Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 201-250 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
------------------------------------
Năm A:
Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng:
"Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Năm C:
-------------------------------------
MC 2-ABC201: Anh Em Hãy Nghe Người 2
MC 2-ABC202: GIỮA HAI LẰN ĐẠN.. 5
MC 2-ABC203: Chúa Nhật II Mùa Chay. 8
MC 2-ABC204: Hành trình và sự thành tựu của đức tin. 11
MC 2-ABC205: Giây phút thần tiên. 15
MC 2-ABC206: Chân tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su. 17
MC 2-ABC207: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY.. 21
MC 2-ABC208: Chiêm ngắm hành trạng đời sống Đức Giêsu. 23
MC 2-ABC209: Chúa Nhật II Mùa Chay A.. 25
MC 2-ABC210: Nước Thiên Chúa. 26
MC 2-ABC211: Con Đường Thập Giá - Con Đường Vinh Quang. 28
MC 2-ABC212: Vinh Quang Thiên Chúa. 29
MC 2-ABC213: Biến Đổi 31
MC 2-ABC214: Các Con Hãy Nghe Lời Người 33
MC 2-ABC215: VAN GOGH TRONG THƠ DU TỬ LÊ.. 35
MC 2-ABC216: TRÊN NÚI CAO.. 39
MC 2-ABC217: ĐÂY CON TA YÊU DẤU.. 43
MC 2-ABC218: Biến Hình Theo Chúa Kitô. 45
MC 2-ABC219: Sự thay đổi từ đâu. 47
MC 2-ABC220: Lột xác, lột tinh thần. 49
MC 2-ABC221: CHÚA GIÊSU HIỂN DUNG.. 50
MC 2-ABC222: MÙA CHAY ĐỔI MỚI TÂM HỒN.. 53
MC 2-ABC223: BIẾN ĐỔI THEO THÁNH Ý CHÚA.. 59
MC 2-ABC224: VINH QUANG.. 64
MC 2-ABC225: VINH QUANG CỦA CHÚA GIÊSU.. 67
MC 2-ABC226: CHÚA BIỂN ĐỔI và BIẾN ĐỔI ĐỂ THEO CHÚA.. 68
MC 2-ABC227: CHIÊM NGẮM VINH QUANG THẦN TÍNH CHÚA.. 72
MC 2-ABC228: Những sự việc bình thường. 74
MC 2-ABC229: Núi Tabor hôm nay. 75
MC 2-ABC230: Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai 76
MC 2-ABC231: Chúa hiển dung. 80
MC 2-ABC232: Con yêu dấu. 82
MC 2-ABC233: Hãy biết mình. 85
MC 2-ABC234: Lên núi cao. 87
MC 2-ABC235: Đường về đỉnh vinh quang. 93
MC 2-ABC236: Đức Giêsu biến đổi hình dạng. 98
MC 2-ABC237: ĐỨC GIÊSU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG.. 104
MC 2-ABC238: Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. 111
MC 2-ABC239: Học Biết Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô. 114
MC 2-ABC240: MÙA CHAY ĐỔI MỚI TÂM HỒN.. 116
MC 2-ABC241: RỰC RỠ ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNH.. 124
MC 2-ABC242: NGHE LỜI NGƯỜI 127
MC 2-ABC243: TRỖI DẬY ĐI, ĐỪNG SỢ ! 131
MC 2-ABC244: KHÁT ! 132
MC 2-ABC245: ''Bản tính khó dời'' 137
MC 2-ABC246: Biểu lộ chân dung – JM. Lam Thy. 138
MC 2-ABC247: Hãy vâng nghe lời ngài 142
MC 2-ABC248: Dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời”. 145
MC 2-ABC249: CUỘC BIẾN HÌNH CỦA CHÚA GIÊSU.. 147
MC 2-ABC250: Nghe Lời Chúa – Đến Với Tha Nhân. 149
---------------------------
Chúa Nhật II Mùa Chay A
Mt 17:1-9: 1 Sáu ngày sau, Đức Yêsu đem theo mình Phêrô, Yacôbê, và Yoan em ông, và đưa họ lên một núi cao, riêng biệt ra. 2 Và Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như ánh sáng. 3 Và này, có Môsê và Êlya hiện ra cho họ, đang đàm đạo với Ngài. 4 Cất tiếng lên, Phêrô nói với Đức Yêsu: "Thưa Ngài, may quá có chúng tôi ở đây! Nếu Ngài muốn, tôi sẽ dựng ba lều, một cho Ngài, một cho Môsê, và một cho Êlya!" 5 Ông còn đang nói, thì này một đám mây sáng ngời rợp bóng trên họ, và một tiếng tự đám mây phán rằng: "Ngài là Con chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài". 6 Vừa nghe, môn đồ ngã sấp mặt xuống và kinh hãi quá đỗi. 7 Nhưng Đức Yêsu tiến lại và đụng đến họ, Ngài nói: "Hãy chỗi dậy, đừng sợ!" 8 Ngẩng mắt lên, họ không thấy ai, duy chỉ có một mình Đức Yêsu thôi.
9 Trong khi họ xuống núi, thì Đức Yêsu truyền cho họ rằng: "Các ngươi không được nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người sống lạ từ cõi chết".
Đoạn 17:1-9 nằm trong văn mạch tập trung bàn về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu (16:21và 17:27), trong đó Chúa Giêsu tiên báo hai lần về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người (16:21 và 17:22-ABC23). Giữa hai lần ấy là bài tường thuật về sự biến hình của Chúa Giêsu (17:1-9). Xét mạch văn gần hơn, đoạn nói về Biến Hình cho thấy trước vinh quang của Chúa Giêsu mà câu 16:27 loan báo. Cũng thế nó liên kết với đoạn sau khi nhắc đến cuộc khổ nạn (17:12) và việc sống lại từ cõi chết (17:9). Đoạn nầy có cấu trúc đối đảo (chiasmus): Chúa Giêsu dẫn 3 môn đệ lên núi - xuống núi (cc. 1 và 9); Chúa biến hình có Môsê và Êlia - Chúa sau khi biến hình và một mình (cc. 2-ABC3 và 7-8); Phản ứng của Phêrô - và của các môn đệ (cc. 4 và 6); Lời của Thiên Chúa về Con của Người (c. 5). Do dùng cấu trúc nầy, Matthêô muốn đặt trọng tâm chú ý vào nội dung của câu 5: Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa, và phải nghe Người.
Biến Hình của Chúa Giêsu diễn ra trong một thị kiến. Horama (c. 9) “thị kiến”, là điều con người thấy được do Thiên Chúa ban cho trong xuất thần hoặc trong giấc ngủ (x. Cv 7:31; 9:10, 12; 10:3, 17, 19; 11:5; 12:9; 16:9tt; 18:9); do đó, thị kiến có tính cách mạc khải. Những điều được nói đến trong Biến Hình không thuộc thế giới tại thế: các nhân vật như Chúa Giêsu “mặt sáng như mặt trời, áo trắng tinh như ánh sáng” (c. 2), Môsê và Êlia (c. 3), tiếng từ đám mây (c. 5), sự sợ của các môn đệ (c. 6).
Chúa Giêsu đem ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cao (c. 1)
”Núi cao” nhắc nhớ nơi Chúa Giêsu chịu cám dỗ (4:8). Nơi ấy Người không làm theo lời của ma quỉ, mà chỉ vâng lời ý của Thiên Chúa. Trên núi cao nầy, Người sẽ được biến đổi trước trong vinh quang, vì Người đã chấp nhận trước cuộc khổ nạn và cái chết do Chúa Cha chỉ định (x. 16:21). Vinh quang phục sinh nầy sẽ bày tỏ cách dứt khoát cho tất cả các môn đệ trên một ngọn núi tại Galilêa trước khi Người lên trời (28:16). Chúa Giêsu chỉ muốn cho nhóm ba môn đệ chứng kiến cuộc biến hình của Người, vì Phêrô đã không hiểu và phản đối việc chịu khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu (x. 16:22-ABC23), và họ sẽ là những người loan báo sự phục sinh của Người cho muôn dân (c. 9). Nhóm ba người nầy sẽ chứng kiến Chúa Giêsu trong trạng thái buồn sầu và xao xuyến trước khi chịu khổ nạn (26:37), tương phản với vinh quang trong Biến Hình. Điều nầy cho thấy Biến Hình là cần thiết để có thể “vác thánh giá theo Chúa Giêsu” và mạnh mẽ “liều mất mạng sống vì Người” (16:24-25).
Metamorphoô (c. 2) “biến hình” là thay đổi hình dạng hay vẻ bên ngoài thấy được. Sự thay đổi nơi Chúa Giêsu được diễn tả là “mặt Người sáng láng như mặt trời” và “áo Người trắng tinh như ánh sáng”. Cụm từ “sáng láng như mặt trời” còn được áp dụng cho những người công chính sau khi sống lại trong Nước của Cha (13:43). Gioan cũng nói như Matthêô khi ông mô tả thị kiến về Chúa Giêsu xuất hiện giữa bảy trụ đèn vàng “Mặt Người sáng láng như mặt trời với cả sức chói lọi” (Kh 1:16). “Áo trắng tinh như ánh sáng” chỉ người của Thiên Chúa. Thiên sứ trong buổi sáng ngày phục sinh, từ trời xuống lăn viên đá cửa mồ đi, mặc áo “trắng như tuyết” (28:3). Như thế trong quang cảnh của Biến Hình chỉ có “mặt trời”và “ánh sáng”. Không có bóng đêm. Đó là cảnh vinh quang của Thiên Chúa và Chúa Giêsu (x. Kh 21:3; 22:5).
Môsê và Êlia xuất hiện (c. 3)
Matthêô không nói đến nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu - Môsê và Êlia (x. Lc. 9:31). Sự xuất hiện của hai ông và việc họ đàm đạo với Chúa Giêsu chứng tỏ Biến Hình diễn ra trong thế giới của Thiên Chúa. Trong Matthêô, Môsê được nhắc đến như là người đại diện của lề luật. Mọi thứ trong đời sống của dân Israel đều bị chi phối bởi luật Môsê: liên quan đến người mắc bệnh phong (8:4), vợ chồng (19:7.8; 22:24), quyền giảng dạy của các Pharisêô và kinh sư (23:2). Khi Chúa Giêsu đến, Người kiện toàn mọi lề luật của Môsê. Lề luật yêu thương của Người là luật cao trọng nhất và tóm kết mọi lề luật (22:40). Về Êlia mà dân chúng mong đợi sẽ đến trước ngày của Thiên Chúa để chấn hưng mọi sự (Mal 3:23-24), Chúa Giêsu đã đồng hoá ông với Gioan Tấy Giả (17:12). Như thế cả hai Môsê và Êlia đều đóng vai trò đi trước dọn đường cho ngày Con Thiên Chúa sẽ đến (x. 5:17-18). Vai trò chuẩn bị của họ đã xong và đã được thay thế bởi việc Chúa Giêsu đến. Bây giờ phải nghe lời của Con Thiên Chúa (c. 5).
Trung tâm của Biến Hình là lời của Thiên Chúa (c. 5)
Đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (24:30; 26:64). Từ đám mây Thiên Chúa phán ra. Lời phán ra tương tự với lời trong buổi Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:17). Điểm khác biệt là có thêm mệnh lệnh “Các anh hãy nghe Người”. Trong buổi chịu Phép rửa chỉ mình Chúa Giêsu có thị kiến về Thánh Thần ngự xuống trên Người trong hình chim bồ câu, và nghe tiếng Chúa Cha. Trong Biến Hình, lời Chúa Cha nói cho ba môn đệ. Người tuyên bố Chúa Giêsu là Con của Người; qua đó, Người xác nhận điều Phêrô tuyên xưng “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” (16:16; x. 1:18-25; 2:15; 3:17; 21:37). Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” bao hàm toàn bộ tin mừng Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo (x. Đnl 18:18).
Phản ứng của các môn đệ (cc. 4 và 6)
Các môn đệ sợ sấp mặt xuống đất (c. 6). Sự sợ thường xảy ra nơi những người chứng kiến những điều thuộc về Thiên Chúa: Giuse (1:20); dân chúng (9:8); các môn đệ (14:27; 17:6); viên bách quản và những người đứng gần thánh giá (27:54), các môn đệ sau khi Chúa phục sinh (28:10). Họ sợ vì đã gặp Thiên Chúa. Thị kiến về Biến Hình tách biệt các môn đệ khỏi dân chúng. Họ không được nói cho dân chúng biết trước khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (c.9). Họ chỉ có thể hiểu rõ và mạnh dạn loan báo điều nầy cho mọi người sau khi đã thật sự kinh nghiệm sự sống lại của Chúa Giêsu.
Điều Thiên Chúa cho ba môn đệ biết trong Biến Hình nhắm đến mọi người. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và ai cũng phải lắng nghe lời Người để được chia sẻ vinh quang phục sinh của Người.
---------------------------
Chúa Nhật 2A Mùa Chay
Chân phước Fra Angelico, Dòng Đa Minh, là một nhân vật nổi tiếng vì “có khả năng hiện đại hóa và thích ứng việc rao giảng Tin Mừng với nhu cầu thời đại theo đường lối đặc biệt. Oâng có khả năng nói với người thời đại hôm nay bằng ngôn ngữ sống động của nghệ thuật hội họa, một sự kết hiệp tuyệt vời và tài tình giữa cái đẹp và sứ điệp Kitô giáo nhân bản. Toàn bộ tác phẩm về hai thánh Stêphanô và Lôrensô của ông xoay quanh đức ái đối với Thiên Chúa và anh chị em. Một đức ái coi người nghèo là những kho tàng đích thực của Giáo Hội và cố gắng hiến thân minh chứng niềm tin là động lực thúc đẩy việc bác ái.” (Vidimus Domininum, 16/2/2002)
BIẾN MÀ KHÔNG BIẾN.
Tình yêu là động lực chính tạo nên cảnh biến hình trên núi hôm nay. Cuộc đời Đức Giêsu bắt đầu chuyển vào lối rẽ khi “Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17:1) để mạc khải tất cả sức mạnh tình yêu. Không tình yêu, chắc chắn các môn đệ còn trăn trở mãi với những hình ảnh đau thương về thân phận Thầy trong tương lai. Lời tiên báo Thày “phải chịu nhiều đau khổ” và “bị giết chết” (Mt 16:21) đã gây bàng hoàng cho các môn đệ. Cuộc biến hình đã thay hình đổi dạng Thày bên ngoài, nhưng thực sự đã biến đổi các môn đệ tự bên trong. Tất cả những biến đổi đó đều để chuẩn bị cho cuộc biến đổi lớn lao hơn sau này. Đúng hơn, cuộc biến đổi đó không phải là biến đổi. Đó chỉ là bước củng cố niềm tin các môn đệ. Đem các môn đệ vào một nơi an toàn trước bao sóng gió sắp xảy đến.
Nơi an toàn đó là tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu tạm thời rời bỏ cuộc đời đầy biến động để vào nơi thường hằng bất biến. Người đi vào một nơi vô thời gian tức là cung lòng Chúa Cha. Nơi đây mới thấy tất cả sức mạnh tột đỉnh của tình yêu. Chính sức mạnh tình yêu khiến “Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17:2) Tất cả những hào nhoáng bên ngoài đó làm sao sánh được với vinh quang bên trong Thiên Chúa ? Vinh quang đó dệt bằng tình yêu nồng nàn giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nồng nàn đến nỗi Chúa Cha phải thốt lên: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17:5) Như thế kế hoạch cứu độ nhân loại hoàn toàn phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù ngược với mọi dự tính của các môn đệ.
Các môn đệ không thể chấp nhận một kế hoạch thất bại như Đức Giêsu đã tiên báo. Vâng lời Thày là đánh mất Thày. Giữa lúc đang căng thẳng như thế, các môn đệ nghe “có tiếng từ đám mây phán rằng: ‘Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !’” (Mt 17:5) Trước đó các ông đã không vâng nghe. Sau khi choáng váng vì nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất, ông Phêrô trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”(Mt 16:22) Những chuyện xui xẻo ấy sẽ phá tan giấc mộng Thiên Sai về Thày.
Thế nhưng thánh ý Thiên Chúa thật mầu nhiệm. Nếu còn tin tưởng nơi Thày, các môn đệ phải đi vào tương quan sâu xa với Thày, như chính Thày đang ở trong tình yêu Chúa Cha. Tình yêu đã khiến Đức Giêsu hiểu được tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cũng trong tình yêu đó, Người đã được sai đến để thực hiện tất cả những gì các tiên tri và lề luật đã nói. Chính vì thế, “ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17:3) về lời hứa cứu độ sắp được thực hiện cho nhân loại. Oâng Phêrô cảm thấy bầu khí ấm cúng như gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Môsê tượng trưng cho Chúa Cha, Đấng tạo dựng vũ trụ. Ngôn sứ Êlia đại diện cho sức mạnh Thánh Linh. Tất cả quây quần bên Chúa Con như bảo đảm công cuộc cứu độ sắp thực hiện. Đó là một huyền nhiệm đối với các môn đệ. Huyền nhiệm đến nỗi khi nghe lời Chúa Cha, “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17: 6) Thực tế khủng khiếp quá ! Chạy trời không khỏi nắng ! Các ông là những nạn nhân đáng thương của chính mình. Họ mắc kẹt giữa hai lằn đạn !
Giữa lúc kinh hoàng như thế, các ông tưởng như trời sập. Nhưng “bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: ‘Trỗi dậy đi, đừng sợ !’” (Mt 17:7) Đức Giêsu đã kịp thời kéo họ ra khỏi cơn mê. Chỉ một mình Người mới đem lại bình an và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đúng như Tin Mừng quả quyết: “Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu” (Mt 17:8) dẫn các ông vào cuộc chống trả ác thần. Chính lúc “ngước mắt lên”, các ông thấy rõ “Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện” để “tiêu diệt thần chết.” (2 Tm 1:10) Cái nhìn thật tuyệt vời. Cái nhìn đầy tin tưởng và hi vọng. Từ tình trạng “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”, các ông đã được kêu gọi tham gia vào “kế hoạch và ân sủng của Người.” (2 Tm 1:9) Nhưng phải đợi “đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy,” (Mt 17:9) các ông mới biết Người “đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10) cho toàn thể nhân loại.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã được Chúa Cha chúc phúc “thành một dân lớn” “tên tuổi được lừng lẫy” (St 12:2) khắp vũ trụ. Cũng như Abraham, Người đã ra đi và chấp nhận mọi gian khổ để “cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người.” (2 Tm 1:9) Có thế mới thấy ngày “mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc,” (St 12:3) vì Người “là mối phúc lành” (St 12:2) Thiên Chúa hứa cho toàn thể nhân loại. Phúc lành ấy như ánh sáng không chỉ chiếu soi ba môn đệ trên ngọn núi hôm ấy, nhưng đã lan tỏa khắp vũ trụ cho tới muôn đời, đúng như Người nói: “Tôi là ánh sáng thế gian.” (Ga 8:12)
ÁNH SÁNG TIN MỪNG.
Hơn lúc nào, ánh sáng cần phải chiếu soi vào đêm tối trần gian. Thần tăm tối đang hoành hành khắp vũ trụ. Thiên Chúa muốn dùng Giáo Hội như “ánh sáng cho trần gian.” (Mt 5:14) Sứ mệnh trọng đại đó phải bắt đầu bằng những nỗ lực suy tư và hoạt động để Phúc âm hóa môi trường. Thực vậy, “thần học hoàn thành nhiệm vụ suy tư khi đáp ứng được ý Chúa muốn cứu độ toàn thể vũ trụ, vì Người muốn ‘mọi người được cứu và nhận biết sự thật.’(1 Tm 2:4) Bởi vậy, càng hiểu biết sâu xa về chân lý mạc khải bao nhiêu, thần học càng phục vụ toàn thể dân Chúa bấy nhiêu, càng nuôi niềm hi vọng và củng cố sự hiệp thông.” (Gioan Phaolô II, Zenit 18/02/2002) Đó là những ánh sáng cần thiết cho người môn đệ ứng phó với những thách đố lớn lao trong sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Thế nhưng sứ mệnh làm chứng hôm nay đang đặt Kitô hữu trước những thách đố mới. Quả thực, hoàn cảnh đã thay đổi sâu xa. Theo Hội Dòng Maryknoll, “cụ thể việc truyền giáo hôm nay phải# đi tiên phong trong việc loan báo, đối thoại liên tôn, làm chứng, và thăng tiến nhân loại.” (Vidimus Domininum, 16/2/2002) Nếu không được biến hình trong ánh sáng Phục sinh, làm sao họ có thể can đảm “loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:8b) ? Khi đã được biến hình trên núi với Chúa, họ sẽ thấy “mọi phương diện cuộc sống nhân sinh: xã hội, cá nhân, tình cảm, tình dục, tâm lý, kinh tế và chính trị – cũng như tôn giáo và thiêng liêng – phải được sức mạnh giải thoát của Tin Mừng cải biến và canh tân.” (Joseph Veneruso, Vidimus Domininum, 16/2/2002) Sức mạnh đó hôm nay bao trùm toàn thể tông đồ. Chỉ ai lên núi mới có thể tìm được tất cả sức mạnh tình yêu trong ánh sáng Phục sinh. Cuối cùng chỉ tình yêu mới có thể thay đổi cục diện thế giới. Bao giờ người môn đệ mới lên núi Chúa để đem ánh sáng Phục sinh chiếu tỏa vào đêm đen nhân loại hôm nay ?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
---------------------------
Lịch sử cứu độ diễn tiến trong lịch sử nhân loại, với những giai đoạn hoặc thời điểm quan trọng. Trong Cựu Ước, việc Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Áp-ra-ham là một biến cố chuẩn bị thực hiện công trình cứu độ. Thiên Chúa muốn thiết lập một dân tộc đặc biệt để từ một người con của dân tộc ấy là Đức Giê-su Ki-tô, việc cứu độ sẽ được khởi đầu và hoàn tất. Cũng thế, Thiên Chúa kêu gọi Con Một Người trên một ngọn núi cao trong cuộc Hiển dung là để Con Một Người đáp lại và hoàn tất sứ mệnh cao cả cứu độ muôn người. Đề tài của lời Chúa hôm nay chính là việc Chúa kêu gọi và thiết lập một dân thánh, đồng thời kêu gọi ta hãy làm một phần tử của dân thánh ấy.
1. Thiên Chúa kêu gọi Áp-ra-ham để thiết lập một dân thánh (bài đọc Cựu Ước – St 12:1-4a)
Việc Thiên Chúa kêu gọi luôn bao hàm một sự rời bỏ và ra đi. Rời bỏ tất cả những gì thuộc về con người được kêu gọi và ra đi với một sứ mệnh cần phải thực hiện với tất cả lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ông Áp-ram quê thành Ur miền Lưỡng hà địa cũng không vượt qua những điều kiện ấy. Ông được Thiên Chúa kêu gọi bỏ lại tất cả tại quê cha đất tổ để lên đường đi tới một nơi chưa hề biết. Người nói với ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Mệnh lệnh này đòi hỏi một lòng tin tuyệt đối mới có thể thi hành được. Ta thử đặt mình vào hoàn cảnh ông Áp-ram. Tất cả những gì ông đang có trong tay không phải nhỏ bé tầm thường. Nhà cao cửa rộng, những đàn súc vật đếm không xuể, kẻ ăn người làm tấp nập, họ hàng bà con quây quần chung quanh. Quả thực Áp-ram đã được chúc phúc thật nhiều và người ngoài chỉ mong được một phần nhỏ xíu phúc lành của ông thì đã mãn nguyện. Vậy mà giờ đây Thiên Chúa bảo ông hãy bỏ lại hết. Để bù lại, Người ban cho ông một lời hứa không căn cứ, đồng thời cũng là một sứ mệnh: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi”. Chỉ có vậy thôi thì làm sao mà tin nổi. Vậy mà Áp-ram đã tin và ông đã bỏ lại tất cả, đã ra đi, bước vào một cuộc hành trình đức tin nơi Thiên Chúa.
Vậy ông Áp-ra-ham đã tin vào Thiên Chúa như thế nào? Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma ca tụng lòng tin của Áp-ra-ham: “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: ‘Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế’. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4:18-22).
Thánh Phao-lô nêu cao đức tin của ông Áp-ra-ham là để đưa ta tới một chân lý quan trọng: “Chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4:24-25).
2. Trên núi cao, Thiên Chúa kêu gọi Đức Giê-su chu toàn sứ mệnh cứu độ nhân loại (bài Tin Mừng – Mt 17:1-9)
Để chuẩn bị kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Áp-ra-ham làm tổ phụ dân riêng của Người. Giờ đây, trên một ngọn núi cao, Người gọi Đức Giê-su tiếp tục sứ mệnh, là lên Giê-ru-sa-lem và sẵn sàng chấp nhận cuộc Thương Khó và cái chết khổ nhục. Cuộc Hiển dung của Chúa Giê-su trên núi là dịp để Người quyết định dấn thân trong giai đoạn cam go nhất của sứ mệnh. Sự hiện diện và đàm đạo của ông Mô-sê với ngôn sứ Ê-li-a nói lên sứ mệnh của Chúa Giê-su là phải thực hiện mọi điều được nói trong sách Lề Luật và các ngôn sứ, như chính Người đã ba lần tiên báo cho các môn đệ: Con Người sẽ bị nộp, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Rao giảng Tin Mừng cứu độ và bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa là nội dung sứ mệnh của Chúa Giê-su. Cao điểm sứ mệnh của Người là những ngày cuối cuộc đời dương thế Người phải chấp nhận cuộc Thương Khó và cái chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Cũng như cuộc kêu gọi ông Áp-ra-ham, Chúa Giê-su cũng phải từ bỏ tất cả vinh quang, ra đi mặc lấy kiếp phàm nhân và sống tuân phục đến bằng lòng chịu chết (Pl 2:6-8).
Lời Chúa Cha phán từ đám mây sáng ngời ngầm hiểu Chúa Giê-su đã quyết định làm theo thánh ý Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Nếu Người không quyết định chu toàn thì Người đâu có phải là Con yêu dấu của Chúa Cha! Quả thực, Người đã thực sự chết trên thập giá như Người đã khẳng định: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
3. Thiên Chúa kêu gọi ta vào làm dân thánh của Người (bài đọc Tân Ước – 2 Tm 1:8b-10)
Hai câu truyện Thiên Chúa kêu gọi tổ phụ Áp-ra-ham và Đức Giê-su là những biến cố quan trọng trong cuộc thực hiện kế hoạch cứu độ. Tuy nhiên còn một câu truyện Thiên Chúa kêu gọi thứ ba cũng không kém phần quan trọng, đó là Người kêu gọi hết mọi người làm dân thánh của Người. Cuộc kêu gọi từng người này được mệnh danh là Tin Mừng do Chúa Giê-su khởi sự rao giảng, rồi tiếp theo là các tông đồ và Giáo Hội mọi thời mọi nơi. Việc kêu gọi này đã nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng “đã tiền định cho ta làm nghĩa tử của Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (Ep 1:5).
Suy niệm về kế hoạch này của Thiên Chúa, thánh tông đồ quả quyết rằng không phải vì những việc lành thánh ta làm mà ta xứng đáng được Thiên Chúa kêu gọi, nhưng là hoàn toàn do kế hoạch và ân sủng của Người. Nếu thế, ta phải đội ơn Thiên Chúa biết chừng nào và phải luôn chuẩn bị dẵn sàng để lãnh nhận ơn cứu độ!
Ngoài ra thánh Phao-lô còn kêu gọi người môn đệ thân yêu của ngài là ông Ti-mô-thê hãy đồng lao cộng khổ với ngài mà loan báo Tin Mừng. Nhưng liệu ta có phải làm như ông Ti-mô-thê là loan báo Tin Mừng hay không? Dĩ nhiên là có. Mỗi người có một hoàn cảnh, một khả năng để loan báo Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên nếu ta không chính mình tiếp nhận Tin Mừng cứu độ thì làm sao có thể loan báo được. Chẳng ai có thể cho đi những gì mình không có. Ta được mời gọi dự phần vào công cuộc cứu độ, không phải riêng cá nhân ta, nhưng đồng hành với tất cả dân thánh. Do đó, lời gọi vào làm dân thánh và đáp trả của ta là một tiến trình liên tục suốt cuộc đời và liên hệ với toàn thể thành phần dân Chúa. Mùa Chay là thời thuận tiện để ta củng cố lại quyết định đáp trả lời gọi của Thiên Chúa. Một cách cụ thể hơn, mùa Chay sẽ là thời gian để ta cảm nhận mạnh mẽ hơn thực tại thuộc về dân thánh và bổn phận sống đích thực căn tính con Thiên Chúa của ta.
4. Sống lời Chúa
Các bài đọc hôm nay mở ra cho ta một chân trời mới. Sứ mệnh của ông Áp-ra-ham và của Chúa Giê-su đã được chu toàn theo kế hoạch của Thiên Chúa. Các ngài đã chu toàn bằng cách sống trọn vẹn niềm tin vào Thiên Chúa, nhờ đó dù sứ mệnh khó khăn và sức loài người không thể làm nổi, thì các ngài cũng đã khắc phục được cả và xứng đáng với danh hiệu “cha của đức tin” và “Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha”. Chân trời mới của ta lả được mời gọi làm dân thánh, làm con đích thực của Chúa.
Suy nghĩ: Từ đám mây sáng ngời tiếng Thiên Chúa Cha phán với ba môn đệ của Chúa Giê-su: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Vậy nếu quả thực tôi là môn đệ Chúa Ki-tô, tôi đã “vâng nghe lời Người” chưa? Nói lên những điều cụ thể chứng tỏ tôi vâng nghe Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng cdon phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II mùa Chay)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
---------------------------
Chúa Nhật thứ 2 Mùa Chay (20-2-ABC2005)
ĐỌC LỜI CHÚA
• St 12,1-4a: (1) Chúa phán với Ápram: «Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. (2) Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.
• 2Tm 1,8b-10: (8) Dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
Đức Giêsu hiển dung
(1) Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (3) Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. (4) Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: «Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia». (5) Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! » (6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: «Chỗi dậy đi, đừng sợ! » (8) Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. (9) Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: «Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc biến hình của Đức Giêsu xảy ra sau những sự kiện liên tiếp nhau: Phêrô tuyên xưng đức tin, Đức Giêsu báo trước cuộc tử nạn và nói ra những điều kiện để theo Ngài. Điều đó có ý nghĩa gì?
2. Sự biến hình của Đức Giêsu có phải là một hứa hẹn cho sự biến hình của ta không? Ta có thể được biến đổi từ một con người yếu đuối, khiếm khuyết hiện tại thành một con người mới mạnh mẽ, thánh thiện trong tương lai, như một con sâu xấu xí biến thành một con bướm đẹp rực rỡ không? Muốn thế, ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
Trong Tin Mừng Mátthêu, ta thấy có 4 sự kiện xảy ra liên tiếp nhau. Trước hết, Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16,13-20). Kế đến Ngài báo cho ông và các môn đệ cuộc tử nạn thảm thương của Ngài (x. Mt 16,21-23). Rồi Ngài cho các ông biết những điều kiện phải có để có thể theo Ngài (x. Mt 16,24-28). Và cuối cùng Ngài tỏ thiên tính và vinh quang của Ngài ra cho ông và 2 môn đệ thân tín khác của Ngài (Mt 17,1-9). Không phải vô tình mà 4 sự kiện ấy xảy ra liên tiếp như vậy. Đó là một trình tự đầy ý nghĩa, cho chúng ta thấy một hành trình phải trải qua để người Kitô hữu trưởng thành trong đời sống tâm linh.
1. Thành hình đức tin
Những người sống đồng thời với Đức Giêsu, được nghe biết bao lời giảng dạy đầy quyền uy và khôn ngoan của Ngài, được chứng kiến bao điều lạ lùng Ngài làm, nhưng nhiều người không tin Ngài, tuy nhiên cũng có một số người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Phêrô là một trong những người tin vào Ngài vững chắc nhất.
Trong số những người tin, có những người tin do tính dễ tin của họ: ai nói gì cũng tin, vì họ ít suy nghĩ, ít khả năng suy xét, phán đoán. Niềm tin của họ vì thế không có nền tảng vững chắc, do đó họ cũng dễ dàng mất đức tin khi nghe những người có uy tín nói hay lý luận ngược lại. Có những người tin rất vững chắc mặc dù họ không phải là người dễ tin, thậm chí còn rất khó tin nữa: họ tin vì họ biết suy nghĩ, nhận định, phán đoán, biết thực nghiệm đức tin.
Ngoài những lý do siêu nhiên là ơn Chúa ban, đức tin còn tùy thuộc vào lương tri và sự yêu mến chân lý hơn là vào trình độ học thức hay văn hóa. Trong đời sống tâm linh, người có lương tri và lòng chân thành thường phán đoán chính xác và đúng đắn hơn người chỉ có trình độ học thức hay văn hóa, cho dù là học thức về tôn giáo. Thật vậy, giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái có trình độ học thức và giáo lý cao hơn Phêrô các các tông đồ rất nhiều, nhưng họ không tin Đức Giêsu. Vì càng cậy vào trình độ văn hóa hay giáo lý hơn là vào lương tri, thì chính trình độ ấy nhiều khi lại càng cản trở họ tin hơn. Đương nhiên đức tin luôn luôn là kết quả của ơn Chúa luôn sẵn sàng ban trên mọi người, nhưng có lãnh nhận được ơn Chúa hay không lại tùy thuộc rất nhiều vào lòng khiêm tốn và chân thành, là hai yếu tố quan trọng của lương tri con người.
Tuy nhiên, đức tin ban đầu thường pha trộn nhiều ảo tưởng và tham vọng. Chẳng hạn như Phêrô, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (x. Mt 16,13-20), là Đấng Cứu Thế, thì Đấng Cứu Thế ấy là một Đấng Cứu Thế theo quan niệm đầy ảo tưởng của ông: Ngài sẽ giải phóng dân tộc, rồi làm vua, và ông sẽ là một cận thần của Ngài, một vị quan lớn trong triều đình. Một đức tin như vậy cần phải được tinh luyện, như vàng quặng phải được tinh luyện thành vàng ròng mới có giá trị.
2. Tinh luyện đức tin
Phêrô tưởng tin vào Đức Giêsu thì sau này mình sẽ trở thành một nhận vật tên tuổi, «cái tôi» của ông sẽ được phình to lên trước mặt mọi người. Vì ông tin rằng Đức Giêsu, Thầy mình, sẽ làm vua ở trần gian. Nhưng Đức Giêsu phá đổ ảo tưởng đó để đức tin của ông trở nên thực tế và tinh ròng hơn. Ngài tiên báo rằng Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn, và sẽ chết cách nhục nhã. Điều này khiến Phêrô ban đầu không hiểu và không chấp nhận được, vì như thế, mọi ảo tưởng của ông đều mất chỗ dựa và sụp đổ. Nhưng đó là quá trình phải trải qua của đức tin để trở thành một đức tin trưởng thành. Qua sự dạy dỗ, Đức Giêsu đã biến đức tin của ông thành tinh ròng, đúng đắn, vị tha, một đức tin trưởng thành, đầy sức mạnh. Chỉ với đức tin đó ông mới có thể thành nền tảng cho Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập.
Cũng vậy, nơi mọi người, đức tin ban đầu rất thường pha trộn với ít nhiều ảo tưởng, sai lầm, mê tín, và vị kỷ. Ban đầu người ta thường tưởng đức tin sẽ đem lại cho họ những thuận lợi cho cuộc đời họ, giúp họ thực hiện những mơ ước hay tham vọng trần tục vị kỷ của họ. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn chấp nhận thứ đức tin ấy, và Ngài biến đổi nó, miễn là người ta trung thành với Ngài. Sẽ có những lúc vì đức tin mà họ bị mất mát, thiệt thòi, bị bách hại, đau khổ. Sẽ có lúc đức tin bị thử thách vì những tai họa, bệnh hoạn, nghịch cảnh… Và đức tin dường như chẳng đem lại cho người ta những thuận lợi của trần gian. Những mối phúc mà Đức Giêsu hứa cho những người thực hành niềm tin nơi Ngài toàn là những gì mà thế gian cho là bất lợi: nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khao khát công chính, biết thương xót người, trong sạch, hòa bình, bị bách hại… (x. Mt 5,1-12). Đây là giai đoạn thanh luyện đức tin, gột bỏ những gì là tham vọng, ảo tưởng, sai lầm trong đức tin.
3. Thực thi đức tin
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, Ngài liền phá đổ các ảo tưởng trong đức tin của ông bằng việc báo trước cuộc tử nạn của Ngài. Tiếp đến, Ngài lột bổ tính cách vị kỷ trong đức tin của ông, bằng cách đòi hỏi ông và những ai tin theo Ngài phải từ bỏ con người vị kỷ của mình: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,24-25). Từ bỏ con người vị kỷ là coi nhẹ «cái tôi» của mình, sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí mất tất cả, kể cả mạng sống mình vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đức tin vị kỷ ban đầu phải trở thành đức tin vị tha: nghĩa là phải vì vinh quang của Thiên Chúa và hạnh phúc của đồng loại.
Đây chính là giai đoạn thực thi đức tin trong đời sống cụ thể của con người. Nó hoàn thành việc tinh luyện đức tin. Đức tin phải thể hiện thành đời sống, thành cách suy nghĩ, cách nói năng, cách phản ứng, cách đối xử, cách hành động… Nếu không, đó chỉ là đức tin giả hiệu, mà thánh Giacôbê còn gọi là «đức tin chết» (Gc 2,17.26). Thỉnh thoảng chúng ta nên nghiêm túc xét lại xem đức tin của mình là loại đức tin nào? sống hay chết, đích thực hay giả hiệu?
4. Thành tựu của đức tin
Một đức tin đích thực, trưởng thành và vị tha như thế sẽ dẫn ta tới đâu? Sau khi đòi hỏi Phêrô và các môn đệ khác phải «từ bỏ chính mình», «vác thập giá mình» vì đức tin, Đức Giêsu cho ông và hai môn đệ thân tín khác – là ba người tin vào Ngài vững mạnh nhất – thấy thiên tính và sự vinh quang của Ngài khi Ngài biến hình trên núi. Qua việc biến hình này, trước hết Ngài cho các ông thấy niềm tin của họ vào Ngài là chính xác, và họ không hề tin lầm: Ngài chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đúng như Phêrô đã tin và tuyên xưng. Kế đến Ngài cho các ông thấy, một cách biểu tượng, phần thưởng vĩ đại cho đức tin trưởng thành của các ông, một đức tin đã được thử thách và tinh luyện. Phần thưởng vĩ đại ấy không phải thứ vinh quang trần tục chóng qua mà các ông từng mong đợi được hưởng ở đời này, mà là thứ vinh quang thần linh và vĩnh cửu của Ngài mà các ông sẽ được dự phần vào như Môsê và Êlia.
So với vinh quang vĩ đại ấy, những gì ông hy sinh từ bỏ ở đời này chẳng đáng vào đâu: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Vinh quang đó không chỉ được mặc khải cho chúng ta – những kẻ tin vào Ngài – mà là nơi chúng ta; nghĩa là vinh quang đó là của chúng ta, được thể hiện ngay trong bản thân chúng ta.
Đó là quá trình phải trải qua của đức tin mỗi người, từ khi thành hình đến khi thành tựu viên mãn. Mỗi Kitô hữu hãy tự hỏi: đức tin của mình đang ở giai đoạn nào? đã được tinh luyện bằng gian nan thử thách để trở nên trưởng thành chưa? khi đức tin bị thử thách, thái độ của ta thế nào?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, vàng ban đầu ở dạng quặng bao giờ cũng phải được tinh luyện mới thành vàng ròng, đức tin của con – cũng như của Phêrô và các tông đồ xưa – cần phải được tinh luyện mới trở nên tinh tuyền, mới có giá trị. Xin cho con biết kiên trì khi đức tin được tinh luyện, thử thách, nhất là cho con biết tích cực góp phần chủ động của mình trong việc tinh luyện này. Bằng cách sống đức tin trong đời thường qua việc «từ bỏ mình», coi nhẹ «cái tôi» của mình và những gì của mình, để thật sự «vác thập giá mình» mà theo Đức Giêsu. Để rồi chính con sẽ được biến hình – như một con sâu biến thành con bướm – từ con người cũ thành con người mới, từ con người tự nhiên thành con người siêu nhiên.
Joan Nguyễn Chính Kết
---------------------------
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY, NĂM A
St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9
Có những khoảng khắc chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, cuộc đời hạnh phúc bình yên. Thế giới chung quanh và trong tâm hồn chứa đầy vẻ hài hoà. Rất có thể đó là lúc ngắm cảnh mặt trời lặn, đứng trên núi chứng kiến vẻ hùng vĩ của thiên nhiên; cũng có thể là lúc cảm thấy rung động do một vần thơ, một giọng ca truyền cảm; cũng có thể là một cuộc gặp gỡ tình cờ, … Trong những hoàn cảnh đó chúng ta có thể thốt lên như Phêrô: „Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” Nhưng dựa vào kinh nghiệm bản thân chúng ta biết rằng: Không có tiệc vui nào mà không có lúc tàn. Có khi kéo dài năm ba ngày, có khi chỉ trong vài khoảng khắc chúng ta được hưởng nếm những hương vị ngọt ngào quý báu đó, sau đó tất cả lại trở về cuộc sống thường nhật.
Có lẽ những kinh nghiệm này giúp chúng ta hiểu thấu đáo những gì bài Phúc âm hôm nay tường thuật. Tác giả diễn tả những phút giây quý báu nhất trong cuộc đời theo chân Đức Giêsu. Trong đó, chúng ta cảm thấy mình hiệp nhất, nên một với Thiên Chúa. Đức Giêsu cùng với ba môn đệ tiến lên đỉnh núi cao và Người đã hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảng khắc này các ông có thể cảm nhận một cách sâu xa Đấng cứu thế là ai và dung nhan của Đấng phục sinh như thế nào. Trong cuộc sống thường nhật họ đã chứng kiến biết bao khó khăn, trắc trở, xung khắc, kiện tụng, … Nhưng giây phút hiện tại hoàn toàn vô tư, tự do thoải mái, tâm hồn thanh thản, tự tại, thật hạnh phúc. Dĩ nhiên chẳng ai muốn bỗng chốc tất cả buột khỏi tầm tay. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba cái lều giống như Phêrô.
Giây phút thần tiên thường hiếm có, ngắn ngủi! Thoáng chốc Phêrô phải từ chín tầng mây trở về cuộc sống thực tế với muôn vàn khổ ải, trần ai! Ông phải học để biết rằng: Những phút giây này là quà tặng của Thiên Chúa. Không ai có thể bo bo giữ lấy cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn mà họ phải đương đầu! Quả thật, cuộc sống con người chứa đầy thăng trầm, năm chìm bảy nổi. Cuộc sống thường nhật có những lúc khó khăn chất chồng, dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày sương mù dầy đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa, tẻ nhạt! ... Nhưng có những lúc con người không có giây phút nào được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối bận rộn với bổn phận. Việc này chưa xong, việc khác đã đứng chực ngoài cửa!
Trong đời sống đạo, trong đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Trong hoàn cảnh này điều cần thiết nhất là nhớ đến những giây phút thiêng thánh trong đời. Đó cũng là mục đích của những ngày cấm phòng. Những ngày chìm lắng trong thinh lặng giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống ơn gọi làm người: một cuộc sống sung mãn, hạnh phúc, thành công. Chúng ta cần những giây phút thần tiên để giữ gìn cái nhìn toàn diện của cuộc sống. Thiên Chúa đã hứa đồng hành với chúng ta, đứng về phía chúng ta khi thành công cũng như lúc thất bại, khi vui cũng như lúc buồn tủi.
Điều quan trọng không phải những lúc trật đường rầy. Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đường tại thế. Núi Tabo trước tiên không phải là một nơi chốn mà là một sự kiện có thể xảy ra bất cứ ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Nhưng chúng ta chỉ có thể phát hiện ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: Một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảng khắc yên tịnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ … một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện: Những lúc chúng ta nghiệm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quý báu hơn. Chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì những kinh nghiệm này như một kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm sống động này giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái trong những ngày éo le hoạn nạn, giúp tăng cường lòng tin nơi chúng ta, giúp chúng ta tin rằng, rồi đây Thiên Chúa sẽ đưa dẫn chúng ta đến một đích điểm tốt đẹp, đó chính là phúc thiên đàng.
Lm. Phêrô Trần Minh Đức
---------------------------
(Mát-thêu 17: 1-9)
Chân tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su là đề tài chính của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay, được suy niệm và chiêm ngưỡng để ta rút những bài học thực tế cho cuộc sống Ki-tô hữu. Chúa Nhật thứ hai mùa Chay nói với ta về cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giê-su trên núi Ta-bo. Biến cố ý nghĩa này được cả ba thánh sử Tin Mừng Nhất lãm trình bày trong liên hệ với biến cố ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Móc nối hai biến cố ấy với nhau, hẳn các thánh sử muốn trình bày sứ mệnh đích thực của Đấng Mê-si-a không giống như ông Phê-rô có ý tuyên xưng, do đó sẽ là một thử thách lớn lao không những cho cá nhân Phê-rô, mà cho tất cả mọi Ki-tô hữu muốn bóp méo hình ảnh Đấng Mê-si-a theo ý mình. Vậy câu truyện Chúa biến đổi hình dạng đòi hỏi các Ki-tô hữu phải xét lại cách thức họ làm môn đệ Chúa và mời gọi họ hãy trung thành theo Chúa trong mọi hoàn cảnh.
a) Cám dỗ trong việc làm môn đệ Chúa
Qua câu truyện Chúa Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, ta đã nhận ra được bản chất cám dỗ về căn tính và chức phận của Chúa Giê-su khi Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Chúa đã gọi ông Phê-rô và các bạn ông làm tông đồ, tham dự vào sứ vụ của Người. Các ngài bắt tay vào việc, gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Nào là dân chúng lũ lượt theo Chúa để lắng nghe lời giảng dạy đến độ quên cả đói khát. Nào là những phép lạ Chúa thực hiện khiến họ nức lòng và có lần còn muốn tôn vinh Chúa Giê-su làm vua. Có lẽ những thành công ấy càng làm cho nhóm tông đồ bị cám dỗ chỉ muốn Chúa Giê-su dừng lại ở thời điểm vinh quang này chứ đừng đi xa hơn nữa. Trong tình huống đó, Chúa Giê-su muốn các ông phải có ý niệm xác thực về sứ mệnh của Người. Được Thánh Thần linh hứng, ông Phê-rô đã tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Nhưng khi bắt đầu lên đường đi Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su lại báo trước về cuộc Thương khó của Người, khiến cho các ông nản lòng. Thánh Mát-thêu viết: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết...” (Mt 16:21tt). Ngài muốn nhấn mạnh đến một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Chúa Giê-su: con đường thập giá.
Sứ mệnh của Chúa Giê-su không phải làm một vị cứu tinh trần thế, mà làm Đấng Mê-si-a như đã được mô tả trong Lề Luật và sách các Ngôn sứ, tức là làm Tôi trung của Đức Gia-vê, sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết để giải hòa nhân loại với Thiên Chúa. Chính vì thế ta mới thấy xuất hiện trong cuộc Chúa biến đổi hình dạng, ngoài Chúa Giê-su còn có ông Mô-sê đại diện cho Lề Luật và ngôn sứ Ê-li-a đại diện cho các Ngôn sứ. Sự hiện diện của các ông là để xác nhận vai trò đích thực của Đấng Mê-si-a nơi Chúa Giê-su, đúng như Người đã tiên báo về cuộc Thương khó Người sắp phải chịu tại Giê-ru-sa-lem.
Khi không muốn nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su theo kế hoạch của Thiên Chúa Cha, các tông đồ cảm thấy nản lòng và bị cám dỗ bỏ cuộc. Một phần họ sợ phải đối diện với đau khổ và bách hại. Phần khác họ thấy giấc mộng vinh hoa phú quý sẽ tan thành mây khói. Điều nên ghi nhận nữa, đó là lúc bị cám dỗ đừng theo Chúa nữa thì chính họ lại trở thành những tên cám dỗ người khác. Chẳng lạ gì khi Chúa Giê-su nặng lời quở trách ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt 16:23).
b) Quyết tâm theo Chúa Giê-su
Giữa cơn cám dỗ bỏ cuộc và không đi theo Chúa Giê-su nữa, các tông đồ được diễm phúc nghe chính lời Thiên Chúa kêu gọi: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5).
Lề Luật và các ngôn sứ đã chứng thực về sứ mệnh của Đấng Ki-tô. Giờ đây, chính Thiên Chúa xác nhận chân tính (Con yêu dấu) và phẩm giá (làm hài lòng Chúa Cha) của Chúa Giê-su. Như thế, các tông đồ không còn lý do gì để nghi ngờ về sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su. Sau hết chỉ còn là mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Mệnh lệnh này của Thiên Chúa có vẻ nghiêm khắc, nhưng cũng cùng một ý với lời kêu gọi của chính Chúa Giê-su: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (MC 1:15).
“Vâng nghe lời Người” mang nhiều ý nghĩa đối với đời sống Ki-tô hữu. Không chỉ có nghĩa là lắng nghe những lời Chúa Giê-su giảng dạy, nhưng còn phải hiểu theo ý nghĩa dấn thân tham dự vào sứ mệnh của Người. Dấn thân ấy đòi hỏi ta phải mặc lấy lối sống của Chúa Giê-su và hoàn toàn chối bỏ những gì Xa-tan cám dỗ Người và cám dỗ ta đi sai đường lối Thiên Chúa muốn. Vâng nghe lời Người là biết bỏ đi những lối suy nghĩ của loài người, để cùng với Người theo “tư tưởng của Thiên Chúa”. Vâng nghe lời Người cũng thúc giục ta biết hy sinh đón nhận thập giá và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” như Chúa Giê-su đã làm vì lợi ích của toàn thể nhân loại.
Một chi tiết trong câu truyện Biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đặc biệt đối với những ai muốn làm môn đệ Chúa Giê-su. Thánh Mát-thêu ghi nhận: “Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi” (Mt 17:8). Theo Chúa Giê-su đòi hỏi ta phải nhìn nhận địa vị độc tôn của Người. Chúa Giê-su là Đấng kiện toàn Lề Luật và các Ngôn sứ. Ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a đã lui bước. Chỉ còn lại Chúa Giê-su là Thầy dạy ban Luật mới, luật hoàn hảo và vĩnh viễn. Nhưng Thầy dạy ấy cũng là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, “Đấng phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”
Trong cuộc sống Ki-tô hữu, ta luôn cảm nghiệm cám dỗ khi sống làm môn đệ Chúa Giê-su. Một đàng ta muốn theo Chúa, nhưng đàng khác ta lại không muốn chấp nhận đường lối của Người. Ta nghe lời Thiên Chúa dạy ta “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, nhưng ta vẫn chưa dấn thân đủ để kết hiệp đời sống ta với sứ mệnh của Người. Nhưng Chúa Giê-su lúc nào cũng “hiển dung” giữa cuộc sống của ta, để nhắc nhở ta về cám dỗ bỏ hành trình làm môn đệ Chúa, đồng thời cũng khích lệ ta cứ tiếp tục tiến tới cùng với Người đi dần vào con đường vinh quang Thiên Chúa đang chờ đợi ta.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nhìn lại quá trình làm môn đệ Chúa, tôi tự hỏi mình thuộc loại môn đệ nào của Chúa? Tôi thực sự đi theo Chúa hay đi theo những ước vọng riêng tư của tôi? Những ước vọng riêng tư đó là gì?
Cũng như ông Phê-rô, việc tôi bị cám dỗ có trở thành một thử thách cho người khác không? Nói khác đi, những cám dỗ tôi chịu có làm xáo trộn đời sống của những người chung quanh không?
Trong mỗi chiến đấu khó khăn, tôi có biết kiên trì cho đến cùng như Chúa Giê-su đã dạy các tông đồ: “Cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy!” không?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới.
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Em-mau, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui.”
- ĐHY Roger Etchegaray
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 78)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
---------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 2 Ti-mô-thê 1: 8-10
Ti-mô-thê có cha là người ngoại và mẹ người Do-thái. Ông đã cùng với mẹ là bà Êu-ni-kê và bà ngoại là Lô-ít trở lại đạo. Thánh Phao-lô gặp ông lần đầu tiên ở Lýt-ra bên Tiểu Á. Khi Phao-lô trở lại Lýt-ra nhân chuyến truyền giáo lần thứ hai thì Ti-mô-thê theo ngài và trở thành cộng sự viên đắc lực của ngài. Suốt cuộc truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, Ti-mô-thê luôn ở bên cạnh Phao-lô. Đôi khi Phao-lô sai ông đi thi hành những công tác đặc biệt. Sau này thánh Phao-lô đặt ông đứng đầu giáo hội Ê-phê-xô (1 Tm 1:3).
Để hiểu được tâm tình của Phao-lô khi ngài viết những dòng tâm huyết này cho người môn đệ yêu dấu, chúng ta cần đặt mình vào hoàn cảnh của ngài lúc ấy đang bị cầm tù tại Rô-ma và đang đếm từng ngày cuối cùng cuộc đời. Đối với Phao-lô, nhìn lại "những ngày đã qua" là để nhận ra những ân sủng Chúa đã ban cho mình, từ ngày được diễm phúc gặp gỡ Đức Ki-tô trên đường Đa-mát, được biến đổi dần dần thành người tông đồ Dân ngoại và nhất là hiện thời trở nên "người tù của Chúa". Nhận ra những ân sủng có mục đích đưa chúng ta trở về nguồn cội của ân sủng là Thiên Chúa, Đấng "đã cứu độ và kêu gọi chúng ta". Đồng thời, nhận ra ân sủng của Thiên Chúa cũng giúp chúng ta nhận ra phương thức tuyệt vời Thiên Chúa dùng để thông ban ân sủng cho chúng ta, đó là "Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Giê-su Ki-tô."
Vậy trước khi nhắn nhủ Ti-mô-thê "đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta", Phao-lô muốn mời gọi người môn đệ hãy nhìn vào ngài như gương mẫu, nghĩa là trước hết cần phải xác tín lại một lần nữa rằng việc Thiên Chúa cứu độ và kêu gọi từng người trong những chức vụ riêng biệt là hoàn toàn do tôn ý của Người, chứ không phải do sự xứng đáng của chúng ta. Nếu ơn cứu độ và sứ vụ làm chứng cho Chúa đích thực là một ân sủng Chúa ban, thì làm sao chúng ta lại có thể hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa? Sợ rằng dù chúng ta có đem tất cả sức lực và đánh đổi mọi sự chúng ta có để dấn thân trọn vẹn cho việc rao giảng Tin Mừng cũng chưa đủ để đáp lại lòng thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Do đó, Phao-lô đi tới cốt tủy của lời nhắn nhủ dành cho Ti-mô-thê: "Dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng." Phao-lô không chỉ gửi tới Ti-mô-thê một lời nhắn nhủ suông. Nhưng ngài đã dựa vào kinh nghiệm thiêng liêng bản thân, vào những suy tư về sứ vụ tông đồ của ngài và của Ti-mô-thê để lời nhắn nhủ không phải là những lời mô phạm, dạy đời, mà là những lời tâm huyết của một người bạn. Thực vậy, khi mời gọi Ti-mô-thê "đồng lao cộng khổ" với mình, Phao-lô muốn coi ông như một người bạn, mặc dù xét theo tuổi tác và địa vị Ti-mô-thê chỉ là hàng môn đệ, được Phao-lô dạy dỗ và hướng dẫn. Sứ vụ và lòng nhiệt thành vì Tin Mừng đã xóa bỏ mọi ranh giới. Ở đây phản ảnh thái độ của Đức Giê-su: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu" (Ga 15:15).
Cuối cùng, để khích lệ và nhất là để nói lên quyết tâm chịu khổ vì làm chứng cho Chúa, thánh Phao-lô lại hướng về Chúa Ki-tô như cùng đích. Chính Đức Ki-tô là Đấng "đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử." Niềm tin và hy vọng của người tông đồ cần phải đặt trọn nơi Đức Ki-tô. Chiến thắng của Đức Ki-tô và phúc trường sinh Người đem lại cho nhân loại sẽ là bảo đảm phần thưởng dành cho những ai đã kiên trì làm chứng cho Chúa và rao giảng Tin Mừng.
Lời nhắn nhủ của thánh Phao-lô được dùng làm sứ điệp Giáo Hội muốn gửi tới con cái mình trong thời điểm mùa Chay hẳn phải có một ý nghĩa đặc biệt. Sống tinh thần mùa Chay chính là can đảm làm chứng cho Chúa và tích cực rao giảng Tin Mừng. Có lẽ nhiều người quá thụ động hoặc không ý thức bổn phận làm chứng nhân cho Chúa và Tin Mừng, cho nên Giáo Hội mời gọi họ hãy thay đổi cái nhìn và ý thức về bổn phận ấy, đặc biệt trong "thời thuận lợi" của mùa Chay, để được sống lại trong con người mới cùng với Đức Ki-tô, Chúa chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Chia sẻ một số trường hợp "tôi đã hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa". Tôi học được bài học nào qua những trường hợp này?
Tôi có nhìn ơn gọi của mình như một ân sủng trong "kế hoạch ân sủng" của Chúa không? Nếu không phải như vậy thì ơn gọi ấy đã là gì và đã khiến tôi có những phản ứng nào?
Thánh Phao-lô coi ơn gọi tông đồ của ngài là ân sủng Thiên Chúa ban "từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su." Nói khác đi, ngài liên kết ơn gọi của mình với Đức Ki-tô. Vậy tôi có liên kết sứ vụ làm chứng và rao giảng của mình với sứ vụ của Đức Ki-tô không? Điều này giúp gì cho tôi?
Phân tích cụ thể sứ vụ làm chứng cho Chúa và rao giảng Tin Mừng mà tôi có thể thi hành theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài có ý nghĩa được sai đi, hoặc làm chứng nhân cho Chúa.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
---------------------------
Khi chiêm ngắm hành trạng đời sống Đức Giêsu, Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu có một nhận định mà có lẽ chúng ta, các kitô hữu chưa quan tâm đúng mức: "Một gia đình mới đang được xây dựng trong tình yêu đáng kinh ngạc của Chúa Cha ôm lấy tất cả". Thiên Chúa ngay từ khởi điểm can dự vào lịch sử nhân lọai đã bộc lộ ý muốn thiết lập GIA ĐÌNH này, và Người hòan thành ý định nhiệm mầu ấy trong Đức Giêsu.
Bài sách Sáng Thế là khởi điểm lịch sử thành văn của Dân Chúa, cho thấy ơn gọi, sứ vụ và hành trình của GIA ĐÌNH MỚI này. Abraham dược kêu gọi ra khỏi nhà cha mình, từ bỏ bộ tộc mình, rời xa quê hương đấ nước, để đi tới miền đất mới, với lời hứa cho ông một gia đình phong nhiêu con đàn cháu đống. Trong gia đình cũ của ông, ông là người son sẻ, không con nỗi dõi tông đường.: sự tàn lụi và sự chết bao kín đời ông. Điều đáng nói và phải nói hơn chính là trong GIA ĐÌNH MỚI này không phải chỉ là có con cháu đông đảo như sao trên trời, như cát dưới biển, mà quan trọng hơn GIA ĐÌNH trở thành kho tàng ÂN SỦNG VÀ PHÚC LÀNH cho mọi dân tộc. Nếu chúng ta đặt ơn gọi của Abraham vào thời điểm lịch sử nhân lọai: đây là thời đại các Pharaon ở Ai Cập, của công quốc người Sumer ở Trung Đông, triều đại nhà Hạ ở Trung Quốc, thời các vua Hùng ở Việt Nam. một thời đại mà khắp nơi chỉ là những chiến tranh mở rộng quyền lực, còn ghi đậm ấn dấu trong những chuyện thần thọai như Sơn Tinh, Thủy Tinh, hay chuyện nàng Mỵ Nương. Đặt trong bối cảnh nhân lọai ấy, thì ơn gọi của Abraham đúng là "Một Gia Đình mới đang được xây dựng trong Tình yêu đáng kinh ngạc".
Ơn gọi ấy sẽ còn được Thiên Chúa theo đuổi trong lịch sử khi Ngài kêu gọi Môsê, và nhất là khi tuyển chọn Đavid: vẫn là một thao thức làm nẩy sinh "Một GIA ĐÌNH MỚI" cho Thiên Chúa. Thế nhưng, phải đợi tới Đức Giêsu Kitô như Tông Huấn tại Á Châu đã mô tả. Khi giới thiệu Đức Giêsu cho Hội Thánh, Gia Đình Mới , Thiên Chúa đã long trọng tuyên bố trên núi Tabor "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" Chúng ta không thể không nhận ra cái Ý Nghĩa thực sự của ơn gọi và sứ vụ trong lời giới thiệu này, chính là ơn gọi và sứ vụ thuộc về GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA. Đối với Thiên Chúa, không còn gì khác đáng yêu thương và chúc phúc hơn là CON CHÍ ÁI. Và GIA ĐÌNH CON CHÍ ÁI đích thật là lời chúc phúc tràn đầy ân sủng cho mọi dân tộc. Thánh Phaolô đã viết "dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Đức Giêsu Kitô,. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống."
Và qủa thật nơi Đức Giêsu và GIA ĐÌNH NGƯỜI, sự chết đã bị tiêu diệt: đó là Tin Mừng thứ nhất được loan báo. Vào lúc bình minh của công việc rao giảng, các môn đệ đã chẳng từng chứng kiến 2 con người thiên cổ Mô Sê và Elia hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu trên núi thánh đó sao ? Những con người đã chết, nay đi vào cuộc sống của Đức Giêsu. Và rồi các ông sẽ còn chứng kiến, nơi đâu có Đức Giêsu, sự chết bị đẩy lui. Vấn đề là, với Đức Giêsu, nguyên căn của sự chết đã bị phơi bày: đó là tội lỗi. Và vì vậy, đi theo Đức Giêsu, các môn đệ thấy và xác tín rằng sứ vụ trên hết và trước hết của Đức Giêsu là tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống con người. Người đã dùng ân huệ và quyền năng Thiên Chúa chiếu soi mọi con người, đưa họ ra khỏi vùng tối tội lỗi sự chết, để họ vào sng trong ánh sáng con Thiên Chúa. Gia Đình mới của Ngài từ Nagiareth là gia đình rực sáng Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, là gia đình chia sẻ ơn vô nhiễm cho mọi người thân yêu. Tin Mừng đã viết như thế.
Sứ mạng của Hội Thánh Đức Kitô, và do đó sứ mạng của Gia Đình Kitô hữu trước tiên cũng chính là sự chiến thắng tội lỗi, phải "trở nên trắng như tuyết, rực rỡ như mặt trời". Chúng ta cần trở lại cái bối cảnh lịch sử nhân lọai vào thời điểm Thiên Chúa khởi sự để mình can dự vào. Bóng tối tội lỗi chính là những tham vọng quyền lực, biến anh chị em mình trở thành những công cụ cho lòng tham và dục vọng, là làm xáo trộn trật tự yêu thương của Thiên Chúa nơi tạo vật Ngài, một trật tự trong đó, mọi con người mọi sự đều là phản ánh vinh quang Con Thiên Chúa. Và sự can thiệp của Thiên Chúa được thực hiện trong ý định và kế họach làm nên một GIA ĐÌNH MỚI CHO Người trong Đức Giêsu và Hội Thánh. Người Kitô hữu không thể nghĩ rằng những gì mình đang có, những gì do mình làm ra, là để bảo đảm cho sự sống riêng mình, nhưng tất cả chính là những ÂN SỦNG mà Thiên Chúa đặt vào tay họ để mưu cầu sự sống cho những con người phận nhỏ. Đó là Ân Sủng Tình Yêu để tiêu diệt tội lỗi trong lòng họ và trong lòng thế giới.
Giuse Nguyễn Hữu Duyên
---------------------------
Mt 17, 1-9
Trong cuộc sống, người ta đã kinh nghiệm được rằng: có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Chẳng hạn như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: quà tặng, sự âu yếm, sự hy sinh quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Vì cái chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim. Bên cạnh đó, có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Hẳn thật, Đức Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm, được mấy người nhận ra đó là Con Thiên Chúa đâu. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra Thiên tính của Người, ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay thánh sử Matthêô cho chúng ta thấy, khi Chúa tỏ mình ra, ba Tông Đồ thân tín quá ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Thần tính vinh quang biểu lộ rọi sáng vào nhân tính được tôn vinh. "Diện mạo Đức Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng".
Thần tính Đức Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra con của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Người nghèo hèn này lại là Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang. Nhờ ánh sáng vinh quang trên núi Tabore của Đức Giêsu giúp ta nghiệm ra:
Ánh sáng Thần tính chiếu soi nơi nhân tính đem lại cho ta niềm hy vọng. Vì nhân tính của Đức Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng chiếu soi cả vào con người chúng ta, ánh sáng ấy chiếu vào cái thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, của chúng ta. Mặt khác, Ánh sáng ấy cho chúng ta hiểu rằng, Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Ánh sáng ấy nói với chúng ta rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc chúng ta trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Trong con người của mình, chúng ta càng vứt bỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, chúng ta càng tới gần Chúa. Bên cạnh đó, nhận thức ấy còn giúp chúng ta sẵn sàng kính trọng tha nhân vì tah nhân là những đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý. Như thế, sống Mùa Chay chính là hành trình nội tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.
Mùa chay giúp chúng ta trở về nội tâm mình. Mùa chay giúp chúng ta có nhiều cơ hội làm hoà với Thiên Chúa và Tha nhân, nhưng chính trước đó chính mình giải hoà bản thân mình. Mùa Chay có nhiều cơ hội giúp ta thi hành điều Chúa muốn như ăn chay, bố thí và cầu nguyện. Chúng ta hãy xem kỹ lại việc ăn chay của mình, nếu ăn chay chính là đến với anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương thì đó là điều mà Chúa mong muốn. Ngoài ra, ta đến với tha nhân bằng cách hết sức có thể, có thể ta đến với những mảnh đời kém may mắn, vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Chúng ta hãy làm sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh. Như thế ta là chúng ta đang cộng tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Đức Kitô, đưa nhân loại vào hành trình vượt qua sự chết và dần đang đi vào phục sinh.
Lạy Đức Kitô, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con có khả năng nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy để chúng con biết yêu mến những thực tại vô hình. Amen.
---------------------------
Mt 17,1-9
Trong sách giáo lý Tân Định, tôi vẫn còn nhớ như in câu hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa ta sống ở đời này để nhận biết, tôn thờ Chúa là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên ta, và để sau này ta được hưởng hạnh phúc với Ngài trên thiên đàng đời đời. Đúng thế! Mục đích đời sống của người kitô hữu là để được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng với Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại cuộc biến hình uy nghi của Chúa Giêsu trên núi trước mặt ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy thiên tính của Ngài: Một Vị Ngôi Hai Thiên Chúa vinh hiển sáng ngời "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" và ba ông đã cảm nếm được hạnh phúc trong chốc lát. Phêrô đã thốt lên: "Chúng con ở đây thật là hay!" Cảnh Chúa Giêsu biến hình có thể hiểu được đó là hình ảnh của Nước Thiên Chúa được thể hiện ra trong chốc lát cho ba môn đệ thân tín để các ông vững tin hơn; đồng thời cũng để cho nhân loại và cho chúng ta có một vài khái niệm về Nước Thiên Chúa, mà chúng ta thường gọi là Thiên Đàng. Vậy qua đây, chúng ta cùng nhau nhận ra một vài nét đặc trưng của Nước Thiên Chúa:
1. Nét đặc trưng thứ nhất: đó là Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài không gian - thời gian mà con người đang sống. Không có sự phân biệt tách rời quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vì, qua bài tường thuật, chúng ta thấy Êlia và Môsê là những người thuộc thế hệ xa xôi trong quá khứ đã cùng hiện diện với Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sống trong thế hệ hiện tại lúc bấy giờ. Và hình ảnh Chúa Giêsu sáng láng rực rỡ, biểu hiện cho cảnh tượng hiển vinh trong tương lai. Ở trần gian, con người thường đau khổ vì chịu sự chi phối của thời gian và không gian, phải ly cách với quá khứ, ly cách với ông bà tổ tiên, với nơi này chốn nọ. Còn ở trong Nước Thiên Chúa, không có sự ly cách đó nữa; cũng không còn phải sống trong không gian đầy dẫy những tai ương, bệnh tật và âu lo.
2. Nét đặc trưng thứ hai: đó là con người trong Nước Thiên Chúa rất là xinh đẹp. Mátthêu tả rằng: "Mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng tinh như ánh sáng", thánh Máccô thì nói: "Áo Ngài nên rạng ngời, trắng tinh đến nỗi thợ giặt trần gian không tài nào giặt được trắng như thế". Còn dáng vẻ của Êlia và Môsê thì thánh Luca nói: "Êlia và Môsê hiện ra sáng láng hiển vinh". Rõ ràng con người trần gian không thể nào đẹp sánh bằng con người trong Nước Thiên Chúa.
3. Nét đặc trưng thứ tư: đó là được hạnh phúc tròn đầy. Mặc dù, hiện tượng Chúa biến hình chỉ xãy ra trong chốc lát nhưng đã khiến Phêrô thích thú ngây ngất và đã thốt lên: "Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môsê và một cho Êlia".
Nước Thiên Chúa được hé mở cách thoáng qua cho ba môn đệ trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor, hẳn cũng xứng đáng cho con người mong mỏi, ước ao và kiếm tìm, và thật là xứng đáng để chúng ta hy sinh vứt bỏ những bám víu ở trần gian như tiền tài, danh vọng, địa vị để đổi lấy Nước Thiên Chúa, như lời dạy của Chúa Giêsu "Trước hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Trong bài đọc một, ông Abraham đã vứt bỏ đằng sau lưng những gì là thân thiết như quê hương xứ sở, bà con láng giềng, bỏ lại ruộng đất, nhà cửa để đi theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã tin vào lời Thiên Chúa hứa và ông đã lên đường đến xứ sở mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho, để rồi ông chỉ còn tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê mà thôi. Và ông đã trở thành tổ phụ của những ai tin vào Thiên Chúa, ông đã chiếm được một phần gia nghiệp trong Nước Thiên Chúa.
Vậy chúng ta cũng hãy mạnh dạn tiến bước như tổ phụ Abraham, và đáp lại lời mời gọi của Chúa trong mùa chay thánh này, là hãy sám hối, thay đổi đời sống quay trở về với Thiên Chúa, hãy chọn Chúa là gia nghiệp, và Chúa là sự chọn lựa số một trong đời sống của chúng. Khi chọn Chúa là số một, đôi lúc sẽ làm chúng ta phải chùn bước, thậm chí ngã lòng nữa, lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng: 1/ Đức Kitô sáng láng của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi máu trong vườn cây dầu. 2/ Đức Kitô rực rỡ của núi Tabor cũng là Đức Kitô vác thập giá ngã lên ngã xuống nhiều lần trên đường đến núi sọ. 3/ Đức Kitô vinh quang của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá ở đỉnh núi sọ.
Với vinh quang của Chúa biến hình, ước gì trong mùa chay thánh này, chúng ta có một sự chọn lựa dứt khoát: Chúa là gia nghiệp của chúng ta. Và như thế, chắc chắn phần thưởng Chúa dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng là điều hiển nhiên. Amen.
---------------------------
Mt 17, 1 – 9
Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17, 2b).
Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!" (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.
Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: "Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. "Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16, 24 ).
Vậy đâu là con đường thập giá. Đó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi" ( St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.
Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu - vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.
---------------------------
Mt 17, 1-9
Anh chị em thân mến,
Ở ngay giữa mùa buồn (Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui mang lại niềm hi vọng cho người Kitô hữu: Câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor. Vậy đâu là ý nghĩa của nó? Cuộc biến hình này xảy ra khoảng tháng 8 năm 29, trên ngọn núi Tabor (theo truyền thống kể lại; giữa Nadareth và mạn Nam hồ Tibêriađê, miến Bắc Galilêa...). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Một vài điểm chúng ta cần lưu ý.
Đây là một phép lạ hiếm hoi trong nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm; mục đích sau khi công bố cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu, và thấy phản ứng thảm nảo của các môn đệ, Chúa Giêsu tỏ vinh quang Người qua phép lạ biến hình, để củng cố lòng tin cho các ông, để họ an tâm theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy.
Điểm khác: khi Chúa biến hình, xuất hiện Môisen và Êlia, hai nhận vật trong Cựu Ước. Môisen, sống cách Chúa Giêsu đến 1250 năm. Êlia, lối 900 năm. Một người đại diện cho Luật pháp, một người đại diện cho tiên tri, như là sứ giả của Thiên Chúa. Viêc này xác nhận vai trò của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã được loan báo trong Cựu Ứớc, muôn dân đang trông đợi. Trong khi biến hình, câu chuyện của ba vị nói với nhau, cũng là nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sắp tới...
Khi các vị còn đang nói, thì có một đám mây bao phủ, và từ trong đám mây có tiếng phán, đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. Đám mây nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, như khi Môisen dẫn dân Do thái qua sa mạc. Tiếng nói của Chúa Cha, là để xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, luôn vâng phục và luôn đi theo chương trình cứu rổi nhân loại của Chúa Cha đề ra...
b/. Tại sao Chúa Giêsu để mình biến dạng, tỏ vinh quang Thiên tính mình ra cho môn đệ được thấy, một điều mà bao lâu nay Chúa Giêsu hằng giấu kín? Đây còn là mầu nhiệm; tuy nhiên, có điều chúng ta vẫn có thể hiểu được phần nào. Chúa Giêsu vì sứ mạng được Chúa Cha giao phó, đã che giấu tất cả uy quyền vinh hiển của một Thiên Chúa, trong thân phận của một con người bình thường. Như bao nhiêu người khác, Người vẫn gặp thử thách, cám dỗ, khó khăn. Người cũng vẫn lo buồn, sợ hãi trước ám ảnh của cái chết khủng khiếp mà Người phải chịu. Dù vậy, Chúa vẫn luôn vui lòng đón nhận và làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Chúa biết việc mình làm; Chúa quyết tâm hoàn tất chương trình cứu rổi đã được vạch ra...Lúc này đây, để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Người tỏ một chút vinh quang Thiên Chúa cho họ thấy, để họ an tâm, xác tín vào chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa và sẵn sàng tiến bước theo Người.
Thiên Chúa muốn chúng ta biến hình như Chúa Giêsu: rõ ràng chúng ta được sinh ra và được cứu chuộc không phải để hư mất đời đời, mà là để được biến hình vinh quang trong địa vị là con cái Thiên Chúa. Dĩ nhiên ở trần gian, người ta không thấy không hiểu được linh hồn sạch tội, đẹp đẽ thế nào, và chắc chắn nó phải đẹp đẽ, vì nó là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tinh ròng, sáng láng, tuyệt mỹ, vô tỳ tích. Các thánh nói: nếu Chúa cho người ta thấy được một linh hồn tinh sạch hoàn toàn, đẹp đẽ và sáng láng thế nào, người ta sẽ không dám phạm tội, và cũng không còn ao ước ở trần gian nữa...Vì thế, biến cố Chúa biến hình chính là để loan báo cho chúng ta cuộc biến hình mai sau sáng láng trên nước trời.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu vì để cứu chuộc nhân loại, đã đành nhận thân phận một con người y như ta để gánh lấy tội ta, và thay ta đền tội trước mặt Chúa Cha. Dù vậy Người chính là Chúa Con, quyền năng ngang hàng như Chúa Cha. Chúng ta có tin Người là Thiên Chúa không? Câu chuyện biến hình này xác nhận điều đó.
---------------------------
Mt 17, 1-9
Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố . . . ) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần . . . Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul - vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot . . .Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.
Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa , nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.
Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.
Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.
Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người .
Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.
---------------------------
Mt.17,1-9
Chúa Nhật II Mùa Chay, Tin Mừng Mathêu cho chúng ta nghe trình thuật về cuộc Biến Hình của Chúa Giêsu. biến hình là thay đổi hình dạng, diện mạo, có một dáng vẻ khác với dáng vẻ bình thường. Cũng tương tự như Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cùng hai môn đệ làng Emmau dưới hình dạng khác, hình dạng một người đi đường. Sự biến hình của Chúa Giêsu là hòan tất điều mà các niềm tin hy vọng Khải Huyền Do Thái mong đợi, ở thời cuối cùng, diện mạo người công chính sẽ được biến đổi, và họ sẽ trở nên sáng láng và rực rỡ như diện mạo các Thiên Sứ đầy vinh quang.
Dựa vào một sự kiện trong qúa khứ vinh quang rạng ngời mà Mosê được hưởng khi còn ở trần gian (x.Xh.24,39), sự chờ đợi cánh chung đã mô tả vinh quang tương lai những kẻ được chọn. Trình thuật về Đức Giêsu biến hình đổi dạng tiếp nối việc việc Phêrô tuyên tín và trao sứ mạng trở nên Đá Tảng, trên đó Đức Giêsu xây Hội Thánh của Người. Đức Giêsu vạch ra cho Phêrô và các bạn thấy những điều bi đát đang chờ đợi Người tại Giêrusalem, và những điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu, tòan là những nghịch lý đau thương, một viễn tượng hết sức mù mịt. Nhưng Ngài đòi các ông phải chấp nhận cái thông điệp khó chấp nhận: Đức Giêsu là Đức Kitô phải chịu khổ nạn rối mới Phục Sinh, những ai theo Chúa Giêsu cũng phải chịu gian nan rồi mới được vinh quang. Phêrô đã không thể chấp nhận nổi nên mới can dán Chúa Giêsu, Ngài khẳng định dứy khóat: ai không nhận Đức Kitô chịu khổ nạn rồi mới Phục Sinh thì kẻ ấy là satan. Tuy nhiên Đức Giêsu thấy cần phải cho môn đệ niềm hy vọng được thấy "Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Chúa Cha, cùng với các Thiên Thần của mình" (Mt.16,27) để các ông có thể chấp nhận được điều Chúa Giêsu mới nói.
Trong biến cố biến hình, Đức Giêsu đã chọn ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan tháp tùng mình. Đó là ba người đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái Giairô sống lại, và sẽ chứng kiến cảnh hấp hối của Đức Giêsu tại vườn dầu (x.MC .5,37-42; Mt.26,37-46). Trọng tâm của biến cố biến hình là tiếng từ đám mây: "Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng trìu mến, các ngươi hãy vâng nghe lời Người"(c.5). Tiếng xác chuẩn lời tuyên tín của Phêrô rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống (x.Mt.16,16) thì giờ đây tiếng đó lại vang lên tóm tắt mọi điều dân mới của Thiên Chúa phải thực hiện trong Giao Ước mới là " Hãy vâng nghe lời Người". Vâng nghe thông điệp mà Chúa Giêsu mới dậy: Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới Phục Sinh và họ cũng phải bị như thế. Chính vì muốn các ông chấp nhận điều khó hiểu và nghịch lý này nên mới có tiếng nói từ đám mây.
Điều mà Phêrô cũng như các bạn không chịu chấp nhận thì tiếng từ đám mây muốn giúp các ông nhận ra khi nói Đức Giêsu là Con Chí Ái của Thiên Chúa nên hãy nghe lời Người dạy. Sau này trong bài diễn từ của Phêrô ở Giêrusalem đã chỉ ra rằng: Khi Phục Sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã bầy tỏ nơi Ngài là Moisen mới, một Tiên Tri mà người ta đợi trông cho thời cuối cùng (Cv.7,37). Sự bảo chứng ấy, Thiên Chúa đã ban cho ngay trong cuộc biến hình, bằng cách cho ba môn đệ biết rằng hôm nay Ngài là vị tiên tri, phải nghe lời Ngài, nếu không thì sẽ bị khai trừ khỏi dân của Ngài(Cv.3,23), ơn cứu độ tùy thuộc nơi Ngài. Đó là cuộc sống vĩnh cửu mà Ngài hứa ban cho bất cứ ai vác thánh giá đi theo Ngài.
Sứ điệp Tin Mừng:Con đường mà Thiên Chúa chọn cho người tôi tớ của Giavê, không phải là con đường quyền lực trần thế, mà là con đường khổ nhục của Thập Gía. Nếu biết theo con đường đó, Hội Thánh sẽ vào ánh quang vinh của Thiên Chúa.Sự biến hình của chúng ta bao gồm trong việc trở nên đồng hình đồng dâng với Đức Kitô, bằng việc hòan thiện không ngừng về đường thiêng liêng (IICor.3,18), và sau khi vượt qua cõi chết cùng với Đức Kitô, hồn xác ta sẽ được nên sáng láng
.Phải biết gặp gỡ Đức Kitô trong cái tầm thường của cuộc sống, chúng ta đang nhìn ngắm Đức Kitô trong vinh quang Thiên Quốc của Ngài, chúng ta sẽ gặp lại Ngài trong vinh quang ấy và ta sẽ được ở mãi mãi với Ngài. Trong khi chờ đợi hãy sống trong đức tin và trong sự vâng phục Ngài.Bạn nghĩ gì về sự hy sinh mà Chúa Giêsu dành cho bạn ? Điều đó gần gũi hay xa lạ đối với bạn ? Thông điệp mà Đức Giêsu muốn trao gửi cho bạn có khó hiểu và khó tiếp nhận không ? Tại sao ?
Lạy Chúa, việc biến hình của Chúa Kitô như bản nhạc giáo đầu của hạnh phúc bất diệt. Xin Chúa thương nâng đỡ đức tin, củng cố đức cậy và tăng triển đức mến để khi chúng con nhận ra rằng: muốn được vinh quang với Chúa phải qua đau khổ mới tới vinh quang, thì chúng con cũng sẵn sàng chấp nhận mọi đau thương thử thách và kiên tâm làm chứng tình yêu cho tòan thế giới.
Sr. Mai an Linh, OP
---------------------------
chúa nhật 2 mùa chay
Chúa biến hình trên núi
Được hân hạnh góp mặt trong Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê, tôi muốn so sánh hiện tượng nhà thơ "chuyên trị" tình yêu mà lại bị tình yêu "điểm huyệt" này với một số tuyệt tác của họa sĩ Vincent Van Gogh gốc người Hòa Lan, một cuộc gặp gỡ giữa đông và tây ở cùng một cơn quằn quại rên xiết mà lại đang đáp ứng thời điểm nhất.
Nói Du Tử Lê đã trở thành một hiện tượng là đúng. Vì thơ Du Tử Lê đã được dùng để dạy tại đại học ở Mỹ cũng như bên Âu, đã vào trong tuyển tập Thi Ca Thế Giới, đã được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh, và đã trở thành rất phổ thông nơi môi miệng người Việt, thậm chí có cả hý họa trên báo Phụ Nữ Việt với bà vợ quát chồng không cho đi đâu nữa: "Đã nói đi với về cũng một nghĩa như nhau thì sao lại còn đòi đi... thêm nữa!"
Phải nói ngay, tôi mắc nợ nặng với Du Tử Lê, mê thơ Du Tử Lê từ lâu trước khi quen biết, và đây là lần đầu tiên có dịp gặp mặt. Nhiều người mắc nợ với Du Tử Lê có thể cũng vì trước hết Du Tử Lê là một tay chẩn bệnh rất thần kỳ mà lại cũng là hiện thân của một con bệnh bất trị. Chẩn bệnh cho mình "khởi đi từ những rung động" mà lại có sức lay chuyển xoáy sâu vào nhiều cõi lòng vì đó cũng chính là những ray rứt cào cấu đục khoét bên trong mỗi người. Những sần sượng nhức nhối không sao nói thành lời mà nay có người diễn ra hộ được thì sao không mắc nợ?! Và hơn nữa, Du Tử Lê đã cung cấp một phương thức hóa giải thật bất ngờ. Đó là thứ thuốc mang chất tình, cảm được chất đạo trong đời thường và nhất là trong chất tình tuyệt đối.
ĐIỀM THỜI ĐẠI: ĐI TÌM PHƯƠNG THUỐC GIẢI HUYỆT
Cả đời họa sĩ Vincent Van Gogh chỉ bán được một bức tranh duy nhất, đó là bức "Vườn Nho Đỏ" giá khoảng tám chục Mỹ kim. Ông đã sống thật nghèo túng và lại bị một loại bệnh kinh phong hành hạ, qua đời lúc 37 tuổi vào năm 1890 tại Auvers-sur-Oise phía bắc Paris. Vậy mà sau đúng 100 năm, vào năm 1990, bức vẽ bác sĩ Gachet đã được bán với giá 82 triệu rưỡi tại New York. Nhiều bức tranh khác cũng được bán với giá khủng khiếp như vậy: bức Hoa Hướng Dương bán 40 triệu tại Luân Đôn vào năm 1987; bức Hoa Cầu Vồng (Irises) bán 54 triệu tại New York vào năm 1987; và mới đây vào tháng 11 năm 1998 bức Chân Dung Một Nghệ Sĩ Không Râu bán 71 triệu cũng tại New York. Dấu gì lạ vậy?
Như một cơ may hiếm có trong đời, nhân dịp bảo tàng viện nghệ thuật Vincent Van Gogh ở Amsterdam phải tu sửa lại, 70 bức tranh vô giá của nhà hội họa lừng danh này đã được xếp đặt để đưa sang triển lãm bên Mỹ ở Washington D.C. và Los Angeles. Tại Washington D.C. đã có tới nửa triệu người thưởng ngoạn. Riêng tại Los Angeles cuộc triển lãm kéo dài bốn tháng đầu năm 1999, từ giữa tháng giêng đến ngày 16 tháng 5 tại Los Angeles County Museum of Arts (LACMA) với khoảng một triệu người xem.
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20 cựa mình vào ngàn năm mới, người ta bị thu hút tìm gì nơi Van Gogh? Tôi đã có dịp chiêm ngưỡng bức Đêm Sao (Starry Night) trong Bảo Tàng Viện Tân Thời (MOMA) tại New York vào năm 1994, và sau đó tìm sang Pháp dõi theo vết chân Van Gogh trong ba năm cuối cùng đời ông ở Arles miền nam nước Pháp, và ở Auvers-sur-Oise phía bắc Paris.
Chính ở hai nơi này mà ông đã để lại những tác phẩm lạ lùng nhất.
Van Gogh đã vẽ bức tranh Đêm Sao trong những ngày đen tối nhất ở dưỡng trí viện vùng St Rémy gần Arles miền Nam nước Pháp. Ngày 20 tháng 2 năm 1888, Van Gogh rời ga Lyon của thành phố ngột ngạt tù túng Paris để đi “tìm ánh sáng” mở lối của miền nam nắng đẹp. Và ông đã dừng chân tại Arles với những bức tranh mang nhiều sắc vàng của màu nắng miền Provence, như bức Căn Nhà Vàng, Hoa Hướng Dương màu vàng, Thửa Vườn Hoa Vàng Nở... Bức nào cũng vàng óng lên như đang phô diễn vẻ giầu có sang trọng bật sáng cuộc đời.
Ấy thế mà bỗng dưng ông bị bệnh tâm trí "điểm huyệt" tối tăm mặt mày. Điều lạ ở bức tranh Đêm Sao là cả một bầu trời đen thăm thẳm kia đang có một dòng sinh lực cựa mình luân chuyển. Sáng lạ lùng. Mạnh lắm. Những lớp sóng nhấp nhô lên xuống hiện trên mặt cuộc sống cũng chỉ như những bọt bèo trôi nổi. Dòng sống vẫn chảy tới theo hướng và theo một nhịp điệu huyền nhiệm, như sức sống đất trời cựa mình vào buổi sang xuân qua những ngày đông tàn lụi. Nhìn thấy được như vậy thì tranh mắc tiền chẳng có gì lạ.
Và bức Bác sĩ Gachet là bức tranh vẽ chân dung người chữa bệnh cho Van Gogh trong những ngày cuối đời. Điều nghịch thường là chính bác sĩ Gachet cũng đang bị cơn tâm bệnh hành hạ. Hình ông được diễn tả như một cơn giẫy giụa quằn quại, biểu tượng cho con người đang oằn oại trên sợi giây giữa hai đầu sinh với tử, phải với trái, giầu với nghèo, có với không, tây với đông, đời với đạo, vào với ra, đi với về. Chính Van Gogh đã giải thích bức vẽ này: "Tôi muốn tìm diễn tả cái phù du của mọi sự qua nhanh một cách kinh khủng trong đời sống hiện tại..., trong đầu mỗi người và trong cơn đau đớn như trong cơn chuyển bụng sinh thành" (Thư W 23). "Cuộc đời chúng ta vô thường như thế là điều tốt để nhận ra cái vĩnh cửu phía trước" (Thư 518).
Quả là bức tranh này như một biểu tượng của thời đại, diễn tả được tâm trạng con người sực ý thức cái thân phận hữu hạn vô thường không thể tự giải thoát được, mà cần tìm vươn lên bến đậu vĩnh hằng. Nói theo nét văn hóa Việt là cõi đất vuông góc cạnh đang cần tìm hòa nhập vào cõi Trời tròn vô biên. Và đây cũng là lý do tại sao con người thời đại tìm mua tranh Van Gogh với giá cao như thế. Mua là mua cái phương thức hóa giải thần kỳ.
TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000: CHÀO 21 VẾT THƯƠNG
Điềm thời đại đây rồi. Một trăm năm đã gần xong thì cũng là lúc nhìn bảng trương mục ngân hàng cuộc đời mà giật mình như Du Tử Lê "hoa nào tin quả đắng đến không ngờ", đếm kỹ được những vết thương rỉ máu mà "chào 21, vết thương, tôi":
bây giờ sắp qua 20 và, đang bước vào sân cát, ngưỡng cửa 21
khoảng cách hẹp tí (hay rộng thênh) giữa hai con số
lúc nào cũng chen chúc (kẹt cứng) sum vầy/tan tác/buồn/vui
nơi khe hở mơ hồ giữa hai con số
luôn có một số người ra đi
cùng những người mới tới
...
bằng phương pháp cloning
người ta sẽ sản xuất hàng loạt những con vật...
giống như con người
(chỉ khác con người ở chỗ không có đầu)
để lấy bất cứ một bộ phận nào trong khối thịt kia
thay thế cho những cơ quan cần đổi thay trong thân thể ta
nhưng chẳng nhờ thế...
(mà) nhân loại sẽ tẩy xóa được những vết thẹo linh hồn
vốn ngồn ngộn, rói, tươi
tích lũy từ nghìn năm trước
chúng ta vẫn bất lực
trước những người đã chết...
từ thế kỷ trước
sẽ chết: một lần nữa
như linh hồn của những khối thịt không đầu kia
sẽ bơ vơ biết bao
vì chẳng có một ngôi đền nào
để trú, núp.
Bức tranh chân dung bác sĩ Gachet hay hình vẽ mỗi người "chào 21, vết thương, tôi" cũng chính là hiện thân những bầm dập của Vincent Van Gogh. Tất cả đều diễn tả điều mà Kinh Thánh nói tới trong phụng vụ tuần này qua câu chuyện Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi cao, vượt qua lớp bụi bặm phù du, vượt qua những giằng co giành giật cục hạn nhỏ nhoi dưới kia, vượt qua sợi giây oằn oại giữa hai bờ sinh tử, hơn thua, thắng bại, vượt qua cả tầng mây đen ám ảnh bấy lâu để mở vào một cõi sáng. Hình ảnh thật sáng của Chúa Giêsu cũng là con người thật của mỗi người, sau những quằn quại đau thương: cơn khổ nạn sinh thành. Van Gogh đã vẽ bức Bác sĩ Gachet để diễn tả một ý với bức Đức Kitô của họa sĩ Gauguin, cùng một nét quằn quại của thập giá cõi tối vươn tới cõi sáng.
Qua những oan khiên cuộc đời, Du Tử Lê đã từng tuyệt đối hóa tình yêu là bến đậu an bình, một tình yêu nguyên chất tinh ròng, một tình yêu có sức mạnh chịu đựng được tất cả, hóa giải tất cả.
cõi tâm vô nhiễm. Tôi cần
đôi vai thánh nữ. Một lần Nhà Cha.
.....
trưa thúy ngọc, chiều thánh kinh
mai về dẫu có thọ hình cũng cam.
PHÚT TỊNH TÂM
Nhưng dù có ra sức vần vũ mấy, những đắng cay cuộc đời cứ chụp xuống. Vết thương trong cơ thể, vết thương tình nước, vết thương tình mẹ, vết thương tình đời, cứ mỗi ngày thêm lở loét.
mẹ tất tả dắt con vào cuộc sống
để cuối cùng cũng bỏ hết sau lưng.
........
tôi đôi lúc thấy mình như củi mục
giữa giòng sông. Biền biệt biết đâu nguồn
em tinh khiết trên đỉnh đồi Thánh Giá
tôi gõ hoài một cánh cửa vong thân.
Rồi cũng phải đến một ngày tàn tạ, đối diện với "mặt bên kia tấm gương đời sống". Lúc hụt hẫng nhất thì cũng là lúc bước tới được một dòng sông miên viễn như bàn tay mẹ hiền ủi an vỗ về, tình yêu tuyệt đối. Đó là hình ảnh một bến đậu vĩnh hằng, đi về Cõi Một, khi dòng Sông Ngọc với những nhịp lên xuống nhấp nhô đang nối được vào Nguồn Đạo Tình Yêu là Trời tròn toàn mãn chung thủy tinh ròng. Karl Jung gọi là "the Self", Đại Ngã Tâm Linh.
cúi xuống một dòng sông
nghe đầu nguồn thác dội
giữ lấy một vầng trăng
dành tặng chàng sắp tối.
Lúc này mình cần tìm lại cho mình những phút đi lên "núi cao" vào trong thinh lặng, cho lớp bùn đục lắng đọng để tìm lại chính mình vốn là dòng nước trong sáng trong nguồn tình miên viễn. Và mình mượn lời thơ của Du Tử Lê mà tìm lại cho mình một điều gì khác.
không lâu nữa, chúng ta sẽ bước vào ngôi nhà 21
nhưng dù cho chúng ta có khua chiêng, gióng trống cách gì,
khoa học tiến bộ tới đâu
(thì) nhân loại cũng không thể triệt tiêu nổi
mặt bên kia
tấm gương đời sống.
phải chăng,
vì thế,
chúng ta vẫn cần có lấy cho riêng mình
một điều gì khác.
(bài nói chuyện trong Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê do Đ.H. Santa Ana College Nam Cali bảo trợ
Lm. Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản)
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
---------------------------
“Trên núi cao, Ngài biến hình trước mặt các ông” (Mt 17:1).
Thánh ký thuật lại chỉ có 3 Tông Đồ được diễm phúc chứng kiến những giây phút huy hoàng của Chúa khi Ngài biến hình trên núi cao, đó là Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Và cũng chính 3 Tông Đồ này, rồi ra cũng sẽ chứng kiến cảnh Ngài hấp hối trong vườn Cây Dầu.
Chúa đưa các ông lên núi cao. Đây là một lời mời gọi thăng hoa đời sống đối với tất cả mọi Kitô hữu chúng ta. Một lời mời gọi kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Vì chúng ta cần phải vươn mình lên cao, hướng tâm trí về những mầu nhiệm thiêng liêng cao ca, để có thể nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa, và để có thể cảm nghiệm được Ngài trong cuộc sống ngõ hầu có đủ can đảm, nghị lực vượt thắng mọi cám dỗ. Và hơn thế nữa, để chúng ta có thể hấp thụ được vẻ cao cả, thánh thiện, và thần lực của Thiên Chúa hầu chiếu tỏa, chia sẻ với anh chị em chúng ta qua đời sống và ơn gọi mỗi người.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho con đường cứu độ và cuộc khổ nạn của Ngài bằng 40 đêm ngày chay tịnh trong hoang địa, bằng cơn cám dỗ sau đó, và bằng cơn hấp hốp trong vườn Cây Dầu. Nhưng Ngài đã chuẩn bị cho các Tông Đồ cũng như mỗi Kitô hữu chúng ta để trực diện với mọi thử thách, nhất là những lúc mà chúng ta không nhìn ra khuôn mặt của Chúa trong chính cuộc đời mình cũng như anh chị em mình, những lúc thử thách, đau khổ sẽ lên đến tuyệt cùng làm lung lay đức tin và sự tín thác của chúng ta bằng cách cho nhìn thấy và nếm thử sức mạnh, vinh quang, và niềm hạnh phúc nước trời. Đó là những giây phút chúng ta cảm nhận được Ngài, cảm nhận được niềm vui tâm hồn, và sốt sắng như Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn, đã cảm, và đã nếm hưởng với Chúa trên núi cao qua việc Ngài biến hình trước mặt các ông.
Nhưng Phêrô đã chối Thầy. Các Tông Đồ đã trốn chạy khi thấy Chúa bị bắt, bị đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá, và chịu đóng đinh chết thảm trên thập giá. Hai môn đệ về làng Emau đã nghi ngờ về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Mỗi Kitô hữu chúng ta rồi ra cũng sẽ trải quan những thử thách, cám dỗ mà điểm quan trọng nhất vẫn là trong mọi sự và trước hết mọi sự, chúng ta có dám sống vững với lời Chúa, để trả lời cho tên cám dỗ bằng sự thâm tín sâu sa như Chúa Giêsu đã trả lời Satan trong lúc hắn cám dỗ Ngài hay không. Chính vì thế Chúa đã đưa các Tông Đồ và mời gọi chúng ta hãy lên cao với Ngài. Vì chỉ khi nào chúng ta vượt khỏi những ràng buộc và hệ lụy của đời sống vật chất, chúng ta mới có thể nhìn thấy vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa. Cũng như các Tông Đồ, chúng ta chỉ có thể nhìn được và cảm được Chúa đẹp đẽ, tốt lành và oai nghi như thế nào, khi cất mình lên cao khỏi mặt đất, và bỏ lại sau lưng mọi đam mê, nhục dục, mọi ham muốn trần thế. Chỉ ở trên núi cao, Phêrô mới có thể ngất ngây và nói với Chúa: “Lậy Thầy được ở đây thì tốt lắm” (Mt 17:4). Và trong cái hạnh phúc thiên đàng ấy, ông đã quên lối về lại trần gian, quên tất cả để chỉ nghĩ đến Chúa và phục vụ một mình Ngài: “Nếu Thầy muốn, tôi sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Maisen” (Mt 17:4). Đó là tâm trạng của những người tìm được Chúa, cảm được Chúa, và có Chúa.
Nhưng rồi tại sao, trong lúc ngất ngây với hạnh phúc như vậy, mà mới nghe tiếng Chúa Cha đã lại sợ hãi và hầu như chết ngất đi: “Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Nghe vậy, các ông ngã sấp mặt xuống và hết sức sợ hãi” (Mt 17:5-6). Đó là vì phản ứng của một thụ tạo trước Đấng Tạo Hóa, phản ứng của con người xác thịt trước Thiên Chúa thần linh cao cả. Con người là chi khi đứng trước mặt Thiên Chúa. Nhất là khi nghe Thiên Chúa Cha giới thiệu Chúa Con là Đấng rất đẹp lòng Ngài, tự nhiên các Tông Đồ cảm thấy cái bất toàn, và hụt hẫng của mình nên đã không còn đứng vững nổi. Và rồi cũng lại Chúa Giêsu đã đỡ nâng các ông dậy. Điều này càng khiến cho Kitô hữu chúng ta thâm tín hơn về sự yếu đuối và bất toàn của mình. Con người không thể thiếu Chúa nếu muốn đứng vững, nhất là trước những thử thách, cám dỗ.
Chúa đem các Tông Đồ lên núi cao. Ngài cũng muốn mời gọi chúng ta lên cao trong sự hiệp nhất với Ngài bằng đời cầu nguyện, bằng sự học hỏi và yêu mến lời Ngài; nhất là bằng thái độ giũ bỏ trần tục trong cuộc sống bon chen và đầy thử thách. Và cũng như các Tông Đồ, chúng ta sẽ không thể nào xem thấy Chúa, cảm được vẻ huy hoàng của Ngài nếu chúng ta vẫn đứng dưới chân núi, tức là vẫn để mình chôn bám vào những giá trị của đời tạm này, của cải vật chất, những đam mê và đói khát danh vọng, quyền lực, và dục vọng thấp hèn. <T.s. Trần Quang Huy Khanh>
Những chứng nhân trên núi cao
Trần Mỹ Duyệt
Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi cao và biến cố Ngài sầu não trong vườn Cây Dầu có một liên hệ mật thiết, và khiến chúng ta nghĩ đến 3 Tông Đồ mà Ngài đã cho tham dự trong cả hai biến cố này: Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Họ là những chứng nhân của vinh quang, cũng như sự khổ nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Kinh kể lại, ba Tông Đồ mà Chúa Giêsu cho tham dự một cách mật thiết với Ngài trong những vinh quang, huy hoàng, cũng như trong những giờ phút đen tối, buồn sầu của Ngài trrong sứ vụ cứu độ trần gian. Theo những trình thuật của Thánh Kinh, ta có thể hiểu phần nào lý do mà Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bởi vì nơi những Tông Đồ này thể hiện những đức tính cần thiết cho đời sống đạo, và chứng nhân của Kitô hữu chúng ta.
Phêrô, Tông Đồ Cả. Người thuyền chài đầy nhiệt tình, năng nổ, những cũng lại rất nóng nẩy và bộc trực. Nghĩ sao nói vậy. Nghĩ sao làm vậy. Yêu Thầy tha thiết, nhưng khi gặp khó khăn, cũng chối Thầy một cách không thương tiếc. Không những chối, mà còn thề độc nữa: "Tôi không hề biết người ấy là ai" (Mt 26:74).
Cái hay của Phêrô là tuy yếu đuối, nhưng không hề bao giờ ngã lòng. Yêu và mến Thầy với tất cả con tim. Yêu và mến Thầy như Thầy đáng yêu và đáng mến. Yêu và mến Thầy như mình có thể yêu và có thể mến. Và đó là điều mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi Phêrô xuyên qua cả những yếu đuối và khuyết điểm của Ông. Nhờ đó, Chúa đã chọn Ông làm đá tảng cho tòa nhà Giáo Hội của Ngài, cũng như trước khi về trời, đã giao cho Ông trách nhiệm hướng dẫn và chăm lo đời sống tâm linh cho các tín hữu của Ngài.
Giacôbê, một Tông Đồ âm thầm nhưng mực thước. Một Tông Đồ biết ứng dụng cách hài hòa lý thuyết và thực hành. Không nổi nang, không chói sáng nhưng âm thầm và sống trung thành với sứ vụ. Ngoài vài lần được nhắc tới trong Thánh Kinh, còn lại hầu như cũng tan biến vào đoàn người theo Chúa thời bấy giờ.
Đọc lại Thánh Kinh và theo dõi tư tưởng của Ông qua những trang viết của Ông, ta có thể tìm thấy nơi Ông một tâm hồn nhiệt thành, sâu lắng, chú tâm vào hành động và đời sống thực hành hơn là những gì có tính cách bề ngoài. Là anh em họ hàng với Chúa, nhưng Ông đã không dùng ảnh hưởng này để tìm cầu địa vị hay sự chú ý của Chúa, ngoại trừ có lần mẹ ông đã làm điều này nhưng đã bị Ngài phiền trách. Ông chính là đại diện cho số đông Kitô hữu chúng ta, những kẻ tin theo Chúa đang âm thầm và sống trọn với ơn gọi của mình giữa mọi môi trường của cuộc sống. Không ồn ào, không địa vị, và ít được ai biết đến.
Sau cùng là Gioan, vị Tông Đồ của nội tâm, của lòng yêu mến thâm sâu. Những gì Gioan đã viết và cuộc sống của Ông bên Mẹ Maria sau ngày Chúa Giêsu về trời đã cho thấy Ông là một tâm hồn chiêm niệm và sống khắng khít với Chúa. Ngôi Lời mà Ông chiêm ngắm từ Thượng Trí đã đi vào đời qua con người của Đức Giêsu là những gì mà trí khôn nhân loại không hiểu thấu. Và là những gì đến từ Chúa Cha. Điều này cần phải được Thánh Linh soi dẫn mới có thể hiểu được.
Với cặp mắt thần bí ấy, trước vinh quang trên núi cao, và trước những sầu buồn, tê tái trong vườn Cây Dầu, Ông đã nhìn ra Thiên Chúa nhập thể, để Ông yêu mến, tôn thờ, và làm chứng nhân. Tình yêu cao sâu nhiệm mầu của Thiên Chúa luôn luôn làm Ông say đắm. Tình yêu ấy đã làm cho Ông chất nghất và như đôi cánh phượng hoàng, nâng Ông bay bổng trên bầu trời tình yêu Thiên Chúa. Ông đại diện cho những tâm hồn thần hiệp, và luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa qua kinh nguyện, chiêm niệm và dâng hiến.
Tóm lại, để hiểu Chúa, để chia sẻ với Ngài trong tận cùng ý nghĩa của cuộc sống. Để trở thành những chứng nhân của Ngài giữa lòng đời, Kitô hữu chúng ta phải nhiệt thành, sống sắng như Phêrô. Phải chiêm niệm, cầu nguyện và kết hợp như Gioan. Và phải đi vào thực hành như Giacôbê. Và đó cũng là lý do chúng ta có thể tìm thấy nơi ba khuôn mặt đã được Chúa Giêsu cho tham dự những giây phút vinh quang biến hình sáng láng của Ngài trên núi cao. Cũng như những giây phút đắng cay, sầu khổ, và đem tối trong vườn Cây Dầu.
Đời sống Kitô hữu là một chuỗi ngày trên hành trình đức tin. Người Kitô hữu không độc hành mà là đi với anh chị em mình. Do đó, vừa phải có bổn phận hoàn tất và đi trọn con đường mình, và cũng phải trở thành bạn hữu tốt với những người cùng đi với mình. Đó là sứ mạng rao truyền và làm chứng nhân cho Thiên Chúa. Để đạt được điều ấy, họ phải có lòng nhiệt thành như Phêrô, phải có lòng mến thẳm sâu và chiêm ngắm Ngôi Lời qua hình hài một người phàm như Gioan, và phải biết sống thực tế đức tin mình qua hành động như Giacôbê.
Chúa Giêsu đã biết hình trên núi thánh. Ngài cũng đã phiền muộn, hấp hối trong vườn Cây Dầu vì tội nhân loại hơn 2000 năm. Nhưng hiểu được và thâm cảm được, cũng như sống được tinh thần biến hình ấy, tinh thần khổ nạn ấy vẫn là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu chúng ta phải tự vấn; đặc biệt, trong Mùa Chay là mùa cầu nguyện, thống hối ăn năn và sửa đổi nội tâm.
Chúa Nhật II Mùa Chay A
---------------------------
Một nhà tỉ phú được tử thần mời về thế giới hên kia, ông nhanh nhẹn ra đi, để lại một gia tài khổng lồ. Gia tài được trối lại cho người con duy nhất của ông lúc đó đang du học ở ngoại quốc. Chúc thư được trao cho viên thừa phát, nhưng khốn nỗi trong chúc thư không đề rõ tên tuổi cậu con duy nhất đó và cả quốc gia cũng không ai thấy mặt cậu ta bao giờ cả.
Cách ít lâu sau có ba cậu thanh niên đến khóc lóc, kể lể thương tiếc cha. Mỗi người đều tự xưng là con của nhà tỉ phú. Viên thừa phát có trách nhiệm thi hành chúc thư phải đưa vụ này ra toà.
Vị thẩm phán khôn ngoan đòi đem bức chân dung nhà tỷ phú đến và cho vẽ nơi ngực bức chân dung một hình trái tim, rồi nói: "Đây là bức chân dung của cha các bạn, bạn nào bắn trúng trái tim nơi ngực cha mình, thì bạn đó sẽ được lãnh thưởng cả gia tài ông đã để lại".
Người thanh niên thứ nhất vui vẻ lắm bắn gần trúng, người thanh niên thứ hai hung hăng hơn, rất khoái chí bắn sát ngay dấu đã ghi, còn người thanh niên thứ ba lưỡng lự mãi không dám bắn, anh ta cố cầm cung giơ lên nhắm, bỗng tay anh ta bủn rủn làm rớt cung, rồi anh ta oà lên khóc nức nở và nói: "Không, tôi không đời nào lại dám xúc phạm đến cha tôi, tôi thà chịu mất cả gia tài này còn hơn lại trở thành người con bất hiếu".
Vị thẩm phán tuyên bố: "Mọi sự đã rõ ràng cả rồi, gia tài này thuộc về anh, vì bây giờ chúng tôi đã biết, anh mới chính con thật của ông".
I. NGƯỜI CON NGOAN THẢO THẬT
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô thuật lại biến cố lạ lùng Chúa biến hình trước mặt ba Tông Đồ: Phêrô, Giacobê, Gioan; đồng thời Maisen và Elia hiện đến đàm thoại với Chúa... Đang lúc bàng hoàng sướng vui ngây ngất, Phêrô đã thốt lên: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì khoái lắm, nếu Thầy ưng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia" (Mt 17:4).
Phêrô đang nói, nhưng ông cũng chẳng biết ông nói gì, thì bỗng có một đám mây sáng rực bao phủ các ngài, rồi từ đám mây có tiếng phán ra: "Này là Con yêu dấu của Cha, Con luôn làm hài lòng Cha, các ngươi hãy nghe lời Ngài" (Mt 17: 5).
Chúa Kitô là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Thiên Chúa thật và là một với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Chúa Kitô đã sống đúng nghĩa vụ một người Con ngoan thảo, một người con yêu dấu, luôn luôn làm hài lòng Cha. Chúa Kitô đã đến trần gian để dạy cho chúng ta biết cái vinh dự cao cả của chúng ta là con Thiên Chúa. Ngài đã dùng lời rao giảng, dạy cho chúng ta biết sống đúng nghĩa vụ làm con đối với Thiên Chúa; Ngài còn nêu cho chúng ta chính mẫu gương đời sống người Con ngoan thảo của Ngài đối với Chúa Cha, để chinh phục chúng ta noi theo bắt chước.
II. NGƯỜI CON NGOAN THẢO LÀ AI
Người con ngoan thảo là người con luôn biết làm hài lòng cha mình bằng cách luôn thuần phục cha, chu toàn mọi mệnh lệnh cha truyền, không bao giờ trái lệnh cha, khiến cha phải đau buồn. Chúa Kitô đã sống trọn tình trọn nghĩa với Cha Ngài như một người ngoan thảo tuyệt trần; chính vì thế mà ngay khi vừa xuống thế, Ngài đã dâng lên Cha lời nguyện thuần phục: "Lạy Cha, này Con xin đến để chu toàn thánh ý Cha" (Heb 10:7). Ngài còn xác quyết với Chúa Cha tất cả tấm lòng ngoan thảo của Ngài: "Con chẳng tự mình làm điều gì, chỉ làm những việc thấy Cha làm mà thôi" (Jn 5:19). Ngài chỉ muốn điều Cha muốn, làm điều Cha muốn và hơn nữa, còn lấy thánh ý Cha như lương thực nuôi dưỡng Ngài, như chính lời Ngài đã quả quyết với các môn đệ: "Lương thực dưỡng nuôi Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Jn 4:34).
III. LÀ CON CHÚA, CHÚNG TA ĐÃ LÀM GÌ
Chúa Kitô là người Con gương mẫu, người Con mô phạm để chúng ta noi theo bắt chước. Vậy là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào cân xứng với danh nghĩa cao cả đó? Chúng ta đã làm gì để Chúa được hài lòng? Chúng ta đã làm những điều Chúa muốn và muốn điều Chúa muốn chưa? Chúng ta đã luôn thuần phục thánh ý Chúa, đã phó thác cho sự quan phòng khôn ngoan định đoạt của Chúa trong đời sống chúng ta chưa? Ít nhất, chúng ta đã thành thực nói được như chàng thanh niên con thật của nhà tỉ phú trong câu truyện trên đây: "Không, tôi không bao giờ dám xúc phạm đến cha tôi, tôi thà chịu mất tất cả, còn hơn là chiếm được cả trần gian mà lại trở thành người còn bất hiếu, người con phản bội đối với cha tôi".
Kết Luận
Lạy Chúa, xin cho chúng con được hiểu biết ơn gọi cao cả của chúng con là con cái Chúa, để chúng con được sống xứng đáng với danh nghĩa là những người con ngoan thảo theo gương Chúa Kitô, để Chúa luôn được hài lòng phán với chúng con: "Các con là con yêu dấu của Cha, các con luôn làm hài lòng Cha".
Lm. Minh Vận, CMC
---------------------------
Năm 1989, một trận động đất dữ dội đã xãy ra ở Armania, giết hại trên 30.000 người trong khoảng 4 phút. Giữa bầu khí hỗn loạn kinh hoàng, một người cha hối hả lao tới trường con trai ông đang học. Trong cảnh tàn phá khủng khiếp, ông nhớ tới lời ông đã hứa với con: "Bất cứ chuyện gì xảy ra, ba luôn ở bên cạnh con!" Nước mắt đong đầy mắt ông khi ông nhìn đống gạch vụn đổ xuống từ mái trường thân yêu của con ông. Ông cảm thấy vô vọng, nhưng ông quyết giữ lời đã hứa. Ông nhớ lại khoảng đường mỗi sáng ông đi bộ với con tới lớp, chạy vội đến đó và bắt đầu đào xới. Trong khi ông đào, có những cha mẹ đi ngang gào khóc. Có người khác cố ngăn cản ông:
- Vô ích, chúng đã chết cả rồi! Về đi...
Cứ mỗi lần có người đến ngăn cản, ông đều đáp:
- Xin vui lòng giúp tôi!
Rồi ông tiếp tục đào xới... Khi những người lính cứu hoả tới bảo ông:
- Lửa sắp lan tới đây, nguy hiểm lắm, ông về đi!
Ông vẫn tiếp tục đáp:
- Xin ông giúp tôi.
Không ai giúp ông. Ông tiếp tục cách kiên nhẫn và can đảm, tự nhủ mình: "Dù chỉ để biết con tôi đã chết..., và biết đâu nó còn sống..."
Ông đào trong 12 giờ, rồi 24 giờ, 36 giờ, rồi giờ thứ 38, sau khi kéo sang một bên tảng đá tròn lớn, bỗng ông nghe tiếng con ông! Ông gọi lớn trong nỗi mừng rỡ kinh ngạc:
- Armand!
Và ông nghe tiếng con ông đáp lại:
- Ba! Con đây!... Con đã bảo bạn con đừng lo, nếu ba còn sống, ba sẽ cứu con, và rồi sẽ cứu bọn nó! Con nhớ lời ba hứa với con, và ba đã giữ lời hứa!... Khi toà nhà đổ xuống, những cột sắt làm thành một khung hình tam giác bảo vệ chúng con trong đó...
Lúc ông định kéo con ông ra, Armand nói:
- Giúp các bạn con ra trước, vì con biết bất cứ việc gì xảy ra, ba luôn ở với con!
Ông đã kéo ra khỏi đống gạch đá 14 học sinh khác còn sống sót.
Nếu chúng ta tin rằng chúng ta có một người Cha dũng mạnh và khôn ngoan, yêu thương đến sẵn sàng chết cho chúng ta bằng bất cứ giá nào, chúng ta sẽ rất yên tâm trong mọi hoàn cảnh và cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc biết bao.
Trong sự kiện Chúa biến hình, Chúa cũng muốn nói với ta: "Đừng sợ, dù bất cứ việc gì xảy ra". Ngài chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đầy vinh quang và quyền năng. Ngài tự hiến mình cho tình yêu đến chết vì yêu, rồi phục sinh vinh quang, và sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy đáp lại tình yêu đó, bằng một tình yêu bao la đối với Ngài và anh chị em đồng loại. Như Đức Giêsu đã đi con đường Tình yêu và vâng phục Chúa Cha cho đến chết, chúng ta cũng theo con đường đó mà vào Nước vinh quang của Cha Ngài. Chúng ta hãy "biến hình" luôn mãi để ngày càng giống Chúa Giêsu, trong khi chờ đợi cuộc "biến hình" toàn diện cùng với thân xác vào ngày Chúa quang lâm.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con thấy được vinh quang của Chúa khắp nơi, nhất là trong việc Chúa vượt qua đau khổ của thập giá cách khải hoàn vinh quang. Xin giúp chúng con có một đức tin và niềm hy vọng vững chắc, để chúng con cũng vượt qua những đau khổ của đời sống chúng con; và biết đồng lao cộng khổ với nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại. Xin cho chúng con biết vui sống cho Chúa và cho nhau. (Sr. Theresa Nguyễn, OP)
---------------------------
Chúa nhật II mùa chay, năm A (Mt 17,1-9)
Xưa có một người mù khi nào cầu nguyện cũng kết thúc bằng câu “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”. Một lần người ta dẫn ông đến mộ Thánh Toma thành Cantobery để xin chữa bệnh. Ông được nhận lời, đôi mắt vụt sáng ngay. Vui sướng ông ra về, nhưng sực nhớ ông quên kết thúc câu thường lệ “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”. Thế là ông ta trở lại mộ Thánh Toma xin hóa mù lại nếu điều đó có ích cho phần rỗi linh hồn ông hơn là được sáng mắt. Vừa dứt lời ông ta mù lại như trước, nhưng từ đó ông càng sống thánh thiện cho đến lúc chết.
Câu chuyện này có vẻ không ăn nhập gì mấy với câu chuyện biến hình của Chúa trong bài Phúc âm hôm nay. Nhưng nếu xét đến trọng tâm của hai câu chuyện ta thấy có một sự tương đồng lạ lùng: mọi sự thay hình đổi dạng trong đường thiêng liêng đều bắt nguồn từ thánh ý Thiên Chúa.
Đúng vậy, người mù được sáng rồi lại mù cũng chỉ vì ông ta luôn xin vâng theo ý Chúa hơn ý mình. Còn Chúa Giêsu, một con người bình thường bỗng trở thành sáng láng, sau đó trở lại cuộc sống bình thường cũng chỉ vì để Chúa Cha xác nhận vai trò cứu thế của Ngài với nhân loại: đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta.
Đến lượt mỗi người chúng ta muốn cải sửa đời sống trở nên tốt hơn, muốn từ bỏ nếp sống cũ mang nhiều tội lỗi xấu xa để bước sang một cuộc đời mới nhiều ân sủng, chúng ta phải biết bắt đầu từ đâu để có thể thay đổi được cuộc sống của mình.
Trước hết chúng ta biết rằng trong quá trình hoạt động của Chúa Giêsu, kể cả lúc Ngài biến hình huy hoàng, đều nằm trong chương trình cứu độ nhân loại của Chúa Cha. Do đó có thể nói Chúa Giêsu là đặc phái viên, là phát ngôn viên của Chúa Cha để loan truyền ý định của Chúa Cha cho nhân loại. Và chỉ những ai thực hành ý Chúa Cha mới được Chúa Cha gọi là ‘con yêu dấu’. Thế nên trong đời sống, khi chúng ta muốn cải thiện, muốn vươn khỏi tình trạng khô khan nguội lạnh thì không thể có con đường nào khác có thể đem lại kết quả ngoài việc tuân theo thánh ý Chúa Cha. Nói rõ hơn muốn thay đổi chưa đủ, nhưng phải thay đổi theo chiều hướng nào đúng đắn nhất, vững chắc nhất, thành công nhất: chỉ có một con đường độc nhất là từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa mà thôi.
Thứ đến sự trung tín theo ý Chúa không phải là sự trung tín an phận như một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự nguyện, quyết liệt thì mới có chất lượng cao và giúp ta biến hình thiên thành công. Bởi thế vâng theo ý Chúa nữa vời, nghĩa là bên ngoài cố làm thế nào cho khỏi người ta chê cười mình là kẻ khô đạo, còn chính trong nội tâm lại chất chứa nhiều ý nghĩ phản lại Chúa thì mãi mãi chúng ta không thể sống thánh thiện được.
Tóm lại người kitô hữu đích thực phải để cho Chúa, thánh ý Người lộ dạng qua đời sống mình bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thánh ý Chúa Cha được thể hiện nơi những gì mình làm mình nói. Mà ý Chúa Cha được tỏ lộ qua việc cầu nguyện với Chúa Giêsu, qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và việc tuân phục chỉ dạy của Hội Thánh. Biết và sống theo ý Chúa sẽ trở thành con yêu dấu của Chúa. Amen.
(trích Đừng Chế giễu Chúa, tập một, của Quê Ngọc)
---------------------------
(17:1-9)
Thuở ấy,Thiên Chúa hiện ra cùng Abraham mà phán: Ngươi hãy rời bỏ quê hương mà đi đến đất Ta ban vì Ta đã chọn ngươi làm đầu một dân diễm phúc. Abraham đã lột xác từ một người dân thường được chọn làm tổ phụ một dân riêng. Cũng như con rắn, con bươm bướm, sau khi lột xác nó đi ăn sương mai cho mịn da thịt, cho đẹp xác, cho nhẹ nhàng.
Vậy đồ ăn của linh hồn là gì ?
Đồ ăn của linh hồn không là lương thực mỹ vị, nhưng là việc thiêng liêng, việc đọc kinh gia đình. Viếng đàng thánh giá, tham dự thánh lễ. Chầu Thánh Thể, Đọc sách thiêng liêng, ngồi nghe nhạc thánh…
Đồ ăn của linh hồn không là chếnh choáng rượu mạnh, mà là tránh say sưa nặng nề xác thịt.
Đồ ăn của linh hồn không là tích trữ của cải vật chất, nhưng là bố thí, là giúp đỡ, là chia sẻ đồ ăn thức uống cho người nghèo.
Đồ ăn của linh hồn không là thú vui xác thịt, mà là xa lánh các cám dỗ, xa lánh nhưng hoàn cảnh gây nên ghét gúa cho linh hồn.
Rắn lột xác để phát triển, để lớn, để trưởng thành. Bướm lột xác để nên mỹ miều, đẹp đẽ, nhởn nhơ bay lượn không bị kiềm chế nữa.
Con người lột xác để nhẹ nhàng thanh thoảng, minh mẫn, sảng khoái tâm thần. Lột linh thể để thoát tội tình, để nên một tạo vật mới, vui hưởng hạnh phúc trường sinh. (20.2.2005)
Lm. Thu Băng, CMC
---------------------------
Bài giảng Chúa Nhật II Mùa Chay - Năm A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
T5, 13/03/2014 - 16:41
A- Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe một bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chúa biến hình trên một ngọn núi cao. Đây là một câu chuyện rất đặc biệt cho nên đã được cả ba Phúc Âm nhất lãm: Matthêu, Máccô và Luca đã thuật lại. Nếu đọc lại và so sánh thì chúng ta sẽ thấy cả ba tường thuật lại câu chuyện này theo một bối cảnh chung xuất phát từ truyền thống có trước. Đại cương thì sự việc diễn tiến như sau:
- Phêrô tuyên xưng đức tin.
- Chúa loan báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người lần thứ nhất.
- Chúa đưa ra những điều kiện để được theo Chúa.
- Chúa biến hình.
- Chúa loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh lần của Người lần thứ hai.
- Chúa lên Giêrusalem để chịu tử nạn và sau đó Chúa Phục sinh.
Câu chuyện biến hình của Chuá xẩy ra vào giữa những biến cố rất quan trọng vào cuối cuộc đời của Chúa. Như vậy nó phải mang một ý nghĩa nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
B- Chúng ta tự hỏi: Chúa biến hình để làm gì?
Mục đích của việc Chúa Giêsu biến hình hay hiển dung trên núi trước mặt ba môn đệ không phải là để cho các ông dựng lều ở lại ngay trên đó. Nhưng là để giúp các môn đệ nhận ra thiên tính của một Con Người mà họ đang cùng đồng hành và nói chuyện với họ. Con Người đó không phải chỉ là người nhưng còn là Con Thiên Chúa. Lần thứ nhất Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài bên sông Giođan. Và đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài trên núi cao. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ bởi vâng lời Thánh ý của Thiên Chúa Cha đến đổ máu chết trên thập giá. Núi Tabor nơi Chúa biến hình tỏ vinh quang của Ngài là dấu báo trước chuẩn bị cho cảnh hy sinh trên núi Canvê.
Sau khi chứng kiến Chúa biến hình thì các môn đệ đã có cơ hội biết rõ hơn Thầy của họ thực sự là ai, và họ được hưởng nếm trước cái vinh quang và hạnh phúc đang chờ đón họ bởi việc đi theo Ngài. Đây cũng là sự chuẩn bị tinh thần cho họ để khi Thầy của họ bị xỉ nhục bắt bớ thì họ không bị mất niềm tin mà thất vọng.
Thực ra, thoạt đầu khi bước theo Chúa Giêsu cả ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như các môn đệ khác đã không biết cái giá họ phải trả khi theo Chúa như thế nào. Chính vì thế mà khi được chứng kiến dung nhan vinh quang của Chúa Giêsu trên núi, họ đã sung sướng ngất ngây và muốn ở lại luôn trên đó. Nhưng chương trình của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa không như thế. Ngài đã dẫn họ xuống núi trở lại và ngăn cấm không cho họ nói với ai về những gì họ đã thấy cho đến khi "Con Người từ cõi chết sống lại" (Mt 17,9). Ngài đã trích dẫn lời chép về Ngài, "Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ" (Mt 16,21). Nhưng họ vẫn không hiểu và hỏi nhau, "Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
C- Qua việc tường thuật là biến cố Chúa biến hình hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta điều gì? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội muốn cho chúng ta hãy nghe Lời Đức Kitô
Trách nhiệm của Kitô hữu chúng ta là mở tai, mở lòng và mở trí để đón nhận những gì Chúa Giêsu giảng dạy và làm gương bằng cuộc sống của Ngài. Lắng nghe lời Ngài không có nghĩa là chỉ nghe những gì Ngài nói, nhưng còn phải chú ý đến những gì Ngài đã làm; đi theo con đường Ngài đã đi; bắt chước cách Ngài đã làm trong việc xử sự với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài không phải chỉ bằng việc ca hát tôn vinh, xin ơn và tạ ơn. Nhưng còn bằng việc dốc tâm dấn bước sống theo gương của Ngài. Chúng ta đi theo Ngài lên núi để cảm nghiệm niềm hạnh phúc vinh quang để rồi lại cùng Ngài xuống núi trở về với những phận vụ hằng ngày, đi vào vườn cây dầu để đổ mồ hôi máu, hành trình trên khắp nẻo đường để rao giảng Phúc Âm và làm việc thiện. Sau cùng tiến thẳng lên Giêrusalem, nhận lấy bản án, vác thập giá, và tiến lên đồi Canvê để chịu chết.
Con đường Đức Kitô đi đã thay đổi lịch sử nhân loại.
Con đường Đức Kitô đi đã mang lại ơn cứu rỗi cho loài người.
Con đường Đức Kitô đi đã làm thỏa lòng Thiên Chúa Cha.
Con đường Đức Kitô đi đã hấp dẫn nhiều tâm hồn.
Đó cũng là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo.
Việc nghe Chúa, đi theo Chúa dứt khoát phải làm cho chúng ta biến đổi. Biến đổi như thế nào thì thánh Phaolô đã gợi ý: “Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”.
Xin đơn cử một thí dụ để minh họa.
Một nhóm doanh nhân đi dự một buổi họp ở Chicago. Họ đã dặn vợ con ở nhà là sẽ trở về nhà để kịp bữa tối. Nhưng rồi cứ hết việc này lại giây sang việc kia khiến cho cuộc họp kéo dài hơn dự định. Sau khi kết thúc họ đã vội vàng chạy ra phi trường cho kịp chuyến bay. Khi họ hấp tấp chạy tới cổng phi trường thì không may một người trong họ đụng vào một chiếc bàn có để một rổ táo của một cô bé đang đứng bán. Tất cả đã không dừng lại, cứ cúi đầu chạy thẳng để kịp chuyến bay. Khi đến nơi họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi một người trong nhóm đã ý thức được mình phải làm gì để cảm thông với cô bé bán táo kia. Anh đã giơ tay ra chào các bạn và quay trở lại. Anh thấy vui vì đã làm như thế. Anh nhận ra cô bé bán táo là một cô gái mù. Anh đã thu lượm các trái táo đổ lăn trên trên lối đi. Anh nhận ra có một số trái táo đã bị dập bể. Anh liền móc túi lấy bóp ra và nói với cô bé bán táo mù đó rằng, "Đây xin cô cầm lấy 10 dollars để đền bù cho thiệt hại chúng tôi đã gây ra. Tôi hy vọng cô không buồn."
Khi người thanh niên vừa quay bước đi thì cô bé mù đó sửng sốt hỏi: "Thưa ông! Ông có phải là Chúa Giêsu không?"
Câu hỏi đó đã làm cho người doanh nhân suy nghĩ.
Bạn và tôi, chúng ta có phải là Giêsu không? Chúng ta có đi con đường Giêsu đã đi không? Chúng ta có hành xử như Giêsu đã hành xử không?
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
---------------------------
Mt 17, 1- 9
1. LỜI CHÚA: "Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỊ HOÀNG TỬ CHIẾN THẮNG ĐƯỢC DỊ TẬT GÙ LƯNG:
Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật bẩm sinh này mà chàng luôn mang mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước dân chúng. Triều đình có lệ này là tạc tượng các nhân vật thuộc hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng do không dám trái lệnh vua cha, nên chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không gù lưng. Hai là chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng khi chàng còn sống.
Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại càng ngày chàng càng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống y như bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi đã sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của chàng tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.
2) KHỎI BỆNH UNG TƯ NHỜ TIN CẬY VÀO THÁNH GIÁ CHÚA:
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Sa-lê-siên ở thành phố Cáp tại Ha-i-ti, muốn nhờ điêu khắc gia nổi tiếng là PÊ-RI-KHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị, trong lúc ông đã bị mắc bệnh ung thư sang thời kỳ cuối.
Các nữ tu đã cử một chị cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về yêu cầu này. Hôm đó viên bác sĩ của Pê-ri-khết cũng đang có mặt khám bệnh cho Pê-ri-khết. Ông nói với chị nữ tu:
- Lẽ ra chị đã phải đến đây từ lâu mới đúng. Còn bây giờ rất tiếc căn bệnh ung thư của ông Pê-ri-khêt đã trở nên quá nặng. Sau đó viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:
- Ông là tín hữu công giáo. Từ nay ông chỉ nên đặt trọn niềm tin vào Chúa để chữa bẹnh thôi. Còn những chuyện khác thì xin ông đừng quan tâm tới nữa.
Pê-ri-khêt đã nghe lời khuyên của viên bác sĩ điều trị cho mình nên từ ngày đó ông không còn thiết tha với việc cầm bút vẽ và điêu khắc để sáng tác bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác. Tuy nhiên ít ngày sau, chị nữ tu kia lại xuất hiện gặp nhà điêu khắc và tiếp tục năn nỉ:
- Này ông Gio-va-ni Pê-ri-khêt. Chị em nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp rất mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết rõ khả năng Chúa ban cho ông. Hôm nay trước khi trả lời dứt khoát cho nhà dòng, tôi đến đây xin hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi cuối cùng ông nói với chị nữ tu:
- Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng tôi thực hiện trước khi về với Chúa, và tôi xin các chị em nữ tu cầu cùng Chúa ban ơn giúp tôi hoàn thành công việc này.
Thế là sau đó nhà điêu khắc bắt tay làm việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong sớm được gặp Chúa. Đây quả thật là một công việc rất nặng nhọc đối với một bệnh nhân ung thu ở thời kỳ cuối như Pê-ri-khết. Nhưng chính ông lại cảm thấy có một điều gì rất lạ lùng đang diễn ra nơi mình: Mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông bị mất sức mệt mỏi, thì lại làm cho ông như được thêm sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày này qua ngày khác như không hề bị bệnh cho đến khi hoàn thành được tác phẩm tuyệt đẹp là cây thánh giá vô giá. Ông thấy mình cũng đã hồi phục sức khỏe trở lại. Chính Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh ung thư cho Pê-ri-khết, giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác nhờ lòng tin biểu lộ qua lòng cậy trông và yêu mến Chúa. Pê-ri-khêt tưởng rằng cây thánh giá ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng ông thực hiện để chuẩn bị chết lành, nhưng với niềm tin cậy phó thác cao độ, thể hiện qua sự không ngừng cầu nguyện kết hiệp với Chúa đang khi làm việc, Pêrikhêt đã được Chúa biến đổi và chữa lành bệnh ung thư thời kỳ thứ ba cách đặc biệt. Đây là hình ảnh ơn cứu độ mà Chúa Giê-su đã, đang và sẽ còn mang đến cho nhân loại chúng ta.
Ngày nay, cây thánh giá do Pê-ri-khết thực hiện vẫn đang được treo trong gian thánh nhà thờ tu viện Sa-lê-siên thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái: Mỗi ngày rất nhiều người khỏe mạnh hay đau yếu đã hiện diện tại đây để kính viếng và ai nấy ra về đều nhận được hồng ân biến đổi cả phần hồn lẫn phần xác.
3. SUY NIỆM:
--------------------------
1) Về hoàn cảnh cuộc biến hình của Đức Giê-su:
Cuộc biến hình đã xảy ra sau khi Đức Giê-su tiên báo về cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem để trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cuộc biến hình này như sau: "Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! " Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: " Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (x. Mt 16,22-ABC23).
2) Về cuộc biến hình của Đức Giê-su:
- Cuộc biến hình của Đức Giê-su đã diễn ra trước mặt ba môn đệ thân tín là: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao khi Người đang cầu nguyện: Khuôn mặt của Người "chói lọi như mặt trời" giống như khuôn mặt sáng ngời của ông Mô-sê sau khi được gặp Đức Chúa (x. Xh 34,29-35). Y phục của Người "trắng tinh như ánh sáng" biểu hiện cho vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.
- Có hai nhân vật Cựu Ước là ông Mô-sê đại diện Luật Pháp và ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ hiện ra đàm đạo với Người, cho thấy Tân Ước tiếp nối Cựu Ước và Đức Giê-su đến không phá hủy Lề Luật Mô-sê hay lời sấm của các ngôn sứ, nhưng để làm cho nên hoàn thiện. Điều đáng lưu ý là trong khung cảnh vinh quang ấy, Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và cùng nhau đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem. Qua đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa hai biến cố tử nạn và phục sinh mà biến hình chỉ là sự hé mở phần nào cho thấy vinh quang của Đức Giê-su sau khi sống lại, hầu giúp các môn đệ khỏi bị thất vọng khi chứng kiến cuộc tử nạn đau thương của Người trên thập tự.
- Ngoài ra còn có đám mây xuất hiện tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !" (Mt 17,5). Qua đó Chúa Cha đã chính thức xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới thời kỳ Cánh Chung, đúng như Mô-sê xưa có lần đã báo trước cho con cái Ít-ra-en như sau: "Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy" (Đnl 18,15).
3) Về các điều kiện để được biến hình giống Đức Giê-su:
Mùa Chay là mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian thuận tiện để các tín hữu lên núi cao của lòng mình để đối diện với Thiên Chúa và cầu xin Ngài giúp biến đổi nên giống Đức Giê-su hầu chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh sắp đến. Muốn thay đổi con người mình, chúng ta cần bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Muốn bỏ mình đi thì việc trước hết là phải nhận biết mình có những điều tốt điều xấu, các thói hư quan trọng cần phải tu sửa, vì "Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng".
- Lên núi là vào trong lòng mình để cầu nguyện: Trong mùa Chay, chúng ta cùng các môn đệ Đức Giê-su đi theo Người lên núi cao, nghĩa là siêng năng tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay. Trong bầu khí thinh lặng của lòng mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Cầu nguyện là điều kiện tiên quyết để được ơn biến đổi chói lọi như mặt trời như Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay (x. Mt 17,2) hoặc như ông Mô-sê được biến đổi diện mạo nên sáng ngời khi ông đang ở trên núi Xi-nai với Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35).
Thế giới hôm nay thiếu những con người cầu nguyện, và thừa những con người lăng xăng hiếu động... Có ba môn đệ cùng ở trên núi với Đức Giê-su, nhưng chỉ mình Người mới có sự thay hình đổi dạng nhờ sự cầu nguyện đàm đạo với Chúa Cha, đang khi ba ông kia lại mê ngủ. Về sau tại núi Cây Dầu, một lần nữa ba ông này lại mê ngủ đang lúc Thầy các ông canh thức cầu nguyện. Do đó, dù cùng lên núi với Thầy, nhưng các ông vẫn trơ trơ không thay đổi để nên tốt hơn. Trong cuộc sống hiện tại đầy vất vả cạm bẫy và thử thách, chính nhờ sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận Thần Khí soi dẫn, các tín hữu chúng ta mới không bị hoang mang sợ sệt, mê ngủ hoặc trốn trách nhiệm đối với công việc chung của Hội Thánh...
- Hãy vâng nghe lời Người!: Yếu tố thứ hai giúp các tín hữu được ơn biến đổi chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Đang lúc hiển dung, Ðức Giê-su đã được Chúa Cha giới thiệu: "Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! " (Mt 17,5). Ngày nay muốn được ơn biến đổi nên giống Đức Giê-su, chúng ta cần tin Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, chuyên cần lằng nghe Lời Người và xin Thánh Thần giúp chúng ta sống theo Lời Chúa dạy nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong những ngày Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc sống đời thường, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày để được nghe lời Chúa phán dạy trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, và sau đó được hiệp thông với Chúa Giê-su Thánh Thể trong phần Phụng Vụ Thánh Thể khi rước lễ. Ngoài ra, chúng ta cũng phải chuyên cần tham dự tĩnh tâm Mùa Chay cả cộng đoàn hay riêng từng lứa tuổi, chăm chỉ tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng hay Chia sẻ Lời Chúa hằng tuần theo nhóm nhỏ của các hội đoàn tông đồ giáo dân...
- Đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa: Tuy nhiên để có thể chuyên cần dự lễ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng, sẵn sàng vâng nghe Lời Chúa Giê-su như lời Chúa Cha truyền dạy, mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của Thần Khí Thiên Chúa để năng cầu xin ơn Ngài trợ giúp khi đọc kinh dự lễ, biết mở lòng đón nhận các ơn Chúa và luôn theo Thần Khí hướng dẫn như Đức Giê-su xưa. Chính nhờ Thần Khí cua Chúa Phục Sinh được thổi trên các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh và nhất là Thần Khí của Chúa Phục Sinh đã biến thành gió bão đầy sức mạnh và ngọn lửa cháy sáng đức tin... mà chúng ta sẽ hy vọng được biến đổi nên một con người trưởng thành về nhân cách, nên người tín hữu đạo đức luôn có lối sống đẹp lòng Chúa Cha noi gương Đức Giê-su, năng thực tập sông giới răn yêu thương để nên môn đệ đích thực của Người (Ga 13.34-35), tích cực dấn thân đi loan báo Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Chúa Giê-su ngay trong môi trường sống và làm việc của mình x. Mt 28,19-20), luôn sống tình mến Chúa yêu người như kinh Thương Người có Mười Bốn Mối, trở nên khí cụ gieo rắc bình an hòa thuân trong gia đình cũng như khu xóm, giáo xứ và bất cứ nơi nào mình đang sông như Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô đã ký nhận.
4. THẢO LUẬN:
1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để trở nên tốt hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo hiện tại, để xứng đáng được Thiên Chúa xác nhận là "Con rất yêu dấu" như Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?
2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: "Các ngươi hãy vâng nghe lời Người". Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. xin biến đổi con, xin biến đổi cuộc đời con từng bước qua lời cầu nguyện:
Xin biến đổi cái nhìn của con mỗi lần con chiêm ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và nghe lời Chúa phán dạy: "Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,29).
Xin biến đổi môi miệng con mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa vào lòng.
Xin biến đổi tai con mỗi lần con nghe Lời Chúa trong Sách Thánh tại nhà thờ hay tư gia.
Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời hơn mỗi lần con được gặp gỡ Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con với tha nhân chung quanh.
Lạy Chúa. Thế giới hôm nay không cần những tín hữu mang bộ mặt buồn chán thất vọng. Xin cho chúng con luôn biết nhẫn nại và can đảm đồng hành với Chúa và với các anh em trên những nẻo đường đức tin nhiều sỏi đá để cuối cùng mới đến được với Thiên Chúa là nguồn vui, niềm tin cậy và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
--------------------------
Mt 17, 1 – 9
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm việc lành; bố thí; hy sinh hãm mình và ăn chay để đền tội.... Tuy nhiên, điều đó cần, nhưng không đủ, nên Mùa Chay vẫn cứ đến rồi lại đi mà ít làm cho người tín hữu suy tư và quyết định biến đổi con người cũ là con người ích kỷ, kiêu ngạo, tội lỗi, để mặc lấy con người mới, con người giống hình ảnh của Đức Giêsu.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này mời gọi mỗi chúng ta một phần biết sống những đòi hỏi của Tin Mừng. Mặt khác cũng cần phải biến đổi để trở nên con người mới thực sự theo ánh sáng của Tin Mừng, tức là theo thánh ý Thiên Chúa.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc I: trình thuật việc Đức Chúa kêu gọi ông Abram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi" (St 12, 1). Ông Abram đã sẵn sàng vâng nghe tiếng Chúa truyền, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống yên ổn tại quê nhà, để lên đường đến nơi Chúa sẽ chỉ cho trong tương lai. Sự ra đi của Abram là một cuộc từ bỏ tiên quyết. Vì thế, Chúa đã hứa ban cho ông và dòng dõi ông hưng thịnh đến độ: trở nên một dân lớn. Ông được chúc phúc, được vinh quang và trở thành trung gian để chúc phúc cho người khác cũng như mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ông mà được chúc phúc (x. St 12, 2-3).
Sang bài đọc II: thánh Phaolô mời gọi người môn đệ dấu yêu của mình là Timôthêô hãy bắt chước ngài như chính ngài đã bắt chước Đức Kitô; đồng thời cũng mời gọi ông cộng tác trên hành trình loan báo Tin Mừng mà thánh nhân đang loan báo. Lộ trình và kế hoạch đó là của Thiên Chúa đã được tiền định từ lâu. Khi được chọn và gọi để tham gia vào sứ mạng đến với muôn dân như thế, người môn đệ phải hiểu, sống và hăng say loan báo về Đấng " ... đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử" (2Tm 1, 10).
Cuối cùng là bài Tin Mừng: thánh Mátthêu trình thuật biến cố Đức Giêsu hiển dung như một sự kiện toàn cho tất cả những gì đã tiên trưng trong Cựu Ước mà sách Luật và lời các tiên tri đã loan báo.
Hình ảnh của Đức Giêsu sáng chói được hiện lên trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Ngài hiển dung giữa hai vị đặc biệt có liên hệ đến mình là Môsê và Êlia. Tại sao lại có sự xuất hiện hy hữu và đặc biệt này? Thưa! Điều đó dễ hiểu vì:
Môsê là nhà lập luật cho Đạo Dothái. Sự hiện diện của ngài muốn nói lên rằng: nhiều lần, Đạo luật Môsê báo trước về Đấng Cứu Độ, và hôm nay Đấng Cứu Độ ấy chính là Đức Giêsu đang xuất hiện. Tiếp theo, ngụ ý rằng, Đức Giêsu đến thế gian không phải để hủy bỏ Luật cũ, và lập lên một thứ đạo hoàn toàn mới. Nhưng Ngài đến để bổ xung, hầu cho nó được kiện toàn.
Còn Êlia chính là vị ngôn sứ quan trọng trong thời Cựu Ước. Sự hiện diện của ông có thể được hiểu là đại diện cho các ngôn sứ. Bởi vì ngài là người đã gìn giữ và canh tân Luật Môsê. Điều đặc biệt hơn cả nơi tiên tri Êlia chính là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế (x. Ml 3, 23-24).
Sự hiện diện của hai nhân vật điển hình cho thời Cựu Ước có mặt trong cuộc biến hình của Đức Giêsu muốn nói lên sự gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước. Đồng thời qua biến cố này, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ về bản tính của mình trong vinh quang, để các ông đi vào Mầu Nhiệm Ánh Sáng của ơn cứu độ. Vì thế, thật hạnh phúc cho các ông khi được nếm trải trước giây phút huy hoàng của Nước Trời.
Đây là một trong hàng trăm ngàn phần thưởng mà Đức Giêsu hứa ban cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Vì thế, Phêrô đã thốt lên: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái" (Mt 17, 4). Khi các ông còn đang ngây ngất như thế, thì Chúa Cha xuất hiện như một lời chứng về Người Con yêu quý của mình; đồng thời cũng mặc khải cho các ông hiểu rằng: muốn được vào vinh quang thì phải vâng nghe lời Đức Giêsu.
2. Hãy vâng nghe Lời Người
Nếu trước đó, Đức Giêsu đã mời gọi những môn đệ từ bỏ mọi sự để đi theo mình, đồng thời Ngài cũng đưa ra khuôn mẫu của người môn đệ cần có là: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Lúc khác, Ngài nhấn mạnh hơn khi nói: "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy" (Mt 10, 37). Rồi ngài cũng tiên báo cho các ông biết rằng: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt 10, 22).
Những điều kiện mà Đức Giêsu vạch ra và đòi hỏi các môn đệ đi theo như thế, không phải là một con đường xa lạ đối với Ngài, bởi chính Ngài đã vâng lời Thiên Chúa để đi trên con đường đau khổ đó hầu cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đã nhiều lần Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của mình để các ông hiểu rõ sứ vụ của thầy và chính các ông sẽ tiếp bước (x. Mt 16, 24). Lời mời gọi này được Đức Giêsu đưa ra đúng vào thời điểm mà các môn đệ đang tranh nhau chỗ nhất, nhì trong vương quốc của Ngài; lại có những môn đệ đang so đo tính toán thiệt hơn, thì có thể sẽ làm cho các ông chùn bước vì phải bước đi theo Thầy trên hành trình đầy gian nan khốn khổ và chết chóc.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không để các môn đệ của mình thất vọng, nên ngay sau khi tiên báo về cuộc thương khó lần thứ nhất, người đã đưa các ông lên trên núi để biến hình trước mặt các ông, hầu như một động lực nâng đỡ và khuyến khích họ tiến bước trên con đường khổ giá. Việc Đức Giêsu biến hình là một lời mời gọi cho các môn đệ: nếu muốn được vào vinh quang thì phải trải qua thập giá. Muốn tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu thì cũng phải biến đổi hình dạng, tức thay đổi con người cũ trở thành con người mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Qua biến cố này, Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy. Đây chính là phần thưởng mãn nguyện, tuyệt vời nhất mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thân tín của mình.
Nhưng để được như vậy, người môn đệ phải trải qua con đường tập giá, phải biến đổi.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi chúng ta đón nhận cùng một sứ điệp như đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.
3. Một cuộc biến đổi của chúng ta
Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêsô: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối [...] và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện" (Ep 4,22.24). Thật vậy, chúng ta theo Chúa, là chúng ta phải chấp nhận con đường phưu lưu, đầy gian khổ và đôi khi cả cái chết nữa. Chấp nhận biến đổi. Như vậy, người đi theo Chúa và sống những điều Chúa đòi hỏi phải là những người liều. Liều vì Chúa. Liều vì sứ mạng. Liều vì Giáo Hội. Chứ không phải liều cách mù quáng. Liều vì bị ép phải liều.
Biến đổi! Lời mời gọi mang tính quyết định. Nếu chúng ta không biến đổi con người cũ là con người tội lỗi như: tham, sân, si, của bản năng con người, thì chúng ta chẳng khác gì dòng sông không chảy, một cái ao tù được tạo thành ngay trong tâm hồn những ai cố chấp không chịu biến đổi.
Tuy nhiên, nói biến đổi thì dễ lắm, nhưng khi thực sự quan tâm mới thấy là khó.
Trong đời sống thực tế, chúng ta vẫn thấy đây đó có nhiều người hô hào canh tân, đổi mới, cách mạng, nhưng là thứ biến đổi mù quáng, nhằm tôn thờ khoái lạc, coi trọng tiền bạc, thượng tôn quyền thế, và đề cao những thứ hạnh phúc nhất thời, tạm bợ. Họ sẵn sàng bỏ qua hay coi thường sự hy sinh, nhẫn nại, khiêm nhường... Canh tân như vậy thì không những không đem lại cho con người hạnh phúc, mà lại mở đường đưa con người vào chốn diệt vong. Canh tân như thế chính là canh tân, hy sinh theo kiểu Biệt Phái, chứ không theo cung cách và đòi hỏi của Tin Mừng.
Trong đời sống đạo hiện nay nơi chúng ta, hẳn mỗi người không lạ gì khi vẫn thấy đây đó những người luôn tự hào, can đảm cũng như sẵn sàng vác thánh giá cho cả làng, nhưng thánh giá của chính mình thì đè đầu ấn cổ và bắt người khác vác thay. Hy sinh như thế là hy sinh người khác chứ không phải hy sinh chính mình. Lại có những người hy sinh giả tạo mà Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói đến trong sách Đường Hy Vọng: "Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!" (ĐHV số 171).
Biến đổi giả tạo hay ngụy trang như vậy thì chẳng khác gì "đánh bùn sang ao". Thậm chí còn tệ hơn trước. Họ hô hào cách mạng người khác, chứ bản thân thì không hề thay đổi. Những người như thế được ví như: "Thay quần, thay áo, thay hơi, thay dáng, thay dấp, mà người chẳng thay" (Ca dao). Những chuyện "đao to búa lớn" được cất lên hiệu triệu để làm cho con người, cuộc sống, xã hội được tốt hơn, nhưng trên thực tế không biết bao lần nhân loại đã phải đau đớn mà nhận định rằng: "thay đổi kiểu đó thì chẳng khác gì 'treo đầu dê, bán thịt chó'", hay "cái đầu thì không thay đổi mà chỉ ngồi bẻ mấy đốt ngón tay".
Biến đổi và canh tân mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thi hành chính là: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Đòi hỏi này phải chăng rất khó! Tuy nhiên, con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc, bình an và hoan lạc. Nhưng tiếc thay, con đường này rất ít người đi.
Thật vậy, con người ngày hôm nay rất sợ hy sinh, và người ta tìm mọi cách để làm sao cho mình thoát ra khỏi những sự bất trắc của cuộc sống. Nhưng nên nhớ rằng: chúng ta là người kitô hữu, nên nếu tránh gian khổ, chúng ta đừng mong làm thánh. Hay thánh mà không qua đau khổ chính là thánh giả, thánh lâm thời. Khi những đau khổ, gian nan thử thách ập đến, nước sơn giả tạo bên ngoài phai nhạt đi thì lúc đó tượng thánh sẽ lộ hiện lên nguyên hình Quỷ.
Cuộc đời của chúng ta đi theo Chúa không chỉ có chuyện hoa thơm, trái ngọt; chỉ có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống; nhưng vẫn luôn còn đó những thất bại, mật đắng, dấm chua... Nhưng điều quan trọng là ta "thay thái độ để đổi cuộc đời" và phải hiểu rằng: thử thách gian khổ là "giấy phép theo Chúa" để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá..." (ĐHV 714). Sống được như thế, thì trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố chúng ta đều: "loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại".
Như vậy, Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy hướng về Đức Giêsu để làm một cuộc cách mạng biến đổi cái cũ là tội lỗi, ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo... để trở thành một con người mới với nhiều hoa thơm nhân đức như: hy sinh, từ bỏ, khiêm nhường, dấn thân, liên đới và bao dung...
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn biến đổi và canh tân. Xin tăng thêm niềm tin cho chúng con để chúng con can đảm bước theo Chúa cho trọn cuộc đời, hầu qua đau khổ, chúng con được tiến vào vinh quang Nước Trời. Amen.
--------------------------
Mt 17, 1 – 9
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc (Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.
Dân tộc Do-thái thuộc dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 B.C., con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.
Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc" (Stk 12, 3).
Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17, 2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.
Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17, 5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.
Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự thật về nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng cứu độ: Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa, (2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.
Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.
Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.
--------------------------
Mt 17, 1 – 9
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cuộc biến hình trên núi Taborê là hình ảnh sống động, ấn tượng đã để lại trong lòng mọi Kitô hữu những suy nghĩ, những cảm nghiệm sâu xa về sự vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phải trải qua những cực hình thể xác, những đau khổ tinh thần bởi vì hầu như mọi người đã bỏ rơi Ngài. Vinh quang trên núi Tabôrê hôm nay xua tan mây mù đen tối về cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà Ngài đã loan báo cho các tông đồ ở Cêsarê-Philipphê. Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy vinh quang của Ngài, và đặc biệt được nghe lời Thiên Chúa Cha từ trời giới thiệu Người Con Chí Ái, đồng thời với sự minh chứng của các nhân vật Cựu Ước như Ông Môsê và Ông Êlia để các môn đệ an tâm dấn bước theo Chúa, nghe lời Chúa dạy và sẵn sàng gánh vác công việc của Chúa sau này...
Trình thuật của thánh Matthêu trong trích đoạn 17, 1-9 là một áng văn hay và là một cuộc miêu tả hết sức đẹp về sự biến hình của Chúa trên núi Tabôrê. Ba nhân vật Phêrô, Giacôbê và Gioan là ba tông đồ đã được Chúa Giêsu đem theo riêng bên mình, chứng kiến một số sự kiện, biến cố quan trọng trong cuộc đời theo Chúa, chẳng hạn biến cố con ông Giairô, hiện diện trong vườn Giêt-si-ma-ni. Thánh Phêrô sau này làm đầu Giáo Hội. Phêrô là Đá, Chúa xây Giáo Hội trên nền Đá là Phêrô và các tông đồ. Thánh Giacôbê là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem và cũng là vị tông đồ được phúc tử đạo đầu tiên. Thánh Gioan là người viết Phúc Âm thứ tư, là tông đồ về trời sau cùng và là người truyền đạt mạc khải công khai của Chúa.
Tiếng Chúa Cha phán đã là bảo chứng quan trọng cho mọi người, mọi thế hệ biết được Ba ngôi Thiên Chúa, làm ta nhớ lại trên dòng sông Giorđăn, Chúa Cha xác nhận: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, ai tin Thiên Chúa phải nghe lời Chúa Giêsu. Các nhân vật Cựu Ước như Môsê và Êlia giúp các tông đồ hiểu Chúa Giêsu vừa là Vị giảng huấn, vừa là Tiên tri và thực hiện lời các tiên tri.Thánh Phêrô xin dựng lều để muốn mừng lễ Lều Trại vì bây giờ đang trong thời kỳ mừng lễ Lều. Đám mây bao phủ làm ta nhớ tới thời Cựu Ước về sự hiện diện của Thiên Chúa. Núi và đám mây bao phủ gợi lại hình ảnh Môsê trên núi Sinai xưa.
Chủ đích Tin Mừng hôm nay cho ta hay rằng Thiên Chúa từ trời như đang nhắn gửi nhân loại và đặc biệt Dân Do Thái lắng nghe lời của Môsê, và căn dặn phải nghe lời Đấng được sai đến hướng dẫn dân, Đấng ấy thi hành ý Thiên Chúa Cha, là Con và là tôi tớ, những lời của Đấng ấy dù có khác lạ với lối suy nghĩ của nhân loại, của người đời, như thể lời loan báo về cuộc khổ nạn, về cái chết và phục sinh. Các môn đệ ngã sấp mặt xuống đất gợi lại sự hiện diện của Thiên Chúa thời Cựu Ước, hình ảnh Thiên Chúa trong bụi gai, Môsê phải cúi mặt không được nhìn vì nhìn sẽ chết vv...Giữ kín những điều đó để khỏi bị người ta hiểu lầm, tranh giành nhau về chính trị, về quyền hành vv...Khi Chúa chết sống lại, sự hiểu lầm ấy sẽ hết đi...
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nhận ra Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi đã đến, Ngài đã đến với chúng ta cùng với Giáo lý, Giáo huấn của Ngài. Ngài muốn chúng ta sống như Ngài, lắng nghe lời Ngài và thực thi lời Ngài. Vinh quang của Chúa Giêsu cũng là vinh quang của chúng ta bởi vì Chúa Giêsu đã luôn làm hài lòng Thiên Chúa Cha khi thực hiện thánh ý của Chúa Cha: chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh để cứu rỗi mọi người, cứu rỗi trần gian. Chúng ta thực thi ý Chúa là hoàn tất sứ mạng trần thế trong cuộc hành trình đức tin lâu dài. Lắng nghe lời Chúa và thực hiện lời Chúa trong đời sống của mình là đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình và đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta trong bất kỳ trạng huống thuận hay nghịch của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã chìm sâu trong ánh sáng vinh của của Chúa. Việc biến hình của Chúa đã làm cho các tông đồ quên đi những tang thương, thử thách của cuộc đời để các ngài ý thức về sứ mạng cứu thế của Chúa. Hôm nay trên núi cao, các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang chói ngời của Chúa...Trong vườn Cây Dầu, các môn đệ sẽ chứng kiến những giây phút đau buồn, thảm thương của Thầy trước khi bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên Thập giá. Xin cho chúng con luôn tin vào lời Chúa, lắng nghe Chúa nói và thực thi những điều Chúa dạy bảo hầu chúng con làm hài lòng Thiên Chúa, làm vui lòng anh chị em và làm đẹp lòng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con và sứ mạng cứu thế chúng con đang thực hiện giữa mọi người. Amen.
--------------------------
Mt 17, 1 – 9
Anmai, CSsR
Thiên Chúa chọn mỗi người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi cách cách tùy theo Thánh ý của Ngài. Ngài gọi, Ngài chọn để cho cho người ấy, dân tộc ấy trở thành con cái, trở thành dân riêng để thừa hưởng sản nghiệp của Ngài.
Hôm nay, qua sách Sáng Thế, chúng ta được nghe trình thuật Thiên Chúa đã chọn và gọi Áp-ram. Quả thật là một lối chọn, lối gọi sốc vì lẽ Thiên Chúa bảo Áp-ram lên đường đi theo lời Chúa chỉ vẽ. Sốc vì lẽ đang sống nơi quê cha đất tổ an bình nhưng giờ phải ra đi. Đứng trước lời mời gọi ấy Áp-ram cũng hết sức đắn đo vì không biết rằng mình đi như vậy không biết cuộc đời, tương lai mình sẽ đi về đâu. Tin vào lời Chúa, Áp-ram đã lên đường. Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho Áp-ram và nguyền rủa những ai nguyền rủa Áp-ram.
Nếu chúng ta tiếp tục đọc lại lịch sử Israel và đọc lại cuộc đời của Áp-ram thì thử thách lên đường đi đến xứ sở khác chỉ là một trong những muôn vàn thử thách của Thiên Chúa thôi. Chắc chúng ta không thể nào quên được thử thách cay nghiệt nhất trong cuộc đời Áp-ram đó là việc sát tế đứa con trai duy nhất, đứa con trai đầu lòng mà ông bà có trong khi tuổi già hết sức mong manh khi có con. Thế nhưng, vẫn một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Áp-ram đã hiến tế luôn cục cưng I-sa-ác. Sau thử thách ấy, Thiên Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham và cho ông luôn cả một cái tên là "cha của những kẻ tin".
Thế đấy ! Áp-ra-ham đã xác tín và đã tin vào Thiên Chúa. Áp-ra-ham lên đường và lên đường dẫu rằng không biết mình đi đâu và đời mình sẽ ra sao.
Khi Áp-ra-ham tin theo Chúa, đi theo Chúa thì cuộc đời của ông hoàn toàn thay đổi. Ông không còn sống cho mình nữa nhưng ông sống cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, qua trình thuật của Matthêu, chúng ta cũng được thấy được sự biến đổi, được thay đổi khi bước theo Chúa.
Các môn đệ, chẳng ai biết Chúa Giêsu là ai cả, chỉ là những ngư phủ hết sức bình thường, đang vá lưới bên bờ biển và sau khi nghe tiếng gọi của Chúa các ông đã bỏ cha mẹ, vợ con và đi theo Chúa. Thật ra mà nói, quyết định của các ông là quyết định liều. Cuộc sống đang ấm êm bên cha, bên mẹ, bên gia đình, bên vợ bên con bỗng dưng đi theo cái con người mà ngay cả "chim có hang - chồn có tổ" còn Con Người không có chỗ tựa đầu. Bấp bênh chưa từng có, mông lung hết sức tưởng tượng.
Quen nhau, ở với nhau một thời gian và rồi hôm nay Chúa Giêsu "mời" bốn môn đệ thân tín đi theo Ngài. Hôm nay không phải lang thang đây đó ở bờ biển này, đồng bằng kia mà hôm nay lại đi lên núi. Bảo đi thì đi chứ có biết gì đâu vì đi theo Thầy là lẽ hết sức bình thường. Thế nhưng, hôm nay lại là một ngày hết sức đặc biệt. Như Matthêu thuật lại, chúng ta thấy hôm nay Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín thấy vinh quang của Ngài, Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thấy về mình: "Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Thật kinh khủng ! Mọi ngày thì thầy Giêsu của mình hết sức bình thường nhưng hôm nay dung mạo bỗng khác, y phục khác và có cả Mô-sê và Ê-li-a hiện ra để đàm đạo nữa. Một cảnh tượng không thể tưởng tượng được và trong cái vinh quang ấy Phêrô đã nhanh nhảu nói với Chúa Giêsu để ông dựng lều cho Thầy mình ở đây để ông cùng các môn đệ chiêm ngưỡng cái vinh quang tuyệt vời này.
Sau biến cố hết sức đặc biệt này, Thầy và trò xuống núi, trở về với cái đời thường loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hé lộ cho các môn đệ thấy về con người thật của mình, hé cho các môn đệ thấy vinh quang thật của mình.
Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, vốn dĩ mang trong mình là phận người mỏng dòn yếu đuối, ắt hẳn các môn đệ cũng ngã lên té xuống vì đức tin mỏng dòn non yếu. Thế nhưng, được ở gần Chúa Giêsu, được ở bên Chúa Giêsu và đặc biệt qua Thánh Thể và qua Phục Sinh các môn đệ ở trong Chúa Giêsu nữa. Ở bên, ở trong để rồi cuộc đời của các môn đệ khác với những người không tin. Cuộc đời các môn đệ khác với những người không tin. Dù gặp khó khăn, dù gặp thử thách nhưng các môn đệ đã lấp lánh, đã chiếu sáng cuộc đời của các Ngài ở giữa vòm trời đen tối như Thánh Phaolô mời gọi "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế gian".
Chiếu sáng giữa thế gian như Phaolô mời gọi không phải là tẩm xăng vào người để đốt cho người sáng lên để mọi người được thấy ! Chiếu sáng giữa thế gian không phải là mua dầu, mua đèn gắn vào trong người để mình tỏa sáng cho thế gian. Chiếu sáng giữa thế gian có nghĩa là chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Giêsu, ánh sáng của Tin mừng ở giữa cuộc đời này.
Ánh sáng mà Chúa Giêsu muốn, mà Thánh Phalô mời gọi còn phảng phất trong I-sa-i-a chương 58. Chúng ta đọc I-sa-i-a chương 58 sẽ gặp tâm tình như thế này:
Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?
Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?
Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành.
Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.
Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây! "
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở
gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,
nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thoả lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. (Is 58, 6-10)
Thế đấy ! Những lời mời trên đây của I-sa-i-a cho chúng ta biết thế nào là ánh sáng của những ai mang trong mình danh Kitô hữu.
Chúng ta đang sống trong mùa Chay Thánh, I-sa-i-a vừa nhắc cho chúng ta cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích, mà Thiên Chúa mời gọi: rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân,không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông...
Xin cho chúng ta biết bắt chước như Áp-ra-ham biến đổi cuộc đời khi bước theo Chúa, xin cho chúng ta cũng biết bắt chước như các môn đệ cũng biến đổi con người hèn kém của mình để bước theo Chúa.
--------------------------
TIỀN PHỤC SINH
Mt 17, 1 – 9
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trận siêu động đất và sóng thần hôm 11.3 vừa qua đã làm cho Nhật Bản, một đất nước từng thịnh vượng thứ hai thế giới, phải chao đảo. Nhiều thành phố hoang tàn đổ nát; một số thị trấn bị xoá sổ; nhiều người mất nhà cửa, tài sản, người thân, lang thang trong vô vọng. Chỉ trong phút chốc tất cả đều bị thuỷ thần cuốn phăng ra biển.
Các bản tin liên tục cập nhật con số thương vong theo chiều hướng ngày một tăng làm cho nhiều người choáng váng. Đặc biệt là tin tức dự báo về các dư chấn mạnh sẽ còn xảy ra nhiều trong thời gian sắp tới, cũng như tin về mức độ phát tán chất phóng xạ nguy hiểm trong không khí từ các lò phản ứng hạt nhân bị nổ hay bị hư hỏng... Tất cả đã tạo ra một bầu khí hoang mang và ảm đạm bao trùm toàn thể nước Nhật, kể cả thủ đô Tokyo, một thành phố hiện đại bậc nhất của xứ sở Hoa Anh Đào. Đối diện với hiểm nguy rình rập từ các vụ dư chấn, nhất là phóng xạ hạt nhân, các du học sinh sinh viên và kiều bào nước ngoài sinh sống tại Nhật đã phải tìm cách tháo chạy khỏi nước Nhật càng sớm càng tốt. Còn người dân bản xứ cảm thấy hoang mang và lo sợ não nề.
Trước lời loan báo về viễn tượng đen tối của cuộc thương khó Chúa Giêsu, tâm trạng của các môn đệ có lẽ cũng hoang mang và lo sợ não nề không kém người dân Nhật hiện nay. Lo sợ vì khi Chúa Giêsu cho biết Ngài sẽ phải đương đầu với sự bắt bớ, bách hại, các ông không còn nhìn thấy được đâu là đấng cứu tinh mà muôn dân đang trông đợi. Hoang mang vì khi sắp sửa phải đối mặt với thập giá Chúa Giêsu, các ông chẳng còn nhận ra được đâu là thần tính của đấng mà các ông nhiều lần gọi là Chúa. Não nề vì khi chạm trán với viễn tượng chết chóc, các ông chẳng còn hình dung được đâu là sự sống đời đời mà Thầy mình đã từng cao rao.
Hiểu rõ nỗi lòng của các môn sinh, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa họ lên núi để họ được chiêm ngưỡng một biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, biến cố mở ra cho họ một viễn tượng mới tràn đầy hy vọng: Biến Cố Hiển Dung.
1. Hiển dung, biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.
Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng các ông cứ tin tưởng có thế giới bên kia, nơi mà hai vị đại ngôn sứ đang sống hạnh phúc ngập tràn. Và rằng các ông cứ an tâm Thầy của họ có chết thì cũng sẽ phục sinh vinh quang.
2. Hiển dung, biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.
Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu, ẩn dấu trong một thân xác nghèo hèn dân dã.
Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: "Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như tuyết". Rạng ngời đến nỗi các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: "Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều". Trong một bài suy niệm của mình, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng đã viết: "Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che dấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tâm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang".
3. Hiển dung, biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Thầy mình.
Chúng ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt, ít là có hai trong ba môn đệ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của ba môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài". "Lời Ngài" mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.
ĐTC Bênêdictô XVI, trong Sứ điệp Mùa Chay 2011, đã nói: "Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt chúng ta vinh quang của Chúa Kitô, báo trước cuộc phục sinh và loan báo sự thần hóa con người Kitô hữu. Ngài mời gọi chúng ta hãy ý thức mình cũng được dẫn lên núi cao như các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, để tái đón nhận món quà Ân Sủng của Thiên Chúa là Chúa Kitô" (số 2). Trong ý nghĩa đó, một khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, chúng ta được mời gọi hãy chiêm ngắm biến cố Hiển Dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau, cuộc sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin vào Người. Hơn nữa, chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua được những thử thách đau thương ấy trong đời. Amen.
--------------------------
“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”
Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?
--------------------------
– ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.
Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.
Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:
- Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
- Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
- Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại hữu hình
Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn: "một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.
Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm ngắm
Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (MC 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (MC 5,37).
Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.
Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường
Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
--------------------------
– Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay "con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển dung
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba "nhân vật" đang chung sống:
* Một là "tôi-là". Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)
* Hai là "Tôi-muốn-là". Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là "Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới "hiển dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải "hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.
--------------------------
– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(MC . 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.
Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.
Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59
quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.
Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.
--------------------------
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé". Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
- "Thế mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại "bới lông tìm vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản thiện" của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
--------------------------
– Lm Giuse Lê Minh Thông
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-ABC23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.
Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-ABC3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như...”, “như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”
Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.
Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
--------------------------
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.
Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên Chúa.
Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ.
I. NGỮ CẢNH
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (MC 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (MC 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-ABC23).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-ABC8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ….
- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (MC ).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong MC và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ” Mt 28,16-20
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”
- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-ABC8)
Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với MC 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-ABC13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
--------------------------
(Mátthêu 17,1-9 – CN II MC - A)
1.- Ngữ cảnh
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (MC 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (MC 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn cảnh gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-ABC23).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-ABC8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
3.- Vài điểm chú giải
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ….
- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (MC ).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong MC và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7 Mt 28,16-20
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần
chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ” 16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người ,
nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông:
19 “…toàn quyền…”
20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”
- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-ABC8)
Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với MC 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-ABC13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
--------------------------
Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay - năm A
(Mt 17, 1-9)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật II Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại, đó là biến cố biến hình của Chúa Giêsu.
Hôm nay, thánh sử Matthêu nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông. Và đây Môisen cùng với Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Những câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu biến hình ? Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Ngài đưa lên núi ? Tại sao Môise và Êli lại có mặt lúc Chúa Giêsu biến hình ?
Tại sao Chúa Giêsu biến hình ?
Chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no lần thứ nhất (x.Mt 14, 13-21) và chừng bốn ngàn người lần thứ hai không kể đàn bà con trẻ (x.Mt 15, 32-ABC39). Các Tông đồ chưng hửng về tương lai tươi sáng, dân chúng thì mãn nguyện về Đấng Thiên Sai. Khi thăm dò ý kiến chung (x.Mt 16, 13-20), Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất (x.Mt 16, 21-23): « Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại » (Mt 16, 21). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: « Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế! » (Mt 16,23). Vì thế, để củng cố niềm tin các Tông đồ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã biến hình sáu ngày sau đó (x. Mt 17, 1-9). Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi cao (x.Mt 17, 4). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.
Tại sao Chúa Giêsu lại gọi Phêrô, Giacôbê và em ông là Gioan? Phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Về vấn đề này, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Chúa Giêsu là « Con Thiên Chúa hằng sống» (Mt 16,16) và được Ngài trao cho chìa khóa Nước Trời « Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời » (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn, « Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa! » (Ga 21, 17)
Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 20). Còn Giacôbê, ông đã cùng với em mình khi Chúa Giêsu hỏi: «Các ngươi có thể uống chén Ta sắp uống không? » Họ nói với Ngài: «Thưa được» và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mt 16,14). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu là người vi phạm Luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang Thiên Chúa, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa chứ không thuộc về Chúa Giêsu. Họ nói: « Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ! » (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: « Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa » ( Ga 10, 33). Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Ngài hai tội danh ấy. Nên khi biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Ngài muốn khẳng định rằng, Ngài còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban Lề Luật cho dân chúng, nên người Do Thái không thể nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm Lề Luật. Còn Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết, Chúa Giêsu muốn cho các Tông đồ thấy vinh quang của thập giá, củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môisen, Êlia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: « đàm đạo với Người... » (Mt 17 9, 3), về khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Chúa Giêsu cũng muốn các Tông đồ mình noi theo Môisen và Êlia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: « Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo » (Mt 16,24).
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Rút ra bài học
Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn trong Mùa Chay này biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa trao mới được theo Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta cũng biết biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá Chúa và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
--------------------------
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 17:1-9)
Có vài cách giúp chúng ta lắng nghe sứ điệp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Trước hết, chúng ta dựa vào lời thánh Phao-lô mời gọi môn đệ Ti-mô-thê: “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (bài đọc 2). Đó cũng là lời kêu gọi của Chúa Giê-su, khi Người đưa ba môn đệ lên núi và biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Người muốn các môn đệ hãy tham dự vào sứ mệnh của Người. Cách thứ hai là chúng ta nhớ lại trong biến cố Chúa chịu phép rửa của Gio-an, Chúa Cha đã phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Nhưng hôm nay trong biến cố Chúa Giê-su hiển dung, Thiên Chúa Cha còn phán thêm lời này với các môn đệ Chúa Giê-su: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Trả lời câu hỏi của Chúa Giê-su “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” quả thực không dễ dàng. Các môn đệ sống bên cạnh Chúa, đã nghe, đã thấy, đã được dạy dỗ đặc biệt, nhưng điều ấy không có nghĩa là các ông đã hiểu rõ căn tính và sứ mệnh của Người. Có thể việc dạy cho tất cả Nhóm Mười Hai là chuyện khó, cho nên Chúa Giê-su chọn riêng ba “học trò xuất sắc nhất” để tham dự một khóa học đặc biệt trên núi chăng! Chẳng có thánh sử nào ghi lại được nội dung của khóa Ki-tô học này. Lý do cũng dễ hiểu. Vì với đầu óc ngu muội và đầy tham vọng của đám học trò, thì có dạy về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ cũng bằng nước đổ lá khoai mà thôi. Nhưng khung cảnh “lớp học” có thể đã đủ để giúp các ông nắm được ý tưởng chính. Đó là sự hiện diện của ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật, và ngôn sứ Ê-li-a, đại diện cho sách các Ngôn sứ. Chúa Giê-su “đàm đạo” với hai vị này. Hoặc nói cách khác, hai vị này đem những điều ghi trong Lề Luật và các sách Ngôn sứ để giúp Chúa Giê-su xác tín sứ mệnh cứu độ của Người. Một lớp học sống động với ba giáo sư như vậy mà các học trò chẳng thu nạp được kiến thức nào! Tuy nhiên kiến thức không quan trọng bằng lòng mến và quyết tâm theo Thầy. Chúa Giê-su chỉ muốn ở nơi họ cái hồn tông đồ, sẵn sàng “đồng lao cộng khổ’ với Người “để loan báo Tin Mừng”. Cho nên Chúa biến đổi hình dạng là để thắp sáng lên tình yêu và nhiệt thành trong tâm hồn họ. Khi xuống núi, Chúa còn căn dặn các ông không được nói gì về thị kiến hôm nay, bởi vì học biết về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô chỉ hoàn tất “khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
Một điểm tối quan trọng, đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa Cha: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Điều này nói lên tầm quan trọng của Mầu nhiệm Chúa Ki-tô trong đời sống của các môn đệ. Chúa Ki-tô là “Ân Sủng Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta từ muôn thuở”. Người đã “cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người…, đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (bài đọc 2). Đấy là tóm tắt sứ mệnh của Chúa Ki-tô, cho nên chúng ta không thể không “vâng nghe lời Người”! Và đấy cũng là Mầu nhiệm mỗi Ki-tô hữu chúng ta phải cố gắng rao giảng bằng lời nói và gương sáng của mình!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có thể thắc mắc tại sao Giáo Hội đưa biến cố Chúa Giê-su Hiển dung vào Phụng vụ Thánh lễ mùa Chay. Chắc chắn mục đích là giúp chúng ta chuẩn bị cử hành Mầu nhiệm Phục Sinh. Làm sao cử hành Mầu nhiệm Phục Sinh được, nếu không hiểu rõ sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su là gì! Kinh Thánh Cựu Ước đã khẳng định về sứ mệnh của Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa. Mà cử hành không chỉ là làm các nghi thức, nhưng là sống. Chúng ta sống Mầu nhiệm Phục sinh bằng cách sống với Chúa Giê-su (lắng nghe và thực hành Tin Mừng), chết với Chúa Giê-su (rũ bỏ con người cũ tội lỗi của chúng ta) và sống lại với Chúa Giê-su (đón nhận đời sống mới trong Thánh Thần).
Biến cố Hiển dung hiện diện trong Phụng vụ mùa Chay còn để giúp chúng ta vững tin vào Đấng cứu độ chúng ta, hoặc theo Lời nguyện nhập lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa “lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con”.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
--------------------------
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
St 12,1-4a ; 2 Tm 1,8b-10 ; Mt 17,1-9
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 17,1-9.
(1) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. (4) Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều. Ngài một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (5) Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !”. (6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ !”. (8) Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
2. Ý CHÍNH: MÙA CHAY BIẾN ĐỔI TÂM HỒN.
Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su. Các ông là những người nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giê-su đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền thống xa xưa, thì đó là núi Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung Hải, nhưng do nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm tưởng là một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao 2.795m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giê-su thời Tân Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước Trời trong thời kỳ cánh chung hay tận thế (x. Mt 15,29; Is 2,2-ABC3). + Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên tính vinh quang của Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói lọi như mặt trời” là biểu hiện thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thuộc về thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.
- C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Hai vị này đàm đạo với Đức Giê-su về cái chết của Người sắp được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Qua đó cho thấy toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. + Dựng ba cái lều: Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,14).
- C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a trong ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giê-su chính là vị Ngôn Sứ Mới sẽ xuất hiện thay thế Mô-sê vào thời cánh chung (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng khiếp sợ mà con người thường biểu hiện khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).
- C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giê-su đã ra lệnh các môn đệ giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt, thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giê-su là Thầy dạy Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. + “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai trò của Người mới được hiểu đúng theo thánh ý của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giê-su cho chứng kiến cảnh Người biến hình ? 2) Núi cao nói đây là núi nào ? Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều gì ? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng được biến hình giống như Đức Giê-su ở đây ? 4) Việc Đức Giê-su biến đồi dung nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì ? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện cho ai ? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giê-su xoay quanh đề tài nào ? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì ? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng trưng cho điều gì ? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định gì về sứ mạng của Đức Giê-su ? 8) Tại sao Đức Giê-su đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới chứng kiến ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỊ HOÀNG TỬ CHIẾN THẮNG ĐƯỢC DỊ TẬT GÙ LƯNG:
Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật bẩm sinh này mà chàng luôn mang mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước dân chúng. Triều đình có lệ này là tạc tượng các nhân vật thuộc hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng do không dám trái lệnh vua cha, nên chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không gù lưng. Hai là chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng khi chàng còn sống.
Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại càng ngày chàng càng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống y như bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi đã sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của chàng tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.
2) KHỎI BỆNH UNG TƯ NHỜ TIN CẬY VÀO THÁNH GIÁ CHÚA:
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Sa-lê-siên ở thành phố Cáp tại Ha-i-ti, muốn nhờ điêu khắc gia nổi tiếng là PÊ-RI-KHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị, trong lúc ông đã bị mắc bệnh ung thư sang thời kỳ cuối.
Các nữ tu đã cử một chị cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về yêu cầu này. Hôm đó viên bác sĩ của Pê-ri-khết cũng đang có mặt khám bệnh cho Pê-ri-khết. Ông nói với chị nữ tu:
- Lẽ ra chị đã phải đến đây từ lâu mới đúng. Còn bây giờ rất tiếc căn bệnh ung thư của ông Pê-ri-khêt đã trở nên quá nặng. Sau đó viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:
- Ông là tín hữu công giáo. Từ nay ông chỉ nên đặt trọn niềm tin vào Chúa để chữa bẹnh thôi. Còn những chuyện khác thì xin ông đừng quan tâm tới nữa.
Pê-ri-khêt đã nghe lời khuyên của viên bác sĩ điều trị cho mình nên từ ngày đó ông không còn thiết tha với việc cầm bút vẽ và điêu khắc để sáng tác bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác. Tuy nhiên ít ngày sau, chị nữ tu kia lại xuất hiện gặp nhà điêu khắc và tiếp tục năn nỉ:
- Này ông Gio-va-ni Pê-ri-khêt. Chị em nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp rất mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết rõ khả năng Chúa ban cho ông. Hôm nay trước khi trả lời dứt khoát cho nhà dòng, tôi đến đây xin hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi cuối cùng ông nói với chị nữ tu:
- Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng tôi thực hiện trước khi về với Chúa, và tôi xin các chị em nữ tu cầu cùng Chúa ban ơn giúp tôi hoàn thành công việc này.
Thế là sau đó nhà điêu khắc bắt tay làm việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong sớm được gặp Chúa. Đây quả thật là một công việc rất nặng nhọc đối với một bệnh nhân ung thu ở thời kỳ cuối như Pê-ri-khết. Nhưng chính ông lại cảm thấy có một điều gì rất lạ lùng đang diễn ra nơi mình: Mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông bị mất sức mệt mỏi, thì lại làm cho ông như được thêm sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày này qua ngày khác như không hề bị bệnh cho đến khi hoàn thành được tác phẩm tuyệt đẹp là cây thánh giá vô giá. Ông thấy mình cũng đã hồi phục sức khỏe trở lại. Chính Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh ung thư cho Pê-ri-khết, giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác nhờ lòng tin biểu lộ qua lòng cậy trông và yêu mến Chúa. Pê-ri-khêt tưởng rằng cây thánh giá ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng ông thực hiện để chuẩn bị chết lành, nhưng với niềm tin cậy phó thác cao độ, thể hiện qua sự không ngừng cầu nguyện kết hiệp với Chúa đang khi làm việc, Pêrikhêt đã được Chúa biến đổi và chữa lành bệnh ung thư thời kỳ thứ ba cách đặc biệt. Đây là hình ảnh ơn cứu độ mà Chúa Giê-su đã, đang và sẽ còn mang đến cho nhân loại chúng ta.
Ngày nay, cây thánh giá do Pê-ri-khết thực hiện vẫn đang được treo trong gian thánh nhà thờ tu viện Sa-lê-siên thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái: Mỗi ngày rất nhiều người khỏe mạnh hay đau yếu đã hiện diện tại đây để kính viếng và ai nấy ra về đều nhận được hồng ân biến đổi cả phần hồn lẫn phần xác.
3. SUY NIỆM:
1) Về hoàn cảnh cuộc biến hình của Đức Giê-su:
Cuộc biến hình đã xảy ra sau khi Đức Giê-su tiên báo về cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem để trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cuộc biến hình này như sau: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! “ Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “ Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,22-ABC23).
2) Về cuộc biến hình của Đức Giê-su:
- Cuộc biến hình của Đức Giê-su đã diễn ra trước mặt ba môn đệ thân tín là: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao khi Người đang cầu nguyện: Khuôn mặt của Người “chói lọi như mặt trời” giống như khuôn mặt sáng ngời của ông Mô-sê sau khi được gặp Đức Chúa (x. Xh 34,29-35). Y phục của Người “trắng tinh như ánh sáng” biểu hiện cho vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.
- Có hai nhân vật Cựu Ước là ông Mô-sê đại diện Luật Pháp và ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ hiện ra đàm đạo với Người, cho thấy Tân Ước tiếp nối Cựu Ước và Đức Giê-su đến không phá hủy Lề Luật Mô-sê hay lời sấm của các ngôn sứ, nhưng để làm cho nên hoàn thiện. Điều đáng lưu ý là trong khung cảnh vinh quang ấy, Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và cùng nhau đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem. Qua đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa hai biến cố tử nạn và phục sinh mà biến hình chỉ là sự hé mở phần nào cho thấy vinh quang của Đức Giê-su sau khi sống lại, hầu giúp các môn đệ khỏi bị thất vọng khi chứng kiến cuộc tử nạn đau thương của Người trên thập tự.
- Ngoài ra còn có đám mây xuất hiện tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” (Mt 17,5). Qua đó Chúa Cha đã chính thức xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới thời kỳ Cánh Chung, đúng như Mô-sê xưa có lần đã báo trước cho con cái Ít-ra-en như sau: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15).
3) Về các điều kiện để được biến hình giống Đức Giê-su:
Mùa Chay là mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian thuận tiện để các tín hữu lên núi cao của lòng mình để đối diện với Thiên Chúa và cầu xin Ngài giúp biến đổi nên giống Đức Giê-su hầu chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh sắp đến. Muốn thay đổi con người mình, chúng ta cần bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Muốn bỏ mình đi thì việc trước hết là phải nhận biết mình có những điều tốt điều xấu, các thói hư quan trọng cần phải tu sửa, vì “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”.
- Lên núi là vào trong lòng mình để cầu nguyện: Trong mùa Chay, chúng ta cùng các môn đệ Đức Giê-su đi theo Người lên núi cao, nghĩa là siêng năng tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay. Trong bầu khí thinh lặng của lòng mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Cầu nguyện là điều kiện tiên quyết để được ơn biến đổi chói lọi như mặt trời như Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay (x. Mt 17,2) hoặc như ông Mô-sê được biến đổi diện mạo nên sáng ngời khi ông đang ở trên núi Xi-nai với Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35).
Thế giới hôm nay thiếu những con người cầu nguyện, và thừa những con người lăng xăng hiếu động... Có ba môn đệ cùng ở trên núi với Đức Giê-su, nhưng chỉ mình Người mới có sự thay hình đổi dạng nhờ sự cầu nguyện đàm đạo với Chúa Cha, đang khi ba ông kia lại mê ngủ. Về sau tại núi Cây Dầu, một lần nữa ba ông này lại mê ngủ đang lúc Thầy các ông canh thức cầu nguyện. Do đó, dù cùng lên núi với Thầy, nhưng các ông vẫn trơ trơ không thay đổi để nên tốt hơn. Trong cuộc sống hiện tại đầy vất vả cạm bẫy và thử thách, chính nhờ sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận Thần Khí soi dẫn, các tín hữu chúng ta mới không bị hoang mang sợ sệt, mê ngủ hoặc trốn trách nhiệm đối với công việc chung của Hội Thánh...
- Hãy vâng nghe lời Người!: Yếu tố thứ hai giúp các tín hữu được ơn biến đổi chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Đang lúc hiển dung, Ðức Giê-su đã được Chúa Cha giới thiệu: “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! “ (Mt 17,5). Ngày nay muốn được ơn biến đổi nên giống Đức Giê-su, chúng ta cần tin Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, chuyên cần lằng nghe Lời Người và xin Thánh Thần giúp chúng ta sống theo Lời Chúa dạy nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong những ngày Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc sống đời thường, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày để được nghe lời Chúa phán dạy trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, và sau đó được hiệp thông với Chúa Giê-su Thánh Thể trong phần Phụng Vụ Thánh Thể khi rước lễ. Ngoài ra, chúng ta cũng phải chuyên cần tham dự tĩnh tâm Mùa Chay cả cộng đoàn hay riêng từng lứa tuổi, chăm chỉ tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng hay Chia sẻ Lời Chúa hằng tuần theo nhóm nhỏ của các hội đoàn tông đồ giáo dân…
- Đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa: Tuy nhiên để có thể chuyên cần dự lễ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng, sẵn sàng vâng nghe Lời Chúa Giê-su như lời Chúa Cha truyền dạy, mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của Thần Khí Thiên Chúa để năng cầu xin ơn Ngài trợ giúp khi đọc kinh dự lễ, biết mở lòng đón nhận các ơn Chúa và luôn theo Thần Khí hướng dẫn như Đức Giê-su xưa. Chính nhờ Thần Khí cua Chúa Phục Sinh được thổi trên các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh và nhất là Thần Khí của Chúa Phục Sinh đã biến thành gió bão đầy sức mạnh và ngọn lửa cháy sáng đức tin… mà chúng ta sẽ hy vọng được biến đổi nên một con người trưởng thành về nhân cách, nên người tín hữu đạo đức luôn có lối sống đẹp lòng Chúa Cha noi gương Đức Giê-su, năng thực tập sông giới răn yêu thương để nên môn đệ đích thực của Người (Ga 13.34-35), tích cực dấn thân đi loan báo Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Chúa Giê-su ngay trong môi trường sống và làm việc của mình x. Mt 28,19-20), luôn sống tình mến Chúa yêu người như kinh Thương Người có Mười Bốn Mối, trở nên khí cụ gieo rắc bình an hòa thuân trong gia đình cũng như khu xóm, giáo xứ và bất cứ nơi nào mình đang sông như Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô đã ký nhận.
4. THẢO LUẬN:
1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để trở nên tốt hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo hiện tại, để xứng đáng được Thiên Chúa xác nhận là “Con rất yêu dấu” như Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay? 2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. xin biến đổi con, xin biến đổi cuộc đời con từng bước qua lời cầu nguyện:
Xin biến đổi cái nhìn của con mỗi lần con chiêm ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và nghe lời Chúa phán dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,29).
Xin biến đổi môi miệng con mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa vào lòng.
Xin biến đổi tai con mỗi lần con nghe Lời Chúa trong Sách Thánh tại nhà thờ hay tư gia.
Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời hơn mỗi lần con được gặp gỡ Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con với tha nhân chung quanh.
Lạy Chúa. Thế giới hôm nay không cần những tín hữu mang bộ mặt buồn chán thất vọng. Xin cho chúng con luôn biết nhẫn nại và can đảm đồng hành với Chúa và với các anh em trên những nẻo đường đức tin nhiều sỏi đá để cuối cùng mới đến được với Thiên Chúa là nguồn vui, niềm tin cậy và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
--------------------------
Đức Chúa phán với ông Môsê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ítraen." Ông ở đó với Đức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Mười Điều Răn.
Ông Môsê từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. Khi ông Aharon và toàn thể con cái Ítraen thấy ông Môsê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. Ông Môsê gọi họ. Ông Aharon và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Ítraen lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Đức Chúa đã phán với ông trên núi Sinai.
Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. Khi vào trước nhan Đức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ítraen những mệnh lệnh ông đã nhận được. Con cái Ítraen nhìn mặt ông Môsê thấy da mặt ông sáng chói; ông Môsê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa ( Xh 34, 27 – 34 ).
Ông Môsê sau khi gặp Thiên Chúa, đã biến hình đổi dạng, qua khuôn mặt chói sáng. Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mátthêu trình bày Đức Giêsu biến hình sáng láng huy hoàng trên núi cao, trước mặt ba vị tông đồ thân cận, ông Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Đức Giêsu đã mặc khải cho ba môn đệ biết Thiên tính của Người qua sự kiện biến hình trên núi. Người muốn trao ban ánh sáng Sự Sống cho các Tông Đồ, Môn Đệ, con chiên và cho mọi người trần.
Ánh sáng Sự Sống
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” ( Ga 1, 9).
Đức Giêsu xuống trần đem ánh sáng sự sống đến cứu loài người thoát khỏi tăm tối sự chết. Trong suốt cuộc rao giảng ba năm, Người không ngừng công khai khẳng định quyết liệt điều đó, khiến cho các thế lực sự dữ không ngừng chống báng, toan dập tắt đi ánh sáng cứu rỗi, ánh sáng sự sống cao quý siêu việt đó.
“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” ( Ga 8, 12 ).
Ánh sáng sự sống, ánh sáng công chính siêu phàm của Đức Giêsu xua đuổi tà thần, tội lỗi, gian manh, dối trá, thói chuộng hình thức, tệ nạn háo danh, háo của, bóc lột,
Với ánh sáng sự sống, Đức Giêsu kịch liệt lên án thói giả hình, qua lời Ngôn Sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” ( MC 7, 6 ).
Với ánh sáng sự thật, Đức Giêsu không ngại nêu đích danh, chỉ tận mặt những bộ mặt đạo mạo lệch lạc, háo danh, tham lam, bất công, bất chính: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” ( MC 12, 38 – 40 ).
Ánh sáng chứng nhân
Sau khi đàm đạo với Thiên Chúa, da mặt ông Môsê trở nên sáng chói, khiến dân chúng kinh hãi. Thiên Chúa đã cảm biến, thánh hóa ông Môsê trở nên phát ngôn viên chánh thức, rao truyền Lề Luật. Sau này, những môn đệ, tông đồ của Đức Giêsu, và tất cả Kitô hữu cũng đều được vinh hạnh nhận nhiệm vụ ngôn sứ, một khi đã thấm nhuần Tin Mừng:
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” ( Mt 5, 14 ).
Từ chốn lao tù, Thánh Phaolô đã giải thích minh bạch về bóng tối thế gian và ánh sáng vĩnh cửu: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” ( Ep 5, 8 – 9 ).
Với ánh sáng chứng nhân, Đức Giêsu muốn người Kitô hữu phản ảnh, chiếu giãi ánh sáng công chính, hầu mọi người được ơn cứu rỗi. Ánh sáng trung thực, rực rỡ, không thể mờ ảo, hay nhiễm sắc xanh đỏ tím vàng, xu thời, mỵ dân.
“Anh em đừng mang một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính ? Làm sao ánh sáng lại dung hòa với bóng tối ?” ( 2 Cr 6, 14 ).
“Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở Nhà Thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. ( Đường Hy Vọng, số 622 ).
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người canh tân, cải hóa, đổi mới, biến hình tâm hồn, tư tưởng, tình cảm chúng con trở nên trong sáng, tẩy xóa đi những lỗi lầm đen đúa, lem nhem, tì ố, những thiếu sót bổn phận, trách nhiệm, để có thể thành ánh sáng chứng nhân cho Người.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp đỡ, cầu bầu chúng con biến cải, sám hối, ăn năn, hãm mình chay tịnh, chuyên tâm cầu nguyện, thực hành Lời Chúa, hầu chúng con có thể sẵn sàng đón nhận ánh sáng cứu độ, cùng phản chiếu lại tha nhân. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
--------------------------
Sau khi được tiên báo về cuộc Thương Khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc khổ nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” ( Mt, 17 – 19 ).
Trong bản Tin Mừng theo Thánh Luca và theo Thánh Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” ( Lc 18, 34 ); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” ( MC 10, 32 ).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra ( Mt 17, 1 – 9 ). Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
1. Núi Tabor
Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4 độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ả Rập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển Hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá Tu Viện các cha Dòng Bênêđitô một thời Trung Cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành ( Zelot ) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66 trước Công Nguyên. Năm 1634, các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà Thờ.
Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha Dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền Nhà Thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai Nguyện Đường nhỏ kính Tổ Phụ Môsê và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môsê trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
2. Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba sách Tin Mừng đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” ( MC 9, 6 ); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” ( Lc 9, 34 ); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” ( Mt 17, 6 ). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ !”
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lại lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được ! ( x. Mt 17, 13 – 14; MC 8, 34; Mt 8, 18; MC 13, 9; Lc 9, 26 ).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt, thì Chúa Giêsu hoá giải tin về cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên Đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba cái lều để an nhàn trên núi cao, ngủ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho Đức Tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” ( đời sống thánh hiến ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10 năm 1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp ( số 19 ), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu Sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài ( số 27 ); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ ( số 75 ); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô ( số 14; 40 ). Nhiều năm huấn luyện trong Nhà Dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu Sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
3. Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe Lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba sách Tin Mừng đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” ( Mt 17, 5 ); “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” ( MC 9, 6 ); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” ( Lc 9, 35 ).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba sách Tin Mừng đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục Sinh với Chúa Kitô.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.
Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng Đức Tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. ( Lời nguyện Nhập Lễ, Chúa Nhật 2 Mùa Chay ).
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
--------------------------
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Đức Giêsu khi Ngài đem bốn môn đệ thân tín đi theo mình lên núi. Tại đây Ngài biến đổi hoàn toàn khác lạ: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” ( Mt 17, 2 – 3 ). Biến cố biến hình hôm nay chính là để khẳng định danh phận Con Thiên Chúa với những quyền năng và sức mạnh của Đức Giêsu. Còn có cả ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người, một bằng chứng về các nhân vật thời Cựu Ước nhằm củng cố, nâng đỡ Đức Tin cho các Tông Đồ.
Chứng kiến cảnh tượng huy hoàng và hạnh phúc ấy, ông Phêrô đã vội vàng thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.” ( Mt 17, 4 ). Tính từ “hay” được thốt lên ở đây chính là điều hay đẹp, điều tốt, điều hoàn hảo, điều hạnh phúc. Cái hạnh phúc ấy chắc chắn phải rất lớn để ông Phêrô có thể mạnh dạn muốn xin cho được dựng lều ở lại. Nhưng không phải cho mình, mà cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia.
Khi ông Phêrô chưa dứt lời thì tiếng Thiên Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” ( Mt 17, 5 ). Vừa nghe tuyên sấm, các môn đệ đã kinh hãi ngã sấp xuống đất. Còn hơn cả những gì trước đây các ông vừa chiêm ngắm, tiếng sấm của Thiên Chúa Cha tuyên phán và khẳng định quyền thế của Đức Giêsu. Các môn đệ đã được mắt thấy tai nghe tất cả sự thật về thân thế và vinh quang của Ngài. Không còn gì có thể nghi ngờ nữa. Các môn đệ như không dám tin ở chính mắt mình.
Như các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng non kém Đức Tin như vậy, và không ít lần thèm khát được chính mắt chiêm ngắm dung mạo Con Thiên Chúa để được tin. Thật ra, hằng ngày chúng ta vẫn tận mắt chiêm ngắm biết bao nhiêu công trình mầu nhiệm của Ngài trong cuộc sống. Từ hơi thở, bước đi cho đến sự sống, ếu như không có sự bàn tay quan phòng thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa, làm sao sự sống này được tồn tại ? Vậy mà thế giới vẫn chẳng chịu tin. Con người vẫn thử thách Thiên Chúa, đòi hỏi Ngài phải đáp ứng đòi hỏi của mình thay vì phải tìm hiểu để tin.
Mỗi ngày trên bàn thánh Chúa Giêsu vẫn biến đổi chính mình Ngài để trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Điều quan trọng không phải Thiên Chúa đang ở đâu, đang làm gì mà chính là mỗi người tự nhận ra chân dung Ngài trong cuộc sống. Ngài có ở đâu xa, ngay trong chính ngôi nhà của ta, nơi người chồng, nơi người vợ, nơi cha mẹ, nơi con cái, trong gia đình, ngoài xã hội… bất kỳ nơi đâu, trên thế giới này, Thiên Chúa vẫn đang sống và hiện diện trong mỗi chúng ta.
Lạy Chúa, đã biết bao lần con cầu xin cho được một lần chiêm ngắm dung nhan Ngài, một sự cầu xin ngạo ngược, đầy hoài nghi và tham vọng. Nếu như con hiểu rằng ngày nào mà Chúa chẳng đang biến đổi dung mạo trước mắt con qua anh chị em nghèo khổ sống chung quanh, có lẽ con đã sống khác hơn rất nhiều.
Xin giúp con, biết mở rông đôi mắt tâm linh để có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cuộc sống mình. Thay vì chỉ một mực khao khát được chiêm ngắm dung nhan Chúa, con hãy biết khát khao biến đổi chính mình. Xin giúp con luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa và bước đi theo Ngài, cho dù có tam phen tứ bận ngã lên té xuống vì cuộc sống, cũng vững vàng can đảm “trỗi dậy bước đi và đừng sợ !” ( Mt 17, 7 ).
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
--------------------------
Khát là tiếng kêu thảm thiết nhất. Khát có thể là khát nước, cũng có thể là khát vọng. Nhưng “khát nước” cấp bách hơn “khát vọng”. Có hết “khát nước” thì mới có thể tiếp tục “khát vọng”. Quả thật, nước rất cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày. Cơ thể con người đa phần là nước. Người ta có thể nhịn đói được lâu, nhưng khát thì sẽ mau chết lắm, như cá lên bờ thì mau chết và chết chắc !
Trình thuật Ga 4, 5 – 42 cho biết rằng…
Một hôm, Chúa Giêsu đến một thành xứ Samari tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse, và ở đấy có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành để mua thức ăn. Lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, giờ cao độ của cái nắng, của sức nóng.
Ngay lúc đó có một phụ nữ Samari đến lấy nước. Ngài bắt chuyện: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”. Ngài không có gàu để múc nước từ dưới giếng nên mới xin như vậy. Chị liền nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao ?” Đó là điều “không bình thường”, vì người Do Thái không được giao thiệp với người Samari. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. Chị tròn mắt, vừa cười vừa nói: “Ông ơi là ông, ông đùa đấy à ! Ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống chứ ? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy đấy”.
Dĩ nhiên chị làm sao hiểu được thâm ý của Đức Giêsu, nếu chúng ta là chị ấy thì chúng ta cũng chỉ biết “gãi đầu” mà thôi ! Tất nhiên Ngài biết thừa, và Ngài bảo: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại Sự Sống đời đời”. Lại càng bí ẩn hơn, chúng ta lại tiếp tục “ngớ nhẩn”, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi !
Thế mà thật lạ, người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chị ấy thông minh đột xuất chăng ? Ngài bảo: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. Chị đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giêsu bảo: “Chị nói ‘tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”.
Mèng ơi ! Sao đoán đúng vậy ta ? Chị thấy tâm phục khẩu phục nên nói: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Đức Giêsu cười rất hiền: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”.
Chị thấy lạ và thấy đúng lắm, chị thưa: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chu choa ! Chắc hẳn chị ấy rất bất ngờ, nhưng cũng vô cùng hạnh phúc vì được diện kiến Đáng mà bao người mơ cũng không thấy, đặc biệt là chị không còn phải khát nữa, vì chị được uống NƯỚC TRƯỜNG SINH !
Tuyệt vời biết bao ! Chuyện xảy ra như một thước-phim-đẹp-như-cổ-tích-mà-rất-thật. Tiếc là lúc đó không có ống kính nào thu lại, mà cũng chẳng có được máy quay thời đó. Nhưng đọc văn phong của Thánh Gioan, chúng ta cảm thấy như xem một đoạn phim thú vị, với những lời đối thoại mạch lạc, thú vị.
Đọc lại đoạn văn này trong Mùa Chay, chúng ta nhớ tới lời kêu của Chúa Giêsu vang vọng từ trên Thập Giá: “Tôi khát !” ( Ga 19, 28 ). Ra máu nhiều vì thương tích đầy mình, lại phải chịu khát cả ngày rồi, Chúa Giêsu khát đến cháy cổ. Thế nhưng người ta vẫn tàn nhẫn với một người sắp chết, không cho uống nước mà lại cho nếm giấm chua. Thật tồi tệ, nhưng đời là thế đấy ! Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng qua câu nói thì thào: “Thế là đã hoàn tất !” ( Ga 19, 30 ).
Đất trời rúng động, mây đen kéo tới, động đất dữ dội, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đá vỡ toang, mồ mả bật tung, các thi hài trỗi dậy ( Mt 27, 51 – 52 ). Cảnh tượng thật hãi hùng như tận thế đến nơi, ai cũng run rẩy sợ hãi. Thấy vậy, viên đội trưởng và đám lâu la phải công nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, người này đích thực là người công chính !” ( Mt 27, 54; Lc 23, 47 ).
Ngày xưa Chúa Giêsu kêu khát mà không ai lưu ý. Ngày nay Ngài cũng vẫn kêu khát mà vẫn bị làm ngơ !
Ở Phi Châu có những trẻ em đang chờ chết từng giờ vì đói, vì khát, và còn biết bao người nghèo khổ khác trên thế giới, thậm chí họ ở ngay bên chúng ta: Người ăn xin, người già nua neo đơn, trẻ mồ côi, người sa cơ lỡ vận, người kém may mắn, người hàm oan, người bệnh hoạn, người tật nguyền, người vô gia cư, người nghèo khó phải chạy ăn từng bữa... Thế nhưng có thể chúng ta vẫn dửng dưng như xem thời sự trên tivi, qua báo chí, nghe qua radio, tất cả đều qua đi như nghe một điệu nhạc buồn rồi thôi, không chút động lòng thương cảm, không hề cầu nguyện cho họ, không hề chia sẻ với họ. Cùng lắm cũng chỉ nói: “Tội nghiệp !” Chỉ thế thôi. Chính những con người khốn khổ đó là tiếng vọng thảm thương cấp bách của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá giữa nắng chiều gay gắt trên đỉnh đồi Canvê ngày nào ! Chúng ta có cảm thấy mình mắc lỗi đức ái ?
Chắc hẳn ai cũng muốn hoàn thiện như Cha trên trời theo lời khuyến cáo của Chúa Giêsu ( x. Mt 5, 48 ). Nhưng hoàn thiện thì phải thực thi Ý Chúa, mà Ý Chúa là “yêu người như chính mình”. Thánh Phaolô phân tích: “Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng Đức Mến là quan trọng nhất” ( 1 Cr 13, 13 ). Còn Thánh Giacôbê so sánh: “Đức Tin không có việc làm là đức tin chết” ( Gc 2, 17 và 26 ). Chúa muốn chúng ta sống thật, không nói suông, không ảo tưởng.
Triết gia kiêm nhà luân lý Jean de La Bruyère ( 1645 – 1696 ) nói: “Ân huệ không bởi việc CHO THẬT NHIỀU mà là CHO ĐÚNG LÚC”. Trong bốn Phúc Âm, chỉ có Thánh Mátthêu đề cập “chén nước lã” ( Mt 10, 42). Chúa không đòi buộc chúng ta làm đại sự, làm việc phi thường, mà Ngài chỉ bảo chúng ta làm những điều “nho nhỏ” thôi. Thật vậy, dù chúng ta chỉ vì động lòng thương xót mà cho người khác “một chén nước lã” để giải khát thì Ngài cũng “chấm công” cho chúng ta.
Kinh Thương Xác Bảy Mối nói rõ: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống”, và một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ). Người ta cần cá thì không thể lấy rắn cho họ, hoặc người ta cần trứng lại lấy bò cạp cho họ ( x. Lc 11, 11 – 12 ). Điều đó có nghĩa là phải thể hiện lòng yêu thương bằng hành động chứ không “lẻo mép”. Trước khi hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ: “Chính anh em phải cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Chúa rất thực tế, chẳng bóng gió chi cả. Có thể chúng ta chỉ nghe cho vui tai, chứ rất… ngại hiểu, sợ “đụng chạm” lắm !
Nhưng vẫn có những con người thực sự hiểu và hành động. Họ bị thế gian coi là “khùng”, giống như người ta đã bảo Chúa Giêsu “điên” vậy. Bạn còn nhớ Chân Phước Nữ Tu Teresa Calcutta chứ ? Bà tên thật là Agnes Gonxha Bojakhiu, sinh ngày 28.8.1919 và qua đời ngày 5.9.1997. Năm 1952, Mẹ thấy một phụ nữ hấp hối bị kiến và chuột gặm tả tơi, Mẹ đã mủi lòng và thành lập Nhà Nirmal Hriday ( Tấm lòng Thanh khiết ) cho những người hấp hối. Mẹ áp dụng đúng nguyên tắc sống của dòng Bác Ái Truyền Giáo: “Yêu là cho đi đến khi cảm thấy đau”. Mẹ đã hùng hồn tuyên bố: “Theo máu huyết, tôi là người Albania. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo Đức Tin, tôi là Nữ Tu Công Giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc trần gian này. Còn theo tâm hồn tôi, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Một con người nhỏ bé về thể lý nhưng lại có trái tim vĩ đại đáng khâm phục !
Trẻ em là tương lai của đất nước, xã hội, thế giới và Giáo Hội. Hãy làm cho những trẻ em đang chết dần mòn kia được sống. Thật vậy, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” ( Ga 10, 10 ). Chúa muốn mọi người được sống đầy đủ và hạnh phúc, Ngài không hề muốn ai phải chết. Thực thi Ý Chúa như vậy là sống đạo ( chứ không chỉ giữ đạo ), sống đạo tích cực, và “vui với người vui, buồn với người buồn” ( x. Rm 12, 14 – 18 ). Mà Chúa Giêsu lại rất yêu quý trẻ em. Chúng ta đừng quên là cứ mỗi giây lại có một trẻ chết vì đói khát: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” ( Lc 6, 38 ).
Trước khi vứt bỏ các thức ăn còn sót lại trong chén của bạn, xin bạn hãy nghĩ tới những người đang lâm cảnh đói khát, thèm những thứ dư thừa của người khác mà không có. Cuộc đời có những điều nghịch-lý-thuận: Cái mà với người này là dư thừa, là đồ bỏ, là rác rưởi, nhưng với người khác rất có thể là vật cần thiết nhất cho sự sống còn !
Kho tàng ở đâu thì lòng ta ở đó ( x. Mt 6, 19 – 21 ), và người giàu khó vào Nước Trời còn hơn lạc đà chui qua lỗ kim ( x. Mt 19, 23 – 24 ). Giàu ở đây không hẳn là giàu vật chất, cái nghèo cũng vậy. Ca dao Việt Nam cũng xác định: “Nghèo tiền nghèo bạc chẳng lo, nghèo nhân nghèo nghĩa mới lo mình nghèo”.
Ước gì, trong suốt cuộc đời, nhất là cơ hội ngàn vàng là Mùa Chay này ( x. 2 Cr 6, 2 ), mỗi chúng ta đều thực sự KHÁT CHÚA như tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” ( Tv 63, 2 ).
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội ( Lc 18, 9 – 14 ). Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài ( Dt 10, 7 và 9 ). Xin hoán cải chúng con để chúng con dám vỗ ngực xưng tên là luôn có Đức Kitô thực sự sống trong lòng ( x. Gl 2, 20 ). Vâng, lạy Chúa, xin thêm đức tin và đức mến cho chúng con ( x. Lc 17, 5 ). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU, Mùa Sám Hối – 2014
--------------------------
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?
+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.
+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.
+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!
Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.
Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!
Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.
Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.
Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
--------------------------
Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” (Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” (MC 9, 2-ABC8). Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?
Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giêsu biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giêsu Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giêsu biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giêsu Na-da-ret.
Khi ba môn đệ theo Đức Giêsu lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “... Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giêsu đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-ABC32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.
Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giêsu chiu phép rửa trên sông Gio-đan ("Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giêsu Ki-tô.
Nói Chúa Hiển Dung là nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy là vì trước đó không lâu, Đức Giêsu đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất cho các môn đệ: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”; khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt 16, 21-23).
Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì "các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: "Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!" (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế đó!
Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!
Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giêsu luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện ("Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." – MC 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).
Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.
Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì "tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).
Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giêsu, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giêsu Ki-tô, qua Lời phán dạy: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được như vậy. Amen.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Truyền thống giáo dục trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con cái phải vâng lời cha mẹ, học trò vâng lời thày cô, người dưới vâng lời bề trên. Có người hỏi tại sao phải vâng lời cha mẹ và người trên? Thưa vì cha mẹ là người sinh ra ta và là người yêu thương ta và nhiều kinh nghiệm hơn ta. Đặc biệt với văn hóa Á đông việc vâng lời ông bà cha mẹ thày cô được nâng lên thành Đạo. Do đó một người con ngoan, thảo hiếu là người con biết vâng lời và làm theo lời dạy bảo của cha mẹ, bậc cha mẹ thì cảm thấy vui và hạnh phúc khi có những đứa con biết ngoan ngoãn vâng lời, và hãnh diện khoe với mọi người về sự thảo hiếu của con mình.
Cũng trong truyền thống văn hóa Á đông này, hôm nay có thể nói, Thiên Chúa tự hào về Người Con của mình là Đức Giêsu, Ngài đã “khoe” với mọi người: Đây là con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta, các ngươi hãy nghe lời Người.
Thưa quý OBACE, bước vào Chúa nhật thứ hai mùa chay, Lời Chúa mời gọi chúng ta học nơi Chúa Giêsu, đó là vâng nghe lời Thiên Chúa và trở thành người con làm đẹp lòng Thiên Chúa, có thái độ của một trẻ thơ, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng nghe lời Đức Giêsu dạy. Nghe là thái độ của một người con đối với lời dạy bảo của cha mẹ, của học trò đối với thày cô, nhưng nghe cũng có nhiều cấp độ, vì có khi tai chúng ta cố tình đóng lại thì chúng ta không thể đón nhận được âm thanh, hoặc có thể có nghe, nhưng không chú tâm, không hiểu, nên lời nói không đi vào được trong tâm hồn. Hôm nay Chúa muốn chúng ta có một thái độ chú tâm hơn đó là lắng nghe và tích cực hơn nữa, đó là biết vâng nghe lời Chúa. Lắng nghe là chú ý để nghe, để hồn tĩnh lặng đón nhận, và vâng nghe, là nghe và đón nhận trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và thực hành như một em bé vâng nghe theo lời chỉ bảo của cha mẹ.
Vâng nghe lời Chúa, đòi phải có một thái độ sẵn sàng, phó thác và từ bỏ ý riêng của mình, hoàn toàn tin tưởng vào lời của Chúa, và không cần biết lý do tại sao, vâng nghe là thái độ chấp nhận, thực hành, dù có nhiều điều mình chưa thể hiểu hết. Bài đọc một đã cho chúng ta một tấm gương về sự vâng nghe Lời Chúa của ông Abraham. Khi đó Abraham là một người giàu có, nhiều của cải đất đai và súc vật, thế mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông: Người hãy bỏ xứ sở, họ hàng nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và sẽ chúc phúc cho ngươi. Với một lời mời gọi dường như mơ hồ như thế, vậy mà Abraham đã dám bỏ lại tất cả để lên đường đi theo lời chỉ dạy của Chúa, ông chấp nhận bỏ lại đàng sau ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh em, để đi đến một miền đất vô định chưa biết ở đâu, tất cà còn ở thì tương lai, vậy mà ông cũng không hỏi Chúa một câu nào, chỉ biết vâng theo để lên đường. Chính từ thái độ ngoan ngoãn vâng lời như thế mà Thiên Chúa chúc phúc cho ông, trở nên bạn hữu với ông, và còn bênh vực ông: Ta chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi, và nguyền rủa những ai nhục mạ ngươi.
Trong Tin Mừng hôm nay, trước khi bước vào cuộc tử nạn thập giá, để củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến giây phút hiển dung, chứng kiến gương mặt thánh thiện sáng ngời của mình để động viên tinh thần và củng cố lòng tin cho các ông. Các tông đồ hết sức ngỡ ngàng, đang khi còn ngây ngất với vinh quang ấy, thì có tiếng Thiên Chúa Cha, nói với các ông từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài. Thiên Chúa Cha hài lòng về sự vâng phục của Đức Giêsu, vì Ngài đã không chọn theo ý riêng mình, mà chọn sự vâng phục Thiên Chúa để đón nhận con đường cứu độ bằng thập giá. Còn các tông đồ, mặc dù đã đi theo Chúa nhiều năm, nhưng các ông vẫn chọn lựa theo kiểu thế gian, tìm kiếm quyền lực theo kiểu trần gian, chưa sẵn sàng để chấp nhận một Đấng Mêsia phải chịu đau khổ nhục nhã. Trong khi đó Chúa Giêsu cũng đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa Cha dẫn dắt và định liệu cho cuộc đời mình, dù có những lúc Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ để tìm một con đường riêng cho mình, như chúa nhật tuần trước chúng ta đã suy niệm, nhưng cuối cùng Ngài đã dùng Lời của Chúa, lời Kinh Thánh để chống trả lại cám dỗ đó, và sẵn sàng bước theo con đường của Chúa Cha đã định.
Các tông đồ khi chứng kiến vinh quang của Chúa, thì các tông đồ đã hạnh phúc ngây ngất, và muốn kéo dài tình trạng hạnh phúc này và quên đi thực tế trước mắt, nên các ông đã xin dựng ba lều để được ở lại trên núi, trốn tránh những thực tại của cuộc sống: Nếu Thày muốn, chúng con xin dựng ba lều. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ, qua biến cố này được thêm lòng tin để đón nhận cuộc khổ hình sắp tới mà chúa sẽ bước vào. Cuộc khổ hình này chắc chắn rất kinh khủng và vượt quá khả năng tưởng tượng của các ông, và vì thế các ông cần phải có một thái độ sẵn sàng, vâng phục. Chính vì thế có tiếng Chúa Cha từ trời nói với các ông: Hãy vâng nghe lời Người. Qua lời này, Chúa Cha một lần nữa muốn các tông đồ tin và đón nhận lời của Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa và là Đấng Mesia cứu thế, như con cái nghe lời cha mẹ, nhưng học trò vâng lời thày.
Từ trên núi xuống, Đức Giêsu bắt đầu nói với các ông về việc Con Người sẽ bị khổ hình và sẽ từ cõi chết sống lại. Chắc chắn lúc đó các tông đồ chưa hiểu hết những điều Chúa nói trước về cuộc khổ nạn, phần vì các ông không muốn nghe, phần vì dù có nghe, nhưng không muốn chấp nhận, để đón nhận và vâng nghe lời Đức Giêsu, để loan báo về Đức Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, thì cần phải dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Cũng giống như ngày xưa Chúa đã gọi Apraham và làm cho ông trở thành cha của một dân tộc đông đúc, giống như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng nghe theo lời của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá, thì chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành dân thánh của Thiên Chúa, trở nên những người thuộc về Đức Kitô, làm theo gương của Đức Giêsu và lời dạy của Ngài.
Thưa quý OBACE, Vâng nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh, trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.
Trong bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha mẹ, sinh sản và giáo dục con cái, hãy vâng nghe Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội, phó thác tương lai của mình và gia đình cho Chúa để Chúa dẫn dắt, hãy vâng nghe Lời Chúa để làm chuẩn mực cho đời sống và cho công việc của mình, đừng để sự gian dối, tham lam điều khiển cuộc sống của mình, đừng để cho sự lười biếng bê tha rượu chè, cờ bạc làm trì trệ cuộc sống của gia đình, gây ra bất hòa bất hạnh cho nhau.
Cuộc sống sung túc, tiện nghi ngày hôm nay cũng đang là một cản trở khiến nhiều bạn trẻ khó có thể nghe được Lời Chúa, những âm thanh và cuộc sống ồn ào náo nhiệt khiến cho nhiều người không còn một khoảng lặng nào trong ngày để nhìn lại cuộc sống mình, những hấp dẫn và mời chào của xã hội khiến cho nhiều người từ chối Lời của Chúa, không chấp nhận thập giá và không dám vâng theo,… tất cả những điều đó đang là thách thức cho các bạn trẻ Công giáo trong đời sống đức tin.
Đức Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa. Amen.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Võ Tuấn)
Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,
Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng quen thuộc tả lại cảnh Chúa Giêsu biến hình trong quảng thời gian của Mùa Chay, vừa như muốn chúng ta thấy vẻ vinh quang của Chúa Giêsu, vừa muốn nhắc bảo chúng ta: cũng chính Chúa Giêsu ấy đã chịu cám dỗ và đã thắng. Đó cũng chính là con đường mà người tín hữu Kitô sẽ đi qua, nghĩa là chúng ta cũng phải trải qua những đau khổ, những hy sinh, để rồi trong Đức Kitô chúng ta sẽ đạt được chiến thắng huy hoàng.
Ngoài điểm liên hệ giữa bài Tin Mừng và Mùa Chay nói trên, chúng ta còn thấy được nhiều điểm mà thánh Matthêô đã lồng vào trong Cựu ước để minh chứng Chúa Giêsu là Đấng đến để giảng dạy như lời các tiên tri đã loan báo, và đặc biệt là ông Môsê đã nói trước khi lìa đời: “ Từ giữa các anh em ngươi, Thiên Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một tiên tri như Ta, các ngươi sẽ nghe Ngài “ ( Đnl. 18, 15).
Thật vậy, để xua tan mây mù đen tối về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu đã báo cho các tông đồ ở Xêrasê Philipphê ( Mt. 16, 21 – 28 ) ; thì Chúa Giêsu hôm nay đã cho các đồ đệ thân tín được thấy vẻ vinh quang của Ngài, và nhất là được nghe lời trấn an từ trời cao cùng với sự minh chứng của Cựu ước, hầu an tâm bước theo Chúa và vâng nghe lời Ngài dạy, cũng như đứng ra kế thừa sự nghiệp Ngài để lại sau nầy.
Theo trình thuật, chúng ta thấy chỉ có “các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu gọi riêng đi theo Ngài lên núi Tabor, là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay”. Thật sự, có một sự liên hệ giữa biến cố trên núi Tabor và biến cố xảy ra ở núi Cây Dầu. Trên núi Tabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt ; Thì trên núi Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối, trong đó nhân tính Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Vậy hai biến cố nầy đã bổ túc cho nhau để cho chúng ta thấy Chúa Giêsu toàn diện: là Thiên Chúa thật và là con người thật.
Và cũng giống như ông Môsê trên núi Sinai hôm xưa, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của giao ước: “Dung mạo Chúa Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Ngài trắng tinh như ánh sáng”. Thật ra, trong trường hợp của Môsê thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Chúa Giêsu thì lại là sự lan tỏa của chính hữu thể của Ngài, là sự chiếu giãi của vinh quang Ngài.
Chúng ta thấy cả ba Phúc Âm Nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, dây là hai con người đầy uy lực và là hiện thân cho cả Cựu ước. Môsê là biểu tượng của lề luật, Elia là đại diện cho hàng ngũ tiên tri. Người ta tin rằng: ông nầy sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất muốn ám chỉ rằng: giao ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô.
Thánh Matthêô còn nhắc đến đám mây sáng ngời bao phủ ba môn đệ, thì trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người qua sa mạc (Xh. 13, 21). Như vậy từ nay, Chúa Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Cũng từ đám mây ấy vang lên một tiếng phán, chúng ta thấy ở đây lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người “, nhưng còn thêm: “Hãy vâng nghe lời Người “, điều nầy nhắc cho chúng ta thấy 3 điểm:
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúa Cha hài lòng về Chúa Con và rất yêu mến Người.
Những ai tin Thiên Chúa thì phải nghe lời Chúa Giêsu.
Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,
Cuộc biến hình của Chúa hôm nay dạy chúng ta nhiều bài học:
Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa vì Người chỉ dành cho những ai Người muốn. Giống như ở Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ và dặn họ không được tiết lộ với ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường!
Thứ hai, chúng ta thấy con đường bình thường người môn đệ Chúa phải đi, đó là con đường luôn ngang qua bóng tối đức tin của đời thường, chứ không như Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi và ông đề nghị dựng ngay ba lều để định cư luôn ở đây.
Còn chúng ta, chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mà mọi sự xảy ra có vẻ như ý, nơi đâu mà đức tin cũng như đời sống đạo của mình xem ra an toàn và chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần, để rồi chúng ta nghĩ rằng, chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thật ra, Thiên Chúa không kém gần gũi chúng ta trong giờ phút khô khan của sa mạc, hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo xanh tươi.
Lạy Chúa Giêsu vinh quang, chúng con xin được hiệp cùng ba tông đồ quý yêu của Chúa, chiêm ngắm Chúa trong ánh sáng thiên đàng để được ghi dấu ấn thật sâu trong Thiên Chúa Cha; đó là “ hãy vâng nghe lời Chúa “ hầu có động lực thực hiện lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Cũng như ba vị đã chìm sâu trong cơn khổ sầu nơi vườn Cây Dầu sau đó, thì cuộc đời của chúng con và nhiều anh em chung quanh chúng con hầu như luôn ngụp lặn trong biển hồ rầu rĩ và oán ghét nhau.
Chúng con ước mơ ánh sáng sẽ đánh tan bóng tối, và mong chờ Lời Chúa được người người thực hiện để niềm vui lan tỏa và hạnh phúc tràn về. Chúng con tin ở Lời Chúa, chúng con nghe Lời Chúa, chúng con sẽ cố gắng thực hành Lời Chúa hầu xứng đáng là con cái Chúa. Xin Chúa chúc lành chúng con. Amen.
--------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY, năm A
St 12,1-4a 2 Tm 1,8b-10 Mt 17,1-9
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Taborê có ý nghĩa rất đặc biệt và gây ấn tượng cho nhiều người. Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ loài người, cứu rỗi mỗi người cái chết trên thập giá. Vâng lệnh Chúa Cha, Chúa Giêsu đã sống nơi trần thế rất ngắn ngủi. Cuộc đời của Ngài chỉ kéo dài có 33 năm. Cái mong manh, mỏng dòn của cuộc sống trần gian của Chúa Giêsu dạy cho mọi người bài học:” Cuộc đời trần thế mau qua. Không có gì vĩnh cửu nơi trần gian này “. Do đó, để củng cố đức tin của các môn đệ, để cho các môn đệ thấy vinh quang của Chúa Giêsu là Thầy của các Ngài trên núi thánh, sau này, chính các môn đệ cũng được hưởng vinh quang đó và để các môn đệ không sợ sệt trước những thử thách, đau khổ, Chúa Giêsu đã biến hình trên núi trước ba môn đệ thân tín nhất: Phêrô, Giacôbê và Gioan và được Chúa Cha long trọng, khen ngợi, tuyên bố:” Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người “ ( Mt 17, 2 ).
Các môn đệ khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Ngài phải chịu ở Giêrusalem, đã làm cho các Ngài lo âu, sợ sệt, chán nản. Phêrô đã cản ngăn Chúa. Các môn đệ khác cũng chẳng hứng thú gì, chẳng vui thích tí nào cả. Nên, hôm nay trên núi cao, Chúa Giêsu biến hình, diện mạo sáng láng lạ lùng trước mặt các môn đệ. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã kinh hồn bạt vía, ngã sấp mặt xuống đất.Đức Giêsu Kitô đã dịu dàng, trấn an ba ông:” Trỗi dậy đi, đừng sợ ! “. Biến hình là phần thưởng cao quí, tuyệt vời Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con, Đức Giêsu Kitô.Việc biến hình của Chúa Giêsu loan báo trước sự phục sinh khải hoàn của Ngài sau ba ngày chết, bị chôn trong mồ. Chúa Giêsu chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ, để các ngài chấp nhận đau khổ, ngay cả cái chết. Bởi vì chết mới nói lên lời, mới diễn tả tất cả sự thương yêu của Chúa. Có đau khổ mới tiến tới vinh quang. Thánh Maccô viết về Chúa Giêsu biến hình như sau:” Áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng hơn bất cứ thứ vải nào mà các thợ tẩy có thể tẩy được “. Thánh Matthêu miêu tả:” Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng “ ( Mt 17, 2) Chúa Giêsu đã minh chứng cho các môn đệ thấy vinh quang chói ngời của Ngài khi Ngài tuân hành thánh ý Chúa Cha một cách tuyệt đối. Ngài đã cho các môn đệ hiểu:” Vâng lời là làm đẹp lòng Chúa Cha “. Chính vì thế, trong vườn Cây Dầu, khi các môn đệ ngủ say, Chúa Giêsu đã phải đương đầu với thử thách khủng khiếp của cuộc đời, nhưng Ngài đã không theo ý của mình, mà nhất mực làm theo ý của Thiên Chúa Cha. Chúa hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài đã chấp nhận ý của Cha Ngài, gánh tội cho nhân loại , chịu đau khổ, chịu chết, sống lại để cứu rỗi loài người, cứu rỗi con người.
Các môn đệ đã hết đỗi sợ sệt khi nhìn thấy dung mạo của Chúa Giêsu biến hình. Lời trấn an của Chúa đã đem lại bình an cho các môn đệ. Do đó, Phêrô đã cao hứng xin dựng ba cái lều, một cho Chúa Giêsu, một cho Môsê và một cho Êlia. Phêrô nói nhưng thực sự không biết Ông đã nói gì vì lúc đó Ông vừa hạnh phúc, lại vừa sợ sệt. Chúa Giêsu cho ba môn đệ được hưởng nếm một chút vinh quang, nhưng nó vụt đi quá mau.
Người môn đệ của Chúa luôn được mời gọi vác thập giá mà đi theo Ngài. Thập giá đó là sự chấp nhận thánh ý của Chúa, là hoàn thành trách nhiệm, bổn phận theo ý của Thiên Chúa. Vác thập giá là biết chia sẻ, cảm thông với những kẻ nghèo hèn, khốn khổ, với những kẻ đầu đường xó chợ vv…Chúa đã đồng hóa với những kẻ bần cùng, cực khổ, những kẻ đói, kẻ rách rưới, tù đầy vv…Cho nên, mỗi lần chúng ta thăm viếng kẻ tù đầy, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống là chúng ta làm cho chính Chúa.
Đứng trước một thế giới có nhiều biến đổi, cái tốt đan xen với cái xấu, sự dữ len lỏi vào sự lành, lời của Chúa Giêsu năm xưa trên núi:” Trỗi dậy đi, đừng sợ “, giúp chấn chỉnh và đem lại sự tự tin, sự bình an cho chúng ta. Nên, chúng ta không được phép sợ vì Chúa luôn ở bên chúng ta, nâng đỡ và ban thêm sức mạnh cho chúng ta.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp mùa chay năm 2017 đã viết:” Mùa chay là mùa thuận lợi để canh tân cuộc gặp gỡ với Chúa, để sống theo lời Ngài, sống với các phép bí tích và sống với tha nhân. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trên hành trình hoán cải thực sự, để chúng ta có thể tái khám phá quà tặng của Lời Chúa, để thanh tẩy tội lỗi đã làm cho chúng ta đui mù và phục vụ Chúa hiện diện trong những anh chị em nghèo khổ “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin cậy vào sự nâng đỡ của Chúa và can đảm vượt thắng sự sợ hãi để luôn thực thi ý Chúa trong cuộc sống chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu biến hình ở đâu, với ba môn đệ nào ?
2.Chúa Giêsu biến hình để làm gì ? Thái độ của ba môn đệ ?
--------------------------
Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay - năm A
(Mt 17, 1-9)
Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa Giêsu, dẫn đến Lễ Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên sự chết. Phụng vụ Chúa II Mùa Chay năm A trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Biến hình. Ðây là giai đoạn thứ hai trong Mùa Chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa (x.Mt 4, 1-11); giai đoạn thứ II là cuộc Biến hình (x.Mt 17, 1-9). Chúa Giêsu "đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông" (Mt 17,1). Mặc dù trong phụng vụ có một ngày lễ dành riêng cho sự kiện này (ngày 06 tháng tám), hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng cảnh tương tự như một phần không thể thiếu trong Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Quả thật, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đã gần kề, sáu ngày sau khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu tuyên bố: "Người phải đi lên Giêrusalem và chịu khổ nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mt 16,21).
Nhưng các môn đệ chưa sẵn sàng chứng kiến Chúa của họ, Đấng, luôn thể hiện lòng từ bi đối với người ốm đau bệnh tật, làm cho người phung hủi được lành, kẻ điếc nghe được, người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết sống lại, nay "sẽ phải chịu khổ nhiều đau khổ". Thật, không thể! Không thể hiểu nổi!
Tuy nhiên, bất chấp sự hiểu lầm của họ, Chúa Giêsu biết lý do tại sao Người đi vào thế giới. Người biết mình phải mang lấy tất cả sự yếu đuối và lầm than của nhân loại để thánh hóa họ, cứu họ ra khỏi vòng vây của tội lỗi và sự chết. Người cứu họ bằng cách nào ? Thưa, bằng cách chiến thắng sự chết, để sự chết không còn làm gì được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.
Đó là lý do tại sao Biến hình là một biểu tượng của ơn cứu rỗi thể hiện nơi thân xác vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, khi loan báo cho các môn đệ Cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa thấy rõ sự lo lắng trong các tông đồ, và vẻ rực rỡ về thần tính của Chúa. Chúa khẳng định với họ niềm hy vọng và loan báo cho họ niềm vui Phục Sinh, thậm trí, cả lúc Phêrô, Gioan và Giacôbê không biết rõ … phục sinh từ trong cõi chết nghĩa là gì ! (x. Mt 17,9). Họ cần phải có thời gian.
Nếu trong Sứ điệp Mùa Chay 2017 năm nay với chủ đề: “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31), Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa trong tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khổ, vì tha nhân là hồng ân. Thì hôm nay, có tiếng Chúa Cha tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi chúng ta: "Các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17,5).
Đúng thật là một hồng ân, bởi có biết bao nhiêu lời chúng ta đã nghe, nhưng hiếm khi nghe được tiếng Chúa Cha. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và qua Giáo hội Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay nữa: "Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha". Chúa Giêsu là Hồng Ân vô giá do Chúa Cha tặng ban cho chúng ta. Nay Ngài mời gọi chúng ta tuân giữ Lời Người. Lời Chúa Giêsu ban lại sự sống đời đời há chẳng phải là một hồng ân sao ?
Trong tuần này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và cất giữ trong trí. Vì lời ấy không phải là lời của loài người, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả chúng ta! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nhưng phải bước theo Người. Cũng như các môn đệ, sau khi nghe được lời Chúa Cha ban tặng, các ông không thể cứ ở mãi trên núi, nhưng phải theo Chúa Giêsu xuống núi dõi theo hành trình Thương Khó của Chúa và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.
Chúng ta cũng thế, trong Mùa Chay Thánh việc cần phải làm là: ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và lắng nghe tiếng Chúa là hồng ân. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cần phải xuống núi gặp gỡ tha nhân. Họ là anh chị em chúng ta đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng, để chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được vì họ cũng là hồng ân. Ðây là sứ mạng của chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, lắng nghe lời Chúa Giêsu và trao tặng Chúa cho người khác.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con biết nghe Lời Chúa, chuyên cần tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm và sống tình bác ái với tha nhân. Amen.
--------------------------