đến nay anh chưa bao giờ được hưởng. Rồi những ngày sau đó, khuôn mặt của những người đã từng bị anh hãm hại cứ lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận về những tội đã làm cho kẻ khác. Lần đầu tiên, anh đã cầu nguyện như người thu thuế trong Tin Mừng : “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đe-li từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái ! Sự biến đổi nội tâm đã khiến Đe-li không còn hay la hét và đập phá như trước, khiến các nhân viên cai ngục thắc mắc và sau đó đã nhận ra có sự biến đổi nơi con người của Đe-li. Họ cho anh được về lại nơi giam giữ chung các tội nhân thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử thật tốt với các bạn tù : luôn bênh vực những người mới đến chống lại những kẻ chuyên đàn áp bóc lột bạn tù. Nhờ đó anh được mọi người quí mến. Rồi anh được xét giảm án từ mười năm xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh liền xin gia nhập vào một hội thiện nguyện có tên là “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên uý và các bạn cùng chí hướng, Đe-li thường xuyên đi thăm viếng ủy lạo tù nhân trong các trại. Nhờ đó nhiều người đã được đánh giá tốt và sớm được tha để về đoàn tụ với gia đình.
Về cuộc hoán cải kỳ diệu của Đe-li, linh mục Pi-tơ Mác-sôn (Peter Marshall), tuyên úy của quốc hội Mỹ đã bình luận như sau : “Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động cho thấy : Anh không phải chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa !”.
- Suy niệm :
+ Cuộc biến đổi lạ lùng đã xảy ra cho Đe-li cũng giống như cuộc biến hình của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay (Lc 9,29). Cuộc biến đổi diệu kỳ giống như Đe-li cũng vẫn thường xảy ra nơi nhiều người : Thiên Chúa vẫn không ngừng làm phép lạ để biến đổi người ta từ tình trạng khô khan tội lỗi trở nên đạo đức thánh thiện như Mađalena và Augustinô…
+ Cuộc biến đổi kỳ diệu của Đe-li trong câu chuyện trên là nhờ ơn Chúa tác động do lời cầu nguyện và sự vâng nghe Lời Chúa :
* Nhờ lời cầu nguyện : Như Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng khi đang cầu nguyện, thì Đe-li cũng được biến đổi nên con người mới, khi anh ý thức thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa trợ giúp. Người tín hữu chúng ta cũng chỉ được biến đổi nên tốt lành thánh thiện khi biết cậy nhờ vào Chúa : “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5).
* Nhờ vâng nghe Lời Chúa : Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã nhận Đức Giêsu là Con và là Người được tuyển chọn và kêu gọi các môn đệ : “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Đe-li sau khi trở lại, đã gia nhập vào nhóm thiện nguyện và được học sống lời Chúa. Chính Lời Chúa đã tỉa sạch các thói hư tật xấu nơi con người của anh và đã biến đổi anh trở nên một tạo vật mới hoàn toàn của Thiên Chúa (x. Ga 15,2).
- Thảo luận : Cầu nguyện, ăn chay và bố thí hay chia sẻ cơm bánh cho người nghèo là 3 việc Chúa dạy làm trong Mùa Chay để được ơn biến đổi nên Con yêu của Chúa. Vậy bạn làm thế nào để có thể thực hiện được các việc đạo đức ấy ?
** Câu chuyện 2 : Người mù cũng cần có ánh sáng
+ Trong một thành phố nọ, chính quyền thành phố đã cho xây một ngôi nhà nuôi dạy trẻ em khiếm thị. Nhà đầu tư xây dựng cho rằng người mù không trông thấy gì nên không cần ánh sáng, mà chỉ cần thông thoáng là đủ. Do đó, họ xây những căn nhà không có cửa sổ và bù vào đó, họ lắp đặt hệ thấng máy điều hòa không khí đầy đủ. Nhưng khi trẻ em mù về ở được một thời gian thì người ta đã phát hiện ra có những triệu chứng bất thường về sức khỏe : Hầu hết các em đều bị xanh xao ốm yếu, thiếu vui tươi sinh động, hay bị đầy bụng táo bón và cảm ho…và rồi có hai em bị chết. Bác sĩ chữa bệnh tìm ra nguyên nhân của các chứng bệnh nói trên là do các em thiếu ánh sáng mặt trời. Thì ra tuy mắt bị mù không cần ánh sáng, nhưng ánh sáng mặt trời vẫn rất cần cho sứa khỏe nói chung của các em. Từ khi người ta làm thêm nhiều cửa kính để các phòng ngủ và các phòng sinh hoạt đều chan hòa ánh sáng mặt trời, thì các hiện tượng trên đã dần dần biến mất. Các em trở nên vui tươi, sinh động và sức khỏe tốt hơn trước rất nhiều.
+ Giống như các em khiếm thị trong câu chuyện trên, các tín hữu chúng ta cũng rất cần tới ánh sáng Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu. Anh sáng đó chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh và Ơn thánh Chúa ban qua các phép bí tích. Nếu không có Lời Chúa soi chiếu và Mình Thánh Chúa ban sự sống …thì chắc chắn đức tin của chúng ta sẽ bị suy yếu và có nguy cơ bị chết. Vì “đức tin không việc làm là thứ đức tin đã chết” (Gc 2,17).
** Câu chuyện 3 : Các thánh là người được ánh sáng chiếu qua.
Ngày nọ, một bé gái lần đầu tiên theo mẹ đến nhà thờ dự lễ. Khi đến gần nhà thờ, em bé đưa tay chỉ lên những ô cửa kính màu và nói với mẹ rằng : “Mẹ coi kìa ! Mấy ô cửa kính của nhà thờ này sao mà để bụi bậm bám vào, trông chẳng đẹp chút nào !”. Bà mẹ im lặng cầm tay con dẫn vào nhà thờ. Rồi bà chỉ cho con nhìn lên các ô cửa kính khi nãy. Từ trong nhà thờ nhìn ra, các ô cửa kính dơ bẩn xấu xí kia đã trở nên rực rỡ và có nhiều màu sắc rất đẹp. Em bé thích thú nhìn ngắm các tấm ảnh đạo rút từ thánh kinh. Nhất là em chú ý đến hình của 4 vị thánh tác giả của 4 Tin Mừng là Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan được vẽ trên các ôn cửa kính phía sau bàn thờ chính. Những bức họa này sáng rực lên nhờ ánh sáng mặt trời chiếu qua. Sau đó em đã được mẹ kể cho nghe hạnh các thánh ấy.
Mấy ngày sau, trong buổi học giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi lớp học : “Các em có biết các thánh là ai không ?”. Cả lớp đều im lặng vì không em nào biết rõ. Riêng em bé đã được mẹ kể cho nghe hôm trước đã giơ tay xin trả lời : “Thưa cô, các thánh là những người được ánh sáng mặt trời chiếu qua !”.
+ Thực vậy, Chúa Giêsu là mặt trời công chính, đã chiếu tỏa ánh sáng của Người vào trần gian u tối, Ai để cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu soi tâm hồn của mình thì nhờ ánh sáng của Chúa, người ấy sẽ trở nên rực sáng huy hoàng với muôn màu ân sủng.
+ Một khi được ánh sáng chiếu soi thì được đầy ánh sáng của Chúa, chúng ta cũng có bổn phận phải chiếu giãi ánh sáng ấy bằng những việc lành như lời Chúa dạy : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Xin hãy biến đổi con người của con trong những ngày Mùa Chay thánh này : Xin biến đổi con trở nên giống Chúa hơn sau mỗi lần con được gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa. Xin biến đổi cái nhìn của con trở nên dịu hiền khi con nhìn anh em, mỗi khi con cảm thấy Chúa nhìn con. Xin biến đổi miệng con, để chỉ nói những lời động viên an ủi những ai đang gặp đau khổ, mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa. Xin biến đổi đôi tai con để lắng nghe cà cảm thông với tha nhân mỗi lần con được nghe Lời Chúa giáo huấn con. Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời vinh quang của Chúa, mỗi khi con gặp Chúa khi con cầu nguyện và trong cuộc sống đời thường của con.
Lạy Chúa, Ước chi mọi người sẽ nhận ra sự vui tươi của Chúa trong nụ cười của con; Ước chi họ nhìn thấy sự dịu hiền và bao dung của Chúa trong lời nói và cử chỉ của con. Con biết rằng : Thế giới hôm nay không cần những tín hữu buồn rầu chán nản, nhưng cần những con người nhiệt tình, sẵn sàng đón nhận những đau khổ con gặp trong cuộc sốngthường ngày. Nhờ đó hy vọng con sẽ ngày một biến đổi nên giống Chúa hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để hồi tâm sám hối và đổi mới đời sống. Đây cũng là cơ hội thuận tiện giúp chúng con làm các việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và rộng tay chia sẻ cơm bánh vật chất cho người nghèo chung quanh chúng con. Xin Mẹ giúp con ý thức rằng : Tấm bánh con để dành được là của những người đói; Chiếc áo dư dùng con đang cất trong tủ là thuộc về những người thiếu áo mặc che thân. Tiền bạc con đang cất giữ là số tiền thuộc về những người đói thuốc men chữa bệnh, những kẻ lang thang, những người già cả neo đơn bị con cháu bỏ rơi…Tóm lại : bao nhiêu đồ vật dư dùng; bao nhiêu đồ ăn thừa thải lảng phí, bao nhiêu tiền bạc con thu lợi bất chính…đều là của tha nhân. Con hiểu rằng nguồn gốc những bất công xã hội chẳng ở đâu xa, mà nằm ngay nơi thái độ ích kỷ, kép kín cửa lòng của con. Con cũng phải chịu một phần trách nhiệm về những đau khổ và những nỗi bất công mà những người nghèo khổ phải gánh chịu.
Lạy Mẹ Maria : Vũ trụ, trái đất với mọi tài nguyên của nó đều là quà tặng mà Chúa Cha ban cho mọi dân tộc và mọi người sống trên trần gian. Hiện nay vẫn còn có sự chênh lệch giữa người giàu kẻ nghèo, là để chúng con biểu lộ tình thương chia sẻ. Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều người đói nghèo, dốt nát, bệnh tật…chính là vì chúng con đã quá tham lam ích kỷ, giữ lại cho mình quá nhu cầu cần dùng. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống quảng đại, biết làm giàu về mặt thiêng liêng ân sủng, bằng sự chia sẻ của cải vật chất cho tha nhân, an ủi động viên những người đau khổ…Nhờ đó thiên hạ sẽ nhận ra chúng con thực sự là con của Chúa Cha, là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu là con yêu của Mẹ.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
* St 15, 5-12. 17-18: (5) «Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!» (6) Abraham tin Đức Chúa, vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
* Pl 3, 20-4, 1: (20) Quê hương chúng ta ở trên trời (…) (21) Người sẽ biến thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.
* TIN MỪNG: Lc 9, 28b-36 Đức Giêsu hiển dung (Mt 17, 1-8; MC 9, 2-ABC8)
(28) Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. (29) Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. (30) Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. (31) Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (32) Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người. (33) Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: «Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia». Ông không biết mình đang nói gì. (34) Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. (35) Và từ đám mây có tiếng phán rằng: «Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!» (36) Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo Ngài thay đổi, y phục chói lòa, sự hiện diện của Môsê và Êlia có ý nghĩa gì?
2. Đức Giêsu có thần tính, vì Ngài là Con Một Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có thần tính và có là con cái của Thiên Chúa không? Thần tính của Ngài và của ta khác nhau chỗ nào?
3. Ý thức về thần tính của mình quan trọng thế nào trong sự phát triển tâm linh? Bj không ý thức về nó, ta có sử dụng được nó không?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa mặc khải thần tính của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng nói về việc Thiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các ngôn sứ loan báo mấy trăm năm trước. Trong đời sống thường ngày ở bên cạnh Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được nhân tính của Ngài. Vì Ngài sống không khác bất kỳ một người bình thường nào: cũng ăn, uống, cũng vất vả, mệt nhọc, cũng vui buồn, tức giận… y hệt mọi người. Nếu có gì khác thì chỉ là Ngài làm được những phép lạ phi thường. Điều này chỉ gợi ý cho các ông nghĩ rằng Ngài là một người phi thường tương tự các ngôn sứ xưa mà thôi, vì các ngôn sứ ngày xưa cũng lắm khi làm được những phép lạ.
Nhưng hôm nay Thiên Chúa tỏ cho các ông thấy Đức Giêsu không chỉ có nhân tính, mà còn có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh. Tuy nhiên, tất cả những gì các ông thấy hôm nay chỉ là những biểu tượng thần bí nói lên bản tính thần linh nơi con người Đức Giêsu mà các ông không thể thấy được bằng trí tuệ hay con mắt xác thịt của các ông.
- Trước hết các ông thấy: «Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà». Tin Mừng Matthêu nói: «Dung nhan Người chói lọi như mặt trời» (Mt 17,2). Và có tiếng phán từ trong đám mây «Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!». Đó là những biểu tượng cho các ông thấy Đức Giêsu có thần tính: Ngài là Con Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa.
- Các ông còn thấy «có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia». Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật pháp, vì ông là người lập ra luật pháp, nền tảng thành văn của Do Thái giáo. Êlia, ngôn sứ vĩ đại nhất, đại diện cho các ngôn sứ là những tiếng nói của Thiên Chúa giữa con người. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. Trong sách Đệ Nhị Luật, Môsê viết: «Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy» (Đnl 18,15). Còn Êlia được ngôn sứ Malakia tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giêsu đến: «Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng» (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến (x. Mt 17,10-12; MC 9,12-ABC13).
2. Thần tính của chúng ta, những người Kitô hữu
Đức Giêsu có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh, cũng là Thiên Chúa. Thế còn chúng ta, những con người được Thiên Chúa tạo dựng thì sao? Kinh Thánh mặc khải cho ta biết con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6), được tạo dựng «giống như Thiên Chúa» (St 1,26b). Hình ảnh của một người không phải là người ấy nhưng giống hệt như người ấy, khiến ai nhìn vào hình ảnh ấy có thể phần nào thấy được chính người ấy. Hai vật hay hai người đã gọi là giống nhau, nhất là khi nói người này là hình ảnh của người kia, ắt phải giống rất nhiều điểm, hay rất giống ở những điểm cốt yếu. Người và chó đều có thân xác vật chất (cũng có đầu, mình, tứ chi, mắt mũi, v.v…), nhưng không ai nói người và chó giống nhau. Vậy, con người «giống như Thiên Chúa» ở chỗ nào? Thánh Phêrô hé mở cho chúng ta biết: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Như vậy, điều khiến con người giống Thiên Chúa chính là bản tính thần linh mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta. Bản tính thần linh chúng ta có được là do Ngài thông ban cho khi tạo dựng nên ta, khác với bản tính thần linh ở nơi Ngài là do tự bản chất vốn có của Ngài.
Nếu không có bản tính thần linh này trong chúng ta, chúng ta không bao giờ có thể nên thánh như Thiên Chúa đúng như Đức Giêsu đã mời gọi ta được: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Cũng như con chó không có bản tính người nên không thể có những đặc tính như con người (suy nghĩ, nói năng, yêu thương, hướng thượng, tự do…). Thiên Chúa tự bản chất là tình thương và là thánh, con người vì giống Thiên Chúa từ bản chất nên cũng có khả năng yêu thương và nên thánh. Vua Đavít đã được thần hứng để nhận ra và nói lên chân lý này: «Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao» (Tv 82,6; x. Ga 10,34-35). Nếu chúng ta không có bản tính thần linh, chúng ta không thể là con cái Thiên Chúa đúng nghĩa như Kinh Thánh vẫn nói: chúng ta «là con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6). Chính vì chúng ta có thần tính mà Đức Giêsu dám quả quyết: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Điều quan trọng để thần tính ấy hoạt động là đức tin.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, biểu tượng nói lên bản tính thần linh của các tông đồ là: «có một đám mây bao phủ các ông». Tiếng của Thiên Chúa phán ra từ đám mây, vì thế đám mây tượng trưng cho thần tính. Và trong bài đọc II, thánh Phaolô cho ta thấy nguồn gốc hay «quê hương của chúng ta là ở trên trời» (Pl 3,20; x. Dt 11,16). Đó cũng là một biểu trưng cho thần tính của chúng ta.
3.Ý thức bản tính thần linh của mình và sống với bản tính ấy là cốt tủy của đời sống tâm linh kitô hữu
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu cho thấy bản tính thần linh của Ngài. Chỉ những ai được Thiên Chúa mặc khải mới biết bản tính ẩn dấu này ở nơi Ngài. Thần tính của Đức Giêsu là thần tính thường hằng, không thay đổi. Còn thần tính của chúng ta là thần tính cần phải vun trồng mới phát triển. Có thể minh họa điều này bằng sự phát triển của một cái cây. Thần tính được Thiên Chúa thông phần và ươm sẵn trong chúng ta tương tự như một cái hạt có thể nảy mầm và phát triển thành cây tùy theo sự vun trồng, chăm sóc của mỗi người. Nếu không có sự quan tâm, chăm sóc, vun trồng, thì cái hạt tâm linh của ta vẫn mãi mãi là một cái hạt, hoặc nếu có nẩy mầm thì sẽ thành một cái cây èo ọt, không sinh hoa kết trái. Trái lại, nếu được vun trồng và chăm sóc cẩn thận, nó sẽ phát triển thành một cây lớn với cành lá xum xuê và sinh nhiều hoa trái. Dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu (x. Mt 13,31-32; MC 4,30-32; Lc 13,18-19) có thể áp dụng cho thần tính hay Nước Trời, được ươm giống trong bản thân mỗi người chúng ta.
Điều quan trọng nhất để hạt giống thần linh hay mầm thần tính ấy phát triển là phải tin vào thần tính ấy, thường xuyên ý thức về nó, và sống phù hợp với thần tính ấy. Nếu không có thần tính, chúng ta không thể có sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh. Nếu không ý thức về thần tính ấy, sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh của ta không phát triển được. Thật vậy, làm sao sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh có thể phát triển khi ta không hề ý thức mình có nó hay không hề cảm nghiệm được nó nơi bản thân? Càng ý thức về nó, càng sống phù hợp với ý thức đó thì tâm linh càng phát triển cùng với sức mạnh và quyền năng của nó. Người có đời sống tâm linh phát triển - tức người ý thức mạnh mẽ và thường xuyên về thần tính của mình - sẽ luôn luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc, đầy tự tin vào sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa nơi mình. Thánh Phaolô kể ra những hoa trái của đời sống tâm linh hay sự sống bằng Thần Khí ấy: «Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-ABC23). Ý thức thường xuyên về thần tính của mình là một hình thức cầu nguyện và kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu. Nó sẽ đem lại một sự thay đổi sâu xa trong đời sống tâm linh của ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã thông ban thần tính hay sự sống siêu nhiên của Cha cho con người ngay từ khi tạo dựng nên con người. Con người sẽ hạnh phúc biết bao khi biết và ý thức được điều ấy, nhất là khi hưởng được hoa trái của thần tính ấy trong đời sống hằng ngày của mình. Xin cho con ý thức được ân huệ cao quí ấy mà Cha đã ban cho con. Đừng để con giống như người có một kho tàng vô cùng lớn lao nhưng không hề biết đến nên không hưởng được một ích lợi nào từ nó cả. Amen.
Phụng vụ Thánh lễ Chúa nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay cho các tín hữu chúng ta nghe bài Phúc Âm Chúa Giêsu hiển dung trên núi theo Thánh Luca. Chúng ta đã hiểu câu chuyện quen thuộc này về phương diện chú giải Thánh Kinh, nên ở đây chúng ta cùng nhau đi vào những suy niệm mà bài Phúc Âm gợi ra cho chúng ta trong bối cảnh Mùa Chay.
Chúa Giêsu đã đem theo mình Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi để cầu nguyện. Mùa Chay là thời gian hồng ân để chúng ta cùng lên núi với Chúa mà cầu nguyện. Cầu nguyện là sự tối cần thiết để chúng ta có thể "sám hối tận tâm can", như sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha đã gởi cho đoàn chiên hoàn vũ.
Và trong lúc Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha mình, "dung nhan mặt Ngài đã ra khác, y phục Ngài nên trắng ngời chớp sáng". Điều này mặc khải Chúa Giêsu là thánh. Ngài đã hiện ra trong vinh hiển sáng ngời, và đó là chân dung đích thật của Ngài ở trên trời.
Môsê và Êlia đã xuất hiện đàm đạo với Chúa Giêsu, và trong vinh quang, hai vị đã nói đến việc "ra đi của Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem". Thủ lãnh Môsê đã đem một đoàn dân Do Thái bị bắt làm nô lệ cho Ai Cập, vượt qua biển đỏ ráo chân để tiến về Đất Hứa, nơi "chảy sữa và mật ong". Chúa Giêsu cũng sẽ vượt qua đau khổ và sự chết, để bước vào khải hoàn phục sinh.
Trong lúc những sự kỳ diệu này xảy ra, thì Phêrô và hai bạn mình lại "li bì giấc ngủ". Chúng ta cũng vậy, cầu nguyện thì ít mà li bì giấc ngủ thì nhiều. Satan và ma quỉ cám dỗ chúng ta làm như vậy. Mùa Chay kêu gọi chúng ta tỉnh dậy -- tỉnh dậy khỏi tội lỗi và những say đắm mê ngủ của mình.
Tuy nhiên khi tỉnh dậy, các ông còn được nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu cùng hai vị đứng với Ngài. Đến lúc hai vị từ biệt Chúa Giêsu, Phêrô đã thưa với Ngài xin dựng ba cái lều cho Chúa Giêsu và hai vị ấy. Thánh sử Luca nói rằng Phêrô "không biết mình nói gì!" Phêrô đã xin một điều ảo vọng!
Môsê và Êlia đi vào đám mây, và một tiếng phán ra từ đám mây đó: "Ngài là Con Ta, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe Ngài". Tiếng này là tiếng nói của Cha, như Người đã phán lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa của Gioan Tẩy Giả dưới dòng sông Giođan, xác nhận Chúa Giêsu là Con của Cha, được Cha sai xuống trần gian để cứu chuộc loài người trầm luân.
Và tiếng nói của Thiên Chúa Cha đã yêu cầu các môn đồ "hãy nghe Ngài". Mùa Chay cũng nhắc nhở chúng ta như thế. Nghe lời Chúa Giêsu là nghe giáo huấn của Ngài, nghe giới luật mới của Ngài, đó là Giới Luật Yêu Thương. Chúng ta phải tuyệt đối nghe lời Chúa Giêsu, chứ không phải là nghe lời của một ai khác, không nghe lời của thế gian mời mọc mình sa đọa, không nghe lời của xác thịt dục tình réo gọi mình ngày đêm.
Khi tiếng của Cha phát ra, thì chỉ còn "một mình" Chúa Giêsu. Ngài trở về với thực tại và sứ mạng trần thế của mình. Ngài sẽ phải đi con đường khổ nạn như ý muốn của Cha mình. Ngài sẽ phải vác cây gỗ nặng nề lên đồi Can-vê một mình, bị đóng đinh đớn đau một mình, rồi hy sinh tử nạn một mình, trong cô đơn của nhân tính. Nhưng sau ba ngày, Ngài sẽ hiển vinh phục sinh trong quyền năng Thánh Thần.
Khi nghe lời nói của Thiên Chúa Cha, các môn đồ đã "nín thinh". Các ông không thể nói ra điều gì trong tình cảnh lạ lùng này. Phêrô không còn có thể lên tiếng xin dựng lều cho Thầy mình nữa, bởi ông đã hiểu rằng Ngài không muốn điều ấy, Ngài không muốn ông xây nhà cho mình trên ngọn núi này. Ngài đã sống như một người nghèo, nghèo hơn bất cứ người nghèo nào khác, còn nghèo hơn chim trời vì chúng còn có tổ, còn nghèo hơn cả loài chồn vì chúng còn có hang, trong khi Con Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng trời đất giầu có vô song, lại không có đến một viên đá để gối đầu. Nhưng đó là sự chọn lựa tự do của Ngài: Ngài đã hủy mình ra không!
Chúa Giêsu và ba môn đồ xuống núi… Và các ông "không hề mách lại gì cho ai hay các điều mình đã được trông thấy cho đến mãi về sau". Chúa Giêsu đã căn dặn các ông giữ kín bí mật - bí mật thiên sai - cho tới khi Ngài sống lại từ kẻ chết.
Chúng ta cũng vậy, sống Mùa Chay là giữ kín cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cầu nguyện và suy niệm, nghĩa là chúng ta phải sống mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong cuộc đời mình, suốt cuộc hành trình từ đất về trời, từ cõi tạm dung về cõi vĩnh hằng.
Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
* Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng khác xa Ngài.
* Sở dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.
* Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân riêng của Ngài.
Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.
2. Đáp ca (Tv Tv 26)
Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài.
3. Tin Mừng (Lc 9,28-36)
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:
1. Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:
* Việc biến hình xảy ra "khoảng 8 ngày sau", tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
* Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài "về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
* Tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn" là trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.
Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
4. Bài đọc II (Pl 3,17--4,1)
Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài. Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ơn gọi và Biến hình
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: "Saulê, sao người bắt bớ Ta?". Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân... Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng "Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài". Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát "Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời" đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: "Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác".
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện". Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô "vạn lý trường chinh" trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san "Dân Chúa Mỹ Châu")
2 * Hai ngọn núi
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
* cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây Dầu.
* ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi Cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
* Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và 2 điểm phụ: 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
- Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình...
- Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình... Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói "Đây là con yêu dấu của Ta" (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).
"Lạy Chúa
Xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.
Trong những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con yêu dấu của Cha.
Và lạy Chúa
Khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con." (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
* 3. Nét mặt con người
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng "mặt" để nói về người khác. Chẳng hạn: "Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó". Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ...
Chúng ta cũng thường nói "mất mặt". Trong trường hợp này, 'mặt" chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có "hai mặt" thì có nghĩa đó là một con người dối trá...
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ... Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.
Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông... Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán "Đây là Con yêu quý của Ta".
Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
* 4. Một thoáng vinh quang
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: "Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng".
Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: "Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi... Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài" (1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
5. Người vẫn đồng hành
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: "Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?"
* Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!" (Lc 9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta...
Chính vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (TP)
6. Chuyện minh họa
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
2. Như thánh Phêrô / ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy phục vụ tha nhân.
3. Trong đời sống thường ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ nâng.
4. Đây là Con yêu dấu của Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Sau khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.
Dưới nhãn quan của thánh sử Luca : cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc hành trình đi lên Giêrusalem. Nơi đó Ngài sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Nơi đó Tin Mừng Phục Sinh bắt đầu được công bố và rao truyền cho đến tận cùng trái đất. Như vậy có thể nói Giêrusalem vừa là điểm hội tụ của biết bao điều xấu xa tội lỗi của con người, vừa là điểm xuất phát tình thương và ơn huệ của Thiên Chúa.
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là, sau khi thánh Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ lên Giêrusalem chịu đau khổ và chĩu chết và Phục Sinh, cho nên các ông lo lắng hoang mang. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu đã biến đổi hình dạng vinh quang sáng láng trên một ngọn núi. Qua biến cố biến hình, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ và loan báo về sự Phục Sinh của Ngài.
Hôm nay, trong ngày Chúa Nhật thứ 2 Mùa Chay, Giáo Hội tuyên đọc bài Tin Mừng này để động viên khuyến khích và dẫn đưa chúng ta và mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Bước vào Mùa Chay là chúng ta bắt đầu đi theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá. Đó là con đường phải trải qua đau khổ, sự chết rồi mới tới vinh quang Phục Sinh.
Từ đó chúng ta có thể rút ra một bài học căn bản là : Sau khi đi hết con đường Thập giá thì chúng ta sẽ thấy ánh vinh quang Phục Sinh hé lộ. Qua thập giá tới vinh quang.Thập Giá và vinh quang Phục Sinh là hai thực thể gắn liền với nhau. Thập giá mà không có vinh quang thì thập gái trở thành vô nghĩa. Trái lại vinh quang Phục Sinh mà thiếu vắng Thập Giá thì vinh quang đó chỉ là ảo tưởng, mơ hồ. Năm xưa trong cuộc hành trình tiến về đất hứa dân Israel đã phải trải qua biết bao thử thách đau khổ và thất bại, họ nhìn lên cột lửa, áng mây để tìm thấy nghị lực mà vượt qua. Cũng vậy, hôm nay Giáo Hội và từng người Kitô hữu, nhờ Bí tích Rửa tội đã được liên kết với Đức Giêsu, và cũng giống như Ngài chúng ta được tôi luyện trong hy sinh và Thập giá. Do đó chúng ta phải chết đi cho con người cũ tội lỗi, để cùng được sống lại với Đức Kitô trong cuộc sống mới. Trong cuộc hành trình đức tin người Kitô hữu được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu vinh quang để có đủ nghị lực chiến đấu chống lại tội lỗi, sự dữ.
Trong bài đọc 2 hôm nay, qua đoạn thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy hướng đến vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô, để rồi cậy dựa vào tình thương và quyền năng của Ngài, chúng ta mạnh dạn tiến bước mà không ngại phải đối mặt với bao thử thách cám dỗ của kẻ thù là ma quỷ.
Là Kitô hữu, nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta đã được nhận là con Thiên Chúa, được mang trong mình vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô, thì trong cuộc sống hằng ngày vinh quang ấy phải được tỏ hiện và sáng rực lên, qua tư tưởng, lời nói, hành động của chúng ta, để cuộc sống của chúng ta gắn bó thân mật với Đức Kitô “Để được Ngài biến đổi thân xác yếu hèn nên giống thân xác vinh hiễn của Ngài”.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không cho thánh Phêrô dựng ba cái lều để kéo dài tình trạng vinh quang và hạnh phúc trên núi. Nhưng các ông phải cùng với Chúa Giêsu đi xuống núi, trở về với cuộc sống đời thường, để rồi lại cùng với Ngài tiến lên Giêrusalem chịu chết đau khổ. Bởi thế, chiêm ngắm vinh quang Phục Sinh không phải là việc làm cho chúng ta xa rời thực tế cuộc sống, quên trách nhiệm và bổn phận của mình, ngại khó khăn và không biết nỗ lực vượt qua thử thách.
Sau cùng, một chi tiết độc đáo chỉ thấy trong trình thuật biến hình của Tin Mừng Thánh Luca là “Đang khi cầu nguyện, dung mạo Ngài đổi khác”. Chính đang khi cầu nguyện thì Chúa Giêsu được biến đổi. Các vị thánh trong lịch sử Giáo hội cũng thường được biến đổi trong cầu nguyện như thế. Cầu nguyện là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, làm cho chúng ta được biến đổi, ít là về mặt tinh thần. Nếu chúng ta thường xuyên cầu nguyện, chắc chắc cuộc sống chúng ta sẽ đổi khác và tiến bộ hơn trong đàng trọn lành. Nhờ cuộc cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa khi trở về cuộc sống và tiếp xúc với tha nhân chúng ta nhìn họ với cái nhìn thiện cảm hơn, yêu người, yêu cuộc đời này hơn nữa. Đó là chúng ta quyết tâm cùng với Chúa Giêsu biến đổi cuộc sống trong Mùa Chay thánh này.
Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình còn xa mới đến câu chuyện về cuộc khổ nạn của Ngài. Trình thuật này ở chương 9 trong khi trình thuật khổ nạn ở ch.22 trong tin mừng Luca. Vì vậy chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng trong giai đoạn này, Chúa Giêsu đang tràn ngập vinh quang vì những thành công và danh tiếng Ngài đang lan rộng khắp miền Palestina. Nhưng nếu đọc kỹ chương này ta sẽ thấy không phải như thế. Mây xám đang kéo về vần vũ trên bầu trời của Ngài, hứa hẹn một trận cuồng phong ghê gớm.
Chương 9 khởi sự với việc Chúa Giêsu sai phái 12 tông đồ đi rao giảng, đầy quyền năng và uy tín. Vua Hêrôđê đã bắt đầu quan tâm đến Chúa Giêsu. Tiếp theo là các môn đệ trở về kể lại cho Ngài những việc làm sáng chói và những thành tựu vang dội. Đám đông theo Chúa đều được chữa lành mọi bệnh tật và được ăn no nê với vài cái bánh và mấy con cá nhỏ. Ông Phêrô tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, một đức tin có lẽ đã được hậu thuẫn bởi những phép lạ Ngài làm. Nhưng Chúa Giêsu cắt ngang lời tán dương của ông và loan báo rằng Ngài sẽ bị giới cầm quyền đền thờ ghét bỏ, chịu muôn vàn hình khổ và chịu chết. Ngài còn thêm: “những ai muốn theo Ngài thì cũng sẽ phải chịu khổ như vậy, vác lấy thánh gía mình mà theo”. Câu chuyện Tin mừng của chương này là như vậy. Lời nói và việc làm lạ lùng của Chúa Giêsu lôi kéo một đám đông không đếm nổi. Có lẽ các môn đệ đã “đụng” phải một “người hùng” thời đại. Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho không khí hồ hởi đó phải tắt ngúm khi Ngài báo trước những tai họa sắp tới. Riêng câu chuyện về việc Hiển dung hôm nay cũng pha trộn hai thái độ: một vui, một buồn. Nhưng các tông đồ chỉ lưu tâm đến khía cạnh vui, rực rỡ, huy hoàng, nên họ đã bỏ lỡ mất toàn thể thực tại của việc theo Chúa mà Ngài muốn dạy. Họ đã trở nên những kẻ “mộng du”.
Ngài chọn ba môn đệ gần gũi nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các ngài leo lên một ngọn núi cao, tương truyền là nơi gặp gỡ thần linh. Có lẽ Chúa muốn cho họ được nghe, nhìn rõ hơn về nhân cách của Ngài và học hỏi thêm theo Ngài có những hệ qủa ra sao ? Đòi hỏi những gì ? Nhưng đáng lý đây là những giây phút nghiêm trọng, họ phải toàn lực cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng thì họ lại thiếp ngủ. Môn đệ Chúa Giêsu có thói quen “ngủ khì” vào những giây phút quan trọng. Xin nhớ lại vào đêm Chúa ở trong vườn Cây Dầu lúc bị bắt, các môn đệ đã làm gì? Họ đang say sưa trong giấc điệp !
Nói cho thật tình, chúng ta cũng là những kẻ “mộng du”, nhắm mắt lại thiếp đi ngon lành đúng vào những thời điểm oái oăm và nếu không thức dậy kịp thời chúng ta cũng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để rồi sẽ bị dẫn đến lầm đường, lạc lối. Không chịu tỉnh thức đối mặt với thực tại qủa là một nguy hiểm tai hại. Cứ xem các tông đồ là những kẻ mộng du. Họ theo Chúa Giêsu, nhưng vẫn giữ những giấc mơ riêng của mình về những thay đổi mà họ đòi hỏi Chúa Giêsu thực hiện. Một con người đầy quyền phép và năng lực như vậy lại không thể đổi thay tình thế qúa ư tồi tệ của đất nước ? Thế giới này cần được đổi mới. Người ta cần những mùa màng bội thu để nuôi thêm kẻ đói khát. Phải có trật tự kinh tế mới ngõ hầu người nghèo, kẻ cùng khổ không còn là nạn nhân của các tay cường hào ác bá…vân vân và vân vân.
Các tông đồ đã ngủ cả, khi Chúa Giêsu đàm đạo với ông Mô-sê và Êlia. Họ đã bỏ lỡ nội dung của cuộc đàm đạo đó. Mà nội dung ấy lại tối quan trọng cho họ. Đó là về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem. Đó là một cuộc xuất hành mới, xuất hành khỏi vòng tội lỗi đã bao đời kìm kẹp nhân loại. Nhưng xuất hành thế nào, họ đâu có biết ! Họ ngủ cả, cho nên họ đâu nắm được những bài học qúi gía và nghiêm trọng của biến cố này ! Hy sinh để được Chúa nâng đỡ bằng chính cuộc hy sinh của Ngài ! Vì vậy chẳng lạ gì khi Chúa phải vác thập tự thì không thấy tông đồ nào có mặt để vác giúp. Họ hoàn toàn ngỡ ngàng khi thánh gía xuất hiện. Nếu như họ đừng ngủ trên núi biến hình, nếu như họ đừng ngủ khi Chúa chịu cực hình ở Giêrusalem, nếu như họ ở lại trên ngọn đồi Can-vê, dương to đôi mắt, mở to đôi tai, luôn luôn tỉnh thức, sẳn sàng, họ đã không bỏ lỡ sự phục sinh của Ngài và một đời sống hoàn toàn mới thuộc vể họ. Lúc ấy chẳng bao giờ họ thiếp ngủ được nữa.
Lúc ấy, hào quang của biến cố hiển dung sẽ trở nên hào quang của Chúa phục sinh và chắc chắn họ cũng được chia sẻ hào quang đó. Họ sẽ được thay đổi và họ sẽ thay đổi được thế giới, để rồi kẻ đói được thêm bánh ăn, kẻ bất hạnh được đối xử tử tế, người nghèo được trân trọng. Mọi người bất kể là ai: trẻ, già, trai, gái, giầu có hay thiếu thốn, thông minh hay dốt nát …thảy đều được bình đẳng. Lúc ấy ánh sáng chói lọi từ Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta để chúng ta cũng được hiển dung với Chúa hay ít nhất thế giới có được những thay đổi như mọi lòng mong ước.
Mùa chay là mùa biến đổi tất cả chúng ta thành môn đệ thực sự của Chúa Giêsu. Chúng ta học mở to hai con mắt, từ bỏ mọi cuộc mộng du, ảo vọng, quan niệm sai lầm về mình, về vinh quang của mình, nhìn rõ hơn về ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày. Ngay trong thánh lễ hôm nay chúng ta cũng có thể là kẻ mộng du. Tìm chỗ tốt thả hồn lang thang, nói chuyện gẫu, vừa dự lễ vừa uống cà phê…, hay chúng ta cũng có thể được tiệc thánh Chúa chỉ đường dẫn lối tự biến đổi và biến đổi cả thế giới.
Bài đọc Cựu ước đưa chúng ta vào thời tổ phụ Áp-ram (St.12,1…). Thiên Chúa hứa với ông Ápram rằng Ông sẽ là cha một dân tộc to lớn. Ap-ram đã tin vào lời hứa ấy. Ông cùng với vợ là Sara đã bỏ mọi sự và đi đến một miền đất hoàn toàn xa lạ. Hai ông bà đã nên gương mẫu đức tin cho con cháu mai sau. Một đức tin vững chắc, sẵn lòng phó thác vào lời Thiên Chúa hứa ngay cả chẳng có gì làm bằng chứng để có thể tin cậy được. Lúc ấy họ chưa có con dù cả hai đã gìa, chưa có một mảnh đất cắm dùi, nhưng họ vẫn kiên định đi theo Chúa.
Kiên định như thế để được cái gì ? Chỉ vì lời hứa có con cháu nối dòng ! Vậy điều quan trọng nổi bật ở đây, không phải là đức tin của Áp-ram hay bất cứ ai khác, mà là Thiên Chúa. Ngài nói với Áp-ram: ”Ta là Đức Chúa, đã đưa ngươi ra khỏi thành Ur của dân Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Áp-ram đã hỏi lại những câu mà có lẽ tất cả chúng ta cũng muốn hỏi, tùy vào hoàn cảnh của mổi người: “Làm sao tôi biết được đất này làm sở hữu ? làm sao tôi biết được Chúa về phe với tôi trong những hòan cảnh khó khăn khi không có lấy một bằng chứng đáng tin cậy ? Làm sao tôi biết được lòng Chúa tín trung ? Làm sao tôi biết được mình không bị lừa dối ? Làm sao tôi biết được mình không lầm khi khăng khăng tin cậy vào Chúa trước những thực tế phũ phàng ? Làm sao và làm sao ???
Câu trả lời từ phía Thiên chúa là một nghi lễ giao ước cổ truyền (Gr.34,18-20). Khi làm giao ước, các sinh vật được cắt làm đôi. Mỗi bên ký giao ước phải bước đi qua giữa hai nửa, như muốn nói rằng, nếu tôi vi phạm, tôi sẽ bị xẻ làm đôi như những sinh vật này. Lễ nghi này là một giao ước rất cụ thể Chúa thực hiện với Áp-ram và với mỗi người chúng ta. Danh dự của Chúa đã được đặt ngang hàng với danh dự của chúng ta, một chi tiết quan trọng: Ông Áp-ram đã không đi qua phần kia của sinh vật. Ông đã không ký kết giao ước, chỉ có một mình Thiên Chúa ký giao ước! Thường thì cả hai phải ký, cả hai phải đi qua giửa các con vật đã được xẻ làm đôi. Bởi vì cả hai phải tôn trọng giao ước. Ông Áp-ram đã không hứa, chỉ một mình Thiên Chúa hứa mà thôi. Nghĩa là Áp-ram và mỗi người chúng ta không phải ký giao ước mà chỉ phải phó thác cuộc đời mình, hiện tại cũng như tương lai vào lòng trung tín của Thiên Chúa. Ôi lòng thương xót Chúa thật nhiệm mầu. Nếu chúng ta phải ký giao ước thì chúng ta phải bị chặt làm đôi nhiều lần !
Vậy giao ước không chỉ nói về hiện tại, tương lai của mình. Mùa Chay này còn gợi lên những việc làm đáng xấu hổ của qúa khứ mỗi người. Chúng ta đã phản bội lòng trung tín của Thiên Chúa rất nhiều lần. Nhưng hãy can đảm đứng dậy. Vì câu chuyện hôm nay còn nói lên điều mà sau này thánh Phaolô khai triển rộng hơn trong Tân ước: “Bởi vì tôi biết chắc rằng dầu sự sống hay sự chết, dầu hiện tại hay tương lai, dầu chiều cao hay chiều sâu, thiên thần hay ma qủy hoặc bất cứ loài thọ tạo nào, không có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô, Chúa chúng ta”(Rm.8,38-39).
Trong nghi lễ Giao ước Thiên Chúa đảm nhận bổn phận thực thi lời hứa và cũng tự nhận lấy lời nguyền rủa (hãy để xảy ra cho tôi như vậy, nếu…). Chắc chắn Chúa sẽ giải cứu chúng ta khỏi tội. Không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng chỉ vì Ngài đã hứa. Thiên Chúa là tác nhân chính trong qúa trình giải phóng, chứ không phải loài người. Ngài luôn trung tín, không bao giờ quên lời hứa. Thực tế chính Thiên Chúa tuyên bố Ngài mắc nợ chúng ta về lời hứa. Vì thế trong mùa chay này, chúng ta hãy chỗi dậy, ngẩng đầu lên, bởi lẽ ngày cứu rỗi đã đến gần. Mỗi người sẽ được sạch tội, được biến hình trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
Sự kiện Chúa Giêsu hiển dung được ghi chép trong Phúc Âm như là một giây phút rất lạ lùng hiếm có trong đời làm người của Ngài. Nhưng có thể Ngài đã trở nên sáng láng phi thường nhiều hơn là một lần khi cầu nguyện, xong các môn đệ đã không được thấy, bằng chứng là khi các thánh kết hợp mật thiết với Thiên Chúa đang lúc cầu nguyện, cũng có những hiện tượng lạ thường xảy ra, bởi vì quyền phép Thiên Chúa bao bọc và cuốn hút lấy con người ấy trong vinh quang vĩ đại của Ngài. Nhưng lần này đức Giêsu đã có ý tỏ cho các môn đệ thấy, không phải là chuyện Ngài muốn phô trương để lòe các môn đệ.
Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người. Chính lời của Thiên Chúa Cha muốn tuyên phán cho các môn đệ của Đức Giêsu biết rõ Giêsu thực sự là ai. Các ông cần được nghe lời minh chứng uy quyền này, để chuẩn bị tinh thần cho họ có thể đồng hành với Thầy yêu quí của mình trong cuộc thử thách lớn quá sức chịu đựng của loài người sắp diễn ra. Sự kiện Chúa Giêsu trở nên vinh hiển sáng láng và đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a thực sự không thêm gì cho bản thân Ngài, nhưng chắc chắn nó gây một tác động rất mạnh mẽ trên các môn đệ yêu quí của Ngài đang có mặt. Đây là một diễm phúc đặc biệt Ngài muốn dành riêng cho những môn đệ thân tín nhất hy vọng giúp các ông giữ vững được niềm tin vào Thầy, một người sắp bị cả thế giới lên án và giết chết như một tội đồ!
Xong như lịch sử đã chứng minh, tin thì có tin, nhưng các ông đã không đủ can đảm để cùng liều thân chấp nhận sống chết với Thầy. Các ông vẫn sẳn sàng bỏ của chạy lấy người, không còn biết Thầy là ai! Đó là lòng dũng cảm của những chàng ngư phủ! Nhưng liệu rằng chúng ta có hơn các ông về mặt này không? Hay ta cũng chỉ giỏi khua môi múa mép, đến khi đụng chuyện thì cũng cụp đuôi chạy dài giống như họ đã hoảng sợ thất kinh hồn vía! Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết mình rất yếu đuối, và luôn cần ơn Chúa nâng đỡ hầu bớt vấp ngã trên đường đời, để có ngày được tìm về bên Chúa. Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để ta nhớ đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Đức Giê-su trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chan từ đỉnh núi Ta-bo. Đức Giê-su lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng. ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiện, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Đức Giê-su loan báo Người đi lên Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chiụ chết, Phê-rô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục.
Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giê-ru-sa-lem chịu chết.
Việc Đức Giê-su biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thiên tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thiên tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hi vọng. Hi vọng đó là : con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan. Thiếu niềm hi vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hi vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hi vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hi vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hi vọng vào vinh quang Phục sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Đức Giê-su biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Đức Giê-su có ẩn chứa bản tính Thiên chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên chúa nơi Đức Giê-su đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên chúa. Đó là điềm báo trước : mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó ?
2-ABC Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào ? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong ?
3- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay ?
Việc Chúa Giêsu biến hình xảy ra sau khi Chúa Giêsu báo tin Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và bảo các môn đệ của Ngài cũng hãy đi theo con đường thập giá của Ngài. Như vậy, việc biến hình nhằm an ủi các môn đệ : sau thập giá là phục sinh, sau đau khổ sẽ tới vinh quang.
B.... nẩy mầm.
1. Phêrô muốn dựng lều cho Môsê, Êlia và Chúa Giêsu, nghĩa là ông thích hưởng cảnh vinh quang sáng láng. Nhưng cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng mắt, sau đó mọi sự trở lại như trước, Chúa Giêsu dẫn các ông xuống núi. Ai mà không thích thiên đàng, nhưng muốn lên thiên đàng thì trước đó phải vác thập giá theo Chúa.
2. Chúa Giêsu biến hình để trở lại hình ảnh vinh quang vốn có của Ngài trước đây. Chúng ta cũng thường biến hình, nhưng biến từ hình ảnh Thiên Chúa lúc mới được tạo dựng thành hình ảnh méo mó xấu xí vì tội lỗi. Vì thế chúng ta phải thường cố gắng biến trở lại hình ảnh ban đầu.
3. “Hãy vâng nghe lời Ngài” : các môn đệ Đức Giêsu – và cả chúng ta – rất sung sướng được ở trong vinh quang của Chúa. Họ khó chịu khi nghe Ngài nói tới con đường thập giá. Thậm chí Phêrô còn cản ngăn Ngài. Nhưng Chúa Cha bảo “Hãy vâng nghe lời Ngài”, nghĩa là phải chấp nhận đi theo Ngài trên con đường thập giá trước rồi mới được tới vinh quang. Nhưng thực ra, nghe lời một Đức Giêsu vinh quang thì dễ hơn nghe lời một Đức Giêsu thập giá nhiều !
4. Ba đồng tiền vàng : Thời trung cổ, có một vụ hành quyết tội phạm tại một thị trấn kia. Theo phép nước, chỉ có mỗi một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo. Hoàng hậu theo gương tặng 200 đồng. Các quan cũng dốc túi... Người ta đếm được tất cả 997 đồng, còn thiếu 3 đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành án lệnh. Toán hành quyết tròng giây thừng vào cổ tử tội, sửa soạn rút giây. Bỗng một tiếng kêu lớn "Khoan đã, lục soát người nó đi. Biết đâu đấy". Tên đao phủ lần giây lưng tội nhân, móc ra được 3 đồng tiền vàng hắn giấu kỹ từ trước...
Bài học rất dễ hiểu : Vua là Chúa cứu thế, hoàng hậu là Đức Maria, các quan là các thánh và các kitô hữu chân chính... Tất cả đã quyên góp thành một kho báu cứu độ. Dẫu sao vẫn thiếu một ít. Mỗi người chúng ta phải đóng góp bằng thiện chí của mình dù là một chút, để chắc tâm thực hiện được cuộc "vượt qua" từ đời sống tội lỗi lên đời sống thánh thiện. (Trích "Phúc")
5. “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2)
Để tổng kết cuối năm, các Công ty tính toán sổ sách và nhìn lại một năm qua đã tiến hay lùi thế nào.
Tôi cũng dành lại thời gian để hồi tâm về quá khứ, tổng kết các công việc của tôi. Trước mắt tôi là “cuốn sổ ghi cuộc đời”. Những kế hoạch, dự định đặt ra vào đầu năm, tôi vẫn cứ loay hoay ở bước khởi đầu ; mọi vốn liếng về kiến thức, nhân đức, ơn Chúa như đang bị thâm thủng, nói chi đến lãi lời. Tôi đang chùn bước hay đang tiến ? Và nếu có tiến thì tiến ở tốc độ nào ? Biết bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho tôi vào tối nay. Tôi quyết tâm như thế nào đây ?
Lạy Chúa, nhìn lại thì không thiếu, nhìn tới thì không thừa. Xin cho con nhận ra ý Chúa ngay trong hiện tại. (Epphata)
6. “Từ trong đám mây có tiếng phán rằng : Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5)
Tối hôm đó, sau khi đã từ giã bà con thân thuộc và những ân nhân, bạn hữu đến thăm, chỉ còn lại hai mẹ con trong nhà, bà Magarita âu yếm nhìn con và nói “Gioan của mẹ, hôm nay con đã là Linh mục của Chúa và con được diễm phúc cử hành Thánh lễ. Từ nay con đừng lo gì cho mẹ hết, nhưng hãy lo một điều duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Những lời của mẹ, Gioan Boscô đã ghi lòng tạc dạ và đã nên thánh. Lời của một người mẹ còn có sức mạnh như thế, huống hồ là lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh ngàn lần. Vậy mà tôi lại xem thường, không để tâm thực hành trong cuộc sống.
Lạy Cha, xin giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện. Ước gì con cũng được nghe Cha nói với con “Con là con yêu dấu của Cha” (Epphata).
Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:
* Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: "Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?". Ong thắc mắc và "ông tìm cách gặp Người" (9,9).
* Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với "Đấng Mêsia của Thiên Chúa" (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: "Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ, chịu chết nhưng đến ngày thứ ba Người sẽ sống lại " (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của người: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hàng ngày rồi theo Ta " (9,23).
Jean-Luc Vesco chú giải: "Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn; một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo Người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly " ("Giêrusalem và ngôn sứ của nó ", Cerf, trg 38).
Khoảng "8 ngày sau khi nói những lời này " là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.
2. Một thị kiến chói loà trên núi.
Trừ hai ba chí tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và Mátthêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.
* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng. Đó là 1 "ngọn núi ", theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.
* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: "Phêrô, Gioan và Giacôbê " những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà 2.ai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).
* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu. Lúc Người "cầu nguyện " trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3,21-22). Sau khi lánh vào "núi rừng đế cầu nguyện ", Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12-ABC16) . Khi Người "cầu nguyện một mình" Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9,18-20). Và không bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giệtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); phục sinh rồi, giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).
- Tại nơi đây, trên núi cao, chính "đang khi cầu nguyện " mà Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mát thêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nôi "dung mạo Người trở nên khác thường " và "y phục Người trở nên trắng rực rỡ. Sau đó, Người viết rằng: "Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu ".
Hugues Cousin xác định: "Mặc lấy vinh quang" (có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng như ánh chớp, có nghĩa là Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đàng. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu tỏa từ thân thể Người " ("Tin Mừng theo thánh Luca " Centurion, trg 137).
- Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật (Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu Ước đã loan báo rằng: "Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang " (Lc 24.26-27). Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.
- Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là "cuộc lên đường của Người " (theo sát nghĩa là: cuộc "Xuất hành " của Người: vừa chết, vừa phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Mô sê không phải là con người của cuộc Xuất hành, của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia không phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?
Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được " cất lên " (9,5 1 ) trong vinh quang thiên quốc. Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất Hứa thật sự là Vương Quốc của Cha Người.
- Phêrô tó lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng "ba lều ". Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài "ông không biết phải nói gì " vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn tượng khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.
- Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong "một đám mây " - Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa - giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy "phủ bóng che rợp " các ngài. Các ngài "sợ hãi ". '
- Chính lúc ấy "một tiếng nói " vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu thép rửa ở sông Giođan. Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa ("Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con "), nhưng nói với các môn đệ của Người: "đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn ". Người Tôi Tớ đau khổ (xem ls. 42,l-8), Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ, là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải "lắng nghe" Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.
3...Sự qui hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu
Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; "họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu". Tạm thời, các môn đệ " im lặng " cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng "họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa và Người. Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyện xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người. Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang mà cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người. " (J.L. Vesco. sđd, trg 41-42)
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Điểm dừng chân ơn phúc nơi cộng đoàn ngày Chúa nhật
(F. Deleclos trong "Hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn", Centurion- Duculot, trg 195). Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu, Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ... Nhưng đường thăm thẳm và đích điểm còn quá xa vời. Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ đội. Đã thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân giữa "những sự dưới đất" và "những sự trên trời", ta có thể tin tưởng vào ai, 'tin tưởng cái gì? '
Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê , vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng "dung nhan của Chúa " và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chan, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về "thế giới khác" với cõi phàm trần nơi ta cư ngụ. Cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc.
Từ nay họ biết rằng Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Họ đã nhìn thấy vinh quang của người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người,nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm cửa Người , khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ lênh láng máu.
Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người tìm lại con đường phiêu lưu dưới đồng bằng.
Dù vật vã say ngủ và thổn thức bất an, hay sa lầy trong thững thói tật xưa cũ trên đường, ta vẫn được Đức Giêsu mời gọi lên núi cầu nguyện.
Thánh lễ là điểm dừng chân ơn phúc, là ánh sáng chân lý, là mạc khải hành trình, là ý nghĩa cuộc hành hương của ta. Một dừng chân vắn vỏi để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
2. Khi con người chiếu toả Thiên Chúa
(G. Bessièr trong "Thiên Chúa rất gần", năm C. , DDB, trg 35.36)
Khi bị khinh miệt, bị săn đuổi., các Kitô hữu vẫn giữ được lòng can đảm nhờ nói về Đức Giêsu. Trong số những kỷ niệm, trao đổi cho nhau, có đoạn văn tươi đẹp này: Đức Giêsu hiển dung, đột nhiên chói ngời ánh sáng thần thiêng. Việc tỏa sáng phát xuất từ bên trong bản thân Người: dung mạo Ng'ười trở nên khác thường... ". Một Con người chiếu toả Thiên chúa! Và khoảnh khắc khiêm tốn nhất của đời Người đã đem đến sự Hiện Diện như thế.
Hằng ngày, ta vẫn nghe nói "'Nhân loại không xinh đẹp"- "Con người có thế làm được tất cả". Thật ra nhân loại thường bị biến dang vì bạo lực, ích kỷ, hèn hạ, và thật thảm hại, lịch sử những điều ghê sợ vẫn chưa chấm dứt. Cần phải tỉnh táo tiến bước. Tuy nhiên nhân loại thật sự là đẹp, và con người - theo kiểu nói mạnh của những Ki lô hữu thế kỷ đầu tiên - "Có khả năng đạt tới Thiên Chúa ".
Biết bao người, nổi tiếng hay vô danh, đã biểu lộ Thiên Chúa qua lòng can đảm, qua sức mạnh tình yêu, qua sự hy sinh trong đời sống hằng ngày của họ. Sự biến hình diễn ra hằng ngày ở khắp nơi trên trái đất: Sự biến hình là năng lượng thâm sâu của lịch sử, năng lượng ấy giúp con người tiếp tục dong duỗi đường trường. Môsê, Êlia là hai khuôn mặt vĩ đại của quá khứ, hai con người bằng lửa đã đưa dân qua những chặng đường hiển hách. Các ngài cũng có mặt và nói về "cuộc lên đường của Đức Giêsu " về "cuộc xuất hành" của Người. Một chuỗi các thế kỷ vừa khép lại và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu.
Ba tông đồ, ba kẻ thân tín nhất, muốn ở lại cắm lều trong ánh sáng, khai mạc thành đô và các lễ hội vinh quang. Không được phải đi thôi. Cuộc biến hình đó chính là một hành trình phải mất hằng thiến niên kỷ. Ta vẫn chưa leo lên đỉnh núi... chưa cầu nguyện cho đủ đâu.
Còn Đức Giêsu đã hướng đích điểm về Giêrusalem, sự đương đầu, phiên toà và cái chết. Chính trên giá khổ hình mà Người đã xé đôi chân trời trần gian để thời gian liên tục Người vẫn là Tin Mừng, là nạm mem trong các lương tâm, và Người chỉ cho ta thấy thành đô đang kêu gọi mọi xã hội hãy biến đổi tận gốc rễ. Đức Giêsu, tiêu điểm, chuẩn mực, là khuôn mặt thần linh của nhân loại chúng ta. Cuộc sống của Người sẽ mãi mãi biến hình cuộc sống của ta.
“Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng : "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng : "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !" Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Đây là một trục mốc khác trong cuộc đời Chúa Giê-su trên trần gian này, chúng ta nên nhớ rằng Ngài đang sửa soạn lên thành Giê-ru-sa-lem và lên thập giá. Ngài đã hỏi các môn đệ xem họ nhận thức Ngài là ai, đã Ngài khám phá xem có ai hiểu được Ngài chưa. Nhưng có một điều Chúa Giê-su không bao giờ làm, Ngài không bao giờ thực hiện điều gì nếu không có sự chấp thuận của Thiên Chúa. Trong khung cảnh này, đó là điều chúng ta thấy Ngài đang tìm kiếm và đang nhận lãnh. Những gì xảy ra trên núi Hiển Biến, chúng ta không bao giờ có thể biết được, chỉ biết rằng có một sự gì lạ lùng đáng sợ đã xảy ra. Chúa Giê-su đã đi đến đó để tìm sự chấp thuận của Thiên Chúa cho bước quyết định mà Ngài sắp thực hiện. Tại đó có Mô-sê và Ê-li-a hiện đến với Ngài. Mô-sê là nhà lập pháp lớn nhất của dân tộc Do-thái. Ê-li-a là tiên tri lớn nhất trong các tiên tri. Việc này chẳng khác nào các thủ lãnh của dân Ít-ra-en về đời sống, về tư tưởng, về tôn giáo cùng đến bảo Chúa Giê-su cứ tiến bước. Bây giờ Chúa có thể tiến lên Giê-ru-sa-lem vì việc Ngài đang làm gồm tóm tất cả đời sống, tư tưởng và hành động của dân tộc Ngài, và biết chắc rằng Thiên Chúa đã ưng thuận bước đường Ngài đang đi.
Qua Hiển Biến này Chúa Giê-su củng cố niềm tin của các môn đệ khi tỏ cho các ông thấy nơi nhân tính của Ngài một phần vinh quang mà Ngài sẽ hưởng sau phục sinh. Như thế, Ngài muốn dạy các ông rằng khổ nạn không phải là tận cùng, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. "Vậy là, để tiến thẳng trên đường, cần phải biết rõ mục đích, tương tự như người bắn cung, không khi nào có thể bắn mũi tên vào đúng mục tiêu nếu không nhắm đúng hướng. Điều này lại càng cần thiết hơn nữa, khi đường đi khó khăn trắc trở; hành trình mệt nhọc, nhưng đích tới mãn nguyện." (Tô-ma Tiến sĩ).
Do hiểu biết Chúa Giê-su cho thấy một đặc tính của thân xác vinh hiển: xác thân các thánh sáng chói như mặt trời. Chính Chúa Giê-su tuyên bố rõ rệt điều đó trong Mát-thêu : "Các người công chính sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước Cha mình." (Mt 13,43) Để các môn đệ khỏi nghi ngờ về điểm này Ngài cho các ông thấy Hiển Biến. Để diễn tả tính chất này, thánh Phao-lô dùng từ ngữ "vinh hiển" "Chúa Giê-su có quyền năng khắc phục muôn loài, và Ngài sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người." (Pl 3,21). Và nơi khác "gieo xuống thì hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang" (1 Cr 15,43). Con dân Do-thái xưa kia trong sa mạc đã nhìn thấy hình ảnh và vinh quang ấy trên trán Mô-sê, khi nhà lãnh tụ trở lại với dân sau cuộc gặp gỡ Chúa diện đối diện, mặt ông sáng chói đến nỗi mắt họ không thể nhìn thẳng vào ông.
Vẻ rạng rỡ này là hạnh phúc của các thánh trên thiên đàng, nhưng đừng nghĩ rằng vẻ rạng rỡ này hoàn toàn bằng nhau. Vinh quang rạng rỡ có những mức độ khác nhau. Thánh Phao-lô nói: "Ánh sáng mặt trời thì khác, ánh sáng mặt trăng thì khác, ánh sáng tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. Việc kẻ chết sống lại cũng vậy." (1 Cr 15, 41-42). Muốn được thế "phải nghe Ngài."
Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với loài người Ngài đã nói qua Chúa Giê-su vào thời gian viên mãn (x. Dt 1,1) Thế nên ngày nay ai muốn hỏi, muốn xin một thị kiến hay một mạc khải, thì không chỉ là điên khùng, mà còn nhục mạ Thiên Chúa, vì không tập chú vào Chúa Giê-su, mà còn cứ đi tìm một điều gì khác, một điều mới lạ. Thiên Chúa có thể trả lời hạng người đó như thế này : Ta đã nói với ngươi tất cả nơi "Lời Ta" là Con Ta. Giờ dây, ngoài Chúa Giê-su Ta không còn gì để mạc khải hay nói cho ngươi nữa. Hãy tập chú vào Ngài, vì nơi Ngài Ta đặt tất cả vào rồi, lời cũng như mạc khải ; nơi Ngài ngươi sẽ thấy nhiều hơn là ngươi kiếm, ngươi tìm. Hãy nghe Ngài, vì Ta không còn niềm tin nào mạc khải cho ngươi, không còn chân lý nào tỏ bày cho ngươi. (Gio-an Thánh giá, Monttee' du Carmel).