(Chuyện Đời Đạo - Bài 134)
------------------------------------------------- ĐÀN CHIM TRỐN TUYẾT ĐÊM GIÁNG SINH
Có một người đàn ông rất tử tế, rất lịch sự, nói chung là một người tốt. Ông rộng lượng với gia đình, đúng đắn trong tiếp nhân xử thế.
Có điều, ông không tin gì hết về chuyện Thiên Chúa xuống thế gian làm người, như các nhà thờ vẫn rao giảng mỗi dịp Giáng Sinh. Chuyện ấy theo ông chả có nghĩa lý gì. Mà bởi lẽ ông là người quá trung thực nên ông không muốn giả vờ tin tưởng.
Ông bảo vợ:
- Anh thật sự xin lỗi em, anh sẽ không cùng em đi lễ nhà thờ đêm Giáng Sinh được. Bởi anh không muốn giả làm người đạo đức, khi đến nhà thờ, mà tâm trí anh vẫn chưa hề xác tín. Cho nên anh chỉ muốn ở nhà thôi. Phần em, em cứ đi nhà thờ. Anh sẽ thức khuya đợi em và con tan lễ về, rồi chúng ta ăn "Réveillon" (Rê-vây-dong) mới đi ngủ.
Thế là ông ở nhà, còn vợ con thì cứ đi dự thánh lễ nửa đêm.
Vợ con ông lái xe ra khỏi nhà chẳng mấy chốc thì tuyết bắt đầu rơi. Ông ra đứng ở cửa sổ dõi mắt nhìn cơn mưa tuyết.
Bất ngờ, bão tuyết mỗi lúc một trở nên dữ dằn hơn. Rồi ông trở lại chiếc ghế, kê bên cạnh lò sưởi để đọc báo.
Mấy phút sau ông bị giật mình, vì có cái gì đó rớt nghe cái phịch. Lại thêm tiếng nữa, và tiếng nữa....
Thoạt đầu ông ngỡ là có ai đó nghịch ngợm, vò tuyết thành cục ném vào cửa sổ phòng khách nhà ông.
Nhưng khi bước ra cửa để xem xét, thì ông thấy một đàn chim khốn khổ túm tụm vào nhau trước nhà ông, giữa trời tuyết lạnh. Chúng gặp bão tuyết, nên cố tìm chỗ trú ẩn, bằng cách bay qua ô cửa kính to tướng lắp ở phòng khách nhà ông. Ông không thể để cho các sinh vật đáng thương này nằm ngoài trời chết cóng.
Ông nhớ đến cái chuồng ông quen dùng để nhốt chú ngựa con. Ông nghĩ: Chuồng ngựa đó sẽ là chỗ trú ẩn ấm áp, nếu ông có thể lùa hết đàn chim vào trong đó.
Ông đã nhanh nhẹn khoác áo choàng, mang ủng lội tuyết, rồi giẫm lên lớp tuyết dày, đi ra chuồng ngựa. Ông mở toang cửa, thắp đèn lên, nhưng lũ chim không chịu vào.
Ông lại nghĩ: Có lẽ thức ăn sẽ dụ được chúng chăng ?
Thế là ông vội vàng trở vào nhà, tìm bánh mì, xé vụn ra, rồi rắc lên mặt tuyết trắng. Ông rải thành con đường từ chỗ đàn chim suốt tới cửa chuồng ngựa đang mở toang và sáng trưng đèn. Nhưng lũ chim chẳng hề ngó ngàng tới bánh mì, mà chúng cứ tiếp tục vỗ cánh tuyệt vọng trong tuyết.
Ông cố lùa chúng vào chuồng ngựa, bằng cách đi vòng chung quanh đàn, xua tay qua lại, mồm thì xuỵt xuỵt liên tục. Lũ chim chỉ tản mác ra, chứ chẳng chịu ùa vào cái chuồng ngựa đang sáng đèn, và rất ấm áp.
Ông liền hiểu ngay: Lũ chim đang sợ ông. Bởi ông là kẻ xa lạ, nên chúng sợ.
Ông thầm nghĩ: Ước gì ta có thể nghĩ ra cách chi đó để giúp chúng hiểu rằng, chúng có thể tin cậy ông, rằng ông không có ý làm hại chúng, rằng ông chỉ cố gắng cứu giúp chúng thôi.
Nhưng cách chi đây?
Ông nhủ thầm:
“Ước gì ta có thể biến thành chim, để có thể nhập bọn với chúng, nói được ngôn ngữ của chúng, để chúng có thể nghe được tiếng ta, để chúng có thể hiểu được ta, để chúng không còn sợ ta. Thế là ta có thể dẫn dắt cả đàn đi vào chuồng ngựa an toàn, ấm áp”.
-------------------------
Khi ông vừa nghĩ tới đó thì chuông nhà thờ đổ rền. Tiếng chuông vang vọng thấu tai ông, át luôn cả tiếng gió rít. Ông đứng đó lắng nghe những hồi chuông ngân vang, và tự nhiên miệng ông lại khe khẽ hát những bài thánh ca quen thuộc.
Rồi bỗng một lúc nào đó, ông đã khuỵu gối xuống như một phản xạ không hề hay biết...
Ông đã chắp tay cầu nguyện trên nền tuyết lạnh:
“Lạy Chúa, bây giờ thì con đã hiểu rồi. Con đã hiểu, vì sao Thiên Chúa phải xuống thế làm người.
Con cám ơn Chúa, vì nhờ đàn chim Chúa gởi đến, mà con đã hiểu được, tại sao Chúa lại xuống thế làm người. Một giáo lý sơ đẳng, thế mà từ bấy lâu nay, con vẫn cứ thắc mắc.
Xin Chúa tiếp tục mở mắt con, mở trí não con, mở trái tim, để con biết đón nhận, để con hiểu biết những gì biết Chúa muốn nói với con. Amen