Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-B Bài 151-200 Chúa Nhật Chúa Chiên Lành Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ

Thứ sáu - 30/04/2021 11:02
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-B Bài 151-200 Chúa Nhật Chúa Chiên Lành Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-B Bài 151-200 Chúa Nhật Chúa Chiên Lành Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-B: Bài 151-200
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ
---------------------------------

Mục Lục:

Phúc Âm: Ga 10, 11-18. 2

PS4-B151: Trật đường rầy. 2
PS4-B152: Mục tử như Chúa. 4
PS4-B153: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. 7
PS4-B154: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 8
PS4-B155: Tôi là mục tử nhân lành. 11
PS4-B156: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 17
PS4-B157: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 19
PS4-B158: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 22
PS4-B159: Được gọi để yêu thương. 25
PS4-B160: Chúa nhật Chúa Chiên Lành. 27
PS4-B161: Mục tử đích thực. 30
PS4-B162: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 33
PS4-B163: Làm sao nghe được tiếng Chúa?. 34
PS4-B164: Mục tử đẹp. 36
PS4-B165: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. 40
PS4-B166: Trở nên mục tử như lòng Chúa mong ước. 44
PS4-B167: CHUNG HƯỞNG HẠNH PHÚC VÔ BIÊN.. 49
PS4-B168: MỤC TỬ NHÂN LÀNH. 50
PS4-B169: DẤU HIỆU MỤC TỬ GIẢ.. 53
PS4-B170: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NHƯ ĐẠI DƯƠNG.. 55
PS4-B171: ƯỚC MƠ, PHỤC VỤ VÀ TRUNG THÀNH.. 57
PS4-B172: CÁNH CỬA.. 60
PS4-B173: NGHE TIẾNG CHÚA.. 61
PS4-B174: THÍ MẠNG.. 63
PS4-B175: TRỞ NÊN MỤC TỬ, LỜI MỜI GỌI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI 66
PS4-B176: CÓ TÂM CÓ TÀI 69
PS4-B177: MỤC TỬ. 71
PS4-B178: ĐỂ CHÚA DẪN ĐƯA.. 72
PS4-B179: CON CHIÊN CỦA TA.. 74
PS4-B180: MỤC TỬ.. 75
PS4-B181: MÙI CHÚA – MÙI CHIÊN.. 76
PS4-B182: CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 82
PS4-B183: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B.. 85
PS4-B184: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B. 88
PS4-B185: MỤC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG CHO ĐOÀN CHIÊN.. 91
PS4-B186: MÙI CHIÊN.. 93
PS4-B187: MỤC TỬ OSCAR RÔMÊRÔ.. 99
PS4-B188: BẠN LÀ MỤC TỬ HAY LÀ CHIÊN?. 102
PS4-B189: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 105
PS4-B190: MỤC TỬ HIỀN LÀNH KHIÊM NHƯỢNG.. 108
PS 4-B191: Chúa Chiên lành. 111
PS 4-B192: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. 115
PS 4-B193: ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT.. 121
PS 4-B194: TAM BẤT & TAM TOÀN.. 123
PS 4-B195: MỤC TỬ NHÂN LÀNH ĐẾN ĐỂ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG.. 125
PS 4-B196: NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT.. 129
PS 4-B197: TỰ HIẾN.. 131
PS 4-B198: LINH MỤC CŨNG LÀ "CON CHIÊN". 135
PS 4-B199: MỤC TỬ TỐT LÀNH HAY NGƯỜI CHĂN THUÊ.. 137
PS 4-B200: CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ TUYỆT VỜI 140

-------------------------------
Lời Chúa:

 

Phúc Âm: Ga 10, 11-18

“Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Khi ấy, Chúa Giê-su phán: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta”. - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------

 

PS4-B151: Trật đường rầy


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều PS4-B151


Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều người sợ hãi. Ngày 2/4/2021, tại Đài Loan, một đoàn tàu trật đường rầy, va vào vách núi, làm 48 người chết và 86 người bị thương nặng. Ngày 18/4/2021, tại Ai Cập, một đoàn xe lửa chở khách đã trật bánh, làm 11 người chết và 98 người bị thương. Nếu làm một bản thống kê chi tiết, thì số vụ việc tương tự sẽ còn rất nhiều. Tai nạn xảy ra do bất cẩn. Tai nạn cũng xảy ra do người lái tàu lệch hướng và gây ra sự cố “trật đường rầy”. Trong đời sống của chúng ta cũng thế, có những người bị “trật đường rầy” khi sống bất cần, không tôn trọng tiếng nói của lương tâm và không tuân theo những quy định chung nhằm bảo vệ gia đình, công ích và trật tự xã hội.

Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn mùa Phục sinh giới thiệu với chúng ta một vị hướng dẫn chỉ đường, đó là Chúa Giêsu với danh xưng “Mục tử nhân lành”. Người hướng dẫn chúng ta đi trên con đường ngay nẻo chính. Người săn sóc chúng ta và luôn đem lại cho chúng ta những điều tốt lành. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa hứa với chúng ta: những ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm được bình an và ơn cứu rỗi. Người quả quyết: ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào sự dẫn dắt đầy quyền năng và chan chứa yêu thương của Người. Tin cũng là chấp nhận đi theo con đường của Chúa Giêsu, mặc dù phải trải qua gian nan thử thách, nhưng luôn xác tín Chúa đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời.

Cuộc sống của chúng ta hôm nay rất cần đến sự dẫn dắt của Chúa, vì có nhiều người “trật đường rầy” trong quan niệm về Đức tin. Đối với họ, Đức tin chỉ là một khái niệm mờ nhạt và không là động lực chi phối suy nghĩ cũng như hành động. Tôn giáo hay Đức tin chỉ giống như một nếp thói quen tốt, cũng có giá trị đấy, nhưng không ăn sâu nơi tiềm thức và cuộc sống của họ. Chính vì vậy mà niềm tin của họ là một mớ tạp nham hỗn hợp. Hãy đến với Vị Mục tử nhân lành để xin Người soi sáng, giống như lời van xin của người cha có con bị quỷ ám: Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi! (x. Md 9,14-29).

Cuộc sống có những khó khăn về sức khoẻ, tài chính, học vấn, vợ chồng con cái, nhiều khi chúng ta không biết phải làm thế nào để thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Có những người đã chọn hình thức quyên sinh để kết liễu cuộc đời. Những người khác lại buông xuôi chán chường mọi sự. Nhiều người tìm đến rượu chè, cờ bạc đỏ đen hầu mong đổi phận. Những người khác lại dùng bạo lực hay ly tán mà nghĩ sẽ giải thoát khỏi những khó khăn. Là người có Đức tin, chúng ta hãy đến với vị Mục tử Nhân lành để xin Người dẫn dắt. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước nỗi đau chồng chất của con người. Nơi Người chúng ta tìm được sức mạnh. Sức mạnh ấy đến từ lòng bao dung tha thứ. Sức mạnh ấy cũng đến tự sự khiêm nhường nhận ra mình cũng có lỗi. Đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình, và nhờ đó tìm lại bình an và hy vọng.

Cuộc sống là sự hoà quyện những mối tương quan đa chiều. Đối nhân xử thế luôn là những bài học khó. Khôn ngoan hài hoà làm nên những tình cảm tốt đẹp bền lâu. Ích kỷ nhỏ nhoi sớm muộn cũng bị cô lập. Chúa dạy chúng ta hãy sống thân thiện bao dung. Hãy noi gương Chúa Giêsu trong bài học rửa chân các môn đệ. Hãy nhớ rằng cuộc đời này ngắn lắm và người ta chỉ sống một lần trên đời. Vì vậy, phải làm sao để trở thành một phiên bản hạnh phúc. Cũng cần cảm nhận những niềm hạnh phúc nho nhỏ mà chúng ta vẫn có trong hiện tại, nơi gia đình, bên lối xóm, nơi cơ quan, khu phố chợ. Khi cảm nhận được những niềm hạnh phúc đơn sơ ấy, lòng ta sẽ thanh thản, cuộc sống lạc quan hơn. Mỗi khi khởi đầu một ngày mới, hãy tạ ơn Chúa vì mình còn may mắn hơn rất nhiều người đang bệnh tật và có những người mắc bệnh nan y, đang tận dụng từng giờ từng phút trong cuộc sống ngắn ngủi. Xin vị Mục tử nhân lành dẫn dắt chúng ta. Lời Thánh vịnh 22 diễn tả: Chúa dẫn ta đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Người dọn ra cho ta mâm cỗ. Tất cả những điều ấy đều nhằm diễn tả sự chăm sóc yêu thươngcủa Chúa đối với những ai tin tưởng cậy trông Người.

Cuộc sống này có khởi đầu và có kết thúc. Chẳng có ai sống mãi trên đời. Người tin Chúa xác tín rằng, sau khi họ trút hơi thở cuối cùng, họ sẽ được Chúa dẫn dắt về Quê Trời. Chúa Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chính Người sẽ dẫn chúng ta về với Chúa Cha. Người Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Chúa đã chết và đã sống lại. Từ sự phục sinh của Người, Chúa khẳng định với chúng ta: những ai chấp nhận chết với Chúa, sẽ được phục sinh vinh quang như Người.

Cuộc sống trần gian giống như một đoàn tàu, luôn băng băng tiến về phía trước. Đích điểm của đoàn tàu, hay là sân ga cuối cùng, chính là Thiên Chúa. Xin Đức Giêsu Mục tử dẫn dắt chúng ta, để chúng ta không bị lệch hướng, nhưng luôn thẳng tiến về Quê Trời.

-------------------------------

 

PS4-B152: Mục tử như Chúa


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa PS4-B152


Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh. Viện Phụ đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra, công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra. Chính vì thế mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết câu hỏi đó là gì. Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả. Cậu dành dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v... Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi. Hồi hộp bước vào phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai? Và trả lời cho ta biết. Tôi là ai? Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.

Tôi là ai? Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu. Nhất là cuộc sống tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt. Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay.

Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế (chức linh mục cộng đồng) của Đức Kitô, tham dự vào sứ mạng Ngôn sứ, và vương đế của Ngài (GLHTCG, số 1267). Vì thế, thánh lễ này Hội muốn kêu gọi mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện và thực hành sứ mạng mục tử được Thiên Chúa trao phó cho chúng ta giữa lòng thế giới hôm nay theo mẫu gương Mục Tử Nhân lành Giêsu. Người là Mục tử nhân lành, còn chúng ta là đoàn chiên của Người. Người chăn giữ đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Thứ nhất, tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí hay do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Chẳng hạn, một đứa trẻ đang chơi ngoài đồng, chạy vào xin mẹ cho con mượn con dao. Mẹ nói: con lấy để làm gì? Nó nói: con làm cái này. Mẹ nói không cho nhưng nài nỉ hoài mẹ nó đưa cho nó nhưng theo dõi nó làm cái gì? Nó cầm dao chạy ra đồng và nhặt một trái lựa đạn 79 mà nó tưởng là trái ô ma, nó vừa cầm lên thì mẹ nó nhào tới chụp ngay con dao nó định cắt ra để ăn. Vâng, chỉ tình yêu xuất phát từ trái tim, người mẹ mới biết trước được rủi ro hay chăm sóc kỹ lưỡng từng hành động đứa con, làm cho nó nên hoàn thiện. Chúa Giêsu hôm nay nói: “Ta biết chiên Ta”, có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta, biết rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, biết rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta nên Ngài luôn luôn muốn làm cho ta vơi được nỗi sầu, nhẹ đi âu lo sợ hãi bằng việc hiến mình cho ta và cư ngụ nơi tâm hồn ta mọi nơi mọi lúc khi chúng ta tha dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Ngài. Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta rằng: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhút nhát, yếu ớt nhưng là để giúp ta trưởng thành, mạnh mẻ tự tin. Người chăm sóc ta không phải theo kiểu Mẹ con sáng-sang trong phim truyền hình Việt Nam “Hoa hồng không dành cho em”, bà chăm sóc con quá đến độ mà mẹ con bị bệnh tự kỷ. Ngược lại, Chúa Giêsu chăm sóc ta bằng cách cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh đó là đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Chúng ta hãy trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái, thầy cô giáo là mục tử của học sinh, giám đốc là mục tử của công nhân, y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân, anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ, linh mục là mục tử của giáo dân, tu sĩ là mục tử của tha nhân... hãy thực hiện lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Ngày Thế giới cầu cho ơn Thiên Triệu 2015 rằng hãy ra khỏi chính mình, đi ra khỏi sự thoải mái và cứng nhắc của cái tôi để đặt trọng tâm đời sống mình nơi Đức Giêsu Kitô, có nghĩa rằng phải lấy Tình yêu Chúa Giêsu là tiêu chí và lẽ sống cho đời Kitô hữu chúng ta. Mà tình yêu Chúa cố ở điểm này là hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong giáo xứ, trong khu phố và xã hội hôm nay hầu làm cho cuộc sống thêm phong phú và hạnh phúc hơn. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B153: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành


(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)

 

Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị PS4-B153


Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga10,11). Ngài đến trong thế gian với sứ mệnh quy tụ tất cả các con chiên về một mối: ngõ hầu chỉ có một Chủ chiên duy nhất và một đàn chiên duy nhất.

Qua thánh Phêrô Tông Đồ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người cho Giáo Hội (xem Ga 21,15-17). Theo gương Chúa Kitô Mục Tử, Giáo Hội không ngừng dấn thân trong việc chăm sóc đàn chiên. Vào mọi nơi mọi thời, không thiếu những tấm gương của những vị mục tử trong Giáo Hội đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình để sống chết vì đàn chiên.

Ý thức được trách nhiệm cao cả của mình, Giáo Hội luôn luôn kêu mời các bạn trẻ nam nữ đáp lại lời mời gọi của Vị Mục Tử nhân lành biết quảng đại dấn thân trên con đường tận hiến để phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô và tha nhân. Vì vậy, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh hàng năm để cầu nguyện cho ơn gọi thánh hiến nói chung và ơn gọi linh mục nói riêng.

Việc Chúa chọn gọi luôn đồng nghĩa với việc Chúa trao phó một sứ mạng đi kèm. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ để các ông đến ở với Người và được Người sai đi rao giảng (xem Mc 2,14). Được Chúa gọi luôn là một màu nhiệm vượt qua sự so đo tính toán của con người. Chúa gọi ai đó cộng tác với Người không phải vì họ tài giỏi. Người đã chọn các Tông Đồ vốn là những kẻ chài lưới tầm thường và ít học. Nơi họ vẫn còn mang nặng tính vụ lợi hơn thiệt (xem Mt 19,27), tranh cãi về địa vị thứ bậc (xem Mc 9,34), ham hố danh vọng (xem Mt 20,21), và thậm chí cũng có cả tội bất trung như Phêrô chối Chúa (xem Mc 14,71). Việc chọn và gọi luôn là sáng kiếng riêng của Chúa và cũng là cách thức để Chúa chia sẻ sứ mạng của Ngài với những người được yêu mến và được tuyển chọn.

Việc Chúa trao phó sứ mệnh cho ai đó luôn đi kèm theo lời hứa và phương tiện để thi hành (xem Mt 28, 19-20). Các Tông Đồ đã được Chúa Giêsu hứa sai phái Thánh Thần đến để thánh hóa, dạy dỗ, ban sức mạnh cũng như ơn khôn ngoan hiểu biết (xem Ga 16,13).

Điều này đã được kiểm chứng nơi bài đọc thứ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô và Gioan bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Hai ông bị kết án với tội danh vì đã chữa lành cho một người què từ khi lọt lòng mẹ ngay tại cửa Đền Thờ và vì đã lôi kéo được chừng năm ngàn người tin vào lời rao giảng của các ông. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà một Phêrô khiếp đảm ẩn mình trong gian phòng cửa đóng then cài thành một Phêrô can đảm xuất hiện trước dân chúng. Cũng nhờ Chúa Thánh Thần, từ một anh chàng chài lưới quê mùa năm xưa, Phêrô đã trở nên người người giảng giải hết sức lưu loát thu hút được rất nhiều người theo đạo. Chúa Thánh Thần cũng biến đổi một Phêrô chối Thầy thành một

Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Kitô bị đóng đinh và nay đã phục sinh để trơ nên nguồn ơn cứu độ duy nhất cho nhân loại.

Thật kỳ diệu. Chúa Thánh Thần đã hoán chuyển vị trí của một Phêrô bị cáo trong phiên tòa người đời thành một Phêrô thẩm phán để vạch tội giết Đấng Công Chính của họ, để kêu gọi họ sám hối và đặt niềm tin vào Đấng mà chính họ đã đóng đinh vào thập giá.

Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sát nhập vào thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta được sinh ra trong Thánh Thần để tham gia vào sứ mệnh và các chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu là được mời gọi để trở nên những chứng nhân cho một Đức Kitô đã bị kết án, bị đóng đinh trên thập gia, đã chết một cách bi thảm và đã Phục Sinh vinh hiển.

Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Xin soi lòng mở trí chúng con để ánh sáng Phục Sinh xua tan mọi u mê tăm tối. Xin hãy canh tân bộ mặt trái đất. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa xin hãy ngự đến vì chúng con đang mong chờ Ngài.

-------------------------------

 

PS4-B154: Chúa Nhật 4 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

 

Đức Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài biết từng con chiên, yêu thương chăm sóc và PS4-B154


Đức Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài biết từng con chiên, yêu thương chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên.

Thật vậy, Đức Giêsu biết hết tất cả mọi người chúng ta. Ngài biết từng người trong chúng ta. Ngài biết người nào khỏe mạnh, người nào ốm đau, người nào tàn tật. Ngài như người mục tử đi tìm con chiên bị mất; con nào đi lạc, Ngài sẽ đưa về; con nào bị thương, Ngài sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ngài sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ngài sẽ canh chừng (x. Ed 34,16). Ngài yêu thương chăm sóc từng người trong chúng ta một cách tận tình (Is 40,11). Ngài luôn tạo điều kiện tốt đẹp cho mọi người như người muc tử chăn dắt đàn chiên trong đồng cỏ tốt tươi, màu mỡ (x. Ed 34,14). Cụ thể, Ngài nuôi chúng ta bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Đặc biệt, Ngài đã hy sinh tính mạng của mình vì hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Đó là tình yêu cao quý hơn mọi tình yêu. Đúng như lời Ngài khẳng định: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Vì thế, những ai được sống dưới sự chăn dắt của vị mục tử Giêsu, thì luôn được vững dạ an tâm, không sợ nguy khốn (Tv 23,4), không sợ thiếu thốn gì (Tv 23,1).

Để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho con người, Đức Giêsu còn tuyển chọn một số người cộng tác trực tiếp vào sứ mạng mục tử của Ngài. Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã chọn các Tông đồ và đặt Thánh Phêrô thay mặt Ngài tiếp tục vai trò đó. Vai trò mục tử đó được tiếp tục nơi các Tông đồ đoàn, các Đức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, các Đức Giám mục, các linh mục cho đến tận thế. Nhưng số lượng giám mục, linh mục trong Giáo hội chưa bao giờ có thể đáp ứng đủ với nhu cầu của đoàn chiên. Cho nên, Đức Giêsu đã từng nói: “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin Chúa sai thợ gặt đi gặt lúa về.” (Lc 10,2). Vâng lời Đức Giêsu, suốt 2000 năm qua, Giáo hội luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo các linh mục. Thông thường tại các Giáo phận hoặc liên Giáo phận đều có Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai. Ngoài các đại chủng viện còn có các đào tạo các ứng sinh linh mục của các dòng tu. Giáo hội không những mời gọi giới trẻ dấn thân trong đời sống tu trì, làm linh mục. Giáo hội còn mời gọi các thành phần trợ giúp vật chất cũng như tinh thần cho các chủng viện, cho công cuộc đào tạo linh mục. Cụ thể, Giáo hội dùng Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh hằng năm để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một sáng kiến đặc biệt của Giáo hội. Vậy, chúng ta phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục? Chúng ta phải làm gì để giúp đỡ các giám mục, linh mục đang trực tiếp coi sóc chúng ta?

Thứ nhất, chúng ta cần phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục:

- Vai trò của các bậc cha mẹ: Cần phải quan tâm giáo dục con cái về đời sống đức tin, nhân bản và tri thức; giúp con cái hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục và tu sĩ; khi thấy con cái có ý hướng dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục và tu sĩ thì cần phải giúp đỡ và hướng dẫn con cái thực hiện ý hướng tốt lành đó.

- Vai trò của các thầy cô giáo lý viên: Không chỉ truyền đạt về kiến thức giáo lý mà còn giúp các em về mọi mặt để các em có thể trở thành những người trưởng thành quân bình về tri thức, nhân bản và đạo đức.

- Vai trò của cha xứ: Không chỉ hướng dẫn và giúp đỡ các em trong việc phân định ơn gọi mà còn giúp các em có đủ điều kiện để thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, đời sống độc thân dâng hiến của cha xứ luôn trở nên mẫu mực cho các em noi theo.

- Vai trò của mọi thành phần trong Giáo hội: Cần giúp đỡ các ứng sinh linh mục tương lai bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự động viên khích lệ, bằng sự giúp đỡ về mặt vật chất...

Hầu hết các linh mục trưởng thành như hôm nay, ngoài ơn Chúa, sự nổ lực của bản thân thì đều có sự cộng tác trực tiếp hay gián tiếp của gia đình, thân nhân, ân nhân và các thành phần trong giáo xứ và Giáo hội.

Thứ hai, chúng ta cần cầu nguyện và cộng tác với các giám mục, linh mục:

Chúng ta không chỉ có trách nhiệm đối với các ứng sinh linh mục mà còn có trách nhiệm đối với chính các giám mục, các linh mục nhất là giám mục và các các linh mục đang trực tiếp phục vụ chúng ta. Chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, sự nâng đỡ, cộng tác với các ngài để các ngài chu toàn bổn phận mà Chúa và Giáo hội trao phó. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử bởi vì trong thực tế, tuy có nhiều mục tử giống mục tử Giêsu, nhưng vẫn có những mục tử giả, mục tử xấu, mục tử không tha thiết gì đến đàn chiên, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”; vẫn có những mục tử sống vô trách nhiệm với đàn chiên: chẳng quan tâm khi chiên đi mất, không đi tìm khi chiên thất lạc, không chạy chữa khi chiên bị thương…(x. Dc 11,16a); vẫn có những mục tử bóc lột đàn chiên để hưởng thụ chứ không chịu chăn dắt đàn chiên: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); vẫn có những mục tử độc ác, thống trị đàn chiên một cách tàn bạo và hà khắc (x. Ed 34,3); vẫn có những mục tử mà sự hiện diện của họ chỉ làm cho đàn chiên tan tác (x. Gr 23,2).

Trong bài huấn dụ có sự hiện diện của các linh mục và giáo dân, Đức Cha Anphôngsô, Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa mời gọi giáo dân cầu nguyện và cộng tác với các linh mục như sau:

- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.

- Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.

- Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.

- Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.

Lạy Chúa Giêsu mục tử nhân lành, xin ban cho Giáo hội có thêm nhiều mục tử như lòng Chúa mong muốn. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B155: Tôi là mục tử nhân lành


(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Ga 10: 11-18: Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính...

 

Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính. Trên thế giới, không thiếu những PS4-B155


Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính. Trên thế giới, không thiếu những con người, biết đâu chính là anh là chị, vẫn âm thầm làm những hành vi anh hùng hầu duy trì sự sống cho kẻ khác. Những con người ấy đúng là "mục tử nhân lành", đang họa lại cái mẫu Đức Kitô, Mục tử nhân lành. Hôm nay, toàn thể Họi thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Lời Chúa của "Chúa nhật Chúa Chiên Lành" năm nay đặc biệt nêu bật khía cạnh hy sinh: Người mục tử tốt hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho Họi thánh những mục tử "như lòng Ngài mong ước".

I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 10,11-18

Trong truyền thống Cựu ước, hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài tuyển chọn, tức Israel. Khi Đức Giêsu nói: "Tôi chính là Mục tử nhân lành" (cc. 11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: "hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (điều này được nhắc lại 5 lần trong bản văn: cc. 11.15.17.18 [2x]). Giữa Đức Giêsu và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Người và đoàn chiên (c. 14), cũng như giữa Người cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).

Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt qua và sự hy sinh chính bản thân Người.

ª Người mục tử đích thật (11-13).

Đức Giêsu là "Mục tử nhân lành", cũng có nghĩa là "Mục tử xinh đẹp". Điểm này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành) nhưng Người còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách mục tử nhân lành của Người chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.

Người có một cảm thức về trách nhiệm: "các chiên thuộc về Người" (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói "nghề chăn chiên" là một "ơn gọi" chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên ; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là "người làm thuê" (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm thức về sự "thuộc-về", ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.

Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng hy sinh thậm chí cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).

Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Đức Giêsu làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho con chiên.

ª Người mục tử ưu việt (14-18).

Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.

Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, về thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): "Như Chúa Cha biết Tôi…" (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. "Tôi biết chiên của Tôi…" (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, thắm thiết. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: "chiên của Tôi biết Tôi" (c. 14b). Tác giả nói đến "biết" thay vì tình yêu, bởi vì "tình yêu" hệ tại việc "biết" riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số ; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta - tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, "Giêsu" không được chỉ đơn giản là một cái tên ; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như "những con chiên tốt, đẹp", và phát triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.

Tương quan với Đức Giêsu, Mục tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta ; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.

Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có "hiểu biết", nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hiệp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì "kết hợp".

Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu - Mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là nhắm đạt đến mọi dân tộc. "Đoàn chiên duy nhất" này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai) ; và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những người không tin.

Qua Đức Giêsu, là Mục tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị Mục tử duy nhất. Tính chất cao quí của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hiệp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hiệp nhất không tập trung lại quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.

Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hiệp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về "mầu nhiệm Vượt qua". Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hiệp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời "Tôi hy sinh mạng sống" để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất ; rồi mở đầu c. 18, lại có lời "Tôi tự ý hy sinh mạng sống". Đây là cấu trúc "đóng khung" để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được "sự hiệp nhất vĩ đại" này. Bởi vì Người chết chắc chắn "không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối" (Ga 11,52).

Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha "đóng khung" các câu 17 và 18: "Chúa Cha yêu mến Tôi…" và "đó là mệnh lệnh của Cha mà Tôi đã nhạn được", trong đó nói ba lần đến việc "hy sinh mạng sống". Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là người mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi "hiến tặng [hy sinh]" và "đón nhận [lấy lại]", trong sự "tự chủ" (Tôi có "quyền") và "trách nhiệm" (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: "Tôi đã nhận được").

Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: "Chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình", rồi Người nói tiếp: "Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy". Nói cho cùng, "quyền" của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là "hiến mình". Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng "sự sống dồi dào" cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.

II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:

Bản văn này, khi giới thiệu Đức Giêsu là người Mục tử nhân lành, với giọng văn đơn giản nhưng súc tích, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử của Cựu ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong. Người sẽ mãi mãi là Đấng nuôi dưỡng, giáo huấn chúng ta, và dẫn đường cho tất cả chúng ta về cùng Chúa Cha.

III. Gợi ý bài giảng:

1. Nói tới "mục tử" là nói tới tương quan.

Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v… Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Người với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng Ngôn sứ Êdêkien (ch. 34).

2. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên.

Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm của mình đối với đoàn chiên. Người mục tử bên Paléttin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh thánh: Am 3,12 ; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, người ấy chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1Sm 17,34-35). Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Thánh vịnh 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4 ; Ed 34,16).

3. Một sự hiểu biết sâu sắc.

"Tôi biết chiên của Tôi…, như Chúa Cha biết Tôi". Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Thánh Phaolô đã làm chứng về tình yêu ấy qua một đoạn văn hùng hồn là Rm 8,35.38-39: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".

Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.

-------------------------------

 

PS4-B156: Chúa Nhật 4 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

“CHÚA CÓ LẦM, KHI CHỌN GỌI CON THEO CHÚA?”

 

Trong ngày lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi đời sống thánh hiến, Linh mục - Tu PS4-B156


Trong ngày lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi đời sống thánh hiến, Linh mục - Tu sĩ, dựa trên sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa và đặc biệt hơn là sự cảm nhận rất riêng tư về tình yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu - Vị Mục Tử Tốt Lành dành cho tôi; Do đó, qua bài suy niệm về Lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài tâm tình, cảm nhận của tôi trong hành trình ơn gọi đặc biệt này.

Lúc còn nhỏ, không nhớ trong hoàn cảnh nào, có lần tôi nghe Mẹ nói: “Lớn lên đi tu đi con, cho đời bớt khổ”; vì có người cũng quan niệm rằng: “Tu là cội phúc, tình là dây oan”chăng? Thú thật, với bản thân, giờ đây nhìn lại, sau 14 năm hành trình trong đời sống Linh mục, sau 27 năm theo đuổi và đáp lại tiếng gọi của Chúa, tôi vẫn luôn thưa với Ngài, con chỉ biết dâng lời cảm tạ, tri ân, nhưng Lạy Chúa, sao Chúa lại chọn gọi con làm Linh mục của Chúa? Còn với ACE, con đường ơn gọi mà ACE đang sống, có phải do Chúa chọn-gọi và ơn gọi này có giúp cho ACE thực sự cảm nhận được hạnh phúc, được bớt khổ?

Cha Nhạc sĩ Kim Long trong hành trình 50 năm Linh mục, Ngài đã thú thật: “Con thật không xứng với thiên chức Linh mục mà Chúa ban, nhưng Lạy Chúa, Chúa thương gọi con, thì con xin theo Chúa; còn con yếu đuối thì xin Chúa thứ tha”. Cha cố Giuse Vũ Đình Tân, Gp. Đà Lạt, trong Thánh lễ kỷ niệm 70 năm Linh mục và mừng thượng thọ 99 tuổi Ngài đã chia sẻ bí quyết làm sao để giúp ngài sống thọ và hạnh phúc cho tới giờ này: “Cứ giờ nào việc nấy, phải phân minh rõ ràng, không có lôi thôi gì hết”. Đức Cha Giuse, Giám Mục Gp. Nha Trang trong Thánh lễ kỷ niệm 50 năm Linh mục, Ngài đã chia sẻ tâm tình mà Ngài đã học được từ Đức Cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền: “Chúa đã chọn con, con cũng phải chọn Chúa. Hạnh phúc của con là thuộc trọn về Chúa và Hội Thánh”.  Với bản thân, tôi luôn ý thức ơn gọi Linh mục là quà tặng vô giá mà Chúa qua Hội Thánh đã thương trao ban, nên tâm tình của tôi là: phải học với Đức Maria, để luôn sống tín thác, xin vâng mà thưa với Chúa: “Xin hãy thành sự cho con theo như Thánh ý Ngài” (Lc 1:39). Thật vậy, hạnh phúc  của tất cả chúng ta là những người con cái Chúa, được Chúa chọn gọi theo những cách thế rất riêng tư-thân mật. Do đó, Lời Chúa hôm nay như mời gọi chúng ta hãy tái khám phá và đào sâu hơn về ơn gọi của mỗi người trước ơn ban cao quý này của Chúa. Đồng thời, hãy khiêm tốn, mở lòng và đặt trọn niềm tín thác vào Chúa là Vị Mục Tử Tốt Lành, là Người Cha nhân ái-khoan dung, chậm giận và hay tha thứ.

Đặc biệt hơn với ơn gọi trong đời sống thánh hiến, bất cứ ai khi nhìn lại hành hình ơn gọi của mình cũng phải thưa lên: “Lạy Chúa, cảm tạ Ngài, vì đã thương chọn gọi con theo Chúa”. Vậy thì, Chúa có lầm, khi chọn con theo Chúa? Sao Chúa lại chọn con trong khi con thật bất xứng, yếu đuối và tội lỗi? Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời: Vì “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, Ta thí mạng sống ta vì đoàn chiên”. Chính vì Ngài biết rõ chúng ta, dẫu bất toàn nhưng vì tình thương nên Chúa đã chọn gọi và trao ban sứ vụ. Như vậy, chắc chắn Chúa đã không lầm khi chọn gọi chúng ta theo Ngài. Câu hỏi được đặt ra: Chúa đã không lầm, nhưng tại sao có người vẫn không tìm thấy hay chưa cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc trong đời sống tận hiến; trái lại, trong đời sống ơn gọi tận hiến ngày nay, nhiều người vẫn đang gặp khủng hoảng, họ đang lại cảm thấy ngột ngạt, thất vọng, chán chường và đau khổ bởi vì ơn gọi mà mình đang sống, sứ vụ mà mình đang dấn thân phục vụ.

Vậy, tôi phải làm gì để có được niềm vui và bình an trong đời tu? Thánh Gioan trong bài đọc hai cho chúng ta bí quyết rất tuyệt vời này: “Các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế”. Thế nên, nếu bao lâu chúng ta chưa cảm nếm và nhận ra được tình Chúa yêu thương ta và ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban là tình Chúa thương của Chúa dành cho chúng ta, thì chúng ta sẽ mãi mãi không có bình an, vui tươi và hạnh phúc.

Thật ra, dù muốn hay không, cuộc sống vẫn luôn đầy những khó khăn,  thử thách và ngay cả những đen tối của cuộc đời, lúc mà chúng ta cảm thấy Chúa đang bỏ rơi mình, chúng ta không tìm thấy Chúa đang hiện diện trên hành trình ơn gọi của mình. Những lúc này, Thánh Phêrô trong bài đọc một, trên hành trình ơn gọi, Ngài đã nêu gương cho chúng ta. Lúc ban đầu, khi mới theo Chúa, khi được Chúa cho biết, Ngài sẽ phải đi lên Giêrusalem để chịu đau khổ và chịu chết. Ông đã không chấp nhận, đã cản Chúa và không muốn cho Chúa thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Thế nhưng, khi đã biết Chúa với cả niềm tín thác, khi đã cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa và khi lãnh nhận được ơn của Thánh Thần, Phêrô đã vui vẻ, hăng say, cam đảm dấn thân làm chứng, rao giảng về Chúa; hơn nữa, Ngài lại còn cảm thấy hạnh phúc khi bị sỉ nhục , bị bắt bớ và tù đày vì danh Chúa và chết cho Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết ý thức, nhận ra và tin rằng Chúa biết rõ con, Chúa yêu thương con, Chúa tín nhiệm và trao phó sứ vụ cho con trong ơn gọi cao quý này. Vì yêu con, vì biết con, do đó, lạy Chúa, xin ban ơn giúp sức để cuộc đời con mãi mãi được thuộc trọn về Chúa, thuộc trọn về Giáo hội. Xin Chúa tiếp tục dùng con để làm lan tỏa lòng thương xót Chúa đến cho những người mà con yêu thương, phục vụ. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B157: Chúa Nhật 4 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Chủ đề: CHÚA GIÊ-SU, MỤC TỬ TỐT LÀNH DẪN ĐƯA ĐOÀN CHIÊN TỚI TẬN THIÊN CHÚA.

Kính thưa quý anh chị em,

 

Kinh Thánh mượn hình ảnh mục tử để chỉ Thiên Chúa, Đấng chăn dắt nhà Israel, đoàn chiên được PS4-B157


Kinh Thánh mượn hình ảnh mục tử để chỉ Thiên Chúa, Đấng chăn dắt nhà Israel, đoàn chiên được Người yêu thương, tuyển chọn.

Mục tử/đàn chiên là rất quen thuộc, gần gũi, dễ hiểu trong văn hóa du mục, đồng thời, nó cũng chuyển tải ý nghĩa rất phong phú về mối tương quan “tình yêu và sự sống” giữa mục tử và đàn chiên.

Tiếp nối truyền thống dài của thời Cựu Ước, Hội Thánh chọn tước hiệu “Mục Tử nhân lành” cho Chúa Giê-su, diễn tả sự gắn kết bất khả phân ly giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, một sự gắn kết đem lại sự sống đời đời cho đàn chiên: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Jn 10, 10).

Chúa nhật IV Phục Sinh cử hành Đấng chăn chiên nhân lành. Lời Chúa phác họa chân dung vị Mục Tử tối cao, đưa dẫn đàn chiên tới tận đồng cỏ Nước Trời.

Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, trình bày việc nghĩa Phê-rô đã làm cho một người tàn tật bẩm sinh được lành lặn. Các ngài bị triệu tập, bị xét hỏi về cách thức chữa lành. Phê-rô lên tiếng: không phải do quyền năng cá nhân, nhưng nhờ danh Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh vào thập giá, đã sống lại, chữa lành người này.

Khi tuyên bố điều đó, Phê-rô muốn tuyên xưng thánh danh cao cả, quyền năng, phổ quát đã được ban tặng, để chỉ nhờ danh thánh Giê-su, toàn thể nhân loại được ơn chữa lành, được hòa giải với Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc mô tả căn tính, mối tương quan giữa mục tử và đàn chiên. Tình liên đới hiệp thông được thiết lập, không dựa trên lợi nhuận theo kiểu đầu tư hưởng lợi, nhưng trên sự thiện hảo vô vị lợi của chính đàn chiên, chỉ muốn chiên được sống và sống dồi dào.

Giê-su, vì yêu thương, đã làm tất cả những gì cần thiết vì lợi ích đàn chiên, kể cả phải đánh đổi tính mạng. Đương đầu với thú dữ săn mồi, để bảo vệ đàn chiên là hành vi can trường gan dạ và cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy hiểm, người mục tử phải đối mặt. Thực sự người mục tử ấy đã chết cách tức tưởi trên thánh giá vì chỉ muốn cứu lấy đoàn chiên.

Thập giá là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình. Vậy, đừng ai còn dửng dưng, vô cảm, không màng chi tới Đấng đã chết và đã sống lại. Hãy mang vào mình cho đủ những gì còn thiếu trong cuộc thương khó của Chúa, nghĩa là: phải biết chấp nhận cùng chết, để cùng phục sinh với Người !

Thập giá là mạch nước mát đem lại sự sống thật cho đàn chiên: nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu, máu và nước chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích sự sống, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu thế, thì hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ.

Thập giá là đồng cỏ thiêng liêng bao la bát ngát, ngút ngàn để nuôi chiên, ai muốn bao nhiêu tùy thích. Thánh thể là nguồn sống đích thực cho kẻ lữ hành. Nhờ lương thực này, người tín hữu được bổ sức và có thể đi tới đích điểm mong chờ là Nước Trời.

Đó là sự hiểu biết của đức tin, của ân sủng, không bởi ý muốn xác thịt, nhưng bởi tác động của Thánh Thần: “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Jn 10, 14).

Đấng Mục Tử, vì thấu hiểu đoàn chiên, đã tiên liệu những phương thế ứng phó sẵn sàng, nhằm cứu chiên khỏi mọi cạm bẫy ác thần và chuẩn bị đủ thần lương đi đường, để chiên được sống và sống dồi dào:

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, nên tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ xanh, Người cho tôi vào nghỉ ngơi. Người đưa tôi tới nguồn nước trong lành và bổ sức cho tôi.

Tay Người hằng dẫn dắt tôi, đi trên nẻo ngay chính lộ. Chính vì uy danh, dù đi qua miền tăm tối. Lòng tôi không hãi vì Chúa ở cùng, Người gìn giữ tôi luôn” (Tv 22).

Đàng khác, Giê-su, Mục Tử nhân lành, không muốn chiên sống tản mác, lẻ loi, đơn độc, nhưng muốn quy tụ chúng lại trong một đàn chiên duy nhất, để chỉ có một chủ chăn và một đàn chiên. Chính vì lẽ đó, khi bị treo trên thập giá, Giê-su đã quy tụ tất cả con cái tản mác bốn phương về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người đến cùng Ta” (Jn 12, 32).

Cuộc đời Giê-su thật là một hiến tế hoàn hảo cho sự hiệp nhất gia đình nhân loại. Đây cũng chính là di nguyện Người để lại cho Giáo Hội và muốn các môn đệ ra công làm việc cho sự hiệp nhất mọi nơi, mọi lúc.

Vậy nên, ai không lưu tâm, tích cực bằng lời nói, việc làm, hoạt động cho sự hiệp nhất gia đình nhân loại, người đó phản bội lại di ngôn của Chúa Giê-su.

Loan báo Tin Mừng cho muôn dân là cách hoàn hảo thực hiện di nguyện của Chúa Giê-su: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15), để tất cả quy tụ và hiệp nhất trong một đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa.

Cử hành Đấng chăn chiên nhân lành là cơ hội để dân kitô giáo tuyên xưng và loan truyền lòng thương xót Chúa đổ xuống thế gian qua muôn ngàn nẻo đường, muôn vàn chứng nhân.

Thưa anh chị em,

Là môn đệ Chúa Giê-su, chúng ta có vô vàn các thức loan báo Tin Mừng. Trước hết: bằng chứng từ đời sống hoàn hảo: yêu thương, nhẫn nại, từ tâm, thực thi công bằng, bác ái, tha thứ, hiệp thông. Kế tiếp: kính trọng và phò tá sự sống trong mọi giai đoạn. Cổ võ nền văn minh sự sống là luôn biết nói “không” với tội ác phá thai, luôn biết tôn trọng nhân phẩm con người, vì họ là con Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta.

Lạy Đấng chăn chiên nhân lành, Chúa đã chết để chúng con được sống và sống dồi dào.

Xin cho chúng con luôn biết cảm tạ, thực thi lòng thương xót, trong hoàn cảnh và môi trường hiện tại, để chúng con góp phần tích cực làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B158: Chúa Nhật 4 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

 

Hình ảnh người mục tử nhân lành đã quá quen thuộc với chúng ta, vì đa số chúng ta thường hát những PS4-B158


Hình ảnh người mục tử nhân lành đã quá quen thuộc với chúng ta, vì đa số chúng ta thường hát những bài thánh ca: Chúa là mục tử bắt nguồn từ thánh vịnh 22. Nhưng chúng ta không quen thuộc với nghề chăn chiên. Chỉ mới sau này, người Việt Nam chúng ta mới bắt đầu nuôi chiên để ăn thịt.

Nghề chăn chiên đã có từ xa xưa ở xứ Do Thái, và đó là nguồn lợi chính của dân vùng đó. Người chăn chiên sống với đàn chiên của mình suốt nhiều tháng, đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác, chỉ đưa chiên về nhà khi cần như lúc xén lông mà thôi. Vì thế, người chăn chiên gắn bó với đàn chiên của mình, săn sóc chiên từng ngày, lo cho những con chiên con còn yếu ớt, chữa lành những con chiên bị thương tích, bảo vệ đàn chiên khỏi bọn sói rừng… Như thế chúng ta hiểu mối liên hệ mật thiết giữa chủ chăn và đàn chiên.

Hơn nữa, con chiên là một vật dễ thương, hiền lành, không phá phách và rất ngoan. Khi dẫn chiên đi, người chăn chiên đi trước và cả đàn theo sau, không có con chiên nào đi riêng. Khi đến đồng cỏ, người chăn chiên dừng lại, lúc ấy chiên mới tản ra đi ăn. Hiểu được mối liên hệ này chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu dùng hình ảnh chủ chăn để nói lên mối liên hệ giữa Ngài với đàn chiên của Ngài là chúng ta.

Chúa Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành và điều Ngài nhấn mạnh là Ngài ban mạng sống cho đàn chiên. Mục tử đôi khi cũng liều mạng cho đàn chiên khi sói đến. Người mục tử phải ra tay đánh đuổi chó sói để bảo vệ đàn chiên, nhưng chết cho đàn chiên thì chắc không có ai.

Trong Cựu Ước, hình ảnh của người mục tử được dùng rất nhiều. Thiên Chúa cũng xem mình như người chăn chiên và dân Do Thái chính là đàn chiên Ngài chăm sóc. Những người lãnh đạo dân như Môsê, Giosuê hay các vua chúa cũng được xem như người chăn chiên. Trong số đó có những người không biết thương dân, khai thác dân. Vì thế, các tiên tri như Êdêkien, Giêrêmia lên tiếng cảnh báo và đe phạt những kẻ chăn thuê, ăn thịt chiên, mặc áo lông chiên mà không chăn dắt chiên.

Chúa Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài là vị chủ chăn thương đàn chiên đến nỗi dám chết cho đàn chiên. Khác với những kẻ chăn thuê, không tha thiết gì với đàn chiên. Khi sói đến là bỏ chiên chạy trốn. Đàn chiên sẽ bị sói tàn phá, giết hại.

Chúa Giêsu xem đàn chiên là của mình. Ngài biết chiên của Ngài và chiên của Ngài biết Ngài.Biết ở đây, theo nghĩa Do Thái, là yêu thương. Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi chết cho đàn chiên. Điều Chúa Giêsu đã làm. Tình yêu của Ngài đối với đàn chiên của Ngài được so sánh với tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha: “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha”. Nếu chỉ đọc sơ qua, chúng ta không thấy gì lạ cả, nhưng khi suy nghĩ chính chắn hơn chúng ta sẽ thấy ngạc nhiên. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha thế nào, Ngài cũng yêu thương chúng ta như thế. Chúng ta có thấy gì khác lạ trong câu nói đó không? Chúng ta có thấy ngỡ ngàng không? Chúng ta là gì mà được yêu thương đến như thế? Ngài yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay dễ thương mà vì Ngài là Tình Yêu. Ngài chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Vì thế Ngài phải ra tay, phải liều mạng. Hạnh phúc của chúng ta là những kẻ tội lỗi phải trả bằng giá máu của Chúa Con. Thánh Phêrô đã nói: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô”. Chúng ta là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa: “Mục tử nhân lành “biết” chiên của mình và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Tình yêu vô điều kiện.

Ngài tự nguyện hy sinh mạng sống cho đàn chiên , chỉ vì yêu thương. Nhưng Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài không lệ thuộc vào trần gian, không lệ thuộc vào một quyền bính nào. Ngài cho đi mạng sống, nhưng có quyền lấy lại. Không ai dám nói như thế và cũng không ai làm được những gì Ngài làm. Ngài đã liều mạng cho chúng ta, đã chết thê thảm trên thập giá, nhưng Ngài đã sống lại. Ngài là Thiên Chúa. Vì thế chỉ có Ngài mới biết yêu như Ngài đã làm.

Trong Tin Mừng, nhất là trong Tin Mừng thánh Luca, chúng ta đã nghe nói nhiều lần, Chúa Giêsu thương đám dân lành, bơ vơ vất vưỡng như đàn chiên không có người chăn. Ngài giảng dạy họ, mở trí cho họ hiểu con đường hạnh phúc, nhân bánh ra nhiều cho họ ăn, chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền, và nhất là Ngài thương những người tội lỗi, chung đụng ăn uống với họ…

Ngài làm gì thế? Ngài dạy chúng ta cho đi, dạy chúng ta yêu thương. Ngài cho đi tất cả, đến nỗi không còn gì để cho. Ngài trở thành hạnh phúc của chúng ta. Và chúng ta chỉ hạnh phúc khi đi theo Ngài, dám cho đi. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi biết cho đi. Nhiều người không biết cho đi. Họ chỉ biết gom góp, khai thác công khổ của đồng bào mình, sống trên xương máu của anh em mình. Họ hạnh phúc lắm? Họ sung sướng lắm nhưng hạnh phúc thì… chưa chắc. Chúng ta đừng lẫn lộn hạnh phúc và sung sướng. Sung sướng là thỏa mãn vật chất và chóng qua. Hạnh phúc nằm trong tâm hồn và bền vững.

Các thánh đã biết cho đi như Chúa. Hiện nay cũng có nhiều người cũng dám cho đi. Có những nhà tỷ phú đã dám cho chín mươi phần trăm tài sản để giúp những người nghèo trên thế giới… Chúng ta có dám cho đi không? Hình như đa số chúng ta sợ mất mát. Cái mất mát lớn nhất là không biết cho đi. Những người không biết Chúa thường tìm bảo đảm cho cuộc đời bằng tiền bạc, tài sản. Chúng ta có bảo đảm mà vẫn sợ. Chúa là nơi chúng ta nương thân, là thành lũy bảo vệ chúng ta, chúng ta sợ gì? Một ngày nào đó chúng ta sẽ nghe Chúa nói: “Ta đói, các ngươi không cho ăn, Ta khát, các ngươi không cho uống…” Chúng ta sẽ nghĩ sao? Giờ này chúng ta còn có dịp lo cho Chúa, chúng ta đừng ngại.

Chúa Giêsu nói: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, vì tôi hy sinh mạng sống mình”. Chúa Cha cũng sẽ yêu chúng ta, nếu chúng ta dám hy sinh như Chúa Giêsu, Con của Ngài. Chúng ta có nghĩ rằng tình yêu của Chúa quí hơn mạng sống không? Chúng ta có thấy rằng chúng ta hèn tin không?

“Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”. Phải chăng đây chỉ là một ước mơ hay là một đau khổ? Tình thương của Ngài bao gồm mọi người, không trừ ai. Còn quá nhiều chiên tản mát, không thuộc ràn này. Chúng ta làm được gì để ước mơ của Ngài được thực hiện, để Ngài thấy rằng những đau khổ và cái chết của Ngài không oan uổng?

Ngài đã khao khát trên thập giá, và hôm nay vẫn còn khao khát thấy tình thương của Ngài được mọi người hưởng nhờ và tìm được hạnh phúc. Chúng ta hãy mang lấy nỗi khát khao đó như Ngài. Không lẽ chúng ta cứ ung dung sống vô lo để cho anh em chúng ta hư mất? Phải làm bất cứ cái gì có thể để chỉ có một đàn chiên và một chủ chăn. Chúng ta đã làm gì? Những lúc cầu nguyện, những lúc dự lễ, chúng ta làm gì? Chúng ta có mang lấy nỗi ưu tư lo lắng của Chúa không? Danh Cha cả sáng là gì đối với chúng ta?

Chúa Giêsu, Mục tử nhân lành, hôm nay và cho đến tận thế vẫn luôn nuôi đàn chiên của Ngài bằng chính Thịt Máu Ngài. Tình thương của Ngài không ngơi bao bọc chúng ta. Chúng ta ăn lấy Ngài để làm gì nếu không là để cùng với Ngài sống cho mọi người, để cùng với Ngài cho đi tất cả để chỉ có một đàn chiên và một mục tử mà thôi.

-------------------------------

 

PS4-B159: Được gọi để yêu thương


(Suy niệm của Lm. Minh Anh)

“Mục tử nhân lành thí mạng sống vì chiên”.

Kính thưa Anh Chị em,

 

Theo truyền thống, Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh được gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”. Bởi PS4-B159


lẽ, Tin Mừng dành đọc cho cả ba năm của phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều lấy từ chương 10 Phúc Âm thánh Gioan; trong đó, Chúa Giêsu nói rất rõ và lặp đi lặp lại rằng, Ngài là Mục Tử Nhân Lành; ơn gọi và sứ mạng của Ngài, cũng là ơn gọi của mỗi người chúng ta, đó là ‘được gọi để yêu thương’.

Tin Mừng hôm nay cho thấy những tố chất của người Mục Tử Nhân Lành Giêsu: yêu thương, biết từng con chiên và cuối cùng, hy sinh mạng sống cho chiên. Ngài đã yêu thương từng người với tất cả những gì chúng ta là; Ngài biết từng con hẽm, từng lối mòn, từng ngõ ngách của chiên mình. Và vì thế, Ngài không ngần ngại hy sinh mạng sống để chiên được sống và sống dồi dào. Trọng tâm giáo huấn của Chúa Giêsu là quan tâm và hy sinh; đây là định nghĩa chân thực nhất, chính xác nhất về tình yêu. Tắt một lời, người ấy ‘được gọi để yêu thương’ bằng cách quên mình vì đoàn chiên.

Chúa Giêsu đưa ra một sự tương phản rõ rệt giữa người mục tử tốt lành với người làm thuê. Nói đến người làm thuê, thì động lực của họ là tiền và cuộc sống của chính bản thân họ; trái lại, người mục tử nhân lành thì chọn chiên như là lẽ sống; người ấy say mê chiên và chiên là niềm vui duy nhất của anh ta. Vì thế, anh ta hết sức bảo vệ và trao ban tất cả vì sự an toàn và hạnh phúc của chiên mình. Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm đến từng người chúng ta; Ngài tìm kiếm và yêu thương chúng ta; ngỏ lời hằng sống của Ngài cho chúng ta, biết sâu thẳm trái tim cũng như ước muốn của chúng ta; Ngài biết cả những hy vọng cũng như những thất bại và thất vọng của chúng ta. Ngài chấp nhận và yêu thương chúng ta như chúng ta vốn có, với công lao lẫn lỗi lầm. Ngài “ban sự sống vĩnh cửu” cho mỗi người, nghĩa là ban cho chúng ta cơ hội để sống một cuộc đời trọn vẹn, không có hồi kết. Hơn nữa, Ngài bảo vệ và dẫn dắt chúng ta một cách yêu thương, giúp chúng ta vượt qua những con đường đầy rủi ro và những con đường đôi khi nguy hiểm xuất hiện trong cuộc sống. Quả đúng như thế, ơn gọi và sứ mạng của Ngài là ‘được gọi để yêu thương’.

Để có thể hiểu về con chiên và công việc của người chăn chiên, và để có thể hiểu sâu hơn điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về mối tương quan giữa chúng ta với Ngài, chúng ta điểm qua một vài đặc tính của con chiên. Mắt của chiên rất kém, không nhìn được xa nên không phân biệt được hiểm hoạ đang rình rập; vì thế, chiên rất dễ thành mồi cho thú dữ nếu không được bảo vệ. Chiên rất dễ bị lạc hoặc trượt vào hố, mắc kẹt giữa các bụi cây. Bù lại, chiên có tai rất thính, chiên con nhận ra mẹ nhờ tiếng gọi; chiên biết phân biệt tiếng thú dữ với tiếng đồng loại hoặc tiếng của người chăn. Mũi chiên rất nhạy, đánh hơi rất tốt nhưng chân chiên thì yếu ớt, không chạy nhanh được, mình thì tròn nên dễ ngã; một khi ngã thì khó đứng lên. Vì không có đủ thể chất cần thiết để sống một mình, nên bản năng bầy đàn của chiên rất mạnh; vì vậy, chiên thường đi theo con đằng trước mình; khi có một con chiên rẽ đi đâu đó, cả đàn có xu hướng đi theo, dù đó không phải là quyết định đúng đắn, thậm chí chúng có thể chen chúc nối đuôi nhau đi đến lò mổ, hoặc nhảy xuống biển. Vì thế, một con chiên nhầm đường có thể dẫn cả đàn đi theo. Như vậy, chiên phải sống bầy đàn, một mình thì rất hoang mang; ngược lại, khi ở cùng bầy đàn, được người trông coi thì chiên được an toàn. Chiên quen nín chịu mỗi khi bị đau hoặc bị thương tích, thông thường, không kêu la mà cố chịu đựng dù chiên là một con vật rất dễ bị tổn thương.

Anh Chị em,

Như vậy, con chiên có khá nhiều tương đồng với nếp sống và nếp nghĩ của con người. Và càng ngẫm nghĩ, chúng ta càng thấy mình cần Chúa Giêsu như chiên cần mục tử dẫn dắt và chăm sóc. Ngài không ngừng đổ trên chúng ta ân sủng của Ngài với ước mong mỗi người được sống và sống dồi dào. Chớ gì chúng ta luôn ngâm nga trong lòng ý nghĩa của Thánh Vịnh 22, ‘Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi. Dù qua lũng âm u đời tôi, tôi vẫn an tâm vì có Chúa ở cùng’. Mặt khác, Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, đã hiến mạng sống cho tất cả chúng ta, thì chúng ta cũng noi gương tình yêu hy sinh của Ngài mà sống cho người khác. Như Ngài, chúng ta cũng ‘được gọi để yêu thương’, để hiến mình cho tha nhân. Và trước hết, Ngài muốn chúng ta thực hiện điều đó ngay trong chính gia đình, trong cộng đoàn mình. Chớ gì, những tố chất của người mục tử Giêsu thấm đượm trong tâm hồn chúng ta, để chính mỗi người chúng ta, dù ở đấng bậc nào, sẽ là một mục tử nhân lành cho người khác, họ cũng là những con người dễ bị tổn thương.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, con cảm tạ Chúa vì đã yêu thương con đến độ hy sinh mạng sống vì con; Chúa đã sống ơn gọi Chúa Cha trao, ‘được gọi để yêu thương’. Xin giúp con cũng noi gương tình yêu Chúa để biết hy sinh mạng sống của con cho những ai Chúa trao cho con”, Amen.

-------------------------------

 

PS4-B160: Chúa nhật Chúa Chiên Lành


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh mục và Tu sĩ

ƠN GỌI: ‘ƠN SỦNG’ + ‘NGƯỜI GỌI và CHỌN’

Kính thưa quý ông bà và anh chị em!

 

Như thường lệ, cứ vào dịp lễ tuần IV Phục Sinh, Giáo Hội lại mời gọi tất cả tín hữu hiệp ý cầu nguyện PS4-B160


Như thường lệ, cứ vào dịp lễ tuần IV Phục Sinh, Giáo Hội lại mời gọi tất cả tín hữu hiệp ý cầu nguyện cho ơn thiên triệu (hay còn gọi: ơn gọi), và cách riêng cho các linh mục được trở nên người mục tử như lòng Chúa mong muốn (sicut pastor Cor Iesu).

Có câu chuyện vui thế này: Ở một gia đình Công Giáo nọ, vì người mẹ muốn con trai mình Thiên Ân trở thành linh mục, nên lúc nào cũng nhắc con: “Lớn lên con đi tu nha không!” Buổi tối hôm kia, ngay sau khi đọc kinh gia đình xong, bé Thiên Ân bèn hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, mỗi ngày con thấy mẹ lo cơm nước cho bố, vậy sau này con đi tu thì ai nấu cơm cho con ăn?
Suy nghĩ một lát, mẹ Ân trả lời:

– Mình đi tu, tức là mình dâng đời mình cho Chúa, nên con phải nấu cơm lấy mà ăn, chứ đâu có ai nấu cho…

Nghe xong, Ân buồn lắm, và khẽ nói với mẹ:

– Mẹ ơi, nếu vậy, con chẳng thích đi tu chút nào!

Vừa dứt câu, cậu buồn bã lặng lẽ bước vào phòng ngủ, vì mai còn phải đi học. Tuy nhiên, hôm sau, khi từ trường về nhà, Ân lại hớn hở thưa với mẹ:

– Mẹ ơi, con thích đi tu lại rồi!
Quá đỗi ngạc nhiên, mẹ hỏi:

– Ủa! Sao vậy con? Sao thay đổi nhanh quá vậy?
– Vì có người cùng đi tu với con và sẽ nấu cơm cho con ăn mỗi ngày rồi.
– Ai vậy con?
– Thì cái Vy, con bác Phạm ở gần nhà mình đó mẹ!
– (…mẹ bó tay)

Phụng vụ hôm nay nhắc tới hình ảnh Phê-rô can đảm rao giảng về Đức Giê-su Ki-tô đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh (x. Cv 4, 12), sau khi các Tông đồ được đầy tràn Thần Khí trong ngày lễ Ngũ Tuần. Hơn thế, biểu tượng người mục tử tốt lành, dám thí mạng sống mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 11) và chúng ta cũng cảm nhận phần nào tình yêu của Chúa Cha trao ban cho chúng ta lớn lao dường nào (x. 1Ga 3, 2).

Trước hết, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta hết mực, dù chúng ta chẳng xứng đáng với Ngài. Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn cao cả làm con cái của Ngài, và sau được ‘diện đối diện’ với Ngài, “chúng ta sẽ giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy” (1Ga 3, 2). Hơn nữa, Ngài còn mời gọi chúng ta thông phần vào sứ mệnh rao truyền, chia san Tin Mừng qua tác vụ người mục tử thánh thiện, nhân lành như lòng Chúa mong ước. Tuy nhiên, để có những người mục tử tốt lành, thánh đức, chúng ta phải được Chúa mời gọi (ơn gọi - ơn thiên triệu) và chọn giữa muôn người tín hữu trong một cộng đoàn nào đấy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em…” (Ga 15, 16). Vì vậy, hạn từ ‘đi tu’ thông thường gắn liền với “ơn gọi” (‘ơn’ và ‘gọi’). Thứ nhất, ‘đi tu’ chẳng do bởi công trạng, thành quả, tài năng, giỏi giang…của bản thân, nhưng đó thật sự là một ân sủng (‘ơn’); và thường ân sủng đi đôi với trách vụ hay sứ mệnh hoặc công việc nào đó. Kế đến, người ‘đi tu’ phải được ‘gọi’, chứ không thể tự mình muốn đi là được, hoặc tự cho mình có đầy đủ phẩm hạnh để đi! Người ‘gọi’ ở đây chính là Thiên Chúa, còn người ‘đi tu’ là người ‘được gọi’ và vui vẻ đáp trả tiếng mời gọi này, không vì khiên cưỡng, hay đi vì kỳ vọng hoặc ước muốn của ai khác, thậm chí của cha mẹ, họ hàng, thân thuộc, có khi ‘đi tu’ vì sự đánh đố với bạn bè, hay hơi hướng lí do kinh tế! Nhưng làm sao để biết bản thân có ơn gọi dâng hiến hay không? Đầu tiên, chúng ta (với vai trò phụ huynh hay con cái) phải tin tưởng rằng: nếu Chúa muốn gọi-chọn ai làm nhân chứng cho Ngài trong đời sống dâng hiến (trở thành linh mục, hoặc tu sĩ nam nữ) thì Ngài luôn ban ơn cần thiết, hướng dẫn, trang bị cho họ, chứ Ngài không bao giờ ‘bỏ con giữa chợ, hay gặp mợ bỏ dì’! Dĩ nhiên,

Ngài có cách thức chỉ dẫn riêng; nhưng thông thường, Ngài sẽ dùng môi trường gia đình, qua cha mẹ, qua lời dạy bảo và đồng hành của bậc phụ huynh mà giúp ứng viên nhận ra ‘ơn gọi’; bởi lẽ, ‘gia đình là chủng viện đầu tiên cho ơn gọi’. Hơn nữa, đời sống sinh hoạt nơi gia đình như: những buổi cầu nguyện chung, những lúc gia đình quây quần với nhau qua bữa cơm thường nhật, những cử chỉ yêu thương, chuyện trò với con cái về Chúa, về Giáo Hội, về các Thánh nam nữ, về gương sống đức tin, sống Lời Chúa, v.v…sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của ứng viên. Từ đó, khi được tiếp xúc với các cha, các tu sĩ nam nữ ngoài giáo xứ hoặc cộng đoàn dòng tu nào đấy, thì có lẽ ứng viên dần dần mường tượng và liên tưởng đến đời sống đi tu là như thế nào. Ngoài ra, Thiên Chúa có thể dùng những người khác hoặc các biến cố trong đời để đánh động, giúp ứng viên nhận ra ngày càng rõ rệt ơn gọi dâng hiến. Và khi nhận biết, nhận ra rồi, thì hân hoan, quảng đại đáp lời mời gọi của Ngài, với sự nỗ lực, hy sinh, rèn luyện, bỏ mình nữa; vì chưng, chẳng có con đường nào bằng phẳng và dễ dàng cả!

Thật sự, Giáo Hội đang rất cần nhiều bạn trẻ quảng đại đáp lời kêu mời của Chúa, mà dám hiến dâng trọn đời mình cho Ngài qua đời sống tu trì-phục vụ-mục vụ-truyền giáo. Tuy nhiên, thiết nghĩ để có một vị linh mục tốt lành, thánh thiện thì cần có một chủng sinh tốt lành, thánh thiện! Nhưng để có một chủng sinh tốt lành, thánh thiện, thì không thể nào không có một Ki-tô hữu tốt lành, thánh thiện; và làm sao để có một Ki-tô hữu tốt lành, thánh thiện, nếu không có một con người/một công dân tốt lành, thánh thiện và nhân bản? Ngoài ra, sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội hơn bao giờ hết đòi hỏi các ứng viên trong thời gian đào luyện, đào tạo không những trau dồi về học vấn-tu đức-cộng đoàn-việc tông đồ, mà cần có lòng nhiệt huyết, lửa mến truyền giáo, dám ra đi rao giảng Tin Mừng, chứ không rơi vào tình trạng yên vị, sa vào hội chứng ‘an toàn’, chẳng mong đón nhận những thách đố mục vụ-phục vụ-truyền giáo, hoặc e ngại, có khi lo sợ đến vùng ven, vùng ngoại biên phục vụ, hay dính chặt vào những tiện nghi, môi trường đã thân quen, do dự thuyên chuyển đến nơi xa xôi, lạ lẫm, v.v…Tắt một lời, nếu muốn làm giàu (về vật chất) thì không nên làm linh mục! Nếu muốn lợi danh, doanh nhân thành đạt, hay có tiếng tăm…thì không nên làm linh mục! Nếu chỉ muốn người người biết đến mình, mà không phải khao khát biết Chúa, thì không nên làm linh mục! Nếu nhằm đạt được những nghị trình lớn lao, những tham vọng của bản thân, thì không nên làm linh mục! Vì sao như vậy? Đơn giản vì những tiêu chí, tiêu chuẩn ấy không thuộc về căn tính và ơn gọi linh mục. Nói như Kinh Thánh xác thực: Mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì chiên (Ga 10, 11); mục tử tốt lành biết chiên mình, và các con chiên biết chủ chiên (Ga 10, 14); mục tử tốt lành tìm kiếm những con chiên lạc, những con chiên chưa thuộc ràng chiên, vì “chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên” (Ga 10, 16).

Nguyện xin Chúa sai thợ gặt
Hết lòng tín thác, chân thật tâm can.
Chủ chăn yêu mến chứa chan
Chăm lo dẫn dắt, hân hoan đồng hành.
Như người mục tử nhân lành
Hy sinh mạng sống, trung thành mãi liên
Ngày đêm săn sóc đoàn chiên
Trung kiên chống lại ‘sói điên’ rình chờ. Amen!

-------------------------------

 

PS4-B161: Mục tử đích thực


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Có lẽ chúng ta quá quen với câu: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. PS4-B161


Có lẽ chúng ta quá quen với câu: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Câu này diễn tả sự an tâm thanh thản, thế nhưng chúng ta có thực sự thấy an tâm?

Dù chúng ta chỉ là những con chiên lạc, chiên ghẻ, chiên quậy phá, chiên bướng bỉnh,… (x. Lc 15:4-7), nhưng Thiên Chúa quá đỗi yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đồng hưởng vĩnh phúc với Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Ngài sai Con Một đến thế gian không để luận phạt mà để giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3:17). Ngài “không lên án” cũng đủ hạnh phúc đối với chúng ta rồi, thế mà Ngài còn muốn chúng ta “được cứu độ”. Hạnh phúc của chúng ta được nhân đôi. Đó là điều tích cực nơi Thiên Chúa.

Sách Công vụ Tông đồ kể: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Các tông đồ đã nhân danh Đức Kitô chữa lành bệnh tật cho người khác, điển hình là một người tàn tật được chữa lành và đang đứng trước mặt mọi người

Thánh Phêrô nói thêm: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11; Tv 118:22). “Viên đá bị loại bỏ” lại hóa thành “viên đá nền tảng”, mà người loại bỏ viên đá đó là chính chúng ta. Thế mà Đức Kitô vẫn yêu thương và tìm kiếm chúng ta về hưởng hạnh phúc với Ngài. Thật quá kỳ diệu!

Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng-Gánh-Tội-Trần-Gian và là Đấng-Xóa-Tội-Trần-Gian. Thế nên, “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12).
Vì thế, chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 & 29). Thật vậy, tác giả Thánh vịnh xác định:

Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Cậy vào thần thế vua quan
Chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời
Con xin cảm tạ Ơn Ngài
Vì đã đáp lời và cứu độ con
(Tv 118:8-9.21)

Thiên Chúa đã chuyển bại thành thắng, biến yếu thành mạnh, làm đồ bỏ thành đồ quý. Với loài người thì đành “bó tay”, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khả thi (x. Mt 19:26). Đó là công trình kỳ diệu của Ngài trước mắt loài người! Chúng ta có một Vị Chúa như vậy thì sao lại không hạnh phúc và hãnh diện chứ? Và chắc chắn đó là sự tôn thờ chính đáng của chúng ta, không hề mơ hồ hoặc uổng phí.

Thánh sử Gioan nhắc chúng ta: “Anh chị em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1a). Chúng ta là những tội nhân khốn nạn, đáng trừng phạt muôn kiếp vẫn chưa đủ, vậy mà Thiên Chúa bắt Con của Ngài chết thay chúng ta, và tiếp tục nhận những tử-tội-chúng-ta làm “thiên tử”, thực sự là con-của-Trời chứ đâu phải các vua chúa hay quan quyền mới được làm thiên tử. Hơn cả tuyệt vời, vượt mức kỳ diệu, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng nổi!

Thánh Gioan giải thích: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga 3:1b). Thế gian không nhận ra Chúa Giêsu là ai, không công nhận Ngài là Chúa, thế nên họ cũng không thể nhìn nhận chúng ta là con cái của Thiên Chúa, nói cho “oai” theo Hán-Việt là thiên tử. Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con của Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Là con của người cha thì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” và được ở trong nhà của người cha, là con của Thiên Chúa thì chắc chắn cũng được ở trong Nhà của Thiên Chúa – tức là Nước Trời, và cũng được giống Thiên Chúa.

Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là chân dung một vị mục tử đích thực. Ngài giải thích: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12a), do đó “sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:12b-13).

Vì thế, có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh chị em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh chị em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (Mt 7:15-16). Xem trái biết cây, đơn giản mà thâm thúy, như người Việt Nam cũng có ý tương tự: “Rau nào sâu nấy”.

Chúa Giêsu cũng đã xác định Ngài là “Cửa của chuồng chiên” (Ga 10:7 & 9). Và Ngài nói: “Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Đồng thời Ngài cũng nhận định để “lưu ý” các ngôn-sứ-giả: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ” (Ga 10:10a), và nói về chính Ngài: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10b).

Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu 2 lần xác định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10:11 & 14a). Tại sao? Chúa Giêsu giải thích một đặc điểm khác của vị mục-tử-đích-thực: “Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi” (Ga 10:14b). Chủ chiên luôn biết rõ từng con chiên, người chăn chiên thuê thì chiên nào ra sao cũng mặc kệ! Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Thậm chí Ngài còn nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đo
àn chiên và một mục tử” (Ga 10:16).

Đọc từng câu và để ý từng chữ trong Phúc âm hôm nay, chúng ta như uống từng giọt-mật-ngọt-ngào, và rồi có thể vừa thú vị vừa thấm thía nhiều điều.

Chúa Giêsu quả quyết: “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10:18a). Tại sao? Ngài cho biết lý do: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được” (Ga 10:18b). Chúa của chúng ta như vậy nên hạnh phúc của chúng ta phải tính theo cấp số nhân!

Lạy Chúa, xin muôn vàn tạ ơn Ngài đã tha thứ và tái nhận chúng con làm con cái của Ngài, đồng thời là tiểu đệ và tiểu muội của Đại huynh Giêsu. Xin Chúa luôn ban cho Giáo hội có những tâm hồn quảng đại biết dấn thân trong chức linh mục, trở thành tu sĩ, trở thành những tông đồ đích thực tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, hôm nay và mãi đến tận thế. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B162: Chúa Nhật 4 Phục Sinh


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

THẦN KHÍ THÚC ĐẨY KITÔ GIÁO TIẾN BƯỚC

 

Trong mỗi bài đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng sự phục sinh của PS4-B162


Trong mỗi bài đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng sự phục sinh của Chúa Kitô không chỉ là bảo chứng ơn cứu độ của chúng ta nhưng còn là một thực tại biến đổi cách chúng ta sống và phục vụ tha nhân mỗi ngày.

Trong bài đọc thứ nhất, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần. Những tham chiếu về Chúa Thánh Thần trong sách Công vụ  Tông đồ luôn đáng chú ý, vì Thánh Thần hướng dẫn, ban sức mạnh và thúc đẩy hoạt động Kitô hữu tiến bước. Phêrô mạnh dạn đối thoại trực tiếp với các thủ lãnh, trưởng lão và kinh sư ở Giêrusalem.

Bối cảnh bài phát biểu của Phêrô là một ngày sau khi ngài bị bắt. Ngài bị bắt vì chữa lành một người tàn tật tại cổng đền thờ và vì rao giảng rằng việc chữa lành này xảy ra là nhờ danh Giêsu và sự phục sinh của Ngài (Cv 3,1-10,4,1-3). Trong bài đọc hôm nay, chúng ta nghe lời tuyên bố công khai của Phêrô về vấn đề này. Ngài tái khẳng định quyền năng chữa lành của mình không đến từ bản thân nhưng đúng hơn nó phát xuất từ Chúa Giêsu Kitô : “Nhân danh Người mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh.” Cũng vậy, thánh Phêrô tuyên bố ơn cứu độ là nhờ sự phục sinh của Đức Kitô. Trong bài phát biểu của mình, thánh Phêrô cho thấy ngài có một nhận thức  rõ ràng, đây là điều mà chúng ta không thấy nơi ngài trong các sách Tin mừng. Giờ đây, ngài hiểu biết đầy đủ hơn và có thể giảng dạy cho người khác về Đức Kitô.

Bài đọc thứ hai, trích từ thư thứ nhất của thánh Gioan, được xây dựng dựa trên ý tưởng về kiến thức và sự hiểu biết. Bài giảng của thánh Gioan nói về ý nghĩa của việc trở thành con cái Thiên Chúa, những người có thể phải đấu tranh với một thế giới thiếu hiểu biết. Bài giảng này đưa ra một lời nhắc nhở vang vọng lại bài phát biểu của thánh Phêrô, rằng thế giới không biết Đức Kitô, vì vậy có thể không nhận ra những môn đệ của Chúa. Mặc dù vậy, thư thứ nhất của thánh Gioan đưa ra lời an ủi, lưu ý rằng sự hiểu biết và mặc khải sẽ đến để giúp nhiều người biết Đức Kitô.

Trong bài Tin mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ để các ông thấu hiểu được cái chết sắp đến của Ngài khi sử dụng câu chuyện về người mục tử nhân lành. Chúa Giêsu nói rằng người mục tử tốt lành không giống như người làm thuê để trông coi đàn chiên, người mục tử tốt lành sẽ trông coi và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ đàn chiên khỏi bầy sói. Người mục tử phải đích thân đảm bảo cho đàn chiên được an toàn và khỏe mạnh vì chúng thuộc đàn chiên của họ. Trong câu chuyện, người mục tử đại diện cho Chúa Giêsu, và những con chiên là những ai đi theo Ngài.

Đáng chú ý là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự quên mình của người mục tử, khẳng định họ tình nguyện bảo vệ đàn chiên: “Không ai lấy đi được (mạng sống) khỏi Ta, nhưng chính Ta tự hy sinh mạng sống mình”. Chúa Giêsu dùng câu chuyện này để dạy sự thật mà các môn đệ của Ngài có thể khó chấp nhận. Qua câu chuyện trên, Ngài bày tỏ sự sẵn sàng chết đi và tuyên bố về mối liên hệ giữa Ngài với Chúa Cha.

Sự hy sinh của Chúa Giêsu là một dấu chỉ tình yêu và sự trao ban của Ngài đối với nhân loại và đó là sự mặc khải về mối quan hệ của Ngài với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Ta…. Ta có quyền hy sinh (mạng sống) và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Ta mà Ta đã nhận được.”

Khi tiếp tục Mùa Phục sinh và đến gần ngày Lễ Hiện xuống, chúng ta có thể rút từ các bài đọc hôm nay những hiểu biết quan trọng về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống của chúng ta cũng như của Hội thánh. Tương tự như vậy, chúng ta có thể suy gẫm về những ý nghĩa của niềm tin vào sự phục sinh trong cuộc sống của chúng ta và tầm quan trọng của sự hy sinh của Chúa Kitô đối với ơn cứu độ của tất cả mọi người.

-----------
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/03/18/fourth-sunday-easter-gospel-reflection-catholic-scripture-240201

-------------------------------

 

PS4-B163: Làm sao nghe được tiếng Chúa?


(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)

 

Cuộc sống luôn náo nhiệt. Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc. Con người như lạc lõng giữa muôn vàn PS4-B163


Cuộc sống luôn náo nhiệt. Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc. Con người như lạc lõng giữa muôn vàn âm thanh trong thế giới ồn ào. Có đôi khi chúng ta không còn nghe được tiếng gọi của sự thật hay tiếng nói của lương tâm.

Anh A đã từng nhiều lần vào tù vì tội tham lam trộm cắp nhưng anh nói giữa cuộc đời bon chen anh không bao giờ nghe được tiếng nói của lương tâm mà chỉ nghe những thét gào của tranh giành, lừa đảo và bon chen... Anh bảo rằng mình không biết phải sống thế nào cho đúng với lương tâm, vì lương tâm đồng nghĩa thua thiệt và mất mát.

Chị B cũng từng ngụp lặn trong biển tình say đắm. Với chị có sắc đẹp là có tiền, có tình. Chị chỉ nghe thấy tiếng gọi của đồng tiền và thú vui xác thịt. Chị được người đời đeo đuổi réo gọi vì chị có nhan sắc trời cho. Cuộc đời chị cần tiền để bồi dưỡng thân xác và được cưng phụng. Thế giới của chị luôn phải chạy theo tiếng gọi của đồng tiền và sắc đẹp.

Cậu C bảo rằng giữa một thế giới chạy theo tiếng gọi của danh lợi thú làm sao nghe được tiếng Chúa. Tiếng gọi của tình, tiền, và quyền luôn hấp dẫn, lôi cuốn khiến con người luôn bị lạc lối một trong ba tiếng gọi ấy!

Điều đáng buồn là con người dường như mất định hướng trong thế giới náo nhiệt hôm nay. Con người dường như không bao giờ hạnh phúc trong danh lợi thú khi họ vất vả tìm kiếm, và càng không có bình yên trong thế giới đầy bon chen giành giựt để sống. Vậy làm sao con người có thể thoát ra được thế giới náo nhiệt này?

Người ta kể rằng một lần đội vệ binh đang đứng làm thành hàng chào một vị quan lớn tới thăm. Đúng lúc vị quan lớn gần tới thì một đàn cừu ở đâu hiên ngang đi ra. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:

- Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.

Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!

Một người lính liền nói: xin mọi người yên lặng. Và từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng đang réo gọi. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.

Giữa muôn vàn tiếng ồn ào của đám đông, chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Thế giới chúng ta đang sống cũng có quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng nói của lương tâm của sự thiện, và càng không thể lắng lòng để nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành.

Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người? Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”.

Hôm nay lễ Chúa chiên lành, là dịp để chúng ta tạ ơn vì Ngài luôn yêu thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Dù cuộc đời có biết bao cám dỗ mời mọc chúng ta vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng ta lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng ta xa lìa sự sống đời đời. Nhưng Chúa luôn ở bên và kêu gọi chúng ta ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì ở nơi Ngài mới có hạnh phúc bền vững còn những danh lợi thú chỉ là phù vân mau qua và chẳng bao giờ đem lại niềm vui trường cửu cho ta. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B164: Mục tử đẹp


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Mục Tử Đẹp” là chữ của Cha Giuse Nguyễn Công Đoan. Ngài giải thích như sau: Người ta thường PS4-B164


“Mục Tử Đẹp” là chữ của Cha Giuse Nguyễn Công Đoan. Ngài giải thích như sau:

Người ta thường dịch là “Mục Tử nhân lành/tốt lành”. Nhưng bản văn Hy lạp dùng “ĐẸP”, gợi lại hình ảnh vua Đavit (x.1S 16,12), phù hợp với những lời hứa về Giao Ước Mới, trong đó Thiên Chúa hứa ban một Mục Tử từ nhà Đavit, một Đavit mới: “Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavit một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bầy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Itraen sẽ được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng cho vua ấy sẽ là: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23,5-6). “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng, và Đavit, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng. Chính Ta, Đức Chúa, Ta đã phán” (Ed 34, 23-24).

Chúa Giêsu là Mục Tử xuất thân từ nhà Đavit, mục tử đẹp như Đavit. Khi Chúa Giêsu cưỡi lừa con đi vào Giêrusalem, Gioan sẽ trích dẫn lời sách Dacaria: “hỡi thiếu nữ Sion đừng sợ, này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Dc 9,9).

Chúa Giêsu là Mục Tử Đẹp như Đavit, là Đavit mới. Khi Đavit tình nguyện ra đương đầu với Gôliat, Đavit kể chuyện mình đi chăn chiên: “Khi sư tử hay gấu tha đi một con chiên trong bầy, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu của nó, đánh cho nó chết luôn” (1S 17,34-35). Đavit liều mạng để cứu chiên. Chúa Giêsu là Đavit mới, sẽ hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên được sống, trái với kẻ trộm, kẻ cướp. Chúa Giêsu hy sinh mạng sống vì đoàn chiên thể theo thánh ý của Chúa Cha: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10,18). Chúa sẽ quy tụ tất cả đoàn chiên, để “chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” như Thiên Chúa đã hứa trong sách Êdêkien (34,11-16). (x.Tĩnh tâm với Tin mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ).

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những “Mục Tử Đẹp” như Chúa Giêsu. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.

“Mục tử đẹp” luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.

Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho các ơn gọi năm 2012, ĐTC Bênêđictô xác định: Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho các ơn gọi hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.Ngài mời gọi mời gọi các mục tử : Khi kín múc ở nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25, 31-46).

Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên. Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”.

Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những  “Mục Tử Đẹp“  mà Thánh Kinh đã mô tả :

– Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11).

– Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13).

– Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14).

– Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23, 4).

– Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,16).

– Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9,16).

Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu – Mục Tử Đẹp, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.

Sứ điệp Ngày Quốc tế Ơn gọi 2021 với chủ đề: Thánh Giuse – Giấc mơ ơn gọi. Đức Thánh Cha Phanxicô suy niệm: Thánh Giuse gợi ý cho chúng ta ba từ khóa cho ơn gọi của mỗi cá nhân. Đó là ước mơ, sự phục vụ và lòng trung thành.

Trong Kinh Thánh, thánh Giuse được gọi là người công chính. Thánh Giuse được Giáo Hội tôn vinh với nhiều tước hiệu cao quý. Một trong những tước hiệu đó là: “Thánh Giuse,Đấng bảo trợ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến”. Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Ngài đã giữ gìn Đức Maria. Ngài cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

“Xin Thánh Cả Giuse, Đấng bảo vệ các ơn gọi, đồng hành với anh chị em bằng trái tim hiền phụ của ngài!” (Sứ điệp Ơn gọi 2021).

Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng bảo vệ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến, xin bảo vệ và phù trợ các mục tử để các ngài luôn cố gắng mỗi ngày nên “Mục Tử Đẹp” như Chúa Giêsu. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B165: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành


(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

NGÀY CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GIÁO HỘI. NGÀY CẦU PS4-B165


NGÀY CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GIÁO HỘI.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (World Day of Prayer for Vocation).

KINH CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH MỤC ĐƯỢC ƠN THÁNH HÓA.
KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (Vocation Prayer).

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).

Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chien nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).

Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:

“Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp hối” tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.

“Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Ngươi thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!

“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!

Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, long Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối, mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chư không phải kéo họ lên; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).

Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dam nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.

“Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người, không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).

Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).

Đọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Đấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”

Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở vơi Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế!”(Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Đoàn chiên Chúa.

Chúa chọn ai?

“Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Mc 3,13) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt.

“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”

Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn con?”... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay” (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.

Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm (Luca 6,12). Đó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’... (2 Cor. 11,29) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó” như Đức Đương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Đầu Tiên của Ngài” cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ cho tôi!” (2Cor. 12,9…); nên Đức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.

Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Đức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).

Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Đoàn chiên Chúa. Chúng ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.

KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC.

Lạy Chúa Giêsu/ là linh mục cao trọng, là Đấng tế lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tin cực thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng tôi cũng xin Chúa khan đổ vào lòng các linh mục / nhửng dòng nước trường sinh / bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.

Xin Chúa sống trong mình các linh mục/ và dùng các Ngài, mà ban phát ơn lành của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa hành động với các linh mục, và dùng các Ngài/ mà hành động trong thế gian.

Lại xin Chúa làm cho các linh mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa/ và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các Đấng ấy nhiệt thành/ làm những việc xưa Chúa đã làm/ mà cứu người ta cho được rỗi.

Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ /đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi/ hòng sa xuống vực sâu.

Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và nhửng kẻ yếu đuối nhát hèn/ đang rên rỉ than khóc/ vì không có linh mục coi sóc, giữ gìn.

Xin Chúa dùng các linh mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong mình các linh mục, và dùng các Ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này/ mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ/ và ket hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen

KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI

Lạy Thiên Chúa chí ái, Giáo Hội Chúa đã được Chúa thương ban cho những linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các thành viên tu hội đời, các tông đồ giáo dân / luôn tận hiến để hằng ngày đem Chúa đến cho mọi ngừơi trên khắp thế giới. Xin Chúa giúp các vị đó luôn kiên cường trong sứ vụ. Xin Chúa cũng kêu gọi thêm nhiều người cùng tham gia trong công cuộc phục vụ dân Chúa. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B166: Trở nên mục tử như lòng Chúa mong ước


(Suy niệm của Huệ Minh)

 

Vào thời Chúa Giêsu, thì cái nghề chăn chiên là một cái nghề phổ biến tại Palestine. Và cái nghề PS4-B166


Vào thời Chúa Giêsu, thì cái nghề chăn chiên là một cái nghề phổ biến tại Palestine. Và cái nghề chăn chiên này nó mang một cái đặc thù, nó khác những cái nghề khác lắm.

Khi mà người chăn chiên lãnh lấy đàn chiên từ chủ, thì người chăn chiên phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về đàn chiên mà mình được trao phó. Nếu mà có chuyện gì xảy ra cho đàn chiên, thì người chăn chiên phải trưng dẫn bằng cớ để chứng minh rằng là mình không có lỗi, để mà cho con chiên nó phải bị tàn tật, hay con chiên nó bị giết chết.

Luật pháp thời đó quy định rất là rõ ràng: ở trong sách xuất hành chương 22 câu 12

Nếu mà con vật bị thú rừng xé chết, thì người lãnh giữ chiên phải đem xác chết của con chiên ra làm bằng chứng.

Thế đấy, cái nghề chăn chiên xem ra nó là một cái nghề rất là đặc biệt, tức là khi mà chấp nhận vào cái nghề chăn chiên là chấp nhận sẵn sàng hi sinh, chết để bảo vệ, để che chở đoàn chiên, chấp nhận liều mình để cứu đoàn chiên và nhất là khi mà chúng bị trộm cướp hay là bị thú dữ tấn công. Và như thế với cái đặc thù của nghề chăn chiên như vậy thì ta có thể gọi cái nghề chăn chiên là một ơn gọi.

Ơn gọi, chứ không phải là một cái nghề kiếm kế sinh nhai. Nếu mà đi chăn những vật khác thì không phải vất vả như cái nghề chăn chiên vậy.

Và một cái người mục tử như thế, mà gọi là Mục Tử nhân lành đúng nghĩa thì không có cái mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên. Buổi sáng thì vui sướng để mà đưa đoàn chiên đi tới tìm đồng cỏ xanh tươi, buổi tối thì đưa chiên về nghỉ ngơi. Những người mà Mục Tử chẳng đặng đừng thì họ coi sóc đoàn chiên của họ như người làm thuê, khi mà thấy sói đến thì người đó bỏ chiên mà chạy.

Ngược lại với người làm thuê, không phải rằng là một cái người đi chăn bình thường, mà là người đi chăn để mà được trả công, để mà hưởng công, hưởng lương, để mà nghĩ tới tiền bạc.

Nhưng mà cái người Mục Tử nhân lành đó là cái người Mục Tử biết chiên của mình.

Còn nhớ ở trong thời Cựu Ước, thì hình ảnh người mục tử được áp dụng cho các nhà vua. Mà hình ảnh của người mục tử và con chiên là hình ảnh rất quen thuộc. Để mà chúng ta thấy cái mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân của Ngài tuyển chọn tức là dân Israen. Ngài hướng dẫn, Ngài bảo vệ, Ngài nuôi dưỡng dân Israen.

Thế nhưng rồi, ta thấy kinh nghiệm của dân Israel và các nhà lãnh đạo là một cái kinh nghiệm đáng tiếc, kinh nghiệm đáng buồn. Có nhiều nhà vua chỉ rắp tâm gọi là bóc lột, và thậm chí giết chiên, để rồi có những ngôn sứ chỉ thẳng vào mặt các vua với ngôn ngữ nặng nề để mà chỉ trích sự cái sự gian ác của các vua; thay vì họ nuôi dưỡng, họ ôm ấp họ ấp ủ chiên, thì họ lại bóc lột và thậm chí giết chiên.

Và ngày hôm nay trong ngày Chúa nhật 4 Phục sinh còn gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, thì Chúa Giêsu đã dùng cái hình ảnh của người mục tử để mà nói về mình, để diễn tả về mình, về người Mục Tử nhân lành.

Người Mục Tử nhân lành là gì? là người mục tử biết rõ từng con chiên của mình, cũng như biết để mà chiêm nhận, biết để mà đi theo.

Và thứ 2, người Mục Tử nhân lành là cái người quan tâm đến đoàn chiên và đặc biệt quan tâm đến những con chiên bị đau ốm, thương tích, hay là lạc đàn.

Và thứ ba, người mục tử đó sẵn sàng hiến mạng sống của mình đương đầu với sói dữ, thú dữ gì để mà bảo vệ đoàn chiên.

Và chúng ta thấy, nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã mang lấy trong mình cái đặc tính của Người Mục Tử rất tuyệt vời đó! Chúa Giêsu là một người mục tử nhân lành cũng có nghĩa là mục tử xinh đẹp. Nhân lành không có phải có nghĩa là theo nghĩa tình cảm êm ái hay dịu dàng nhưng là chân chính, nhưng là đích thực. Mà cái từ ngữ này gợi lên rằng Chúa Giêsu không chỉ là những người làm việc có hiệu năng, nhưng Chúa Giêsu có một nhân cách xinh đẹp toàn diện, duyên dáng, hấp dẫn, cộng với cái tài lãnh đạo đầy uy lực và quyền năng của Người. Chúa Giêsu đã trở nên tư cách của một người Mục Tử nhân lành, chứ không phải là người Mục Tử đi vuốt ve các con chiên. Nhưng chính là tình yêu và sự đồng cảm của Ngài đối với những con chiên mà được Ngài trao phó. Chúa Giêsu có một cái cảm thức rất là đặc biệt về các con chiên, các con chiên thuộc về Người. Chính vì thế, Chúa Giêsu là người đáng tin cậy, và Chúa Giêsu là người chu toàn trách nhiệm của mình với đoàn chiên được trao phó.

Động lực căn bản để mà hướng dẫn Người Mục tử nhân lành đó là tình yêu. Và người nào mà yêu thương thật sự thì muốn ban tặng cả đời sống của mình chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là tình yêu sẵn sàng chấp nhận hi sinh cả mạng sống mình, sự dấn thân không biên giới của Người Mục Tử nhân lành nhằm đưa lại cái sự sống như CHÚA Giêsu nói: « tôi đến để cho chiến được sống và sống dồi dào. Sự dấn thân này không có giới hạn sự dấn thân này Không Biên Giới cái biết mà Chúa Giêsu biết ở đàn chiên đó là sự biết đó được thể hiện trong hiến dâng mạng sống mình cho người mình yêu. Đặc biệt chúng ta được mời gọi để nhìn lên Người Mục Tử nhân lành để chúng ta được soi chiếu. Mời gọi để được soi chiếu cái hình ảnh Người Mục Tử nhân lành là người Mục Tử biết chiên. « Biết»đây! không phải là biết về lý trí, nhưng là cái biết về cái tình cảm, biết về cái cảm nhận sâu xa.

Chúng ta thấy tuyệt vời, Nơi tâm tình của nhạc sĩ Xuân Quỳnh:

Chỉ có thuyền mới hiểu,
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu!
Những ngày không gặp nhau,
biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau,
lòng thuyền đau- rạn vỡ.

Nếu mà thuyền không gần biển thì cảm thấy một cái sự thiếu thốn. Nếu mà biển mà không có thuyền và thuyền mà không có biển thì coi như cái sự hiện diện của thuyền và biển coi như vô nghĩa. Cái biết đó là cái biết: thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạn vỡ! Tuyệt vời!

Cái biết đó chính là cái biết của tình yêu. Đó là cái biết của tâm sự. Đó là cái biết của sự dấn thân, cái biết của sự hi sinh. Giống như cái biết của chồng biết vợ, vợ biết chồng, của người mẹ biết con, của người con biết mẹ. «Tôi biết chiên tôi như Chúa Cha biết tôi. »

Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, và Chúa Cha đã hiểu được sự đau khổ đó. Và rồi cái biết cái sự đau khổ đó đã kết nên cuộc đời dâng hiến của người tử nhân lành, nhân vật dám hi sinh tính mạng của mình.

Và chúng ta được mời gọi đi theo Chúa Giêsu trong hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, Người Mục Tử nhân lành là hình ảnh nói về sự chăm sóc, yêu thương: có trách nhiệm, có hướng dẫn, có chở che,có an ủi, có bảo vệ.

Hôm nay chúng ta lại nhìn thấy mỗi người chúng ta, trong vai trò là người Mục Tử. Mỗi người chúng ta, không phải là linh mục tu sĩ mới là người Mục Tử, nhưng khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta mang trong mình trách nhiệm của người mục tử. Chúng ta có là người mục tử như thế nào? Đó là sự trả lời của mỗi chúng ta.

Chúng ta có biết được cái người mà Chúa trao phó, cái người mà Chúa gửi đến cho chúng ta là người vợ, người chồng, người cha, người mẹ trong gia đình chúng ta hay không?

Ngày hôm nay dường như cái biết đó nó chỉ còn ở cái biết ở bên ngoài, nhưng người ta không còn cảm thức về nhau.

Một cái báo động đỏ về đời sống gia đình: vợ sống chung với chồng đó, nhưng mà không có cái cảm thức về chồng, cha mẹ sống chung với con cái đó, nhưng không có cái cảm thấy con cái nữa. Và điều đáng tiếc rằng ngày hôm nay có một số mục tử sống không như là những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Những mục tử chỉ suốt ngày chỉ biết vun vén cho mình, chỉ biết lo cho mình và quên đi cái sự đau khổ, cái đời sống khó khăn của con chiên. Và đó là một thách đố của mỗi người chúng ta.

Chúng ta không ngồi đó để chúng ta lên án các mục tử. Chúng ta không có lên án ai cả! bởi vì mỗi người chúng ta vẫn mang trong mình cái thân phận yếu đuối của con người. Chúng ta được mời gọi lên, nhìn Đấng chăn chiên lành tuyệt vời, và hoàn hảo: Đó là Chúa Giêsu.

Chúng ta có dám dấn thân, chúng ta có dám hi sinh mạng sống mình vì người mình yêu. Chúng ta có can đảm để mà bước theo Đức Kitô hay không? Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta.

Ngày hôm nay chúng ta cầu nguyện cho các linh mục là những mục tử được mời gọi cách riêng để chăm sóc cho đoàn chiên. Và chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, để trong cái bổn phận là người Mục Tử, chúng ta được Chúa trao phó cho những người này, người kia là những người chồng người vợ, người con trong gia đình. Chúng ta có biết, chúng ta có dám hi sinh, hi sinh tính mạng mình vì người mình yêu hay không hay Chúng ta là những người chăn thuê hay chúng ta là những người mục tử Gian ác như các vua ở trong Cựu Ước đã ăn thịt con chiên của mình, đã giết mạng sống con chiên của mình thay mình thí mạng sống mình vì người mình yêu.

Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu, một con người đã đến trong trần gian này sống trong vai trò một mục tử, một cái vai trò Mục Tử rất là tuyệt vời. Chúa Giêsu đã dám chấp nhận hy sinh đến giọt máu cuối cùng, đổ giọt máu cuối cùng mình để cho nhân loại được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, và đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các mục tử ngày hôm nay dưới cơn sóng xô của Tiền bạc, của Quyền Lực của Danh Vọng. Để chúng ta cầu nguyện cho các ngài, để các ngài nhìn lên Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân lành, đặc biệt là mục tử nhân lành hoàn hảo để các linh mục bước theo Chúa Giêsu dấn thân với Chúa Giêsu.

Và xin cho các ngài biết từng con chiên trong họ đạo của mình, biết từng con người khổ đau và biết băng bó những con người bị bỏ rơi, biết yêu thương và biết chấp nhận hi sinh tính mạng của mình để lo cho đoàn chiên.

Có như thế, các linh mục mới trở thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Và có như thế chúng ta mới hoàn thành sứ mạng là Mục Tử mà Chúa trao phó cho mỗi người chúng ta. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B167: CHUNG HƯỞNG HẠNH PHÚC VÔ BIÊN


 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 4 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn PS4-B167


Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 4 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Đức Kitô, Vị Mục Tử oai hùng của chúng ta, đã khải hoàn tiến vào Thiên Quốc, xin Chúa cho chúng ta là đoàn chiên hèn mọn, cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên là chung phần chiến thắng của Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền tường thuật lại cuộc chiến giữa các thiên thần và Con Mãng Xà, đây cũng là cuộc chiến của các tín hữu, nhưng, đừng lo, bởi vì, họ đã thắng nhờ máu Con Chiên và nhờ lời họ làm chứng về Đức Kitô: họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết. Sau khi chịu cực hình trong giây lát vì trung thành với giao ước của Thiên Chúa, thì giờ đây các tín hữu Chúa đang hưởng sự sống đời đời.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên nhờ Đức Kitô, vị mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Cả đã nói: Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Dường như Đức Giêsu muốn nói rõ rằng: Điều minh chứng, tôi biết Chúa Cha và được Chúa Cha biết, ấy là, tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, nghĩa là, nhờ tình thương, khiến tôi chịu chết cho đoàn chiên, tôi tỏ cho thấy là tôi yêu mến Chúa Cha tới mức nào.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên là nhờ Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phêrô mạnh dạn tuyên bố: Ngoài Đức Kitô ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.

 Chung hưởng hạnh phúc vô biên là được chung phần với Đức Giêsu, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan đã nói: Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên nhờ biết giữ vững niềm trông cậy vào Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 117, vịnh gia đã cho thấy: Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói rằng: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. “Biết” chính là “yêu”, Đức Giêsu đã yêu đoàn chiên đến hy sinh cả mạng sống mình. Để có thể chung hưởng hạnh phúc vô biên với Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, chúng ta phải để cho Người “biết”: có biết, mới được yêu thương, được thấu hiểu, được cảm thương; được chữa lành, được giải cứu, được sống và sống dồi dào. Ước gì chúng ta biết ngoan ngùy vâng theo sự chăn dắt của Chúa, để chúng ta luôn được nuôi dưỡng trong đồng cỏ xanh tươi, mà Chúa đã dùng chính Máu mình để mua lấy cho chúng ta. Ước gì được như thế!

-------------------------------

 

PS4-B168: MỤC TỬ NHÂN LÀNH.


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được gọi là Mục Tử của dân Người, vì dân được chọn là dân du PS4-B168


Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được gọi là Mục Tử của dân Người, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa. Từ đó, hình ảnh người mục tử được áp dụng cho những kẻ Thiên Chúa ủy nhiệm, để thi hành vai trò lãnh đạo dân Ngài, như Môsê, Đavít, các vua, các tư tế cũng như các thủ lãnh. Tuy nhiên, sau này, kinh nghiệm của Israel về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã khiển trách họ bằng lời lẽ nặng nề, vì họ đã không nuôi dưỡng mà chỉ biết bóc lột đoàn chiên,“thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.” (Ed 34,2-5). Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa hứa gửi đến cho dân Người một mục tử chân chính, để điều khiển họ trong sự công chính và bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6).

Khi Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên”, thì lời Thiên Chúa hứa đã được hiện thực, vượt quá mọi chờ đợi của con người. Những lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa chúng ta đến một cái nhìn rộng lớn về công trình cứu chuộc, là sự hy sinh chính bản thân Ngài trong mầu nhiệm Vượt Qua.

Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm chiên lạc, đưa chiên về đàn. Một thái độ hoàn toàn khác với người chăn thuê, là người sống dửng dưng và xa cách với đoàn chiên, chỉ canh giữ theo thủ tục tối thiếu rồi chờ lương bổng lợi lộc, chứ không quý mến gì từng con chiên, và bỏ mặc đoàn chiên khi gặp tình trạng nguy biến.

Thực tế ngay giữa lòng Hội thánh, không thiếu những linh mục và tu sĩ sống ích kỷ và tị hiềm nhỏ mọn; không thiếu những tranh chấp quyền hành và địa vị; không thiếu những người sống ù lì, hưởng thụ, mà còn chạy theo tiền bạc, đam mê, danh vọng… góp phần cho việc tục hóa… Tại sao lại như thế? Nói theo ngôn ngữ của cha Teilhard de Chardin, thì lửa tình yêu trong trái tim các ngài quá yếu, không đủ nóng và đủ mạnh để sưởi ấm cho đời. Ngày nay có nhiều người trẻ không muốn đi tu, có thể vì họ thấy nơi một số các linh mục và tu sĩ có một kiểu sống khô khan vị kỷ, không quảng đại và vui tươi hồn nhiên, không sống tình bạn hữu thân thương trong đời thường. Chỉ khi họ gặp được linh mục hay tu sĩ nào phản chiếu được sự rạng rỡ của tình yêu, tức khắc chạm đến trái tim họ, để lại một ấn tượng khó phai mờ, và nhờ đó gây nên một chuyển biến trong đời sống của họ.

Việc cầu nguyện cho ơn thiên triệu mời gọi tất cả mọi thành phần của Giáo hội nhìn lại đời sống mình, để khám phá ra những bóng tối đang che mờ ánh sáng, những chai lì khô cứng đang làm nguội dần ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong mình, cả những ươn lười và ham hố bên ngoài như những tảng băng làm tắt dần sức nóng… Cứ phải tạo lại cho mình nỗi khát khao sự sống mới; cứ phải nhóm lại ngọn lửa yêu thương trong lòng mình bằng đời sống kết hiệp với Chúa mỗi ngày. Nhờ vậy, sự hiện diện của ta trở nên một dấu chỉ tốt lành để hướng mọi người đến việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

Riêng với các bạn trẻ, nhân ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi, có lần Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các bạn như sau: “Đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! Tin Mừng là lời giải phóng, biến đổi và làm cho cuộc sống của chúng ta thêm đẹp. Thật tuyệt vời biết bao khi ta biết để mình được lời mời gọi của Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên, đón nhận Lời Ngài, bước đi theo dấu chân của Đức Giêsu, trong việc phụng sự Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! Đời sống của chúng ta sẽ mỗi ngày trở nên phong phú hơn và chan chứa niềm vui hơn!”.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Ngài là Mục Tử nhân lành,
đã hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên,
không như kẻ chăn thuê lo yên bề gia thế,
không kể gì sự sống chết của đàn chiên.

Là Mục Tử nhân lành,
Chúa dẫn chúng con đến đồng xanh suối mát,
đem lại bình an và sự sống cho tâm hồn,
chẳng bao giờ chúng con sợ thiếu thốn,
vì Chúa chính là nơi chốn để tựa nương,
cho cả những ai phải sa cơ lỡ bước,
để họ vượt qua tăm tối của đêm trường,
đón nhận được tình thương và ân sủng.

Xin cho chúng con trong mọi lúc,
biết nhận ra ân phúc của đời mình,
để luôn sống trong ân tình của Chúa,
biết nghe theo tiếng Chúa ở mọi nơi,
biết bước theo chân Chúa ở mọi thời,
đừng để con xa rời đường nẻo Chúa,
kẻo đời con phải héo úa sa chìm.

Xin cho các bạn trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa,
qua những người đang đói khát hôm nay,
không chỉ đói bánh ăn và cơm áo gạo tiền,
mà còn đói chính tình thương và lẽ sống,
đói công bình vì đầy dẫy những bất công,
đói cảm thông vì chẳng ai chia sẻ.

Xin cho các bạn trẻ biết chạnh lòng,
trước bao mảnh đời bất hạnh vẫn chờ mong,
có ai đó đem đến cho họ niềm hy vọng,
giữa cuộc đời đầy trống rỗng hư không,
để các bạn mở lòng dấn thân vào đồng lúa,
trở thành thợ gặt lành nghề cho Nước Chúa,
cho niềm vui ơn cứu độ tỏa lan,
cho bình an và hạnh phúc mãi tuôn tràn. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B169: DẤU HIỆU MỤC TỬ GIẢ


 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 

Có người nói rằng điều sợ nhất hôm nay là ra đường gặp phải người giả và đồ giả. Giả giống như PS4-B169


Có người nói rằng điều sợ nhất hôm nay là ra đường gặp phải người giả và đồ giả. Giả giống như thật. Giả để lừa. Quyền thế càng nhiều thì giả càng quy mô. Sự đời giả dối ấy ta bắt gặp ở mọi nơi và mọi tầng lớp trong xã hội.

Thi Sỹ Bùi Giáng cũng viết rằng :

“Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan”



“Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ cao là sáng, cứ tu là hiền”.

Và có người còn chế thêm rằng:

“Trọc đầu đừng tưởng là sư
Có khi là kẻ giống như bụi đời.

Điển hình là Võ Hoàng Yên được giới truyền thông ca tụng là thầy y để cứu nhân độ thế có thể chỉ vài động tác là người câm nói được. Và rồi Võ Hoàng Yên xuất hiện giữa truyền thông như một cư sỹ chay tịnh cứu đời. Miệng luôn nói lời đạo đức dạy người. Thế nhưng, sự thật hôm nay được phơi bày là dàn dựng, lừa dối thật đau lòng!

Người giả – đồ giả thật đáng sợ nhưng truyền thông giả còn đáng sợ hơn gấp trăm ngàn lần. Truyền thông có thể đưa kẻ tội lỗi thành thần thánh. Truyền thông có thể hãm hại kẻ vô tội thành có tội. Ai nắm được truyền thông người ấy nắm được chiến thắng. Điều đáng tiếc, là nhiều người lại dùng truyền thông để nói sai sự thật và đánh bóng tên tuổi của mình hay của ai đó để trục lợi cho phe nhóm của mình.

Quả đúng như người ta nói:

Ngày nay đầy dẫy “fake news”,
Tràn ngập tin giả “hỏa mù” khắp nơi.
Biến bao sự thật sáng ngời,
Trở thành hoen ố tả tơi khó nhìn.

Chính vì truyền thông dối trá đã làm hại biết bao người và làm cho kẻ gian lại được vinh thăng:

Từng gọi dối trá đáng yêu,
Tô màu hư hoại thành điều đáng tôn.
Tội lớn biến nhỏ cỏn con,
Vinh thăng kẻ ác còn hơn anh hùng.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản về mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.

Ở đây Chúa muốn nói về trách nhiệm của mục tử là phải chăm sóc và bảo vệ đàn chiên. Người mục tử được giao nhiệm vụ coi sóc anh em mình tùy theo chức vụ và khả năng. Đức Thánh Cha có trách nhiệm gìn giữ sự hiệp nhất con cái trên thế giới và gìn giữ con cái Chúa khỏi sự băng hoại của thế gian. Đức Giám mục Giáo phận có trách nhiệm dạy dỗ uốn nắn con cái đi theo giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Cha xứ có trách nhiệm với mỗi linh hồn trong xứ đạo, đặc  biệt là những người khô khan và bỏ đạo. Cha mẹ có trách nhiệm lo cho con cái lớn khôn , khỏe mạnh từ thể xác đến linh hồn.

Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần của người mục tử luôn theo sát đàn chiên, luôn đi trước để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ và phải canh chừng chúng khỏi sự dữ bủa vây . . .

Nếu người mục tử thờ ơ, thiếu quan tâm, thiếu dạy dỗ uốn nắn người dưới tức là mục tử giả. Họ chỉ lo cho bản thân, hay chỉ để xen lông chiên tức là kẻ trộm chỉ làm đàn chiên tan nát.

Chúa Giê-su đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.

Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ để bảo vệ đàn chiên cho dù phải hy sinh tính mạng.

Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì “ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời”

Nguyện xin Chúa Giê-su mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B170: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NHƯ ĐẠI DƯƠNG


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Steve Jobs là một thiên tài về tin học và là nhà sáng chế nổi bật người Mỹ trong thời đại chúng PS4-B170


Steve Jobs là một thiên tài về tin học và là nhà sáng chế nổi bật người Mỹ trong thời đại chúng ta. Ông đạt được nhiều thành công vang dội trong lãnh vực công nghệ thông tin. Ông là nhà sáng lập, là chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, là cha đẻ của điện thoại Iphone và Ipad.

Tiếc thay, ông bị mắc chứng ung thư tuyến tụy và dù hết sức chạy chữa để dành lại sức khỏe và sự sống, ông đã phải qua đời ngày 5 tháng 10 năm 2011, khi được 56 tuổi.

Trong thời gian nằm bệnh viện để điều trị chứng bệnh quái ác, ông tâm sự rằng:

“Nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn.”

Đúng vậy, Jobs có thể thuê nhiều người lái xe thay mình để đưa ông đi khắp nơi, có thể thuê hàng chục ngàn nhân công để phục dịch cho mình; nhưng dù có cả núi tiền, Jobs cũng không thể thuê người mang bệnh ung thư giùm cho ông hay chết thay cho ông!

Sở dĩ không thuê được là vì không có ai trên đời chấp nhận chết thay cho người khác được sống, với bất cứ giá nào.

Thế mà Chúa Giê-su, là Thiên Chúa cao cả và đầy quyền năng, đã tự nguyện mang lấy tội lỗi chúng ta, mang án phạt của chúng ta để ta khỏi chịu khổ hình do tội mình gây nên và tự nguyện chết thay để chúng ta được sống đời đời… Đây là hồng ân vô cùng tuyệt vời và cao quý Ngài ban tặng cho chúng ta.

Qua bài Tin mừng trích đọc hôm nay (Ga 10, 11-18), Chúa Giê-su tự giới thiệu Ngài là người chăn chiên tốt lành và sứ mạng cao cả của Ngài là hy sinh chịu chết để bảo vệ chiên, để cứu chiên khỏi chết. Ngài nói:

“Tôi là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Chưa từng có mục tử nào trên đời yêu mến chiên và hy sinh cho đoàn chiên đến thế!

Và Chúa Giê-su lặp lại câu này lần thêm hai lần nữa: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên…” và “Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình…”

Cụm từ “hy sinh mạng sống” được Chúa Giê-su nhắc lại ba lần trong một bài giảng ngắn, để nhấn mạnh vai trò và sứ mạng của Ngài là chịu chết cho muôn người được sống.

Tôi tớ thấp hèn tự nguyện chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn tự nguyện chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.

Phải có một tình yêu vô cùng lớn lao thúc đẩy thì người ta mới có thể tự nguyện chết thay cho người khác.

Ai yêu thương đến độ chết thay cho người khác là đã đạt tới tột đỉnh của tình yêu.

Thế mà Chúa Giê-su, là Chúa Tể trời đất, là Đấng rất cao cả và đầy quyền năng, chấp nhận chết thay cho loài người thấp hèn, tội lỗi, để cho ta được sống muôn đời với Chúa, là điều vượt quá trí hiểu của con người.

Điều này chứng tỏ tình thương Ngài dành cho chúng ta lớn lao như đại dương không bờ, không đáy.

Lạy Chúa Giê-su,

Nếu chúng con bị tuyên án tử hình mà có người nhận tội thay và chịu chết thay cho chúng con thì tuyệt vời biết bao, hạnh phúc biết dường nào! Chúng con sẽ yêu mến người đó hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự suốt cả đời mình.

Thế mà Chúa là Chúa tể trời đất, đã mà hạ mình xuống thế ở với chúng con, chăm sóc chúng con ân cần chu đáo như người chăn chiên tốt chăm lo cho đoàn chiên, đã ấp ủ chúng con như mẹ hiền ôm ẵm con thơ và thậm chí còn hiến thân chịu chết cho chúng con được sống muôn đời… thì chúng con lại thờ ơ hững hờ, vô cảm vô tâm trước tình yêu cao vời của Chúa.

Xin Chúa tha thứ cho chúng con về tội vô tâm này và giúp chúng con từ nay luôn yêu mến Chúa hết lòng chúng con. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B171: ƯỚC MƠ, PHỤC VỤ VÀ TRUNG THÀNH


Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

 

Hàng năm vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng PS4-B171


Hàng năm vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta cử hành Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.

Trong Sứ điệp nhân ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu năm nay 2021 với chủ đề : “Thánh Giuse, Ước mơ của Ơn gọi” Đức Thánh Cha Phanxicô đã diễn giải 3 đặc tính của ơn gọi nơi mỗi cá nhân là ước mơ, phục vụ và lòng trung thành.

Ước mơ là dấu chỉ của ơn gọi. Ai muốn tận hiến cho Chúa, người ấy trước tiên phải ước ao, phải muốn đi Tu đã. Không phải chỉ là một ước muốn mơ hồ, mà là một ý muốn cương quyết mạnh mẽ và lâu bền đầy ý thức ngay lành. Ðành rằng có thể có những hối tiếc, những cám dỗ, nhưng đương sự vẫn cố gắng và cương quyết vượt qua. Ði theo Chúa không phải vì vụ lợi, danh vọng mà vì muốn nên trọn lành. Chúa phán cùng người thanh niên : “ Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết tài sản… rồi đến theo Ta”. Ðó là dấu căn bản thứ nhất. Đức Thánh Cha đề cập đến đặc tính thứ hai là phục vụ.

Phục vụ

Có bao giờ ta tự đặt câu hỏi: Chúa sinh tôi ra trên trần thế này, để cho tôi lưu lạc nhiều năm tháng, cứu tôi, biến tôi thành con dân Ngài, để hưởng sự sống đời đời nơi Thiên đàng. Như thế khi chưa về nước Chúa, Chúa muốn ta làm gì không?
Hiển nhiên, Chúa muốn chúng ta thành con người phục vụ trong thành công và đắc thắng cho Ngài.

Mỗi tín hữu là một người phục vụ. Chúng ta được tạo dựng để phục vụ (x. Eph 2,10). Ađam và Eva được Thiên Chúa tạo dựng để phục vụ Chúa, quản trị muôn loài. Phải khẳng định rằng, chúng ta được cứu để phục vụ (x. 2 Tim 1,9), được kêu gọi để phục vụ và đụợc ban ơn để phục vụ, như Phêrô mô tả : “Moi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Thiên Chúa” (1 Pr 4, 10).

Người được ban cho quyền hành cũng là để phục vụ : “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 18-20).

Tóm lại, Thiên Chúa không tình cờ tạo ra chúng ta, Ngài cũng không rủi may cứu chúng ta, càng không tùy hứng kêu gọi và ban ơn cho chúng ta. Chúa có chương trình, kế hoạch, mục đích tạo dựng, cứu rỗi, kêu gọi, ban ơn để chúng ta phục vụ Chúa và nhận phần thưởng quí báu đời đời của Ngài. Hay cảm tạ Chúa. Hãy nói với Chúa: Chúa ơi, xin dùng con phục vụ Ngài.

Chúa Giêsu đã phán: “Thầy ở giữa các con như một người hầu hạ” (Lc 22,27). Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ lẫn nhau. Người sống đời tu trì thì càng phải phục vụ. Phục vụ là giúp đỡ những người khác cần sự trợ giúp. Sự phục vụ giống như Chúa Giêsu phát sinh từ tình yêu mến chân thật đối với Đấng Cứu Thế và lòng yêu thương cũng như mối quan tâm đối với những người mà Chúa ban cho chúng ta các cơ hội để phục vụ. Tình yêu thương không phải chỉ là một cảm giác suông; nhưng là yêu và muốn giúp đỡ họ.

Là Kitô hữu, chúng ta phải sẵn lòng phục vụ, bất luận mức thu nhập, tuổi tác, hay địa vị xã hội của chúng ta ra sao. Một số người tin rằng chỉ những người nghèo khó và thấp hèn mới phải phục vụ. Một số người khác lại nghĩ rằng chỉ những người giàu có mới phải phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy ngược lại : “Trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi; còn kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi các ngươi” (Mt 20, 26–27). Vì thế, người sống đời tu trì được gọi riêng để phục vụ tha nhân.

Có nhiều cách để phục vụ. Chúng ta có thể giúp những người khác về phương diện kinh tế, xã hội, vật chất và tinh thần. Cho người đói ăn, giúp người ốm yếu, ai ủi kẻ sầu muộn, cô đơn… Hãy nghĩ đến những người đang lâm cảnh khốn khổ về phương diện kinh tế, xã hội, vật chất cũng như tinh thần. Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập đến đặc tính thứ ba là trung thành.

Trung thành

Trung thành trong ơn gọi không chỉ đơn giản là ơn gọi trong đời sống tu trì hay gia đình, nhưng là tất cả mọi hoạt động và ý định của Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào.
Thiên Chúa luôn là Đấng chủ động mời gọi con người đến để hiệp thông, cộng tác với Ngài, nhờ đó con người được lớn lên trong tình yêu thương chăm sóc và bảo vệ, cũng như được thừa hưởng phúc lộc sẽ ban cho khi luôn gắn bó, trung thành với Ngài. Vì thế, cách khôn ngoan của con người là mau mắn đáp lại tiếng Chúa và trung thành với phận vụ cao quý mà Thiên Chúa đang giao phó nơi mỗi người, trong từng việc, từng hoàn cảnh và thời gian khác nhau.

Trung thành trong ơn gọi tận hiến không đơn giản chỉ là có tên, có mặt trong nhà dòng, qua những lần khấn hứa để trở thành tu sĩ, hay thành linh mục đoàn Giáo phận mà thôi. Mà phải làm cho ơn gọi dâng hiến trở nên sống động, là biểu tượng của hạnh phúc thật, là nguồn sức sống sung mãn cho con người và thành niềm say mê cho ai khát khao và kiếm tìm.

Chính nhờ trung thành gắn bó với ơn gọi, mà con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đời họ trở nên dấu chỉ của tình thương và an bình.

Vì thế, người tu trì phải làm cho đời mình trở nên hạnh phúc thực sự, thành dấu chỉ của niềm vui giữa thế gian, nhờ đó mà người đời nhận biết sự tốt lành và cao cả của Thiên Chúa ban cho con người, qua ơn gọi dâng hiến.

Nhân Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu chúc như sau : “Tôi cầu chúc cho các bạn, những người đã quảng đại biến Thiên Chúa thành ước mơ của cuộc đời các bạn, phục vụ Người trong những người anh chị em của các bạn qua lòng trung thành…” (x. Sứ điệp Ơn gọi 2021).

Đức Phanxicô đã từng nhắc nhở : “Vào ngày được dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi kêu gọi tất cả anh chị em Kitô Hữu hãy ý thức trách nhiệm của mình đối với việc chăm sóc và biện phân các ơn gọi”. Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các bạn trẻ ở khắp Châu Á ngày càng chú tâm lắng nghe lời Chúa kêu gọi và đáp lại ơn gọi của mình với đức tin và lòng dũng cảm.

-------------------------------

 

PS4-B172: CÁNH CỬA


Lm Vũđình Tường

 

Mấy tuần qua chúng ta nghe đến ba loại cửa. Tất cả các cửa này đều có điểm chung, đó là PS4-B172


Mấy tuần qua chúng ta nghe đến ba loại cửa. Tất cả các cửa này đều có điểm chung, đó là nói lên sự sống. Cánh cửa đầu tiên là cửa mộ, thứ đến là cửa cài then, nơi môn đệ Đức Kitô trốn, do sợ hãi, thứ ba là cửa chuồng chiên.

Đối với toàn thể nhân loại, cửa mộ là cửa tử bởi nơi đó cầm giữ, chôn cất thân xác người thân. Đối với Kitô hữu cửa mồ là biểu tượng của sự sống mới, sống trong Chúa. Đức Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mộ để lại sau lưng ngôi mộ trống. Nơi Ngài nguồn sống mới phát sinh. Ngay tại cửa mộ Đức Kitô gặp các bạn phái nữ, Ngài nói với các bà đi báo tin cho các môn đệ là Ngài sẽ đi gặp họ. Đức Kitô hiện đến với họ, tất cả đều bàng hoàng, ngỡ ngàng. Gặp lại Đức Kitô Phục Sinh, sự sống bừng lên nơi các ông, bởi Đức Kitô ban cho các ông sự sống mới, kèm theo là sứ mạng rao giảng Tin Vui Phục Sinh. Những ai tin theo sẽ trở thành môn đệ Đức Kitô. Ai yêu mến và lắng nghe lời các môn đệ, Đức Kitô ban cho họ sự sống mới, sự sống trường sinh.

Trước cuộc tử nạn, Đức Kitô nói về cửa chuồng chiên. Cửa này không phải là vật dụng, gỗ, đá mà chính con người. Con người đó là Đức Kitô. Ngài tự ví mình như là cửa chuồng chiên, bởi tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa, ngày và đêm Ngài bảo vệ chiên khỏi bị sói rừng sát hại, canh giữ không để cho trộm rình bắt. Chiên sẽ không bị kẻ cướp cướp đi.

Đức Kitô đưa ra hai hình ảnh, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn. Chủ chiên nhân lành, ngày đêm, luôn chăm sóc, bảo vệ đàn chiên. Chủ dẫn chúng đến giòng nước trong lành, đồng cỏ tươi mát. Chủ sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại. Chủ sẵn sàng hy sinh, dấn thân vào chốn nguy hiểm, mục đích bảo vệ đàn chiên. Chủ chiên lành biết rõ chiên của mình, chiên nghe, vâng lời tiếng chủ, và chủ biết từng con, nghe biết tiếng chúng. Những giá trị này Đức Kitô ngụ í nói về chính mình. Hai lần Ngài xác nhận ‘Ta là chủ chiên lành’ c.11,14. Qua cuộc tử nạn, thập giá và phục sinh của Đức Kitô. Nhân loại thấy rõ tâm tình yêu mến, Đức Kitô thí mạng sống mình vì đàn chiên. Đức Kitô thực hiện điều Ngài nói về chủ chiên lành bởi đó chính là í của Ngài và í này cũng trùng hợp, cũng là í của Chúa Cha.

Là cửa chuồng chiên, Đức Kitô để cho nhân loại quyền tự do lựa chọn. Những ai yêu mến, chọn tin theo Đức Kitô sẽ nhận được tình yêu thí mạng sống mình vì chiên. Những ai chọn theo í riêng, không theo Đức Kitô sẽ chẳng bao giờ nhận biết tình yêu hy sinh của Đức Kitô. Những ai chọn yêu mến và tin theo sẽ không mất gì, nhưng nhận được nhiều ơn Đức Kitô ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái, và suốt đời họ sống trong hy vọng, ngay cả khi gặp thử thách, gian nan, hy vọng vào Đức Kitô vẫn vươn cao. Khi mất đi họ sẽ để lại ngôi mộ trống như chính Đức Kitô đã bước ra khỏi mộ, để lại ngôi mộ trống.

Đức Kitô Phục Sinh ban cho nhân loại quyền tự do chọn lựa: tin theo Đức Kitô hoặc không tin. Chuồng chiên dành cho những kẻ yêu mến, tín trung. Vì lòng nhân lành, Đức Kitô sẵn sàng tha thứ, mở cửa chuồng chiên đón nhận bất cứ ai hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên. Đức Kitô không phải chỉ là người gác cửa mà chính Ngài còn đi tìm những chiên lạc, khi tìm được vác trên vai mang về (Dụ Ngôn Chiên Lạc Luca 15:5). Như thế chỉ có một chuồng chiên, nhưng trong chuồng chiên có nhiều đàn chiên. Đàn vào trước, đàn vào sau, chung chuồng, chung chủ.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức phủ dụ để bắt chiên; trong khi sói dữ rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé, cắn phá chiên.
Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành.

-------------------------------

 

PS4-B173: NGHE TIẾNG CHÚA


Bông hồng nhỏ

 

Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy PS4-B173


Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11). Đó cũng là lời mà Chúa Giêsu đang nói với ta. Lắng nghe tâm tư của Người, lòng ta vang lên một lời mời gọi: hãy lắng nghe và thi hành lời Chúa.

Làm sao để lắng nghe tiếng Chúa? Thiên Chúa nói trong thinh lặng và lòng ta cũng phải lặng thinh để có thể nghe được Lời Người. Ta là con chiên của Chúa, là người được Chúa yêu. Ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu, ta cảm nếm được tình yêu bao la vô bờ bến của Người. Người là vị Mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng cho chính bản thân ta. Ta là ai? Một con chiên lạc bơ vơ đã được Người đưa về săn sóc. Ta nghe thấy trái tim Người thổn thức: “Ta khát!” (x. Ga 19,28). Kìa, Mục Tử nhân lành đang khát. Người khát khô cả cổ họng vì mất máu và mất nước sau nhiều giờ chịu cực hình hay Người đang khát nỗi khát khao được yêu cho đến cùng. Đấng đã dẫn ta vào đồng cỏ xanh và cho ta uống dòng suối mát lành nay đang khát khao được yêu thương ta cho đến cùng. Tình yêu của Người dành cho ta luôn vẹn nguyên và chan chứa nhưng lòng ta sao lắm lúc hững hờ và thờ ơ? Hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, ở lại với Người thật sâu trong bí tích Thánh Thể và lắng nghe lời mời gọi yêu thương của Người dành cho ta: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35). Chúa Giêsu đã yêu thương ta và Người mời gọi ta hãy yêu thương tha nhân như Người đã yêu thương ta. Người không chấp tội ta, chẳng hề nhắc đến lỗi lầm ta phạm nhưng chỉ một bề tha thứ và yêu thương. Mỗi ngày và suốt cuộc đời ta, Người vẫn nói với ta chỉ hai chữ: Yêu thương.

Thiên Chúa vẫn luôn nói với ta và Người ban cho ta có khả năng nghe được tiếng Người vang lên trong đáy lòng ta. Người cho ta được tự do thực thi ý muốn của Người. Để sống Lời Chúa đòi buộc ta phải biết bỏ mình. Vì sao ta khó lòng yêu thương người khác? Vì ta chỉ quy hướng mọi sự về mình, chỉ nghĩ đến mình. Mỗi lần ta muốn từ bỏ ý riêng, ta phải biết nhìn về Thiên Chúa trong tâm tình cầu nguyện. Người sẽ giúp ta biết đứng vào chỗ của người khác để hiểu và cảm thông với họ. Rời khỏi chỗ của mình là một việc làm rất khó khăn, nó đòi ta phải biết phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Người là Mục Tử nhân lành luôn đi trước đoàn chiên, chỉ lối cho từng con. Hãy để Thiên Chúa dẫn ta bước đi. Chẳng phải chính Người đã rời bỏ trời cao để sống với con người trong thân phận con người, đã chịu mọi đau khổ để học được thế nào là vâng phục. Người vâng phục thánh ý Chúa Cha và được Chúa Cha yêu mến. Thiên Chúa đã yêu con người, cho họ được trở nên con Thiên Chúa (x. Dt 5,8. 1Ga 3,1. Ga 10, 17). Mỗi người đều là con chiên được Mục Tử Giêsu yêu thương hết tình. Ta hãy sẵn sàng đón nhận “con chiên lạc” trở về, sẵn sàng nâng đỡ và yêu thương họ như ta đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ. Tình yêu ta dành cho người khác cũng sẽ là phản ánh vẻ đẹp của tình yêu mà Chúa đã dành cho ta. Nếu ta sống thiết thân với Thiên Chúa, được ở trong kinh nghiệm được Người yêu thương, ta sẽ có sức mạnh nội tâm để yêu thương bằng chính tình yêu của Chúa trong ta. Tình yêu của ta thường ích kỷ và hẹp hòi, tình yêu ấy sẽ làm cho người ta yêu phải ngột ngạt, bị trói buộc và thiếu sức sống. Nhưng khi yêu bằng tình yêu của Chúa, Người sẽ làm cho ta và cả người ta yêu thật sự được tự do, trái tim sẽ được triển nở và mở rộng thêm mãi.

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành! Xin giúp con biết sống yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương con. Con luôn tin Chúa dẫn đường con đi và Người hằng ở trong con, yêu thương trong con. Xin Chúa dùng con như Chúa muốn, xin dẫn con đi trên nẻo đường yêu thương của Chúa. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B174: THÍ MẠNG


Trầm Thiên Thu

 

Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống. Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên. Quyền tự do được Thiên PS4-B174


Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống
Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên

Quyền tự do được Thiên Chúa ban cho mọi người như nhau, và mỗi người có thể tùy ý chọn lựa những gì mình muốn, thậm chí là tự hủy hoại sinh mạng mình, nhưng đó là trọng tội vì cướp quyền của Thiên Chúa.

Có tự do nhưng vẫn có giới hạn, nghĩa là người ta không được tự tử. Tuy nhiên, người ta có thể thí mạng mình để cứu người khác. Đó là tình yêu thương vĩ đại nhất mà Chúa Giêsu đã đề cao. (Ga 15:13) Một linh mục thánh thiện đã làm điều vĩ đại đó: Thánh Maximilian Maria Kolbe (1894-1941), chết thay người bạn tù.

Về phương diện tự do bình thường, Frank Tyger định nghĩa: “Làm điều bạn thích là tự do. Thích điều bạn làm là hạnh phúc.” Henry David Thoreau nói: “Luật lệ không bao giờ khiến con người tự do, chính con người phải làm cho luật lệ tự do.”

Khi mặc xác phàm, Chúa Giêsu cũng có quyền tự do chọn lựa, nhưng Ngài quyết tâm theo ý Chúa Cha mà chấp nhận chịu chết. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào, (Ga 10:7) ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì, (Ga 10:7) và Ngài xác nhận: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền hy sinh” và “quyền yêu thương” – đặc biệt là “yêu thương đến cùng” (Ga 13:1) là thí mạng vì những người được trao cho Ngài.

Quyền và chức liên quan với nhau. Xã hội loài người có nhiều loại quyền, cơ bản nhất là nhân quyền – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có nhân phẩm và nhân vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot (Paris, Pháp). Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ trên thế giới.

Bác học Albert Einstein (1879-1955) nhận định: “Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ kém đạo đức – Force always attracts men of low morality.” Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà nhức buốt. Có mọi quyền hành trên trời và dưới đất, nhưng Chúa Giêsu không muốn dùng quyền để hành hạ người khác, Ngài chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mục tử tốt lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi.” (Ga 10:14) Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên,” là “kẻ chăn thuê” mà thôi. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà hành người khác, đã bị Chúa Giêsu nguyền rủa là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà.” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51) Sự thẳng thắn là điều khiến người ta tránh né vì sợ.

Biết rõ Thầy Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô được đầy Thánh Thần nên ông nói mà không sợ hãi: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị.” (Cv 4:8-10) Phêrô bây giờ khác hẳn lúc trước, hết chết khiếp, mạnh dạn bảo vệ sự thật và công lý. Đã có lần ĐGH Phanxicô đã mạnh mẽ nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng, nói thật” chứ không được che giấu lẫn nhau.

Theo ý Thánh Vịnh 118:22, ông Phêrô cho biết: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:11-12)

Sinh – tử là hai đầu mối. Sinh ra để chết, và chết đi để sống lại. Chúa Giêsu đã trải qua “hành trình kỳ diệu” đó. Là tội nhân nhưng chúng ta lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống – không chỉ sống đời tạm bợ này mà còn được trường sinh bất tử. Đặc quyền quá lớn, ngỡ như trong mơ, nhưng đó là sự thật minh nhiên, không mơ hồ hoặc là chiếc bánh vẽ. Vì thế, Thánh Vịnh gia tha thiết nhắn nhủ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:1 và 29) Chắc chắn phải như vậy!

Chắc hẳn là điều minh nhiên và thực sự khôn ngoan nếu biết tạ ơn Chúa, như Thánh Vịnh gia xác định: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:8-9) Mỗi lần ngủ là chúng ta “chết lâm sàng,” giống như “chết giả” để có thể trải nghiệm sự chết vậy. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật là kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con, xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ; lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh.” (Tv 118:28)

Thánh Gioan là người si tình nên thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.” (1 Ga 3:1) Giả sử có người bất ngờ hỏi chúng ta là ai, liệu chúng ta có thể mạnh dạn xác nhận mình là con của Thiên Chúa hay không? Có vẻ đơn giản và dễ dàng, nhưng thật ra không phải như vậy, nếu nói bằng cả con người của mình.

Có lẽ chẳng oan khi nói rằng chúng ta cũng có “máu” đa nghi như Tào Tháo hoặc “cứng cỏi” như Tôma, không nhiều thì ít. Thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như…” vì chưa thực sự tin thật. Thánh Gioan nói thêm: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1 Ga 3:2) Vô cùng kỳ diệu. Hiện nay chúng ta không thể nào tưởng tượng theo trí tuệ loài người. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà vẫn không thể nhận ra Ngài, mặc dù Ngài vẫn là chính Ngài như khi chưa chịu chết. Rất quen mà rất lạ, rất lạ mà rất quen. Phàm ngôn không thể diễn tả đủ ý được!

Trình thuật Ga 10:11-18 rất ngắn gọn, lời chính Chúa Giêsu nói chứ không có lời dẫn, nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Ngài xác nhận và phân tích: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Tầm quan trọng của việc quên mình để dấn thân phục vụ được và quên mình được nhấn mạnh qua hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành và hai lần đề cập việc hy sinh mạng sống. Việt Nam chúng ta có một tấm gương sáng mục tử là Lm P.X. Trương Bửu Diệp (1897-1946), qua việc thí mạng vì đàn chiên. Theo mức bình thường, quên mình để dấn thân phục vụ cũng là một dạng “thí mạng” – nhưng là dạng “nhẹ” mà thôi.

Như muốn “mở rộng” hơn về vấn đề chức quyền và trách nhiệm truyền giáo, Chúa Giêsu nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” (Ga 10:16-18)

Chúa Giêsu nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn cách chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không đề cập LỢI, hoàn toàn khác hẳn với “sở thích” của phàm nhân. Nếu thực sự nghiêm túc xét mình thì thấy thật đáng xấu hổ, bởi vì chúng ta chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì, chưa muốn làm đã chờ thưởng, đòi chức to quyền cao nhưng chẳng muốn “thí” thứ gì ráo trọi!

Lạy Thiên Chúa, xin thay dạ đổi lòng và thay máu cho chúng con, để chúng con dám nói và dám làm – làm tới cùng chứ không lẻo mép, thực sự “phục vụ chứ không hưởng thụ,” (Mt 20:28; Mc 10:45) đồng thời cũng dám tự trào – chê trách chính mình, để được biến đổi nhờ lòng thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B175: TRỞ NÊN MỤC TỬ, LỜI MỜI GỌI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI


Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

 

Hồi ấy, vua Đường Thái Tông, là hoàng đế đang thống lĩnh một vương quốc cường thịnh với nhiều PS4-B175


Hồi ấy, vua Đường Thái Tông, là hoàng đế đang thống lĩnh một vương quốc cường thịnh với nhiều nước chư hầu. Ông có một công chúa tài sắc vẹn toàn, đang đến tuổi cập kê. Do đó, nhiều vua chư hầu cứ ngấp nghé, muốn đến cầu hôn. Hoàng đế không biết chọn ai, mới nghĩ ra một cuộc thi tài. Trong cuộc thi này, hoàng đế đặt ra nhiều thách đố.

Một trong những thách đố đó là hoàng đế đem nhốt chung cùng một chuồng 100 con chiên mẹ và 100 con chiên con. Các người dự thi làm cách nào mau chóng phân biệt được chiên con nào thuộc về mẹ nào. Có một vị vua thông minh đã nghĩ ra một cách thật đơn giản ông bắt từng con chiên con ra giữa sân khi nó kêu, mẹ nó nghe tiếng sẽ tìm cách thoát ra đến với con, mẹ con gặp nhau vui sướng. Vị vua này đã thắng cuộc.

Chúng ta chắc chắn đã biết rõ tại sao chiên con lại tìm được chiên mẹ. Chiên mẹ biết tiếng của chiên con, chiên con biết hơi chiên mẹ, sữa chiên mẹ khiến chiên con nhận ra mẹ của mình. Trong ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Giáo hội mừng lễ Chúa Chiên Lành nhằm giới thiệu về Mục Tử Giê-su nhân lành như muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước hình ảnh người Mục tử Giê-su cũng như cầu nguyện để có thêm nhiều mục tử nhân lành cho một thế giới đây đó đang tồn tại văn hoá sự chết và lối sống gian ác.

1/ Đức Giê-su, Mục tử nhân lành mẫu gương cho chúng ta.

Đọc Tin mừng Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay, chúng ta được Đức Giê-su tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10,11). Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể đã nhận mình là người Mục tử đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Trước khi trở thành Mục tử để chăm sóc đoàn chiên, là các ki-tô hữu, Đức Giê-su phải hiện diện với đoàn chiên qua việc nhập thể và nhập thế. Sự hiện diện như là cách thức đầu tiên để tiếp cận và gặp gỡ đoàn chiên. Người mục tử sẽ khó lòng để chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên nếu thiếu đi sự hiện diện bằng thể lý. Vì có hiện diện, có gặp gỡ mới dễ nhận biết nhau và nghe được tiếng của nhau. Chính vì thế, Chúa Giê-su mới nói: “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. (c.14). Làm sao biết được chiên nếu không hiện diện và gặp gỡ chiên một cách trực tiếp. Khi biết chiên và chiên biết mình, người mục tử dễ dàng dẫn dắt và chăm sóc. Khi mục tử và chiên thuộc về nhau thì dễ dàng nhận ra nhau và sống chết cho nhau chứ không như người làm thuê. Không biết chiên và chiên không biết mình thì chỉ là kẻ trộm hoặc là kẻ chăn thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” (c.12-13). Quả thật, hiểu biết nhau là cách thức cần thiết trong tương quan giữa người với người. Hiểu biết nhau là sẵn sàng cộng tác với nhau. Hiểu biết nhau là sẵn sàng trao ban cho nhau. Hiểu biết nhau là chấp nhận hy sinh cho nhau. Mục tử hiểu biết chiên của mình dễ dàng chăm sóc từng con một là vậy.

Mục tử Giê-su nhân lành không dừng lại ở việc hiện diện và hiểu biết đoàn chiên, Ngài còn để lại mẫu gương về đời sống quan tâm, chăm sóc và gần gũi với đoàn chiên. Giê-su luôn chủ động đi bước trước để đến với các con chiên tội lỗi và thu thuế. Nơi hình ảnh Gia-kêu, một người thu thuế và bị xem là kẻ tội lỗi, chính Mục tử Giê-su đã đích thân ngỏ lời trước để vào nhà Gia-kêu. “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Một cử chỉ hết sức gần gũi và đầy lòng nhân ái của người Mục Tử Giê-su. Nhẹ nhàng và thân thiện là nét cần thiết cho người mục tử đối với những người tội lỗi. Bên cạnh đó, Mục tử Giê-su luôn luôn chạnh lòng thương đối với dân chúng. “…Đức Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: ”Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,35-38). Hình ảnh Giê-su, Người Mục Tử nhân lành đã thể hiện rất rõ nơi lời giảng dạy và cung cách sống của Ngài.

Hơn nữa, Giê-su Ki-tô còn là Mục tử nhân lành dám hy sinh mạng sống của mình cho đoàn chiên. Điều này chính Ngài đã khẳng định: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên…Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”(c.11.14-15). Không chỉ hiện diện, hiểu biết chiên của mình, người Mục Tử Giê-su đã chấp nhận hy sinh mạng sống qua cái chết đau đớn trên Thánh Giá vì yêu thương nhân loại. Quả thật, yêu ai không chỉ hiện diện, hiểu biết, gặp gỡ nhưng chúng ta phải trao ban, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu.

Ngoài ra, Giê-su Mục tử nhân lành không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc đoàn chiên của mình, nhưng Ngài còn hướng đến những con chiên lạc, những con chiên ngoài chuồng, tức là những người ngoại. “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.”(c.16). Đức Giê-su đến trần gian không chỉ dành riêng cho dân riêng, cho những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhưng Ngài đến để cứu độ toàn thể nhân loại. Ơn cứu độ của Chúa là ơn cứu độ phổ quát là vậy. Mọi người có thể được đón nhận ơn cứu độ nếu tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ duy nhất.

2/ Trở nên mục tử, lời mời gọi tất cả mọi người

Là những người đã được đón nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi trở nên những ‘mục tử’ truyền giáo nơi môi trường sống hằng ngày. Như Mục Tử Giê-su nhân lành, chúng ta được mời gọi bước vào cuộc sống với biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ và đối thoại với đủ hạng người ở khắp mọi nơi. Để cuộc gặp gỡ và đối thoại trở nên hiệu quả và sinh ích, mỗi chúng ta đòi buộc gắn chặt với Giê-su hằng ngày trong từng giây phút để kín múc được sức mạnh và nguồn sống từ Ngài. Bài đọc I đã minh định rằng ơn cứu độ chỉ đến và xuất phát từ Đức Giê-su nhân lành:“…Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,11-12). Nơi bài đọc II, Thánh Gioan Tông Đồ cũng nhắc nhở chúng ta như sau: “Anh em thân mến, anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1 Ga 3,1). Thật vậy, khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở thành thụ tạo mới. Chúng ta được lãnh nhận 3 sứ vụ phổ quát là ngôn sứ, tư tế và vương đế, nên chúng ta có trách nhiệm trở nên ‘mục tử’ phổ quát cho anh chị em chung quanh. Như Mục tử Giê-su, chúng ta hãy ý thức sự hiện diện đầy yêu thương và dễ mến trong môi trường sống của chúng ta. Mục tử là người hiện diện với tha nhân. Hiện diện để trao ban. Hiện diện để đối thoại và gặp gỡ. Hiện diện để chúc bình an và niềm vui. Hiện diện để chữa lành và trấn an. Như thế, nơi linh mục, mục tử hiện diện đối với đoàn chiên nơi các cộng đoàn giáo xứ, giáo họ; nơi Bố mẹ, là mục tử hiện diện với con cái trong gia đình; nơi thầy cô giáo là mục tử hiện diện với học sinh nơi trường lớp; nơi giám đốc hay quản lý là mục tử hiện diện với nhân viên nơi công xướng; nơi Giám mục, mục tử hiện diện với giáo phận; nơi Giáo hoàng, mục tử hiện diện với Giáo hội,…

Mặt khác, giữa môi trường đầy dẫy những sự vô cảm, vô tâm, ki-tô hữu được mời gọi hãy trở nên những mục tử hiểu biết, gần gũi, quan tâm và chăm sóc ‘chiên’, là tha nhân. Nhờ đó, những ‘con chiên’, nhất là chiên lạc, chiên đau khổ, chiên bệnh tật, chiên tội lỗi, chiên khô khan, được đón nhận, gặp gỡ và ủi an. Như Mục Tử Giê-su nhân lành, vì yêu thương, chúng ta, những mục tử cũng chấp nhận hy sinh bản thân mình để phục vụ và trao ban cho ‘chiên’ trong gia đình, nơi trường học, nơi chợ búa, nơi bệnh viện, nơi đồng áng, nơi công ty,…Đặc biệt, như Đức Giê-su, Mục tử nhân lành đã đi tìm những con chiên chưa thuộc đàn, thì chúng ta, những mục tử của Ngài, cũng cố gắng ra đi dấn thân đến với những anh chị em chưa nhận biết Chúa để gặp gỡ, tiếp cận và loan báo Tin mừng.

Tóm lại, trong ngày lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cầu nguyện cho ơn gọi thiên triệu, ơn gọi linh mục trên toàn thế giới, mà còn được mời gọi học nơi gương bắt chước Giê-su, Mục Tử nhân lành để trở nên những ‘mục tử’ truyền giáo trong bổn phận mọi nơi mọi lúc cho mọi người. Xin Chúa Phục Sinh đồng hành và ban ơn bình an để mỗi chúng ta sống xứng đáng là con cái của Chúa hầu trở nên những chứng tá Tin mừng cho mọi anh chị em chung quanh. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B176: CÓ TÂM CÓ TÀI


Lm. Jos DĐH.

 

Trải qua nhiều thăng trầm cuộc sống, xã hội hết sức nhạy bén trước lời hay ý đẹp: không gì quý hơn PS4-B176


Trải qua nhiều thăng trầm cuộc sống, xã hội hết sức nhạy bén trước lời hay ý đẹp: không gì quý hơn độc lập tự do. Cha ông ta sẽ sống mãi bởi truyền thống của sức mạnh “huynh đệ”: anh em như bát nước đầy, đói no đùm bọc vạn lần an tâm. Nhân loại mọi thời vẫn chú ý đến người có tâm, có tầm, dù lý thuyết, hình thức, có thể làm nặng nề các tương quan. Tính hợp lý, nội dung phù hợp, vẻ đẹp thực tế, bao giờ cũng là sự chọn lựa của người khôn ngoan đang sống tư tưởng: chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. (Nguyễn Du). Triết lý sống sẽ vô cùng phong phú, khi người ta biết nhìn nhận: chữ tài đi với chữ tai “một vần”, chữ tâm đi với chữ tầm cũng “một điệu”. Xã hội phát triển ổn thỏa từ kinh nghiệm: thất bại là mẹ thành công, gia đình hạnh phúc an vui, nhờ các thành viên ý thức việc sống có lý có tình.

Trong khi Chúa Giêsu nói: “Ta là mục tử tốt lành”, ngoài xã hội lại chủ trương thận trọng: ăn cây nào rào cây nấy, vì mấy ai đủ quảng đại, dám sống theo tinh thần người quân tử: nói ít làm nhiều ? Tại trần thế năm xưa, Đức Giêsu huấn luyện các học trò, đã sống thiên chức người mục tử “thí mạng sống vì chiên”. Câu hỏi nhiều thành phần xã hội hằng ưu tư: có phải tất cả những ai nghèo đều vì “dốt và lười biếng” ? Có phải những người giỏi, người tài, đều do họ thông minh và chăm chỉ ? Theo Đức Giêsu làm môn đệ, chúng ta hiểu thế nào, người “mục tử tốt lành, có chăng, đều phải thí mạng vì chiên” ? Ở đời, kẻ giầu sang phú quý, người tài sắc vẹn toàn, chúng ta vẫn gặp, nhưng đối tượng được chú ý hơn cả là người tốt, có việc làm tốt. Tất nhiên, sống có trách nhiệm, biết thực thi thánh ý Chúa, hay đã hết tình, hết mình, với giới luật yêu thương, hẳn ta sẽ không phải hổ thẹn trước lương tâm, trước hậu thế.

Có tâm, có tài, có là người tốt, là người có ích cho gia đình, xã hội, chẳng bao giờ vinh dự ấy, hạnh phúc ấy, ở trong ta, đến với ta, như phép lạ: cầu được ước thấy. Chẳng cá nhân nào, không gia đình nào: thành đạt, hạnh phúc, mà họ chưa qua giai đoạn đầu tư, tập luyện, chưa một lần té ngã sai phạm, kiên nhẫn sửa chữa, hầu đi đến thành công. Có tâm, tất có thành tựu, có đức, phúc tự đến. Trải qua kinh nghiệm của bản thân, tiền nhân chúng ta để lại không ít lời hay ý đẹp: tất cả các bậc sinh thành đều yêu con, song chỉ người có tâm, có đức, mới biết yêu cha yêu mẹ. Người có tâm, kẻ có đức, không phải là người trong mơ, người có tâm hồn quảng đại, kẻ luôn sống đức độ, cũng không phải là thần là thánh, nhưng hệ tại đủ ý thức: lòng người trung hậu, phúc tự tìm về.

Có tâm hồn đẹp, có tài cao trí rộng, đó là chuẩn mực người đời hằng mơ ước. Có tin Mục-tử Giêsu, có theo sát Mục-tử Giêsu, ta sẽ hiểu thế nào là Mục-tử tốt lành, dám sống chết vì đoàn chiên, và niềm tin sẽ dẫn ta đi tới cùng, không phải dẫn ta sống trong mơ, mà sống thật trong Đấng là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. “Tôi biết chiên Tôi, và chiên Tôi biết Tôi”, lời khẳng định ấy, nhắc tới sự gắn bó giữa Chủ chiên và đoàn chiên trong tình liên đới hiệp thông nên một với Chúa Cha Chúa Con và Thánh Thần. Ước muốn được gọi là người có tâm có tài, có tâm có tầm, chưa đủ, mà thiết nghĩ ta phải sống hết bổn phận, chu toàn hết trọng trách mình đang có. Vâng, có tâm, có tài, sẽ mãi mãi là sự phong phú đáng trân trọng: người ăn không hết, kẻ lần không ra ! Làm người ai cũng như ai, tài giỏi, khờ dại, thành đạt, hoặc bất hạnh, vẫn có chung một điểm dừng: sinh lão bệnh tử.

Cụ Nguyễn Du nhắc hậu thế: có tài mà cậy chi tài, tài tình chi lắm cho trời đất ghen. Vị Mục-tử Giêsu thì nói: “cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đoàn chiên”. Đúng, mỗi người ở đời đều có khổ đau khác nhau, dù là linh mục tu sĩ, là cha là mẹ, là con cháu, đều có chung một ơn gọi, một sứ vụ nên thánh theo Đức Kitô, hầu được biến đổi, được nên chiên ngoan hiền, đến bến bờ hạnh phúc. Chữ tâm chữ tài sẽ đẹp mãi, sẽ không bao giờ là lý thuyết trừu tượng, nếu mỗi người nghiêm túc lắng nghe, hiểu và sống nén bạc mình đang có. Mục-tử Giêsu còn là Mục-tử tốt lành, sống động trong từng gia đình, từng tâm hồn, Ngài sẽ che chở, dẫn dắt chiên đến đồng cỏ Nước-trời. Không ai sống mãi trăm năm, thì xin hãy nhớ chữ tâm ở đời. Không ai sống mãi muôn đời, chữ tình, chữ nghĩa, muôn đời còn lưu. (Danh ngôn cuộc sống). Mỗi người đều có cơ hội, mỗi ơn gọi đều có khổ đau thập giá khác nhau, mỗi người theo Mục-tử Giêsu đều có đủ thời gian và đủ tình yêu, hầu đi đến tận cùng của hạnh phúc. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B177: MỤC TỬ.


Thiên San

 

Sách Sáng Thế kể lại, khi được lệnh vào chầu vua Pharaô, anh em ông Giuse đã thưa với nhà PS4-B177


Sách Sáng Thế kể lại, khi được lệnh vào chầu vua Pharaô, anh em ông Giuse đã thưa với nhà vua rằng: “Các tôi tớ ngài làm nghề chăn chiên, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi” (St 47, 3). Truyền thống ấy gắn liền với người dân Do-thái từ bao đời. Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng chính truyền thông ấy để mạc khải cho nhân loại biết về chính Ngài khi nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11).

Đức Giêsu chính là Mục tử nhân lành. Đoàn chiên mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài là Hội Thánh. Qua giá máu trên thập giá, Đức Giêsu đã hiến thân mình để cứu chuộc muôn người. Người hoàn toàn vâng theo thánh ý Cha. Vị Mục tử ấy luôn hướng về đoàn chiên, coi sóc, hướng dẫn, chỉ bảo cho đoàn chiên. Người còn cho đoàn chiên được sống dồi dào nhờ chính Mình và Máu Thánh Ngài. Quả thực, nếu là người làm thuê, khi sói đến, họ sẽ bỏ chiên mà chạy, khiến đàn chiên tán loạn. Đức Giêsu thật sự là mục tử và Người chẳng hề bỏ rơi đoàn chiên: “Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 17, 12). Cách ứng xử của Người không gì khác hơn là sự hiền lành, khiêm nhường, Người sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại để đi tìm cho được con chiên lạc, tìm được rồi Người vác nó lên vai. Đó chẳng phải là tình yêu và sự tha thứ?

“Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về” (Ga10,16). Có thể nói, It-ra-en là dân riêng của Chúa, còn Hội Thánh là dân Mới của Chúa trong Đức Giêsu. Đoàn chiên của Người bao gồm những kẻ tin vào Người, nghe tiếng của Người. Hội Thánh là đoàn chiên được Thiên Chúa quy tụ dưới sự chăn dắt của mục tử Giêsu. Công việc ấy được tiếp tục trong Hội Thánh khi Đức Giêsu truyền cho Hội Thánh phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ sinh (x. Mc 16,15). Đoàn chiên ấy càng lớn mạnh, phát triển, không còn bị bó gọn trong “ràn It-ra-en”, nhưng lan rộng khắp nơi trên thế giới. Đức tin là sợi dây tuyệt hảo liên kết mọi con chiên thành một đoàn duy nhất dưới sự chăn dắt của một mục tử là Đức Giêsu. Những ai thuộc về đoàn chiên ấy không còn bị giới hạn bởi không gian, thời gian, không bị cản trở, phân biệt bởi ngôn ngữ, màu da, văn hóa nhưng nên một  nhờ Thánh Thần duy nhất, một phép rửa duy nhất.

Để duy trì sự nên một ấy, đoàn chiên phải biết nghe tiếng “Chủ”. Thiên Chúa đã trao phó mọi sự trong tay Người Con là Đức Giêsu. Hễ Người Con nói gì, dạy gì thì đoàn chiên cứ nghe, cứ làm. Bởi nhờ Người Con mà chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, được sống trong tình yêu và ân sủng của Người. Người Con nói với chúng ta qua Giáo huấn của Hội Thánh, qua chính Lời của Người. Trước khi lên trời, Đức Giêsu đã trao phó đoàn chiên của Người cho Phêrô, Tông đồ trưởng:  “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21,15). Theo phẩm trật trong Hội Thánh, truyền thống gọi Đức Giáo Hoàng, các vị Giám mục, Linh mục là mục tử. Bởi đó, khi kế nhiệm các Tông đồ xưa, các ngài cũng có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa.

Còn chúng ta, những con chiên của Chúa, chúng ta có bổn phận tin yêu, nghe và thực thi mọi điều Chúa dạy qua giáo huấn của Hội Thánh, nhất là qua chính Lời của Người. Đức tin sẽ là sợi dây liên kết chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa Ba ngôi. Đồng thời, chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh được ơn trung thành theo sát giáo huấn của Thầy Giêsu, chăm sóc đoàn, khi sói đến, các ngài vẫn một lòng bảo vệ, yêu thương đoàn chiên, trung thành với Chúa. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho ơn thiên triệu, linh mục và tu sĩ, để Hội Thánh tiếp tục có thêm nhiều tâm hồn quảng đại, xả thân cho việc chăm sóc, dưỡng nuôi đoàn chiên Chúa.

-------------------------------

 

PS4-B178: ĐỂ CHÚA DẪN ĐƯA


Bông hồng nhỏ

 

Mặt trời từ từ nấp mình sau ngọn núi phía Tây cũng là lúc bọn trẻ lùa đàn trâu về. Những con trâu PS4-B178


Mặt trời từ từ nấp mình sau ngọn núi phía Tây cũng là lúc bọn trẻ lùa đàn trâu về. Những con trâu mình đem bóng, bụng căng bóng no tròn đủng đinh bước đi. Mấy con nghé con chạy nhảy bên mẹ, chốc chốc lại húc vào bầu vú mẹ vừa đi vừa bú. Trên lưng mấy con trâu khác là những cậu bé ngồi vắt vẻo, chân tay còn lấm đầy bùn, mái tóc bạc thếch, áo vắt trên vai, cười nói rộn cả góc làng.

Con trâu gắn bó với người dân Việt. Mảnh ruộng được cày sâu cũng là nhờ một phần của con trâu chăm chỉ. Mấy đứa trẻ thích đi chăn trâu và xem trâu như bạn. Chúng cưỡi trên lưng trâu, nhảy ùm xuống ao tắm cho trâu.

Hôm nay, Thầy Giêsu tự ví mình là người mục tử. Thầy không phải là một người chăn chiên thuê nhưng là vị mục tử nhân lành. Thầy biết rõ từng con chiên và hiểu rõ chúng cần gì.

Thầy Giêsu khẳng định “Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Thầy đã thí mạng mình cho đoàn chiên bởi Thầy yêu mến từng con chiên một và Thầy không muốn mất một ai. Ta tự hỏi, làm sao để nghe được tiếng Người mục tử nhân lành. Muốn nghe được tiếng Người nói, trước hết ta phải có thái độ lắng nghe. Thầy Giêsu là mục tử nhân lành đã luôn lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa Cha trong nguyện cầu, trong sự khiêm hạ và vâng phục đến cùng. Là con chiên của Thầy, ta cũng hãy chuyên cần cầu nguyện, đến với Thầy trong Thánh lễ, gặp gỡ và chuyện trò với Thầy mọi lúc mọi nơi để cho Lời của Thầy thấm nhuần trong tâm hồn ta, trở thành nội lực thúc đẩy ta hành động, sống chứng nhân Tin Mừng. Con chiên luôn mong có được đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Còn ta, ta khao khát điều gì khi là con chiên của Chúa? Mỗi ngày, ta hãy suy ngẫm lời ca của Thánh vịnh này “Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, Lạy Chúa.” (Tv 42, 2).

Lạy Chúa! Con tạ ơn Chúa đã luôn chăn dắt con trong tình yêu bao la của Ngài. Mỗi ngày, xin cho con biết đến với Chúa là đồng cỏ tươi và là dòng suối mát lành cho hồn con được nghỉ ngơi. Mỗi lần đến với Chúa, xin cho con nhớ rằng, ngoài kia vẫn còn biết bao con chiên chưa thuộc ràn mà Chúa đang muốn đưa chúng về. Xin cho con sống tình liên đới với tha nhân cách cụ thể qua từng việc nhỏ mỗi ngày. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B179: CON CHIÊN CỦA TA


Anna Cỏ may

 

Bé Thảo vừa bước vào sân: – Thảo yêu dấu của mẹ, hôm nay cha Bảo nói gì con? Nói cho mẹ PS4-B179



Bé Thảo vừa bước vào sân:

– Thảo yêu dấu của mẹ, hôm nay cha Bảo nói gì con? Nói cho mẹ hay với.

– A, cha nói con là con chiên nhỏ dễ thương của bố mẹ. Chúa Giêsu là người chăm sóc con. Thế mẹ ơi, nhà bạn Đăng có được Chúa chăm sóc không?

– Có chứ, Chúa vẫn chăm sóc nhà bạn ấy nữa. Thế cha Bảo còn nói gì nữa không?

– Dạ, con chỉ nhớ vậy thôi ạ!

– Thảo ngoan quá, lần sau con nghe xem cha Bảo còn nói gì nữa không nha.                           

– Dạ

          Cô bé đã được nghe và biết mình là một con chiên nhỏ và mọi người xung quanh nó cũng là chiên được chăm sóc dưới bàn tay của Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã nói “Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Ngài không như kẻ làm thuê là đi tìm lợi ích cho mình cũng không để cho thú dữ ăn thịt đàn chiên. Ngài vừa là người chăn chiên vừa là một chủ chiên luôn nâng đỡ những con chiên bị thương và tìm kiếm các con chiên bị lạc. Ngài biết rõ từng con chiên, luôn để mắt đến từng con và dõi bước theo. Ngài luôn nuôi dưỡng và dẫn chúng đến những đồng cỏ xanh suối mát. Hình ảnh Mục Tử ấy được tô đậm khi Ngài bị bắt “Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy cho người này đi”(Ga 18,8). Ngài lên tiếng trước khi quân dữ lùng bắt. Ngài bảo vệ các môn đệ bằng một lòng an ủi và cả tính mạng. Chính những sự tận tụy, không lùi bước trước mệt nhọc hay hiểm nguy của Ngài đã làm nên sự khác biệt giữa người chăn chiên đích thực với người làm thuê và chủ chăn đích thực với chủ chăn thế gian. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng không bỏ mặc những con chiên không thuộc ràng. Ngài nói “Tôi còn có những con chiên khác không thuộc ràn nay. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”(Ga 10,11-18). Vậy các con chiên ngoài ràn là ai? Trong Tin Mừng, Ngài mời gọi dân ngoại đến dự tiệc cùng các tổ phụ Apraham, Ixaac và Gia cóp trong Nước Trời (x. Mt 8,11-12). Ngày hôm nay những con chiên ấy chính là những người chưa nhận biết Chúa đang ở khắp mọi nơi. Ngài sẽ đi tìm và quy tụ các con chiên lại thành một đoàn và hiệp nhất yêu thương nhau. Và Hội Thánh là hiền thê được mời gọi cộng tác với Ngài. Còn chúng ta là một Kitô hữu, là người con của Hội Thánh, chúng ta cũng đang được mời gọi sống là những con chiên dễ thương và đoàn kết nâng niu những con chiên xung quanh chúng ta. Như Chúa Giêsu đã nói “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai để đưa về chuồng”(Lc 15, 3-7).

          Lạy Chúa, xung quanh chúng con còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa, cũng như những con chiên đang đi lạc. Chúa đã và đang để ý đến từng người chúng con và ấp ủ chúng con bằng những sự săn sóc riêng biệt. Xin cho mỗi người chúng con luôn lắng nghe tiếng người chăn và chủ chăn là Chúa và không sợ mà một lòng tin vào tình yêu thương của Chúa, vị Mục Tử Nhân Lành.

-------------------------------

 

PS4-B180: MỤC TỬ


Lm. Trần Việt Hùng

 

Ta là mục tử tốt lành, Hy sinh thí mạng, nhân danh Vua Trời. Chủ chiên chăn giữ không rời, Đàn PS4-B180


Ta là mục tử tốt lành,
Hy sinh thí mạng, nhân danh Vua Trời.
Chủ chiên chăn giữ không rời,
Đàn chiên chăm sóc, tìm nơi suối vàng.
Thỏa thuê ăn uống dẫn đàng,
Con nào yếu bệnh, nhẹ nhàng chăm nom.
Chăn thuê trốn tránh không dòm,
Ốm đau bệnh hoạn, gầy còm mặc bay.
Bỏ chiên mà chạy có ngày,
Khi mà sói đến, chẳng hay muộn phiền.
Không màng tha thiết đàn chiên,
Chăn nuôi lười biếng, vì tiền lợi danh.
Chúa Chiên thí mạng thực hành,
Chăm lo bảo vệ, dỗ dành thương yêu.
Xả thân phục vụ cao siêu,
Mọi đàn qui tụ, thiên triều gia ân. 

Mục tử tốt lành đã thí mạng sống vì đoàn chiên. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Giêsu đã đến giữa đàn chiên để chăn dắt, nuôi dưỡng và làm cho đàn chiên được sống dồi dào. Ngài đã hy sinh để bảo vệ đàn chiên. Người mục tử tốt lành là người biết dẫn dắt đàn chiên tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi và bồi dưỡng thỏa thuê. 

Hình ảnh Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Ngài yêu thương vác chiên trên vai. Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và chăm sóc chu đáo mọi bề. Chúa Chiên kêu gọi từng con chiên và biết chúng. Những con chiên lạc hay đau yếu Ngài tìm kiếm, chữa trị và chăm sóc.  Chúa Giêsu lập Giáo Hội, Ngài trao phó cho các Tông đồ tiếp tục chăn dắt đoàn chiên. Chúa yêu thương đã ban Lời hằng sống và Bánh trường sinh để tiếp tục dưỡng nuôi xác hồn. 

Mẹ Têrêxa Calcutta có dịp gặp gỡ và chia xẻ với nhiều người. Một hôm, có một bà nói với mẹ rằng: Mẹ đã làm nhiều việc biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Còn chúng tôi, chúng tôi có thể làm được gì? Mẹ Têrêxa cười và nói: Hãy yêu thương con cái của các bà. Nhưng bà lại hy vọng làm một cái gì sâu xa và ý nghĩa hơn thế. Mẹ nói tiếp: Hãy yêu thương con cái. Yêu thương chúng. Yêu bao nhiêu có thể qua đó con cái nhận biết rằng cha mẹ đang yêu chúng. Đó là điều tốt nhất. 

Dùng tình yêu làm việc tông đồ. Lời của thánh Augustinô: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Gioan Bosco là mẫu gương của tình yêu thương đặc biệt các bạn trẻ. Cả đời ngài đã cống hiến hy sinh phục vụ các bạn trẻ, nhất là những bạn trẻ bụi đời, phạm pháp và ngỗ nghịch. Ngài đã dùng tình yêu để khuyên dụ và dẫn dắt. Ngài đã đem trở về cho Chúa rất nhiều tâm hồn tươi trẻ. 

Với tình yêu chúng ta có thể làm được tất cả. Cha mẹ vì yêu thương con cái, đã không quản ngại mưa nắng, làm lụng nhọc nhằn vất vả để lo cho con cái có của ăn của mặc. Với tình yêu, các thầy cô giáo đã hy sinh thời giờ và khả năng để chăm nom dậy dỗ và giáo dục các con em nên người. Có những người vì yêu đã hy sinh cuộc sống tiện nghi nhung lụa để đến những vùng xa xôi hẻo lánh mang tin mừng cứu độ cho nhiều người.

Dõi theo gương của Chúa Chiên Lành, mỗi người chúng ta trong bổn phận, hãy chu toàn với tâm tình từ bi và nhân hậu. Đàn chiên lớn hay nhỏ không quan trọng, quan trọng nhất là chăm sóc các chiên con với tình yêu thương của Chúa Kitô, Ngài chính là Mục Tử tốt lành.

-------------------------------

 

PS4-B181: MÙI CHÚA – MÙI CHIÊN


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

ĐTC Phanxicô khuyến khích các GM mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin PS4-B181


“ĐTC Phanxicô khuyến khích các GM mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng.

Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Giáo phận Xuân Lộc, cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican trưa thứ hai, 5-3-2018 sau cuộc gặp gỡ dài hơn 2 tiếng đồng hồ giữa ĐTC và 33 GM thuộc HĐGM Việt Nam. Đức Cha cũng là người thông dịch trong cuộc gặp gỡ này.

Đức cha kể lại: Chúng tôi đã thảo luận về nhiều vấn đề, nhưng lời cuối cùng ĐTC để lại cho chúng tôi là: Hãy mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng”. Trước đó, ngài đã nói về hình ảnh vị GM như người chăn chiên có mùi chiên, mùi của Thiên Chúa, đồng thời ĐTC mời gọi các GM gia tăng cầu nguyện, chiêm niệm. Lời mà ĐTC lập lại nhiều lần là sự gần gũi, gần gũi Thiên Chúa, gần dân, và đặc biệt là gần các LM”. (x.vi.radiovaticana.va).

“Mục tử có mùi chiên và mùi của Thiên Chúa”. Huấn từ của ĐTC Phanxicô dành cho các vị Giám mục và qua đó nhắn gởi đến các Linh mục.

Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện với “mùi Thiên Chúa”. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tửcó “mùi chiên”.

Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đãnêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn có mùi chiên và mùi Chúa.

Sống hết tình với anh em

Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !

Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.

“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.

Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.

Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.

Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác;mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).

Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.

Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).

Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.

Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.

Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).

Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.

Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh GioanVianney.

Hy sinh tính mạng vì anh em mình.

Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.

 “Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.

Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B182: CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH


Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng PS4-B182


Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành khả kính, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy hướng về. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử cho tất cả mọi người.

Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình

Trong Tin mừng Gioan chương 10, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét căn bản này. Trước hết, vị Mục tử nhân lành biết rõ từng con chiên trong đàn :“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc được Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài đã biết. Chúa là vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn của mình.

Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Chúa cũng rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn nghĩa thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi.

Trong một bài giảng mùa chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình và người Mục tử phải có ‘mùi chiên’. Cụ thể, Đức Thánh Cha vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống chung với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành luôn biết các con chiên của mình, và mang nơi mình ‘mùi’ của từng con chiên.

Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc

Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn kể về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện đối với các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên khỏe mạnh để lặn lội đi tìm kiếm một con què quặt đang đi lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí và hay quên. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị đóng đinh bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh dễ quên. Căn bệnh lú lẫn và hay quên của Chúa thật đáng trân quý biết bao.

Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên

Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống hệt một tên tử tội đốn mạt. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh tính mạng để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử toàn hảo, đã hy sinh ngay cả mạng sống cho đoàn chiên.

Kết luận

Một linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên blog như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những bệnh nhân, những cụ già đơn chiếc và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Cha xứ của họ, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống đối Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà xứ và dã tâm đập chết vị Linh mục mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, chính quyền cũng làm ngơ và ra vẻ như đồng thuận. Bà cố của Cha khi nghe tin, đã rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Tuy nhiên, bà cố không bao giờ than trách, chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.

Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế, Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu ? Chúng tôi cũng muốn đến kính viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng lạ lẫm gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.

Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài đã trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay, nhất là cho các anh em linh mục.

-------------------------------

 

PS4-B183: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

 

Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ trong toàn thể PS4-B183


Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ trong toàn thể giáo hội. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời. Hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên rất quen thân đối với người Do thái, họ làm nghề chăn chiên. Cuộc sống của người Do thái gắn bó với con chiên.

Thời cựu ước, Thiên Chúa là vị Mục tử nhân lành và dân Do Thái là đàn chiên được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc tận tình. Mối tương quan gắn bó giữa chủ chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúavà con người. saunày, chính Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục tử nhân lành và tất cả mọi người đều là những con chiên của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tôi là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì đàn chiên”.

Sau đây chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành. Những đặc tính của người mục tử nhân lành:

– “Hy sinh mạng sống vì đoàn chiên” Đức Giêsu ví mình như mục tử nhân lành khác với người chăn chiên, vì người đã dám hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Cái chết tự hiến trên thập giá của Ngài nói lên tột đỉnh của tình yêu: chết cho mọi người để tất cả được cứu độ, được sống dồi dào. Ngài muốn nói đến sứ mạng cứu thế của Ngài hiến mạng sống mình để cứu chuộc muôn dân. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13).

– Người mục tử nhân lành biết các con chiên và được các con chiên biết “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Điều này nói lên sự hiệp thông trong tình yêu giữa Chúa Giêsu và các con chiên. Vì thế, biết ở đây không chỉ  là biết có tính cách tri thức, mà còn biết trong tương quan tình yêu. Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, gắn bó thân mật giữa mục tử và đoàn chiên, như sự hiệp thông giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu yêu thương mỗi người với một tình yêu hy sinh, yêu vô điều kiện, yêu với sự bao dung tha thứ. Biết trọng tình yêu là hiểu biết nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của đoàn chiên để đáp ứng thật tốt làm cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào về mọi phương diện.

– Người mục tử nhân lành muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài đàn chiên mình để rồi chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn. Chúng sẽ nghe tiếng Ta, và chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. “Đàn này” là dân tộc Irael, ám chỉ Giáo Hội của Chúa Giêsu: Ngài muốn tất cả mọi người đều được cứu độ. “Chiên khác” ám chỉ tất cả dân ngoại sẽ tin vào Đức Giêsu, sẽ là chiên của Ngài. Sau cùng chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất. Đó là Giáo Hội của Chúa Giêsu gồm những người tin nhận Tin Mừng và Thiên Chúa là Mục tử duy nhất!

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những Mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Thời nào Giáo hội cũng vẫn thiếu Linh mục, Tu sĩ… Nói cách khác thiếu Mục tử để phục vụ đoàn chiên của Chúa. Vì thế, hôm nay là Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Giáo hội kêu gọi mọi người Kitô hữu cầu xin Thiên Chúa ban cho giáo hội nhiều mục tử tốt lành, có nhiều bạn trẻ biết hy sinh hiến thân cho Chúa, cho giáo hội, cho mọi người trong lý tưởng sống đời tu trì. Lý do Giáo hội lấy ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi các linh mục, tu sĩ:

– Các Linh mục, Tu sĩ vẫn luôn là lực lượng quan trọng nhất, nòng cốt trong việc loan báo Tin mừng. Ngày nay, trên thế giới, ơn gọi Linh mục, Tu sĩ giảm sút trầm trọng. Tại Việt Nam, hiện nay dân số là 85 triệu dân, chỉ có 7 triệu Công giáo, 3.250 linh mục. Mỗi một Linh mục phải phụ trách 2.500 giáo dân. Về công tác loan báo Tin mừng, thì một linh mục phục vụ 32.500 lương dân.

– Việc thanh niên nam nữ muốn đi tu, vào chủng viện, vào nhà dòng còn gặp nhiều cản trở từ những quy định của nhà nước về chính sách tôn giáo.

– Việc phong chức linh mục, gởi các linh mục, tu sĩ đến các vùng sâu vàng xa phục vụ rất khó khăn, bị hạn chế.

– Ơn gọi tu sĩ giảm sút trầm trọng ở tỉnh thành, ơn gọi tu sĩ đa số là ở thôn quê. Hiện tình trạng dân số đã ảnh hưởng đến đời sống tu trì. Ngày nay một gia đình chỉ có 2 người con, nên cha mẹ không muốn cho con đi tu.

– Ảnh hưởng phong trào tục hóa, hưởng thụ, nền kinh tế thị trường đến đời sống đức tin, đời sống tu trì. Người ta chủ trương sống hiện sinh, thụ hưởng, không tin vào cuộc sống mai sau: Thiên đàng trần gian. Như thế đi tu là lỗi thời!

Qua lời Chúa hôm nay, Giáo hội hướng chúng ta về Đức Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống, yêu thương chúng ta là những con chiên của Người. Vậy chúng ta có phải là những con chiên ngoan hiền của Chúa không?

Thời nào cũng cần có nhiều mục tử tốt lành để phục vụ nhân loại. chúng ta cầu xin Chúa cho Giáo hội Việt Nam có nhiều mục tử như lòng Chúa mong ước để đáp ứng nhu cầu của Giáo hội. Muốn được điều này, gia đình phải là vườn ươm trồng ơn gọi, cha mẹ động viên con em mình dâng mình cho Chúa. Cha mẹ nêu gương đạo đức cho con cái trong gia đình… hướng dẫn đời sống đức tin cho con em mình, lo cho con cái học hành tốt, sống đạo đức.

Yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo hội và yêu mến các linh hồn là động lực thúc đẩy người trẻ hôm nay sống đời thánh hiến, sống đời tu trì.

-------------------------------

 

PS4-B184: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B.


Lm.Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em.

 

Như anh chị em đã được loan báo từ tuần trước: Hôm nay là ngày toàn thể Giáo Hội cầu nguyện PS4-B184


Như anh chị em đã được loan báo từ tuần trước: Hôm nay là ngày toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Nói cụ thể hơn đó là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi Linh Mục và tu sĩ.

Trong một ít phút suy niệm này tôi xin có một vài tâm tình chia sẻ với anh chị em

Trước hết chúng ta hãy cầu nguyện

Xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều thanh niên nam nữ tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong Giáo Hội của Chúa.

Như anh chị em đã thấy: Ngay khi Chúa Giêsu vừa mới bắt đầu khởi sự việc rao giảng Tin Mừng thì Ngài đã để ý ngay đến việc chọn lựa một số người rồi Ngài để tâm giáo dục họ một cách đặc biệt để sau này khi Chúa về trời thì những người này sẽ nhiệt tình tiếp tục công việc của Chúa cho đến ngày tận thế. Chẳng cần phải nói nhiều, anh chị em cũng biết được đó chính là các Tông Đồ, những con người đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình cho việc phục vụ Chúa và anh em đồng loại của mình.

Như vậy thì vấn đề ơn gọi Linh mục và tu sĩ trong Giáo Hội hôm nay cũng có chung một mục đích như thế.

Bộ Giáo luật mới đã khẳng định thật rõ ràng: “Đời sống Linh mục và Tu sĩ là sự sống còn của Giáo Hội”. Lý do cũng rất dễ hiểu: Vì Giáo Hội là một thực tại vừa có tính cách siêu nhiên vừa có tính cách trần thế.

Về phương diện siêu nhiên: Giáo Hội là của Chúa, do Chúa thiết lập. Điều đó đã quá rõ ràng không cần phải nói nhiều.

Nhưng còn về phương diện trần thế thì có hơi khác. Giáo Hội tại thế là một tổ chức. Chính vì thế mà Giáo Hội cần phải có những người dám hy sinh cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong tổ chức này một cách đặc biệt hơn.

Từ nhiều thế kỷ qua những người hiến thân phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong đời sống Linh mục và Tu sĩ đã đem lại rất nhiều kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội. Đó là một thực tế mà ai cũng phải nhìn nhận.

Thế nhưng như Chúa nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Nhu cầu thì thật nhiều nhưng sự đáp ứng lại thì quả thực chưa bao giờ đủ, đặc biệt là vào khoảng ba bốn chục năm nay. Phải thành thực mà nhận rằng Giáo Hội đã và đang gặp một cuộc khủng hoảng rất trầm trọng về ơn gọi linh mục và tu sĩ, nhất từ lúc trước và sau Công dồng Vaticanô II. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này vẫn còn kéo dài cho mãi đến hôm nay – đặc biệt là tại các nước đang phát triển và văn minh.

Đã có lúc người ta tưởng như thất vọng. Nhưng rất may là ngày nay trong Giáo Hội Chúa lại đang làm bừng lên một cao trào mới. Có thể nói đây là một nét đặc trưng trong sinh họat của Giáo Hội hôm nay. Đó là những anh chị em dâng hiến cuộc sống mình để phục vụ cho Chúa và anh em đồng lọai trong đời sống của một người tu sĩ nhưng lại sống ở giữa đời. Giáo luật mới gọi những anh chị em này là những “tu sĩ đời”. Thực ra thì dưới danh nghĩa hay hình thức nào cũng được “Miễn là Chúa được vinh danh”. Thánh Phao-lô xưa đã chủ trương như thế.

Vậy thì hôm nay Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức nhiều hơn đến vấn đề này để rồi không phải chỉ là ngày hôm nay mà là mỗi ngày chúng ta phải cầu nguyện cho mục đích rất cao quí này.

Tâm tình thứ hai:

Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi cũng như những người anh em của tôi trong chức vụ linh mục để chúng tôi được sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Tôi tưởng đây cũng là mục đích của ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu hôm nay nhắm tới. Hôm nay không phải chỉ là ngày cầu nguyện để cho Giáo Hội có thêm những anh chị em dám hiến thân cho Chúa trong đời sống linh mục và tu sĩ mà còn phải cầu nguyện cho những người đã làm linh mục và tu sĩ được sống xứng đáng với ơn Chúa gọi mình.

Các linh mục và tu sĩ rất cần đến sự trợ lực bằng những lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của anh chị em. Trong cuốn Giáo lý mới, Giáo Hội coi đó là bổn phận của mọi tín hữu.  Dù Chúa đã gọi và chọn chúng tôi lên chức vụ cao quí nhưng chúng tôi cũng vẫn là một con người – một con người với tất cả những yếu đuối cũng như những tầm thường của nó.

Để sống một cuộc sống của một người mục tử cho đúng nghĩa không phải dễ dàng. Rất khó khăn kính thưa anh chị em. Nó đòi hỏi rất nhiều đức tính đặc biệt và đôi khi đòi hỏi cả sự liều lĩnh nữa.

Ngày 6 tháng 9 năm 1943, năm người lính thuộc đội quân của Đức quốc Xã bị phục kích và bị sát hại trên đường hành quân gần một thành phố Italia. Để trả thù, viên đại tá chỉ huy quân đội Đức cho bắt năm mươi người có thế giá nhất trong thành phố rồi đợi ngày đem đi xử bắn.

Được tin, Đức Tổng Giám Mục sở tại và Đức Cha phó nhất định tìm cách cứu sống những thường dân vô tội này. Khi đến ngày bị xứ bắn, năm mươi người dân vô tội đó bị bịt mắt, bị trói chặt hai tay về phía sau lưng rồi đứng thành hàng dài trước công trường của thành phố. Dân làng và thân nhân của họ chỉ được chứng kiến tấn thảm kịch khủng khiếp này từ xa. Phía sau lưng những người  bị xử bắn là một hàng lính thuộc quân đội Đức quốc xã đang sẵn sàng chờ lệnh để bóp cò nhả đạn để kết thúc cuộc đời của những người vô tội.

Một lần nữa Đức Tổng Giám Mục lại tìm cách thuyết phục viên đại tá để xin ông xét lại và tha chết cho những người dân vô tội này. Thế nhưng ông ta vẫn cứng lòng. Ý chí cương quyết trả thù còn hiện rõ hơn lên trên nét mặt đã vốn lạnh lùng của ông.

Giờ đã điểm, một hồi còi hú lên báo hiệu giờ phải đến đã đến.

Đức Tổng Giám Mục lại một lần nữa nài nỉ xin cho được một đặc ân cuối cùng: Ngài xin cho ngài và Đức Giám Mục phó được ôm hôn từng người sắp bị xử bắn, xức dầu tha tội và ban cho họ những lời khích lệ cuối cùng.

Thật là may mắn! Lời thỉnh cầu của Ngài được chấp thuận. Sau khi ban phép lành tha tội cho người thứ 50, Đức tổng Giám Mục và Đức Cha Phó tự nguyện đứng tiếp nối vào hàng ngũ của những người bị xứ bắn. Với tất cả tấm lòng chân thành, vị mục tử của đoàn chiên đang phải sống những giờ phút hãi hùng đến cực độ, bình thản nói với viên đại tá: “Bây giờ không phải chỉ có 50 người mà là 52 người. Chúng tôi xin ngài cứ hạ lệnh bắn. Xin Thiên Chúa nhân từ tha thứ các tội ác của Ngài”

Đức Tổng Giám Mục vừa dứt lời, thì bỗng dưng từ trong bầu khí chìm ngập sự  chết chóc vang lên những tiếng vỗ tay reo hò.Tất cả 50 khẩu súng đang nhắm vào 50 người vô tội cùng một lúc dần dần hạ xuống và thế là cả chủ chăn và đàn chiên đều được thoát chết.

Lạy Chúa Giêsu

Chúng con cầu xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với các ngài, mọi sự khác trở thành bé nhỏ
Xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật bao la
để cả mặt đất này cũng chưa đủ cho các ngài sống
Xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật thẳm sâu
để các ngài biết đón nhận mọi nỗi khổ đau sâu thẳm nhất

Lạy Chúa Giêsu
xin làm cho các linh mục của Chúa thật mạnh mẽ
để không một nỗi thất vọng nào có thể chạm vào được các ngài
Xin làm cho các linh mục của Chúa được thật đầy ắp,
để ngay cả một chút ước muốn tầm thường nhỏ nhoi cũng không còn có chỗ trong òng các ngài.
Xin Chúa làm cho các linh mục của Chúa thật lặng lẽ,
để các ngài chỉ còn biết một điều là loan báo Chúa mà thôi.

Và cuối cùng chúng con xin Chúa ngự trong các linh mục của Chúa thật sống động, để không phải là các ngài mà là chính Chúa đang sống. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B185: MỤC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG CHO ĐOÀN CHIÊN


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên 

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):

(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

(16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” 

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):   

 

Mấy ngày qua nhiều người thích thú chuyển cho nhau tin về một vị tân giám mục Pháp đi bộ PS4-B185


2.1 Mấy ngày qua nhiều người thích thú chuyển cho nhau tin về một vị tân giám mục Pháp đi bộ từ Paris đến thành phố Chartres để nhận chức Giám mục của giáo phận này. Đó là Đức Cha Philippe Christory, 60 tuổi. Quảng đường giữa hai thành phố là 100 km, mỗi ngày vị tân Giám mục đi 20 km và dừng chân tại một giáo xứ nào đó. Cách làm khác thường trên cũng là một cách thể hiện tinh thần mục tử nhân lành mà chính Chúa Giê-su đã công bố và thực hiện. 

2.2 Về ”Đức Giê-su là mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên” thỉ không ai trong chúng ta còn ngờ vực vì chúng ta đã thấy rõ Chúa Giê-su Ki-tô thể hiện sự nhân lành như thế nào: Từ trời cao Người đã nhập thể làm người để sống với mọi người và phục vụ mọi người. Từ Na-da-rét Người đã đi khắp các thành thị làng mạc xứ Pa-lét-tin để giảng dậy, chữa lành, trừ quỷ và tha tội. Từ là Đấng vô tội Người đã chịu chết cách oan nghiệt trên thập giá để cứu chuộc mọi tội nhân. Quả đúng Người là Chiên Vượt Qua! Quả đúng Người là Mục Tử nhân lành, sống và chết tất cả vì yêu thương đoàn chiên. 

2.3 Điều mà người giáo dân và nhất là người lương dân cần nhất lúc này là thấy có nhiểu mục tử nhân lành xuất hiện giữa cộng đồng xã hội. Không hẳn phải là các Giám mục, linh mục mà còn là các giáo dân hoặc lương dân, những con người tuy nhỏ bé tầm thường nhưng lại dám hy sinh mạng sống cho người khác.

Đó có thể là các nông dân lên tiếng tố cáo nạn ô nhiễm rộng đồng, sông suối. Đó có thể là các ngư dân lên tiếng đòi quyền lợi cho những người bị thiệt hại vì nhà máy Formosa gây ô nhiễm biển Miền Trung. Đó có thể là các luật sư, các nhà báo lên tiếng đầu tranh cho quyền con người, nhất là quyền tự do tôn giáo và tự do có tiếng nói về công bằng xã hội và tham nhũng. Đó còn có thể là các ông bố, bà mẹ, các thầy cô giáo, các huynh trưởng hết lòng tận tụy vì con em, học sinh của mình. 

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):  

3.1 Trách nhiệm và vinh dự làm mục tử thì ai cũng có vì bất cứ một người hèn mọn nào cũng có người để chăm lo, săn sóc, phục vụ. Khác nhau là ở chổ người này thí ý thức và chu toàn công việc, người khác thì lơ là chểnh mảng, kẻ khác thì lạm dụng cho túi riêng. 

3.2 Ngoài những người thân trong gia đình, từ lâu tôi vẫn xem các học viên các Khóa Thánh Kinh hay Công Đồng mà tôi đảm trách là như đoàn chiên Chúa giao cho tôi chăm sóc, phục vụ. Tôi cũng xem những người hàng tuần nhận các bài Sống Lời Chúa hôm nay và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật mà tôi gửi vào nhóm lờichúa là những người tôi có bổn phận phục vụ, bồi dưỡng. Tôi thực hiện việc soạn bài, giảng bài một cách say sưa thích thú, và đó là niềm vui của tôi. 

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Mục Tử Nhân Lành, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã hy sinh mạng sống vì chúng con.

Chúa đã còn nêu gương cho chúng con để chúng con biết yêu thương chăm sóc những người mà Chúa giao cho chúng con trong gia đình và ngoài xã hội.

Chúng con xin Chúa ban sức mạnh và lòng dũng cảm cho chúng con, để chúng con chu toàn vai trò mục tử hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.

Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B186: MÙI CHIÊN


Trầm Thiên Thu

 

Một hôm, bất chợt cậu lễ sinh tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói: – Ôi, cha có mùi gì lạ thế? – Mùi PS4-B186


Một hôm, bất chợt cậu lễ sinh tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói:

– Ôi, cha có mùi gì lạ thế?
– Mùi gì là mùi gì?
– Con không xác định được, nhưng hình như là mùi… heo!

Linh mục cười và xoa đầu cậu bé:

– À, tưởng gì. Cái thằng này thính mũi thế. Này, cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi heo là tất nhiên rồi!

– Sao cha lại làm việc ấy?

– Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già, không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt, cha phải giúp ông ấy thôi.

– Dạ, con hiểu rồi.

Hôm sau, cậu lễ sinh cười:

– Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm!

– À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ, cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân.

– Dạ, con hiểu rồi.

Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói:

– Mùi lúc này khác lạ lắm, cha ơi!

– Thế con thấy mùi gì?

– Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm, dễ chịu lắm.

– Cái thằng này, mũi thính thế!

Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng:

– Nhưng…

– Nhưng gì nào?

– Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm.

Linh mục tròn mắt:

– Sao vậy? Thơm không thích mà thích hôi à?

– Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá! Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu có thân thích với người giàu có.

– Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng giống Ngài hơn!

Câu chuyện nhỏ, cụ thể với loại “mùi lạ” cần thiết đối với một mục tử đích thực. Chắc hẳn lời này quá quen: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23:1). Câu này mô tả sự an tâm, và chúng ta có an tâm?

Ai cũng là tội nhân. Mặc dù chúng ta chỉ là những con chiên lạc, chiên ghẻ, chiên quậy phá, chiên bướng bỉnh,… (x. Lc 15:4-7), nhưng Thiên Chúa quá đỗi yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đồng hưởng vĩnh phúc với Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Ngài sai Con Một đến thế gian không để luận phạt mà để giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3:17). Ngài “không lên án” cũng đủ hạnh phúc đối với chúng ta rồi, thế mà Ngài còn muốn chúng ta “được cứu độ”. Đó là điều tích cực nơi Thiên Chúa, và hạnh phúc của chúng ta tăng theo cấp số nhân.

Kinh Thánh cho biết chi tiết: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Các tông đồ đã nhân danh Đức Kitô chữa lành bệnh tật cho người khác, điển hình là một người tàn tật được chữa lành và đang đứng trước mặt mọi người.

Lúc trước, dù rất thân quen nhưng có lúc các tông đồ đã tưởng Thầy Giêsu là “bóng ma”, bởi vì bao nỗi lo sợ còn vây quanh họ. Nhưng Ngài củng cố niềm tin cho họ bằng nhiều cách, và rồi họ đã trở thành “con người mới” hoàn toàn. Thật vậy, ông Phêrô khẳng khái nói: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11; Tv 118:22). Chính “viên đá bị loại bỏ” lại hóa thành “viên đá nền tảng”, mà người loại bỏ viên đá đó chẳng ai xa lạ – chính mỗi chúng ta. Thế mà Đức Kitô vẫn yêu thương và tìm kiếm chúng ta về hưởng hạnh phúc với Ngài. Thật quá kỳ diệu!

Chúng ta đã được biết Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng-Gánh-Tội-Trần-Gian và là Đấng-Xóa-Tội-Trần-Gian. Kinh Thánh xác định: “Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12).

Và vì thế, chắc chắn chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 & 29). Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã xác định rạch ròi:

Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời

Thì hơn tin cậy ở người trần gian

Cậy vào thần thế vua quan

Chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời

Con xin cảm tạ Ơn Ngài

Vì đã đáp lời và cứu độ con

(Tv 118:8-9 và 21)

Thật kỳ diệu khi Thiên Chúa đã chuyển bại thành thắng, biến yếu thành mạnh, làm đồ bỏ thành đồ quý. Đối với loài người thì phải chịu “bó tay”, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khả thi (x. Mt 19:26). Đó là công trình kỳ diệu của Ngài trước mắt loài người! Ôi, chúng ta có một Vị Chúa quyền năng như vậy thì sao lại không hạnh phúc và hãnh diện chứ? Chắc chắn đó là sự tôn thờ chính đáng của chúng ta, không hề mơ hồ hoặc mù quáng.

Xin tạ ơn Chúa về một tấm gương sáng, một sự thật bất ngờ và thú vị: Giáo dân xứ Chúa Ba Ngôi bất ngờ, và cả thủ đô Paris (Pháp) cũng ngạc nhiên, khi biết quyết định của Đức Cha tân cử Philippe Christory (60 tuổi): Đi bộ suốt 100 km khi đến nhận nhiệm sở là GP Chartres – lễ tấn phong ngày 15-4-2018. Hành trình đi bộ của ngài kéo dài 5 ngày, mỗi ngày đi khoảng 20 km. Thật tuyệt vời, phù hợp với khẩu hiệu Giám mục của ngài: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10b) – trùng hợp với Tin Mừng hôm nay.

Mùi chiên cũng có nhiều loại. Chiên béo mập có mùi thơm, chiên gầy ốm có mùi hôi tanh. Mục tử nào có mùi loại chiên nào thì chúng ta biết đó là loại mục tử thật hay giả, chủ chiên hay thợ chiên. Rất rạch ròi, hoàn toàn đúng với hệ lụy tất yếu, KHÔNG THỂ BIỆN HỘ chi cả. Người ta NHÌN chứ KHÔNG NGHE.

Một thực tế buồn tại Việt Nam: Có một số linh mục uống rượu quá mức, uống hơn cả người đời, rồi chỉ thân quen với “chiên béo” và thích “lễ béo” mà thôi, ngôn – hành đối lập! Hay ho gì và hãnh diện gì khi muốn chứng tỏ mình là “hũ chìm” chứ? Đó là một dạng mê vật chất, mê ăn uống – tức là tham lam, mà “tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (x. Ep 5:5; Cl 3:5), thế thì chỉ là thợ chiên hoặc kẻ chăn chiên thuê, không thể là chủ chiên đích thực.

Cung và cầu có liên quan với nhau, hầu như không thể tách rời. Thánh sử Gioan nhắc chúng ta: “Anh chị em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1a). Chúng ta là những tội nhân khốn nạn, đáng trừng phạt muôn kiếp vẫn chưa đủ, vậy mà Thiên Chúa bắt Con của Ngài chết thay chúng ta, và tiếp tục nhận những tử-tội-chúng-ta làm “thiên tử”, thực sự là con-của-Trời chứ đâu phải các vua chúa hay quan quyền mới được làm thiên tử. Hơn cả tuyệt vời, vượt mức kỳ diệu, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng nổi. Ơn phải đền, nghĩa phải trả – tâm tình thành thật thực tế!

Nguyên nhân và kết quả (hoặc hậu quả) cũng có hệ lụy với nhau. Thánh Gioan giải thích: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga 3:1b). Thế gian không nhận ra Chúa Giêsu là ai, không công nhận Ngài là Chúa, thế nên họ cũng không thể nhìn nhận chúng ta là con cái của Thiên Chúa, nói cho “oai” theo Hán-Việt là thiên tử. Thật vậy, Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con của Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này xác định niềm hy vọng đối với mỗi chúng ta. Là con của người cha thì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” và được ở trong nhà của người cha, là con của Thiên Chúa thì chắc chắn cũng được ở trong Nhà của Thiên Chúa – tức là Nước Trời, và cũng được nên giống Thiên Chúa trong vinh quang Thiên Quốc vĩnh hằng.

Chính Chúa Giêsu minh định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là chân dung một vị mục tử đích thực. Nếu không thật thì sao? Ngài giải thích: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12a), do đó “sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:12b-13). Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đời thường cũng cho chúng ta thấy rõ tình trạng ai thật và ai giả.

Xã hội hay tôn giáo cũng có thật – giả, và vì thế, có lần Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo: “Anh chị em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh chị em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (Mt 7:15-16). Xem trái biết cây, đơn giản mà thâm thúy, như người Việt Nam cũng có ý tương tự: “Rau nào sâu nấy”. Kinh Thánh tường thuật cuộc xử kiện của vua Sa-lô-môn một cách khôn ngoan để xác định được ai là người mẹ thật của đứa bé (1 V 3:16-38), chứng tỏ ông là người được Thiên Chúa ban cho ơn khôn ngoan kỳ lạ.

Không chỉ xác định chính mình là Mục Tử nhân hậu, Chúa Giêsu còn xác định Ngài là “Cửa của chuồng chiên” (Ga 10:7 & 9). Và Ngài nói: “Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Đồng thời Ngài cũng nhận định để “lưu ý” các ngôn-sứ-giả: “Kẻ trộm chỉ đến để ĂN TRỘM, GIẾT HẠI và PHÁ HUỶ” (Ga 10:10a), và nói về chính Ngài: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên ĐƯỢC SỐNG và SỐNG DỒI DÀO” (Ga 10:10b).

Chúa Giêsu 2 lần xác định trong Phúc Âm hôm nay: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10:11 & 14a). Tại sao? Chúa Giêsu giải thích một đặc điểm khác của vị mục-tử-đích-thực: “Tôi BIẾT chiên của Tôi, và chiên của Tôi BIẾT Tôi” (Ga 10:14b). Chủ chiên luôn biết rõ từng con chiên, người chăn chiên thuê thì chiên nào ra sao cũng mặc kệ! Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Thậm chí Ngài còn nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Lòng Thương Xót của Ngài quá bao la, khôn dò và khôn ví!

Nếu chú ý đọc từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể cảm thấy như uống từng giọt-mật-ngọt-ngào, và rồi có thể vừa thú vị vừa thấm thía nhiều điều – cả mặc nhiên và minh nhiên, cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Như một cách kết luận, Chúa Giêsu quả quyết: “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10:18a). Tại sao vậy? Chính Ngài cho biết lý do: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được” (Ga 10:18b). Tuyệt vời, bởi vì Thiên Chúa là “Đấng cầm quyền sinh tử” (1 Sm 2:6-7; Đnl 32:39). Ôi, Chúa của chúng ta như vậy nên hạnh phúc của chúng ta phải tính theo cấp số nhân!

Người thật thì tâm thật, người giả thì tâm giả. Vào thế kỷ XIX, vua Tự Đức và triều thần đã bỏ qua những lời “điều trần” của chí sĩ Nguyễn Trường Tộ (1839–1871, học giả Công giáo) về sự đổi mới. Không chỉ vậy, vua quan thời đó còn nghi ngờ, bài xích, khiến ông đành ôm hận mà qua đời và để lại hai câu thơ nổi tiếng: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận – Tái hồi đầu thị bách niên cơ” (Một bước sa chân, nghìn đời mang hận – Quay đầu nhìn lại, cơ đồ đã hóa trăm năm). Đó cũng là lời nhắc nhở đối với mỗi chúng ta vậy!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin muôn vàn tạ ơn Ngài đã tha thứ và tái nhận chúng con làm con cái của Ngài, đồng thời được trở nên tiểu đệ và tiểu muội của Đại Huynh Giêsu. Xin Ngài luôn ban cho Giáo Hội có những tâm hồn biết quảng đại dấn thân trở thành linh mục, tu sĩ, làm tông đồ đích thực tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, hôm nay và cho đến tận thế. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

PS4-B187: MỤC TỬ OSCAR RÔMÊRÔ


Lm. Nguyễn Thái

 

Chúa Nhật 4 Phục Sinh là ngày cầu cho các mục tử. Hôm nay chúng ta nghe bài Phúc Âm, Chúa PS4-B187


Chúa Nhật 4 Phục Sinh là ngày cầu cho các mục tử. Hôm nay chúng ta nghe bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tự xưng: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên.” (Gioan 10: 11-18). Hình ảnh anh dũng của Đức Tổng Giám Mục Rômêrô là một gương mẫu sáng ngời của một vị “mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên”.

Chúng ta đã nghe nói về Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô chịu tử đạo tại El Salvador, Trung Mỹ. Ngài đã bị tên Roberto Aubuisson, một viên chức cao cấp của chính quyền El Salvador đương thời, bắn vào ngực đang khi dâng Thánh Lễ ngày 24-3-1980. El Salvador là một nước cộng hòa nhỏ bé ở Trung Mỹ. Từ thế kỷ 19 quốc gia đã bị khống chế bởi các chủ đồn điền cà phê. Đầu tiên là những người Tây Ban Nha, tiếp theo đó là những người Âu Châu khác. Họ chèn ép những người bản xứ phải nhường đất cho họ. Rốt cuộc người dân bản xứ không có đất, không có nhà, không có việc gì để làm ngoài việc phải làm mướn cho các điền chủ. Từ đó đến nay, quốc gia này bị cai trị bởi những lực lượng quân sự. Trong khi đó, quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay của 14 gia đình địa chủ. Chính quyền là công cụ cai trị của địa chủ để đàn áp dân chúng với một tổ chức chính phủ tham nhũng, bất công, dùng bạo lực để cai trị, và giết nhiều người vô tội. Họ đã biến El Salvador thành vùng đất bị “rửa bằng máu của các vị tử đạo.” Rất nhiều vị tử đạo đã bị giết chết, trong đó có 4 nữ tu người Mỹ, 6 tu sĩ dòng Tên và nhiều người giúp việc cho các ngài.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô sinh ngày 15 tháng 8 năm 1917 tại Ciudad Barrios, một thành phố mà mọi người có thể đến với nhau bằng đi bộ hay bằng xe ngựa. Khi còn nhỏ ngài đã thích sống âm thầm và nề nếp. Trở thành một linh mục đạo đức tuân giữ truyền thống cố hữu, ngài lại dễ hòa đồng. Vì thế chẳng bao lâu ngài đã chiếm được uy tín lớn trong Giáo Hội. Với bản tính ôn hòa, ngài không phải là mối đe dọa cho người giầu có và kẻ quyền hành.

Năm 1967 ngài làm thư ký cho Hội Đồng Giám Mục Salvador. Năm 1970 ngài được phong làm Giám Mục Phụ Tá của địa phận San Salvador; năm 1974, phụ trách địa phận Santiago de Maria; và ngày 22 tháng 2 năm 1977, làm Tổng Giám Mục của tổng giáo phận San Salvador.

Đối với các linh mục cấp tiến dòng Tên đang hoạt động bênh vực cho người nghèo, đấu tranh cho công bằng xã hội thì họ cảm thấy thất vọng khi ngài được chỉ định làm Tổng Giám Mục. Họ coi ngài như là người của chính phủ và giai cấp địa chủ.

Đối với chính quyền thì ngài vẫn luôn khẳng định một vị trí độc lập. Ngài thẳng thắn nói với họ rằng “không nên coi các linh mục đấu tranh cho sự công bằng xã hội có ẩn ý đảo chính để lật đổ chính quyền, nhưng vì công ích mà các vị linh mục đó phải hoàn thành sứ mệnh của mình.” Lúc đầu ngài cố gắng giữ ở một vị thế trung dung.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô chống lại bạo lực. Ngài lên án tất cả bạo lực, dù là từ quân đội hay cách mạng. Nhưng ngài cũng khẳng định rằng nguyên nhân của bạo lực chính là đại đa số dân chúng còn bị chà đạp nhân quyền, bị bóc lột bởi một thiểu số người có đặc quyền. Chính vì điểm này mà cả chính quyền lẫn các giám mục bảo thủ là những người không muốn có bất cứ một sự thay đổi xã hội nào xảy ra đã chống đối ngài. Các ngài đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng đổi ngài ra khỏi địa phận. Những viên chức của các tòa đại sứ Hoa Kỳ, Salvador, và Vatican đã thỏa thuận với nhau về điều này.

Bạo lực từ phía chính quyền càng ngày càng gia tăng, bắt đầu từ cái chết thảm khốc của cha Rutilio Grande, dòng Tên, một người bạn rất thân của ngài và là một linh mục tích cực hoạt động cho nông dân nghèo. Đứng trước tử thi của bạn, ngài đã cầu nguyện hàng giờ, và cảm thấy rằng không thể có lập trường trung dung: hoặc là đi với người nghèo, hoặc là chống lại họ. Từ đó ngài đã hành động quyết liệt.

Chính quyền gia tăng bạo lực bằng việc khủng bố và bắt bớ các linh mục tu sĩ, đốt cháy, phá hủy và xúc phạm các nhà thờ. Mỗi ngày đều có xác chết rải rác ngoài đường phố. Dân chúng kinh hãi phải làm ngơ vì sợ liên lụy. Quân đội đi tuần tiễu trên đường phố hô to khẩu hiệu: “Là một người ái quốc thì hãy giết một linh mục.”

Ngài đã yêu cầu chính quyền giải thích về những vụ bạo lực chống lại nhân quyền này. Ngài đã tổ chức hội họp, đã sang Rôma hội ý với Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục. Tháng 11, năm 1978, ngài đã được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình bởi những thành viên của Quốc Hội Anh, nhưng phần thưởng đó đã được trao ban cho Mẹ Têrêsa thành Calcuta.

Tháng 2 năm 1980, ngài sang Bỉ nhận bằng tiến sĩ danh dự của trường đại học Louvain, rồi sang Rôma gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị. Khi trở về El Salvador, ngài đã viết thư cho Tổng Thống Jimmy Carter của Hoa Kỳ yêu cầu ngưng cung cấp vũ khí cho quân đội chính phủ El Salvador.

Đức Tổng Giám Mục Rômêrô bị Giáo Quyền hiểu lầm. Giống như Chúa Giêsu ngày xưa, bị chính giáo quyền Do Thái hiểu lầm. Đức Gioan Phaolô II rất bén nhậy với bất cứ giáo sĩ nào tham gia vào chính trị, vì khi còn trẻ ngài đã phải chiến đấu với chủ nghĩa Cộng Sản tại Ba Lan. Giáo hội là đối thủ số một của Cộng Sản, nhưng Giáo Hội đã không bao giờ dính líu tới chính trị. Tuy nhiên, ở Trung Mỹ, các thành phần của Giáo Hội đã cố gắng giúp cho người nghèo bằng cách hoạt động chính trị. Đó là lý do Đức Gioan Phaolô II cảnh cáo nghiêm khắc các giáo sĩ không được chống lại chính phủ.

Nhiều người nghĩ rằng Giáo Hội ở Trung Mỹ đã quá tích cực trong chiều hướng thần học giải phóng. Quả thật đây là một cái nhìn có vẻ bất công đối với những công việc đang làm của Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô. Những kẻ thù của ngài là các địa chủ giầu có ở El Salvador đã lợi dụng điều này để chống lại ngài. Chúa Giêsu cũng đã bị nhiều người nói xấu. Thời đó những lãnh đạo tôn giáo đã tố cáo Ngài trước chính quyền Rôma là muốn lật đổ chính phủ, đã lên án Ngài chữa bệnh vào ngày Sabát.

Đức Tổng Giám Mục Rômêrô Bảo vệ người nghèo khó. Ngài đã lên tiếng đả kích cái nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo khổ. Ngài đã bảo vệ người nghèo bằng chính mạng sống của ngài như Chúa Giêsu đã nói và làm: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay năm 1980, ngài đã giảng về gương mẫu của Chúa Giêsu: “Thay vì sống một đời sống quyền quý, Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống đơn giản và bình dân… Quê hương của chúng ta sẽ đẹp biết bao nếu tất cả mọi người chúng ta sống theo ý định của Thiên Chúa. Mỗi người hãy lo kiếm ăn sinh sống. Đừng thống trị, đàn áp nhau.”

Ngài cũng cảm thấy giờ ngài sắp mãn, và cái chết đến gần. Chúa Nhật ngày 23 tháng 3, ngài nói với cộng đoàn của ngài tại nhà thờ chính tòa: “Nếu tôi bị giết chết. Tôi sẽ sống lại trong nhân dân El Salvador. Như một mục tử, tôi bị bó buộc bởi thiên lệnh phải hy sinh mạng sống của tôi cho những ai tôi yêu mến, ngay cả cho những người sắp giết tôi. Nếu Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh mạng sống của tôi, xin hãy để máu của tôi là một hạt giống của tự do; xin hãy để cái chết của tôi cho sự giải phóng nhân dân như một chứng nhân của hy vọng trong tương lai.”

Tối hôm sau, 24/3/1980 ngài bị bắn vào ngực lúc đang dâng Thánh Lễ. Hơn 250,000 người đã đến tham dự đám tang của Đức Tổng Giám Mục Rômêrô. Khắp nước dân chúng kéo về bằng đủ mọi phương tiện. Một thần học gia Tin Lành, Tiến sĩ Jorge Lara Braud đã nói về ngài như sau: “Cùng chung với hàng ngàn người dân Salvador, tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu. Lần này tên của ngài là Oscar Arnulfo Romero. Thân xác tan rữa của ngài đã vỡ ra với thân xác của Chúa Giêsu; máu của ngài đã đổ ra chảy chung với máu của Chúa Giêsu. Và như cùng với Chúa Giêsu, ngài đã chết cho chúng ta để chúng ta được sống trong tự do, trong tình yêu, và trong công lý lẫn cho nhau. Sự sống lại của ngài không phải là một biến cố sẽ xảy ra. Đó là một thực tại đang hiện diện.”

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1993, các vị lãnh đạo Giáo Hội ở El Salvador đã chính thức yêu cầu phong thánh cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô. Nhưng đối với những người nghèo ở El Salvador, họ không cần chờ một sự chấp thuận chính thức. Họ biết ngài là một vị thánh.

Chúng ta tha thiết cầu cho các Mục Tử, nhất là các Mục Tử Việt Nam, theo chân Chúa Giêsu hy sinh cho đoàn chiên.

-------------------------------

 

PS4-B188: BẠN LÀ MỤC TỬ HAY LÀ CHIÊN?


CHÚA NHẬT IV PS MỤC TỬ TỐT LÀNH

Thưa quý OBACE,


 

Tình phụ tử, mẫu tử là một tình cảm hết sức thiêng liêng và hết sức mãnh liệt trong trái tim của những PS4-B188


Tình phụ tử, mẫu tử là một tình cảm hết sức thiêng liêng và hết sức mãnh liệt trong trái tim của những tình phụ tử, mẫu tử là một tình cảm hết sức thiêng liêng và hết sức mãnh liệt trong trái tim của những người cha người mẹ khi họ phải bảo vệ con cái khỏi phải nguy hiểm. Chúng ta đã từng nghe có người cha lao vào đám lửa cháy để cứa đứa con bé nhỏ của mình bị kẹt trong đó, hoặc là người mẹ ngày đêm túc trúc trong bệnh viện để chăm sóc cho đứa con, dù phải bán hết cả cửa nhà tài sản để chạy chữa cho con… những hình ảnh ấy dễ dàng giúp chúng ta hình dung về hình ảnh người mục tử mà Chúa Giêsu và Kinh Thánh thường sử dụng để nói về tình phụ tử, tình yêu thương săn sóc của Thiên Chúa dành cho con người.

Đối với người Việt Nam, hình ảnh đàn chiên và người chăn chiên có vẻ xa lạ, nhưng đối với văn hóa du mục như người Do Thái thì đàn chiên không chỉ là tài sản của gia đình, mà những con chiên còn được coi như là những thành viên trong gia đình, và người chăn chiên như là người cha người mẹ của chúng, họ ăn uống ngủ nghỉ, bồng bế con chiên như người ta bồng bế trẻ thơ, họ chăm sóc cho con chiên như chăm sóc cho con mình.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ấy để nói lên tình yêu thương săn sóc của Thiên Chúa dành cho con người: Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên. Chúa Giêsu qủa là một mục tử, được Thiên Chúa Cha sai đến với đòan chiên nhân loại này, cũng như người chăn chiên là người biết tìm cho chiên đồng cỏ non và dòng suối mát, là người bảo vệ đàn chiên khi bị sói dữ tấn công, nhiều lúc trong cuộc chiền bảo vệ đàn chiên này, người mục tử đã phải mang thương tích đầy mình vì móng vuốt và hàm răng của sói dữ tấn công. Chúa Giêsu chính là mục tử như thế, ngài đã đến để dắt nhân loại chúng ta đến đồng cỏ non là Nước trời, Ngài nuôi dưỡng chúng ta và dẫn đắt con người bằng Lời của Ngài, Ngài cho chúng ta không phải là cỏ non làm thức ăn, mà Ngài trao ban chính máu thịt Ngài làm lương thực bổ dưỡng cho nhân loại, và hơn thế nữa Ngài đã chiến đấu bảo vệ chúng ta khỏi nanh vuốt của Satan và thần chết; Trong cuộc chiến đấu này, Vị Mục tử Giêsu đã phải mang trên mình đầy thương tích bầm giập, tả tơi và cuối cùng Ngài đã hy sinh cả mạng sống để bảo vệ cho đàn chiên được sống.

Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Khác với những luật sĩ và biệt phái là những người chỉ biết lo tìm lợi ích cho mình mà không lo cho đàn chiên, họ chỉ là những người chăn thuê, không biết đến những nhu cầu và những nỗi khốn khổ của đàn chiên và không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên, trái lại Chúa Giêsu so sánh mình như một mục tử tốt lành: tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi. Biết chiên của mình, không chỉ là biết tên biết mặt, mà là thấu hiểu từ trong tâm hồn, thông cảm và thứ tha, lắng nghe và nâng đỡ, Chúa Giêsu biết rõ tâm hồn chúng ta hơn cả chúng ta biết về mình, Ngài biết cả những suy nghĩ ước muốn của chúng ta và biết cả những yếu đuối tội lỗi của chúng ta, như cha mẹ biết tính nết của từng đứa con mình để yêu thương, để vỗ về, Chúa Giêsu đã yêu thương săn sóc cho chúng ta như thế.

Với trái tim của một người mục tử, Chúa Giêsu không loại trừ bất cứ ai ra khỏi tình yêu thương của mình, dù họ có thuộc đàn chiên của Chúa hay họ thuộc đàn chiên khác, thì Chúa vẫn yêu thương chăm sóc và tìm cách để đưa mọi người trở về gia nhập vào đoàn chiên duy nhất dưới quyền một mục tử duy nhất là chính Chúa Giêsu.

Noi gương Thày Giêsu, đồng thời được trao ban cho nhiệm vụ chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Chúa, Thánh Phêrô, thủ lãnh của Giáo Hội đã trở thành một chủ chăn hết mình với Giáo Hội hy sinh vì sứ mạng của mình. Nếu trước đây không lâu Simon Phêrô là một một con người nhút nhát đã 3 lân chối bỏ thày mình, thì hôm nay trước mặt Thượng Hội Đồng Do Thái, Phêrô đã mạnh dạn lên tiếng bênh vực cho sứ mạng của mình là chủ chiên và bảo vệ cho những người đã được trao phó cho ông trong tư cách là tông đồ của Chúa Giêsu. Sứ mạng của Phêrô là loan truyền Tin mừng Phục sinh cho đến cùng cõi đất, là người củng cố đức tin cho anh em và là người chăm sóc đoàn chiên chủa Chúa, Thánh Phêrô đã mạnh mẽ khẳng định về màu nhiệm tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu, cùng quyền năng Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu, và Người trở thành nguồn ơn cứu độ duy nhất cho toàn thể thế giới, Ngài đã trở thành một mục tử gương mẫu cho tất cả những người được trao trách nhiệm làm mục tử chăm sóc đàn chiên của Chúa.

Cảm nhận hạnh phúc vì được là con chiên trong đòan chiên của Chúa, mà hơn thế nữa, Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để cứu chuộc chúng ta và qua cái chết của Ngài, Ngài đã nhận chúng ta vào trong gia đình Thiên Chúa, trở thành những thành viên trong gia đình của Thiên Chúa, thành người nhà và hơn thế nữa chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa, ân phúc này vượt quá sức mơ tưởng của chúng ta, Thánh Gioan trong thư thứ nhất đã quả quyết với chúng ta như thế.

Vì là con trong gia đình, chúng ta cũng phải sống hết mình để chu toàn bổn phận và ơn gọi là người con của Thiên Chúa, sống hiếu thảo và vâng lời Thiên Chúa là cha cha hết mực yêu thương ta và hy sinh vì ta, là con chiên trong đàn chiên của Mục tử Giêsu, chúng ta cần đi theo sư hướng dẫn của Ngài, và để cho Ngài chăm sóc băng bó những vết thương trong tâm hồn chúng ta.

Thưa quý OBACE, là con chiên của Chúa Giêsu, chúng ta không thể đi trước Chúa Giêsu, mà phải đi theo sau Ngài, theo sự hướng dẫn của Ngài, đi trong sự bảo vệ của Ngài. Ngài hướng dẫn chúng ta đi theo con đường của Tin Mừng, Ngài mời gọi chúng ta ăn trên đồng cỏ của tám mối phúc thật, Ngài muốn chúng ta bước vào con đường hẹp con đường hy sinh từ bỏ và nhất là con đường thập giá, vì chỉ có con đường này mới bảo đảm đưa chúng ta đến nguồn nước hạnh phúc chân thật, Ngài mời gọi chúng ta đến, không phải là đồng cỏ mà là bàn tiệc thánh của Ngài để cùng ăn cùng uống với Ngài, Ngài dùng các Bí tích là những phương thuốc chữa lành mọi bệnh tật trong tâm hồn, hãy đến với các Bí tích nhất là bí tich giái tội để được chăm sóc và chữa lành.

Là con chiên trong đoàn, chúng ta còn phải đồng hành cùng với các anh em khác, chúng ta không thể đi một mình, mà phải đi cùng với những người khác, cùng tiến về đồng cỏ hạnh phúc nước trời. Chúng ta đang sống trong một đàn chiên cụ thể là Giáo Hội, giáo phận, và đặc biệt chúng ta đang là con chiên trong đoàn chiên giáo xứ, hãy trở thành những thành viên có trách nhiệm, cùng chung tay góp sức xây dựng giáo hội địa phương và xây dựng tình huynh đệ trong cộng đoàn giáo xứ, hãy sống tốt hơn nữa tình tương thân tương ái trong môi trường chúng ta đang sống, nhất là lắng nghe tiếng nói của chủ chiên mà Chúa đã đặt lên, để hướng dẫn chúng ta và bằng sự cộng tác xây dựng.

Không chỉ là con chiên, mà mỗi chúng ta cũng đang là những mục tử, là người chăn dắt hướng dẫn những người khác nữa: Là cha mẹ trong gia đình, quý vị đang được mời gọi trở thành những mục tử cho con cái, hãy noi gương vị mục tử Giêsu, không chỉ tìm kiếm cơm gạo nuôi con, mà các bậc cha mẹ còn phải dùng đời sống gương sáng của mình để dẫn đưa gia đình và con cái đi theo con đường của Thiên Chúa muốn,  và đừng đi bằng con đường nào khác mà hãy đi theo con đường của Tin Mừng, hết mình bảo vệ  sự êm ấm thuận hòa và bầu khí hạnh phúc của gia đình bằng đời sống cầu nguyện, bằng những giờ kinh, bằng sự dạy dỗ uốn nắn con cái khỏi những sự tấn công của sói dữ là nhữ lôi kéo và những tệ nạn xấu xa trong xã hội hôm nay như rượu chè, cờ bạc, phim ảnh sách báo xấu…

Hôm nay còn là ngày cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục tu sĩ, các bạn trẻ nam nữ thân mến! Các bạn đang được Chúa và Giáo hội mời gọi quảng đại đáp lại tiếng Chúa, sống đời tu trì trở thành những linh mục tu sĩ, những mục tử trong Giáo Hội, Chúa đang cần sự cộng tác của các bạn, Chúa đang muốn dùng trái tim khối óc của các bạn, dùng đôi tay và tuổi trẻ của các bạn để Ngài tiếp tục yêu thương săn sóc cho đoàn chiên của Ngài, đừng ngại ngần đắn đo, đừng tiếc cuộc đời với Chúa vì Chúa có tiếc gì với các bạn đâu, hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa, đừng chỉ sống cho riêng mình, mà hãy dám sống cho nhiều người. Chúa đang chờ các bạn! Amen.

-------------------------------

 

PS4-B189: CHÚA CHIÊN LÀNH

 
 

Thánh lễ Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi mọi thành phần dân Chúa hướng về Đức PS4-B189


Thánh lễ Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi mọi thành phần dân Chúa hướng về Đức Kitô Phục Sinh với tước hiệu “Chúa Chiên Lành”, nói một cách bình dân, Đức Kitô là vị Mục Tử tốt lành, công việc chính yếu của Ngài là chăn dắt, thí mạng để bảo vệ đàn chiên khỏi nanh vuốt của sói dữ tham mồi, dẫn đưa đàn chiên đến đồng cỏ xanh non và suối nước không bao giờ cạn, dẫn đưa đàn chiên về với cội nguồn của sự sống vĩnh cửu và niềm hạnh phúc viên mãn trong gia đình Thiên Chúa nơi vương quốc Nước Trời. Ngài không chỉ chăn dắt những đàn chiên ngoan hiền, sống theo bầy đàn, nhưng ngài còn cất công đi tìm và đem về những con chiên ngỗ nghịch, bỏ bầy đi rong chơi… như lời Ngài đã minh định: “ Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn và chúng sẽ nghe tiếng Ta..” (Ga.10,).

Trong ngày lễ Chúa Chiên Lành, ta được Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu, linh mục và tu sỹ. Đây là một công việc rất thiết thực và rất có ý nghĩa, nhất là với xã hội ngày hôm nay, một xã hội tôn sùng chủ nghĩa hiện sinh, hưởng thụ…Sự bành trướng của những lối sống này đã đưa đến hiện tượng khan hiếm ơn gọi trở thành linh mục, tu sỹ…Còn đó những cộng đoàn thiếu vắng các vị mục tử cử hành các bí tích, hướng dẫn, chia sẻ Lời Chúa nơi quê hương đất nước ta, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, những buôn sóc anh em dân tộc thiểu số, rất nhiều nơi thiếu vắng tình thương của Chúa qua bàn tay chăm sóc của các tu sỹ nam, nữ, những tâm hồn thiện nguyện. Cuối cùng ta cũng được mời gọi dâng lời cầu nguyện để tỏ lòng biết ơn, quý trọng đối với các vị mục tử đã và đang chăm sóc ta trong đời sống đức tin, đời sống cầu nguyện như lời mời gọi của thánh Phaolô: “ Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em” (1Tx. 5,12)

Hướng về Đức Kitô Phục Sinh vị Mục Tử Nhân Lành, ta cũng không quên cầu nguyện cho chính ta là những mục tử mà Chúa yêu thương giao phó cho ta trách nhiệm chăm sóc đàn chiên qua hình ảnh của những người thân yêu nơi mái ấm gia đình, nơi cộng đoàn… Để nhờ ơn Chúa giúp ta dần trở thành những mục tử như lòng Chúa ước mong, luôn biết khiêm hạ, hy sinh, hiến thân chăm lo, bảo vệ đàn chiên là vợ, chồng, con, cháu, anh em…Đây chính là quà tặng, là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng cho ta một cách nhưng không.

Đức Giêsu Kitô Phục Sinh đã nên gương cho ta trong vai trò mục tử, Ngài cũng mời gọi ta bước theo, học theo Ngài trong trách nhiệm và bổn phận mục tử mà Ngài đã trao ban. Vâng! Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa khi vâng lời Chúa Cha bước xuống trần mặc lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế (x.Pl.2,6-8), Ngài đã là một người con hiếu trung nơi gia đình Thánh Gia, Ngài vâng lời Cha trên trời cho đến chết và chết trên cây thập giá. Chính đời sống nói thực, sống thực, Ngài mạnh dạn và lớn tiếng phán với các môn đệ thân tín và với người Do Thái: “ Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đàn chiên…Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta nhận nơi Cha Ta”(Ga.10,11-18).

Làm sao ta có thể trở thành người mục tử gương mẫu, thánh thiện, chu toàn công việc và bổn phận, biết chăm lo và xả thân vì đàn chiên, nếu ta thiếu lòng trung hiếu, thiếu đức vâng lời, khiêm hạ, sự chuyên chăm và nhất là dám hy sinh chính tính mạng của mình để bảo vệ đàn chiên, thánh Phêrô khi nói về trách nhiệm và bổn phận của người mục tử, ngài đã viết:“Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr.5, 2-5).

Vâng! Nếu trong đời sống của ta thiếu lòng trung hiếu với Chúa và với nhau, thiếu đức vâng lời, khiêm hạ, thiếu đi sự từ bỏ những danh, quyền, lợi và cả chính bản thân, mạng sống mình, điều tất yếu ta sẽ dần trở thành kẻ làm thuê, chăn thuê như lời Đức Kitô đã phán: “ Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên chạy tán loạn” (Ga.10,12).

Lời bộc bạch của thánh Phaolô:“Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”(Rm.7,19) đã nói lên cái yếu đuối và tính xác thịt nặng nề của chính ngài và cho chính ta, nhưng Thánh Nhân đã tìm ra cho mình một con đường giải thoát để trở thành vị mục tử đẹp lòng Chúa khi ngài thốt lên:“Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này. Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm.7, 24-25). Từ nơi Đức Ki tô ta mới có thể trở thành những mục tử như Ngài hằng ước mong.

Lạy Chúa Giêsu Vị Mục Tử Nhân Lành! Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã chăm sóc con và gia đình con, Chúa đã ban và mời gọi con trở thành người mục tử chăm lo đàn chiên của Chúa là chính gia đình con.

 Con xin lỗi Chúa, vì con đã không học theo gương Chúa trong công việc và bổn phận, con đã ích kỷ, chỉ chăm lo cho chính mình và cho những gì mình yêu thích, những gì dễ dãi đối với con, để rồi con dần trở thành kẻ chăn thuê làm đàn chiên của Chúa tan tác.

Con van xin Chúa tha thứ và ban ơn trợ giúp, để từ đây, nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ trở thành người mục tử như lòng Chúa ước mong. Amen.

Sài gòn, ngày 27/04/2012

Antôn Lương Văn Liêm.

-------------------------------

 

PS4-B190: MỤC TỬ HIỀN LÀNH KHIÊM NHƯỢNG

 
 

Chúa Giêsu nói: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên ..... Như thế thì, chuẩn mực của mục tử tốt PS4-B190


Chúa Giêsu nói: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”.

Như thế thì, chuẩn mực của mục tử tốt lành là “mục tử biết con chiên của mục tử” và “con chiên biết mục tử của chiên”.

Không thấy nói chuẩn mực của mục tử tốt lành là bằng cấp, là học vị, là du học, là phân biệt Triều, hay Dòng, là Tụ Hội, là Tu Đoàn, là Đan Sĩ… Và cũng không biết cái phẩm trật dựa trên học vị bằng cấp trong Giáo Hội, đã có tự lúc nào, và sẽ còn kéo dài tới khi nào, trong khi, 12 con người xuất thân từ Đại Học Giêsu ra chẳng có cái bằng cấp nào cả, nếu không nói là môn học “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” là môn học cả đời, và hầu như không có luận án nào đạt điểm tốt nghiệp.

Cha Gioan Maria Vianey chẳng hạn. Không những chẳng có bằng cấp, chẳng có học vị, mà còn được xếp vào loại Linh Mục yếu kém chuyện học, học hoài cũng chẳng giỏi, thiếu điều bị loại khỏi Chủng Viện, và khi đã được lãnh chức Linh Mục, còn bị anh em Linh Mục xem thường. Thế nhưng, như Thánh Phaolô nói: “Chính trong khi tôi yếu đuối thì Chúa Kitô nên sức mạnh cho tôi”, Cha Vianey đã học môn học “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” ở trường Đại Học Giêsu mà không hề có lấy mảnh bằng, không có lấy học vị đáng giá trong mắt người đời, kể cả trong mắt của những người có học vị, có bằng cấp trong Giáo Hội.

Cha xứ Họ Ars chỉ mới là một điển hình trong vô vàn điển hình quý giá nơi các Linh Mục chẳng nổi tiếng học hành gì, chẳng bằng cấp gì, nếu không nói là vẫn được xếp vào loại tầm thường, nhưng gặt hái về cho Chúa nhiều linh hồn.

Thiết tưởng, chính môn học “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” là môn học chìa khóa mở ra cho người mục tử con đường yêu thương phục vụ của Mục Tử Nhân Lành Giêsu Kitô, chứ không phải môn học nào khác với bằng cấp sáng chói, với bảng vàng danh dự, với học vị cao ngất trời kia.

Kinh nghiệm cho thấy cái thành công của một Linh Mục quản xứ không lệ thuộc vào bằng cấp học vị, mà lại dựa trên căn tính “Ipse Christus” để yêu thương đoàn chiên, chăm sóc đoàn chiên, và hết lòng, hết dạ, hết linh hồn, hết trí khôn lo cho đoàn chiên sống mật thiết với Thiên Chúa trong ân sủng và sống bình an, hiệp nhất, yêu thương nhau trong cộng đoàn. Thành công của một Linh Mục là “Linh Mục ấy đã là “chính Chúa Kitô" mục tử, chính Chúa Kitô hiền lành khiêm nhượng yêu thương thí mạng vì chiên”.

Vâng,

- Có hiền lành khiêm nhượng mới dám bước ra khỏi cái lâu dài khanh tướng của mình mà bước xuống, cúi xuống, biết xuống con chiên của mình, mới dám chạm xuống những nỗi đau của con chiên, dám xuống tay xoa dịu những vết thương, dám xuống tay băng bó, dám xuống cả tấm lòng mà thấu cảm cái bất hạnh của con chiên thiếu đói, tật nguyền, bệnh hoạn, giữa đời thường kia. Bằng không, hãy cứ chờ con chiên nào đến được với cha thì cha biết, con nào chẳng chịu đến thì cha chẳng hề biết.

- Có hiền lành khiêm nhượng mới có chạnh lòng, mới có mau mắn sáng kiến tỏ bày lòng thương con chiên và lo lắng cho đoàn chiên. Bằng không, Linh Mục trở nên người vô cảm hơn ai hết.

- Có hiền lành khiêm nhượng trong lòng mới thể hiện ra đích thực con người của Đức Giêsu Kitô yêu thương hết mình, phục vụ tận tình, kiên nhẫn ép mình chịu thương chịu khó cho đoàn chiên được sống vui. Bằng không, Linh Mục là người nhàn nhã, cầu an hơn ai hết.

- Có hiền lành khiêm nhượng trong lòng mới chính hiệu là gương sáng đức hạnh, thánh thiện, gương sáng cho một cuộc sống khó nghèo, vâng phục, khiết tịnh, gương sáng cho một sự kết hiệp viên mãn với Lời Hằng Sống, Bánh Hằng Sống, gương sáng “làm việc này mà nhớ đến ta”, gương sáng tấm bánh bẻ ra cho đời, gương sáng sống và chết cho đoàn chiên được sống. Bằng không, Linh Mục chỉ là lính chăn thuê có cấp bậc ngon lành hơn ai hết.

Hẳn là, không cần ai phải nói, các Linh Mục hiểu rõ, biết rõ việc phải nên giống Chúa Giêsu Mục Tử hiền lành khiêm nhượng. Nhưng, vấn đề biết là một chuyện, và sống như điều mình biết là chuyện khác. Nhất là, trong toàn cảnh cảm tính của Giáo Dân Việt Nam, một là, vẫn luôn tốt lành, vẫn suy tôn, quý mến, chiều chuộng các cha quá lẽ, hoặc hai là, chẳng dại gì mà thật thà lên tiếng góp ý với các cha, bởi có góp ý cũng chẳng được, lại coi chừng chuốc họa vào thân: bị chụp mũ là tội phá hoại Giáo Hội, chết không có đất mà chôn!

Xin đừng nghĩ rằng, các Linh Mục vẫn biết rõ điều đó, và Giáo Dân thì không được phép yêu cầu Linh Mục phải sống thế nào. Chúa bảo “con chiên biết chủ chiên mà”.

Không Linh Mục nào phải dại gì để bị mang tiếng là kẻ chăn chiên thuê cho Đức Cha, hết thuê chăn chiên ở xứ này, rồi thì thuê chăn ở xứ khác… Nhưng cũng có trường hợp con chiên thì chẳng thấy chủ chiên thương yêu con chiên, chẳng thấy lo lắng gì cho con chiên, hay đúng hơn chủ chiên chỉ có việc dâng Lễ mà đôi khi còn ngã lên té xuống, giải tội thì bất đắc dĩ quát tháo lung tung, thì nói chi đến chuyện lo cho đoàn chiên một đời sống tâm linh vững mạnh!

Nói đến chuyện này, thì có cha lại bảo đừng vơ đũa cả nắm!

Thế nhưng, nếu là con chiên trong Xứ Đạo mà có cha sở như thế, thì chỉ một cha thôi mà vơ một nắm con chiên có khi đôi ba ngàn con vứt vào đâu chẳng biết. Con chiên nản chí, nản lòng, bỏ xứ mình, tìm dự lễ xứ khác…

Đã đến cái thời kỳ mà Giáo Dân khao khát sự thánh thiện của các Linh Mục hơn khi nào hết. Không nên xếp Giáo Dân vào loại mạt hạng như ngày xưa nữa, nhưng hãy biết rằng họ đang mong chờ nơi các Linh Mục một đời chứng hơn là những lời chứng.

Bởi vậy mới cho chuyện con chiên nơi này, nơi kia lo lắng, suy tư, trăn trở thao thức, rồi bàn tán xôn xao mỗi khi có lệnh thuyên chuyền các Linh Mục trong Giáo Phận:

- Cha mới rất giỏi, du học về!

- Không, chúng tôi ngán rồi. Chúng tôi cần một cha mới biết “thương con chiên và mang lấy mùi chiên, nhất là mùi chiên lợm mửa ở nơi này”.

- Cha mới giảng rất hay!

- Không, chúng tôi cũng ngán rồi! Chúng tôi cần một cha “sống trước giảng sau, giảng ít ít cũng được, hơn là giảng thật hùng hồn, giảng thật hay ho mà toàn những điều ngài chưa sống, hoặc toàn là những điều ngược lại với đời sống của ngài!”

- Cha mới xây Nhà Thờ rất giỏi! Kiếm tiền rất giỏi!

- Không chúng tôi cũng ngán rồi. Chúng tôi cần một cha mới xây dựng lại ngôi nhà hiệp nhất muôn lòng trong Giáo Xứ của chúng tôi, bởi vì cha cũ đã làm sụp đổ căn nhà ấy. Hội đồng bất nhất, đoàn thể chia rẽ, toàn là "tướng không quân" nên các sinh hoạt hời hợt rời rạc… Sao cũng xong, miễn là cha khỏe.

Không chỉ dừng lại ở đoàn chiên trong ràn, mà còn phải hướng tới những con chiên ngoài ràn: “Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta”.

Vậy nếu lo cho đoàn chiên trong ràn mà lo chưa xong, thì làm gì có chuyện nghĩ tới những con chiên ngoài ràn kia đang khao khát vào chung một ràn chiên, một chủ chiên.

Lạy Chúa, Lễ Chúa Chiên Lành, chúng con tôn vinh Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành, mục tử hiền lành khiêm nhượng yêu thương đoàn chiên và thí mạng sống vì đoàn chiên, là gương soi, là chuẩn mực cho các Linh Mục coi xứ. Chúng con tạ ơn Chúa vì chúng con có những Linh Mục thánh thiện đạo đức xứng đáng là “chính Chúa Kitô” mục tử, “chính Chúa Kitô” hiền lành khiêm nhượng đang hiến tế cuộc đời mình cho đoàn chiên của chúng con được sống, và sống dồi dào.

Nhưng lạy Chúa, chúng con cũng đang lấy làm tiếc vì không thiếu những Linh Mục không hoặc chưa theo đúng chuẩn mực “hiền lành khiêm nhượng của Chúa” mà coi sóc, chăm lo cho chúng con. Nguyện xin tình yêu Chúa thôi thúc các Ngài yêu mến Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhiều hơn nữa, và sẵn sàng biến cuộc đời các ngài nên “Ipse Christus”, nên “chính Chúa Kitô” Mục Tử Tốt Lành, Hiền Lành Khiêm Nhượng, Hiến Thân cho đoàn chiên chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 19.4.2018

-------------------------------
 

PS 4-B191: Chúa Chiên lành


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Thiếu nhi chúng con yêu quý

 

Cha đố chúng con Chúa Nhật hôm nay được gọi tên là Chúa Nhật gì không? Thưa cha là Chúa PS 4-B191


Cha đố chúng con Chúa Nhật hôm nay được gọi tên là Chúa Nhật gì không?

Thưa cha là Chúa Nhật Chúa Chiên lành.

Chúng con trả lời rất đúng. Ngày hôm nay cả Giáo Hội cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu. Cầu nguyện để cho Giáo Hội có được nhiều vị mục tử giống Chúa Giêsu.

Thế Chúa Giêsu là mục tử như thế nào?

Chúng con vừa được xem hình ảnh của một mục tử. Chúa Giêsu mượn hình ảnh này để nói về chính mình.

Chúa bảo: Người mục tử nhân lành là người:

1. Biết chiên của mình và chiên cũng biết mục tử của mình là ai

Chúng con nhớ trong Tin Mừng của thánh Gioan, từ “Biết” luôn được hiểu là yêu thương. Biết chính là yêu thương.

Một khách lữ hành đi về những vùng núi xứ Tô Cách Lan, một hôm dừng chân bên cạnh một đàn chiên. Bỗng ông ta chú ý đến một con chiên đang được người mục tử chăm sóc một cách đặc biệt. Con vật nằm dài trên mặt đất. Chủ nó vừa vuốt ve vừa nói chuyện với nó một cách dịu dàng, trong lúc tay không ngừng băng bó một chân của nó. Người khách bộ hành lại gần và hỏi xem cho biết việc gì. Thoạt tiên, người chăn chiên tỏ vẻ khó chịu vì phải trả lời. Nhưng sau đó vẻ thân mật của người bộ hành làm cho anh vững lòng, vì thế anh ta không ngần ngại giải thích:

- Con chiên này có những đức tính tuyệt hảo của một người hướng đạo. Khi còn lành mạnh, nó luôn luôn dẫn đầu đàn chiên, biết cách làm cho những con vật khác vâng lời nó và theo nó. Nhưng khổ thay vì quá tự tin nên nó không theo lệnh của tôi và dẫn đàn chiên theo sở thích của nó. Tôi đã tìm đủ mọi cách để thay vào chỗ của nó một con đầu đàn khác nhưng vô hiệu, vì hễ con nào có vẻ như muốn thấy nó đều bị nó đánh và xua đuổi. Tình trạng của đàn chiên của tôi do đó trở nên nguy ngập. Tôi buộc lòng phải áp dụng một phương pháp khá đau đớn.

Nói đến đây người chăn chiên như bị cảm xúc mạnh. Anh giải thích tiếp như sau: “Tôi đành làm cho chân nó bị thương và kể từ khi bị thương, con vật hoàn toàn tùy thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai đem ra đồng cỏ. Và buổi chiều tôi lại vác nó trên vai đem về. Nó không thể tự mình đi ăn cỏ được. Chính vì thế mà từ một tháng nay, nó ăn giữa lòng bàn tay của tôi. Những săn sóc liên tục của tôi đã tạo nên một mối liên hệ vô cùng mật thiết giữa tôi và nó. Bây giờ có lẽ nó hiểu rằng sau khi đã làm cho nó bị thương, tôi đã tìm đủ mọi cách để làm giảm bớt sự đau đớn của nó. Về phần tôi, tôi cũng biết rằng sẽ không tìm được trong tất cả đàn chiên một con nào biết vâng lời tôi hơn nó. Trong vài ngày nữa, khi nó khoẻ mạnh, tôi sẽ phục hồi lại vị trí cũ của nó”.

Vâng! Yêu thương là như thế, không phải là lúc nào cũng cho ngọt cho bùi, nhưng là biết ứng xử một cách có ích, có lợi nhất cho người mình thương.

2. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên

Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh cho những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng cách biệt với mọi người. Họ dành riêng cù lao Molokai để đưa những người phong hủi đến ở đó.

Tàu của nhà nước mỗi tuần chỉ tiếp tế cho những người ở đây một lần. Những người phong hủi sống ở đó thiếu thuốc thang, thiếu sự chăm sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ đặc biệt là về phương diện tôn giáo. Khi vừa nghe thấy tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục Giáo phận cho phép ngài được ra sống chung với những người xấu số đó. Thấy Đức Giám mục có vẻ lưỡng lự, cha Damien đã quỳ xuống đất thưa rằng:

- Thưa Đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi khoác lên mình chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu.

Sau khi được phép đức Giám mục Giáo phận, cha Damien lên đường ra đi, đến cù lao Molokai để sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Sau một thời gian vì quá gần gũi với những người cùi, cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây. Mặt mũi giờ đây bị rộp và sưng lên. Hai tai dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn.

Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên.

Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để ở với loài người. Chúa còn chết cho loài người.

Cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong hủi của cha, để một phần nào nói lên được điều Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mục tử tốt lành liều mạng sống vì con chiên”.

3. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi

Vâng! Chiên thì phải nghe tiếng của chủ và đi theo chủ. Chiên sẽ không nghe và đi theo tiếng người lạ.

Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn bầy chiên của mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả Rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”).

Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.

Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.

Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:

Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như các anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.

Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?

Người chăn Syria trả lời:

Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.

Vâng! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai. Còn những con chiên khỏe mạnh thì luôn nghe theo tiếng của mục tử.

Chúng con hãy xin Chúa cho chúng ta được luôn lắng nghe được tiếng Chúa để khỏi bị lạc hướng giữa cuộc sống hôm nay.

Cha muốn kết thúc bài suy niệm hôm nay bằng câu truyện này:

Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại tù của Đức Quốc xã có lệnh : “Các tù nhân có nhiệm vụ phải coi lẫn nhau. Nếu một tù nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng”

Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đên chiêu, người sĩ quan Đức có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào một người và buông lời cộc lốc : “Mày phải thế mạng!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở! Trong số tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liên giơ tay xin phát biểu :

Xin ông cho tôi được chết thay cho người này! Viên sĩ quan quát:
Con heo Ba Lan kia, mày có điên không? Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp
Thưa không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.
Trước sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi buông lời :

Thuận.
Thế là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy họ đã chích cho ngài mũi thuốc gọi là mũi thuốc ân huệ kết thúc cuộc đời...!

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó gia đình anh tù được chết thay cũng có mặt.

Quả thực : “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình !” (Ga 15, 13).

-------------------------------

 

PS 4-B192: Chúa Nhật Chúa Chiên Lành


--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh mục và Tu sĩ

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B này có chung một chủ đề: Đức Giê-su Ki-tô PS 4-B192


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B này có chung một chủ đề: Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.

Cv 4: 8-12

Khi bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô giải thích cho những người đã kết án tử Đức Giê-su trước đây, rằng họ đã loại bỏ Đấng mà chỉ ở nơi Ngài con người mới gặp được ơn cứu độ.

1Ga 3: 1-2

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở rằng được liên kết với Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa và được bảo đãm dự phần vào số phận vinh quang của Ngài.

Ga 10: 11-18

Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su là vị Mục Tử nhân lành, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta vào ràn chiên của Thiên Chúa, vì Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

BÀI ĐỌC I (Cv 4: 8-12)

Việc thánh Phê-rô bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng là kết quả của một sự kiện mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua: sau khi chữa lành một người què trước cửa Đền Thờ, vị thủ lãnh của các Tông Đồ đã ngỏ lời với đám đông kinh ngạc. Những lời phát biểu của thánh nhân đã làm bối rối các vị lãnh đạo Giê-ru-sa-lem và chắc chắn gây bực tức cho nhóm Sa-đu-xê-ô.

Chúng ta biết rằng nhóm Sa-đu-xê-ô không tin vào sự phục sinh của thân xác, vì cho rằng quan niệm nầy xuất hiện rất muộn thời trong niềm tin Ít-ra-en. Theo họ, sự tinh tuyền đạo lý đòi buộc người ta phải gắn bó với niềm tin thời kỳ trước lưu đày, ở đó không có dấu vết nào của niềm tin vào sự sống lại mai sau. Vì thế, họ không thể nào chấp nhận khi nghe nói về việc Đức Giê-su sống lại.

Thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt cùng nhau ở Cửa Đền Thờ khi hai ngài lên Đền Thờ cầu nguyện và chữa lành người què. Cả hai ngài bị giam trong tù suốt đêm. Sáng hôm sau, họ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức Tòa Thượng Thẩm Do thái, để bị chất vấn và tra hỏi.

1. Nơi diễn ra phiên tòa.

Hai vị Tông Đồ bị điệu ra trước những quan tòa mà, trước đây vài tuần, chính họ đã kết án tử Đức Giê-su: Thượng Tế đương nhiệm Cai-pha chủ trì Thượng Hội Đồng, Thượng Tế mãn nhiệm Kha-nan là bố vợ của Thượng Tế Cai-pha, cùng với các kỳ mục và các kinh sư.


Phiên tòa diễn ra cũng một nơi trước đây đã xử Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trời đã tối nên các thành viên Thượng Hội Đồng tụ họp vội vàng trong dinh Thượng Tế Cai-pha. Dinh Thượng Tế Cai-pha có lẽ đã gợi cho thánh Phê-rô nhớ lại kỷ niệm đau buồn của mình. Nhưng thật là khác biệt biết bao giữa thái độ hèn nhát của người môn đệ sợ hãi vào đêm bi thảm đến nỗi đã chối thầy mình đến ba lần và cái dũng khí của vị Tông Đồ được biến cố Phục Sinh soi sáng và được đầy tràn Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần.


2. Chứng từ của thánh Phê-rô trước Thượng Hội Đồng.

Giờ của sự thật đã điểm. Thánh Phê-rô phục hồi quyền của Đức Giê-su mà họ đã kết án trước đây, buộc tội những kẻ giết Ngài và công bố sự phục sinh của Đấng chịu đóng đinh. Thánh nhân dạn dĩ phát biểu: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng” (4: 10a).

Thật ra, người ta tra hỏi các ngài là nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà hai ông đã chữa lành người què nầy. Thánh Phê-rô quả quyết: “Chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh” (4: 10b) Và vị Tông Đồ còn cất cao giọng hơn nữa: “Đấng ấy là viên đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (4: 11).

Thật thú vị biết bao khi thánh Phê-rô công bố sứ điệp Phục Sinh trước Thượng Hội Đồng nầy đã lăng nhục và bêu xấu Đức Giê-su. Thật tốt đẹp biết mấy khi những người đại diện chính thức của dân Chúa chọn nghe trực tiếp lời loan báo ơn cứu độ từ nay đạt được nhờ Đấng mà họ đã giết chết. Khi trích dẫn Kinh Thánh: “Viên đá mà thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118), vị Tông Đồ minh chứng rằng chân lý thuộc về phía của mình, bởi vì các ngôn sứ đã báo trước rằng chính họ là những thợ xây nhà Ít-ra-en đã loại bỏ đá tảng góc tường nầy.

Hơn nữa, sự hiện diện của người què được chữa lành trước tòa án nầy không là lời chứng hùng hồn rằng Đức Giê-su là nguồn ơn cứu độ sao? Phải nói rằng chính nhờ sự hiện diện của người được chữa lành nầy mà hai vị Tông Đồ được cứu: “Họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào” (Cv 4: 14). Cuối cùng, hai ông được thả ra, vì Thượng Hội Đồng sợ đám đông dân chúng: “Ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra” (Cv 4: 21). Nhưng chẳng bao lâu sau, thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt một lần nữa, lần nầy hai ông bị đánh đòn và cấm không được nói đến danh Đức Giê-su; nhưng các ngài không thể nín lặng được và sẽ không bao giờ còn nín lặng.

BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-2)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “ơn làm con Thiên Chúa”. Người Ki-tô hữu là con Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha. Nhưng ơn nghĩa tử nầy sẽ thăng hoa viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống hoàn toàn với Con của Ngài vào ngày Ngài trở lại trong vinh quang.

1. Ơn làm con Thiên Chúa (3: 1):

Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: “Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (3: 1a). Đây không chỉ là tước hiệu mà Ngài ban tặng cho chúng ta, nhưng là một thực tại thâm sâu: “Thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (4: 1b). Theo văn hóa Do thái, một danh xưng diễn tả một thực tại tận căn của con người: như vậy, Chúa Cha yêu thương chúng ta đến mức Ngài liên kết chúng ta vào Con của Ngài khi gọi chúng ta là con của Ngài. Phẩm vị nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (3: 1c). Lời phát biểu nầy vang dội những lời của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 18).

Toàn bộ bức thư nầy được cấu trúc theo lối phản đề: cuộc sống người Ki tô hữu đối lập với cuộc sống của những kẻ cứng lòng tin hay những người lạc giáo. Ở đây, lối phản đề bao phủ một vùng rộng lớn: thế gian, được hiểu theo nghĩa tiêu cực, là thế giới của tội lỗi, bởi vì “thế gian đã không biết Thiên Chúa”.

2. Sự biến đổi trong tương lai (3: 2):

Đoạn trích nầy có thể được đặt nhan đề: “Từ phép Thánh Tẩy đến sự biến đổi làm con Thiên Chúa của chúng ta”. Chúng ta đã được biến đổi rồi bởi cuộc sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu tiên. Ơn làm con Thiên Chúa được thành toàn chỉ khi chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Điều nầy sẽ chỉ xuất hiện vào thời chung cuộc “khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Thánh Phao-lô cũng gợi lên sự biến đổi tương lai nầy trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21). Thật ra, theo thánh Gioan, ngay từ bây giờ sự biến đổi này đã được ươm mầm rồi ở nơi chức năng làm con Thiên Chúa của chúng ta: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa”.

TIN MỪNG (Ga 10: 11-18)

Hình ảnh người mục tử với đàn chiên rất quen thuộc với dân Do thái vốn đã là dân du mục sống nghề chăn nuôi. Cựu Ước đã phác họa Đức Chúa là vị Mục Tử lý tưởng. Tước hiệu này diễn tả hai khía cạnh của mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Ngài: uy quyền nhưng từ bi nhân hậu. Nhưng tước hiệu mục tử nầy được dành riêng đặc biệt hơn cho Đấng Thiên Sai trong tương lai, nhất là vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, vào thời điểm của những tai họa lớn lao: Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon đánh chiếm, Đền Thờ bị phá hủy và dân chúng bị dẫn đi lưu đày. Trong hoàn cảnh bi thảm đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tiên báo rằng rồi đến một ngày Thiên Chúa sẽ đòi lại đoàn chiên của Ngài khỏi những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm gì đến đoàn chiên để giao lại cho Tân Đa-vít, không là vua, nhưng là mục tử đích thật, tận tâm tận lực chăn dắt chúng (Ed ch. 34). Chính dụ ngôn của vị ngôn sứ nầy là nguồn cảm hứng cho diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” của Đức Giê-su.

Đức Giê-su công bố diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” tại Giê-ru-sa-lem sau khi Ngài cho một anh mù được sáng mắt. Trong bài diễn từ nầy, Đức Giê-su tự nhận mình là người mục tử đích thật, còn giai cấp lãnh đạo Do thái, họ là “những kẻ chăn chiên thuê”,“quân trộm cướp”, “những kẻ tiếm quyền mục tử”. Những người lãnh đạo Do thái đã trục xuất con chiên lẽ loi cô độc khỏi ràn chiên, tức là anh mù được sáng mắt, trong khi Đức Giê-su đã thu nhận anh, dẫn đưa anh vào ánh sáng đức tin… Như vậy chân dung của người mục tử nhân lành nêu bật sự đối lập nầy.

Trong ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”. Vào mỗi năm Phụng Vụ, chúng ta đọc một đoạn trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “Người Mục Tử nhân lành” thuộc chương 10 Tin Mừng Gioan: Vào năm A, phần đầu (10: 1-10); vào năm B, phần thứ hai (10: 11-18); và vào năm C, phần cuối cùng (10: 27-30).

Trong phần thứ hai (10: 11-18) mà chúng ta đọc hôm nay,  Đức Giê-su vạch rõ cho thấy Ngài là “Mục Tử nhân lành” như thế nào qua những phẩm chất như sau:

- “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
- “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi”.
- “Chỉ một đoàn chiên và một mục tử”.
-Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Ngài.

1. “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10: 11-13):

Ngay từ đầu đoạn văn này, Đức Giê-su xác định phẩm chất quan trọng nhất của người mục tử nhân lành là “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (10: 11). Tiếp đó, Đức Giê-su vạch rõ sự khác biệt giữa người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên với kẻ chăn chiên thuê chỉ lo cho sự an toàn của mình mà “không thiết gì đến chiên” (10: 13). Đức Giê-su xác định ngay từ đầu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (10: 11), đồng thời Ngài cũng ám chỉ đến giai cấp lãnh đạo Do thái là kẻ chăn chiên thuê, họ chỉ lo làm sao giữ cho được địa vị, chức tước, quyền hành của mình mà không quan tâm đến hoàn cảnh sống của đoàn chiên.

2. “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10: 14-15):

Theo Kinh Thánh, động từ “biết” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng, không chi diễn tả sự hiểu biết của khối óc, nhưng còn sự chuyển động dạt dào của con tim. Sự kiện người mục tử “biết” từng con chiên cấu thành niềm tin tưởng phó thác của đoàn chiên vào người mục tử của mình. Đức Giê-su cho chúng ta nguyên mẫu mối quan hệ tuyệt vời này: “Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha”. Đó cũng là khuôn mẫu mà Ngài muốn thiết lập với những người thuộc về Ngài: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. Để thực hiện mối tương giao tận mức như thế, Đức Giê-su phải trả bằng giá máu của Ngài. Đây là ý nghĩa căn bản của dụ ngôn.

3. “Chỉ một đoàn chiên và một mục tử” (10: 16):

Niềm hy vọng lớn lao chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: thời kỳ của Đấng Thiên Sai sẽ là thời kỳ hiệp nhất dân Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã ôm ấp giấc mơ nầy sau khi dân Do Thái bị phân chia thành hai vương quốc (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên). Những người lưu đày ở Ba-by-lon (thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên) đặt trọn niềm hy vọng của mình vào sự can thiệp của Đấng Thiên Sai, Ngài đến thực hiện công việc khó khăn này, đó là quy tụ mọi con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa: “Đức Chúa sẽ quy tụ đoàn chiên của Ngài còn sót lại từ khắp mọi miền” (23: 3). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng hứa: “Sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy” (37: 24). Sự hiệp nhất sẽ là dấu chỉ của kỷ nguyên Thiên Sai như bước khởi đầu của sự quy tụ cánh chung vĩ đại vào thời sau hết, khi muôn dân nước đều nghe tiếng gọi của Đức Chúa, vì Ít-ra-en là ánh sáng muôn dân.

Khi công bố Ngài kiến tạo sự hiệp nhất của đoàn chiên, Đức Giê-su khẳng định Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Nhưng Đức Giê-su không chỉ nghĩ đến những con chiên của nhà Ít-ra-en chưa nhận biết Ngài, Ngài còn nghĩ đến cuộc hoán cải của thế giới lương dân. Khía cạnh Giáo Hội được diễn tả qua hình ảnh về một ràn chiên không còn được rào chắn vây bọc chung quanh, nhưng mở rộng ra với toàn thể thế giới. Chính Giáo Hội có sứ mạng hiệp nhất đoàn chiên trong cùng một ràn chiên và dưới cùng một vị mục tử, Đấng đã sinh ra trong hang lừa máng cỏ và đã hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên.

4. Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Đức Giê-su (10: 17-18):

Cuối cùng, Đức Giê-su kết thúc đoạn văn này và cũng toàn bộ bài diễn từ này khi khẳng định rằng việc Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên là do ý muốn của Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại” (10: 17).

Đó là lý do tại sao Đức Giê-su nghiêm túc đối mặt với cuộc Khổ Nạn sắp tới của mình, nhưng hoàn toàn độc lập đối với những kẻ gây ra cái chết của Ngài, tức là các vị lãnh đạo Do thái hay viên Tổng Trấn Rô-ma: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. Đồng thời, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Sở dĩ Ngài phải chịu như thế chỉ vì: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (10: 18). Vì thế, không có chuyện Đức Giê-su hóa giải sự bất hòa giữa Thiên Chúa với nhân loại bằng giá máu của Ngài vì tội lỗi của con người.

Đức Giê-su công bố những lời này khi Ngài tham dự lễ Lều vào mùa thu tại Giê-ru-sa-lem. Những lời công bố này sẽ vang dội xuyên suốt thời gian sắp tới và sẽ được hiện thực khi Ngài tham dự lễ Vượt Qua vào mùa xuân sang năm tại Giê-ru-sa-lem. Đó là cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su từ Tử Nạn đến Phục Sinh và Vinh Thăng.`

-------------------------------

 

PS 4-B193: ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT

 

Theo niềm tin của người Kitô hữu, Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã từng loan báo PS 4-B193


Theo niềm tin của người Kitô hữu, Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã từng loan báo hàng mấy trăm năm trước khi Người sinh ra. Vì thế, các Kitô hữu tin rằng Người là Ngôi Hai Thiên Chúa như chính Người đã khẳng định, đồng thời là người duy nhất đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người thuộc mọi nơi mọi thời trong nhân loại. Niềm tin này đã được định tín trong một tín điều, và được nhắc đi nhắc lại trong các văn kiện của các Công đồng chung, của các vị Giáo hoàng, và gần đây nhất là tông huấn Ecclesia in Asia (Giáo hội tại Á Châu) của thánh Gio-an Phao-lô II (ngày 6-11-1999) và tuyên ngôn Dominus Jesus của Hồng y Joseph Ratzinger (ngày 6-8-2000). Hai văn kiện sau cùng này nhấn mạnh chủ trương phải công bố Đức Giê-su là vị Cứu Tinh duy nhất và phổ quát của nhân loại.

Mặc dù gặp nhiều phản ứng đến từ các tôn giáo và tín ngưỡng khác, khi tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu độ duy nhất và phổ quát, Giáo hội từ hai ngàn năm nay vẫn trung thành với khẳng định này, đồng thời tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật, đồng thời cũng là Con Người đích thực.

Tác giả thư Do Thái gọi thời đại của Chúa Giê-su là “thời cuối cùng”. Điều đó cho thấy, chúng ta không còn phải đợi một đấng cứu độ nào khác. Qua Đức Giê-su, chương trình Cứu độ của Thiên Chúa đã đạt tới hồi kết thúc. Người chỉ vào cung thánh một lần duy nhất để hiến tế chính mình, và thế là đủ để đem ơn Cứu độ cho mọi thế hệ.

Thánh Phê-rô trong Bài đọc I, đã mạnh mẽ khẳng định trước Thượng Hội đồng Do Thái: nhờ việc kêu cầu Danh Đức Giê-su mà người tàn tật được chữa khỏi. Thông thường, người Do Thái kêu cầu Danh Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Nay, những thành viên của dân tộc Israel mới chỉ cần kêu cầu Danh Đức Giê-su. Đó là một Danh xưng huyền nhiệm, có sức biến đổi và chữa lành con người.

Phụng vụ Chúa nhật 4 Phục sinh giới thiệu với chúng ta, Đấng Cứu độ mang hình ảnh một Mục Tử, và vị Mục Tử này đã chết vì đàn chiên. Cuộc khổ nạn của Đức Giê-su trên thập giá được khẳng định như hành vi anh hùng, chết vì nhân loại và để mang cho nhân loại ơn Cứu độ. Hình ảnh mục tử với đàn chiên rất bình dị và gần gũi trong xã hội Do Thái, xưa cũng như nay. Hình ảnh ấy còn được các ngôn sứ trong Cựu ước sử dụng để diễn tả tình yêu thương và sự chăm sóc của Đức Gia-vê đối với Dân riêng của Ngài. Khi tuyên bố mình là Mục Tử tốt lành cùng với các đức tính đi kèm, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là người Mục Tử mà các ngôn sứ đã diễn tả. Nói cách khác, qua hình ảnh người mục tử, Chúa Giêsu khẳng định Người là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ.

Người tín hữu tôn thờ Đức Giê-su, và khái niệm tôn thờ đôi khi làm họ xa cách Người. Đương nhiên, Người là Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ kính mến, nhưng Người cũng là Mục Tử, Đấng luôn gần gũi chăm sóc chúng ta, kể cả khi chúng ta là những tội nhân. Thánh Gioan khuyên chúng ta: hãy đến với Thiên Chúa trong tâm tình con cái, để nhận ra tình thương của Ngài dành cho chúng ta thật lớn lao. Hãy đặt để niềm hy vọng vào lòng nhân hậu của Chúa. Tương lai của con người là trở nên giống như Thiên Chúa, tức là được hưởng vinh quang và hạnh phúc viên mãn với Ngài (Bài đọc II).

Chúa nhật 4 Phục Sinh cũng là ngày cầu cho ơn gọi Linh mục Tu sĩ. Sứ mạng của các Linh mục và Tu sĩ là phản ánh tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người, nhất là những người bé mọn thiệt thòi và dễ bị tổn thương. Trong xã hội ảnh hưởng bởi lối sống ích kỷ và ham hưởng thụ hôm nay, nhiều người hiểu sai về ơn gọi và ngại dấn thân. Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ can đảm bước theo Chúa Giê-su, vị Mục Tử nhân lành. Ai theo Người sẽ không phải thất vọng. Trái lại, họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân.

Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, Ki-tô hữu trở thành con chiên trong đàn chiên của Chúa Giê-su. Đương nhiên đây chỉ là lối nói so sánh bằng hình ảnh để dễ hiểu từ thời xa xưa (có người ác ý đã suy diễn mục đích đời sống Ki-tô hữu là để trở thành con chiên, con cừu!). Chúa Giê-su cũng ao ước quy tụ tất cả những con chiên chưa thuộc đàn của Người, để họ được sống và sống dồi dào. Để thực hiện ước mơ của Chúa Giê-su, trước hết Ki-tô hữu phải sống đúng với bổn phận và tư cách làm “con chiên” của mình, rồi sau đó mới có khả năng cộng tác để quy tụ và phát triển đàn chiên có Chúa Giê-su làm Mục Tử.

+ ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên

-------------------------------

 

PS 4-B194: TAM BẤT & TAM TOÀN

 

Bạn có biết TAM BẤT của Hàng Giáo Phẩm và Giáo  Sĩ là gì không? Xin thưa đó là ba cái PS 4-B194


Bạn có biết TAM BẤT của Hàng Giáo Phẩm và Giáo  Sĩ là gì không? Xin thưa đó là ba cái BẤT sau đây:

• BẤT XỨNG: "Không phải các con đã chọn Thầy  nhưng chính Thầy đã chọn các con." Họ được gọi và  được chọn không phải vì họ tài giỏi, thánh thiện hay đạo đức hơn người, nhưng chỉ vì Chúa thương và chọn  họ mà thôi.

• BẤT TOÀN: Dù là Giáo hoàng, Giám mục hay Linh  mục, họ vẫn là những con người với tất cả những yếu  đuối, tham sân si, hỉ nộ ái ố ... Chúa gọi họ nhưng  không cất khỏi họ những lỗi lầm, thiếu sót, những tính  hư nết xấu. Bằng chứng là họ vẫn phải đi xưng tội như  tất cả mọi tín hữu khác, và có khi còn phải đi xưng tội  nhiều lần hơn và thường xuyên hơn các tín hữu khác  nữa. "Tất cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài  người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế họ phải  dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy" (Dt 5:1-2).

• BẤT LỰC: Khi gặp phải những con chiên cứng đầu cứng cổ, có uy thế, có quyền lực chính trị, có địa vị,  danh vọng và có ảnh hưởng trong xã hội. Khi những  con chiên đội lớp sói này ủng hộ, và công khai đi ngược  lại những giáo huấn và truyền thống của Giáo Hội,  chúng ủng hộ phá thai, hôn nhân đồng tính, trợ tử, tử hình, chuyển giới ... thì họ bị bó tay chẳng làm gì được  chúng. Thật đáng buồn phải không bạn?

Bạn thân mến, nếu bạn đồng ý với tôi rằng, Giáo hoàng,  Giám mục và Linh mục đều là những người BẤT XỨNG, BẤT TOÀN & BẤT LỰC, thì bạn hãy cố gắng ghi nhớ ba  điều sau đây:

• THỨ NHẤT, ĐỪNG THẦN THÁNH HÓA CÁC  MỤC TỬ. Cho dù bạn gặp một Giáo hoàng, Giám  mục hay linh mục nào thánh thiện, đạo đức mấy đi  chăng nữa thì xin bạn ghi nhớ, họ cũng chỉ là những  con người bình thường, đầy những yếu đuối, khuyết  điểm và tội lỗi y như bạn, y như mọi người, lắm khi  còn tệ hơn bạn và hơn nhiều người khác nữa. Bạn mà  thần thánh hóa họ thì có ngày bạn sẽ thất vọng và sẽ mất hết niềm tin vào Chúa cho mà xem.

• THỨ HAI, BÌNH TĨNH KHI THẤY GƯƠNG MÙ  GƯƠNG XẤU XẢY RA TRONG GIÁO HỘI. Những  phương tiện truyền thông, báo chí, truyền thanh, truyền  hình, internet, Facebook, Instagram ... và những thế lực  của Satan luôn ngày đêm rình mò, khai thác và thổi  phồng những yếu điểm và những sơ xuất của các mục  tử trong Giáo Hội. Ngôn sứ Da-ca-ri-a đã nói: "Chúng  đánh mục tử, thì đàn chiên sẽ tan tác" (13:7) vì thế,  chúng sẽ dùng tất cả mọi thủ đoạn bẩn thỉu và hạ cấp nhất để triệt hạ các vị mục tử để đoàn chiên bị chia rẽ và bị tan tác. Bạn chớ mắc  mưu của chúng!

• THỨ BA, ĐỪNG BỎ ĐẠO VÌ NHỮNG GƯƠNG  MÙ GƯƠNG XẤU CỦA CÁC VỊ MỤC TỬ. Xin đừng bỏ Chúa, đừng rời Giáo Hội chỉ vì Đức Giáo hoàng Phanxicô giữ thinh lặng trước việc ông Joe  Biden, một chính trị gia mang nhãn hiệu Công Giáo,  đã ký những sắc lệnh cho phá thai, hôn nhân đồng  tính, cho thanh thiếu niên chuyển giới... đi ngược lại  với Giáo Huấn của Chúa một cách công khai. Cũng  đừng bỏ lễ, bỏ nhà thờ, và ngưng chịu các phép Bí tích chỉ vì thấy các Giám mục không thống nhất với nhau về chuyện cấm những chính trị gia công khai ủng hộ phá thai lên Rước Lễ, hay các Giám mục đã  thiếu cứng rắn đối với những linh mục cấp tiến như  James Martin, thuộc Dòng Tên, hay Bryan  Massingale, hiện đang là giáo sư thần học của Đại  học Fordham...

Bạn thân mến, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là ngày mà  Giáo Hội muốn nhắc nhở cho bạn và tôi biết, chỉ có Đức  Giêsu Kitô là vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất dám hy sinh  mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10:11). Còn tất cả các mục tử khác từ Giáo hoàng, Giám mục cho đến linh  mục, tất cả họ chỉ là những mục tử yếu đuối, bất toàn, và  tội lỗi, và lắm khi họ chỉ là kẻ làm thuê, và không thiết gì  đến chiên (Ga 10:13).

Tôi tin chắc rằng, khi bạn và tôi hiểu rõ rằng Giáo hoàng,  Giám mục và linh mục đều là những mục tử có TAM BẤT,  và chỉ duy nhất một mình Đức Giê-su Kitô là vị Mục Tử TOÀN THIỆN, TOÀN MỸ & TOÀN NĂNG, thì lúc đó,  đức tin của chúng mình mới vững chắc, và chúng mình  mới có thể trung thành với Chúa và với Giáo Hội.

Còn nữa, khi nhận thức được TAM BẤT của các mục tử ở trần gian và TAM TOÀN của vị Mục Tử Nhân Lành là Chúa Giê-su, thì bạn và tôi sẽ không sửng sốt và ngạc  nhiên khi thấy có những mục tử hèn nhát, chỉ biết lo xén  lông chiên, bỏ bê những con chiên bệnh tật, và khi gặp sói  dữ thì liền bỏ của chạy lấy người.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho hàng Giáo Phẩm và hàng  Giáo Sĩ, xin Chúa ban cho họ ơn can đảm, ơn khôn ngoan  khi rao giảng. Và xin cho họ trái tim nhân hậu và lòng từ bi của Chúa Giê-su, để họ tận tình chăm lo cho đoàn chiên  của Chúa giao phó, cũng như dám hy sinh đứng ra bảo vệ đoàn chiên của mình khỏi sói dữ và những cạm bẫy của Satan. Xin chân thành cảm ơn bạn, và xin Chúa gìn giữ,  chúc lành, ban cho bạn sức khỏe, sự bình an và nhiều niềm  vui trong tuần lễ mới này.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

-------------------------------

 

PS 4-B195: MỤC TỬ NHÂN LÀNH ĐẾN ĐỂ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG

 

Chúa Giêsu được miêu tả là mục tử của đoàn chiên Ngài tuyển chọn, như tiên tri của Isaia nói PS 4-B195


Chúa Giêsu được miêu tả là mục tử của đoàn chiên Ngài tuyển chọn, như tiên tri của Isaia nói: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:11). Tiên tri Êdêkiel cũng nói: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy…Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng…Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ…Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Êdêkiel 34:11-16). Nổi tiếng nhất là Thánh Vịnh 23: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ. Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành” (Tv 23:1-2). Tất cả đều nói về Vị Mục Tử Nhân Lành.

Chúa Giêsu là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành

Chiên cừu được nhắc đến hơn 200 lần trong Kinh thánh, nhiều hơn bất cứ loài động vật nào khác. Chiên cừu là nguồn cung cấp len, sữa và thịt, và suốt trong Kinh thánh, chiên cừu được coi là biểu tượng cho dân Chúa.

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay lấy từ sách Gioan chương 10, cho chúng ta một hình ảnh tóm tắt tất cả những gì chúng ta đã cử hành trong cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu thực hiện sứ mệnh của Ngài trên trần thế và trong cuộc đời của chúng ta như Vị Mục Tử Nhân Lành hết lòng chăm lo cho đoàn chiên của mình. Chúa Giêsu không đến như một nhà lãnh đạo cường quốc chính trị, một nhà lãnh đạo độc tài hay một quan tòa khắc nghiệt. Ngài đến như một Người Chăn Chiên tốt lành. Ngài đến để chăm sóc và dẫn dắt con người vào sự sống vĩnh cửu, một cách dịu dàng như người mục tử dẫn đưa đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi.

Khi Chúa Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông” (Ga 10:1,7), Ngài  nói điều này hai lần (câu 1 và câu 7). điều đó có nghĩa đây là một việc quan trọng. Ngài cũng nói rằng Ngài là cánh cửa: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10:7, 9). Ngài cũng nói điều này hai lần (câu 7 và câu 9). Như thế Ngài muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của điều Ngài sắp nói: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10:1). Những ai không nghe Lời Chúa Giêsu, không có tấm lòng, và cung cách sống như Ngài thì không khác gì trộm cướp, thay vì dẫn chiên qua cửa mà vào, thì lại kiếm cách trèo qua tường chuồng chiên để “ăn trộm, giết hại và phá huỷ” (Ga 10:10).

Thông điệp này cho thấy Chúa Giêsu là mục tử đích thực. Ngài là Mục Tử Nhân Lành sẵn sàng chết cho những ai đi theo Ngài: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Bất cứ người nào “thấy sói đến, bỏ chiên mà chạy” mặc kệ để cho “Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (Ga 10:12) không biết “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11) thì đều là “kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:13). Về phần chiên cừu, chúng có thể thông minh hơn những gì người ta thường nghĩ. Chúng biết đáp lại tiếng gọi của người cho chúng ăn, có thể nhận ra khuôn mặt quen thuộc của những người thường xuyên gần gũi với chúng. Chúng nhớ những ai nhẹ nhàng với chúng - và nhớ cả những ai khắc nghiệt với chúng. Dựa trên kinh nghiệm hàng ngày như thế nên Chúa Giêsu nói: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10:14). Thậm chí Chúa Giêsu còn so sánh sự thông hiểu giữa Ngài và đoàn chiên của Ngài “như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha… Chúng sẽ nghe tiếng tôi” (Ga 10:16). Ngài là Mục Tử Nhân Lành hằng quan tâm, trông chừng và bảo vệ sự sống của đoàn chiên được Chúa Cha giao phó: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10) và “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Đây là một thông điệp tuyệt vời cho những ai tìm đến Chúa Giêsu, và tất cả mọi người được Chúa Giêsu đi tìm: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về… Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Việc Chúa Giêsu “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên… để rồi lấy lại” (Ga 10:15, 17) không chỉ là ý muốn riêng tư của Chúa Giêsu, như ý thích thay đổi thất thường của phàm nhân chúng ta, nhưng “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:18).

Ở trong đoàn chiên của Chúa là ở trong mối tương quan giúp chúng ta biến đổi cuộc sống mình trở nên con cái của Thiên Chúa, như bài đọc thứ nhất khẳng định: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3:1). Nhận biết Thiên Chúa là thấy cuộc sống của chúng ta được biến đổi trở nên giống Chúa Kitô: “Chúng ta biết rằng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1Ga 3:2), bất kể “thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga:3:1). Đó là nhận biết tiếng nói của Chúa Giêsu và có thể phân biệt nó với tiếng nói của những người lạ, vì Chúa Giêsu: “đi trước và chiên đi theo sau, chúng nhận biết tiếng [của Ngài]. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10:4-5).

Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành của mỗi người chúng ta.

Ngài không chỉ là Mục Tử Nhân Lành cách chung chung, Ngài là Mục Tử Nhân Lành của mỗi người chúng ta. Nếu Chúa Giêsu là Mục Tử của tôi thì tôi là chiên trong đàn chiên của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết tôi. Ngài gọi tên tôi. Tôi biết giọng nói của Ngài. Chúa Giêsu tìm kiếm tôi khi tôi lạc lối. Chúa Giêsu dịu dàng đặt tôi lên vai Ngài. Chúa Giêsu mời gọi tôi trở về với đàn chiên khi tôi lạc lối. Chúa Giêsu nhẹ nhàng hướng dẫn tôi đến nơi nào tốt nhất cho tôi. Tôi hình dung ra cung cách Chúa Giêsu nhìn tôi. Tôi hình dung Ngài đang tìm kiếm tôi khi tôi lạc lối. Tôi hình dung ra niềm vui của Ngài khi Ngài tìm thấy tôi, vác tôi lên vai Ngài. Chúa Giêsu không phải là Mục Tử tìm cách khống chế tôi, kiểm soát hay bắt tôi làm nô lệ. Ngài không tìm cách giữ chặt toi trong vòng tay của Ngài. Ngài dịu dàng bồng ẵm tôi và dẫn dắt tôi một cách yêu thương, để tôi có được sự sống. Ngài nói với tôi: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Giá trị đích thực của một người không phải là có một ngôi nhà tiện nghi xa hoa hay có nhiều hình thức giải trí đa dạng. Có sự sống tâm linh dồi dào hơn mới là sự sống thực sự. Đó là sống sâu sắc, trọn vẹn cả thần trí, tâm hồn và thân xác như Thánh Phaolô nguyện chúc: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữvẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1Tx 5:23). Đó là nhận biết tình yêu của Chúa dành cho tôi và tôi biết dành tình yêu của mình cho người khác. Đây là cuộc sống vĩnh cửu. Đây là thiên đàng hoàn toàn đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và chia sẻ tình yêu này với toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự sống này, vốn đã bắt đầu ở đây và bây giờ, với tư cách là thành viên trong đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành Giêsu.

3. Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành của cả đoàn chiên

Chúa Giêsu không chỉ quy tụ mỗi người chúng ta với tư cách cá nhân, Ngài còn quy tụ chúng ta lại như một đàn chiên. Chúa Giêsu không cứu chúng ta cách riêng lẻ, từng người một. Ngài cứu tất cả chúng ta cùng với nhau. Ngài đến để ban cho chúng ta sự sống chung. Ngài ở giữa chúng ta, liên kết chúng ta thành một, đem chúng ta lại với nhau và dẫn dắt tất cả chúng ta cùng tiến về phía trước với nhau. Cuộc sống viên mãn không có nghĩa là mỗi người chúng ta tận hưởng sự tiện nghi thoải mái trong sự cô độc của riêng mình. Cuộc sống viên mãn không chỉ là không bị hàng xóm làm phiền. Cuộc sống viên mãn có nghĩa là đến với nhau như anh chị em, chia sẻ với người khác sự sống mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, qua Chúa Kitô. Điều đó có nghĩa là vui mừng vì nhau, coi nhau như một món quà. Đó là dành thời gian để gặp gỡ nhau, dù chỉ trong những việc nhỏ bé. Dành một chút thời gian để thăm hỏi, trò chuyện với nhau, thay vì khư khư không muốn ai làm phiền mình. Mỉm cười với ai đó đang dửng dưng lạnh lùng. Sẵn lòng giúp đỡ những người gặp khó khăn. Tất cả những điều này giúp chúng ta trở nên đoàn chiên của Chúa, thấy mình không đơn độc. Chúng ta cũng có thể giúp người khác cảm thấy bớt đơn độc nhờ những cử chỉ đơn sơ chân thành của chúng ta.

Chúa Giêsu tiếp tục công việc là Mục Tử Nhân Lành qua Giáo Hội của Ngài, và Ngài biết rõ không phải  mục tử nào cũng chăn dắt chúng ta một cách hoàn hảo. Chỉ có Chúa Giêsu mới là Vị Mục Tử Nhân Lành hoàn hảo. Nhưng Ngài sử dụng Giáo hội của Ngài để dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống trên trần thế này. Chúng ta không phải là con chiên đơn độc trong trần thế. Chúng ta không sống đức tin của mình một cách cô lập. Chúng ta thuộc về nhau và cùng nhau thuộc về Chúa Kitô. Đôi khi chúng ta bị phân tán, chia rẽ, nhưng Chúa Giêsu tìm cách gắn kết chúng ta lại với nhau, hiệp nhất chúng ta thành một, dù chúng ta là Công giáo, Tin Lành, hay các Kitô hữu khác. Ngài muốn quy tụ toàn thể nhân loại lại với nhau và Ngài mong muốn chúng ta làm khí cụ bình an và hiệp nhất này.

Xin Chúa Giêsu đưa chúng ta đến gần Ngài, và học nơi Ngài cách đến với nhau nhiều hơn vì cùng thuộc về đoàn chiên của Ngài.

Phêrô Phạm Văn Trung

-------------------------------

 

PS 4-B196: NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT


Anh chị em thân mến,

 

Chúa nhật thứ tư trong mùa Phục sinh còn được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Đây là một PS 4-B196


Chúa nhật thứ tư trong mùa Phục sinh còn được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Đây là một hình ảnh vô cùng sống động mà Hội Thánh dùng để mời gọi con cái mình nhận ra lòng yêu thương, sự bao bọc và bảo vệ của Thiên Chúa như người mục tử nhân hậu sẵn sàng làm mọi sự, ngay cả hy sinh mạng sống, để bảo vệ đoàn chiên.

Cũng trong ngày hôm nay, Hội Thánh cổ võ và cầu nguyện cho ơn gọi chung cho tất cả môn đệ, không phân biệt phẩm trật, không loại trừ một ai. Tất cả đều được mời gọi noi gương Đức Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân hậu, Mục Tử duy nhất của thế giới mọi thời.

Trước tiên, chúng ta hãy coi lại cách nhìn và sự hiểu biết của chúng ta về vai trò của người mục tử. Chúng ta thường hay gọi Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, và đôi khi các Linh Mục là các nhà mục tử. Đây là kiểu nói quá hạn hẹp vì cho rằng chỉ có các Đấng bản quyền mới có trách nhiệm chăn dắt con chiên, bổn đạo.

Ngày xưa, người ta nói rằng việc mở mang Nước Chúa được thực hiện bởi hàng Giáo Phẩm. Ngày nay, nhờ sự tác động của Thánh Linh, nhất là từ công đồng Vatican II, chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn hơn. Trách nhiệm mở mang Nước Chúa được trao ban cho tất cả mọi tín hữu, ai ai cũng có bổn phận loan báo Tin mừng.

Chính vì thế, một mặt vai trò ‘mục tử’ được dùng để nói đến trách nhiệm của chúng ta là những kẻ được đặt để chăm sóc, quan tâm và nhất là để trao ban tình yêu cho người khác tùy theo ơn gọi mà Chúa đã mời.

Mặt khác, chúng ta phải thừa nhận rằng chính Chúa Giêsu mới là Đấng chăn chiên nhân hậu, còn chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn là người thừa hành tác vụ từ Chúa. Căn bản, mỗi người chúng ta luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.

Hẳn anh chị em còn nhớ, các ngôn sứ của thời Cựu ước đã dùng hình ảnh ‘người chăn chiên’ để ám chỉ đến các vị lãnh đạo về phần đời cũng như trong đạo của người Do Thái. Khái niệm này đã đuợc hình thành trong hoàn cảnh của dân Do Thái khi bị lưu đầy bên Babylon.

Trong bối cảnh như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả như: mất đi nền văn hóa truyền thống, xa quê hương và không còn đền thờ để thờ phượng,... thì ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt ràn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34:11–16).

Từ đó mỗi khi nói đến người chăn chiên thì dân Do Thái hình dung ra hình ảnh của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến họ.

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Trở lại với trình thuật của Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy cố gắng tìm ra điểm then chốt trong mối quan hệ giữa người chăn chiên và ràn chiên, nhờ đó chúng ta sẽ tìm ra những bài học bài học hữu ích trong cuộc sống.

Trước hết, chúng ta cần đồng ý với nhau rằng qua cuộc sống và sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng thực điều Người đã phán dậy hôm nay, chính Đức Giê-su là người chăn chiên tốt lành và thiện hảo. Người biết rõ nhu cầu, sở thích, ưu điểm, khuyết điểm và các thương tích của từng con chiên. Người đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ và ban sự sống cho các con chiên trong ràn.

Đối với Đức Giê-su thì tất cả mọi người không cần phân biệt chủng tộc hay mầu da, tự do hay nô lệ, tín ngưỡng hay lối sống, nam hay nữ, giầu sang hay nghèo hèn… Tất cả đều thuộc về ràn chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người để chăm nom. Trong Chúa không có sự tách biệt. Tất cả đều bình đẳng, không ai hơn ai kém. Mọi người đều có giá trị thật quan trọng trong con tim của Người chăn chiên tốt lành là Đức Giê-su Kitô.

Người phán: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” là một xác định thật quan trọng nói lên mối tương quan giữa Đức Giê-su và các con chiên. Người không lý giải hay biện minh. Người đã phán như một Đấng có uy quyền. Tôi là! Tôi là Người Chăn Chiên Tốt ! Trong mối dây tương quan giữa Chúa Cha và mình, Đức Giê-su đã xác định một cách thật mạnh mẽ: Tôi là Người Chăn Chiên Tốt, Tôi biết chiên tôi, chúng biết và nghe tiếng Người. Đây không là vấn đề để tranh luận hay bàn cãi. Ai tiếp nhận thì điều mà Chúa phán hôm nay nghiễm nhiên trở thành sự thật và của mình.

Nghe tiếng Chúa, hôm nay, có nghĩa là nhận ra tiếng Chúa trong mối dây thân mật dưạ trên tương quan của Tình Yêu, của gắn bó và hiệp thông. Thậm chí đến mức độ, trong mối tương quan này họ không cần nói, cũng chẳng cần nghe… mọi âm thanh dường như cần dừng lại để cho cảm xúc của Tình Yêu và Lòng Mến dâng trào và ngâp tràn trong giây phút hai người biết nhau, như “Tôi biết chúng và chúng biết tôi.”

Như vậy, chúng ta biết rằng chỉ mình Đức Giê-su là Đấng chăn chiên tốt lành. Người biết rõ nhu cầu, sở thích của từng con chiên trong ràn và cả những con chiên ngoài ràn nữa. Cả thế giới và mọi người sống trong đó là ràn chiên thuộc về tay Người. Người đã chết để bảo vệ và ban cho mọi con chiên sự sống và không ai có thể lấy mất được.

Còn chúng ta, mỗi người đều là những mục tử, chăn dắt ràn chiên, nhỏ hay lớn, mà Thiên Chúa trao phó. Chúng ta không thể nào chu toàn nhiệm vụ cao cả này nếu không sống rập theo gương mẫu của Người Chăn Chiên duy nhất là Đức Ki-tô, Đấng đã chấp nhận mọi đau khổ, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để diễn tả tình thương cho mọi con chiên của Người.

Tuy nhiệm vụ rất khó khăn và còn nhiều gian nan nhưng chúng ta sẽ làm được vì có Chúa Chiên lành, Đấng đang bồng bế và ôm ấp chúng ta trong vòng tay yêu thương của Người. Tin Tưởng vào Tình Yêu Nhân Ái của Người, chúng ta cùng tiến bước và làm như Người đã làm, hy sinh cho nhau sống và sống đầy tràn. Amen!

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

 

PS 4-B197: TỰ HIẾN

 

Hiến Mạng Sống Đây Mục Tử Thật. Chăm Lo Mình Đấy Người Chăn Thuê. Trình thuật Ga 10:11 PS 4-B197


Hiến Mạng Sống Đây Mục Tử Thật
Chăm Lo Mình Đấy Người Chăn Thuê.

Trình thuật Ga 10:11-18 là những câu Chúa Giêsu nói, không có lời dẫn, ngắn gọn nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Chúa Giêsu xác nhận và phân tích rạch ròi: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh BỎ CHIÊN MÀ CHẠY. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là KẺ LÀM THUÊ, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và TÔI HY SINH MẠNG SỐNG MÌNH CHO ĐOÀN CHIÊN.” (Ga 10:11-15)

Hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành, và hai lần đề cập việc “hy sinh mạng sống,” điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc dấn thân và quên mình như Chúa Giêsu TỰ HIẾN làm giá cứu chuộc nhiều người. Việt Nam chúng ta có một tấm gương về mục tử đích thực là Lm P.X. Trương Bửu Diệp (1897-1946). Gương sáng thật tuyệt vời!

Về vấn đề chức quyền và trách nhiệm, Chúa Giêsu mở rộng: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” (Ga 10:16-18) Ngài nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn các quyền chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không nói đến LỢI, hoàn toàn khác hẳn với chúng ta, phải có “lợi” mới được. Nghiêm túc xét mình thì thấy thật đáng xấu hổ, vì chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì!

Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào, (Ga 10:7) ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì. (Ga 10:7) Và Ngài xác nhận: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền” hy sinh và “quyền” yêu thương – yêu thương đến cùng. (Ga 13:1)

Có nhiều loại quyền trong xã hội loài người, cơ bản nhất là Nhân Quyền – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có Nhân Phẩm và Nhân Vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp. [*]

Con người luôn phức tạp, người có CHỨC thì có QUYỀN, vì ỷ QUYỀN mà HÀNH người khác, có QUYỀN thì muốn có LỢI. Quyền hành hoặc quyền lực như con dao sắc bén, như chiếc kéo nhọn, rất nguy hiểm. Chính mình bị có nguy cơ đã đành, mà vấn đề là gây hại và làm khổ người khác. Thường thì người ta THÍCH có quyền hành nhưng KHÔNG MUỐN chịu trách nhiệm. Bác học Albert Einstein (1879-1955, người Đức) nói: “Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ kém đạo đức.” Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà đau điếng. Rất chí lý!

Mọi quyền hành đều thuộc về Chúa Giêsu – cả trên trời và dưới đất, nhưng Ngài không muốn dùng quyền mà chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mục tử tốt lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi.” (Ga 10:14) Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên,” là “kẻ chăn thuê” mà thôi. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà áp chế người khác, Chúa Giêsu nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà.” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51) Nói thẳng ra là họ thuộc phe ma quỷ!

Chúa Giêsu phục sinh đã biến đổi Phêrô hèn nhát thành can đảm, ông được đầy Thánh Thần và mạnh dạn nói: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị.” (Cv 4:8-10) Bênh vực sự thật và công lý là điều vô cùng cần thiết. ĐGH Phanxicô cũng đã mạnh mẽ lên tiếng nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng, nói thật” chứ không bao che, cứ nể nang rồi hóa sợ sệt một cách luồn cúi, đó là hèn nhát.

Trong Tông huấn “Evangelii Gaudium” (Niềm Vui của Tin Mừng, số 49), ĐGH Phanxicô nói: “Tôi muốn có một Hội Thánh BỊ BẦM DẬP, BỊ TỔN THƯƠNG và DƠ BẨN vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Hội Thánh BỆNH HOẠN vì đóng cửa và thanh nhàn BÁM VÍU vào sự an toàn riêng của mình.” ĐHY Robert Sarah, cựu bộ trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, nói: “Giáo Hội đang hấp hối vì các mục tử SỢ nói mọi sự thật và minh bạch. Chúng ta SỢ truyền thông, SỢ dư luận, SỢ các anh em mình. Mục Tử Tốt Lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên.” Lúc sinh thời, TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (Saigon) nói: “Tôi sợ loại linh mục không biết sợ. Họ không sợ giáo dân, không sợ giám mục của mình, không sợ chính quyền, không sợ cả Chúa.”

Trong bài “Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay,” ĐGM G.B. Bùi Tuần chia sẻ thẳng thắn: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. CÓ MỘT SỐ ÍT NGƯỜI ĐƯỢC LÃNH NHẬN CHỨC THÁNH, DO TRANH ĐẤU, DO VẬN ĐỘNG, DO MƯU LƯỢC. Có nghĩa là đã CÓ SỰ LỪA DỐI TRONG VIỆC TRỞ THÀNH MỤC TỬ. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê. (x. Ga 10:12) Nghĩa là họ cũng CÓ SỰ LỪA DỐI TRONG TRÁCH NHIỆM, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa.” Thật đáng xấu hổ vì tình trạng này đã và đang xảy ra tại Việt Nam!

Giáo hoàng tiên khởi Phêrô cho biết: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:11-12)

Sinh để Tử, và Tử để Phục Sinh. Chúa Giêsu đã trải qua “chu kỳ huyền diệu” đó. Chúng ta chỉ là tội nhân nhưng lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống, không chỉ sống ở đời tạm này mà còn được sống đời đời. Đặc quyền quá lớn, phàm nhân chúng ta có mơ cũng không thấy, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên, không chút mơ hồ, không là chiếc bánh vẽ. Vì thế, Thánh Vịnh gia tha thiết nhắn nhủ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:1 & 29) Biết tạ ơn Chúa là khôn ngoan, đó là điều minh nhiên: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:8-9)

Kinh nghiệm cho thấy rằng khi ngủ cũng giống như “chết lâm sàng” vậy, một kiểu “chết giả” để trải nghiệm chết thật. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa mỗi buổi sáng: “Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con, xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ; lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh.” (Tv 118:28)

Thánh Gioan là con người của tình yêu, thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.” (1 Ga 3:1) Không nhiều thì ít, chúng ta cũng có máu đa nghi. Con người yếu đuối thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như, có lẽ…” chứ chưa tin thật hoàn toàn.

Thánh Gioan nói thêm: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1 Ga 3:2) Lạ lùng lắm, chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà không thể nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn là Ngài, như khi chưa chịu chết. Quen mà lạ, lạ mà quen. Thật kỳ diệu!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con khả dĩ tự nhận diện và nhận ra các nhược điểm của mình để được biến đổi nhờ hồng ân Ngài ban, khiêm nhường phục vụ chứ không hưởng thụ. (Mt 20:28; Mc 10:45) Dám nhìn thẳng sự thật chứ không tránh né, giấu giếm hoặc bao che. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

------------------------
[*] Tam quyền phân lập:

1. Quyền Lập Pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

2. Quyền Tư Pháp là quyền bảo vệ luật pháp, do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi phạm pháp. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế giải quyết các tranh chấp.

3. Quyền Hành Pháp do các cơ quan hành chính Nhà Nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình, bao gồm hai quyền: quyền lập quy và quyền hành chính.

-------------------------------

 

PS 4-B198: LINH MỤC CŨNG LÀ "CON CHIÊN"

 

Ngày lễ Chúa Chiên Lành - thay vì viết bài ca tụng thánh chức linh mục, hay kêu gọi giáo dân PS 4-B198


Ngày lễ Chúa Chiên Lành - thay vì viết bài ca tụng thánh chức linh mục, hay kêu gọi giáo dân ý thức vai trò trung gian của ơn Chúa qua việc các linh mục cử hành bí tích, hay kêu gọi giáo dân cầu nguyện cho mình và cho hàng linh mục - trong khi ý thức bản thân được Hội Thánh trao cho vai trò mục tử của đoàn chiên, tôi muốn quay nhìn chính mình để nhận diện về mình.

Người linh mục, trước khi là mục tử, đã thuộc đàn chiên. Dù hôm nay có là người chăn dắt đàn chiên mà Chúa Kitô tín nhiệm trao phó, người linh mục vẫn là chiên thuộc quyền Chúa Kitô như mọi anh chị em. Vì thế, để thi hành chức vụ mục tử hoàn hảo, người linh mục đừng quên tự thánh hóa mình hàng ngày qua mọi hoạt động trong trách nhiệm, nhất là đừng coi thường đời sống cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa, soạn bài giảng chu đáo…

Ý thức mình là chiên của Mục Tử Giêsu, ngoài lòng yêu thương, tận tụy với anh chị em, người linh mục biết nỗ lực từng ngày để sống một đời sống gương mẫu: biết tự chủ, sống lành mạnh, không kiểu cách, không xa hoa, nhưng luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ của Mục Tử Giêsu.

Dù là người lãnh đạo tinh thần cho anh chị em, tôi vẫn thấy mình, có những lúc học được rất nhiều những cái hay, cái đẹp từ nơi anh chị em, làm lẽ sống cho mình. Nói cách khác, dù là mục tử cho anh chị em, vẫn không thiếu những lúc cần anh chị em làm mục tử cho mình.

Chẳng hạn, trước đây, khi được tham gia hướng dẫn cho các bạn trẻ muốn gia nhập Đại Chủng viện, tôi thấy mình học được nhiều điều hay từ các bạn trẻ ấy. Ví dụ: Thái độ kiên nhẫn khi nhìn thấy các bạn chờ đợi hết năm này sang năm khác để được gọi đúng tên mình. Thái độ phó thác khi không biết trước tương lai của mình có suông sẻ không. Thái độ hy sinh và dấn thân khi mang lý tưởng tu trì trong lòng mình mà phải sống giữa đời, giữa bao nhiêu cám dỗ về tình cảm, về sự thành đạt, về việc làm… Trong số các bạn trẻ ấy, có những người rất nghèo, lại dám hy sinh, dám từ chối những việc làm hái ra tiền để nhằm một mục đích duy nhất là nuôi lý tưởng ơn gọi trong tâm hồn mình…

Tôi còn thấy biết bao nhiêu anh chị em khác là mục tử cho tôi. Chẳng hạn những tâm sự sầu buồn, cùng những ưu tư về đức tin, về cuộc đời, về lẽ sống, cả những bế tắc, những nghi nan vì chưa cảm nhận được tình yêu của Chúa..., đủ cho tôi bài học về đức tin, về lòng yêu mến Chúa, yêu thương con người.

Nhất là cảm nhận rõ ràng hơn, chức linh mục của mình thật quý giá, thật đáng yêu. Nó không phải là địa vị để người linh mục ngồi trên đó như ngồi ngai vàng. Càng không bao giờ chức linh mục là một thứ danh vọng, quyền hành, là hướng nhắm cho sự thành công, bảo đảm cho tương lai của mình, để khi đạt được rồi, chỉ còn ngồi đó hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi vật chất cho mình.

Người linh mục càng không phải là quan chức, chí ít là công chức, hay như thằng mõ ăn công, sáng làm việc có giờ, chiều hết giờ nghỉ việc…

Anh chị em còn là mục tử cho tôi khi tôi nhìn thấy lòng mến, đức tin của họ sao mà lớn quá. Để từ đó, tôi biết thể hiện đức tin trưởng thành hơn, biết sống mực thước hơn...

Nhiều người nghèo lắm, nhưng họ cương quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi. Hoặc có những anh chị em rơi vào những hoàn cảnh bi đát, bất hạnh tột cùng, vậy mà họ vẫn cầu nguyện, vẫn tin Chúa.

Nhiều anh chị em khác đã từng sa vào vũng bùn tội lỗi, thậm chí tội ác, nhưng đã vươn lên hết sức can đảm để hoàn lương. Nhiều anh chị em kiên quyết nghỉ ngày Chúa nhật, dẫu ngày ấy kiếm nhiều tiền hơn ngày thường. Và vô số những anh chị em khác tham dự thánh lễ mỗi ngày, xưng tội đều đặn, rước lễ thường xuyên… Tất cả những tấm gương ấy đều là bài học cần thiết cho đức tin của tôi. Như vậy những anh chị em ấy chính là mục tử của lòng tôi.

“Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.

Tôi là mục tử, nhưng cũng thuộc về đàn chiên.

Là mục tử, tôi cần ra sức gìn giữ ơn thánh nơi tâm hồn anh chị em, để họ không hư mất, không bị cướp mất bởi thế gian, cám dỗ, và tội lỗi... Là mục tử, tôi không được phép quên “hy sinh mạng sống” để đàn chiên bền bỉ đi theo đường lối của Mục Tử Giêsu, nghe Ngài, quyết sống chết vì Ngài, cho Ngài.

Là chiên, tôi phải tự gìn giữ bản thân khỏi mọi sự dữ để thuộc về Thiên Chúa mãi mãi. Tôi phải trước tiên là người tuần canh cho chính mình, để không ai có thể cướp được tôi khỏi tay Cha tôi, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ.

Để đạt được tất cả những điều đó, tôi phải biết mình là mục tử, đồng thời là chiên. Là mục tử  đại diện cho Mục Tử Giêsu hướng dẫn anh chị em. Là chiên, tôi thuộc về Chúa Kitô và cũng thuộc về anh chị em của tôi nữa.

Cuối cùng, tôi dám xin mọi người hãy thương cầu nguyện cho tôi và cho hàng linh mục luôn là mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.

Tất cả chúng ta hãy chung lời cầu nguyện cho Hội Thánh càng ngày càng có nhiều mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, đêm ngày biết khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần ngập tràn trong đời họ để họ luôn nhiệt tâm và giữ lòng tinh sạch mà phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh Chúa, và sẵn sàng mưu cầu ích lợi thiêng liêng cho linh hồn anh chị em.

Ước mong mọi mục tử đều luôn đứng trong hàng ngũ những người lãnh đạo tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương, sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Các mục tử luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng lương thực có chất lượng cao, đặc biệt là cử hành Thánh Thể nói riêng và các bí tích nói chung sốt sắng, nhiệt thành.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

-------------------------------

 

PS 4-B199: MỤC TỬ TỐT LÀNH HAY NGƯỜI CHĂN THUÊ


Mục tử tốt lành

 

Chúa Giê-su đã tự nhận mình là mục tử tốt lành với đoàn chiên (x. Ga 10,11) để nói về tương quan PS 4-B199


Chúa Giê-su đã tự nhận mình là mục tử tốt lành với đoàn chiên (x. Ga 10,11) để nói về tương quan của Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng Kitô hữu chúng ta. Chúa Giê-su khẳng định Người là mục tử tốt lành biết từng người, luôn chăm sóc và tâm sự với từng con chiên là mỗi người, để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, thế gian và của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ.

Kẻ làm thuê

Nếu vị “Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11), thì đương nhiên khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng. “Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và con chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên” (Ga 10,11).

Một cách phân biệt mục tử với kẻ chăn thuê có lẽ rất thời sự chúng ta tìm thấy trong lời chú giải của Thánh Grêgôriô Cả Giáo Hoàng: “Khi thinh lặng, người lãnh đạo phải khôn ngoan; khi nói năng phải liệu sao cho hữu ích, để khỏi nói ra điều cần giữ kín, hay không làm thinh khi cần lên tiếng. Một lời nói thiếu thận trọng lôi kéo người ta vào con đường lầm lạc; cũng vậy sự thinh lặng thiếu khôn ngoan khiến người ta tiếp tục sống trong lầm lạc đang khi lẽ ra họ có thể được soi sáng. Thật thế, nhiều khi các vị lãnh đạo không biết lo xa, sợ không được lòng người đời nên ngại không dám thẳng thắn nói ra sự thật. Họ không nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên theo lời Đấng là sự thật, cho đúng với nhiệm vụ mục tử, mà chỉ chăn dắt như người làm thuê, vì khi ẩn mình làm thinh thì chẳng khác gì họ xa chạy cao bay khi chó sói đến… Quả vậy, đối với người mục tử, làm thinh không dám nói sự thật vì sợ hãi lại chẳng phải là quay lưng chạy trốn hay sao?” (x.Trích sách Quy luật Mục vụ của thánh Grêgôriô Cả GH – Bài đọc 2, Kinh Sách, Chúa nhật XXVII TN).

Lời nói tiếp theo của Chúa Giê-su khiến chúng ta suy nghĩ: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên” (Ga 10,14).

Mục tử nhân lành học nhiều hơn chơi, kẻ chăn thuê chơi nhiều hơn tự học. Để có thể “biết chiên” và “chiên biết” (Ga 10,14), người mục tử nhân lành phải không ngừng học khám phá đàn chiên của mình.

Trong khi kẻ chăn thuê có thể sẽ đổ lỗi, quy trách nhiệm, than phiền… và bỏ cuộc, còn mục tử nhân lành nhận trách nhiệm khi thất bại. Mục tử nhân lành là người có kiến thức phổ quát, biết cần phải giải quyết điều gì trước, điều gì sau. Trái lại, kẻ chăn thuê thường trầm trọng hóa vấn đề, thiếu bao quát. Vì làm thuê kiếm tiền, nên kẻ chăn thuê sẽ bỏ đàn chiên khi nơi đó không thể kiếm được nữa, hoặc họ sẽ “mọc rễ” thật chắc tại những nơi ‘béo bở”. Mục tử nhân lành thì khác, vì lo lắng cho sự “phồn vinh và giàu có” của đàn chiên, của cộng đoàn, họ khám phá và xây nền trên chính sự thực của cộng đoàn họ.

Không ai trong chúng ta muốn làm kẻ chăn thuê hay kẻ trộm cướp, thực thi sứ vụ như một dịch vụ nhằm chỉ tìm lợi ích cho bản thân, còn ai sống ai chết mặc ai. Những lời sau đây của ngôn sứ Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en chất vấn và cảnh tỉnh chúng ta: “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác… các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng” (Gr 23,1-2); “Khốn cho các mục tử chỉ biết lo cho mình!… Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6); “Hỡi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa…để chiên của Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8b-10).

Ngày cầu cho ơn gọi

Khi công bố Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu lần thứ 61 với chủ đề: “Được kêu gọi gieo hạt giống hy vọng và xây dựng hòa bình”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh đến tình huynh đệ và niềm hy vọng.

Ngài mời gọi chúng ta suy ngẫm về cuộc lữ hành Ki-tô giáo như một hành trình hiệp hành khởi nguồn từ niềm hy vọng, hướng tới việc khám phá tình yêu của Thiên Chúa. Lời mời gọi phổ quát của Ki-tô giáo đặt cuộc sống của chúng ta trên tảng đá của sự phục sinh của Chúa Ki-tô, nhận thức rằng mọi nỗ lực được thực hiện trong ơn gọi mà chúng ta đã ấp ủ và tìm cách thực hiện sẽ không bao giờ vô ích (x. PHANXICÔ, Sứ điệp cầu cho ơn gọi 2024).

Nói đến ơn gọi sống đời thánh hiến, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta nghĩ đến những người thánh hiến dâng trọn cuộc sống cho Chúa trong âm thầm của kinh nguyện, cũng như trong hoạt động tông đồ; những người đã đón nhận ơn gọi làm linh mục và tận tụy loan báo Tin Mừng, chia sẻ cuộc sống cùng với bánh Thánh Thể cho anh chị em, gieo vãi hy vọng.

Đức Thánh cha khẳng định: “Mục đích của mỗi ơn gọi là trở thành những người hy vọng. Trong tư cách cá nhân và cộng đoàn, trong các đoàn sủng và thừa tác vụ khác nhau, tất cả chúng ta đều được kêu gọi thể hiện niềm hy vọng của Tin Mừng trong thế giới đang bị những thách đố to lớn: hiểm họa thế chiến thứ ba từng mảnh lan rộng, những đám đông di dân tị nạn khỏi quê hương của họ để tìm một tương lai tốt đẹp hơn; số người nghèo liên tục gia tăng, nguy cơ sức khỏe của trái đất bị thương tổn không thể hồi lại được. Tất cả những điều đó, cộng thêm với những khó khăn chúng ta gặp hằng ngày, và nhiều khi làm cho chúng ta lâm vào thái độ cam chịu và chủ bại”.

Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha khẳng định: “điều quan trọng đối với các Ki-tô hữu chúng ta là vun trồng một cái nhìn đầy hy vọng, để có thể làm việc hiệu quả, đáp ứng ơn gọi được ủy thác cho chúng ta, phục vụ Nước Thiên Chúa, nước tình thương, công lý và hòa bình”.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

-------------------------------

 

PS 4-B200: CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ TUYỆT VỜI

 

Bài Phúc  âm hôm nay nói về chủ chiên và người chăn chiên. Chủ chiên có bổn phận chăn dắt PS 4-B200


Bài Phúc  âm hôm nay nói về chủ chiên và người chăn chiên. Chủ chiên có bổn phận chăn dắt chiên, bảo vệ chiên, trông nom chiên, lo cho chiên mọi mặt từ vật chất đến tinh thần, không bỏ sót một mặt nào cả thậm chí có thể hy sinh mạng sống mình vì chiên.

Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, chiên luôn luôn được nhắc đến. Ở Việt Nam, chiên cừu không phải là gia súc thông dụng, nhưng ở Trung Đông như Ai Cập, Do Thái thời xưa, một gia đình được cho là giàu có qua số lượng chiên cừu họ có. Danh từ Shepherd của tiếng Anh là người chăn chiên, mục đồng hay mục tử, chủ chăn hay chủ chiên. Trong Kinh Thánh và thời xưa ở Cận Đông, “mục tử” là danh hiệu dành cho các vua chúa, có bổn phận lo lắng mọi mặt cho thần dân của mình. Săn sóc, tụ họp và bảo toàn đoàn chiên là phần quan trọng của nền kinh tế Palestine vào thời đại kinh thánh. Trong cựu ước thì Thiên Chúa được gọi là Mục Tử của Israel, người đi trước (Tv 68:7) hướng dẫn đoàn chiên (Tv 23:3), đem chúng đến chỗ có thức ăn, nơi đồng cỏ xanh tươi và suối nước trong mát (Tv 23:2) đồng thời bảo vệ chúng khỏi kẻ thù (Tv 23:4), mang trên vai những con chiên con (Is 40:11). Ẩn dụ này ám chỉ Thiên Chúa rất thương loài người. Người là nơi trú ẩn chắc chắn cho muôn dân.

MỤC TỬ TRONG CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC

Ca vịnh 23 nói Chúa là một mục tử và là chủ nhà. Mục tử và chủ nhà là hai hình ảnh trái ngược với cảnh hoang vắng chết chóc nơi sa mạc, ở đó người bảo vệ chiên cũng là người bảo vệ khách di hành qua sa mạc, cung cấp nơi nghỉ chân và bảo đảm an ninh cho khách khỏi bị kẻ thù tấn công cướp bóc. Cái gậy là khí giới tự vệ chống lại thú dữ; nhân viên là dụng cụ yểm trợ. Tất cả những hình ảnh đó tượng trưng cho lòng trung tín và nỗi ưu tư của người mục tử.

Trong Tân Ước, người mục tử cũng được nhắc tới. Mục tử biết chiên của họ (Ga 10:3), đi tìm kiếm chiên bị lạc (Lc 15:4ff) và hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10:11-12). Mục tử chính là hình ảnh Thiên Chúa (Lc 15:4). Tân Ước không bao giờ gọi Thiên Chúa là mục tử, chỉ thấy nói tới trong ngụ ngôn chiên lac (Lc 15:4; Mt 18:12). Thiên Chúa trong ngụ ngôn giống như một mục tử hiền hậu luôn luôn vui tươi, sẵn sàng tha thứ và sửa đổi kẻ lầm đường lạc lối. Đây là hình ảnh trái ngược giữa tình yêu nồng nàn của Đức Giêsu đối với những kẻ tội lỗi và vẻ khinh miệt của những tên biệt phái đối với họ. Vậy có thể nói câu chuyện đường Emmaus trong Tin Mừng Luca (Lc 24:13-35) là một nối tiếp cuộc hành trình của Đức Giêsu, Đấng luôn luôn theo đuổi các môn đệ cứng lòng được nói tới trong ngụ ngôn người mục tử. Mục tử đi tìm chiên lạc cho đến khi nào kiếm ra được chúng và đem chúng về sát nhập với đoàn chiên (Lc15:3-7).              

ĐỨC GIÊSU LÀ CHÚA CHIÊN LÀNH

Chúa nhật này còn gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Bản văn Hy Lạp nói Chúa Chiên Lành là một mục tử sinh đẹp và quí phái, Người biết đoàn chiên của Người rất rõ ràng tỉ mỉ. Chúa Giêsu đã biết chiên của Chúa, ân cần lo lắng và yêu thương chúng. Chúa dùng ẩn dụ này để xác quyết với chúng ta là hãy tin tưởng hoàn toàn nơi Người. Xác quyết này còn có một ý nghĩa  vượt lên trên cả những gì gọi là dịu dàng, cảm mến và yêu thương. Nó vửa bi ai vừa hùng tráng, vừa sáng chói vừa vĩ đại đến độ mục tử đã tự hiến mạng sống mình, chết cho đoàn chiên.

Không giống như kẻ làm thuê ăn lương, Chúa Chiên Lành đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên vì tình yêu. Ngược lại, chiên phải có trách nhiệm đối với mục tử. Chiên là đối tượng của tình yêu và nỗi ưu tư của Chúa. Do đó sự tận hiến của mục tử cho đoàn chiên là hoàn toàn vô vị lợi. Chúa chiên thì sẵn sàng chết vì chiên chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp nguy khốn. Đối với kẻ làm thuê, chiên chỉ là phương tiện, một loại hàng trao đổi, được trông coi gìn giữ vì chúng đem lại lợi nhuận, cho len và thịt. 

TÌNH YÊU MỤC TỬ

Vẻ tươi đẹp sáng chói của Chúa Chiên Lành thể hiện qua hai chữ “Tình Yêu”. Vì yêu mà Chúa Giesu đã hiến mạng sống mình cho từng con chiên một, cho mỗi một người chúng ta. Chúa đã thiết lập một giây liên hệ tình yêu trực tiếp giữa Chúa và cá nhân mỗi người chúng ta. Tình yêu sáng chói và dịu hiền ấy có sức quyến rũ làm cho chúng ta yêu mến Chúa. Từ đó, trong Chúa Giêsu, chúng ta khám phá ra được Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con cũng là những mục tử luôn luôn săn sóc gìn giữ chúng ta. Các ngài biết chúng ta và yêu thương chúng ta cả những khi chúng ta bướng bỉnh, cứng đầu cứng cổ, cố tình câm điếc không chịu nghe lời và nghi hoặc.

Có những tín hữu coi những nhu cầu của mục tử là ưu tiên, dân chúng và tín hữu chỉ là phương tiện để làm cho người mục tử / lãnh đạo được hài lòng vui sướng. Họ đã coi mục tử là chính và chiên là phụ. Trong khi đó mục đích của những bài đọc Chúa Nhật hôm nay là chiên và sự an toàn của chiên là chính, mục tử chỉ là phương tiện để bảo đảm cho cứu cánh, tức sự an vui hạnh phúc của đoàn chiên. Chiên phải ưu tiên, mục tử là cuối cùng, đúng như Tin Mừng Gioan đã nói về hình ảnh Đức Giêsu là mục tử đã hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

ƠN GỌI LÀM MỤC TỬ

Chúa Nhật này cũng là ngày cầu nguyện cho ơn gọi trên toàn thế giới. Các bài đọc hôm nay là những lời cầu khẩn xin Chúa ban mùa gặt dồi dào và Giáo Hội sai thêm thợ gặt đến với đồng lúa mênh mông của Chúa. Như một nghệ thuật chỉ huy, Đức Giêsu cho chúng ta thấy Tình Yêu phải là lý do độc nhất thôi thúc chúng ta thi hành sứ mạng mục vụ, đặc biệt mục vụ của người mục tử. Người cũng khẳng định không có một ngoại lệ hay miễn trừ nào đối với các mục tử nắm chức lãnh đạo chỉ huy.

Nếu những con chiên ở ngoài đoàn chiên, dù chúng không thuộc về đoàn chiên của mình, vẫn phải ưu tư về chúng, đi tìm kiếm chúng, nuôi dưỡng và giúp đỡ chúng được an sinh đầy đủ. Đừng vô cảm. Rồi đem chúng về xum họp với đoàn chiên của mình để có một đoàn chiên và một Chúa Chiên mà thôi. Yếu tố thôi thúc bao chùm tất cả -ngoài vấn đề công lý xã hội, công bằng luân lý, sửa đổi chính trị sai lầm- vẫn là Tình Yêu. Chỉ có tình yêu mới có thể vẽ nên một vòng tròn thu gọn tất cả mọi người vào bên trong.

Mục tử thì có quyền trên chiên. Khi ngắm nhìn Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành, người mục tử phải nghĩ đến những kẻ mà mình đang thi hành quyền lực và coi sóc. Họ là những trẻ em, ông già bà cả, những kẻ tàn tật, những cộng sự viên, các đồng nghiệp, những kẻ khốn cùng, những kẻ bị áp bức, những dân oan …đang cầu mong sự an ủi cứu giúp của mình, những kẻ đang đặt hy vong nơi mình để có những nhu cầu thiết yếu cả vật chất lẫn tinh thần. Không cần biết mình khoác trên người tước hiệu gì, cái gậy, cái mũ, áo hồng, áo đỏ, áo tím, áo đen, áo trắng, áo nâu và những thần dân ở quanh mình, tất cả những thứ đó không thể là khí cụ của áp bức, ta đây, mà phải là biểu tượng của hy sinh và hiến tặng. Những bài đọc hôm nay thôi thúc chúng ta xin Chúa tha thứ cho những sai lầm, những thiếu sót trong việc đáp ứng những đòi hỏi của người mục tử đối với đoàn chiên mà chúng ta đang săn sóc, đồng thời xin thêm hồng ân để trở nên những mục tử tốt, sửa sai cách nhìn của chúng ta cho giống Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành biết rõ những chiên khác không thuộc về đoàn chiên này không phải là chiên lạc mà là chiên của Chúa nhưng đã xa lạc Chúa vì chúng ta.

ĐÔI LỜI KẾT

Nhà nhân chủng học cho biết người chăn chiên / mục tử phải đứng giữa hay đúng hơn đứng ở cả hai bên, phía người săn bắn và phía người lo cho mùa màng phát triển để liên kết hai bên lại với nhau. Do đó, người mục tử là biểu tượng của kết hợp mọi xung khắc thành một trong Chúa. Điều mà các dân ngoại thời sơ khai cũng như hiện nay coi như xa lạc thì người tin hữu phải thu nhặt lại vào trong vòng thực tế của đức Giesu là đấng hòa giải vĩ đại. Người là Chúa Chiên Lành, đấng ở giữa mọi sung đột để tạo hiệp nhất và hòa bình an vui.

Mong rằng mọi tín hữu đều cố gắng trở thành những mục tử tốt của Giáo Hội toàn cầu. Thế giới ngày nay và Việt Nam chúng ta hiện đang có những xung khắc làm khổ tâm nhiều người, chớ gì Chúa dùng chúng ta như những khí cụ hòa giải và sửa đổi hầu thiết lập vẻ đẹp tươi sáng, hiệp nhất, hòa bình, tự do no ấm và thương yêu.

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây