Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. - Ðó là lời Chúa.
Chúa Luôn Nhân Hậu Và Thương Xót, Con Mãi Kính Tin Với Mến Yêu. Nói với Maria Faustina Kowalska PS 2-ABC451
Chúa Luôn Nhân Hậu Và Thương Xót Con Mãi Kính Tin Với Mến Yêu.
Nói với Maria Faustina Kowalska (1905-1938, Dòng Đức Mẹ Thương Xót – O.L.M., Our Lady of Mercy), Chúa Giêsu xác định: “Trước khi Ta đến như một Thẩm Phán công bình, Ta sẽ mở rộng Cửa của Lòng Thương Xót. Ai từ chối bước qua Cửa của Lòng Thương Xót thì phải bước qua Cửa của Sự Công Bình.” (Nhật Ký, số 1146)
Và Chúa Giêsu muốn Chúa Nhật II Phục Sinh được dành để biệt kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Ngài yêu thương tội nhân chúng ta đến cùng, Ngài muốn mọi người tín thác vào Ngài qua lời nguyện ngắn gọn Ngài đã dạy: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.”
Trong Nhật Ký (số 699), Thánh Faustina đề cập 10 điều về Đại Lễ LCTX:
1. Vào ngày đó, mọi chiều sâu thẳm nhất về Lòng Nhân Từ của Ta sẽ được rộng mở ra.
2. Ta sẽ tuôn đổ ra cả một đại dương về ơn huệ trên tất cả những linh hồn nào tiếp cận với Nguồn Suối Nhân Từ của Ta qua Bí Tích Hòa Giải và Rước Mình Thánh Chúa.
3. Linh hồn nào đi xưng tội trước đó và lãnh nhận Thánh Thể vào ngày lễ này sẽ lãnh nhận được sự tha thứ trọn vẹn của Ta, thoát khỏi mọi án phạt về tất cả các tội đã phạm.
4. Vào ngày lễ này, tất cả mọi cánh cửa về ơn huệ của Thiên Chúa sẽ được mở rộng ra cho tất cả mọi người.
5. Đừng để một tâm hồn nào phải sợ hãi khi đến gần Ta, thậm chí ngay cả khi người đó đầy các tội lỗi tày trời.
6. Lòng Nhân Từ của Ta cao vời đến nỗi không một tâm trí nào của loài người hoặc thiên thần có thể hiểu và đo lường được mãi cho đến muôn đời.
7. Trong mối quan hệ với Ta, mỗi tâm hồn sẽ suy niệm về tình yêu thương và lòng nhân từ của Ta mãi cho đến muôn đời.
8. Ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót được nổi bật lên từ chiều sâu thẳm Lòng Nhân Từ của Ta.
9. Mong ước của Ta là ngày lễ này được trọng thể cử hành vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh.
10. Nhân loại sẽ không có được hòa bình mãi cho đến khi nào biết quay về Nguồn Suối Nhân Từ của Ta.
Mười điều đó cho thấy LCTX vô hạn, thực sự Ngài rất muốn cứu chúng ta nếu chúng ta thành tâm sám hối. Có nhiều dụ ngôn nói về Lòng Chúa Thương Xót, nhưng nhân vật “nổi bật” được nhắc tới là Tông đồ Tôma – người có “biệt danh” là Tông Đồ Cứng Lòng Tin. Chỉ là “chuyện nhỏ,” vì chính Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện lòng thương xót trên đồi Canvê, và người được hưởng LCTX ngay chiều hôm đó là “đại ca” Dismas.
Điều kỳ diệu xảy ra ngay lập tức nếu chúng ta thật lòng tin vào LCTX. Đức tin rất quan trọng và rất cần thiết, vì NHỜ TIN MÀ SỐNG, như Chúa Giêsu đã xác định với cô Mácta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11:25-26) Chính Chúa Giêsu đã sống lại trước sự kinh ngạc của mọi loài, nhờ sự phục sinh của Ngài mà mọi loài nên mới, tưng bừng rộn rã vì là “ngày Chúa đã làm ra.” (Tv 118:24)
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã và đang được hưởng LCTX mặc dù đức tin của chúng ta còn non yếu. Vì thế, chúng ta phải thực hiện lời khuyên của Thánh Vịnh gia: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.” (Tv 118:1) Đức từ bi đó cũng chính là LCTX.
Kinh Thánh cho biết rằng sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, “cộng đoàn tín hữu đầu tiên đông đảo lắm, nhưng họ chỉ có một lòng một ý, không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, mọi sự đều là của chung.” (Cv 4:32) Họ sống theo di ngôn của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34; Ga 15:12) Đó cũng là sống và thực thi lòng thương xót theo ý Ngài. Chúng ta đã và đang được Thiên Chúa thương xót thì chúng ta cũng phải biết thương xót nhau. Đó là hệ lụy tất yếu, và là công bằng vậy.
Kinh Thánh cho biết: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” (Cv 4:33-35) Sống vì Chúa và vì tha nhân thì sẽ an tâm, đó là hạnh phúc và tự do đích thực.
Dù là ai, từ dân Israel tới nhà Aharon, từ người kính sợ Chúa tới tội nhân, cũng đều hân hoan xưng tụng như Thánh Vịnh gia: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-4) Lời xưng tụng đó cũng là cách tôn vinh LCTX. Chúng ta phải không ngừng xưng tụng vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực,” nhờ vậy mà “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm,” và dù “Chúa sửa phạt, nhưng không nỡ bắt phải chết.” (Tv 118:16-18) Quả thật, LCTX bao la khôn ví, quá kỳ diệu. Phàm nhân không thể nào hiểu nổi.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49:15) LCTX vô hạn, chúng ta không thể không cảm tạ. Thật vậy, bức tượng không thể hiểu người tạc tượng, thụ tạo không thể hiểu Tạo Hóa. Chắc chắn như vậy. Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118:22-23)
Người ta nhờ TIN mà được SỐNG. Ngược lại, KHÔNG TIN thì KHÔNG ĐƯỢC SỐNG – tức là CHẾT. Tin là khôn ngoan, không ai dại gì mà không TIN để ĐƯỢC SỐNG đời đời. Thánh Gioan lý luận: “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.” (1 Ga 5:1-2) Yêu thương liên quan niềm tin, và ngược lại. Hai vấn đề không thể tách rời. Rất cụ thể!
Rõ ràng YÊU và TIN là hai “đầu mối” của một sợi dây, không thể có đầu này mà không có đầu kia. Thánh Gioan giải thích: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1 Ga 5:3-4) Luật rất “nhẹ” (có nặng nề gì đâu), nghe đơn giản mà không dễ thực thi cho đúng.
Nói về “nguồn mạch đức tin,” Thánh Gioan cho biết: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người TIN rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ NƯỚC và MÁU; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” (1 Ga 5:5-6) Có tin thì mới thể hiện tình yêu thương và làm chứng về LCTX – theo hoàn cảnh sống của mình.
Nổi bật vấn đề liên quan đức tin là trình thuật Ga 20:19-31, kể về việc “độ cứng” trong đức tin của Tông Đồ Tôma Điđymô. Thánh Gioan cho biết: Tám ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.”
Không biết ông Tôma bữa đó bận gì mà vắng mặt, không hiện diện với các tông đồ. Nghe các bạn nói Thầy sống lại và đã hiện ra với họ. Ông nhất định không tin và nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin.” Các ông kia chẳng biết làm gì hơn. Tuần sau, các ông lại họp mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín như bưng, con muỗi chui qua còn chưa lọt. Thế mà bỗng Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Nói rồi Ngài nói với ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Chắc là ông Tôma xấu hổ lắm, thế nên ông chỉ còn biết cúi đầu mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Thật lòng mà nói, cũng nhờ ông Tôma cứng lòng tin mà chúng ta có thêm một mối phúc: “Không thấy mà tin.” Nhờ lòng tin của ông cứng như sáp nguội mà hậu sinh chúng ta được hưởng thêm một mối phúc rất đặc biệt như vậy.
Thánh Gioan cho biết thêm: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC SỰ SỐNG nhờ danh Người.” (Ga 20:30-31) Quả thật, Chúa Giêsu yêu thương tới cùng, (Ga 13:1) nên Ngài luôn tìm mọi cách để chúng ta được cứu độ. Trong Nhật Ký (số 796), Thánh Faustina cho biết rằng Chúa Giêsu bảo thánh nữ lần Chuỗi Lòng Thương Xót trong chín ngày trước Đại lễ LCTX, bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh. Chúa Giêsu cho biết lợi ích: “Nhờ tuần cửu nhật này, Ta sẽ ban mọi ân sủng cho các linh hồn.”
Là tín nhân, ai cũng biết rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng, ai cũng cần phải sám hối khi còn kịp trong Giờ Thương Xót, thời gian mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài, vì không ai biết thời gian còn bao lâu, dù còn trẻ hay đã già. Vì thế, hãy luôn tự nhủ: “Tôi ơi, đừng cứng lòng nữa!”
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin hoán cải chúng con theo Thánh Ý Ngài, xin làm mềm trái tim xơ cứng của chúng con, xin ban ơn giúp sức chúng con sống trọn vẹn đức tin và yêu thương đến cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Có một nhà sư tình cờ nhặt được một viên ngọc quý. Vì nghĩ mình là người tu hành, chẳng cần PS 2-ABC452
Có một nhà sư tình cờ nhặt được một viên ngọc quý. Vì nghĩ mình là người tu hành, chẳng cần chi thứ đó, nên ông đem chôn viên ngọc vào một gốc cây. Một hôm, có người hành khất đến xin bố thí ở chùa. Nhà sư bỗng nhớ lại viên ngọc, liền chỉ chỗ cất giấu cho anh. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Anh ta rất đỗi vui mừng vì biết từ nay sẽ giàu có. Nhưng sau giây phút mừng vui, anh chợt nghĩ: “Tại sao nhà sư kia lại chấp nhận sống nghèo khổ trong lúc có một viên ngọc quý giá như thế này?” Sau một thời gian, người hành khất trở lại gặp nhà sư, trả viên ngọc và nói: “Bạch Thầy, con biết trong lòng Thầy có một kho tàng lớn lao khiến Thầy chẳng thiết đến vàng ngọc. Vậy con xin Thầy cho con kho tàng trong lòng Thầy mà thôi”.
Đức Ki-tô, qua bài Tin Mừng hôm nay, cũng muốn ban tặng cho ta một viên ngọc vô cùng quý giá, đó là niềm tin vào cuộc phục sinh của Người và niềm hy vọng vào cuộc phục sinh của chúng ta.
Từ Chúa Nhật Đầu Tiên
Phần đầu của bài Tin Mừng Chúa nhật này – năm nào ta cũng đọc lại – đưa ta đến thời điểm “sau cái chết của Đức Giê-su”, vào buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần”, ngày quy tụ phụng vụ của các Ki-tô hữu, thời gian thuận tiện để Chúa hiện diện giữa cộng đoàn được Người quy tụ để chia sẻ Lời cùng Bánh, và để sai họ đi vào thế gian. Trong trình thuật, ta gặp lại 3 giai đoạn đặc biệt của tiến trình Phục sinh: –Đấng Phục Sinh có sáng kiến đến thăm. – Môn đồ nhận ra Đức Giê-su thắng vượt sự chết. – Đấng Phục sinh trao ban sứ mệnh. Đột ngột hiện ra giữa các môn đệ, Người cũng chỉ có 3 lời vắn vỏi: bình an, Thánh Thần, tha tội.
– Trước hết, tác giả trình bày cho thấy các môn đệ hội họp ở một nơi mà “các cửa đều đóng kín vì sợ người Do-thái”, tức giới chức tôn giáo Giê-ru-sa-lem. Có lẽ qua xác định này, Gio-an muốn nói tới cảnh bách hại mà những ai nghe Tin Mừng thời ông phải chịu: bị loại ra khỏi Hội đường vì nhận Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Dần dà, họ tìm những địa điểm hội họp riêng, tránh mắt những kẻ bắt bớ.
Trong lúc các môn đệ họp nhau, “Đức Giê-su đến đứng giữa họ”. Lời đầu tiên của Người là ban an bình: “Bình an cho anh em” (Shalom). Đây không chỉ là kiểu nói xã giao thông thường của người Do-thái (“chúc anh em được bình an”); cùng với việc tái sinh đức tin, cuộc Phục sinh của Đức Giê-su thật sự đem lại hiệu quả là hân hoan và an bình, hai món quà của thời Mê-si-a mà Người đã hứa cho họ.
– Đức Giê-su tiếp đó cho họ “xem tay và cạnh sườn Người”. Các dấu vết đóng đinh này cho thấy: dẫu tỏ mình với những điều kiện kỳ lạ, Đức Giê-su vẫn không muốn môn đệ lầm tưởng Người với một bóng ma, nghĩa là một kẻ khác với nhân vật đã chịu khổ nạn. Chắc chắn sự hiện diện thể lý bình thường của Đức Giê-su chẳng còn nữa, nhưng Đấng ngự giữa các môn đệ vẫn là Người, vẫn là Đấng họ từng hiểu biết mến yêu, nhưng từ nay đã “thay đổi hình dạng”, đã từ cõi chết tiến vào cõi sống, chẳng còn lệ thuộc không gian và thời gian lẫn các định luật sinh, lý, hóa học. Sợ hãi tan biến, các môn đệ tràn đầy vui mừng, niềm vui được cưu mang trong nước mắt, thử thách, gian khổ và nay thành toàn trong mầu nhiệm sống lại.
– Cuối cùng, Đấng phục sinh hiện ra không phải chỉ để hiện ra, chẳng nhằm mục đích đưa môn đệ trở lại quá khứ nhung nhớ, song để biến họ nên “sứ đồ”, trao ban cho họ một “sứ mệnh”: đem đến cho mọi người Tin Mừng về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Để tấn phong, Người thổi hơi sức Thánh Thần của mình cho họ. Ơn Thánh Thần này cho phép họ tha thứ tội lỗi: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Lời này không đưa ra một so sánh, nhưng nói lên một nền tảng, một cội rễ. Các môn đệ được sai đi để nối dài hoạt động của Đức Giê-su... Như Thiên Chúa đã thổi thần khí của Người vào A-đam (x. St 2,7), như Thánh Thần xuống trên Đức Giê-su (x. Ga 1,33-34), Đức Giê-su cũng thổi hơi sức của Thánh Thần trên các Tông đồ... Như Thiên Chúa, rồi như Đức Giê-su sứ giả Thiên Chúa, các môn đệ cũng loan báo ơn cứu độ, cứu khỏi tội lỗi và cứu khỏi thần chết, nhờ sức mạnh cuộc khổ nạn-phục sinh của Thầy mình. Mỉa mai thay, chứng từ đầu tiên của các ông lại bị chính anh bạn đồng môn Tô-ma từ chối.
Tới Chúa Nhật Kế Tiếp
Sự vắng mặt của ông này ngày thứ nhất trong tuần cho phép tác giả đưa ra màn kế tiếp, “tám ngày sau”. Ông đã đi đâu biệt tăm trong những ngày sôi nổi nhất, rồi xuất hiện giờ chót để lại đặt vấn đề từ đầu khiến ai nấy đều phiền nhiễu. Là kiểu người tiêu biểu sự cứng lòng, đại diện cho một thứ chủ nghĩa thực chứng (duy nghiệm, positivisme), Tô-ma từ chối chuyện Thầy sống lại: ông đòi “thấy” và “sờ” đã rồi mới tin. Tin Mừng Mát-thêu cũng đã không giấu diếm chuyện có vài môn đệ tỏ ý nghi ngờ sự kiện đó. Lu-ca thì nhắc đến thái độ “ngỡ ngàng và ngờ vực” của mọi môn đệ (x. 24,41). Kể cũng oan cho Tô-ma phải bị mang tiếng là kẻ duy nhất “cứng tin”. Ông không hề giữ độc quyền cứng tin mà chỉ không may là kẻ cứng tin cuối cùng giữa các Tông đồ.
Thế là Đức Giê-su lại đến. Rồi như muốn chiếu cố đặc biệt đồng thời kê nhẹ Tô-ma (trong khi quở mắng các Tông đồ kia chỗ khác, x. Mc 16,9-14), Người bảo ông: “Hãy nhìn xem, hãy đặt ngón tay vào bàn tay Thầy, vào cạnh sườn Thầy”. Vị Tông đồ cứng lòng tin có làm như thế không? Hẳn là không, vì sau khi đã chỉ cho ông thấy như ông đòi hỏi, Đức Giê-su còn mở mắt lòng tin cho ông: “Hãy tin, đừng cứng lòng”, nên ông chẳng còn cần và còn muốn làm việc ấy nữa. Và đây, kẻ tìm lại niềm tin đã tặng Đức Giê-su danh hiệu lớn lao nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Một đỉnh cao mà các định nghĩa tín lý sau này không vượt qua nổi. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở khởi đầu (Ga 1,1) và câu tuyên xưng Đức Giê-su là “Chúa và là Thiên Chúa”, chẳng còn gì để nói thêm. Cốt lõi của lòng tin Ki-tô giáo là thế, là tin Thiên Chúa đã làm người trong nhân vật Giê-su. Điều này thách đố quan niệm của dân Rô-ma đương thời, coi một mình hoàng đế là Thần linh tối thượng.
Tô-ma cứng tin không phải là chuyện mới mẻ và đáng chú ý. Nhưng chính vì Tô-ma chỉ là anh cầm đèn đỏ trong vụ chậm tin và cứng tin, nên chuyện của ông mới thành tuyệt vời. Bất kỳ kẻ cứng tin nào, cho dẫu là ở giờ thứ 25, cho dẫu là kẻ cuối cùng thì vẫn là độc nhất vô nhị đối với Đấng Phục sinh và cũng được Người chiếu cố. Chẳng có vấn đề đa số thắng thiểu số ở đây. Chúa không vì 99% đã tin mà bắt 1% còn lại phải... tự động tin theo. Cũng không phải vì 99% đã tin mà coi như không đáng kể, “coi như pha”, “cho qua luôn” 1% hay một anh Tô-ma nào đó còn sót lại. Đức Ki-tô có thể trách chúng ta chậm tin, cứng tin, thậm chí “lòng chai dạ đá”, nhưng Người vẫn quý trọng đòi hỏi thâm sâu của mỗi chúng ta là được đích thân gặp gỡ Người, cách này hay cách khác, chứ không phải chỉ qua trung gian, đại diện. Người đã chẳng từng chiếu cố một Phao-lô, một Augustinô, một Phanxicô, một Pascal, một Anphongsô, một Claudel, một Charles de Foucauld, một Edith Stein đó sao?
Cho Tới Chúa Nhật Hôm Nay
Quang cảnh kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho những ai sống trong thời đại vắng bóng sự hiện diện thể lý của Đức Giê-su, tức chúng ta: “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”. Mối phúc cuối cùng của Tin Mừng, mối phúc của những kẻ tin. Dĩ nhiên lời này chẳng có ý nói Tô-ma và các Tông đồ kém phúc thua chúng ta hiện tại, mà chỉ muốn bảo: có “một thời để thấy và một thời để tin”, có thế hệ những người chứng kiến trực tiếp và có thế hệ đông đảo những kẻ tin vào chứng nhân là các Tông đồ và những người kế vị. Lời đó cũng chẳng phải là để khuyến khích sự... nhắm mắt tin đại, nhưng là để nhấn mạnh về ơn mở mắt lòng tin. Vì xét cho cùng, mọi kẻ tin, thấy hay không thấy, sáng mắt hay không sáng mắt mà tin, thì đều đã được sáng lòng, được phúc sáng lòng. Đó thật là một viên ngọc!
Đấy cũng là câu kết luận của cả cuốn Tin Mừng và nhắc lại một chủ đề lớn trong Do-thái giáo: giữa “điều thấy” và “điều tin”, giữa “cảnh tượng” và việc “thấu hiểu cảnh tượng”, từ thứ hai mới làm nên tính cách bình thường và lý tưởng của tín hữu. Ngay cả những kẻ đã thấy cũng phải vượt quá điều họ thấy. Ngôi Lời, tự phút giây trở thành “nhục thể”, đã chỉ cho các môn đệ thấy “nhục thể”, nghĩa là nhân tính nơi lẽ ra phải “thấy Thiên Chúa trong vinh quang của Người”. Nên chúng ta, những kẻ tiếp nhận Tin Mừng, có phúc ở chỗ gắn bó với Đức Ki-tô và trở thành tín hữu không qua những vật chứng (Biệt phái và Kinh sư chẳng thấy nhiều vật chứng sao?) nhưng qua những lý chứng và nhất là nhân chứng, rồi qua việc gặp gỡ Đức Ki-tô một cách nào đó của riêng mình. Thế nhưng, ngày nay vẫn còn những người thích tìm những dấu lạ (vật chứng), như việc Chúa và Mẹ hiện ra đây đó, mà không chú ý đến điều chính yếu là Lời Chúa trong sách Tin Mừng và trong cuộc sống qua các dấu chỉ. mục lục
------- Kính mời tham khảo thêm bài viết : “Biết nhờ tin nhân chứng”: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/biet-nho-tin-nhan-chung-42273
Trong quyển Nhật Ký Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, thánh nữ Faustina viết rằng, muốn nhận PS 2-ABC453
Trong quyển Nhật Ký Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, thánh nữ Faustina viết rằng, muốn nhận được LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, thì bạn và tôi cần phải làm ít nhất ba việc sau đây:
• Một là THỈNH CẦU lòng thương xót. "Các linh hồn nào kêu gọi đến Lòng Thương Xót của Ta- đều làm cho Ta vui thích. Ta sẽ ban cho các linh hồn đó còn nhiều hơn cả điều họ xin (1146).
• Hai là TÍN THÁC vào lòng thương xót. "Khi một linh hồn tiến đến gần Ta với lòng tín thác, Ta đổ tràn đầy ân sủng trên họ đến mức độ họ không tài nào chỉ giữ riêng cho mình, mà phải toả ra cho các linh hồn khác (1074).
• Ba là THỰC HÀNH lòng thương xót. "Con có bổn phận thực hành lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình" (742).
Trong ba việc THỈNH CẦU–TÍN THÁC & THỰC HÀNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA, bạn nghĩ thử xem cái nào là cái khó nhất? Theo tôi, THỰC HÀNH lòng thương xót của Chúa là việc khó nhất? Bạn biết tại sao vậy không? Xin thưa là bởi vì trong mỗi người chúng ta, cái tôi, cái ích kỷ và cái tự ái…bao giờ cũng lớn, bao giờ cũng cồng kềnh, và luôn có khuynh hướng lấn át cái lòng thương xót của chúng mình. Tôi xin đơn cử ra đây một vài ví dụ cụ thể, để chứng minh rằng thực hành lòng thương xót là một việc rất nan giải chứ không hề dễ chút nào cả!
• Vừa đi làm về, đang mệt mỏi, bước vào nhà thì nghe mẹ của bạn nói bà muốn đi tham dự thánh lễ, đi sinh hoạt với hội cao niên, đi thăm người này, đi viếng người kia…Lúc đó bạn có vui vẻ lắng nghe, có sẵn sàng đưa bà cụ đi không? Hay là bạn càu nhàu, nhăn nhó, hay t phiền ệ hơn nữa, nói những lời làm bà cụ buồn
• Đang lúc đọc lời truyền phép: “Cùng một thể thức ấy sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, tạ ơn Chúa, dâng lời chúc tụng và trao cho các môn đệ và nói…” thì điện thoại của một người nào đó kêu ầm ĩ theo điệu nhạc: “Ò e Ro-be đánh đu, thằng tây nhảy dù, cow boy bắn súng…”Lúc đó bạn vẫn cầm lòng cầm trí, vẫn cử hành thánh lễ bình thường, hay là bạn nhăn nhó và nhìn về phía người giáo dân đó với cặp mắt mang hình “viên đạn”?
• Tình hình kinh tế xuống dốc, công việc thì ít, mắm muối, gạo thịt, xăng nhớt cứ lên giá vùn vụt…Vậy mà tháng nào nhà thờ cũng xin tiền lần thứ hai cho chỗ …. này chỗ nọ … Bạn có vui vẻ làm theo lời khuyên của ông Tô-bít: “Tùy con có bao nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít” (4:8). Hay là bạn lầm bầm: “Lại tiền, cứ đến nhà thờ là nghe xin tiền, mai mốt ông đi...chùa cho khoẻ!”
Còn nhiều lắm, mà tôi tin rằng ít nhiều gì thì bạn cũng đã cảm nghiệm được rằng thực hành lòng thương xót không phải là chuyện dễ dàng. Như vậy thì phải làm sao đây? Không lẽ thấy khó rồi chúng mình bỏ cuộc không thực hành lòng thương xót như Chúa Giêsu mong ước hay sao? No way! Bạn và tôi phải nỗ lực cố gắng, và kiếm cách để thực hành lòng thương xót, để rồi mình mới được Thiên Chúa xót thương.
Để có thể thực hành “lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình” (Nhật Ký # 742) bạn và tôi hãy nhớ “Khi tôi thực hành lòng thương xót với người khác, là khi đó tôi và bạn đang thương xót chính bản thân mình và đang làm LỢI cho chính mình nữa.” Lợi ở chỗ nào hả? Có đấy! • Lợi ở đời này. Bởi vì Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mc 4:24). Khi bạn và tôi lâm cảnh khốn khó và nghèo túng… lúc đó, tha nhân và chính Chúa sẽ tỏ lòng thương xót chúng mình y như chúng mình đã có lòng thương xót tha nhân vậy. Bây giờ mà mình không thực hành lòng thương xót đối với tha nhân, thì mai mốt này sẽ không có ai thương xót mình cả, đó là một sự thật rõ ràng như 2+2=4 vậy!
• Lợi ở đời sau. Khi còn sống ở đời này mà chúng mình biết thương xót người ta, thì khi ra trước tòa phán xét, bạn và tôi chắc chắn sẽ được Thiên Chúa xót thương, tha thứ và sẽ được Ngài ban thưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi vì Chúa Giê-su đã phán: “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Thực hành lòng thương xót đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với bà con láng giềng, với bạn bè, với các linh mục, với các tu sĩ, với các dòng tu, với những anh chị em mình chưa hề biết mặt, chưa hề gặp gỡ… thương xót họ bằng những hành động cụ thể là một cái PHÚC cho mình, cho gia đình, cho con cái cháu chắt của mình nữa, bạn có tin không?
Nếu bạn tin thương xót người khác là có PHÚC thì xin bạn đừng ngần ngại hay so đo tính toán nữa, JUST DO IT! Còn nếu bạn không tin đó là cái PHÚC, thì Chúa cũng xin chào … thua! Cầu chúc bạn một mùa Phục Sinh tràn đầy ơn Chúa, mạnh khỏe và bình an.
“Thiên Chúa giàu lòng thương xót là Đấng mà Đức Giêsu Kitô đã mạc khải cho chúng ta biết là Cha: Chính Người là Con Thiên Chúa đã tỏ lộ và cho chúng ta biết Cha nơi chính bản thân mình” (thông điệp Thiên Chúa giàu lòng thương xót, số 1).
Suy niệm từ Cựu sang Tân Ước, không có trang nào của Thánh Kinh không gợi lên, không nêu cao PS 2-ABC454
Suy niệm từ Cựu sang Tân Ước, không có trang nào của Thánh Kinh không gợi lên, không nêu cao tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Từ ngàn đời, Thiên Chúa đã thể hiện Thiên Chúa chính là Đấng giàu lòng thương xót. Thiên Chúa xót thương và chăm sóc nhân loại, nhưng không phải nhân loại chung chung, mà tình yêu thương xót ấy thể hiện cụ thể trên từng người một.
1. Thiên Chúa xót thương trong tạo dựng và cứu chuộc.
Chính vì tình yêu thương xót, Thiên Chúa đã tạo dựng con người cách độc đáo, đầy “trách nhiệm”, và là sự thông chia chính mình, thông chia chính sự sống, thông chia quyền bá chủ của mình.
Thiên Chúa tạo dựng họ không giống bất cứ cái gì, nhưng là mang chính hình ảnh của Người. Thánh Kinh diễn tả “tâm trạng” của Thiên Chúa thật cảm động: Người tạo dựng mọi vật xem ra quá dễ dàng, chỉ cần “Thiên Chúa phán…(mọi vật) liền có…” (St 1, 1tt).
Đến khi phải tạo dựng loài người, không phải “phán”, “liền có” nữa. Kinh Thánh cho thấy, Thiên Chúa như nghĩ ngợi lắm, cân nhắc lắm. Người như đặt vào công trình tạo dựng cuối cùng này tất cả trách nhiệm, tất cả chiều sâu suy tư, tất cả nỗi niềm của bản thân.
Thiên Chúa tự ngỏ với chính mình: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26).
Và kết quả vô cùng đẹp, vô cùng đáng quý: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ…” (St 1, 26-28).
Khi lòng dạ con người bội phản, vì xót thương, Thiên Chúa lại trao ban tình yêu cứu chuộc. Người đã không vì tội của loài người mà hủy diệt họ. Thay vì hủy diệt, Thiên Chúa cứu họ đời đời. Thiên Chúa không bao giờ thay lòng đổi dạ trong tình yêu thương xót của Người:
“Ta đã yêu thương ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31, 3). Hay:“Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi” (Is 54,l0).
Con Một của Thiên Chúa là chính ơn cứu chuộc, là bằng chứng về sự sống, để nhân loại tiếp tục được sống. Thánh Phaolô đã phải ngỡ ngàng trước tình yêu của Đấng Toàn năng dành cho loài thụ tạo phản trắc:
“Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 6-8).
Chúa Kitô còn khẳng định mạnh mẽ hơn, để đòi chúng ta tin Người, để nhờ tin, chúng ta được cứu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Đó là một tình yêu dâng cao ngút ngàn, lên đến đỉnh điểm khi quyết hiến trao Con Một cho trần thế. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã một lòng xót thương. Đến muôn đời Thiên Chúa vẫn thủy chung thương xót.
Ban Con Một là một quyết định không thể tả, không còn quyết định nào bằng.“Đến như Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8, 32a), thì Thiên Chúa còn tiếc gì với chúng ta. “Một khi Người đã ban Người Con đó, Lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32b).
Từ nay Thiên Chúa tự hiến chính mình nơi Người Con Một. Từ nay Thiên Chúa hiện diện gần gũi, cụ thể giữa loài người nơi Người Con Một. Từ nay Thiên Chúa đã thân hành xóa khoảng cách đến không còn khoảng cách: Bởi từ nay, nơi Người Con Một, Thiên Chúa, đã “cắm lều” ở giữa loài người.
Bởi vậy, khi công bố về tình yêu cao dâng đến vô bờ của Thiên Chúa, Chúa Kitô đã nói bằng những lời thắm thía: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…”. Cũng như khi chúng ta diễn tả: “Tôi vui đến nỗi tôi đã….”. Liên từ “đến nỗi” là liên từ diễn tả sự vỡ òa, diễn tả sức mạnh lan tràn, diễn tả nỗi niềm lớn hơn điều mà mình có thể nói ra, có thể bộc lộ. Nó diễn tả sự lớn lao hơn nhiều, mà giới hạn của ngôn từ đã không thể cho biết hết.
Thiên Chúa “yêu đến nỗi”, nghĩa là lòng yêu của Thiên Chúa đã ngút ngàn, không còn cách nào khác, không còn bất cứ một giới hạn nào. Tình yêu ấy, một tình yêu “đụng trần” đã trao dâng đến đỉnh điểm, đã là một lực mạnh trên mọi sức mạnh, vượt thắng mọi sức mạnh.
Thiên Chúa “yêu đến nỗi” là yêu đến tận cùng. Vì thế, để diễn tả sự cùng tận của tình yêu ấy, hành động hiến trao Con Một là hành động quá đỗi, không gì bằng, không còn gì khác hơn, không thể có gì thay thế.
Cảm nghiệm được tình yêu ngàn đời như một của Thiên Chúa, thánh Phêrô say sưa, sung sướng giảng về Chúa Kitô, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa như một đam mê không thể cưỡng, như một đòi buộc không thể bỏ qua:
“Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi” (Cv 2, 23-24).
Vô vàn những lần Thiên Chúa thể hiện Người là Đấng đầy lòng xót thương. Trọn cả dòng lịch sử cứu độ, là trọn cả dòng lịch sử khắc ghi đậm nét tình yêu thương hãi hà của Thiên Chúa.
Đó là một tình yêu ngàn đời không đủ lời chúc tụng. Đó là một tình yêu núi không thể đo, biển không thể lường. Đó là một tình yêu dù giàu sức tưởng tượng cũng không thể tưởng nghĩ. Đó là một tình yêu dũng mãnh, bền bỉ, trung thành, bao dung, đầy ắp, vời vợi, đằm thắm, trào tràn, cuồn cuộn, dịu ngọt, luôn luôn trao ban, luôn luôn đi bước trước, luôn luôn tín thành, luôn luôn hiến dâng…
2. Chúa Kitô xót thương loài người.
Thông điệp Thiên Chúa giàu lòng thương xót (TC gltx) nói về Chúa Kitô: “Khi trở thành tình thương nhập thể, tình thương được biểu lộ với một sức mạnh đặc biệt đối với những người đau khổ, những người bất hạnh và những người tội lỗi, Đức Kitô, Đấng hoàn tất làm cho Chúa Cha hiện diện và cũng mạc khải đầy đủ hơn Chúa Cha là Thiên Chúa ‘giàu lòng thương xót’” (số 3).
Bởi Thiên Chúa, từ ngàn xưa, đã không bao giờ rút lại tình yêu thương xót, vì thế, Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa làm người đã thể hiện mọi nơi, mọi thời tình yêu thương xót không mệt mỏi ấy.
Nhiều lần, Tin Mừng cho thấy Chúa Kitô tỏ lòng thương xót như thế. Người mời gọi kẻ nhọc nhằn hãy đến để được Người sớt chia ưu tư, thống khổ của họ: “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).
Chúa nhìn thấy sự đói của những người theo Chúa. Đã hơn một lần, Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ (x. Mt 14, 13–21; Mt 15, 32-39; Ga 6, 1-15).
Chúa xót xa trước những cảnh đời sống trong bệnh tật. Chúa chữa lành cho họ, như đã từng chữa lành cho người phụ nữ bệnh loạn huyết mười hai năm (x. Mt 9, 20-22), chữa người mù từ thuở mới sinh (x. Ga 9, 1-41)…
Chúa xót xa trước giọt nước mắt đớn đau của người mẹ khóc con, của người chị khóc em, như trường hợp Chúa cho đứa con của bà góa thành Naim hay cho Lazarô sống lại (x. Lc 7,11-17; Ga 11, 1-45)… Chúa chạnh lòng trước bệnh tật đớn đau của đầy tớ ông đội trưởng (x. Mt 8, 5-13), hay cái chết của con gái ông trưởng hội đường (x. Mc 5, 21-43)…
Chúa lập tức chữa lành cho tên lính bị thánh Phêrô chém đứt tai mà không cần bất cứ một điều kiện nào, dù lúc đó, Chúa đang bị người ta lên án và sẽ giết chết Chúa ngay sau đó (x. Ga 18, 10-11).
Đến giây phút cuối đời, lúc mà Chúa phải chết thảm trên thánh giá, Chúa vẫn đầy lòng xót thương đối với người trộm cùng bị đóng đinh (x. Lc 23, 39-43)…
Chúng ta không thể kể hết những lần Chúa tỏ tình yêu xót thương đối với con người. Đặc biệt cả cuộc đời, từ vâng lệnh Chúa Cha, nhập thể, sống nơi trần gian, chết cay đắng, sống lại vinh quang, vinh thăng trên trời… đều là tình thương tự nguyện của Chúa Ngôi Hai dành cho chúng ta, một tình thương không thể chứa đựng nơi mọi mỹ từ của loài người, khi phải diễn tả tình thương ấy.
Tình yêu dẫn đến cái chết cho người mình yêu đã lớn. Một tình yêu tự nguyện ném mình vào cái chết càng lớn lao khôn xiết. Dù vâng lệnh Thánh ý tuyệt đối, trước sau gì, Chúa Giêsu vẫn thể hiện mạnh mẽ tình yêu của chính Chúa cho trần thế chúng ta: Chúa tự nguyện đến cùng trong sự tự hiến chính mình:
“Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Chúa Cha mà tôi đã nhận được” (Ga 10, 17-18).
Vì lòng xót thương, trên thánh giá, lời Chúa Kitô “xin Cha tha cho chúng…” (Lc 23, 34), đâu chỉ là lời dành cho những kẻ đang đùng đùng sát khí dưới chân thánh giá.
Nếu nhập thể là để cứu độ, và bây giờ, vinh thăng trên trời, ngự bên hữu Chúa Cha là để chuyển cầu cho ta, để đưa ơn cứu độ của ta đạt đến vĩnh cửu, thì lời “xin Cha tha cho chúng” là, và phải là lời muôn đời Chúa Kitô chuyển cầu cho tất cả chúng ta.
Chúng ta quá đỗi hạnh phúc vì tình yêu thương xót, Chúa Kitô dành cho chúng ta. Chính nhờ tình yêu thương xót, Chúa Kitô là trạng sư tuyệt đối, đời đời trước tòa Thiên Chúa.
Vì tình yêu thương xót, Chúa Kitô đã trút bỏ hoàn toàn. Trút bỏ cả cuộc đời, trút bỏ cả mạng sống vẫn chưa làm đủ. Đến lúc trao hơi thở sau hết, lại còn tiếp tục trao dâng cả đến giọt máu cuối cùng, khi “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19, 34).
Trái Tim mở ra là để nhân loại hạnh phúc ngụp lặn trong biển tình yêu vời vợi ấy. Dòng máu cứu chuộc trở thành nguồn sự sống và sức sống cho tất cả mọi người thiết tha tìm đến. Trái Tim của Thiên Chúa làm người không đòi cho mình bất cứ điều gì, bây giờ lại thuộc về chúng ta tất cả. Chúa thương xót chúng ta.
Nhưng không dừng ở đó. Trái Tim Chúa Kitô mở ra, không chỉ cho thấy sự mạnh mẽ, dữ dội của tình yêu nơi Chúa Kitô dành cho loài người. Hình ảnh Trái Tim mở ra, gợi lại cho chúng ta lời tiên tri Hôsê từ xa xưa: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11, 8).
Lòng Thiên Chúa chứa đầy yêu thương. Thiên Chúa đã yêu. Mãi mãi cứ yêu. Ngàn đời tình yêu Thiên Chúa vẫn không cùng. Vì thế, Trái Tim Chúa Kitô vừa khắc sâu tình yêu của Thiên Chúa, vừa bộc lộ đến vô cùng tình yêu chan chứa, chứa đầy trong Trái Tim Thiên Chúa.
Làm sao có thể nói hết tình yêu thương xót của Thiên Chúa và của Chúa Kitô. Chỉ xin được nhìn ngắm bài học của lòng thương yêu ấy, để chúng ta cũng sống tình người bằng lòng bác ái, vị tha, đón nhận, cảm thông… giữa người cho nhau, vì nhau trong cõi đời này…
3. Nỗ lực của chúng ta sống lòng xót thương.
Người Kitô hữu cần thể hiện tình yêu thương xót bằng chính việc thực thi lòng xót thương của mình. Lời mời gọi sống tình yêu thương xót là một trong những lời mời gọi triệt để nhất của Tin Mừng. Càng suy niệm Tin Mừng, chúng ta càng nhận ra giáo huấn về việc thực thi lòng xót thương là vô cùng cụ thể.
Chẳng hạn, có lần đám đông hỏi thánh Gioan tẩy giả: “Chúng tôi phải làm gì đây?”, thì được trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11).
Còn Chúa Giêsu khẳng định giúp đỡ anh chị em là giúp đỡ chính Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han…. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31 - 46).
Chúa muốn chúng ta phải quảng đại, phải biết luôn mở rộng vòng tay, mở rộng cửa trái tim. Chúa muốn chúng ta không tiếc thời giờ, tài năng và vật chất khi anh chị em xung quanh cần đến.
Trên bình diện ngôn từ, chúng ta quảng đại cho đi những lời động viên, khen ngợi, ủi an, sớt chi nỗi niềm và đừng phê phán, đừng chỉ trích. Hãy thể hiện sự đồng cảm. Cần biết bản thân cũng đầy thiếu sót, lỗi lầm để không trở thành "quan tòa" lên án anh chị em. Tôi nhớ, có lần đọc được ở đâu đó lời này, đáng để chúng ta ngẫm nghĩ: “Xin đừng phê phán tôi vì tôi phạm tội khác hơn bạn”.
Trên bình diện đời sống, bắt đầu sự sống mỗi ngày bằng những món quà nhỏ mọn: một nụ cười, một cái bắt tay, một sự thân thiện, một cái nhìn trìu mến, một cử chỉ thật lòng… Hãy tận tâm hy sinh, tận tâm phục vụ. Hãy hy sinh âm thầm, phục vụ lặng lẽ…
Hãy cố gắng:
Không bực mình khi bị làm phiền; Không càm ràm khi chạm phải điều gì khó chịu; Không sửng cồ, nóng nảy khi bị khiêu khích; Không gây bất hòa khi đối diện với hoàn cảnh không mong muốn; Không thể hiện bức bối khi đối diện với người, với hoàn cảnh không vừa ý. Không khoe khoang bản thân; Không tìm tư lợi; Không để bụng oán ghét; Không hận thù dù với ai, với bất cứ hoàn cảnh nào...
Ngược lại, mọi nơi, mọi lúch chúng ta hãy học tinh thần cảm thông, chịu đựng, đón nhận, khoan dung, mực thước, nhịn nhục, tha thứ, nhẫn nại, suy nghĩ điều tích cực, suy đoán điều có lợi cho đối phương...
Chúng ta đừng quên, cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi phát triển ngày càng mạnh là nhờ lòng quảng đại của từng thành viên trong cộng đoàn ấy. Ngày nay, nếu chúng ta sống bên cạnh nhau, luôn biết không chỉ xem “mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32), mà còn hiến mình xây dựng Nước Chúa tại nơi mình sống, ngay trong cộng đoàn mình hiện diện, sẽ càng làm gia tăng biết bao lợi ích thiêng liêng cho chính bản thân, cho mọi thành viên và cho cả cộng đoàn.
Một cuộc sống tuyệt vời, một cuộc sống đáng sống sẽ diễn ra nếu mỗi người đều thực thi tình yêu thương xót bằng chính lòng quảng đại của mình.
Chỉ cần từng người nỗ lực thực thi lòng thương xót mà Thiên Chúa và Chúa Kitô đã đi bước trước và thể hiện, thì chắc chắn, mọi nơi, mọi lúc sẽ chỉ tràn ngập những điều tốt đẹp, tràn ngập niềm vui sống, tràn ngập tình yêu dành cho sự sống.
Hãy thực thi lòng thương xót bằng thể hiện sự quảng đại ngay bây giờ, ở đây, ngày hôm nay.
Hãy cấp tốc làm cho tình yêu thương xót của Chúa được thể hiện bằng mỗi phút giây.
Hãy thể hiện sự quảng đại của chính chúng ta cách liên tục, không dừng lại, không ngơi nghỉ, không mệt mỏi.
Chúa Giêsu nói với Tôma: “Đừng cứng lòng nữa” (Ga 20;27). Còn chúng ta thường gọi tất cả PS 2-ABC455
Chúa Giêsu nói với Tôma: “Đừng cứng lòng nữa” (Ga 20;27). Còn chúng ta thường gọi tất cả những ai muốn sống theo câu phương châm “có thấy mới tin” là “cứng lòng tin” vì họ tìm kiếm những dấu hiệu hữu hình để xác định niềm tin của họ. Có bao giờ chúng ta muốn xem xét lại sự cứng lòng tin này của Tôma không?
1. Một nguyên cớ khiến Tôma chưa tin
Khi đọc câu chuyện về Tôma sau sự phục sinh của Chúa, chúng ta hiểu gì về Tôma? Chúng ta có bao giờ nhận ra rằng Tôma không hoàn toàn nghi ngờ Chúa Phục sinh không?
Thực ra, các tác giả Tin Mừng không đề cập nhiều về Tôma ngoại trừ việc Tôma được Chúa Giêsu chọn vào số mười hai Tông đồ. Chỉ có Tin Mừng Gioan mới đề cập đến Tôma chi tiết hơn. Lần đầu tiên Tin Mừng theo Gioan nhắc đến Tôma là ở chương 11. Chúa Giêsu được hai chị em cô Mácta và Maria cho người đến báo: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11:3). Chúa Giêsu biết rõ những gì đang và sẽ xảy ra: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga 11:4). Ngài không vội thực hiện cuộc hành trình đến với họ: “Sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Ngài còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở” dù Ngài “quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11:5-6). Tuy nhiên Chúa Giêsu có ý định đi đến Bêtania: “Rồi sau đó, Ngài nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!” (Ga 11:7). Một số ông nghĩ rằng trong hoàn cảnh này việc đi đến Giuđê thực sự nguy hiểm, vì lúc đó các nhà lãnh đạo Do Thái đang tìm cơ hội để giết Chúa Giêsu: “Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga 11:8). Chính Tôma, khi nhận ra Chúa Giêsu quyết tâm đến Bêtania, ông nói với những người khác: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16). Như thế, chúng ta có thể thấy Tôma dũng cảm. Ông sẵn sàng sát cánh bên Chúa Giêsu cho đến chết. Ông kêu gọi những người khác cùng đi với Thầy mình trở lại miền Giuđê, nơi không chỉ có làng Bêtania mà còn thành Giêrusalem nữa, nơi người Do thái đang “tìm cách bắt Ngài” (Ga 10:39), vì “Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số” (Ga 11:18).
Vài chương sau, Gioan ghi lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa ăn tối cuối cùng. Chúa Giêsu đang chuẩn bị các môn đệ vượt Qua qua đau khổ để đến vinh quang - nhưng một cách kín đáo: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do thái: "Nơi tôi đi, các người không thể đến được", bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy” (Ga 13:33). Ngôn ngữ của Chúa Giêsu có vẻ như đánh đố. Người ta có thể cảm thấy các môn đệ cố sức hiểu hàm ý những gì Chúa Giêsu đang nói. Dĩ nhiên Tôma cũng vậy, nhưng cuối cùng chỉ một mình ông lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14:5). Ngay trước lúc đó ít phút, chính Phêrô cũng đặt một câu hỏi tương tự: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” (Ga 13:36). Những người khác hẳn cũng bối rối như hai ông. Họ không hiểu nhưng họ không hỏi. Họ không dám lên tiếng. Riêng Tôma thì khác, ông không chịu im lặng. Ông không hiểu và ông muốn hiểu! Ông không thể theo Chúa Giêsu nếu ông không biết ở đâu và bằng cách nào. Tôma thẳng thắn và thực tế một cách khác biệt. Đơn giản là như vậy.
Hai câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn phản ứng của Tôma sau khi Chúa sống lại. Đấng Phục Sinh hiện ra giữa các môn đệ đang tụ tập trong sợ hãi sau những cánh cửa khóa kín, và làm họ tràn ngập niềm vui: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20:22). Ngài ban cho họ Thần Khí của Ngài và giao cho họ sứ mệnh tiếp tục công cuộc cứu độ: “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20: 22-23). Chúa Giêsu làm cho những người bạn thân nhất của Ngài biết đến sự hiện diện và quyền năng của Ngài và ban cho họ chính Thánh Thần, ân huệ thần linh. Ít nhất đó là những gì Thánh sử Gioan cho chúng ta biết.
Nhưng Tôma không có mặt: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Chúa Giêsu đến” (Ga 20:24). Có lẽ lúc ấy ông đang ở bên ngoài. Trong hoàn cảnh đó không ai dám bước chân ra khỏi cửa: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái” (Ga 20:19). Nhưng Tôma thì khác. Ông dám bước ra, không hề sợ hãi, có thể là liều lĩnh nữa.
Tôma quay lại và họ nói với ông rằng họ đã nhìn thấy Chúa - nhưng đối với Tôma, có điều gì đó không đúng! Có thể ông đang nghĩ nếu anh em đã thấy lại Thầy tại sao anh em vẫn chôn chân trong căn phòng này? Nếu anh em đã gặp lại Thầy yêu dấu, tại sao tôi không thể đọc được niềm vui tràn ngập trên khuôn mặt anh em? Anh em còn chờ đợi điều gì? Chờ Tôma này trở lại sao? Chắc chắn là không, nếu thực sự xác tín, anh em sẽ hân hoan ra mặt và háo hức đến mức tôi có thể nhìn thấy sự thay đổi trong mắt anh em chứ!
Vì vậy, Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin” (Ga 20:25). Tôma như muốn trách khéo các tông đồ: “Tôi không thấy anh em đáng tin”. Tôma - đơn sơ, thực tế, thẳng thắn - người không hiểu nhưng muốn hiểu, người khao khát bước theo Chúa Giêsu nhưng cần biết đường đi. Có lẽ Tôma khi đó chưa có ý niệm gì nhiều về việc Chúa sống lại. Không có gì để nói ông tin hay nghi ngờ việc Chúa sống lại cho bằng ông nghi ngờ lời nói của bạn bè! Tôma nhận thấy rất khó có khả năng Chúa đã sống lại vì chung quanh ông có một nhóm nhân chứng mà ông thấy không đáng tin cậy. Tôma nghi ngờ lời nói và chứng tá của cộng đoàn các môn đệ của Chúa lúc đó. Tôma không thể đọc được sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trên khuôn mặt của những người bạn đồng liêu của mình.
Tôma sẽ đọc gì trên khuôn mặt của chúng ta? Chúng ta đọc được gì trên khuôn mặt của nhau khi chúng ta hát “Hallêluia, Chúa nay thực đã phục sinh”? Chúng ta cần trở nên một cộng đoàn đáng tin cậy, một cộng đoàn đã nhìn thấy Chúa và được biến đổi. Có một câu nói cổ xưa trong Giáo hội phương Đông: “Nếu bạn muốn biết Chúa Giêsu có thực sự sống lại hay không, hãy nhìn những khuôn mặt chung quanh bạn trong đêm Vọng Phục Sinh.”
2. Từ nghi ngờ đến tuyên tín
Chúa Giêsu sống lại đã gọi Tôma là “cứng lòng”; chúng ta cũng có thể là kẻ cứng lòng như Tôma. Nhưng hiển nhiên Chúa Giêsu không mặc kệ sự cứng lòng của Tôma, và có lẽ của các tông đồ khác, dù họ chưa bộc lộ rõ ràng ra bên ngoài giống như tính cách Tôma thường có. Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Thiên chúa của mình làm cho kẻ chết sống lại: con gái ông Giairô trưởng hội đường (Mc 5:22), con trai bà góa thành Naim (Mt 7:11), nhất là Ladarô chết chôn bốn ngày bước ra khỏi huyệt mộ (Ga 11:4-44). Nhưng việc một người chết thực sự, được tẫn liệm và mai táng trong huyệt mộ niêm phong kỹ càng, đến ngày thứ ba tự sống lại, là chuyện không bao có thể xảy ra từ xưa đến nay, và mãi mãi cho đến tận cùng của thời gian, trừ một mình Ngài. Chắc chắn Chúa Giêsu biết rất rõ việc đó. Ngài đã loan báo trước cho các môn đệ không ít lần: “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (lần 1, Mt 16,21-23), (lần 2, Mt 17,22–23), (lần 3, Mt 20,17–19), nhưng các ông làm sao hiểu nổi chuyện có một không hai như thế: “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Ngài về lời ấy” (Lc 9:44-45). Cho nên yêu cầu các môn đệ của Ngài tin vào sự phục sinh của Ngài mà không cho họ thấy những vết thương ở tay, chân và cạnh sườn mà Ngài đã chịu trước khi chịu chết xem ra là một đòi hỏi quá khó. Tôma chỉ yêu cầu điều mà ông, và có thể coi là thay mặt cho các tông đồ khác, cảm thấy đó là việc “đương nhiên” phải có. Chính vì thế Chúa Giêsu không bác bỏ yêu cầu “phải lẽ” này: “Ngài nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-29). Hôm nay, Chúa Giêsu cũng cho Tôma, cũng là cho các môn đệ khác, thấy các dấu chứng đó: “Ngài bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20:27). Lại một lần nữa không ai trong số những người khác đáp lại Chúa Kitô phục sinh. Trước Đấng Phục Sinh tỏ tường, Tôma tràn đầy đức tin. Ông tuyên xưng bằng một đức tin trọn vẹn và vững chắc: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28). Tôma biết lời ông tuyên xưng có nghĩa gì. Ông biết rằng nếu Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì mọi điều Ngài nói về chính Ngài, mọi điều Ngài rao giảng là đúng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1:18). Sự cứng lòng tin Tôma bây giờ lại hóa thành chứng tá vượt trội về Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Thánh Gioan khẳng định, trong bài đọc thứ hai hôm nay, rằng: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật… Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Ngài. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Ngài. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.” (1 Ga 5:5-6; 10-12).
Câu chuyện này thực sự là chuyện của mỗi người chúng ta: để sống một cuộc đời xứng đáng với Chúa Kitô Phục Sinh là Đấng Cứu Độ của chúng ta, chúng ta không tránh khỏi chiến đấu với sự nghi ngờ, bị nỗi sợ hãi đè nặng và liên tục thấy mình thiếu rất nhiều điều Ngài đang mong đợi nơi chúng ta. Những gì Tôma đã làm có thể là điều chúng ta cũng cần phải làm theo - để vượt qua chính sự nhát đảm của mình, để tin và sống niềm tin ấy như Chúa Giêsu Phục sinh nói với Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Hẳn anh chị em vẫn biết rằng Phục Sinh là mầu nhiệm; một mầu nhiệm nền tảng và cao trọng nhất PS 2-ABC456
Hẳn anh chị em vẫn biết rằng Phục Sinh là mầu nhiệm; một mầu nhiệm nền tảng và cao trọng nhất của Ki-tô giáo. Và nếu đó là mầu nhiệm thì đầu óc con người sao hiểu thấu được! Chỉ còn nhờ vào niềm tin. Vì thế, mục đích của việc Chúa hiện ra là để củng cố đức tin cho các Tông Đồ và các môn đệ, sau đó Người trao ban cho các ông sứ mạng làm chứng nhân về biến cố Phục Sinh mà chính các ông cảm nhận.
Trình thuật hôm nay kể lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su. Việc đầu tiên Người làm trong hai lần hiện ra là chúc bình an cho các môn đệ. Đây không phải là lời chúc mà thôi, nhưng đó là ân huệ đầu mùa của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ. Người không chỉ chúc một lần, nhưng đã lập lại lời chúc ‘Bình an cho anh em’ đến ba lần.
Khi đón nhận ơn bình an của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng hiểu rằng họ phải trao ban cho người khác điều mà họ vừa lĩnh nhận, nghĩa là trở thành sứ giả bình an cho nhân loại. Có nghĩa là khi chúng ta chúc bình an cho nhau là lúc chúng ta cầu mong cho nhau được bình an thật sự. Việc này chỉ có thể có được khi chúng ta được bình an mà thôi. Không ai trong chúng ta có thể trao cho người khác điều mà chúng ta không có!
Sau đó Chúa cho họ thấy tay và cạnh sườn của Người. Khi làm như thế, Chúa muốn cho các ông nhận ra rằng thân xác của Chúa Phục Sinh và con người đã trải qua khổ nạn, chết trên Thập Giá là một người. Vinh quang chỉ tỏ hiện qua hành trình của đau khổ. Cho dù hy sinh đi liền với các bi kịch trong cuộc sống của Chúa; nhưng qua hy sinh Chúa đã hoàn tất mầu nhiệm Tình Yêu để chiến thắng bằng cuộc chỗi dậy và hiện diện một cách vĩnh cửu. Khi thấy những chứng tích đó, các môn đệ đã vui mừng và tin rằng người đang ở trước mặt họ là Đức Giê-su, vị Thầy đáng kính của họ.
Sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục ban bình an và Thánh Thần cho các ông để các ông ra đi hoàn thành sứ mạng mà chính Người vừa hoàn tất.
Lần hiện ra thứ nhất này không có mặt Tôma. Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tôma đã không tin vào lời loan báo của các bạn mình. Thật ra, các bạn của ông cũng chẳng làm chứng được gì. Họ vẫn đóng kín vì sợ hãi. Cho dù Thần khí đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tôma đã không để cho sức mạnh của Thần Khí tác động. Họ vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc họ làm thì làm sao khiến Tôma tin đuợc.
Còn Tôma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá nhân; ông muốn chạm vào thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma.
Cũng như lần hiện ra lần trước. Việc đâu tiên Người làm là ban bình an cho các môn đệ rồi sau đó quay sang Tôma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tôma đã đáp trả bằng một niềm xác tín thật cao độ rằng Người là CHÚA và là THIÊN CHÚA của ông.
Sau đó qua Tôma, Chúa đã thể hiện tình thương của Người dành cho chúng ta bằng cách trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà tin.”
Trước khi xem xét cách biểu lộ niềm tin của Tôma, chúng ta biết rằng ông không phải là trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Trình thuật nói về việc Chúa hiện ra thì Chúa phải là trọng tâm. Khi nhìn như thế, chúng ta mới khám phá ra lòng đại lượng phát sinh từ tình yêu của Chúa.
Chúng ta vẫn thường đuợc dậy bảo niềm tin vào Chúa phải là một niềm tin vô điều kiện, phó thác hoàn toàn theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa hành xử với Tôma quả thật khác hẳn với lối suy nghĩ cầu toàn của chúng ta. Chúa chấp nhận điều kiện mà Tôma đưa ra. Cho dù đã đuợc tôn vinh, nhưng Chúa vẫn không che dấu các thương tích. Đó chính là chứng tích của Tình yêu thì làm sao phải che dấu! Các vết thương đó cần đuợc bộc lộ hơn là che dấu.
Tôma cũng có nỗi đau của riêng mình. Ông cũng là nguời đang mang thương tích. Chúa Giê-su, Thầy đáng kính của ông đã chết. Cái chết của Người để lại trong ông một tâm trạng buồn rầu và mất mát; ông và dân tộc ông còn biết trông cậy và nương tựa vào ai nữa đây. Ông đi trốn một mình. Ông cần có một không gian và nơi ẩn nấp để đối diện với niềm đau này. Vì thế ông đã hụt mất một cơ hội khi Chúa hiện ra lần trước.
Các bạn của ông cũng thế, họ cũng có niềm đau rồi sinh ra chán nản và thất vọng. Nhưng họ đã chọn cách đối diện với bi kịch mà họ đang đón nhận bằng cách liên đới, chia sẻ, an ủi và hỗ trợ nhau. Trước đây họ nương tựa vào Thầy. Sau khi Thầy của họ bị giết, họ không biết số phận của họ rồi sẽ ra sao? Thầy của mình quyền năng đến dường nào mà còn bị xử tử phương chi là họ, những cậu học trò nhút nhát và sợ sệt. Trong tình thế đó, họ chọn giải pháp đi trốn để dấu đi nỗi sơ hãi.
Nói chung là chỉ có ai đã kinh qua đau khổ mới thông cảm cho những người đồng cảnh ngộ. Chúa đã bị thương tích và Người cũng nhìn thấy các nỗi đau khổ mà Tôma đang đối diện; vì thế Người cũng muốn cho ông biết là Người rất thông cảm với yêu cầu của ông.
Qua sự tiếp xúc, Thầy trò gặp và nhận ra nhau. Chúa chữa lành thuơng tích cho ông. Còn ông nhận ra Thầy mình là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Ông đầu phục hoàn toàn trước quyền năng của Thầy mình, Đấng mới bị án tử mấy ngày qua.
Để kết thúc bài suy niệm, chúng tôi xin gửi đến anh chị em tâm tình của Đức Hồng Y Luis Antonio Gokim Tagle đã chia sẻ cho các thành viên tham dự tĩnh tâm tại Tổng Công Hội lần thứ 25 của Dòng Chúa Cứu Thế, tổ chức ở Pattaya, vào năm 2018, tại Thái Lan. Ngài nói như sau:
“Chúa Phục Sinh không xoá đi dấu vết của thập giá. Vết thương vẫn là vết thương. Thế giới của chúng ta đầy những vết thương. Ai nhắm mắt lại trước những vết thương của anh chị em mình thì không có quyền tuyên xưng, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chạm vào những vết thương của nhân loại là điều kiện cần thiết cho một đức tin đúng nghĩa.
Chúng ta hãy chạm vào vết thương của người nghèo, hãy đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thâu của họ. Đó chính là phần tuyên xưng đức tin của chúng ta. Chối từ những vết thương của anh chị em mình là cắt đứt những cầu nối của tình hiệp thông.
Chúng ta thường sợ chạm vào những vết thương của người khác.
Tại sao vậy? Một phần sợ bị lây nhiễm, phần khác vì chúng ta sợ gợi lại chính những vết thương của chúng ta. Sợ hãi này làm cho chúng ta xa cách anh chị em chúng ta. Có một mối hiệp thông sâu hơn. Đó là hiệp thông với nhau trong những vết thương chung, nỗi đau chung, cái nghèo chung. Người liên kết chúng ta lại với nhau và đã ôm lấy tất cả chính là Chúa Giêsu đã trải qua muôn ngàn khổ đau rồi mới đuợc Phục Sinh. Trong Đức Ki-tô chúng ta hiệp thông với nhau; trong Chúa Cứu Thế chúng ta liên đới với nỗi đau và mang lấy vết thương của anh chị em mình.
Hãy gặp và chạm vào chính Chúa Phục Sinh, Đấng đang mang thương tích nơi những anh chị em nghèo, bị tổn thương, bị bỏ rơi, đang lầm đường, đầy tội lỗi. Cùng nhau đến với họ bằng sự dịu dàng của lòng thương xót của Thiên Chúa. Hãy để tình liên đới với người nghèo trở thành nền tảng, trở nên bản chất đích thật cấu tạo nên người môn đệ của Chúa Cứu Thế, Đấng đã sống lại và hiện diện nơi những con người tất bạt về mọi phương diện, thể xác cũng như tâm hồn.
Chúa Phục Sinh vẫn còn mang thương tích. Người đang chờ chúng ta nơi những con người đầy thương tích đó. Hãy đến để gặp và chạm vào họ vì Chúa Phục Sinh đang hiện diện và chờ chúng ta nơi những vết đau của tha nhân. Alleluia, Alleluia. Amen.
Không phải chỉ có ông Thomas cứng tin, vì tất cả các tông đồ khác cũng đâu có tin Đức Yêsu Phục PS 2-ABC457
Không phải chỉ có ông Thomas cứng tin, vì tất cả các tông đồ khác cũng đâu có tin Đức Yêsu Phục Sinh (Mc.16, 9-14) cho đến khi chính các ông được Ngài hiện ra cho (Ga.20, 19-23); tuy nhiên ông Thomas được coi là người cứng tin vì ông đã phát biểu rõ ràng lập trường của mình: “nếu tôi không thấy các dấu đinh nơi tay người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và nếu tôi không tra bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng tin” (Ga.20, 25). Tinh thần “thực nghiệm” của Thomas đâu có kém tinh thần “cân đo đong đếm” của con người ngày nay. Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Yêsu Phục Sinh khi các ông đã được thấy Ngài, tuy dù đã ba lần Ngài báo trước Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), tuy dù các chị phụ nữ đã báo cho các ông biết Chúa đã phục sinh.
Các tông đồ đã trở thành chứng nhân phục sinh (Cv.10, 39-43), và có nhiều người tin lời rao giảng của các tông đồ. Họ là những Kitô hữu tiên khởi. Nếu Đức Yêsu chỉ là người, nếu Đức Yêsu phục sinh chỉ có ích lợi riêng cho bản thân Ngài, thì chắc người khác không phải quan tâm nhiều đến biến cố này như vậy, và các tông đồ cũng không cần phải đem cả sinh mạng ra làm chứng, vì điều đó đâu có ích gì cho các tông đồ cũng như cho người khác. Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh phải có thật quan trọng thì các tông đồ mới phải xả thân loan tin mừng phục sinh và dám đem chính mạng sống mình bảo đảm cho lời loan báo này. Thật vậy, theo những chứng nhân phục sinh, Đức Yêsu Phục Sinh là một sự kiện ảnh hưởng đến số phận tất cả con người, liên hệ đến sự sống và hạnh phúc của mọi người.
Đức Yêsu phục sinh chỉ là sự kiện khởi đầu, là dấu chỉ của thực tại khôn dò: Ngài là Đấng Vô Cùng Đặc Biệt. Qua biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, người ta biết, Đức Yêsu không chỉ là người. Ngài là Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, Ngài lấy Ý Cha làm ý Ngài (Mc.14, 36), đến độ coi Ý Cha là lương thực nuôi sống Ngài (Ga.4, 34). Với tác giả sách Khải Huyền, Đức Yêsu là đầu và là cuối: “Ta là đầu và là cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa tử thần và âm phủ” (Kh.1, 17-18). Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh là biến cố sinh tử đối với con người. Vì Ngài đã phục sinh, người ta nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, qua đó người ta nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa tha thứ mọi lỗi lầm cho con người. Thiên Chúa muốn con người sống và sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ở đời sau và ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt cho con người, và Ngài sẽ làm tất cả nên tốt cho những kẻ yêu mến Thiên Chúa.
Tất cả các tông đồ trở thành chứng nhân của Đức Yêsu Phục Sinh. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, luôn rao giảng Đức Yêsu Phục Sinh. Nếu người ta tin nhận Đức Yêsu Phục Sinh, thì người ta có cơ hội nhận ra chân tướng của Đức Yêsu, nhận ra sứ điệp Thiên Chúa muốn nói với con người qua Đức Yêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến độ đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin Con Ngài, thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời. Sứ mạng của Đức Yêsu là làm cho con người tin nhận Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, để họ phó thác đời họ cho Thiên Chúa, ngay cả khi họ gặp khó khăn tưởng chừng như tuyệt vọng. Tin vào Thiên Chúa tình yêu, giúp con người sống trong bình an và hy vọng, giúp người ta sống bình an hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở thành chứng nhân của Đức Kitô Phục Sinh. Là chứng nhân của Đức Yêsu Phục Sinh, là thực hiện sứ mạng của Đức Yêsu. Sứ mạng của Đức Yêsu là làm sao để con người tin thực Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu đã yêu con người đến cùng, đã hiến mạng cho con người. Bí tích Thánh Thể là bằng cớ cho thấy Đức Yêsu yêu thương con người đến độ nào. Cái chết trên thập giá của Đức Yêsu cho người ta nhận ra tình yêu của Ngài và của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng.
Kitô hữu phải yêu thương con người hôm nay như Đức Yêsu đã yêu thương con người thời của Ngài. Chỉ khi yêu thương những con người cụ thể sống với mình, Kitô hữu mới có thể làm chứng cho họ thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ. Đức Yêsu đã yêu thương con người đến hy sinh chính bản thân mình, yêu đến hiến dâng chính mạng sống, yêu đến chết, mong rằng khi con người thấy tình yêu của Ngài đối với họ, họ sẽ rung động trước tình yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng đáp trả tình yêu. Đến lượt mình, các Kitô hữu cũng phải yêu đến độ hy sinh cho những người mình sống với, để họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ qua các Kitô hữu. “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì nếu không phải là muốn cho lửa ấy bừng cháy lên” (Lc.12, 49).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao bạn tin Đức Yêsu đã phục sinh? 2. Bạn có thấy niềm tin vào Đức Yêsu Phục Sinh chi phối cuộc đời bạn không? Xin chia sẻ.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng, theo ông, tiếng kêu "lạy Chúa là Thiên Chúa của PS 2-ABC458
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng, theo ông, tiếng kêu "lạy Chúa là Thiên Chúa của con" của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xứng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu.
Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẩu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!". Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẩu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng, theo ông, tiếng kêu "lạy Chúa là Thiên Chúa của con" của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xứng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẩu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: "Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con".
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ có giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì không đủ. Chúng ta phải tự tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẩu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: "Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống".
Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu "chém đầu" vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề "Ngang qua thung lũng sông Kwai", Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh Nhật ở cầu sông Kwai trong đệ nhị thế chiến. Nơi đây mười hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con".
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thối thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!". Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục Sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: "Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin".
Thưa anh chị em, khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: "Phúc cho ai không thấy mà tin" là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các Bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con".
(Theo Mark. Link, S.J. trong Illustrated Sunday Homilies)
Tin mừng Ga 20: 19-31: "Phúc cho những ai không thấy mà tin":
Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ PS 2-ABC459
Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
Đức Kitô đã phục sinh, Người đã sống lại ra khỏi mồ. Đây là tin mừng được ghi nhận trong Kinh Tin Kính, chúng ta được mời gọi liên kết vững chắc với Đức Kitô phục sinh trong ánh sáng của Thần Khí. Chính sự liên kết trong niềm tin này mang lại cho chúng ta khả năng quảng đại, phong phú của tâm hồn. Chính sự liên kết được chia sẻ trong Giáo Hội mang lại cho cộng đoàn Kitô hữu sức sống và sức mạnh của người đi chinh phục.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Tin mừng: Ga 20, 19-31
Qua sự hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu củng cố đức tin cho các ông đang còn bị lung lay, yếu đuối và trao phó cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng.
Ngay ở lần hiện ra đầu tiên vào ngày thứ nhất trong tuần (vào chiều ngày Phục sinh), Chúa Giêsu đã thuyết phục các môn đệ nhận biết rằng Người đã phục sinh và đang sống. Sau đó, trước khi rời các ông, Người trao cho các ông quyền tha tội.
Tám ngày sau, Người lại hiện ra với các ông lần nữa, tiến đến với Tôma, người đã vắng mặt ở lần trước và không tin lời các bạn mình nói Chúa đã sống lại. Người xác nhận với ông về điều này. Tôma đã tuyên tín: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Lời xác quyết long trọng này từ miệng của một người cứng tin nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh. Lời tuyên xưng này là chóp đỉnh của Phúc âm thứ tư. Ở đây hai tước hiệu ' Chúa' (Kyrios) và 'Thiên Chúa' được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu để nói lên thiên tính của Đức Kitô. Một công thức mang tính Kitô học.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin": Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Từ kinh nghiệm thể lý đến xác quyết của đức tin: niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu của các môn đệ luôn chuyển từ một kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: Gioan tin khi thấy mộ trống, khăn liệm; Maria Mađalêna tin khi nhận ra going nói quen thuộc của Thầy; các tông đồ tin khi thấy lỗ đinh ở tay và cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu và cuối cùng đòi hỏi của Tôma cho thấy rõ, niềm tin của ông khởi từ mong muốn được thấy Chúa Phục sinh bằng đôi mắt khả giác. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thể lý các Ngài đã tiến tới một bước dài trên hành trình đức tin, các Ngài đã can đảm làm chứng cho niềm tin của mình bằng cái chết. Để rồi từ đây dựa trên chứng cứ của các Ngài là những chứng nhân trực tiếp, đức tin của mỗi Kitô hữu không còn dựa trên cái nhìn khả giác, những kinh nghiệm thể lý nữa mà hoàn toàn là một cảm nghiệm thâm sâu của con tim và là sự dấn thân liều lĩnh bước theo tiếng gọi và ân sủng của Thiên Chúa. Ngày nay, chắc chắn không thể đòi hỏi như Tôma phải thấy Chúa bằng xương bằng thịt mới tin. Đã có cả truyền thống đức tin vững bền của Giáo Hội đủ để tạo nên thế giá cho niềm tin của chúng ta. Thực ra, tin không phải là điều dễ dàng khi mà chân lý đức tin luôn vượt quá trí hiểu của con người và tri thức khoa học của nhân loại. Tuy vậy, trong thực tế có những sự kiện người ta có thể hiểu rõ diễn biến của nó nhưng để chấp nhận lại đòi hỏi phải tin. Ai chẳng biết mỗi con người đều được sinh ra từ một người mẹ, tuy nhiên để khẳng định có là mẹ ruột của mình không thì lại dựa vào niềm tin là chủ yếu, nhất là dựa vào tình yêu. Cho dẫu ngày nay khoa học có thể thử máu, thử gène để biết chính xác, nhưng nếu như thế lại chứng tỏ sự nghi ngờ nào đó và có nguy cơ làm ran nứt tình cảm gia đình.
Với Kitô hữu hôm nay, chúng ta có thực sự tin vào màu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu Kitô theo giáo lý của Giáo Hội hay không? Nhiều người xem ra vẫn thích dựa vào những kinh nghiệm khả giác hơn là tin vào Kinh Thánh, vào lời giảng huấn của Giáo Hội, khi vẫn thích tìm kiếm phép lạ, vẫn thích đổ xô đến những nơi đựơc cho là Chúa Mạ hiện ra???
2. Từ Câu chuyện của Tôma đến cuộc khủng hoảng niềm tin của con người thời nay: Khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma vắng mặt, ông không tin lời của các bạn. Ông không tin là điều xem ra có vẻ hợp lý. Thấy mới tin mà, điều này rất dễ chấp nhận. Ông không thấy, nên ông nghi ngờ. Thế nhưng, khi ông đã thấy thì ông lại xác quyết đức tin của mình cách mạnh mẽ nhất, xem ra hơn cả các Tông đồ khác. Câu ông tuyên xưng hình như chưa có Tông đồ nào tuyên xưng cả: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Từ câu chuyện của Tôma ngày xưa nhìn đến con người ngày nay. Với sự tiến bộ vượt bậc của Khoa học kỹ thuật, nếp suy tư, nhìn nhận mọi biến cố cuộc sống theo tư duy khoa học đã ăn sâu vào trong suy tư của con người. Mọi việc đều phải có cơ sở khoa học, phải được chứng minh cụ thể rõ ràng mới có sức thuyết phục. Do đó, thuyết phục người ta tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu là điều có lẽ khó khăn. Ngay cả thời của Thánh Phaolô, khoa học chưa phát triển, nhưng triết thuyết Platon gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống thì chính Ngài cũng không thuyết phục được bao nhiều người của Thành Athène tin theo Chúa (Cv 17, 32-34). Có thể nói được rằng: trong xã hội ngày nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng niềm tin. Người chưa tin ngày càng gia tăng; người mất niềm tin trở nên khô khan nguội lạnh cũng ngày càng gia tăng. Khủng hoảng niềm tin vì nhiều lý do, nhưng có lẽ hơn hết vẫn là não trạng duy khoa học, duy lý trí khiến cho người ta khó tiếp cận được với chân lý đức tin, với mạc khải Kinh Thánh.
Người Kitô hữu hôm nay phải làm chứng cho niềm tin phục sinh của mình; phải nhận ra hoàn cảnh tri thức hiện tại và tâm thức con người hôm nay để có những cách thế phù hợp loan báo Tin mừng. Cách thế hữu hiệu vẫn là sự hiện diện và làm chứng bằng chính đời sống của mình để mọi người thấy được niềm xác tin mạnh mẽ của mình.
3. Từ Niềm tin đến hạnh phúc: Có nhiều người cho rằng Lời Chúa nói với Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" là lời ngụy biện của những kẻ ngu dốt hay của những kẻ cuồng tín. Khi Chúa Giêsu nói câu này không phải Người không quan tâm gì đến việc phù hợp với lý trí và nhận thức của nhân loại, để rồi kêu gọi người ta tin một cách mù quáng. Ở đây Chúa đề cao tính hợp tình. Như trường hợp của Tám Mối Phúc Thật. Hạnh phúc mà Chúa chúc phúc xem ra trái nghịch với lẽ thường tình, với khao khát hạnh phúc của con người. Cũng thế, tin sẽ đưa con người ta đi vào hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa là bước vào sống thân mật với Người, yêu mến Người. Và yêu mến Người thì sẽ nhận đựơc hạnh phúc vì ở đời tình yêu luôn đi với hạnh phúc. Mối dây liên hệ giữa Tin, Yêu và hạnh phúc luôn là mối dây tương hỗ quyện lấy nhau. Niềm tin chứng tỏ tình yêu càng tin tưởng càng yêu thương, càng yêu thương càng thấy hạnh phúc. Người ta không thể sống mà không tin yêu. Không thể chuyện gì cũng phải thấy mới tin. Có nhiều chuyện không thấy mà vẫn tin: tin vào tình yêu, tin vào tương lai và tin vào tinh người…
Với Kitô hữu tin là cử ngõ đi vào cõi phúc. Tin để chứng tỏ tình yêu Chúa và yêu Chúa chính là hạnh phúc. Cảm nhận đựơc hạnh phúc bởi đức tin không phải bằng giác quan nhưng bằng con mắt đức tin. Đôi mắt xác thịt có thể tăm tối nhưng đôi mắt đức tin sáng tỏ sẽ nhận thấy niềm vui và hạnh phúc vô bờ nơi Thiên Chúa.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã phục sinh, Người đang hiện diện với chúng ta. Tin tưởng nơi Người chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh cho toàn thể thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các Đấng chủ chăn luôn vững mạnh trong đức tin, bền tâm trong đức cạy và sắt son trong đức ái, để trung thành đưa ánh sáng Tin mừng đến với thế giới và con người hôm nay.
2. "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em khô khan nguội lạnh, những người chưa tin nhận Chúa và chống đối sứ điệp Tin mừng được mở lòng mở trí biết thành tâm tìm kiến chân lý và lẽ sống cao đẹp.
3. "Lạy Chúa Con! Lạy Thiên Chúa của con". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình bằng chính đời sống chứng tá theo ánh sáng của Tin mừng.
* Lời Kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiện diện và đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin gia tăng đức tin cho mọi người chúng con để ai nấy đều cảm nghiệm từ thẳm sâu cõi lòng sự hiện diện yêu thương mang lại hạnh phúc của Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa.
Suy niệm
“Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.
Các môn đệ Chúa sợ cũng phải thôi, vì biến cố khổ nạn và thập giá xảy đến cho Thầy làm các PS 2-ABC460
Các môn đệ Chúa sợ cũng phải thôi, vì biến cố khổ nạn và thập giá xảy đến cho Thầy làm các ông rất hoang mang và đau buồn. Hơn nữa, ngay đến Thầy là một người sống tốt, rao giảng đó đây, làm nhiều việc lành và được yêu mến vậy mà những thủ lãnh Do Thái còn đối xử án tử như thế, cho nên các môn đệ Chúa Giêsu khi phải đối diện với sự bách hại ấy càng mất bình an hơn. Các ông nghĩ cách tốt nhất để bảo vệ mình khỏi sự truy lùng của người Do Thái là đóng kín cửa, một số khác thì ẩn mình đi. Có lẽ vì lý do này mà Tôma đã không tụ họp chung với anh em đồng môn ngày hôm sau đó.
Chính trong cảnh tang thương của Thầy mình, các môn đệ tụ họp lại cùng cầu nguyện, an ủi và nâng đỡ nhau. Và Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra vào chiều ngày thứ nhất, đứng giữa các môn đệ và trao ban: “Bình an cho anh em!” Việc Người hiện ra đã xua tan nỗi lo âu và chán nản, bi quan và thất vọng nơi các môn đệ và để lấp đầy con tim bối rối của các ông bằng sự bình an của Đấng chiến thắng sự chết.
Đang lúc ấy, Tôma, còn được gọi với tên Đydimô, ông đi mô giữa lúc Chúa hiện đến giữa anh em nên ông không có được diễm phúc được chứng kiến Chúa phục sinh hiện ra, không nhận được lời Shalom chào chúc bình an của Chúa. Như câu chuyện bó đũa, một chiếc đũa tách riêng ra sẽ dễ bị bẻ gãy. Tôma tách rời ra khỏi anh em nên đức tin của ông đã bị chao đảo, ông cứng lòng tin mặc dầu nghe các bạn kể lại sự kiện Chúa phục sinh. Vì thế, ông vẫn khăng khăng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tôma muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, kinh nghiệm đối diện với người thật việc thật để có thể nhìn nhận Chúa phục sinh.
May phước cho Tôma là ông có một vị Thầy giàu lòng thương xót, nhẫn nại và từ bi nên đã chiều theo ý ông. Chúa Giêsu hiện ra lần nữa vào tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất để cho ông cơ hội được mãn nguyện, để củng cố đức tin cho cả ông là một trong số những người sẽ trở nên rường cột Hội Thánh sau này. Điều này cũng cho thấy ngày Chúa nhật có một vị trí quan trọng hơn hẳn các ngày. Người hiện ra và lần này bảo chính Tôma: “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Chúa mời gọi các môn đệ không những tin vì đã thấy mà còn cần phải tiến xa hơn: tin cho dù không được thấy.
Và quả thật, với kinh nghiệm đối diện với Đấng Phục Sinh, Tôma không chần chừ, đã tuyên xưng đức tin cá vị của chính mình: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Từ đây, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Đó là lời chúc phúc cho những môn đệ tương lai, là các Kitô hữu qua các thời kỳ.
Các môn đệ của Chúa được diễm phúc trở nên thị chứng nhân cho Chúa phục sinh. Niềm tin đó đã biến các ngài trở thành những chứng nhân bằng cả cuộc sống và thậm chí cả sự sống của mình. Đó là một sự kiện hiển nhiên mà đức tin Kitô Giáo chúng ta đã không sợ sệt khi đặt nền tảng trên sự thật này. Tuy nhiên, thời đại khoa học thực nghiệm ngày nay dường như khiến mọi thứ cần phải cân-đo-đong-đếm để xác nhận, được kiểm nghiệm mới đáng tin. Vậy chúng ta, những người Kitô hữu sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh 2000 năm, Liệu lời Tin Mừng hôm nay: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc” có còn hữu dụng không, khi lòng tin của chúng ta dựa trên chứng từ của các Tông đồ?
Nhà chú giải Kinh Thánh Dufour cho biết: “Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần sẽ nối kết tất cả con cái Thiên Chúa nên một trong đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh”. Vâng, với ơn đức tin, chúng ta có thể cảm nhận Chúa Phục Sinh giữa cuộc sống thăng trầm của chúng ta. Con đường của lòng tin chúng ta ngày nay là con đường của lòng mến. Lòng tin và lòng mến biện chứng cho nhau, càng tin thì càng yêu mến, và càng yêu mến thì đức tin càng vững chắc. Thánh Tôma Aquinô cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin như Tôma được xem thương tích Chúa, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”.
Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa, ơn cứu chuộc bằng giá máu của Người để rồi chúng ta mới có thể biến đổi đời sống mình để có thể gặp gỡ được Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa"
Đức Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với PS 2-ABC461
Đức Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin.
Đức Kitô phục sinh đã đem đến cho các tông đồ niềm vui, ơn tha thứ của Chúa Thánh Thần… Người Kitô hữu phải làm tỏa sáng niềm vui, an bình bằng đời sống Chứng Nhân Tin Mừng Phục Sinh trong gia đình và xã hội bằng những việc đạo đức, cuộc sống lương thiện và công bằng. Chỉ có niềm tin gắn bó với Đức Kitô phục sinh mới có thể vượt qua mọi khó khăn, cản trở để gặp Chúa và anh em trong tương quan hài hòa và thân mật.
Và rồi trong những lần hiện ra cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14, 27).
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: "Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!!
Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn... Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến Bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (Ga 3, 5; 4, 14).
Lễ "Lòng Thương xót Chúa" mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!" Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa" (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Trong Kinh Thánh rất nhiều lần Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Trong PS 2-ABC462
Trong Kinh Thánh rất nhiều lần Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, thánh nhân cũng phác họa chân dung của Thiên Chúa đầy Lòng Thương Xót, từ tâm, nhẫn nại qua hình ảnh người cha già có đứa con hoang đàng (Lc 15. 11-32). Dù biết chọn lựa ra đi của người con là sai lầm, người cha ấy vẫn tôn trọng tự do và luôn mong mỏi trông ngóng, sẵn sàng thứ tha khi con trở về.
Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hoàn toàn xóa mình, như người cha già chỉ được biết đến qua hai đứa con “một người kia có hai con trai” (Lc 15,11), tài sản lớn nhất của Thiên Chúa là nhân loại này, Người dành hết tình yêu cho công trình Người đã dựng nên. Tuy nhiên đáp lại tình yêu ấy lại là sự bất trung, sa đi ngã lại trong tội lỗi của con người. Khi nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa, tôi thấy mình là đứa con đi hoang của Chúa. Nhiều lúc tôi đã quay lưng lại với tình yêu và lời mời gọi của Người để chạy theo những ước mơ ích kỉ của riêng tôi, tôi làm ngơ trước ý định của Người và chạy theo những gì tôi muốn, tôi thích…Những lúc ấy thực sự tôi đã đi hoang, và sau tất cả tôi đã thu lại được gì? Cô đơn, thất vọng, chán nản. Tôi nhận ra rằng chỉ trong Chúa là Cha của tôi, tôi mới có một nguồn hạnh phúc thực sự, một hạnh phúc không ai có thể lấy mất đi khỏi đời tôi.
Thiên Chúa yêu tôi đó là một điều chắc chắn dù tôi có nhận ra hay không. Nhưng, Người không yêu tôi theo kiểu thế gian vẫn nghĩ, Người không cất khỏi tôi những cám dỗ, những yếu đuối, Người cũng không yêu tôi bằng một tình yêu cấm đoán, Người yêu tôi bằng một tình yêu tôn trọng tự do hoàn toàn. Như người cha chấp nhận sự ra đi của đứa con, mặc dù với kinh nghiệm của mình, có thể con mình sẽ rơi vào những cám dỗ, nhưng tình yêu quá lớn ông dành cho con không cho phép ông dùng quyền của mình để cấm đoán đứa con, ông chấp nhận ôm nỗi đau một mình để cho con được hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng vậy, dầu biết tôi sẽ có lúc sa ngã, Người cũng không nỡ tước mất tự do của tôi để cấm tôi làm điều này, điều khác, Người chỉ âm thầm nhắc nhở tôi, nhưng quyền quyết định Người vẫn trao cho tôi, và lúc ấy là lúc chính tôi phải lựa chọn. Khi thấy những sự giữ, điểu xấu xảy ra trên thế giới nhiều người vẫn than trách Chúa, tại sao Chúa để cho những điều này xảy ra? Tại sao Chúa không dùng quyền năng Chúa mà can thiệp!…
Nhưng nếu Chúa dùng quyền năng Chúa mà ngăn cản, thì còn đâu là tự do của con người? Người yêu chúng ta và cũng cho chúng ta có tự do để chọn đón nhận hay chối từ tình yêu ấy. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn luôn có khả năng rút ra điều tốt từ những điều xấu.
Kinh nghiệm đi hoang đã làm cho đứa con nhận ra tình yêu của cha mình. Đang khi được sống trong sự sung túc, giàu sang cùng sự bao bọc của cha, anh ta hoàn toàn không ý thức được những điều ấy, nhưng khi mất đi tất cả, bỏ cả phẩm gía làm người, anh ta mới nhận ra điều gì mới thật là quý trọng. Tôi cũng vậy, khi có những kinh nghiệm đi hoang tôi mới biết quý trọng những ân ban mà Chúa ban cho tôi cách nhưng không. Như người cha già, Chúa luôn chờ đợi, trông ngóng tôi trở về và sẵn sàng ôm ấp tôi trong vòng tay yêu thương của Người. Khi cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa cũng mời gọi tôi hãy ra đi khỏi vùng an toàn của mình, ra đi không phải là để tiếp tục đi hoang, nhưng là để đưa về cho Chúa những người anh em của tôi vẫn còn đang đi lạc, vì khi kinh nghiệm được sự yếu đuối của bản thân, tôi mới biết thông cảm và chia sẻ với người khác, như Lời Chúa đã nói với thánh Phêrô “Simon, Simon ơi, kìa xa tan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em thêm vững mạnh” (Lc 22, 31-32) .
Lạy Chúa, con biết rằng Chúa luôn yêu con, và mãi mãi tình yêu ấy không hề thay đổi. Xin cho con mỗi ngày cảm nghiệm thật sâu sắc hơn Lòng Thương Xót của Chúa luôn yêu con, và con biết đáp lại bằng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc đời con. Xin cho con cũng biết loan truyền Lòng Thương Xót Chúa ngang qua cung cách sống và việc làm phục vụ của con. Amen
Trải qua hai năm ròng rã chống trọi với cơn đại dịch khóc liệt, nhà nhà chứng kiến người thân ra PS 2-ABC463
Trải qua hai năm ròng rã chống trọi với cơn đại dịch khóc liệt, nhà nhà chứng kiến người thân ra đi đơn độc, chẳng thể viếng thăm, không thể tiễn biệt; người người nơi xa xôi chỉ biết liên lạc với nhau qua mạng truyền thông, và rồi khi thân bằng quyến thuộc từ giã cõi đời, cũng chẳng hề hay biết, mãi cho tới lúc trông thấy thông tin trên internet…Ôi vô vàn chuyện tan thương, bao nỗi đau đớn hằn sâu nơi con người giữa cơn dịch bệnh kinh hoàng này!
Giờ đây, tình hình đã khả quan hơn, ai cũng đành chấp nhận sống chung với dịch bệnh ở ‘trạng thái bình thường mới’, nhưng vẫn luôn khát khao, chất chứa nỗi niềm đau đáu trong lòng hầu có được sự bình an thâm sâu ngự trị nơi tâm hồn. Thiết nghĩ, đọc đoạn trình thuật Tin Mừng theo Thánh Gio-an hôm nay, chúng ta có thể hiểu được tâm trạng lo âu, bồn chồn của các Tông đồ khi chứng kiến Thầy mình bị đóng đinh, chịu chết nhục nhã trên cây thập giá. Họ sợ hãi, hoảng hốt bỏ trốn, duy chỉ Gio-an ở lại với Mẹ Ma-ri-a và một số người phụ nữ nhiệt tâm khác, can đảm đứng dưới chân thập tự hiệp cùng cuộc tử nạn của Đức Giê-su cho tới lúc mai táng Người trong mồ. Các ông đã lo sợ, bất an, thu mình, không dám ra ngoài. Thấu hiểu nỗi lòng này, Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến chào và chúc bình an cho họ: “Bình an cho các con” (Ga 20, 19. 21. 26).
Lời chào này đơn giản, vỏn vẹn năm từ, nhưng sự bình an này không đơn thuần chỉ an ủi, hay mang lại điều yên ổn cho các Tông đồ, mà còn chữa lành tâm hồn tan thương, bất an, u sầu, hoang mang của họ. Sự bình an này khởi nguồn từ lòng từ bi lân tuất, từ lòng xót thương không bờ bến, từ lòng bao dung tha thứ, đã cảm hoá con người yếu hèn, tội lỗi của các Tông đồ, và của chúng ta. Hơn nữa, sự bình an này được chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh trao ban. Người đã chiến thắng sự chết, huỷ diệt bóng tối vây quanh con người, đánh bại tử thần, và đập tan ‘bức tường’ sau hết mà ai trong chúng ta sớm muộn gì cũng phải đối mặt. Vì chưng, Người là “Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng hằng sống; Người đã chết, nhưng đây vẫn sống đến muôn đời. Người giữ chìa khoá sự chết và địa ngục” (x. Kh 1, 17-18).
Cảm nghiệm sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, đám đông dân chúng đã được chữa lành phần hồn và thân xác như Sách Tông đồ Công vụ thuật lại. Như lời truyền của Chúa Giê-su Phục Sinh: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con…Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21-23), các Tông đồ đã can đảm bước ra làm chứng cho Thầy mình, trở nên sứ giả bình an đích thực, trở thành khí cụ tình yêu, tha thứ, và làm máng thông ơn xót thương của Người. Chính vì vậy, “số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng” (Cv 5, 14). Dừng ở điểm này, chúng ta thử nhìn lại bản thân, nhìn lại gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và tự hỏi: Liệu chúng ta đã-đang cảm nghiệm sự bình an này chăng, hay chỉ mới bám víu vào sự yên ổn, an toàn? Liệu chúng ta đã-đang trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa, trở thành sứ giả tình yêu và bình an của Chúa Ki-tô Phục Sinh? Liệu chúng ta đã-đang sống lan toả niềm vui của người môn đệ hằng được ngụp lặn trong bình an xuất phát từ nguồn suối xót thương?
Sau cùng, sự bình an của Chúa Ki-tô Phục Sinh dập tắt nỗi sợ hãi sâu kín trong tâm tưởng các Thánh Tông đồ và chúng ta. Sự bình an này tuôn tràn chứa chan nơi tận đáy lòng, len lỏi trong mọi ngõ ngách đời sống chúng ta. Sự bình an mà Chúa Ki-tô Phục Sinh tặng ban, giúp chúng ta nhận ra lòng lân tuất vô biên của Thiên Chúa, chữa lành đức tin yếu hèn của chúng ta, và thúc bách mỗi người chúng ta ra đi trở nên chứng nhân hoà bình – yêu thương – xót thương – tha thứ, vì chưng mọi việc, mọi phép lạ Chúa Giê-su thực hiện không được ghi chép tất cả, nhưng “…các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20, 31).
Lời cầu:
Lạy Chúa giàu lòng xót thương, Mãi liên là chốn tựa nương cuộc đời. Nơi Ngài suối nguồn nghỉ ngơi An bình tắm mát, ca lời ngợi khen. Giữa dòng chen chúc nhỏ nhen Sẵn chờ tỉnh thức, ngọn đèn đức tin Toả lan soi chiếu anh minh Công bình chân chính, đăng trình chứng nhân. Amen!
Niềm tin không chỉ là sự ưng thuận cách máy móc. Niềm tin còn đòi hỏi những phản ứng tích PS 2-ABC464
Niềm tin không chỉ là sự ưng thuận cách máy móc. Niềm tin còn đòi hỏi những phản ứng tích cực như Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)
Tự khẳng định là một trong những đặc điểm để xác định chính mình giữa mọi người. Tự khẳng định bằng một con đường ngay thẳng, chính trực, ý thức và tự do. Chúa muốn như thế đối với mỗi người chúng ta, chịu trách nhiệm về niềm tin và sống cuộc sống của mình chứ không ai khác. Niềm tin không chỉ là do ai đặt để cho, mà còn là niềm tin “tôi tin” trong đức tin “chúng tôi tin”.
Trong đời sống đạo, cha mẹ, ông bà tôi, anh chị em tôi đều dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi cũng đi nhưng đi cho có. Tôi không ý thức điều ấy là cần thiết cho tôi nên tôi chỉ thấy điều phải làm. Trong đời sống, nếu tôi phải làm, tôi sẽ chỉ chiếu lệ, cho xong, tôi không biết mình là ai vì chẳng bao giờ biết tôi là ai và điều gì cần cho tôi. Tôi sống như mọi người quanh tôi sống, họ đứng ngoài dự lễ, tôi cũng làm như thế, nhiều người cho rằng chẳng tội lỗi gì tôi cũng sống theo vậy. Cuối cùng tôi chẳng có trách nhiệm gì với cuộc sống của tôi, cứ để nó trôi theo những cảm xúc của tôi. Thấy được là được, thấy tốt là tốt.
Tự tìm kiếm niềm tin là một hành vi tích cực, để biết tại sao tôi tin, niềm tin ấy cho tôi những gì? Toma đặt câu hỏi của mình về niềm tin là bộc lộ một cá tính mạnh. Ông dám tuyên bố với mọi người, niềm tin cần được kiểm chứng. Mặc dù Tôma cũng đã sống với Chúa bao năm, chứng kiến sự chết của Chúa, vẫn nghe Chúa đã sống lại. Tất cả những điều đó vẫn là điều “chúng tôi tin”. Vấn đề “tôi tin” đòi hỏi với chính tôi. Tôi sẽ đến tham dự với anh chị em tôi trong cử hành Thánh Lễ một cách nghiêm túc, giống như Tôma đến dự buổi họp mặt với các tông đồ tám ngày sau đó. Tôi tham dự với một cách khiêm nhường cùng với anh chị em của tôi trong cầu nguyện, xin ban cho tôi thêm niềm tin.
Niềm tin của tôi là một niềm tin sống động, không chỉ một lần tin mà là mỗi ngày sống xác tín niềm tin. Tôi hạnh phúc sống trong niềm tin của tôi, đòi hỏi tôi nỗ lực tìm biết và sống niềm tin của mình, chứ không do người khác nhận định. Chính tôi tìm thấy niềm tin của tôi trong điều chúng tôi tin là cần thiết. Chúa sẵn sàng cho tôi thấy niềm tin của tôi, như đã sẵn sàng cho Tôma thọc ngón tay vào lỗ đinh, để củng cố xác tín của tôi.
Niềm tin tôi sống một cách sâu xa có thẻ diễn tả theo cách của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Một niềm tin sống dồi dào, đạt tới đỉnh cao hạnh phúc. Đó là niềm tin mà chúng ta hằng ngày xin Chúa ban cho để vươn tới.
Chắc không ai sống trong đời mà lại không có bất cứ một vết sẹo. Có thể là vết sẹo của một lần PS 2-ABC465
Chắc không ai sống trong đời mà lại không có bất cứ một vết sẹo. Có thể là vết sẹo của một lần đùa giởn vô ý gây ra. Có thể là vết sẹo của một lần đứt tay, hay một vết trầy xướt trên thân thể. Cũng có thể là vết mỗ do bệnh tật lâu ngày đã liền da…
Tuy nhiên, có những vết sẹo được nhìn thấy bên ngoài, trên thân xác, nhưng cũng không ít những vết sẹo trong tâm hồn, trong trái tim, trong trí nhớ, trong cuộc đời… không bao giờ chủ nhân của nó quên được.
Mỗi vết sẹo dù trên thân xác, hoặc trĩu nặng trong tâm hồn đều gợi lại một câu chuyện, một sự tích, một lý do… Có khi là những kỷ niệm của niềm vui, nhưng cũng có khi là những đau đớn không thể nguôi ngoai…
I. VẾT SẸO – DẤU CỦA THÁNH GIÁ.
Hôm nay, Tin Mừng cho biết có đến hai lần Chúa hiện ra. Cả hai lần, thánh Gioan ghi nhận Chúa hiện ra có cùng một cách thế. Lần thứ nhất, ngay khi hiện ra,“Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.
Có gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem? Nơi ấy, dấu thánh giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay, trên cạnh sườn còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chính những vết sẹo, cũng chính là dấu thánh giá còn mới nguyên trên thân thể Chúa.
Những vết sẹo, dấu chứng của thánh giá trở thành dấu chỉ của niềm tin nơi các tông đồ. Nhìn vào dấu của thánh giá trên thân thể của người đang hiện diện trước mặt mình, các tông đồ đã tin Thầy mình sống lại.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt. Thánh nhân nhất quyết không tin. Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn. Chúa không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục Sinh lên tiếng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.
Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thánh giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Một lần nữa, qua thái độ của thánh Tôma, thánh Gioan cho thấy, chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, các môn đệ mới tin, đó là Chúa của họ. Chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, họ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”.
Vết sẹo hay dấu chứng của thập giá trở thành bằng chứng của lòng tin: CHÚA ĐÃ PHỤC SINH. Như vậy dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ. Dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Chúa Kitô đã phục sinh. Dù đã phục sinh, Chúa đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của thánh giá.
Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thánh giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh, lại làm cho các môn đệ dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
II. NHẬN RA ĐIỀU GÌ QUA CÁC SẸO ẤY?
Vết sẹo hay dấu chỉ thánh giá trên thân thể Đấng Phục Sinh cho ta nhận ra hai điều này:
1. Dấu ấn của tình yêu trước tội lỗi. Dấu vết thập giá không chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã còn ghi lại trên thân thể Đấng Phục Sinh, mà là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa.
Dấu vết kinh hoàng của thập giá trên thân thể Đấng Phục còn là nỗi đau trong tâm hồn nhân loại mỗi khi họ nhìn vào đó mà nhận ra sự khủng khiếp do tội lỗi của chính mình gây ra. Mãi mãi dấu thánh giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung. Bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng thánh giá, người ta vẫn nhận ra rằng, tình yêu của Thiên chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời, dẫu hết thời gian này đến thời gian khác, con người không ngừng bất trung và sai phạm.
2. Đau khổ trong đời người.
Mặt khác, Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn…
Hay con đường tương lai, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…
Những lúc bi đát đến cùng cực, chúng ta hãy nhìn về phía Chúa Giêsu, để thấy thánh giá là điều hiển nhiên của cuộc đời mỗi người. Đó là cây thánh giá mà ta phải vác đi theo tiếng gọi của Chúa: “Ai theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.
Chúng ta may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.
Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa biết đến đau khổ là gì, chết là gì, để trong nỗi đau và trong nỗi chết chóc thường ngày của ta, Chúa gần gũi với ta, Chúa chia sớt cùng ta, Chúa thấu hiểu từng thách thức mà đời ta luôn đối diện và không ngừng trải qua… Vì thế, ta tin, trong cuộc đời của mình, không ai là đơn lẻ, không ai là mồ côi. Chúa vẫn đang đồng hành khi ta ấp ủ Chúa trong mọi buồn vui của bản thân. Thánh giá Chúa vẫn không ngừng soi rọi để cứu độ thập giá đời ta.
I.- KINH NGHIỆM CỦA THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ VỀ ĐỨC KI-TÔ PHỤC SINH
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Sự phục sinh của Đức Giê-su đã thực sự thách thức lòng tin của Tô-ma. Xem ra ông cứng tin nhất PS 2-ABC466
Sự phục sinh của Đức Giê-su đã thực sự thách thức lòng tin của Tô-ma. Xem ra ông cứng tin nhất trong nhóm Mười Hai. Tuy nhiên xét cho cùng sự cứng tin ấy cũng dễ hiểu. Các tông đồ, trong đó có Tô-ma, đã từng sống với Thầy nên họ biết chính xác con-người-Giêsu bằng xương bằng thịt. Vậy mà bây giờ sau cái chết rõ mồn một của Đức Giê-su, lại xảy ra việc Ngài đã sống lại và đang sống. Sự kiện bất ngờ và lạ lùng ấy đã được chính bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người được tiếp cận với Đức Ki-tô phục sinh, loan báo: “Tôi đã thấy Chúa” (x. Ga 20, 18).
Đức Giê-su rất hiểu tâm trạng của Tô-ma nên đã chiều lòng ông. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27). Lập tức Tô-ma đã mau mắn làm theo lời đề nghị đầy cảm thông của Thầy mình. Và ông đã được toại nguyện hoàn toàn.
Sau sự kiện này, Tô-ma đã được củng cố thêm kinh nghiệm quý báu về Đức Giê-su Na-gia-rét. Ngài là một con-người như mọi người nhưng Ngài cũng là Con-Thiên-Chúa. Ngài đã vâng phục Cha đành lòng chịu chết để hoàn tất công trình cứu độ nhân loại. Và Ngài đã sống lại sau ba ngày chôn trong mồ. Thân xác phục sinh của Ngài vẫn là thân xác của một con-người với các dấu đinh…nhưng giờ đây Ngài đã biến đổi. Sự biến đổi này là do quyền năng Thánh Thần và vĩnh viễn Ngài là Chúa (x. Pl 2, 11).
Đó không phải là một cuộc biến hình như đã xảy ra trên núi Tabor với Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, nhưng chính là một sự phục-sinh-từ-kẻ-chết. Điều lạ lùng chưa từng có trong lịch sử nhân loại và trong lịch sử dân Is-ra-el. Chính vì sự lạ ấy mà Tô-ma đã choáng ngợp trước một Đấng-phục-sinh thần thiêng tuyệt vời chưa từng thấy. Ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Cũng như các tông đồ khác, Tô-ma đã nhận ra rằng sự phục sinh của Đức Giê-su là một biến cố cực kỳ quan trọng, đó được xem là cột mốc đáng ghi nhớ nhất trong cuộc sống tại thế và trong sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su. Qua đó các ông đã thức tỉnh khỏi sự tăm tối của ước vọng về một vương quốc trần gian, về một vị vua thế tục và về một chiến thắng binh đội, quyền lực.
Đức Giê-su sống lại, là Chúa, là Thần Khí, đã vượt trên tất cả tạo thành cũ. Ngài khai mở Vương Quốc của thiên giới, Ngài là chủ trời-đất-con-người. Ngài là Adam-mới của tạo thành mới được tái sinh trong Thần Khí.
Thánh sử Mat-thêu kể lại: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ‘Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’.” (Mt 28, 16-20)
Tô-ma và các bạn của ông đã hiểu rằng kể từ sau biến cố sống lại từ cõi chết, Đức Giê-su đã chiến thắng tất cả:
– Ngài đã chiến thắng sự chết một cách oanh liệt; – Ngài đã chiến thắng ma quỷ và tội lỗi trong nhân loại; – Ngài đã vượt thắng sự giới hạn của không gian, thời gian; – Ngài đã chiến thắng sự bất trung bất hiếu vì Ngài là trưởng tử trong nhân loại được Chúa Cha tha thứ và chúc phúc; – Ngài đã chiến thắng lịch sử và làm cho nó trở nên “con-đường-dẫn-vào-sự-sống”. Vì Ngài là Alpha và Omêga, là tất cả trong mọi sự.
Đức Kitô Giê-su phục sinh, Ngài như thế đó. Tô-ma và các bạn tông đồ của ông cũng đã kinh nghiệm về Thầy Giê-su như thế đó…“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).
II.- CẢM NGHIỆM ĐỨC TIN CỦA KI-TÔ HỮU VỀ SỰ HIỆN DIỆN SỐNG ĐỘNG CỦA ĐỨC KITÔ TRONG HỘI THÁNH
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Khởi sự từ kinh nghiệm “cứng tin” của các tông đồ, lòng tin của các tín hữu Chúa hôm nay cũng bị thách thức về một Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, về một Đấng Ki-tô hằng sống, về một Hội thánh là Thân Thể huyền nhiệm của Chúa Ki-tô, về sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ, trong thế giới, trong mỗi con người, trong các Bí Tích.
“Phúc cho ai không thấy mà tin”. Khởi điểm của đời sống Ki-tô hữu là Đức Tin. Và chúng ta phải cầu xin để có được đức tin. Đức tin là một ân huệ thiên giới. Tin không là nỗ lực của lý trí, ý chí mà là một ơn thiêng từ Thiên Chúa. Người dự tòng, ngay khi bước vào nghi thức tiếp nhận trong lễ Rửa tội, đã được thẩm vấn về việc có muốn “xin Đức Tin” cùng Hội thánh hay không.
Vậy thì thách đố đầu tiên của chúng ta là “Tin”. Tin không vì do tôi biết nhưng là ân huệ mà tôi xin mới có được. Xin vì Đức Tin (một trong ba nhân đức đối thần Tin-Cậy-Mến) là một hồng ân đến từ Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta mới “thấy” được những “điều-không-thấy”, mới “biết” được những “điều-không-học”, mới “tin” được những “điều-không-thể-chứng-minh”…
Xem ra lòng tin của Tô-ma ít bị thử thách hơn Đức tin của chúng ta hôm nay. Chính vì thế Chúa mới nói: “… Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29).
Sau khi về trời, không ai còn thấy Đức Giê-su nữa, một Đức Giê-su Na-gia-rét rong ruổi khắp các miền xứ Ga-li-lê-a để rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ, thu nhận môn đồ…không ai còn được “nghe” Ngài giảng hay được “chứng kiến” Ngài thực hiện những dấu lạ nữa. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp được Ngài vì chúng ta tin vào những lời Ngài đã nói:
Đức Giê-su phục sinh vẫn còn hiện diện sống động trong Cộng đoàn Đức tin của Ngài. “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Đức Giê-su phục sinh vẫn còn hiện diện trong Bí Tích mầu nhiệm Thánh Thể để trở nên thần lương cho khách lữ hành trần gian. “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26, 26). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống ” (Ga 6, 51).
Đức Giê-su phục sinh vẫn điều hành các hoạt động trong Hội thánh của Ngài, thông qua các anh em của Ngài. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21) và “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ…” (Ga 20, 22-23).
Đức Giê-su phục sinh bây giờ là một Đức Ki-tô toàn thể. Ngài là đầu và anh em Ngài là các chi thể trong cùng một thân thể. Yêu thương anh em là yêu Chúa. Giúp đỡ anh em là giúp Chúa. Làm cho một người anh em phải hư hỏng là xúc phạm đến Chúa…(x. Mt 25, 31-46).
Đức Giê-su phục sinh bây giờ là một Tin Mừng mà chúng ta phải đón nhận và rao giảng. Ngài là đường (Đạo) mà chúng ta đi theo và giới thiệu cho người khác. Bao lâu chúng ta còn dửng dưng với Tin Mừng thì bấy lâu chúng ta chưa thực sự tin Ngài. Bao lâu chúng ta chưa thao thức việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, thì bấy lâu chúng ta chưa là môn đệ của Đấng Phục Sinh. Thánh Phao-lô đã xác quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cor 9, 16).
Chúng ta tự hỏi, “Liệu ngày hôm nay chúng ta có được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giê-su bởi đã tin những-gì-không-thấy không?”. Câu trả lời sẽ tùy thuộc mối tương quan giữa của mỗi người chúng ta đối với Đức Giê-su Ki-tô “hôm nay và tại đây”.
Nhưng dù chúng ta tin hay không tin, tin nhiều hay tin ít…thì Đức Giê-su Ki-tô, Ngài như thế đó!…
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA (Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Chúng ta không rõ lý do khiến ông Tôma vắng mặt khi Chúa Giêsu phục sinh đến với Nhóm Mười PS 2-ABC467
Chúng ta không rõ lý do khiến ông Tôma vắng mặt khi Chúa Giêsu phục sinh đến với Nhóm Mười Hai. Nhóm nay chỉ còn mười một người, vì mất anh Giuđa. Cả nhóm sống trong tình trạng sợ hãi, bởi đó họ đóng chặt các cửa (Ga 20,19.26).
Hầu chắc họ không dám ra đường. Nếu vậy thì vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Tôma ở đâu khi Chúa Giêsu đến gặp các ông? Chúng ta không dám đoán là giữa Tôma và anh em đã có chuyện gì không ổn hay xích mích. Nhưng có một điều chúng ta biết chắc, đó là khi mười ông nói: “Chúng tôi đã thấy Chúa,” Tôma tỏ ra dửng dưng, không hề bị thuyết phục. Ông khẳng định chắc nịch như một tuyên ngôn: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở hai bàn tay Người, và đặt ngón tay mình vào dấu đinh, và đặt bàn tay mình vào cạnh sườn Người, tôi sẽ không tin” (Ga 20,25).
Ông đòi thấy và sờ chạm như các môn đệ khác. Ông muốn có một kinh nghiệm riêng của mình. Có vẻ ông không tin vào lời chứng của các bạn. Thái độ của ông làm mọi người không vui. Bỗng nhiên có một khoảng cách giữa ông và cả nhóm: mười người đã thấy Chúa, còn một người chưa. Làm sao có sự hiệp nhất, hiệp hành giữa họ? Ai sẽ lấp đi khoảng cách này? Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu trở lại căn phòng, các cửa vẫn đóng kín. Lần này có mặt ông Tôma với các bạn của ông. Có vẻ Ngài trở lại đây chỉ vì ông, như thể Ngài nghe thấy những điều ông đòi hỏi. Đấng phục sinh nhắc lại rành mạch những đòi hỏi đó và mời ông thực hiện từng điều ông mong mỏi: “Hãy đặt ngón tay vào đây và xem hai bàn tay Thầy, hãy đưa bàn tay ra và đặt nó vào vào cạnh sườn Thầy.” Ta có cảm tưởng Chúa phục sinh đứng rất gần Tôma, cầm lấy bàn tay ông và để ông chạm vào các vết thương. Mục đích của cuộc gặp gỡ là đưa ông đi từ vô tín đến tin. Ngài mong Tôma có cùng đức tin với anh em khác, để cùng làm chứng như anh em, “Chúng tôi đã thấy Chúa!” Chỉ khi cùng đức tin, cả nhóm mới có thể đi với nhau. Chúa Giêsu khiêm tốn đến gặp Tôma, để xây dựng sự tình anh em hiệp nhất. Ngài không bỏ rơi ông, không để mất môn đệ nào. Ngài quý từng người, chấp nhận tính khí của Tôma: thực tế, thẳng thắn, cứng tin (Ga 11,16; 14,5; 20,25). Chúa chẳng ngại chiều Tôma để chinh phục ông. Ngài biết sự cứng lòng của ông lại là một bằng chứng để thế hệ tương lai vững tin vào phục sinh. Không chắc Tôma dám đặt tay vào cạnh sườn Thầy, nhưng ông đã thấy các vết thương và đã tin. Ông đã tuyên xưng một đức tin lớn hơn điều ông thấy: “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.” Đồng hành hay hiệp hành là điều không dễ. Ngay giữa những môn đệ của Thầy Giêsu cũng vậy. Nếu Chúa phục sinh không khiêm hạ đến với Tôma, chắc Tôma và các ông khác sẽ khó chấp nhận nhau. Giáo hội lúc nào cũng có những Tôma đầy cá tính, thường đi nhanh hơn hay chậm hơn cộng đoàn. Làm sao đừng để mất những Tôma như thế trên bước đường hiệp hành của Giáo hội.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Xin cho chúng con học được cách cư xử của Chúa. Khi được Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa vẫn cư xử tế nhị như một người phục vụ. Chúa nướng bánh và cá cho các môn đệ ăn. Khi được Cha cho sống lại vinh quang, Chúa vẫn là người đi bước trước đến với các môn đệ. Chúa hẹn họ đến Galilê, để nối lại tình Thầy trò, để chữa lành những vết thương do vấp ngã. Khi được Cha nâng dậy từ cõi chết, Chúa không quên tấm lòng của các phụ nữ, những người đã theo Chúa từ lâu, đã có mặt khi Chúa chịu đóng đinh và chôn táng. Bởi đó, những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ là những người đầu tiên được gặp Chúa, và được Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Vui. Chúng con học nơi Chúa sự nhẫn nại, khi thấy Chúa chịu đựng sự cứng lòng của ông Tôma, học nơi Chúa nghệ thuật đồng hành khi thấy Chúa chuyện trò với hai môn đệ bỏ đi vì thất vọng. Chúa phục sinh cao cả nhưng đã tự hạ mình để chinh phục lại nhóm môn đệ, không để mất một ai. Chúa có nhiều cách để làm cho người ta nhận ra Chúa, qua việc gọi tên, hay làm cử chỉ bẻ bánh, qua mẻ cá lạ, hay qua việc cho họ xem những vết thương. Chúa đến qua hình dáng anh làm vườn hay người khách lạ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Xin dạy chúng con đem đến cho con người hôm nay an bình và hy vọng, niềm tin yêu và Thánh Thần. Xin cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui để làm chứng, luôn bừng sáng để tỏa lan sức sống của Chúa. Amen.
Giáo hội đặc biệt dành Chúa nhật thứ hai sau lễ Phục sinh, để kính Lòng Chúa Thương xót. Khi PS 2-ABC468
Giáo hội đặc biệt dành Chúa nhật thứ hai sau lễ Phục sinh để kính Lòng Chúa Thương xót. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu hay chạnh lòng thương trước những người bệnh tật, khổ đau, tội lỗi. Khi bước vào cuộc Khổ nạn và đi đến cái chết, chúng ta cũng thấy trái tim Ngài đầy tình xót thương. Ngài thương các môn đệ khi mắt họ nặng trĩu ở Vườn Dầu, Ngài để cho họ ngủ dù rất mong họ thức (Mt 26,43-44). Ngài chấp nhận nụ hôn phản bội của Giuđa và đứng ra bảo vệ để các môn đệ rút lui an toàn (Ga 18,8-9). Ngài sờ vào tai của anh đầy tớ vị thượng tế để chữa lành, sau khi tai anh bị chém đứt (Lc 22,51). Lúc gà gáy, Ngài quay lại nhìn Phêrô sau khi ông chối Ngài. Cái nhìn cảm thông, tha thứ, khiến ông bật khóc (Lc 23,62). Trên đường lên Núi Sọ, khi các phụ nữ khóc thương Ngài, Ngài lại tỏ lòng thương họ, vì tai họa họ sắp phải chịu (Lc 23,28). Trên thập giá, Ngài xin Cha tha thứ cho những kẻ giết mình, và ban ơn cứu độ cho người trộm biết thống hối (Lc 23,34.43). Cử chỉ tình yêu cuối cùng của Ngài là gắn kết Mẹ của mình với anh môn đệ mình thương: “Đây là con của Bà… Đây là Mẹ của anh” (Ga 19,26-27). Khi Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha phục sinh từ cõi chết, Ngài được đưa vào vinh quang đã có trước đây (Ga 17,24), được Cha trao mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Đấng chiến thắng khải hoàn vẫn là Chúa xót thương, Đấng đầy quyền năng thần linh vẫn tôn trọng tự do con người. Chúa phục sinh đã không đi gặp Philatô, để trừng phạt ông này về tội hèn nhát, không dám tha. Ngài không hiện ra để lên án sự vô trách nhiệm của ông. Chúa phục sinh cũng không đi gặp các thượng tế để vạch trần lòng dạ xấu xa của họ, khi họ lên kịch bản công phu nhằm hãm hại Ngài. Họ đã thách thức Ngài xuống khỏi thập giá để họ tin (Mt 27,42). Bây giờ Ngài đủ khả năng để bắt họ tin bằng việc hiện ra với họ. Nhưng Ngài đã không làm. Những người được Đấng phục sinh hiện ra, đều là các môn đệ và tín hữu (1 Cr 15,3-8). Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta thấy lòng thương xót vô bờ của Đấng phục sinh đối với các môn đệ. Ngài đi bước trước đến với họ, để nâng đỡ họ sau biến cố thập giá kinh hoàng, biến cố làm vỡ tan mọi hy vọng và sụp đổ mọi ước mơ. Các môn đệ đã mang những mặc cảm do vấp ngã. Thầy đến để an ủi chữa lành các thương tích bằng việc cho họ thấy các vết thương trên thân thể mình. Các dấu đinh ở tay chân, và dấu đâm ở cạnh sườn Thầy đem lại niềm vui và niềm tin về vị Thầy đã chết nhưng nay đang sống và đang đứng bên họ. Đấng phục sinh tế nhị không nhắc lại chuyện đã qua. Ngài đẩy họ về phía trước, và sai phái họ lên đường. Rồi sẽ đến lúc họ phải mở toang mọi cánh cửa khép, thắng vượt mọi sợ hãi, chấp nhận chung số phận với Thầy. Đấng phục sinh là Đấng có trái tim thương xót. Ngài không muốn mất Tôma, vì Ngài biết tính của anh ấy. Ngài hiểu những đòi hỏi có vẻ quá đáng của anh, và biết anh muốn tin một cách nghiêm túc. Chính vì thế một tuần sau, Ngài đã trở lại để gặp anh, và thỏa mãn mọi điều anh đòi hỏi (Ga 20,27). Thầy Giêsu vui sướng khi thấy lòng tin của anh mềm lại. Anh chịu thua khi thấy tình thương Thầy dành cho mình, chỉ biết thốt lên lời tuyên xưng: Lạy Thiên Chúa của con! Tình thương của Đấng phục sinh không chỉ dành cho Tôma, mà còn trải rộng đến đoàn tín hữu tương lai. Vẫn có những con chiên cần được đưa về ràn (Ga 10,16). Vẫn có những người vì không thấy nên chưa tin (Ga 20,29). Vẫn có những người đã tin nhưng nay đức tin bị mất. Mùa Phục sinh là thời gian bắt chước Đấng phục sinh đi thăm các Tôma ở quanh ta…
Cầu Nguyện
Lạy Cha là Chúa trời đất, Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài. Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán. Cha đã cho con người cùng được chia sẻ tự do của Cha, và Cha luôn tôn trọng tự do ấy, dù con người vẫn lạm dụng tự do để làm điều xấu.
Lạy Cha toàn năng, Khi trao cho loài người chúng con tự do, Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha. Bởi đó sự dữ có sức tung hoành trong thế gian này. Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên, chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống. Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công của bao người thấp cổ bé miệng trên thế giới. Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá của Con Cha trở nên dấu chỉ cao nhất của tình yêu Cha đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ, chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con. Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày. Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con. Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió. Và chúng con biết mình không bao giờ phải thất vọng.
Chúa Giêsu đã sống lại. Các tác giả Tin Mừng đều khẳng định với chúng ta điều ấy. Tuy vậy, việc PS 2-ABC469
Chúa Giêsu đã sống lại. Các tác giả Tin Mừng đều khẳng định với chúng ta điều ấy. Tuy vậy, việc Chúa sống lại không phải được đón nhận một cách dễ dàng. Chính các môn đệ, khi nghe mấy người phụ nữ báo tin Chúa đã sống lại, các ông cũng cho là “vớ vẩn”, nên không tin. Đức tin vào Chúa phục sinh chỉ được củng cố sau khi được kiểm nghiệm. Việc kiểm nghiệm này là việc gặp gỡ Chúa Phục sinh. Tin vào Chúa Phục sinh là một hành trình đầy những khám phá bất ngờ.
Trước hết là những bất ngờ nơi các môn đệ. Trong tâm trạng hoang mang sợ hãi, các ông đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Cùng với những cánh cửa đóng kín, tương lai của các ông dường như cũng khép lại. Chính vào lúc bi quan chán nản ấy, Chúa dành cho các ông một bất ngờ lớn: Người hiện diện giữa họ trong khi cửa vẫn đóng kín. Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu đã trở thành Đấng Thần Linh, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Qua việc tỏ cho các ông thấy những vết thương, Người chứng minh sự hiện diện của Người là bằng xương bằng thịt, là người đã chết trên thập giá trước đó chứ không phải là một bóng ma. Sự bất ngờ này đem lại cho các tông đồ niềm vui mừng khôn tả.
Cùng với điều bất ngờ được gặp lại Chúa Giêsu, Đấng trở về từ cõi chết, các tông đồ còn được nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, các ông trở nên mạnh mẽ can đảm. Các ông cũng được soi sáng để hiểu biết sứ vụ thiên sai của Thày mình, đồng thời nhớ lại những giáo huấn của Chúa với một lăng kính mới. Từ nay, các ông hiểu rằng, các ông phải thay Thày mình để điều hành cộng đoàn Kitô hữu non nớt. Họ không còn là những môn đệ phụ thuộc nơi Thày mình, nhưng họ được ban quyền tha thứ và cầm buộc, quyền năng ấy lớn lao đến nỗi các ông tha tội cho ai thì trên trời cũng tha, và các ông ràng buộc ai thì trên trời cũng ràng buộc.
Những ai còn nghi ngờ sự Phục sinh của Chúa, cũng sẽ được gặp những bất ngờ. Tôma đại diện cho những người theo “chủ nghĩa hoài nghi”, tức là chỉ tin vào những gì cảm nhận được bằng giác quan. Ông đã thách thức Chúa: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn, thì tôi không tin”. Lời thách thức mang tính chất gay gắt. Có lẽ khi tuyên bố hùng hồn những lời thách thức này, Tôma không ngờ Chúa lại chấp nhận những thách thức của ông. Vì thế mà tám ngày sau, tức là cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện đến để chấp nhận những thách thức của ông. Sự việc quá bất ngờ, khiến Tôma không biết phản ứng thế nào, chỉ còn biết quỳ gối xuống với lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Lời tuyên xưng của Tôma thể hiện một tâm trạng lúng túng rối bời. Ông đã từng mong ước được nhìn thấy vết đinh, thọc tay vào lỗ đinh và vào cạnh sườn, nhưng nay ông quá bất ngờ khi thấy Chúa. Ông chẳng còn can đảm mà dám làm những điều trước đây ông ước ao, tức là thọc ngón tay và lỗ đình và thọc bàn tay vào cạnh sườn Thày. Những thách thức hùng hồn của kẻ đa nghi sẽ có lúc rã tan khi gặp những bất ngờ.
Những ai tin tưởng phó thác nơi Chúa, sẽ được gặp Ngài. “Phúc cho ai không thấy mà có lòng tin”, Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma điều ấy. Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, chúng ta tin vào Chúa Phục sinh mặc dù không được thấy Người bằng con mắt giác quan. Như thế, chúng ta là những người được chúc phúc. Nếu chúng ta không được nhìn thấy Chúa Phục sinh bằng con mắt giác quan, thì Thánh Gioan tông đồ giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang của Người. Tác giả được nhìn ngắm Chúa Giêsu, vừa như một Đấng chiến thắng vinh quang, vừa như một Thiên Chúa được tôn thờ ca ngợi bằng một lễ nghi thờ phượng trên trời (Bài đọc II).
Nếu những người xung quanh chúng ta hoặc những người theo chủ nghĩa “đa nghi” không nhìn thấy Chúa Phục sinh, họ có thể thấy Ngài nơi cuộc sống của các tín hữu. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã làm lan tỏa hình ảnh sống động của Đấng Phục sinh, nên phát triển nhanh chóng. Nhờ Chúa Phục sinh hiện diện nơi các tông đồ, mà các ông có khả năng chữa bệnh và làm những phép lạ hiển hách như Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài chịu khổ nạn và phục sinh (Bài đọc I). Nếu những tín hữu phản ánh hình ảnh của Đức Kitô Phục sinh, những người sống xung quanh chúng ta sẽ có những khám phá bất ngờ về Đức Giêsu và về Giáo Hội của Người. Hôm nay cũng là Chúa nhật kính lòng thương xót của Chúa. Mục đích của việc tôn kính lòng thương xót Chúa là giúp mỗi người nhận ra Chúa là Đấng yêu thương con người và thương xót tha thứ những lỗi lầm của họ. Tình yêu thương ấy được thể hiện và chứng minh qua cái chết và cuộc phục sinh của Đức Giêsu Kitô, đồng thời mời gọi mỗi người tin Chúa hãy thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Việc thực thi lòng thương xót nơi các tín hữu là một bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của Đấng Phục sinh giữa chúng ta.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỂ HIỆN LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY?
Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót mời gọi chúng ta khám phá Thiên Chúa sâu hơn, “Thiên Chúa PS 2-ABC470
Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót mời gọi chúng ta khám phá Thiên Chúa sâu hơn, “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, chậm giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34, 6). Ngài cảm thương nỗi khốn cùng của biết bao người tội lỗi. Ngài không lỡ quay mặt đi khỏi những ai khóc than với Ngài và chỉ muốn có một điều, đó là chúng ta hãy có lòng đơn sơ và can đảm để lao mình vào vòng tay của Ngài và không ngừng cậy trông vào tình yêu của Ngài như một đứa trẻ.
Chúng ta càng nhận ra Thiên Chúa muốn đổ đầy Lòng Thương Xót của Ngài trên chúng ta bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy mình được mời gọi trở nên nhân chứng cho Lòng Thương Xót của Ngài bấy nhiêu.
Chúng ta không thể đón nhận lòng thương xót nếu chúng ta không có lòng xót thương
Điều kinh hoàng nhất không phải là phạm tội, mà chính là nghi ngờ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Để thấy điều này, chúng ta hãy so sánh nỗi tuyệt vọng của Giuđa và giọt nước mắt của Phêrô sau khi cả hai đã phản bội Chúa Giêsu. Một người đã treo mình tự vẫn, còn người kia thì cho phép mình được hòa giải với Chúa và trở thành một trong những vị thánh vĩ đại nhất mà chúng ta được biết.
Chúng ta không thể đón nhận lòng thương xót nếu không biết xót thương. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta nói rằng “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha”. Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lk 6:36). Chúa Giêsu kể dụ ngôn tên mắc nợ không biết xót thương (Mt 18:23-35) mà tất cả chúng ta đều mắc phải khi chúng ta từ chối tha thứ cho anh chị em mình trong khi Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Lòng Thương Xót thì dịu dàng thành tín và giàu lòng trắc ẩn
Lòng Thương Xót tước đi khí giới của chúng ta. Thay vì đưa chúng ta vào sự quy kết phán xét, hoặc khiến chúng ta thốt ra những lời khép kín, nó lại mở rộng tâm hồn chúng ta trước nỗi đau khổ của anh chị em mình. Martha Robin nói rằng “Chúng ta chỉ có thể dâng lên Chúa vẻ huy hoàng”. Lòng thương xót chỉ có thể được nhận biết bằng cách sống Lòng Thương Xót đó mỗi ngày, dù chúng ta ở đâu.
Lòng Thương Xót không chỉ là sự tha thứ, nhưng còn là lòng nhân hậu thành tín, là lòng trắc ẩn sâu xa để có thể ôm lấy một người từ trong sâu thẳm con người họ. Và điều đó hiển hiện trong mọi nỗi khốn cùng: tội lỗi và cả đói khát, xa cách, tuyệt vọng, mất tự do, đau đớn thế xác, suy thoái xã hội, tóm lại, đó là tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã liệt kê khi Ngài nói về cuộc phán xét chung: “Xưa Ta đói, Ta khát, Ta là khách lạ, Ta trần truồng, Ta đau yếu, Ta ngồi tù,…” (Mt 25, 31-46). “Giảng dạy, khuyên nhủ, an ủi, khích lệ, cũng như tha thứ, nhẫn nhục, chịu đựng là những công việc thiêng liêng của lòng xót thương. Những công việc về phần xác của lòng xót thương bao gồm việc cho kẻ đói ăn, cho kẻ vô gia cư tạm trú, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng bệnh nhân và kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.” (Giáo lý Hội thánh Công Giáo, số 2447)
Chúng ta sống Lòng Thương Xót bằng cách đồng hành với tha nhân trong khổ đau của họ Công việc của Lòng Thương Xót không phải là “làm việc tốt” theo nghĩa hẹp của hạn từ này. Chúng ta vẫn thường bị cám dỗ đến trợ giúp cho người khác từ đỉnh cao nhân đức, từ sự cống hiến, từ hoàn cảnh xã hội, từ mọi phương tiện vật chất mình có. Nhưng đó không phải là điều mà Lòng Thương Xót đòi hỏi; bởi vì Lòng Thương Xót chỉ có thể được thực thi khi chúng ta chung chia đau khổ với người khác, nghĩa là mỗi người chúng ta biết chấp nhận nỗi khốn cùng của chính mình. Chỉ khi nhìn nhận chính mình là người nghèo khó và tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mới có thể đứng trước Ngài như một người nghèo hèn để có thể đón nhận tình yêu thương xót của Ngài, để rồi đến lượt mình, chúng ta có thể yêu thương anh chị em mình. Đây không phải là vấn đề về “nghèo khổ thiêng liêng” khi phủ nhận khả năng và sự phong phú nơi bản thân ta, nhưng đó là vấn đề của nhận thức một cách cơ bản rằng tôi không xứng, rằng mọi sự đã được ban tặng cho tôi nhưng không, và rằng tôi là “kẻ nghèo hèn” đã nhận lãnh mọi sự từ Cha.
Điều này thể hiện rõ trong mọi công việc mang tính giáo dục. Theo một nghĩa nào đó, Lòng Thương Xót là tinh thần của nền giáo dục Kitô giáo – rằng thương xót giúp chúng ta kiên nhẫn, sẵn lòng lắng nghe và an ủi, có khả năng giải thích một điều 50 lần và lặp lại cùng một nhiệm vụ vô thời hạn, sẵn sàng mở rộng con tim và vòng tay để chào đón người con hoang đàng và tha thứ “bảy mươi lần bảy”. Trên hết, Lòng Thương Xót giúp chúng ta chấp nhận con người mình như chúng ta đã được Chúa dựng lên, nguyên tuyền không bợn nhơ. Tiếng nói của chúng ta sẽ có trọng lượng hơn trên con cái bởi vì nó không dựa trên sức mạnh của chúng ta, mà dựa vào Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ trở nên nhẫn nại hơn với chúng bởi vì chúng ta sẽ không ngừng cậy dựa vào Lòng Thương Xót vô biên của Ngài giữa tất cả những yếu đuối và lầm lạc của ta.
Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những hoa trái vô tận mà biến PS 2-ABC471
Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những hoa trái vô tận mà biến cố này mang lại cho đời sống của người Ki-tô hữu. Trong cả chu kỳ ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Phục Sinh này là Chúa Nhật về Đức Tin.
Cv 5: 12-16
Đức tin của các tín hữu tiên khởi được thể hiện ở nơi sự đồng tâm nhất trí của họ, điều đó gây nên sự thán phục và lôi kéo những người theo đạo mỗi ngày một đông hơn. Đức tin của các Tông Đồ được thể hiện ở nơi những việc lạ lùng các ngài thực hiện, điều đó làm chứng rằng Đấng Phục Sinh khải hoàn đang hoạt động.
Kh 1: 9-11a, 12-13, 17-19
Đức tin của nhà thấu thị Pát-mô được sáng tỏ nhờ thị kiến vinh quang về Đức Ki-tô Phục Sinh, điều đó đem lại niềm hy vọng và an ủi cho các Ki-tô hữu bị bách hại. Ga 20: 19-31
Đức tin của thánh Tô-ma Tông Đồ đã trải qua từ nghi nan ngờ vực đến bằng chứng tỏ tường về biến cố Phục Sinh. Qua thánh Tô-ma, Đấng Phục Sinh nhắn gởi với những Ki-tô hữu của mọi thời, những người không được diễm phúc như thánh nhân: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
BÀI ĐỌC I (Cv 5: 12-16)
Trong những chương đầu tiên sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nhiều lần phác họa cuộc sống của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một trong những bức phác họa này. Vào năm A, bức phác họa đầu tiên xoay quanh cộng đoàn huynh đệ và đời sống cầu nguyện (Cv 2: 42-47); vào năm B, bức phác họa thứ hai tập trung vào cộng đoàn chia sẻ đến mức mọi sự đều là của chung (4: 32-35). Vào năm C này, bức phác họa thứ ba nêu bật những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện.
1. Một cộng đoàn mẫu mực:
Cộng đoàn Ki-tô hữu giữa lòng Do thái giáo hình thành nên một khuôn mẫu về đạo đức, lòng nhiệt thành và một lòng một ý với nhau: “Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-mon”.
Hành lang Sa-lô-mon là hành lang rộng nhất và chứa nhiều người nhất trong số các hành lang bên trong khuôn viên Đền Thờ. Hành lang này dành cho dân ngoại, vì thếm những người Ki-tô hữu tiên khởi có thể tụ họp đông đúc ở đây. Thánh Phê-rô thường ngỏ lời với đám đông ở đây.
Những Ki-tô hữu tiên khởi, xuất thân từ Do thái giáo, tiếp tục tham dự đời sống tôn giáo của dân Ít-ra-en: “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ” (Cv 2: 46). Những người Ki-tô hữu tiên khởi ý thức rằng niềm tin vào Chúa Ki-tô không đoạn tuyệt nhưng kiện toàn niềm tin Do thái giáo; chính niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh hoàn tất niềm tin Do thái giáo của họ. Đó là lý do tại sao thánh Lu-ca gọi họ là “tín hữu”. Họ muốn làm chứng niềm tin của mình vào Đấng Phục Sinh ở giữa lòng Thành Thánh, bất chấp những nguy hiểm mà họ có nguy cơ gặp phải và điều này sẽ được minh chứng ngay sau đó. Sự đoạn giao sẽ đến từ phía giai cấp lãnh đạo Do thái giáo, chứ không từ phía dân chúng, dân chúng “ca tụng họ”. Trước đây, thánh Lu-ca cũng đã nói rằng các Ki-tô hữu “ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2: 47). Số tín hữu mỗi ngày mỗi thêm đông: “Càng ngày càng có thêm nhiều người tin vào Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông”. Qua kiểu nói tuyệt vời này, thánh Lu-ca nêu bật rằng những người mới theo đạo không kết nạp mình vào một nhóm, nhưng gắn bó với con người của Chúa Ki-tô.
2. Nối tiếp sứ mạng của Đức Giêsu:
“Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ”. Đây là cách diễn tả rất khái quát mà thánh Lu-ca đã sử dụng rồi và thánh nhân sẽ còn sử dụng nữa (x. 2: 43; 6: 8). Thánh ký kể ra vài trường hợp: chữa lành một người què bên Cửa Đẹp (3: 1-9), hay chữa lành một người bại liệt ở Lốt (9: 32-35), hoặc cho một người chết sống lại ở Gia-phô (9: 36-42). Trong vài trường hợp này, thánh ký chỉ ghi nhận hai điều đặc biệt: việc đám đông ngưỡng mộ thánh Phê-rô chứng nhận rằng họ nhận ra ở nơi thánh nhân “vị lãnh tụ của các tín hữu” và danh tiếng của các Tông Đồ vượt ra bên ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện được định vị vào trong cùng một bối cảnh với những việc lạ lùng mà Chúa Giêsu đã thực hiện; chúng nhằm hỗ trợ cho lời rao giảng. Nói một cách chính xác, những việc lạ lùng này cho thấy rằng sứ điệp của các Tông Đồ đồng nhất với sứ điệp của Chúa Giêsu, và đồng thời Đấng Phục Sinh đang hiện diện và hoạt động qua các môn đệ của Ngài.
Chúng ta nên lưu ý rằng thánh Lu-ca cho rằng niềm tin Ki-tô giáo được lan tràn không do những việc lạ lùng của các Tông Đồ, nhưng do cách ăn nếp ở của các tín hữu khiến dân chúng thán phục.
BÀI ĐỌC II (Kh 1: 9-11, 12-13, 17-19)
Nhà giảng thuyết lừng danh, Giám Mục Bossuet, đã định nghĩa sách Khải Huyền của thánh Gioan là “Tin Mừng về Đấng Phục Sinh”. Quả thật, toàn bộ tác phẩm này, với muôn vàn hình ảnh, ca ngợi vinh quang của Chúa Ki-tô khải hoàn, Con Chiên sát tế đã trải qua từ sự yếu đuối đến quyền năng, cùng ngự trị với Thiên Chúa và khai mở một cuộc chiến vĩ đại chống lại những thế lực sự ác. Ngài diệt trừ tận căn thế lực sự ác, trong khi lại ban muôn vàn ân phúc cho những người được tuyển chọn ở thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Vào Mùa Phục Sinh này, Phụng Vụ giới thiệu cho chúng ta trong sáu tuần lễ liên tiếp những đoạn trích sách Khải Huyền. Hôm nay chúng ta đọc thị kiến khai mạc, thị kiến này giới thiệu toàn bộ sách, nhưng đặc biệt hơn, giới thiệu phần thứ nhất từ chương 1 đến chương 4.
1. Văn chương khải huyền:
Từ ngữ “Khải Huyền” được phiên dịch từ từ ngữ Hy-lạp: “apocakalupto” (“apo”: tách riêng ra, và “kulupto”: che dấu) để chỉ “những điều bí nhiệm được vén mở ra”, đồng nghĩa với từ “mặc khải”, như những lời đầu tiên của sách Khải Huyền: “Mặc khải của Đức Giêsu, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến” (1: 1).
Văn chương khải huyền phát sinh vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để tiếp tục sự nghiệp của trào lưu ngôn sứ vào lúc đó đã biến mất. Văn chương khải huyền vén mở những bí nhiệm, giải thích những giấc mộng, vân vân; văn chương này cốt yếu dùng ngôn ngữ biểu tượng. Những hình ảnh, màu sắc, con số, sự vật hay con vật, những điều huyền hoặc là những lối nói phóng dụ, không dể giải mã ý nghĩa của chúng.
Sách Khải Huyền đầu tiên là sách Đa-ni-en (đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên); văn thể này đã được vài bản văn Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a dọn đường. Sách Khải Huyền của thánh Gioan mượn rất nhiều ở nơi các vị tiền nhiệm này. Sách Đa-ni-en đã được viết khi dân Do thái phải chịu cuộc bách hại khủng khiếp dưới thời thống trị của vua Xy-ri là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, giữa những năm 167 và 164 trước Công Nguyên. Mục đích của tác giả là an ủi và khích lệ các tín hữu trung thành, họ phải đối mặt với những hành động tàn bạo và cái chết, đồng thời cho họ nghe tiếng nói tràn đầy hy vọng. Đó cũng là ý định của thánh Gioan khi viết tác phẩm Khải Huyền này vào thời kỳ bách hại dữ dội, chính thánh nhân cũng bị lưu đày ở đảo Pát-mô. Chắc chắn đây là cuộc bách hại của hoàng đế Đô-mi-xi-ô vào những năm 93-96, sau Công Nguyên, tuy nhiên, vài đoạn văn có thể đặt niên biểu vào cuộc bách hại của vua Nê-rô (năm 64 sau Công Nguyên). Tác giả viết tác phẩm của mình nhằm nâng đỡ những người Ki-tô hữu “kiên trì chịu đựng” (diễn ngữ này được lập đi lập lại nhiều lần) trong cảnh đời gian truân thử thách, đặc biệt khi phải đối mặt với cuộc tử đạo, đồng thời cho họ thoáng thấy vinh quang tương lai bên cạnh Chúa Ki-tô khải hoàn.
Khuôn mẫu văn chương này dâng hiến hai lợi ích: trước hết, những hình tượng cho phép thiết lập ngôn ngữ mật mã, một thái độ cẩn trọng cần thiết trước thế lực bách hại. Vì thế, Rô-ma không được nêu tên, nhưng được chỉ dưới những ngôn từ khác nhau: Ba-by-lon, Con Vật, con điếm, con số 666. Thứ nữa, những sách khải huyền có mối liên hệ gần gũi với thể loại ngôn sứ, vì thế, nhà thấu thị Pát-mô muốn truyền đạt một sứ điệp với tư cách ngôn sứ.
2. Tôi là Gioan…
Những sách khải huyền Do thái có một nét đặc trưng chung là vô danh. Các tác giả không nêu tên mình; họ cẩn trọng đặt nhan đề tác phẩm của mình dưới tên một nhân vật quá khứ lừng danh, như tác giả sách Đa-ni-en đã làm (ông Đa-ni-en đã sống vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên trong khi tác giả sách Đa-ni-en sống vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên). Cũng một cách như vậy, sách Ê-nốt (tên của một tổ phụ), sách Quy Thiên của ông Mô-sê, sách thứ tư của ông Ét-ra, sách Khải Huyền của ông Ba-rúc…
Trái lại, các sách ngôn sứ đều nêu tên chính vị ngôn sứ ấy: “Có Lời của Đức Chúa phán với” ông A-mốt, ông Hô-sê, ông I-sai-a, ông Giê-rê-mi-a, ông Ê-dê-ki-en, vân vân. Ngay từ đầu sách, thánh Gioan phá vỡ truyền thống của các sách khải huyền Do thái: ông tự nêu tên mình và tự định vị mình vào hàng ngũ các ngôn sứ. Các sách khải huyền Do thái xoay quanh sự đăng quang của thời cánh chung, trong khi sách Khải Huyền của thánh Gioan đem đến câu trả lời Ki-tô giáo: sự đăng quang này sẽ là sự đăng quang của Chúa Ki-tô, Con Chiên bị sát tế khải hoàn.
Gioan là ai? Truyền thống xa xưa nhất nhận dạng ông với vị Tông Đồ Gioan, con ông Dê-bê-đê, tác giả Tin Mừng Thứ Tư. Lúc ấy, thánh nhân bị lưu đày ở đảo Pát-mô “vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và làm chứng cho Đức Giêsu”. Theo thánh Victorien, giám mục Pettau, ở Xy-ri, tử đạo dưới thời hoàng đế Dioclétien, thánh Gioan đã bị kết án khổ sai tại các hầm mỏ.
Các nhà chú giải hiện đại đã nêu lên nhiều vấn đề trong đó vấn đề ngôn ngữ của sách Khải Huyền khác với ngôn ngữ của sách Tin Mừng Gioan. Tuy nhiên đề tài trung tâm: Con Chiên, con chiên bị sát tế, Đấng Cứu Chuộc, nguồn ơn cứu độ, Đấng khải hoàn, là đề tài của Tin Mừng Gioan. Dù thế nào, chắc chắn tác giả đang sống trong cảnh gian truân và thấy mình liên đới với những người Ki-tô hữu bị bách hại: “Tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Ki-tô”. Chúng ta đã nói rồi, diễn ngữ“kiên trì chịu đựng” là một trong những từ then chốt của sách Khải Huyền. Còn về từ ngữ “vương quốc”, từ này được chính thánh ký nhiều lần minh giải. Đức Ki-tô “đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc” và cho chúng ta cùng ngự trị với Ngài (Kh 1: 5-6; 5: 10; 20: 6). Thánh Gioan muốn cho hiểu rằng việc kiên trì chịu đựng những nỗi gian truân cho phép chúng ta dự phần vào những đau khổ của Đức Ki-tô và cho phép chúng ta cùng ngự trị với Ngài.
3. Thị Kiến khai mạc:
Trong khi xuất thần, thánh Gioan thấy xuất hiện “Con Người”, nhân vật của sách Đa-ni-en này, mà Đức Ki-tô đã tự đồng hóa mình và Ngài đã nhận lấy danh xưng này cho mình, như một tước hiệu Mê-si-a. Ngôn sứ Đa-ni-en loan báo rằng “Con Người” này lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị” (Đn 7: 13-14). Khi kỳ hạn đến, Con Người là lãnh tụ của Giáo Hội, Chủ Tể vũ trụ, Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần và Chủ Tể Lịch Sử.
4. Ngày của Chúa:
Trong toàn bộ Tân Ước, diễn ngữ: “Ngày của Chúa” chỉ được gặp thấy ở đây. Quả thật, cho đến lúc đó chúng ta đọc thấy: “ngày thứ nhất trong tuần”. Đây là lần đầu tiên “ngày của Chúa”, tức là ngày Chúa Nhật, được kể ra rõ ràng. Trong Cựu Ước, “Ngày của Chúa” có nghĩa “Ngày của Đức Chúa”, ngày phán xét vào thời cánh chung. Ấy vậy, đối với người Ki tô hữu, sự Phục Sinh của Đức Ki-tô đã khai mạc thời kỳ cánh chung; đó là lý do tại sao những cử hành ngày Chúa Nhật của chúng ta có một ý nghĩa vừa phục sinh vừa cánh chung.
Cung giọng nỗi bật của sách Khải Huyền là cung giọng phụng vụ. Việc gợi lên “có một tiếng lớn như tiếng kèn”, kèn là dụng cụ truyền thống được sử dụng trong phụng vụ Do thái, rõ ràng nhấn mạnh cung giọng phụng vụ: “Tôi xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn”.
5. Đấng Phục Sinh, Thủ Lãnh Giáo Hội:
Như các ngôn sứ khác, thánh Gioan thấy và nghe; ngoài ra, thánh nhân còn được Thiên Chúa yêu cầu phải viết và gởi sứ điệp đến cho bảy Hội Thánh của miền Tiểu Á. Quả thật, thư gởi cho bảy Hội Thánh chiếm lấy phần thứ nhất của sách Khải Huyền. Con số bảy là con số chỉ sự viên mãn và chiều kích hoàn vũ; sứ điệp có giá trị đối với toàn thể Giáo Hội. Con số bảy là một trong những con số thường hằng của sách Khải Huyền: bảy Thần Khí Thiên Chúa, bảy ngôi sao, bảy dấu ấn, bảy tiếng kèn, bảy đầu, bảy sừng, bảy con mắt, vân vân.
Cũng con số bảy là “bảy cây đèn bằng vàng”, chính xác biểu thị bảy Hội Thánh, như được xác định rõ phía dưới một chút (Kh 1: 20). Con Người xuất hiện ở giữa bảy cây đèn bằng vàng này, tức là Đức Ki-tô sống giữa Giáo Hội của Ngài, Ngài là Thủ Lãnh. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan cũng sử dụng cùng cách nói như tác giả sách Đa-ni-en: “Có ai giống như Con Người”. Đây là từ “như” thứ nhất trong nhiều từ “như” của sách Khải Huyền, ví dụ, xuống dưới một chút chúng ta gặp thấy: “Khi thấy Người, tôi nằm vật xuống dưới chân Người, như chết vậy”. Tất cả từ “như” này đều nhằm nhấn mạnh những phỏng chừng không thể tránh khỏi của ngôn ngữ phàm nhân toan tính diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa.
Cũng chính trong sách Đa-ni-en (nhưng thị kiến của chương 10 chứ không còn ở chương 7), mà thánh Gioan mượn vài nét đặc trưng kể chuyện như: “Tôi là Đa-ni-en… đang ở ven sông Cả, tức là sông Tích-ra, tôi ngước mắt nhìn lên, thì này: Một người mặc áo vải gai, lưng thắc đai vàng U-phát, thân mình giống kim lục thạch, dung mạo ví như ánh chớp… Tôi nghe tiếng người vang dội. Vừa nghe thấy, tôi liền ngất xỉu, chúi mặt xuống đất… Bấy giờ đấng giống như con người lại đụng đến tôi một lần nữa và làm cho tôi nên can đảm. Người nói: “Hỡi người được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm… Ta sắp báo cho ngươi biết điều đã được ghi chép trong sách sự thật” (Đn 10: 2-21). Trong sách Khải Huyền, Con Người, mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng: áo chùng chắc chắn là phẩm phục tư tế, áo bằng vải len và đai bằng vàng chắc chắn là huy hiệu vương đế.
6. Chủ Tể hoàn vũ:
“Ta là khởi nguyên và là cùng tận”. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sử dụng hai lần biểu thức này cho Đức Chúa: “Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta” (Is 44: 6 và 48: 12). Diễn ngữ này cũng được lập lại hai lần trong sách Khải Huyền (Kh 2: 8 và 22: 13).
Như vậy, Chúa Giêsu khẳng định thần tính của Ngài và đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài là khởi nguyên và cùng đích; Ngài có quyền trên vũ trụ và Lịch Sử; Ngài đã có trước muôn loài muôn vật.
7. Đấng Hằng Sống:
Kiểu nói“Ta là Đấng Hằng Sống” cũng quy chiếu đến thần tính của Chúa Giêsu. Cựu Ước gọi Đức Chúa là “Thiên Chúa Hằng Sống”, nhất là đối lập Người với các thần linh của dân ngoại, chúng chỉ là ngẫu tượng do tay nghệ nhân làm ra, còn Đức Chúa mới là Đấng Hằng Sống.
8. Đấng chiến thắng tử thần:
Đấng Phục Sinh cũng là Đấng Hằng Sống vì Ngài đã chiến thắng tử thần: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”. “Ta giữ chìa khóa của Tử Thần và Âm Phủ”. Chúng ta có thể thấy ở đây một ám chỉ đến việc Đức Ki-tô xuống Âm Phủ mà thánh Phê-rô gợi lên trong thư thứ nhất của thánh nhân (1Pr 3: 19-21) và thánh Phao-lô dường như ám chỉ đến việc này nhiều lần (Rm 10: 6-10 và Ep 4: 9).
9. Chủ Tể Lịch Sử:
Câu cuối cùng: “Vậy, ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này”, xem ra là một lời loan báo cách khái quát bố cục của sách Khải Huyền; nhưng đó không phải muốn nói rằng Đấng Phục Sinh là Chủ Tể của quá khứ, hiện tại và tương lai sao?
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Ki-tô của niềm tin đích thật là Đức Giêsu của lịch sử. Các Tông Đồ đã đích thân chứng thực Đấng Phục Sinh; hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, mà vài ngày sau đó các ngài đã được hưởng thêm một sự kiểm chứng xác thực nữa.
Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giêsu hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc toàn bộ bài trình thuật này thành hai giai đoạn: Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông Đồ không có thánh Tô-ma đúng vào buổi chiều Phục Sinh (20: 19-25) và Ngài hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó cũng vào buổi chiều (20: 26-29).
1. Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho các Tông Đồ không có thánh Tô-ma (20: 19-23):
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời gian này thì rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki-tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giêsu xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.
Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì rõ ràng không có mặt thánh Tô-ma, thánh nhân xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc hội họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ngài để thông bào cho các ngài biết những biến cố vừa mới xảy ra: cuộc khám phá ngôi mộ trống, việc chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời kể của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la khẳng định là mình đã gặp Đức Giêsu và Ngài đã nói với bà.
Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, thêm nữa là nỗi sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. “Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ giai cấp lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, bây giờ họ sẽ không ra tay bắt các môn đệ của Ngài sao?
Và này Đức Giêsu bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa vẫn đóng then vẫn cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã định vị mình ở bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.
A- Bình an cho anh em:
Đây là lời chào hỏi truyền thống của dân Ít-ra-en, nhưng lời chào đầu tiên của Đấng Phục Sinh gởi đến các môn đệ không bao giờ chỉ là là lời chào hỏi xả giao. Đức Giêsu đem đến sự bình an của Ngài, bình an mà Ngài đã hứa, cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nãn và thất vọng; Ngài đem đến sự bình an từ sự hiện diện của Ngài và sự tha thứ của Ngài; không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một thân một mình trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn.
Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giêsu cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như bằng chứng về sự đồng nhất giữa thân thể phục sinh của Ngài và thân thể khổ nạn của Ngài. Ở đây chúng ta đo lường tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ; mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ, nhưng là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, ghi dấu những vết thương của cuộc khổ nạn. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi trong bài trình thuật song đối, thánh Lu-ca viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể tình tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; thánh nhân đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban tận cùng của Chúa Ki-tô. Thánh ký đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về sự sinh hạ Giáo Hội qua bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể, như trong bữa ăn Cáo Biệt, Chúa Giêsu đã diễn tả cuộc sinh hạ này qua hình ảnh của một bà mẹ trở dạ sinh con: “Khi snh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16: 21). Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa Giáo Hội sinh ra vào buổi chiều Phục Sinh dưới hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.
B- Sai đi thi hành sứ mạng:
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này về thân thế Đức Giêsu: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “Tông Đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giêsu xứng đáng với danh hiệu là “Đấng Được Sai Đi”.
Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên: với những người này, những người tự giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại và sợ hãi, Đức Giêsu truyền lệnh cho họ ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ với hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa. Việc sai đi thi hành sứ mạng tại thánh Gioan còn long trọng hơn tại thánh Mát-thêu. Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giêsu công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19).
C- Hơi thở Thần Khí:
“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7, được Kn 15: 11 lấy lại), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Qua việc thổi hơi vào các ông, Chúa Giêsu làm cho các môn đệ Ngài trở thành những con người mới và ban cho họ quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa: quyền tha thứ tội lỗi.
D- Tha thứ tội lỗi:
Qua những lời này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”, thánh ký diễn tả quyền tha tội theo kiểu nói sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu cũng sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi”: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt 16: 19; 18: 18).
“Tha thứ hay cầm giữ”, “cầm buộc hay tháo cởi” là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay cho phép. Các biểu thức nầy chỉ ra rằng các vị lãnh đạo tôn giáo được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giêsu mở rộng vô cùng tận ý nghĩa của biểu thức này. Đây cốt yếu là quyền tha tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng nhầm lẫn cách phát biểu sê-mít. Văn phong sê-mít chủ ý sử dụng lối biền ngẫu giữa một khía cạnh khẳng định và một khía cạnh phủ định, khía cạnh thứ hai: “cầm giữ” không nhằm mục đích nói ngược lại, nhưng tăng cường khía cạnh thứ nhất: “tha thứ”. Vì thế, không nhất thiết hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hơn nữa, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.
“Tha thứ tội lỗi” là thành quả tất yếu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Ki-tô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giêsu nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24: 45-47).
2. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt cho thánh Tô-ma (20: 24-29):
Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết của mình, thánh nhân đã dõng dạc công bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ thánh Tô-ma từ chối tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu nếu không có bằng chứng được thánh nhân đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính mỗi người chúng ta: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
A- Đức tin của thánh Tô-ma:
Đức Giêsu chạnh lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hĩ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, bởi vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải hiểu tâm trạng của thánh Tô-ma ở đây theo những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới thấy vài dấu chỉ trong ngôi mộ trống: “Ông đã thấy và đã tin”. Thánh Tô-ma đã ngộ ra trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được dành cho “Đức Giêsu”. Còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc thánh nhân trong nỗi thất vọng và phiền muộn: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
B- Đức tin của các tín hữu mọi thời:
Chúa Giêsu nói với thánh Tô-ma trước tiên: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”; đoạn khi nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như thánh nhân, Chúa Giêsu nhắn gởi với đám đông tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, rõ ràng dựa trên lời chứng của các Tông Đồ, trong đó lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất. Sau này, thánh Phê-rô cũng đã ca ngợi đức tin của các tín hữu theo cùng một cách như vậy: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rõ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1: 8-9).
Tám ngày sau khi Thầy sống lại, các tông đồ vẫn còn rét sợ, đóng cửa nhà, im thin thít. Vì họ PS 2-ABC472
Tám ngày sau khi Thầy sống lại, các tông đồ vẫn còn rét sợ, đóng cửa nhà, im thin thít. Vì họ chưa hoàn toàn chắc chắn về sự sống lại của Thầy, họ mới thấy được ngôi mộ trống và các băng vải quấn xác Thầy thôi. Mấy người phụ nữ trong nhóm họ đã kể lại những gì họ nghe thấy, nhưng vẫn chưa có gì chính xác. Họ sợ là phải, vì họ là môn đệ của một tử tội đã bị treo trên thập giá. Giết Thầy rồi có thể họ truy nã các môn đệ.
Các môn đệ đang họp nhau trong nhà. Họ vẫn còn mang tâm trạng hoài nghi, thì Chúa Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an. Ngài cho các ông xem chân tay và cạnh sườn Ngài. Thánh Gioan không nói đến những phản ứng của các môn đệ mà chỉ nói các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Nhưng Ngài làm thế nào để đứng giữa các ông khi các cửa nhà đều đóng kín? Ở đây thánh sử không nói gì về điều đó mà chỉ xem như ai cũng hiểu được rằng, sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã không còn như trước. Ngài đã trở nên một con người mới, Ngài không lệ thuộc vào vật chất nữa. Ngài hiện diện bất cứ ở đâu nhưng Ngài vẫn còn là con người, vì các môn đệ có thể sờ vào Ngài được. Thánh Gioan không cần chứng minh sự sống lại của Chúa mà chỉ chú trọng đến những việc Ngài làm. Chúng ta nhớ rằng, thánh Gioan viết quyển Tin Mừng của Ngài sau các sách Tin Mừng nhất lãm hơn 30 năm, vì thế ngài xem như người ta đã biết Chúa sống lại như thế nào rồi. Ngài phóng tầm nhìn về tương lai.
Thế rồi Chúa tiếp tục nói: “Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Đây là mệnh lệnh lên đường. Nhưng lên đường để làm gì, với những điều kiện như thế nào?
Nói xong Chúa thôi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai người ấy được tha…” Từ nay các ông sẽ hoạt động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, và Thánh thần đó chính là nguồn ơn tha thứ. Nguồn ơn tha thứ! Chúng ta có biết là gì không? Là sự sống mới. Nếu chúng ta không được tha thứ, chúng ta sẽ như thế nào? Và ơn đó đến từ một suối nguồn vô tận là Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá, chết và sống lại vinh hiển. Đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của lòng thương xót của Chúa Cha. Người đã thương chúng ta đến nỗi xót xa và đã ban Con Một của Người cho chúng ta. Chúng ta còn đòi hỏi gì nữa để vui mừng? Chúng ta không thấy rằng chúng ta hạnh phúc lắm sao?
Hạnh phúc của chúng ta là được tha thứ, được đổi mới, được lành mạnh, trong trắng, không còn vết nhơ, không còn nô lệ. Chúng ta hoàn toàn tự do đến với Chúa là nguồn vui và hạnh phúc. Không còn gì ngăn cản chúng ta đến với Chúa nữa.
Đức thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã chọn ngày lễ hôm nay để tôn kính lòng Thương xót Chúa là một điều hết sức hợp lý. Chúa Giêsu là Con Chiên vẹn sạch đã xóa tội trần gian, mang lại sự sống mới. Chúng ta, trong Chúa Kitô, đã trở thành những con người mới, những tạo vật mới. Cái cũ đã qua, chúng ta đang sống trong thời của lòng thương xót.
Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa các môn đệ. Ngài không nhắc đến sự chối từ của Phêrô, sự hèn nhát của các môn đệ, Ngài chú ý đến một con người cứng tin là Tôma. Tôma hành động như một đứa con cưng đòi hỏi theo ý mình: “Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh…” Chúa Giêsu chiều ý ông: “Tôma, hãy xỏ ngón tay anh vào đây…” Tất cả hành động, tiếng nói của Ngài tỏa ra một sự nhân từ khôn tả. Chúng ta nhớ ngày nào Ngài cũng nói một câu với một người nào đó: “Tôi cũng không lên án chị. Hãy về và đừng phạm tội nữa”. Chúng ta có mong được nghe tiếng nói ấy không, tiếng nói giải thoát, tiếng nói của tình yêu chân thành? Chúng ta đầy tội lỗi, chúng ta yếu đuối, chúng ta kém tin. Chúa không trách mắng ai cả, Ngài chỉ biết tha thứ, và không mõi mệt tha thứ.
Phêrô chối Thầy ba lần. Một lần còn tha thứ được, nhưng ba lần! Thế mà Chúa không hỏi gì khác mà chỉ hỏi: “Phêrô, anh có yếu mến Thầy không?” Và câu hỏi đã được lặp đi lặp lại ba lần khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận. Không, Ngài chỉ cần tình yêu và tình yêu sám hối. Chính tình yêu đó đã làm cho Tôma thốt lên lời tuyên xưng tuyệt hảo: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Tình yêu làm cho Tôma tin. Chúng ta có tin không? Tin đến mức độ nào? Tin đến mức độ liều mạng hay chỉ tin cho có? Chúng ta chỉ có thể tin thực sự khi chúng ta nhận ra chúng ta được yêu thương. Nhiều người giữ đạo mà chưa bao giờ nghĩ rằng tôi được yêu thương đến tận cùng, vì thế niềm tin của họ chỉ phớt nhẹ bên ngoài mà không ăn sâu vào đời sống, vào tâm hồn. Họ ngạc nhiên khi thấy những người quanh họ sống quyết liệt niềm tin của mình và không khuất phục trước những áp lực trần gian.
Đức tin đòi hỏi một quyết tâm mạnh mẽ chứ không chỉ là những ước mơ. Chúa Giêsu không yêu chúng ta một phần nào đó. Ngài yêu đến tận cùng, nghĩa là đến hết mọi khả năng của Ngài, yêu đến liều mạng. Khi chúng ta kiểm điểm những dấu chứng của tình yêu Ngài đối với chúng ta, chúng ta mới có thể nói như Tôma: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Đó không chỉ là một lời tuyên xưng mà là một tiếng nói yêu thương thốt ra từ tận đáy lòng vì đã nhìn nhận tình yêu của Chúa. Chúa Giêsu cũng nói với Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Như thế có thể hiểu rằng thời gian thấy được đã cáo chung. Chúng ta không cần Chúa đến đứng giữa chúng ta nữa, không cần xem thấy những vết thương nơi chân tay Ngài nữa, thời này là thời của nhân chứng. Chúng ta chỉ tin qua nhân chứng mà thôi. Nhân chứng đó hiện nay là Giáo hội, là những kẻ đã sống với Chúa, đã chứng kiến cái chết của Chúa và sự phục sinh của Ngài, và đã truyền lại cho các thế hệ sau này. Nhìn lại đức tin của chúng ta, nó bắt nguồn từ đâu? Phải chăng là từ Giáo hội? Giáo hội vẫn giữ được truyền thống ấy qua thời gian vì nơi Giáo hội có Chúa Thánh Thần, là hơi thở và là sự sống của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các tông đồ và đã sai các ngài đi: “Như cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Anh em sẽ là nhân chứng cho Thầy”. Giáo hội hôm qua cũng như hôm nay vẫn là Giáo hội của Chúa Kitô. Xét về một phương diện nào đó, Giáo hội là một cộng đoàn gồm rất nhiều người, vì thế có thể qua thời gian, Giáo hội có thể mắc nhiều sai lầm trên phương diện lịch sử, nhưng về đức tin thì không. Chúng ta vẫn tin rằng Chúa Thánh Thần bảo đảm đức tin của Giáo hội, và như thế Lời Chúa vẫn được gìn giữa vẹn toàn qua bao nhiêu sóng gió trần gian.
Khi chúng ta tin vào Giáo hội, chúng ta không bị lệch lạc trong đức tin và đồng thời, tất cả mọi Kitô hữu chúng ta, đến lượt mình, phải là nhân chứng cho Chúa Kitô, nhân chứng của tình yêu vô biên của Ngài. Chúng ta dám làm nhân chứng cho Chúa không? Làm nhân chứng bằng cả cuộc đời, bằng bác ái, bằng gương sáng trong mọi lãnh vực. Phải sống cho ra người Kitô hữu. Đó là một đòi buộc gắt gao, nhưng cũng là một hạnh phúc mà thế gian không thể biết được.
Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta ra đi. Nhưng Ngài vẫn biết chúng ta yếu đuối, hèn nhát. Ngài củng cố niềm tin của chúng ta bằng chính bản thân Ngài, Ngài đến nuôi chúng ta bằng chính thịt máu Ngài. Đó là dấu hiệu của tình yêu khôn tả của Ngài, đồng thời Ngài chứng tỏ rằng, không bao giờ Ngài vắng mặt. Ngài sống trong chúng ta một cách nhiệm mầu, nhưng có thật. Chúng ta đừng lừng khừng, do dự nữa. Phải dám sống, dám tuyên xưng đức tin vì Chúa chúng ta vẫn là nguồn sống duy nhất của chúng ta: “Ai hổ thẹn vì Ta trước mặt người đời thì Ta, Ta sẽ hổ thẹn vì người đó trước mặt Cha Ta”.
Tuyên xưng đức tin không chỉ là bằng lời, mà bằng cuộc sống trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Tuyên xưng đức tin như các Kitô hữu đầu tiên, là yêu thương nhau đến nỗi mọi người chung quanh đều bỡ ngỡ: “Kìa xem họ thương nhau biết bao!”
Vào tháng 4/2000, Thánh GH. Gioan Phaolo II đã quyết định thiết lập, ngày Chúa Nhật thứ II Phục PS 2-ABC473
Vào tháng 4/2000, Thánh GH. Gioan Phaolo II đã quyết định thiết lập, ngày Chúa Nhật thứ II Phục Sinh sẽ là ngày Kính Lòng Thương Xót Chúa; nhìn lại chặng đường 22 năm đã qua dưới ơn Thánh Chúa, chúng ta sẽ tự hỏi, tại sao lúc bấy giờ ĐTC lại chọn và quyết định thiết lập một ngày lễ như vậy? Có nhiều lý do, có thể là vì liên quan tới ngày ĐTC đã chọn để phong thánh cho Nữ Tu Faustina, vị Thánh có lòng sùng kính và cổ võ Lòng Thương Xót Chúa; cũng có thể là vì liên quan đến chính bản thân của Ngài, vì chính Ngài hơn bất cứ ai đã cảm nhận và tin rằng chính “Lòng Thương Xót Chúa” đã cứu chữa, che chở, giữ gìn và ban cho Ngài nhiều ơn thánh cách đặc biệt. Thật vậy, tối thứ bảy, trước Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa năm 2005, Chúa cũng đã gọi về nhà Cha trên trời để hưởng trọn lòng thương xót của Chúa và nay bên cạnh Chúa, Ngài là một vị Thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Giờ đây, trong tâm tình cảm tạ, chúng ta hãy để cho Lời Chúa ngày hôm nay soi sáng và hướng dẫn cho chúng ta về “sứ điệp tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Bài đọc một (Cv 5, 12-16) tường thuật cho chúng ta biết, lòng thương xót Chúa được thể hiện như thế nào? Qua các phép lạ cả thể mà Chúa Phục Sinh đã ban cho các Tông đồ năng quyền để thực hiện, nhờ đó mà có biết bao nhiêu người đau ốm, bệnh tật đủ các thứ chứng bệnh đều được chữa lành. Quan trọng hơn thế nữa, lòng tin của dân chúng vào Chúa ngày càng được gia tăng nhờ vào sứ vụ sống chứng tá yêu thương phục vụ của các Tông đồ. Thật vậy, ơn chữa lành-cứu sống, ơn được gia tăng-củng cố niềm tin và lòng mến vào Chúa chính là ơn sủng của lòng Chúa thương xót. Điều này đang mời gọi chúng ta hãy đến với Chúa với lòng tín thác, cậy trông cho dù chúng ta đang phải sống trong những hoàn cảnh rất tế nhị, đau khổ và thử thách như hiện nay.
Bài đọc hai (Kh 1, 9-19) với thị kiến của Thánh Gioan, chúng ta được Lời Chúa soi sáng cho biết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nên Ngài đã mạc khải Lời Hằng Sống cho chúng ta qua ngôn ngữ của con người, để chính nhờ Lời Chúa mà chúng ta luôn được soi sáng, hướng dẫn, giáo huấn, nhờ đó có thể sống và trở nên người con làm đẹp lòng Chúa, sống đúng phẩm giá là môn đệ Chúa Giêsu. “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.
Tin mừng (Ga 20,19-31) giúp chúng ta khám phá và nhận ra sự kiên nhẫn chờ đợi của Thiên Chúa, Đấng ban ân sủng cho con người. Chúng ta sẽ tự hỏi: Đứng trước vô vàn ơn ban cách nhưng không của Thiên Chúa, có bao nhiêu người trong chúng ta đã tin, chấp nhận Chúa và tôn thờ Ngài? Tôma trong Tin mừng hôm nay vừa là nhân chứng và là mẫu gương cho chúng ta. Dù ông đã theo Chúa, là môn đệ của Chúa, dù được Chúa soi sáng và chỉ dạy; ngay cả khi Tôma được các môn đệ khác cho biết và làm chứng về Chúa, Đấng đã sống lại cùng hiện ra, thì ông vẫn chưa tin. “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đặt con người của Tôma vào trong vị trí và hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, liệu chúng ta có chấp nhận và tin Chúa đã sống lại hay không? Thật khó để tin! Vì đây là cách suy luận thông thường của lòng trí con người. Chính vì lẽ này mà chúng ta thấy lòng dạ của con người hẹp hòi trước sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa. Dẫu vậy, Chúa đã tạo mọi điều kiện để giúp cho con người; “Tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các môn đệ, và lần này có Tôma”. Chúa đã ân cần mời gọi ông “Tôma, đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Có thể nói, Tôma cứng đầu hay thiếu lòng tin; nhưng thật ra, chúng ta phải cảm tạ Chúa vì qua con người thật của Tôma, chúng ta nhận ra chính con người thật của mình, cũng còn rất nhiều yếu đuối và cứng lòng. Điều quan trọng ở đây là, khi chấp nhận và tin, Tôma có một thái độ khiêm tốn, một đức tin chân thật, kiên trung cho đến cùng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Tôma là môn đệ đầu tiên đã tuyên xưng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, không những thế, sau này, trên hành trình truyền giáo, Tôma đã làm chứng về niềm tin của mình vào Chúa bằng chính cái chết và mạng sống của Ngài.
Anh chị em rất thân mến, qua việc Tôma tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa; chúng ta cũng được Chúa mời gọi để nhìn lại chính niềm tin và cách sống chứng tá của chúng ta vào Chúa. Đức tin vừa là một ơn ban, là niềm hạnh phúc mà Chúa dành cho chúng ta. Đồng thời, Chúa cũng đang chờ đợi sự đáp trả của ACE và tôi; vậy, chúng ta hãy đến với lòng thương xót Chúa, hãy vững tin vào tình thương của Ngài và trở nên nhân chứng tình thương Chúa cho ACE mình. Amen.
Ngày Chúa nhật là “ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh.
Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông đồ cảm thấy như còn thật PS 2-ABC474
Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông đồ cảm thấy như còn thật mới mẻ sống động, một biến cố mà mình là nhân chứng.
Câu chuyện muốn nói lên rằng Chúa Giêsu sống lại chính là Đấng trước đây, nhưng cũng khác trước đây. Gioan đã nhìn thấy Ngài bị đâm thấu cạnh sườn trên Thập giá (19,34) thì hôm nay, Ngài tỏ cho thấy vết thương nơi tay và cạnh sườn. Chính là Ngài, nhưng Ngài đã đi vào một cõi sống mới, không lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài đem đến sự bình an và vui mừng. Chúa đã sống lại.
Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Hôm nay, Ngài đến để trao cho các ông sứ mạng phổ cập ơn cứu rỗi đó. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Sứ mạng biệt sai phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài thổi hơi và phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Một trong mục đích của cuộc biệt sai là ban ơn tha thứ: “Các con tha tội ai thì tội kẻ ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ơn tha tội được bảo đảm bằng sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, nhưng cũng qua trung gian của Giáo hội: tha cho ai, cầm buộc ai, kẻ ấy được tha hay bị cầm buộc. Thật là một quyền năng lớn lao và vĩ đại.
Sự kiện xảy ra chiều Phục Sinh.
Nhưng hôm ấy, trong nhóm môn đệ, thiếu mặt Tôma, một người không phải là dễ bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy, tai nghe, tay sờ đụng. Người ta dùng lý trí để lý luận, kiểm chứng. Nhưng người ta cũng có thể dựa trên niềm tin để tăng phần kiến thức.
Khi nghe các bạn cho biết họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại, Tôma không tin. Là người thực tế ông muốn được kiểm chứng bằng giác quan, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, ông mới tin.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, có Tôma ở với các ông. Chúa Giêsu cho Tôma và qua Tôma cho chúng ta, một bài học về Đức Tin. TIN không phải là nhìn thấy, sờ đụng, mà là dựa trên chứng từ những kẻ đã “thấy” và “chiêm gưỡng” vinh quang của Chúa. Niềm tin vào mầu nhiệm sống lại của chúng ta dựa trên chứng tích của các Tông đồ và của Giáo hội. Trong bài giảng đầu tiên, Phêrô tuyên bố: “Đức Giêsu, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy” (Cv 2, 32).
Đó là căn bản nhưng cũng là phần thưởng của Đức Tin: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”, và nhờ đó chúng ta được sống nhờ danh Ngài.
Hồi ấy, dân chúng đồn thổi và kéo nhau đi xem một phép lạ Phép Thánh Thể. Có người mời Vua Thánh Louis (1214-1270) cùng đi xem. Thánh nhân từ chối vì “không muốn mất phần thưởng về Đức Tin”.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn Đức Tin và hãy gìn giữ, bám víu lấy Đức Tin, ngọn đuốc soi sáng ta trên cuộc đời đen tối.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: Nhóm Sao Biển)
ƯỚC MONG MÙA PHỤC SINH MANG BÌNH AN ĐẾN CHO CHÚNG TA
Bài Tin mừng Chúa nhật II Phục sinh nhắc nhớ cho chúng ta tầm quan trọng của sự bình an. Chúng PS 2-ABC475
ta không những phải lo tìm kiếm bình an trong tâm hồn, nhưng còn phải biết kiến tạo bình an trong cộng đoàn và trên khắp thế giới.
Trong bài Tin mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, trao ban Thánh Thần cho họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Lời tuyên bố này thường được giải thích như là việc Chúa Giêsu trao cho các môn đệ quyền tha tội, vốn là nền tảng của Bí tích Hòa giải. Ân huệ Thánh Thần này như một lời báo trước lễ Hiện Xuống, được cử hành vào cuối mùa Phục sinh.
Nhưng nếu chỉ tập trung vào việc trao ban Thánh Thần và quyền tha tội, chúng ta có thể bỏ lỡ cách Chúa Giêsu khởi đầu cuộc gặp gỡ với các môn đệ khi nói: “Bình an cho anh em”. Hơn nữa, khi Tôma tuyên bố ông chỉ tin khi nhìn thấy Chúa Chúa Giêsu đã chào Tôma bằng cách ban bình an trước khi trách thái độ của ông. Trước khi trao quyền cho các môn đệ cũng như để xua tan nghi ngờ và duy trì đức tin, Chúa Giêsu đã đặt nền cho mối tương quan của họ trong sự bình an.
Hơn là một lời chào đơn giản, bình an trong truyền thống Kinh thánh có thể gắn liền với công bình, lòng thương xót và chân lý. Qua lời chào bình an với các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải mong muốn những người theo Ngài phải có bình an trong cuộc sống của bản thân và dùng thừa tác vụ trao ban bình an để làm phong phú cho cộng đoàn. Cần lưu ý rằng Chúa Giêsu tạo cảm hứng cho cộng đoàn Kitô bằng cách kêu gọi bình an trước khi trao quyền thực thi tác vụ.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, một trong những yếu tố của Thánh lễ được lược bỏ hay điều chỉnh lại, đó là cử chỉ chúc bình an thường được thể hiện qua việc bắt tay. Khi thực sự lo ngại dịch bệnh lây lan, người ta hạn chế tiếp xúc cơ thể vì sự an toàn cộng đồng. Việc điểu chỉnh quan trọng này nhằm đảm bảo sức khỏe thể lý và tinh thần, đồng thời đó là dấu chỉ tình yêu và sự bảo vệ. Khi các hạn chế được nới lỏng, một số nhà thờ đã áp dụng lại cử chỉ chúc bình an trong Thánh lễ, mặc dù nhiều người vẫn chọn cách vẫy tay chào những người xung quanh để hạn chế tiếp xúc cơ thể.
Khi những cách thức để chia sẻ dấu chỉ bình an có thể đã thay đổi, thì vẫn nên duy trì tâm tình. Trong khi cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta nên dành một khoảng lặng để cầu bình an cho anh chị em, lặp lại những lời của Chúa Giêsu và thể hiện sự quan tâm đến hạnh phúc của nhau. Lời chúc bình an cho nhau giúp tăng triển mối dây liên kết và hiệp nhất cộng đoàn trong việc cùng sẻ chia niềm tin nơi Chúa Kitô và san sẻ hy vọng cho người khác.
Sống trong một thế giới đầy khổ đau và bạo lực, chúng ta rất cần sự bình an. Chúa Giêsu - Hoàng tử Hòa bình và Đức Maria - Nữ Vương Hòa bình có thể gợi hứng những lời cầu nguyện cho hòa bình và nỗ lực của chúng ta trên thế giới. Khi tiến bước trong mùa Phục sinh, chúng ta sẽ nghe nhiều hơn về những lần Chúa Giêsu hiện ra sau phục sinh, việc trao ban bình an cũng như lời hứa ban Thánh Thần sẽ được nhắc lại. Ước mong chúng ta biết tận dụng thời gian này để cầu nguyện và nỗ lực hành động cho hòa bình thế giới.
Lòng thương xót Chúa được thể hiện qua mỗi Thánh lễ hằng ngày
Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Lòng thương xót Chúa dành cho nhân loại đạt tới mức cao nhất, lớn PS 2-ABC476
Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Lòng thương xót Chúa dành cho nhân loại đạt tới mức cao nhất, lớn lao nhất vào lúc nào?
Tất nhiên là lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện đến mức cao nhất, tuyệt vời nhất và lớn lao nhất nơi cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Qua biến cố đau thương này, Chúa Giêsu đón nhận vô vàn đau thương khốn khổ để đền tội thay cho nhân loại và Ngài đã chết thay cho muôn người để họ khỏi phải sa hỏa ngục và mở cửa cho họ vào thiên đàng. Đỉnh cao của lòng thương xót Chúa là đây!
Và điều đáng ghi nhớ là cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu không chấm dứt cách đây hơn 2.000 năm, nhưng vẫn còn tiếp diễn, tiếp diễn không ngừng trong các Thánh lễ được cử hành liên tục từng giờ, từng phút suốt dòng lịch sử nhân loại. Giáo lý Hội thánh dạy rằng “Hy tế khổ giá của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê kéo dài qua các thời đại cho đến tận thế” (GLHTCG số 1323), “Thánh lễ hiện tại hóa hy tế thập giá của Chúa Giêsu” (GLHTCG số 1366) hay nói dễ hiểu hơn “Hy tế của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê năm xưa và Thánh lễ hôm nay chỉ là một, vì chỉ có một Lễ vật duy nhất là Đức Ki-tô; hôm xưa, chính Ngài tự dâng mình trên thập giá, hôm nay, Ngài lại dâng mình nhờ tay linh mục” (GLHTCG số 1323. 1367).
Như vậy, Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót bao la không bờ không bến của Ngài qua các Thánh lễ được hiến dâng mỗi ngày.
Thánh lễ là nơi Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót vô biên của Ngài qua 3 hồng ân lớn sau đây:
Thứ nhất, Bằng cuộc thương khó và tử nạn của mình được tiếp diễn trong Thánh lễ, Chúa Giêsu hiến dâng thân mình đền tội thay cho chúng ta, chết thay cho chúng ta… để tha thứ tội lỗi cho ta, nhằm cứu ta khỏi sa hoả ngục đời đời (GLHTCG số 1365 [1], 1367 [2] và 1366).
Như thế, qua Thánh lễ, lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta thật là vô biên, vô hạn.
Thứ hai, Vì yêu thương chúng ta vô biên vô hạn, Chúa Giêsu trao ban Thịt Máu Ngài làm lương thực cho ta, để nhờ đón rước Ngài vào lòng, chúng ta được hòa chung nên một với Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu, như ao nước nhỏ hòa với đại dương… đúng như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy (Ga 6, 56). Nhờ đó, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một và con người bụi đất hèn hạ này được nâng lên làm một với Đấng tối cao.
Thứ ba, Một khi chúng ta được nên một với Chúa qua việc rước mình thánh Ngài, Chúa Giêsu thông ban sự sống cao vời của ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta; nhờ đó ta được mang sự sống của Thiên Chúa trong ta và được sống đời đời với Thiên Chúa như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Như thế, chẳng còn ơn nào trọng hơn 3 hồng ân trên đây; không có gì cao quý bằng 3 hồng ân tuyệt vời này.
- Vậy thì chúng ta cần phải đến tôn vinh lòng thương xót Chúa ở đâu? - Tất nhiên là đến với Thánh lễ hằng ngày, vì đây là nơi Chúa Giêsu thi thố lòng thương xót cao vời của Ngài cho tất cả chúng ta.
Vì thế, ai quay lưng lại với Thánh lễ là quay lưng lại với lòng thương xót Chúa; ai thờ ơ không tham dự Thánh lễ là không muốn đón nhận lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Không có tình thương nào lớn lao cho bằng tình thương của Ngôi Hai Thiên Chúa nộp mình chịu thương khó, chịu chết trên thập giá để đền tội cho những con người hèn mọn chúng con.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa khi trao ban mình máu thánh Chúa cho chúng con để chúng con được hoàn toàn nên một thân mình, một dòng máu với Chúa.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa là Đấng đã trao ban sự sống đời đời của Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con biết tìm đến tôn vinh lòng thương xót Chúa trong các Thánh lễ hằng ngày để đón nhận những hồng ân lớn lao phát xuất từ tình thương bao la của Chúa.
------------------ [1] “Trong Thánh lễ, Chúa Ki-tô ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá, ban chính máu Ngài đã đổ ra cho mọi người được tha tội” [2] “Hy tế này (Thánh lễ) thực sự có giá trị đền tội”
Lời chào bình an cho các con" (c.19) có ý nghĩa gì? Tại sao nó được lặp lại hai lần (c. 21)? 2. Trình PS 2-ABC477
1. Lời chào bình an cho các con" (c.19) có ý nghĩa gì? Tại sao nó được lặp lại hai lần (c. 21)?
2. Trình thuật "Chúa hiện ra cho các môn đồ" nhấn ạmnh điểm nào? so sánh với Lc 24, 36- 49
3. Tại sao Thần khí được ban vào ngày Phục sinh? Giáo Hội sơ khai đã không cho rằng Thần khí chỉ đến vào lễ ngũ tuần đó sao? (Cv 2, 1- 11).
4. Vì sao Chúa Giê-su hiện ra cho Tôma đúng một tuần sau, vào ngày Chúa nhật?
5. Nên dịch câu 27c ra là "Dừng ở người cứng tin" hay "dừng trở nên người cứng tin"?
6. Câu nói sau cùngc ủa Chúa Giê-su (c.29a) phải chăng là một lời quở trách Tôma thậm tệ? Lời chúc của Người (c.29a) bao hàm điều gì xét trong nhãn giới Gioan?
7. Hai câu sau cùng (30- 31) cho thấy Gioan viết cho hạng độc giả nào?
1. CÁC MÔN ĐỒ TỤ HỌP (20,19-23)
Làm môn đồ là có một sứ mệnh: chúng ta đã biết điều ấy qua diễn từ giã biệt (13,16.20; 15,1-8). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế gian, nay thành sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa, phải được các môn đồ nối dài. Tin Mừng Nhất lãm cũng đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra cho các nhóm môn đồ: chính lúc bấy giờ Người giao sứ mệnh cho họ (Mt 28, 16-20; Lc 24,47-49; Mc 16,15: không xác thực; xem Cv 1,8).
Nơi Gioan, cuộc hiện ra cho mấy môn đồ đang tụ họp nằm vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Các ông tụ họp đâu đó tại Giêrusalem. Về sau chúng ta sẽ biết là Tôma không có mặt lúc ấy. Mọi cửa đều đóng kín vì họ còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ người Do thái.
Nhưng không gì ngăn chận được Đấng Phục sinh. Cách thức hiện hữu mới của Người chẳng còn bị chướng ngại vật chất nào cản trở. Chúa Giêsu đột nhiên đứng giữa họ. Trình thuật Luca 24,36-49 rất giống với trình thuật Gioan ở chỗ này. Các môn đồ thoạt tiên kinh hãi rồi được Chúa Giêsu trấn an. Người không nói như ngày xưa: Chính Ta đây... (6,20), vì sự hiện diện của Người từ nay thuộc một trật tự khác, sự hiện ấy đem lại bình an (14,27) và vui mừng (16, 20-24; 17,13). Lời chào theo thói quen: Bình an cho các con! ở đây vượt quá ý nghĩa thông thường của nó. Chúa Giêsu chúc và ban cho họ một sự bình an và một niềm vui đặc biệt, khả dĩ giúp họ thắng vượt cớ vấp phạm thập giá và những âm hưởng của nó trong cuộc đời họ (14,17).
Vì không có vấn đề quên! Bởi thế Chúa Giêsu trỏ cho xem các dấu vết Tử nạn của Người. Nơi Lc 24, 36-49, Chúa Giêsu đưa tay và chân chứ không đưa cạnh sườn, vì Luca đã chẳng nói đến nhát lưỡi đòng trong trình thuật Tử nạn của ông; vả lại trình thuật của ông chú tâm đến thực tại Phục sinh hơn: các môn đồ đã không thể chỉ tin vào lời nói của mấy người đàn bà, họ chỉ tin khi Chúa Giêsu hiện ra cho Phêrô và sau đó trỏ cho các sứ đồ còn đang sợ hãi xem tay chân của người cùng bắt đầu ăn trước mặt họ. Và kết luận của Lc là Người đã sống lại thực. Nơi Gioan, Chúa Giêsu đưa tay và cạnh sườn Người trong cùng mục đích ấy: chúng ta không đứng trước một hồn ma một sản phẩm của trí tưởng tượng đâu? nhưng đồng thời thánh sử muốn nhấn mạnh rằng sự phục sinh giả thiết phải có thập giá. Thập giá không thể loại trừ khỏi tư tưởng, phủ nhận như một giấc mộng hãi hùng. Cầu mong họ được bình an, thứ bình an trước hết liên hệ tới Người (16, 33) để họ học hiểu thập giá theo Kitô giáo!
Sau đó, mặc dầu thấy các môn đồ tràn ngập vui mừng, Người cũng lặp lại một lần nữa: Bình an cho các con! Việc lặp lại này chứng tỏ đây không phải là một công thức thông lệ, đồng thời cho thấy bình an được cầu chúc là thứ bình an tích hợp mọi dấu vết của cuộc Tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Niềm đau chia ly không thể biến thành một nỗi mong thoáng qua, quên đi cuộc Tử nạn. Không, nỗi đau đó phải trở nên một niềm vui bền vững, nhờ đau khổ mà chín mùi, niềm vui của Chúa Giêsu cũng như niềm vui của họ, niềm vui không một ai cướp mất (16, 20-22). Niềm vui ấy là niềm vui của mùa gặt phát sinh từ nỗi gian khổ, cơ cực cửa Tử nạn (4,38; 17,13). Thật vậy, Chúa Giêsu giờ đây đến trao cho họ sứ mệnh Cha đã giao phó cho Người: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Các hạn từ gần giống như trong lời nguyện thượng tế (17, 18). Chúa Giêsu ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Người mang tới và hiện thân, vẫn ở trong họ và bên họ. Phận sự của họ là từ nay mang nó đến cho thế gian còn bỏ hoang. Cảnh này quả tóm tắt và thể hiện tư tường của diễn từ giã biệt vậy (x.Mt 28, 19- 20).
Nhưng nếu đã phải có phần khí trợ giúp, các môn đồ mới hiểu được “chân lý”, thì huống là việc làm cho kẻ khác hiểu, họ lại cần Ngài phụ lực biết bao. Như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào con người đầ u tiên (St 2,7; Kn 15, 11), hôm nay Chúa Giêsu cũng thổi Thần khí vào các môn đồ để tái tạo họ cho sứ mệnh mới. Việc tuôn đổ Thần khí ở đây không hẳn có nghĩa là việc tái sinh họ trong Nước Thiên Chúa và trong sự sống (3, 3-8) cho bằng là chỉ sứ mệnh đã trao cho họ: sứ mệnh đem bao kẻ khác vào chính sự sống này.
Vì cùng với Thần khí, họ được ban quyền tha và cầm giữ tội trong Lc cũng vậy (24,47), việc loan báo đức tin có mục tiêu tha tội và có đối tượng là mọi dân nước. Trong Mt 16, 19, quyền trên được hứa cho Phêrô; trong Mt 18, 18, quyền năng cởi buộc ấy được ban cho Giáo hội. Thuật ngữ pháp lý bao hàm cả quyền phán xét. Nơi Ga 20,23, cầm giữ đối nghịch với tha thứ (Mc 7,8; x.Hc 28, 1: diatôrein). Trong tư tưởng thánh sử, quyền này là một tia sáng chói lọi của Con Người (Mc 2, 5 và ss; Lc 7, 47- 48), Đấng từ nay được đặt làm thẩm phán (Ga 3, 19; 5, 27; 9, 39; 12, 31- 32; 17, 2). Thành ra các môn đồ nhận được ở đây một quyền xét xử thật sự; họ tham dự quyền tài phán cánh chung của Con Người là Chúa Giêsu. Thế thật hữu lý khi Giáo hội coi lời Chúa Giêsu nói đây như nền tảng của quyền tha thứ tội lỗi bằng bí tích cáo giải. Nhưng tại sao thánh sử, mà trọng tâm tư tưởng là việc mặc khải, định nghĩa ở đây sứ mệnh các môn đồ bằng quyền xét xử chứ không bằng việc loan báo lời (17, 9- 21)?
Người ta có thể ngạc nhiên về điều đó. Nhưng chắc chắn là Gioan ghi lại những lời của chính Chúa Giêsu. Trong Lc 24,47, Chúa Giêsu không nói đến việc tha tội; trong Mt 28,18 thì Người để ý tới quyền phổ quát và thần linh của mình. Như đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu (9,39), việc rao giảng Tin Mừng đem lại sự chia rẽ trong thế gian. Các môn đồ được công bố là có thẩm quyền phân biệt xem ai đáp lại sứ điệp; họ được quyền phán xét sau cũng như trước khi người ta lãnh phép rửa tội. Dĩ nhiên quyền này không độc lập với việc rao giảng, vì xét cho cùng chính “chân lý” mới giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi (8,32-34) và biến cải nên tinh tuyền (13, 10; 15,3). Lc 24,47 nhấn mạnh rnối dây liên kết chặt chẽ việc công bố đức tin.và quyền xét xử nhưng xem ra thiên về điểm đầu hơn. Trong Mt 28, 18- 20 quyền được trao ban bao gồm việc loan báo đức tin, quyền thanh tẩy và trông coi việc giữ các giới luật. Tư tưởng Gioan đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tài phán của các môn đồ, được xem như một tia sáng của quyền Con Người.
Người ta tự hỏi tại sao Thần khí đã được ban cho các môn đồ ngay từ Phục sinh, trái ngược với cảm thức của cộng đoàn Kitô giáo sơ khai là đặt việc tuôn đổ Thần khí vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1-4). Luca chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ Ngũ tuần. Nhưng ông có thể đưa về phần thứ hai của tác phẩm mình, tức sách Cv.; còn Gioan thì không. Vậy phải chăng ta có thể coi Thần khí như một sản phẩm có điều kiện? Được ban theo lượng theo liều? Thật ra, việc chia sẻ Thần khí được thực hiện từ từ. Ngài đâu phải là một chân lý tĩnh, đặt trong túi như một đồ vật đáng giá. Đối với Kitô hữu, thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài không ngừng được phân phối, vào lễ Ngũ tuần và sau đó trở đi.
Việc tuôn tràn vào lúc Phục sinh, Hiện xuống và sau đó đều là những dấu hiệu của cùng một thực tại mà, từ lúc Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39), đã cách mạng cả thế giới. (3, 3-8). Lối phân biệt việc ban Thần khí vào lúc Phục sinh và Hiện xuống chỉ là thứ yếu, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố đều thuộc về cùng một Giờ. Tất cả mọi cuộc tuôn đổ Thần khí chỉ là một. Ngày Phục sinh, các môn đồ nhận được Thần khí để chuẩn bị sứ mệnh; Thần khí ấy trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2, 1-4); sau đấy Ngài còn tiếp tục giúp đỡ họ không cùng.
Gioan chẳng kể lại ChúaGiêsu giã từ thế nào và môn đồ phản ứng ra sao, không phải vì ông muốn qua đó ngụ ý sự hiện diện thường xuyên của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần (Ga 16, 7; x.Mt 28,20) nhưng vì muốn tuân theo một cơ cấu văn tương phản ứng của Maria Mađalêna sau cuộc hiện ra cũng bỏ qua không bàn đến.
2. TÔMA (20, 24-29)
Chúng ta biết tính tình của Tôma Diđimô rồi. Là một con người thực tiễn, ông chỉ phê phán theo lương tri. Ong không mấy thích những chuyện điên rồ như việc đi thăm mồ Ladarô dạo nọ hay lang thang vô định trên con đường chẳng biết dẫn tới đâu (11,16; 14,5). Thế là nay người ta lại bảo với ông là đã thấy Chúa. Hãy nói với kẻ khác đi!
Họ đã thấy Chúa! Đó là lời rao giảng đầu tiên, lời chủ yếu liên hệ đến các sự kiện cụ thể, nhưng cũng đã bao hàm mọi khai triển khả dĩ của đức tin: họ đã thấy Người, và sẽ dần dần thay Người. Chúa của họ, sống và ở bên họ ra sao.
Tôma cũng đã thấy Người, một lần thay cho tất cả trên thập giá. Như thế là đủ; đừng tìm cách nói vớ vẩn trước mặt ông. Vết thương lỗ đinh, cạnh sườn đâm thủng, đó là thực tế. “Bao lâu Tôma chưa thấy chúng tận mắt, thì đừng kể chuyện ấy cho tôi”. Tôma nắm được một điểm chắc chắn, sự chắc chắn tàn nhẫn của cây thập giá, và ông diễn tả nó cũng tàn nhẫn không thua gì.
Và đây một tuần sau, đúng vào cùng ngày, Chúa Giêsu hiện đến với đầy đủ tang chứng đòi hỏi. Người hiện ra một ngày Chúa Nhật, không phải để tỏ dấu thích ngày đó, vốn sẽ thành Ngày của Người, song vì muốn hiện ra cho Tôma trong những hoàn cảnh in hệt lần đầu tiên. Như lần trước, mọi cửa đều đóng kín, như lần trước, người thình lình đến giữa họ, chào hỏi cũng với công thức: Bình an cho các con! Mọi cảnh đều được lặp lại Dầu giây phút hiện ra thế nào chăng nữa, Chúa Giêsu vẫn luôn là một. Không chờ câu trả lời, Người đến bên Tôma, và với một lối trả đũa đượm nét khôi hài, Người cho ông kiểm chứng lai lịch của Người, dẹp yên mối nghi ngại của ông và xin ông đừng cứng lòng tin, song hãy dần dần trở nên kẻ thành tín. Chúng tôi dịch: lè ginou ra: (đừng trở nên cứng tin, mặc dầu nhiều tác giả vẫn phản đối kiểu dịch đó và dịch “đừng cứng tin, đừng có thái độ như người không tin”. Thật vậy, từ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Tôma dần dần trở nên người không tin. Thành ra ông phải từ từ đào sâu đức tin đầu tiên của mình lại. Niềm tin này phải được củng cố để trở nên một đức tin Kitô giáo trưởng thành; ông không được nằm lì nơi đức tin vào Đấng Messia, ông phải tin vào Con Người đã được tôn vinh trong cái chết.
Tôma rối loạn tâm thần! ông nói quá lố: gọi Chúa Giêsu là Thiên Chúa! Ta không tìm được chỗ nào trong Tin Mừng thứ tư một lời tuyên tín chấn động và rõ ràng hơn: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi! Quả là một thành ngữ rất xứng đáng với vị thánh sử già nua (1Ga 5,20). Phải chăng Tôma đã phát biểu như vậy? Nhưng ai dám quả quyết rằng tôm, con người khô khan, hoàn toàn bối rối, đã không thể nào ăn nói trượt quá trực giác đức tin đầu tiên của ông được? Dầu sao, người ta có thể chấp nhận rằng việc quay đầu đột ngột từ sự tỉnh mộng thiên sai ác liệt nhất đến cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã có thể gợi hứng cho tôm một lời tuyên xưng hơi vượt quá sự nhận biết đơn thuần về Đấng Messia nơi ông. Đối với thánh sử, lời tuyên xưng tóm tắt trong vài chữ ấy thật hoàn toàn thích đáng.
Nhiều diễn giả và độc giả hiện đại thường lấy làm khoái được bôi nhọ Tôma, con người gieo rắc nghi nan ấy. Câu nói sau cùng của Chúa Giêsu được họ giải thích như là lời quở trách nặng nề đối với Tôma, lời quở trách mà những kẻ tin chân chính như họ thoát khỏi. Chúng ta đừng tưởng câu chuyện Tôma được giữ tại trong Tin Mừng với mục đích cho các thế hệ về sau cái thú phê phán kẻ khác. Thật ra, lời quở trách của Chúa Giêsu không quá ác độc. Các sứ đồ khác đã chẳng phải thấy mới tin đó sao? (Mt 28,7; Mc 16, 11- 13. 14; Lc 24, 11. 25. 38. 41). Lời áy của Người có lẽ cũng đượm nét khôi hài không kém cử chỉ phô bày vết thương. Người nói nó ra với một nụ cười; vì còn hơn một tiếng quở trách, đó là một lời hứa, một lời chúc, lời hứa đẹp nhất mà thánh sử có thể ngỏ với mọi độc giả của ông, dù họ thuộc thế kỷ nào: Phúc cho những ai không thấy mà tin! không một thế hệ Kitô hữu nào sẽ bị kém ưu đãi so vớt thế hệ đầu tiên. Dĩ nhiên, cần những chứng nhân tận mắt, bởi vì chứng từ đức tin, dưới sự hướng dẫn cửa Thần khí (15, 26- 27), phải dựa tràn những sự kiện được dẫn chứng hợp cách. Song thực tại của việc Thiên Chúa hiện diện trong Chúa Giêsu (17, 17) tức là cái chân lý được chuyển thông bằng lời mặc khải (17,20) thì ban trực tiếp cho mọi người, tín hữu về sau cũng như chứng nhân của việc Sống lại.
Tất cả họ đều ở trong cùng một tương quan đích thực và trực tiếp với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, với Chúa Cha (17, 21); họ không sống những cuộc hiện ra của Đấng Phục sinh, tuy nhiên trong đức tin họ vẫn thấy Người sống (14, 19; 16, 16-20). Phúc cho ai lời cầu chúc Chúa Giêsu ngỏ với họ không phải chỉ là một lời khuyến khích hãy tin dù sao cũng mặc, nhưng thật là một lời cầu chúc hạnh phúc, vì người xác nhận rằng trong đức tin, họ sẽ có thể thấy Người và đến gần Người (1 Pr 1, 8-9).
3. KẾT LUẬN CỦA TIN MỪNG GIOAN (20, 30-31)
Nhiều dấu lạ khác nữa... Khi đặt bút kết thúc tác phẩm, Gioan biết rõ rằng nó chưa chấm dứt. Hỏi đời nào ta viết cạn ý một cuốn sách? Hay hơn nữa, có bao giờ ta minh chứng trọn vẹn đức tin của mình? Chính Chúa Giêsu cũng đã bảo trong diễn từ giã biệt: “Ta còn nhiều điều phải nói với các con...” (16,12). Theo gương Chúa Giêsu, Đấng tràn trề ao ước mặc khải Chúa Cha cho thế gian thế gian với tâm trí quá hẹp hòi hay đúng hơn với tâm hồn quá tự mãn khó có thể đón nhận đức Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả cơn người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Người, một con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh. Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là một bức tượng bán thân. Chẳng những vì ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác... (x. Hc 43,27; 1Mcb 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Rốt cục, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại những dấu chỉ có tính cách thiên sai của phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm được mở rộng ra. Nó bao gồm những phép lạ dấu chỉ và công việc (12, 37) cũng như những lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12, 38); cả hai soi sáng cho nhau, vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người siêu nhiên của Chúa Giêsu. Người ta có thể chỉ dừng lại nơi những biểu lộ bề ngoài và kêu lên: phi thường thay, những phép lạ đó ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói của Người!. Bao lâu phép lạ và lời nói không gợi được cho độc giả con người bên trong của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Thánh sử, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sĩ sáng suốt, biết chắc rằng thực tại vượt xa ngàn trùng vi hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả phải xuyên qua dấu chỉ và đi đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Thần khí.
Độc giả cần phải có đức tin. Tin Mừng không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin; trong trường hợp này, thánh sử có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương diện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thần khí khơi dậy và soi sáng. Gioan viết cho các Kitô hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ tát cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được làm nổi bật trong phần đầu của Tin Mừng (Ga 2-4) và được củng cố do phản án.g đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (vd Cv 2, 36), người Kitô hữu phải đi sâu vào lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mặc khải rõ ràng vào Giờ tôn vinh. Và đức tin càng đào sâu thì sự sống thần linh và không thể phá hủy cành được trao ban nhờ danh - hay con người - Chúa Giêsu. Vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Ngài (17,11-12) đồng thời cả quyền thông sự sống vĩnh cửu (Ga 5, 26-40; 6, 53; 10, 10; 17,2). Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Người sẽ được sống muôn đời (1, 12; 3, 15-18; 12,50; 1Ga 5,13). Không! Tin Mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, Tin Mừng vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy được vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Người khi Người trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17, 24).
(H. van den Bussche, Jean. Paris DDB, 1967. Tr 549-556)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bài Tin Mừng hôm nay thật súc tích; nó gợi lên cho ta ba điểm then chốt: nhấn mạnh ý nghĩa cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, biểu lộ sứ mệnh của Giáo Hội đã ghi khắc trong chiến thắng Phục sinh, và suy nghĩ về sự chậm tin.
a. Chúa Giêsu sống: các môn đồ đã gặp lại Chúa Giêsu đang sống. Tin Mừng không ghi lại chính biến cố phục sinh, và các trình thuật hiện ra cũng rất ngắn gọn. Đây là một lời mời gọi đi thẳng vào điểm chủ yếu: hôm nay, Chúa Giêsu đang sống. Người đang hiện diện trong đời ta. Cũng như ngày trước, hôm nay Người cũng có thể vượt qua các bức tường ta đang ẩn úp bên trong, để hiện ra với ta. Đặc biệt trong hy tế tạ ơn ngày Chúa Nhật, trong lòng cộng đồng tín hữu đang tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu chết và sống lại, đang sống hôm nay, vừa đang hiện diện. Lời Người đang vang dội bên tai ta trong lòng Giáo hội đang họp nhau.
b. Sứ mệnh của Giáo Hội: Cuộc gặp gỡ với Chúa hằng sống là nguồn mọi sinh động. Tin là tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội. Nhưng việc này không phải là một việc thuần nhân loại. Ta hãy tự hỏi mình có phải là tín hữu không? Mọi công việc ta làm có được thúc đẩy bởi Thần khí của Chúa Kitô không. Niềm vui cũng biểu thị đời sống của những kẻ đã gặp Chúa Kitô trong niềm tin. Không phải là một niềm vui dễ dãi chẳng biết đến gian nan thử thách, nhưng là niềm vui của đức tin, cắm chặt trong chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô.
c. Phát triển đức tin: Tin không phải chỉ một lần. Đức tin là một cuộc sống. Mà sống là phải triển nở, lớn lên; mọi hữu thể sống động cần phải được bồi dưỡng bằng một thức ăn thích hợp. Làm sao trở nên sứ giả của Chúa Giêsu nếu mỗi ngày không cố gắng sống đời môn đồ Người? Sự kiện cả những kẻ thân cận của Chúa Giêsu cũng đã chậm tin không phải là một khích lệ cho ta sao? Ta thường hay tìm cách biện minh, tìm các dấu chỉ khả giác, kết quả.
2) Tin Mừng Gioan được gọi là Tin Mừng về các dấu chỉ: Chúa Kitô bắt đầu cuộc sống công khai của Người bằng dấu chỉ đầu tiên (nước biến thành rượu ở Cana xứ Galilê) và lời nói cuối cùng của Người là: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Gioan nói thêm: “... Còn nhiều dấu chỉ khác nữa,... các điều đã viết đây là để anh em tin”. Do đó, Tin Mừng Gioan đã tuyển tập các dấu chỉ của Chúa Kitô, kèm theo các diễn từ giải thích chúng, để cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Messia và là Con Thiên Chúa, và để khơi dậy niềm tin, một niềm tin ban sự sống trong Ngươi? (Max Thurian). Vì thế Kitô hữu không chỉ mê say với các điều kỳ diệu trong Tin Mừng mà còn phải ham thích lời giải nghĩa cấc điều kỳ diệu đó. Chúa Giêsu Phục sinh minh nhiên hiện đến với tôm là kẻ đã nói: “Nếu tôi không thấy Người, tôi sẽ không tin”, nhưng chính vì Tôma và nhất là vì chúng ta mà Chúa Giêsu tuyên bố: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
3) Điều cốt yếu thì vô hình đối với con mắt” (Saint- Exupéry). Câu này đúng với thế giới duy vật của ta. Phải có các dấu chỉ về điều cốt yếu vô hình đó; chúng ta là những hữu thể có xác phàm, những hữu thể vật chất, nhưng cũng là những hữu thể tinh thần, tâm linh: xuyên qua các dấu chỉ vật chất, ta khám phá ra tình huynh đệ sâu đậm, tình yêu thương chân thành đang tự hiến cho ta.
4) Ta có tin vào các dấu chỉ không? Ta có tin rằng Tin Mừng giúp ta biết rõ các sự kiện để ta' “nhận ra chúng” nhờ Thánh Thần mà Chúa Giêsu ban cho ta không? Ta có biết khám phá ra các dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện trong đời ta không?
5) Thánh Thể là một trong những dấu chỉ đặc biệt nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô. Vì sao phép Thánh Thể ít hiệu lực đối với ta? Thưa vì ta thường hay dừng lại giữa đường: ta ít khi nhận biết Chúa Kitô đang ở đó như một Đấng sống động, một ngôi vị sinh động mà ngày hôm nay đang tự hiến cho Chúa Cha và cho ta... Ta không chịu đọc các dấu chỉ...
6) Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.
7) Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tấ cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.
8) Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì cao quí và cần thiết.
9) Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lòi nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.
10) Chúa Giêsu ba lần nói cùng chúng ta trong đoạn Phúc Âm này: “Bằng an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.