“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau”. - Ðó là lời Chúa
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa Nhật tuần trước nói về nguyên lý cành nho PS 6-B151
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa Nhật tuần trước nói về nguyên lý cành nho phải kết hợp với cây nho mới sinh hoa trái.
Qua đó, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống liên kết với Ngài và liên kết với nhau. Hôm nay, Đức Giêsu còn đưa ra một giáo huấn hết sức quan trọng và mời gọi chúng ta thực hiện, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”(Ga 15,12). Để thực hiện giáo huấn này, chúng ta cần tìm hiểu: Đức Giêsu yêu nhân loại như thế nào? Chúng ta phải làm gì để yêu thương nhau như Đức Giêsu yêu nhân loại?
1. Đức Giêsu yêu nhân loại như thế nào?
Đức Giêsu yêu nhân loại đến nỗi Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi: sinh ra nơi hang đá nghèo hèn trong đêm đông lạnh lẽo; sống trong một gia đình thiếu thốn ở Nazaréth với cha nuôi của Ngài là bác thợ mộc Giuse, mẹ của Ngài là bà Maria, một thôn nữ nhà quê; gần 30 năm làm nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình.
Trong ba năm đời sống công khai, vì tình yêu nhân loại nên Đức Giêsu đã đi khắp nơi để thực hiện ý định yêu thương: Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi, đến với hết mọi hạng người không phân biệt dân tộc màu da hay địa vị giàu nghèo; Ngài đến với những người đau yếu bệnh tật để cứu chữa họ; Ngài tha thứ cho những người tội lỗi, cho những kẻ xúc phạm đến Ngài; Ngài đã tuyển chọn, huấn luyện các Tông đồ và thiết lập Giáo hội; Ngài đã thiết lập các Bí tích là máng chuyển thông ơn Chúa cho loài người; Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và dạy họ hãy làm như thế với nhau; Ngài đã chấp nhận bước vào con đường khổ giá một cách tự nguyện để cứu độ nhân loại. Đó là bằng chứng tình yêu Ngài dành cho nhân loại, đúng như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Sau khi sống lại, vì yêu thương nên: Ngài đã hiện ra với nhiều người, nhất là hiện ra với các Tông đồ để củng cố đức tin cho họ và cho mọi người qua mọi thời đại; Ngài ban Thánh Thần cho các Tông để các ông thêm can đảm làm chứng cho Tin mừng; Ngài soi sáng cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta am hiểu Kinh thánh; Ngài còn nâng chúng ta lên thành bạn hữu của Ngài: “Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu.” (Ga 15,15).
Tóm lại, những lời nói, những việc làm của Đức Giêsu trong suốt 33 năm sống trên trần thế đều vì yêu thương nhân loại chúng ta.
2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương nhau như Đức Giêsu yêu nhân loại?
Đó là yêu hết mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giàu nghèo…phải yêu mọi người là anh em với nhau như Đức Khổng Tử đã nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em.
Đó là biết trao ban và cho đi. Không chỉ trao ban và cho của cải vật chất mà còn trao ban và cho cả nụ cười, cái nhìn yêu thương, lời nói động viên khích lệ. Bởi vì, cho là được, giữ là mất. Cho thì có phúc hơn là lãnh nhận. Cho một cách vô vị lợi, không so đo tính toán.
Đó là biết hy sinh. Hy sinh thời gian, hy sinh tiền bạc, hy sinh sức lực và hy sinh chính cả mạng sống của mình vì người mình yêu. Pierre l’Ermite nói rằng: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đức Giêsu cũng đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.”(Ga 15,13)
Đó là tình yêu chân thành. Thánh Gioan Tông đồ khuyên các tín hữu hãy yêu thương nhau chân thành, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc làm: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.”(1Ga 3,16-18).
Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Người ta kể rằng: Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời: “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Ta ”. (Sưu tầm)
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại nên Chúa đã xuống thế làm người, đã lập nên Giáo hội, các Bí tích, nhất là đã hy sinh cả tính mạng của mình. Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến Chúa và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình".
Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu. Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình PS 6-B152
Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.
Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.
Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.
Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.
Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạngsống vì bạn hữu mình."
Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.
Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.
Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.
Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình"
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.
Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.
Tại Palestine có hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.
Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.
Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi. Biển hồ thứ hai là Biển Chết.
Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối. Một hình ảnh cho chúng ta thấy:
Càng trao ban, càng dồi dào. Càng trao ban, càng sinh lợi. Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.
Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình". Amen.
Tin mừng Ga 15: 9-17: Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta". Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.
Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ PS 6-B153
Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ lạ, và dường như còn phi thường nữa. Chỉ nguyên bằng một từ rất quen thuộc, "tình yêu", Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào khám phá chính mầu nhiệm bản thân Chúa Cha và của chính Người, mầu nhiệm tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu và cuộc sống mà Người muốn đưa chúng ta đi vào. Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta" (1Ga 4,10). Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này. I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,9-17
ª Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho "thật", còn chúng ta là cành, mà cành thì phải "ở lại" trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Gioan). Đức Giêsu đã lệ thuộc vào Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng đã yêu mến anh em như vậy" (15,9). Đây là những biến cố được xác định trong quá khứ. Đức Giêsu ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống Kitô hữu.
Chúng ta phải "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người "ở lại" trong tình thương của Cha Người. Chúng ta cũng có thể "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình bằng hữu ấy. Chúng ta cũng có thể "ở lại" bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là "ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn ; giữ lời]" (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để "niềm vui của Thầy ở trong anh em" và "niềm vui của anh em được nên trọn vẹn" (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài "niềm vui" này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu "ở lại" trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Ngài để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng ta chỉ hiểu điều ta đã nhận khi ta tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
ª Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17).
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Họi thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (15,12 nhắc lại 13,34). Hành vi "Thầy đã yêu thương anh em" trong quá khứ phải được thể hiện trong tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống "vì bạn hữu của mình", "nhân danh bạn hữu mình" (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói đến việc hy sinh tính mạng "vì bạn hữu của mình", Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là "tôi tớ", nhưng là "bạn hữu". Chúng ta chứng tỏ chúng ta là "bạn hữu" của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14 ; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm "tôi tớ của Thiên Chúa". Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (Gs 24,29 ; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là "bạn hữu", như Môsê xưa kia là "bạn hữu" của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các "bạn hữu" thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15).
Các kinh sư Do Thái thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ "ra đi và sinh được hoa trái" (c. 16). Hoa trái này được nhắm "ở lại [= tồn tại]" và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13 ; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, "hãy yêu thương nhau" (c. 17). II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng ; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quí báu nhất của trái tim Người ; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật, là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các "bạn hữu" của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Họi thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta "ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại", vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Ngài đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Ngài cho Con của Ngài.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Mầu nhiệm Chúa Cha, mầu nhiệm khởi nguồn.
Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới ; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã đi ra và hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.
2. Yêu thương hay không yêu thương?
Từ "điều răn" được Đức Giêsu sử dụng bốn lần nhằm cho thấy rằng "yêu thương" là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
3. Bạn hữu của Đức Giêsu.
Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm tôi tớ Thiên Chúa, "làm việc cho Đức Giêsu", mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành bạn hữu của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn những tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.
4. "Hãy ở lại trong tình thương của Thầy".
Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà cao ngạo. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: "ở lại trong Đức Giêsu", "ở lại trong tình yêu của Người" và "yêu thương nhau". Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người ; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
Chủ đề: THIÊN CHÚA KHÔNG THIÊN TƯ TÂY VỊ, ĐÓN NHẬN TẤT CẢ ĐỂ BIẾN ĐỔI NÊN HOÀN HẢO HƠN.
Kính thưa quý anh chị em,
Mạnh Tử, học trò của đức Khổng Tử, than thở: Bao nhiêu năm theo thầy, được dạy dỗ chu đáo PS 6-B154
Mạnh Tử, học trò của đức Khổng Tử, than thở: Bao nhiêu năm theo thầy, được dạy dỗ chu đáo, cẩn thận, nhưng con vẫn ân hận, thiếu xót, vì chưa học được điều cốt lõi của thầy. Con chưa nhìn người và đánh giá họ một cách vô tư, vẫn còn bị cảm tính tự nhiên chi phối: “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, chỉ mình thầy mới nhìn nhận và đánh giá người khác một cách vô tư.
Đức tính của thầy Khổng Tử là hình ảnh mờ nhạt phản chiếu Thiên Chúa là tình yêu và sự sống đích thực: “không thiên tư tây vị, ai kính sợ Người, thực hành đức công chính đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Tình yêu thần linh lớn lao đến độ, bất chấp sự yếu hèn, tội lỗi phàm nhân, đón nhận và nâng con người lên tận trời, dành địa vị làm con Thiên Chúa, chia sẻ đồng một danh phận với Đức Kitô.
Những gợi ý trên giúp chúng ta mở lòng đón nhận phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Các bài đọc, chúa nhật 6 phục sinh năm B, trình bày hoạt động của Đấng Phục Sinh, hiện thân của lòng thương xót Chúa Cha, tuân đổ trên thế gian vô lượng, vô ngần.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, ghi nhận cách thức Chúa sửa sai quan niệm Do Thái dựa trên những tiêu chí cực đoan, vụ luật, về thanh sạch/ô uế, thánh thiện/tội lỗi, công chính/bất lương. Quan niệm vụ luật như thế, tự thân là bất công, kỳ thị, ngập lụt trong văn hóa loại trừ, không bao giờ phản ảnh được sự công chính của Thiên Chúa.
Trước khi Phê-rô đến nhà Co-nê-li-ô, vào giờ thứ sáu, ông đi cầu nguyện và được thị kiến, thấy một bao lớn thả xuống từ trời. Trong bao có đầy dẫy con vật: toàn là vật dơ. Chúa bảo hãy giết mà ăn. Phê-rô từ chối, vịn lẽ là vật dơ, bị cấm. Tiếng từ trời phán bảo: cái Thiên Chúa cho là sạch, ngươi chớ bảo là dơ. Ngay giờ đó, có người đến tìm. Phê-rô nhận ra ý Chúa muốn, ông chỗi dậy cùng đi với họ (cf. Cv 10).
Tại nhà Co-nê-li-ô, Đấng Phục Sinh làm nên hai điều kỳ diệu là cho dân ngoại hưởng tình yêu sự sống và dạy các môn đệ biết sống yêu thương như Chúa, biết mở lòng đến với muôn dân trong một tình yêu không giả dối.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su dạy sống yêu thương, không qua cổng thông tin tri thức, nhưng bằng con đường cảm nghiệm. Tình yêu, như một chất bổ dưỡng tinh thần, thấm vào tâm hồn qua những gì chủ thể yêu thương ban tặng.
Giê-su yêu mến các môn đệ trong chính tình yêu cội nguồn Chúa Cha. Tình yêu tuyệt đối, vô vị lợi, hối thúc Người tự hiến trên bàn thờ thập giá, để ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tình yêu ấy là thế này: “Trong khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô, theo kỳ hẹn, mà chết vì chúng ta là kẻ có tội” (Rm 5, 8). Thập giá là bằng chứng lớn lao nhất minh chứng Giê-su đã yêu hết mình.
Phần chúng ta, được hưởng lợi bởi tình yêu tự hiến Giê-su, đã được sống lại làm một với Chúa, thì hãy luôn tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, lòng trí hãy suy tưởng những sự trên trời, chứ đừng nghĩ tưởng những sự dưới đất.
Chúa Giê-su mời gọi môn đệ ở lại trong tình yêu của Người, cụ thể, tuân giữ các giới răn của Người.
Tình yêu “vâng phục” giữ cho Chúa Giê-su ở lại trong tình yêu Chúa Cha, thì kẻ vâng giữ lệnh truyền Giê-su, cũng ở lại trong tình yêu của Người như vậy.
Chúa Giê-su không dạy môn đệ yêu thương trừu tượng, lý thuyết, môi miệng, nhưng thực hành yêu thương nhau không giả dối, cách cụ thể: họ đói, các con hãy cho họ ăn, kẻ mình trần hãy cho áo mặc, kẻ đau yếu, tù đày hãy săn sóc, viếng thăm. Đó là những hoa trái tốt đem lại sự sống, người môn đệ được sai đi gặt hái thu vào kho lẫm Nước Trời.
Trong bài đọc II, thánh Gio-an hối thúc chúng ta sống yêu thương thật tình, vì tình yêu Chúa đổ vào lòng chúng ta, như một dòng chảy xuất phát từ cội nguồn Thiên Chúa.
Đối với Gio-an, ai sống yêu thương, người ấy nhận biết và ở lại trong Thiên Chúa. Họ đã được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa, con cái của ánh sáng, vì Thiên Chúa là tình yêu. Ngược lại, kẻ không yêu thương thì không nhận biết Thiên Chúa, chưa được sinh lại bởi Thánh Thần, cuộc đời họ còn đang bị giam hãm bởi tối tăm, ích kỷ, ghen ghét, thù hận và đủ thứ tệ đoan.
Thiên Chúa là tình yêu cội nguồn, nhờ Ngôi Lời nhập thể, trong Thánh Thần, tuân đổ trên chúng ta hồng ân sự sống, để chúng ta được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa. Đây là ân huệ Chúa ban cách nhưng không, nên người môn đệ phải kiên trì ở lại trong tình yêu Chúa, mới có thể góp phần tích cực làm Danh Cha vinh hiển, Nước Cha trị đến.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thực hành hai điều:
* Một là: phải có tâm tư của Chúa, nhất quyết gột rửa khỏi lòng chúng ta óc bè phái, kỳ thị, thiên tư tây vị.
Thánh Phao-lô, trong thư gởi giáo đoàn Cô-rin-tô, đề cao đức ái, coi đó là nhân đức các thiên thần. Người tín hữu phải biết tha thứ, cảm thông trong mọi hoàn cảnh, không vui mừng trước sự dữ, bất công, nhưng phải biết chia vui cùng lòng chân thật.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng hối thúc chúng ta can đảm nói không với văn hóa loại trừ, gắn bó và thực hành văn hóa toàn thể.
* Hai là: lo sao cho mình luôn có Chúa, luôn ở lại trong tình yêu Chúa. Dấu chỉ nhận biết hệ tại ở việc tuân giữ các giới răn, được tóm gọn trong việc yêu mến Chúa hết lòng và yêu anh chị em như chính mình. Ở lại trong tình yêu Chúa là khăng khít với sự lành, kính trọng và cổ võ sự sống trong mọi giai đoạn.
Khao khát lắng nghe, thực hành Lời Chúa, siêng năng cử hành bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và hòa giải. Đời sống kitô nhờ đó mà được tăng trưởng về mọi phương diện, dần đạt tới tầm vóc của Đức Kitô, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen.
Đây là lời tâm sự của một người sắp hiến dâng mạng sống. Đây cũng là những lời yêu thương cuối PS 6-B155
Đây là lời tâm sự của một người sắp hiến dâng mạng sống. Đây cũng là những lời yêu thương cuối cùng của một người mà suốt đời chỉ biết yêu thương.
Tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta bắt nguồn từ tình yêu của Chúa Cha là tình yêu bản thể: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Chúng ta thật diễm phúc! Tình yêu của Chúa không bao giờ vơi cạn, không bao giờ thay đổi như tình yêu của con người, vì Ngài là nguồn suối tình yêu.
Chúng ta là gì mà được yêu thương như vậy? Phải chi chúng ta tốt, phải chi chúng ta đáng yêu! Nhưng người yêu càng bất xứng thì tình yêu càng cao thượng. Đối với Chúa, tình yêu của Ngài không kể người xứng đáng hay bất xứng. Ngài yêu thương mọi người không trừ ai. Ngài không biết chọn lựa. Vì Ngài là Tình Yêu.
Ngài vẫn yêu thương chúng ta mặc dù chúng ta bất xứng, nhưng chúng ta có chấp nhận tình yêu của Ngài không? “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Làm như Ngài phải nài nĩ chúng ta. Một tác giả đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Ngài khiêm tốn. Tình yêu thành thật bao giờ cũng khiêm tốn. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài mới thực sự khiêm tốn”. Đứng trước sự khiêm tốn lạ lùng của Chúa, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta vẫn không để ý gì?
Chúa vẫn tha thiết yêu thương chúng ta, nhưng tình yêu của Ngài không ủy mị, mềm yếu. Ngài mong ước chúng ta đáp trả không phải bằng một thứ tình yêu dựa trên tình cảm mà dựa trên việc làm, tức là dựa trên ý chí: “Nếu anh em giữ những điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Chính Ngài đã yêu Chúa Cha bằng thứ tình yêu mạnh mẽ đó: “Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và Thầy ở lại trong tình thương của Người”. Thầy chính là gương mẫu duy nhất của tình yêu. Những người chấp nhận tình yêu của Chúa Giêsu phải theo một gương mẫu đó thôi.
“Thầy đã giữ những điều răn của Cha Thầy”. Những điều răn đó đã đưa Ngài đến cái chết ô nhục trên thập giá, với tất cả những khổ hình đau đớn kèm theo. Chúng ta sẽ giữ những điều răn của Ngài như thế nào? Đến mức độ nào?
Điều răn của Thầy không có gì khác là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là vô điều kiện, và nếu có điều kiện thì chỉ có một: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Chính Chúa đã làm điều đó. Cái chết của Ngài là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha, đồng thời là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tình yêu đích thực bao giờ cũng vô điều kiện, và đến tận cùng. Chúa Giêsu là gương mẫu không thể sánh được.
Chúng ta đã thực hiện những gì Chúa dạy chưa? Thực ra ở đời, cũng có những mối tình tương tự, dám hy sinh tất cả cho người yêu. Không mấy người trong chúng ta dám yêu đến như thế. Yêu một người thì dễ, nhưng yêu thương mọi người mới khó. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương hết mọi người, và “như Ngài đã yêu”, nghĩa là dám thí mạng sống mình cho bạn hữu. Thí mạng sống giống như Chúa thì chỉ có một vài người làm được, nhưng chúng ta có thể thí mạng sống từng ngày, hao mòn cho mọi người, chết dần chết mòn trong phục vụ mỗi ngày. Chúng ta có thể làm được. Mẹ Têrêxa Calcutta là hình ảnh sống động và gần gũi với chúng ta nhất. Mẹ đã hao mòn cho những người bé mọn.
Chúng ta đang sống trong một thế giới không có tình yêu: chiến tranh, khủng bố, tù đày,vô cảm… Nhưng trong thế giới đó cũng có rất nhiều tâm hồn quảng đại, xả thân cho những người khốn khổ. Nơi đâu tình yêu được phát triển, nơi đó Thiên Chúa được tỏ hiện.
Chúng ta dễ mơ mộng, chúng ta cứ tưởng mình đã biết yêu thương nhiều rồi. Thực ra, chúng ta cũng đã có làm cái gì đó cho người nầy hay người kia, và chúng ta bằng lòng với những việc làm nho nhỏ đó. Chúng ta không làm gì hơn nữa. Như thế không phải là yêu, vì tình yêu không bao giờ dừng lại mà luôn là hơn nữa. Phải đi đến mức tận cùng, phải cho đi đến mức độ không còn gì để cho, như Chúa chúng ta. Làm sao chúng ta có thể đạt đến mức độ như thế ? Chỉ khi nào chúng ta dám nói như thánh Phaolô: “Sống đối với tôi là Chúa Giêsu Kitô”. Vì chúng ta chỉ là nhánh, chúng ta phải gắn liền với cây: “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Tất cả do Thầy mà thôi, vì không có Thầy anh em chẳng làm được gì.
Thầy chọn anh em chứ anh em không chọn Thầy, Thầy cắt đặt anh em ra đi, sinh được nhiều trái. Lúc đó, niềm vui của anh em mới trọn vẹn. Chỉ có Thầy mới là niềm vui thật.
Tại sao những người như Mẹ Têrêxa Calcutta, chỉ một mình với bàn tay trắng đã tạo nên một làn sóng bác ái trên khắp thế giới? Tại sao Thánh Piô, trong tu viện đã làm cho bao nhiêu người trở về với Chúa? Tại sao thánh Gioan-Maria Vianney, một cha xứ nhỏ bé, đã đem bao nhiêu linh hồn về với Chúa? Chỉ vì họ đã gắn chặt vào cây nho thật, vì họ đã ở lại trong tình thương của Thầy, đã yêu thương thực sự như Thầy đã yêu thương, họ đã sinh nhiều hoa trái.
Chúng ta không làm được gì, không phải vì chúng ta bất tài, cũng không phải chúng ta không có phương tiện hay môi trường thuận lợi, mà vì chúng ta là những nhánh nho không trái, cằn cỗi hay tệ hơn, chúng ta đã không dính liền với cây nho. Gắn chặt vào Chúa Kitô, chúng ta mới biết cho đi, biết phải làm gì. Phải ở lại trong tình thương của Thầy, chúng ta mới trở thành tình thương như Chúa Giêsu ở lại trong tình thương của Chúa Cha.
Hãy kiểm soát lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. Chúa gọi chúng ta là bạn hữu, chúng ta có liên kết với Ngài trong tình thân như Ngài đã liên đới với chúng ta không ?
Chúa Giêsu là người yêu duy nhất đã liều mạng cho bạn hữu, đã lấy thịt máu mình nuôi bạn hữu mình. Nhờ đó, Ngài nên một với chúng ta. Chúng ta hãy ăn lấy Chúa, như Chúa mong ước, nhưng ăn lấy Ngài là sống trong Ngài, với Ngài, thành một với Ngài, chúng ta mới có can đảm yêu thương anh em như Ngài đã ước mong. Như thế, tình yêu của Ngài sẽ được lan rộng quanh chúng ta, chúng ta sẽ là những nhành nho sai trái.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
CHÚNG TA PHẢI YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẾ NÀO? ĐÓ LÀ TÌNH YÊU VỊ THA
Tại sao chúng ta phải yêu thương nhau? Bài đọc hai và bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta trả PS 6-B156
Tại sao chúng ta phải yêu thương nhau? Bài đọc hai và bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi này. Nhưng câu hỏi còn khẩn thiết hơn cả là chúng ta cần yêu thương nhau như thế nào?
Trong Tân ước thì Tin mừng và cả ba thư của Gioan đều có chung văn phong, nhấn mạnh những điểm thần học giống nhau và bàn đến những vấn đề ảnh hưởng đến các tín hữu sơ khai. Vì những điểm tương đồng vừa nêu, các bản văn này được gọi chung là văn chương Gioan, và chúng dường như xuất phát từ cùng một cộng đoàn.
Tình yêu thương tràn ngập trong bài đọc hai. Các thành viên trong cộng đoàn được gọi là “các con thân mến” (agapetoi), và họ được dạy bảo yêu thương nhau (agape) vì Thiên Chúa yêu thương họ. Hơn nữa, đoạn văn đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp, nhưng vô cùng sâu sắc: Thiên Chúa là tình yêu. Để hiểu được ý nghĩa của câu nói này, chúng ta phải nhìn vào cuộc tử nạn của Đức Kitô, được hiểu như một hành động yêu thương vô vị lợi. Trong những câu tiếp theo (chúng ta sẽ nghe vào tuần sau), thư thứ nhất của thánh Gioan khẳng định việc bắt chước tình yêu của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương vô vị lợi của chúng ta đã cho phép Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta được tuyệt hảo (1Ga 4,12).
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng phải tuân giữ lệnh truyền “hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.” Hơn nữa, Chúa Giêsu công bố rằng tình yêu vô vị lợi đến từ sự sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Trong trình thuật Tin mừng, Chúa Giêsu bị bắt sau liền ngay sau khi công bố giới răn này, vì vậy Ngài đang chuẩn bị cho các môn đệ hiểu và giải thích việc Ngài bị đóng đinh như một mẫu gương về tình yêu vị tha (agape).
Thật không may, thế giới tràn ngập sự thù ghét. Nhiều người không sống vị tha, mà còn sống thù ghét và coi thường người khác. Thậm chí còn tệ hơn nữa, nhiều người nhận mình là môn đệ Đức Kitô trong khi tuôn ra sự thù ghét người khác. Tình yêu mà cộng đoàn của Gioan vạch ra có lẽ khó thực hiện, nhưng quan trọng là tất cả chúng ta phải hành động hướng về tình yêu này. Các bài đọc nói rằng chúng ta sẽ nhận biết Thiên Chúa qua việc trở nên giống Ngài.
Đối với câu hỏi làm sao có thể diễn tả tình yêu vị tha, chúng ta có thể suy ngẫm những ý tưởng của Martin Luther King Jr. về tình yêu và về Cộng đoàn thương mến “Tình yêu có sức sáng tạo và cứu độ. Tình yêu xây dựng và hợp nhất; còn thù ghét thì phá đổ và huỷ diệt.” Tầm nhìn của Luther King về Cộng đoàn thương mến đặt nền móng trên tình yêu, sự hoà giải, phẩm giá và sự tôn trọng đối với mọi người. Nghèo đói, phân biệt chủng tộc, bạo lực và những hoàn cảnh xuất phát từ những sự dữ này thì không thể dung thứ. Bằng việc ra sức chấm dứt thù ghét và chia rẽ, chống lại những hoàn cảnh và thực hành xem thường người khác, chúng ta diễn tả tình yêu thương nhau – và chúng ta sẽ nhận biết Thiên Chúa qua việc trở nên giống Ngài hơn.
“Để được sống hạnh phúc và niềm vui được trọn vẹn”
Sống trên trần gian và ngay cả sau khi qua đời, đối với một con người thì điều gì là quan trọng nhất PS 6-B157
Sống trên trần gian và ngay cả sau khi qua đời, đối với một con người thì điều gì là quan trọng nhất mà chúng ta cần có, cần sở hữu và trân quý? Sáng 6.5.2021 khi đi đem Mình Thánh Chúa cho những người lớn tuổi, đau yếu trong Giáo xứ, tôi chứng kiến Bà Cố Maria, Mẹ của một Nữ Tu vừa qua đời. Bà Cố đã được sống làm con cái Chúa 97 năm trên trần gian; sự ra đi của Bà Cố để lại nhiều niềm thương mến cho mọi người trong Giáo xứ và con cháu. Qua sự ra đi của Bà Cố Maria, làm tôi nhớ lại cách đây đúng 3 năm, vào tối ngày 4.5.2018, khi tôi đến Tu viện của Dòng Phanxicô-Vĩnh Phước để dâng lễ cầu hồn cho Thầy Philipphe Nguyễn Văn Tâm, thọ 103 tuổi. Qua cái chết của Thầy Philipphe, mọi người đều trân quý, thương mến và nhắc nhớ nhau nghe rằng: Thầy là một con người rất đơn sơ, khiêm tốn, con người luôn làm những công việc bổn phận được bề trên trao với lòng yêu mến. Dẫu mang thân phận con người, với những giới hạn, yếu đuối và khả năng khiêm tốn, nhưng Thầy luôn quyết tâm cố gắng để làm mọi việc vì lòng mến. Thật vậy, sống trên đời và ngay cả khi đã mất, không gì cao quý hơn cho bằng tình yêu thương, lòng mến, vì nó sẽ tồn tại mãi mãi. Đây cũng chính là chủ đề mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy lắng nghe, suy niệm, hãy sở hữu và thực hành trong cuộc sống.
Trong một cách thế đặc biệt, Tin mừng theo Thánh Gioan, tường thuật và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần về “Tình yêu thương, lòng yêu mến”. Tại sao Gioan lại nhấn mạnh và đặt làm trung tâm khi nói nhiều về tình yêu như vậy? Vì theo Gioan, Ngài định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Vì tình yêu thương nên Thiên Chúa đã tạo dựng con người, chăm lo, ban ơn giúp sức cho con người, ngay cả khi con người bội nghĩa, bất trung, quay ngược lại từ chối Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương, cứu sống và yêu cho đến cùng. Thiên Chúa qua cách thức diễn tả có một không hai là chấp nhận cái chết trên Thánh Giá. Tại sao Thiên Chúa lại biểu lộ, diễn tả tình yêu của Ngài với cách thức như vậy? Thứ nhất, vì bản tính của Thiên Chúa là Tình yêu, nên Ngài không thể làm khác hơn được. Thứ đến, vì Thiên Chúa muốn cho con người chúng ta cảm nhận được chính tình yêu đích thực của Ngài. Và sau hết, Thiên Chúa muốn trao ban, chia sẻ để cho chúng ta được thông phần, được liên kết và ở lại trong tình yêu của Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thưa ACE, Thiên Chúa yêu thương nên đã biểu lộ, minh chứng tình yêu thương cho chúng ta, Ngài muốn chúng ta được sống trong hạnh phúc và niềm vui của chúng ta được trọn vẹn trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Nhưng làm sao chúng ta có thể cảm nếm được tình yêu thương của Chúa, trong lúc con người đang phải đối diện với biết bao khó khăn, đau khổ và nghịch cảnh của cuộc sống thường ngày. Hãy nhớ lại và để tâm đến lời căn dặn, lời di chúc để lại của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Bài đọc hai trích thư Thánh Gioan diễn tả và minh chứng cho chúng ta những gì mà Chúa Giêsu đã rao giảng và truyền lại. Tình yêu là của Thiên Chúa, được phát xuất, trao ban từ Ngài. Chúng ta được diễm phúc vì chúng ta được Chúa thương chọn gọi và trao ban tình yêu thương của Ngài cho chúng ta. Do đó, khi chúng ta sống cảm tạ, tri ân, chúng ta làm lan tỏa tình yêu thương của Chúa cho ACE mình. Thật ra, không phải chúng ta sống yêu thương, nhưng khi chúng ta biết mở rộng cõi lòng-tâm hồn với sự khiêm tốn, quảng đại, thì chính Thiên Chúa hành động qua chúng ta và Ngài sẽ làm lan tỏa đến mọi người.
Điều này cũng được minh chứng trong bài đọc một từ CVTĐ, tình yêu chính là hoa trái là ơn ban của Chúa Thánh Thần, ơn thánh này được tuôn đổ xuống trên những người mà Thiên Chúa thương tuyển chọn làm Tông đồ, để qua chính họ, ơn Thánh Chúa được lan truyền đến cho tất cả ACE, đặc biệt hơn ơn thánh Chúa được trao ban cho những con người phận nhỏ. Khi Phêrô được Thánh Thần sai đến để rao giảng Tin mừng và trao ban ơn Chúa cho những người không phải là Do Thái, thì có những phản ứng ngay cả chống đối. Thật là thấm thía, xúc động khi nghe lại lời của Thánh Phêrô: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, hể ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận”.
ACE rất thân mến, là những người con cái Chúa, những Kitô hữu, chúng ta đã sống ra sao với “Di Chúc Yêu Thương” mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho chúng ta, để sau khi qua khỏi đời tạm này, chúng ta còn có những giá trị tốt đẹp, cao quý hầu sẽ để lại cho đời, cho người? Khi chứng kiến cái chết của Bà Cố Maria, Thầy Dòng Philipphê cũng như bao sự ra đi khác của ACE mình, họ luôn là động lực thúc bách tôi phải sống như thế nào, để đến ngày giờ Chúa gọi, khi người ta khi đến viếng thăm lần cuối, họ cũng sẽ nhắc nhớ nhau nghe những đều trân quý, tốt đẹp, thương mến mà tôi đã sống và làm lan tỏa. Lạy Chúa, xin Chúa hãy chúc lành cho những cố gắng, nỗ lực yêu thương của chúng con. Amen.
Khi nói đến tình yêu, con người chúng ta thường cố công định nghĩa hoặc truy tầm lời giải đáp PS 6-B158
Khi nói đến tình yêu, con người chúng ta thường cố công định nghĩa hoặc truy tầm lời giải đáp cho câu hỏi:
Tình yêu là cái chi chi, mà lòng ta mãi khắc ghi trọn thề?
Và rồi, cuộc hành trình đi tìm câu trả lời ấy cứ hoài xa, mất hút dần trong sương mù lan toả, như những đám mây cứ trôi hoài mà không chốn dừng chân. Nhưng hãy thử cùng tôi, một lần chạm đến tình yêu hơn là đi tìm câu định nghĩa tình yêu; một lần cảm nếm tình yêu hơn là cứ trông mong vô vọng. Thử một lần ôm trọn tình yêu như một giấc mơ chẳng bao giờ nghĩ tới, để rồi được suối nguồn tình yêu – Thiên Chúa – đánh động tâm hồn ta, thúc bách ta, dẫn lối ta đi trên con đường chân lý ngàn thu.
Có lẽ quý anh chị em thắc mắc tại sao tôi dành nhiều dòng lê thê để nói đến tình yêu, mà chẳng đoái hoài gì đến các bài đọc trong Phụng Vụ Thánh Lễ hôm nay? Nhưng nếu quan sát kỹ lưỡng, nhìn ngắm, đặt mình vào Lời Chúa thì chắc hẳn chúng ta sẽ nhận ra được một chủ đề xuyên suốt cả ba bài đọc – Tình Yêu. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô yêu quý của chúng ta đã từng xác quyết một điều khi Ngài cùng với khách hành hương Rô-ma đọc Kinh Truyền Tin, rằng: “Nền tảng của đời sống Ki-tô hữu không gì khác ngoài lòng bác ái. Và chỉ nhờ tình yêu này, chúng ta mới có thể nhận chìm những sự gớm ghê, nhơ bẩn mà làm hoen úa tâm hồn ta mà thôi”. Nói cách khác, chúng ta được sinh ra từ nguồn cội tình yêu – Thiên Chúa, và hễ ai sống hiệp thông với Thiên Chúa, thì người đó sống trong tình yêu đích thật.
Ở điểm này, chúng ta đừng rút gọn và biến tình yêu thành mô phạm nghiên cứu tâm lý học, mà nên mở rộng con tim, đôi mắt, cảm xúc, và cả ngũ quan để nghiệm ra tình yêu mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ dành cho chúng ta “tình yêu ấy là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (x. 1Ga 4, 10). Tình yêu này vượt trên lòng yêu thương cha mẹ-con cái, anh chị em trong gia đình, dòng tộc, và tình bằng hữu (tiếng Hy lạp: philia); tình yêu này cũng trổi vượt hơn tình yêu đôi lứa, nam nữ (tiếng Hy lạp: eros). Nhưng đó là tình yêu kiểu gì mà cao quý, vĩ đại đến như vậy? Câu trả lời rất rõ ràng, cụ thể, và được chính Chúa Giê-su dạy cho chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu không chỉ bằng ngôn từ, mà được thể hiện một cách sâu xa qua hành động hy sinh cả mạng sống, cả con người của mình vì bạn hữu, vì người mình yêu (tiếng Hy lạp: agape).
Hơn nữa, Thiên Chúa mời gọi chúng ta – những người mang danh Ki-tô, là con cái Thiên Chúa – biết sống trọn vẹn tình yêu hiến trao này qua những cử chỉ nho nhỏ nhưng đầy lòng tin yêu, chân thành; qua nụ cười tươi đơn sơ, mộc mạc làm sống dậy những tâm hồn trống vắng, chơi vơi; qua những lời chào nói giản dị nhưng thấm đượm cả tấm lòng, mang lại sự bình an đích thật; qua hành động ‘ra đi’ phục vụ vì tha nhân, v.v...Nói sao cho hết vô số trạng huống, hoàn cảnh khi chúng ta đáp trả lời mời gọi sống tình yêu trao dâng như Thiên Chúa đã không ngần ngại hy sinh, trao ban cả Con Một Người cho chúng ta. Người đã trở nên con người, mặc lấy xác phàm phải hư mất, vâng phục cho đến chết, và chịu tử nạn để cứu chuộc loài người tội lỗi, mỏng dòn, bất xứng với tình yêu vô biên của Người.
Trong đời sống thường nhật, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với tượng Chúa chịu đóng đinh, tôi thường nghiệm thấy tình yêu trao hiến và ân ban thâm sâu của Thiên Chúa dành cho con người yếu hèn như tôi. Qua cảm nghiệm này, tôi cũng mạo mụi xin mời quý ông bà, anh chị em dành chút thời gian hướng nhìn lên Chúa chịu tử nạn trên cây Thập Tự, nơi đó tỏ hiện rõ hai chữ tuy ngắn ngủi nhưng cả vũ trụ này không thể chứa nổi – T.Y (cây Thập Giá tượng trưng cho chữ T, ‘Chúa chịu đóng đinh’ tượng trưng cho chữ Y), Tình Yêu. Và khi nghiệm được tình yêu này, xin quý ông bà, anh chị em cùng tôi thưa lên hai chữ T.Y (trong tiếng Anh: Thank You, nghĩa là Cảm tạ Chúa, cám ơn Chúa...). Hơn thế nữa, mỗi khi chúng ta làm dấu Thánh Giá, chúng ta ý thức hơn: cuộc đời vỏn vẹn, mong manh, trôi nổi của chúng ta được chạm khắc với Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi ấy chúng ta múc lấy sự sống vĩnh cửu. Và cũng từ nơi ấy, phát sinh tình yêu vị tha, bao dung của mỗi người chúng ta dành cho anh chị em trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, nơi công sở, ngoài xã hội. Đặc biệt, chúng ta luôn luôn được Tình Yêu trao dâng hướng dẫn, làm ‘kim chỉ nam’ cho mọi tư tưởng, lời nói, hành động, trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta trong xã hội ngày nay – một xã hội dường như đang chìm sâu trong thế tục, vật chất, lấy đồng tiền, danh vọng, chức quyền làm tiêu chuẩn đánh giá các giá trị tinh thần bất biến; hơn nữa làm thước đo cho các mối tương quan không lành mạnh.
Nguyện xin tình yêu Chúa thúc bách chúng ta ‘lên đường’, rời xa những gian phòng uy nghi, tráng lệ, nhưng khép kín của tâm hồn mình, mà biết ‘ra đi’ chia san, san sẻ tình bác ái, yêu thương trong gia đình trước tiên, kế đến biết liên đới, cảm thông với tha nhân như Thiên Chúa đã không chờ chúng ta đáp trả mà Người lại ‘đi bước trước’ trao ban sự sống, tình yêu cho chúng ta, mặc dầu chúng ta chẳng xứng đáng. Amen!
Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” PS 6-B159
“Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” chứ không “ít”. Một người không thể gọi là yêu, ít nhất phải có hai người mới khả dĩ có tình yêu. Dù yêu đơn phương vẫn có “đối tượng”. Tình yêu cũng có hệ lụy tất yếu. Có tình yêu thì có thể dẫn tới nhiều hệ lụy khác. Nhưng con người luôn bất toàn, bất túc, bất trác,… “bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh Công Sơn tâm sự: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”. Ông không gọi mà biển gọi, biển nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng ông đang rất… nhớ. Bất toàn là thế đó!
Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ rơi Ngài, phụ tình Ngài một cách trắng trợn. Chắc chắn Chúa cũng rất nhớ chúng ta!
“Nhân vô thập toàn”, một câu nói quá quen, quen đến nỗi hóa… quá bình thường – nghĩa là “không còn quan trọng”. Thế nhưng câu đó lại quan trọng, quan trọng vì… “quá bình thường”. Nghe chừng nghịch lý, nhưng không hề nghịch lý.
Khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô liền ra đón và phủ phục bái lạy dưới chân ông Phêrô. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường mà quan trọng, biết mình và biết người, giản dị như bản chất một ngư dân, nhưng con-người-bình-thường ấy đã được Thiên Chúa cất nhắc lên làm giáo-hoàng-tiên-khởi, được trao trọng trách chăn cả chiên mẹ và chiên con (x. Ga 21:15-19).
Ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng cách mô tả đó chính xác. Thiên Chúa không thiên vị, nhưng đôi khi chúng ta “bắt” Ngài thiên vị như chúng ta, vì chúng ta làm gì cũng thường theo định kiến cá nhân nhiều hơn.
Ông Phêrô còn đang nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ hiển nhiên. Vì thế, những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Thiên Chúa không thiên vị, tất nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên vị, vì Chúa Thánh Thần xuống trên mọi người – kể cả dân ngoại.
Rồi ĐGH Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều được Ngài tiếp nhận, chắc chắn vậy. Và ông Phêrô đã truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Làm bất cứ điều gì cũng phải nhân danh Chúa, vì tất cả chúng ta đều là huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ Ngài: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà không nhân danh Đức Kitô, có lẽ chúng ta quên rằng: “Bất cứ điều gì anh chị em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14:13). Vị Thiên-Chúa-toàn-năng ấy được tác giả Thánh vịnh mô tả thế này: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86:15).
Chúng ta là những người bất toàn, còn Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công đã “biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Thánh Gioan căn dặn: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không chỉ cho chúng ta được sống mà còn sống dồi dào. Người-môn-đệ-Chúa-yêu là người có “máu yêu” nên thích nói về tình yêu. Người môn đệ ấy giải thích: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc biệt là Tình yêu Chúa, nói đến Thánh Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương Xót, chẳng bút giấy nào tả hết và nói mãi cũng không thể lột tả đúng mức.
Chúa Giêsu nói rất dễ hiểu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy nên mới có thể nói: “Mức độ yêu mến Chúa là yêu mến vô hạn”. Vì không chỉ Chúa muốn mà chúng ta có trách nhiệm phải “yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn”. Yêu Chúa là yêu tha nhân. Nếu yêu như vậy, chúng ta chỉ lời chứ không hề lỗ: “Nếu anh chị em giữ các điều răn của Thầy, anh chị em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10).
Ngài muốn chúng ta “được hưởng niềm vui của Ngài” để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa Giêsu so sánh: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người đồng đẳng, Chúa yêu chúng ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng: “Anh chị em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu anh chị em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15:14b). Tội nhân chúng ta được tha thứ là may phước lắm rồi, thế mà Chúa lại còn gọi chúng ta là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh chị em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh chị em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết. Không phải anh chị em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh chị em, và cắt cử anh chị em để anh chị em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh chị em tồn tại, hầu tất cả những gì anh chị em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Ngài ban cho anh chị em” (Ga 15:15-16). Đó là điều quá kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và tất nhiên chúng ta quá may mắn và quá hạnh phúc!
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17). Chúa Giêsu luôn nói tới tình yêu, cứ nhắc đi nhắc lại, và còn ra Luật Yêu.
Lạy Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, xin ân thương và tha thứ. Nhờ Lòng Thương Xót của Ngài lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại mà chúng con được dìm mình trong Tình Yêu bao la và kỳ diệu của Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng tiếp tục lợi dụng Tình Ngài nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 15: 9-17: Yêu mến tha nhân, đó là một điều răn và cũng là một đòi buộc quan trọng đối với những ai giữ đạo và sống đạo. Đây là điều ai cũng có thể làm, kể cả những người yếu hèn và tội lỗi.
Suy niệm:
Giới trẻ ngày nay từ cung cách, lời ăn tiếng nói đến cử chỉ hành động bắt theo “trend” qua những PS 6-B160
Giới trẻ ngày nay từ cung cách, lời ăn tiếng nói đến cử chỉ hành động bắt theo “trend” qua những trang mạng xã hội. Và trong đoan Tin mừng hôm nay cũng có một trend mà chúng ta cần học hỏi, đó là lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con”.
Nguồn cội của Tình yêu là từ nơi Chúa Cha, làm nền tảng cho tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại. Và điều mà Chúa Giêsu mong đợi nơi môn đệ của Người, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu của Chúa Cha. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Tình yêu Thiên Chúa thật là một quà tặng hoàn toàn nhưng không nghĩa là không tính toán so đo. Tình yêu ấy không loại trừ bất kỳ ai, ví như mặt trời mọc lên soi chiếu cho người lành cũng như kẻ dữ. Chúng ta cũng nhận thấy trong đoạn sách Công Vụ, thánh Phêrô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rôma ngoại giáo tên là Conêliô. Ngài nhận ra Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Chúa trên viên sĩ quan lương dân này cùng thân bằng quyến thuộc của ông, nên ngài mạnh dạn lên tiếng: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!”
Vậy loan báo Tin Mừng có gì khác hơn là một mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Con Một yêu dấu của Ngài là Chúa Giêsu Kitô đã biểu lộ đến cùng qua cái chết trên thập giá. Chính vì Thiên Chúa là Tình yêu, cho nên thánh Gioan khuyên nhủ: “Hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa”. Vậy yêu thương thế nào đây?
Nhà chú giải A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: Qui luật của tình yêu sự đáp trả hướng tha chứ không phải quy về chính mình. Sự đáp trả của Chúa Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha là hướng về các môn đệ. Cũng vậy, sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Chúa Giêsu được mời gọi hướng về anh em.
Chính Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới Răn mới mà Người nhắc đi nhắc lại: “Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em; Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy thương nhau”. Tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi không phải là một sự biểu cảm tính, trái lại, đó là một sự can đảm dấn thân hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa được Chúa Giêsu đúc kết: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” Đây quả là một lời mời gọi đầy thách đố, nhiệm vụ bất khả thi nếu chỉ nhắm vào sức riêng con người của mình, vì tình yêu trong ta chỉ thực sự trọn vẹn khi biết qui hướng về Chúa, lấy Chúa làm mẫu mực, như lời tâm huyết mà Người nài nỉ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Tuy nhiên, dẫu tình yêu xem ra trừu tượng, khó định nghĩa nhưng việc biểu lộ tình yêu lại rất cụ thể. Vào đầu tháng 5/2021, trên mạng xã hội và nhiều tờ báo đều đăng về nghĩa cử cao đẹp quên mình cứu bạn của cậu sinh viên năm thứ 4 khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Khoa học Huế Nguyễn Văn Nhã.
Nhã đang tắm ở ngoài xa, và ánh chiều dần buông, cậu bơi vào bờ. Đang lúc bơi vào thì phát hiện ba bạn nữ đuối sức, chới với bị sóng đánh ra xa bờ. Với mọi nỗ lực, anh đẩy ba bạn nữ vào, song khi lúc các bạn qua khỏi hiểm nguy thì cũng là lúc cậu bị đuối sức, gặp sóng lớn đã cướp đi sinh mạng của cậu. Nghĩa cử cao đẹp của cậu được Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định truy tặng Huân chương Dũng cảm, cộng đồng mạng ghi nhận như một hành động anh hùng giữa đời thường. Sự quên mình để cứu bạn của Nhã khiến tôi càng muốn tìm hiểu thêm. Và quả thật không ngoài dự đoán, Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã là một người Công Giáo sống đạo nhiệt thành, một con người noi gương Thầy Chí Thánh đã chết để cho người khác được sống sót. Tấm gương của Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã đánh thức nhiều trái tim người trẻ tiếc thương cũng như cảm phục nam sinh viên có nụ cười, gương mặt hồn hậu, đã truyền cảm hứng, niềm tin về cái đẹp, sự tử tế vẫn còn có trong cuộc đời này.
Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề Charlie Chaplin phát biểu như sau: “Nếu bạn nhìn thấy mặt trăng, bạn nhìn thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa; nếu bạn nhìn thấy mặt trời, bạn nhìn thấy sức mạnh của Thiên Chúa, và nếu bạn nhìn thấy tấm gương, bạn nhìn thấy tác phẩm đẹp nhất của Ngài.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời là một chuyến đi. Trong tháng Hoa này, xin cho con ý thức ngày hôm nay qua đi và có thể ngày mai sẽ không đến. Trên hành trình về nước Chúa, xin cho con biết sống trọn ngày hôm nay như những đóa hoa rực nở, sống hết mình vì anh chị em như Chúa đã sống, đã chết vì con. Amen.
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
Trong cuộc sống của con người và trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, có những biến cố, có PS 6-B161
Trong cuộc sống của con người và trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, có những biến cố, có những dấu ấn để mà đánh dấu sự phát triển của một dân tộc. Và rồi chúng ta thấy sự kiện mà sách Công vụ tông đồ vừa kể lại cho chúng ta, trong suy nghĩ, chúng ta thấy biến cố mà thánh Phêrô ngày hôm nay được ghi lại, đã trở thành một biến cố Lịch sử, trở nên một dấu ngoặc mới.
Đọc lại thì, sách công vụ tông đồ trong bài đọc thứ nhất Chúng ta vừa nghe đấy. Thì có một ông Đại đội trưởng binh lính của người Ý tên là Conêliô, ông là dân ngoại. Ông được xem như là người ô uế, không thanh sạch như những người Do Thái. Và rồi thánh Luca nói rằng là: dẫu rằng là ông bị người ta xem như thế nhưng mà ông sống một đời sống đạo đức, yêu thương.
Và rồi một ngày kia, Conêliô có một cái thị kiến rằng là: “vì ngươi kính sợ Thiên Chúa, ăn ngay ở lành, nên Ta đã thấu lời nguyện xin của ngươi” thì một mặc ông cầu nguyện và ông cho người đi tìm Phêrô và khi mà thuộc hạ của ông Conêliô đi tìm Phêrô để mà nói lên cái lòng kính sợ Thiên Chúa của mình.
Thì lúc đó Phêrô lại được Chúa ban cho 1 cái thị kiến khác là có một tấm khăn lớn từ trên trời thả xuống. Nhìn tắm khăn thì trong đó thánh Phêrô thấy đủ thứ hết: rắn, rết, rồi sinh vật. Và rồi trong cái thị kiến đó thì Chúa bảo rằng là: Phêrô hãy đứng dậy và làm thịt mà ăn đi. Với cái phản ứng rất là tự nhiên, Phêrô bảo rằng là: Lạy Chúa, đời nào mà con ăn những cái thứ ô uế và không thanh sạch đó!
Nhưng mà Thiên Chúa nói rằng là: Cái gì mà Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì đừng bảo là ô uế. Và Thánh Phêrô đã hiểu ý của Chúa, với cái thị kiến đó. Trong cái thị kiến đó. Khi mà hiểu rồi thì Phêrô đã đi theo đoàn tùy tùng của Conêliô và đến nhà Conêliô.
Và thánh Phêrô đã tuyên bố rằng là giờ đây, tôi biết Thiên Chúa không thiên tư tây vị một ai, dù dân tộc nào đi chăng nữa, nhưng mà sống công chính đạo đức thì đều được Thiên Chúa đón nhận. Và thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho đại gia đình ông Conêliô.
Xem chừng đó là cái câu chuyện trong lịch sử trong sách công vụ tông đồ. Nhưng nếu suy cho bằng cùng, đây là một sự kiện rất trọng đại. Bởi vì ngày xưa, dân tộc Do Thái thì họ chỉ quan niệm rằng là Chúa Giêsu đến với họ và trao ban ơn cứu độ cho họ. Nhưng mà Kitô giáo chỉ phát triển ở trong cái vùng Do Thái thôi! Kitô giáo thì chỉ nhận những người Do Thái thôi! chứ còn những người ngoài thì không công nhận.
Và đây là lần đầu tiên mà thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho người ngoại, người mà người ta gọi là ô uế, người mà người ta cho là không trong sạch. Với cái biến cố này, phải nói rằng đánh dấu một bước tiến mới và chính cái biến cố này cho thấy rằng Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa của một mình dân tộc Do Thái, mà là Thiên Chúa của mọi dân tộc.
Do Thái thì tới bây giờ chúng ta thấy, tôn giáo của Do Thái cũng chỉ là Tôn giáo cho riêng của một dân tộc Do Thái thôi.
Còn Kitô Giáo thì, chúng ta thấy với 11 môn đệ sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, khắp mọi dân tộc, khắp mọi quốc gia để mà loan báo. Để rồi, Kitô giáo thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ, mọi màu da.
Nhờ biến cố này, và qua biến cố này, chúng ta thấy hội thánh được phát triển không ngừng. Và rồi chúng ta thấy, giáo hội phát triển dựa trên biến cố nào? trên cái sự kiện nào?
Không phải đơn giản để mà giáo hội phát triển. Không thể nào mà đơn giản ngày hôm nay, Giáo hội được lan tỏa, nó phải có một cái sức hút nào đó! Phải có một sức mạnh nào đó! Nó có một quyền lực nào đó! hay là nói chung là nó có một cái tác động nào đó, để rồi Kitô giáo ngày hôm nay phát triển.
Có một triết gia thuộc về trường phái nhân vị nói rằng là: Nếu một tảng đá mà được đặt đúng chỗ, thì nó sẽ chuyển đi Dòng Nước của một dòng sông. Và rồi thế giới này là dòng sông, tảng đá đó đặc ở đâu để mà thay đổi cái dòng nước.
Chúng ta thấy, thế giới này là dòng sông và tảng đá thay đổi cái nhìn, thay đổi dòng nước, thay đổi não trạng của con người: Hận Thù Ghen ghét chà đạp nhau thì thay vì hận thù, ghen ghét, chà đạp, có một trọng tâm đến trong thế gian này, đó chính là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã trả lời, cái câu hỏi mà nhiều người thắc mắc lâu rồi! Đó là gì? Đó là “Anh em hãy yêu thương nhau.” Đó là thông điệp, đó là sứ điệp, đó là sức mạnh để mà thế giới này thay đổi! Không phải là bạo lực, không phải là hận thù, không phải là vũ khí không phải là bom đạn.Vũ khí và bom đạn của Chúa Giêsu đó chính là “Anh em hãy yêu thương nhau.”
Nói tới đây con nhớ đến câu chuyện này: Cách đây chắc cũng phải mười mấy năm rồi! Khi mà cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng có một lần ngài kể cho anh em học viện sự kiện như thế này là:
Có một cái Đan viện kia, ngày xưa thì người ta tới đan viện tấp nập, vui lắm! Nhiều người tới với Đan viện. Thế rồi, bỗng dưng một thời gian đan viện vắng lặng.
Thế rồi, vị đan viện trưởng cảm thấy buồn và thắc mắc đi tìm đến một vị thánh và cái người thánh thiện này trả lời rằng là không phải rằng là ở cái đan viện này do tội lỗi của một người nào đó để mà gây ra cái chuyện rằng là người ta không đến đan viện, nữa, nhưng mà tội của Đan viện đó là tội tập thể, chính vì đan viện đã không nhận ra một Đấng Cứu Thế ở trong đan viện.
Đấng Cứu Thế đó đã đến với đan viện và đã ẩn thân trong một ông thầy. Nhưng mà chính vì nhà dòng đã đối xử tệ với ông thầy đó, và rồi không ai đến với đan viện nữa!
Đan viện trưởng về kể cho anh em nghe lời của một người thánh thiện đó! và thuật lại rằng có một Đấng Cứu Thế giả trang trong anh em và chính anh em đã cư xử không ra gì với cái Đấng đó! nên là người ta không đến với đan viện được.
Nghe như vậy thì người này nhìn người kia và tự hỏi rằng là không biết ai đối diện với mình là Đấng Cứu Thế và từ đó người ta đã dành cho nhau sự kính trọng và lòng yêu thương lẫn nhau. Cứ người này nhìn người kia không biết, Đây có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Và rồi người ta thay đổi cái nhìn, người ta thay đổi cái cách sống và từ đó bầu khí của Đan viện nó khác hẳn: bình an, vui tươi. Sau đó thì niềm vui nó trở về với đan viện. Và rất nhiều người đến thăm với đan viện.
Thật sự ra đây là một cái câu chuyện mà chỉ là tưởng tượng thôi! Nhưng mà muốn gợi lên cho chúng ta rằng: Một Đức Giêsu Kitô đã đến trong trần gian này rồi! nhưng mà người ta đã khước từ.
Thế nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta nhìn vào Giáo hội, dĩ nhiên, có những cái bi quan rằng nhà dòng này, Nhà dòng kia, chủng viện này, chủng viện kia đóng cửa phải đi bán đi, vì không có người coi.
Nhưng mà, kèm theo những cái dấu hiệu buồn đó, có những cái tín hiệu vui như hình ảnh của một Têrêsa Calcutta, một người đàn bà dường như đã biến đổi cái nhìn của trần gian này bằng cái tình yêu thương, đặc biệt là những con người nghèo, những con người bất hạnh.
Và chúng ta thấy trong thời đại ngày hôm nay chúng ta, chúng ta nhìn thấy một Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ngài đã làm một cuộc cách mạng với Giáo hội, ngài nói rằng: Giáo hội là Giáo hội của người nghèo và Giáo hội là cái bệnh viện dã chiến để mà băng bó những con người tàn tật, những con người bị thương tích như Chúa Giêsu chạnh lòng thương, yêu thương người nghèo, yêu thương người tàn tật đó!
Và điều trọng tâm mà Chúa Giêsu đã muốn đặt vào, để chuyển cái dòng lịch sử nhân loại hận thù, ghen ghét này! Đó là điều răn yêu thương, đó là giới luật yêu thương.
Còn nhớ rằng là ông Luther King có một bài thơ rất là hay: ông mơ, ông mơ có một cái ngày kia.. thế này, thế kia... rồi mỗi người chúng ta cũng có cái niềm mơ ước đó là: mỗi gia đình Công giáo của chúng ta là một gia đình yêu thương. Mỗi một xứ đạo của chúng ta là một xứ đạo yêu thương và như thế mỗi thành viên trong gia đình, mỗi thành viên trong xứ đạo, là một người yêu thương.
Mà nếu như chúng ta sống được cái tình yêu thương lan tỏa đó! Trong gia đình, trong xứ đạo thì chắc chắn giáo hội chúng ta sẽ cuốn hút.
Và lời mời gọi yêu thương đó đặt ra cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có quyền ước vọng, chúng ta có quyền khát vọng, Nhưng rồi suy nghĩ có ước mơ có thành hiện thực lại là lời đáp của mỗi người chúng ta mỗi người chúng ta được đặt ra khi tình yêu thương mà Chúa mời gọi. Chúng ta có sống yêu thương anh chị em đồng loại hay không? Hay là chúng ta mãi mãi ích kỷ! Chúng ta mãi mãi hờn ghen, chúng ta mãi mãi loại trừ.
Giới răn Yêu Thương vẫn còn đó: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
Mỗi người chúng ta được mời gọi, chúng ta cộng tác với Chúa cho cuộc sống này có ý nghĩa hơn, cho cuộc sống này nhân đạo hơn.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta, hãy mang trong mình ánh mắt yêu thương, hãy mang trong mình cái vòng tay yêu thương, hãy mang trong mình cái lòng thương xót đối với anh chị em đồng loại. Khi và chỉ khi chúng ta sống cái lòng yêu thương đó nơi cuộc đời của chúng ta thì khi đó chúng ta mới thực thi trọn vẹn giới răn yêu thương mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Amen.
Chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm và sống đó là: “Anh em hãy PS 6-B162
Chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm và sống đó là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.” Quả thế, tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Tình yêu là giới răn quan trọng nhất và cũng là bản tóm lược mọi giới răn. Vì thế, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chủ đề này dưới ánh sáng của các bài đọc hôm nay.
1- Thiên Chúa yêu hết mọi người
Trong bài đọc I, tác giả sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến tính phổ quát của tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Khi đến rao giảng cho Dân Ngoại, thánh Phêrô nhận thấy rằng quyền năng của Đấng Phục Sinh cũng được bày tỏ nơi họ; Thiên Chúa yêu hết mọi người và ban ơn cứu độ cho hết thảy mọi chư dân. Thánh Phêrô vào nhà ông Conêliô và gặp gỡ mọi người ở đó, họ không phải thành phần thuộc dân Do Thái, nhưng họ vẫn được đón nhận Chúa Thánh Thần. Bởi thế, thánh Phêrô kết luận: Tình yêu Thiên Chúa không giới hạn hay loại trừ ai. Thiên Chúa yêu hết mọi người, mọi quốc gia, mọi chủng tộc, cả những tổ chức nhân loại và những nhóm tôn giáo khác vốn được coi là ở ngoài trái tim Thiên Chúa, hay ngoài Giáo Hội. Mỗi người là con cái Thiên Chúa. Đây là tình yêu phổ quát mà Thiên Chúa dành cho viên đại đội trưởng Conêliô và những người Dân Ngoại. Với thị kiến và kinh nghiệm mới mẻ này về tình yêu của Thiên Chúa, Phêrô hiểu rằng những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch thì sao con người gọi là ô uế (x. Cv 10,9-16)! Tình yêu đó đã khiến Phêrô không ngần ngại đến với họ, rao giảng Lời Chúa và làm phép rửa cho họ.
Trong bài đọc II, thánh Gioan quả quyết rằng nguồn mạch đức ái hay nguồn mạch tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ chính tình yêu phổ quát của Thiên Chúa: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,7b).
Quả thế, Thiên Chúa yêu chúng ta trước, ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Người yêu chúng ta và muốn cứu độ chúng ta nên đã sai Con Một của Người xuống làm người, chết và phục sinh. Như thế, Chúa Cha yêu mến Chúa Con, Chúa Con yêu mến chúng ta và giờ đây, chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu phát xuất tình yêu. Chúng ta được sinh ra từ tình yêu Thiên Chúa, giờ đây, chúng ta hãy thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân.
2- Gia phả hệ về tình yêu
Đây cũng chính là chủ đề căn bản trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Có thể nói rằng đoạn Tin Mừng này là “bảng gia phả” về tình yêu: Chúa Cha yêu mến Chúa Con, và Chúa Con yêu mến chúng ta; đến lượt chúng ta cũng phải quy hướng về nguồn gốc tình yêu mà chúng ta được sinh ra. Nên Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.”
Nhưng ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu không phải là một điều gì đó tĩnh lặng, cũng không phải là ở một cuộc sống êm đềm, lánh đời xa mọi người. Làm sao chúng ta có thể ở lại trong tình yêu của Người? Chúa Giêsu trả lời cho chúng ta: “Hãy giữ các giới răn của Thầy.” Vậy đâu là giới răn của Chúa mà chúng ta cần phải tuân giữ? Câu trả lời có ngay ở đây: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nói cách khác, Chúa Giêsu nói rằng hãy tiếp tục sống gia phả tình yêu chúng ta: Thầy đến từ Thiên Chúa Cha là Tình Yêu, Đấng đã yêu mến Thầy và sai Thầy đến và yêu thương anh em. Giờ đây, anh em hãy yêu thương nhau. Đừng để cho tình yêu của Chúa Cha vô hiệu quả hay không mang lại hoa trái gì cho đời sống chúng ta.
3- Yêu thương như Thầy đã yêu
Để tình yêu của chúng ta sinh hoa trái nhiều, chúng ta hãy nhìn vào cách thức mà Chúa Giêsu thể hiện tình yêu đối với chúng ta. Người nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, còn chúng ta là thụ tạo, nhưng Người đối xử với chúng ta như bạn hữu, nghĩa là ngang hàng, bình đẳng và tôn trọng. Việc Người đối xử với chúng ta như bạn hữu có nghĩa là sẵn sàng chia sẻ những gì Người đã nghe biết từ Chúa Cha. Chúng ta được mời gọi học nơi Chúa Giêsu về điểm này, để xây dựng mối tương quan bằng hữu với tha nhân, sống và loan truyền tình bằng hữu với anh chị em này mỗi ngày trong đời sống như một thứ linh đạo cho các mối tương quan liên vị. Theo đó, chúng ta không nhìn và đối xử với người khác như là những nô lệ, như hàng hóa hay như đối tượng để lợi dụng và lạm dụng cho lợi ích riêng của mình, và khi chúng ta không cần đến họ nữa, hay thấy họ không còn lợi ích gì nữa, chúng ta loại trừ và vứt bỏ họ ra ngoài một cách không thương tiếc. Không thể chấp nhận! Nhưng chúng ta hãy đối xử với mọi người như Chúa Giêsu đã đối xử, hãy coi họ như bạn hữu, chứ không phải là kẻ thù, hãy coi họ đều là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa cần được tôn trọng, yêu mến và phục vụ.
Như thế, “yêu thương như Thầy” cũng có nghĩa là đối xử với người khác như bạn hữu. Vì Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như bạn hữu, chúng ta hãy đối xử với nhau như là bạn hữu. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói về tình yêu cao cả nhất: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Nếu tôi nhìn thấy người khác là bạn hữu như Chúa Giêsu đã yêu, tôi sẽ tôn trọng họ và hiến mình cho họ. Và nếu tôi nhận thấy mình là hoa trái tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu vị tha hoàn toàn vì chúng ta, tôi cũng sẽ hiến thân vì người khác.
Mặc dầu ngày hôm nay, chúng ta không được mời gọi phải tử đạo bằng cái chết đau đớn, nhưng bằng việc hiến thân mình cho người khác hằng ngày trong đời sống, bằng cách yêu mến họ theo cách thức mà Chúa Giêsu dạy chúng ta là đối xử với nhau như bạn hữu của Chúa.
Ở phần cuối, Chúa Giêsu còn muốn nói đến sứ mạng của chúng ta là được sai đi để sinh nhiều hoa trái. Đó là tình yêu truyền giáo. Nghĩa là chúng ta được sai đi truyền giáo không phải để làm một số công việc, nhưng là để làm phát sinh nhiều hoa trái tình yêu.
Sống một xã hội đang bị sa mạc hóa về tình thương, chúng ta được mời gọi phải phục hồi gốc rễ tình yêu của chúng ta chính bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Tình yêu đó phổ quát dành cho hết mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên đã sai Chúa Con và Thánh Thần đến với chúng ta. Chúa Giêsu đã yêu thương và hiến mình vì chúng ta. Nên giờ đây, chúng ta được mời gọi kiến tạo và làm phát sinh tình yêu đối với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta biến xã hội này trở thành một đại gia đình mà trong đó, con người đối xử với nhau bằng sự thật, công lý và bác ái của Tin Mừng. Amen!
Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi mọi người: “Phàm nhân hỡi, Ta mời gọi các ngươi đó PS 6-B163
Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi mọi người: “Phàm nhân hỡi, Ta mời gọi các ngươi đó, Ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài người.” (Cn 8:4) Trước tiên chúng ta phải nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Sau đó còn các dạng mời gọi khác, cụ thể nhất là hoàn thiện để nên thánh.
Con người yếu đuối và sa ngã, nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc, vẫn tiếp tục mời gọi vì muốn cứu chúng ta. Thánh Catherine Genoa cho biết: “Khi linh hồn sống trong tình trạng tội lỗi, Thiên Chúa tự nội tâm không ngừng thúc bách và mời gọi. Nếu linh hồn đáp ứng những lời than van dịu hiền của Ngài, thì với lòng yêu thương tinh ròng như trước, Ngài tiếp nhận họ vào lại ân sủng của Ngài. Ngài không muốn nhớ lại linh hồn ấy đã từng sai lỗi, và Ngài không ngừng tỏ cho họ thấy mọi phúc lành họ có thể lãnh nhận.”
Thật lạ lùng, mặc dù chúng ta chỉ là tội nhân xấu xa, nhưng vẫn được Thiên Chúa yêu thương, tôn trọng: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh.” (Ga 10:34) Là “bậc thần thánh” thì không thể không nỗ lực hoán cải để nên thánh thực thụ. Ngài xác định: “Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ.” (Ga 10:35) Ngài đã hứa thì không bao giờ rút lời. Tuyệt đối.
Từ ngàn xưa, “sự thánh” đó đã được chứng minh: “Trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương, nên Ta đã thí bao người đổi lấy ngươi, nộp bao dân nước thế mạng ngươi.” (Is 43:4) Chúng ta chỉ là phàm nhân, là bụi tro nhưng lại được Thiên Chúa quý mến, coi trọng. Vô cùng kỳ diệu, chúng ta không thể hiểu nổi, nhưng đó là sự thật. Vì thế mà chúng ta càng phải nỗ lực sống tốt hơn để không phụ lòng Ngài.
Trong Thánh Lễ có nghi thức chúc bình an bằng cách cúi đầu chào nhau, thiết tưởng đó cũng là cách giúp chúng ta tôn trọng nhau, lịch sự tối thiểu. Ngày xưa, khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI PHÀM.” (Cv 10:25-26) Phong cách khiêm nhường thật đáng khâm phục. Không phải dễ mà nói được và làm được như ông Phêrô, vì “cái tôi” trong mỗi chúng ta luôn to lớn, lúc nào cũng rình “vùng lên,” và chúng ta gọi đó là tự ái.
Thiên Chúa mời gọi bất cứ ai, như ông Phêrô xác định: “Quả thật, tôi biết rõ thiên chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.” (Cv 10:34-35) Thiên Chúa không thiên vị, nhưng chúng ta thiên vị, do đó mà chúng ta thường coi trọng mối quan hệ này hơn mối quan hệ khác. Người giàu sang và có địa vị luôn được đề cao, còn người nghèo khó luôn bị coi thường. Ngay cả trong nhà thờ cũng có chỗ cao và chỗ thấp! Phải chăng người ngồi chỗ cao thì gần Chúa hơn và được nhiều ơn hơn người ngồi chỗ thấp? Tại sao có sự phân biệt giai cấp nơi tôn nghiêm như vậy?
Khi ông Phêrô nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Các tín hữu thuộc giới cắt bì đến đó với ông Phêrô cũng kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Đúng là Thiên Chúa không phân biệt ai hoặc điều chi cả. Ai nghe lời Ngài thì được Ngài chấp nhận,mọi người đều bình đẳng trước mặt Ngài, vì thế chúng ta đừng suy bụng ta ra ý Chúa.
Rồi ông Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47) Thế là ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Họ là những người nghe lời Chúa và đón nhận Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ được gia nhập vào cộng đoàn thánh, thuộc Giáo Hội của Chúa Giêsu, Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Rõ ràng đó là phép lạ do Thiên Chúa làm, chứ không do con người. Chúng ta chẳng là gì, chỉ là “dân ngoại,” nhưng chúng ta lại được Thiên Chúa mời gọi. Vô cùng kỳ diệu. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.” (Tv 98:1) Còn nữa, chính “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân, và đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Israel” để “toàn cõi đất này xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:2-3)
Thế thì rất hợp lý và đáng để chúng ta “tung hô Chúa và reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Niềm vui không chỉ tăng theo cấp số cộng, mà còn tăng theo cấp số nhân. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể tưởng tượng, nhưng thực sự chúng ta đã được chứng kiến các kỳ công của Thiên Chúa, cụ thể là không khí và chuỗi DNA – đơn giản mà kỳ diệu vô cùng. Đúng như Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe.” (Mt 13:16)
Được ban phúc vì được yêu thương, thế nên phải yêu thương. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã ĐƯỢC THIÊN CHÚA SINH RA, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:7-8) Lời nhắn nhủ đó là mệnh lệnh, nghĩa là phải thi hành. Ai được Thiên Chúa sinh ra thì phải biết yêu thương, ai biết yêu thương mới là người được Thiên Chúa sinh ra. Hệ lụy hoàn toàn hợp lý.
Như để giải thích thêm, Thánh Gioan nói: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4:9-10) Đó chính là mối liên kết trong Đức Giêsu Kitô mà chúng ta được mời gọi, càng ý thức được điều này thì chúng ta càng có thể kết hiệp mật thiết với Ngài, và được chứng minh qua việc yêu thương nhau.
“Hãy yêu thương nhau” là mệnh lệnh trong trình thuật Ga 15:9-17. Và đó cũng là lời mời gọi dành cho bất cứ ai mệnh danh là con người. Chúa Giêsu phân tích: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” Càng sống lâu càng nghe Chúa Giêsu nhắc nhở nhiều lần về tình yêu, về lòng thương xót, thế mà vẫn chẳng thi hành được bao nhiêu. Chẳng khác gì nghe rồi gió thổi bay mất vậy.
Xét theo Việt ngữ, danh từ yêu thương hoặc thương yêu, gồm hai từ nhưng có thể rút gọn còn một từ YÊU – và có thể coi đó là động từ. Rất ngắn gọn nhưng lại rất quan trọng suốt đời tín nhân chúng ta. Mọi nơi và mọi lúc đều cần yêu, ngay cả động vật cũng cần yêu. Yêu thương quan trọng, nhưng đâu phải cứ nói yêu là xong, mà phải chứng tỏ bằng hành động. Tình yêu không tiết ra chất hy sinh và đau khổ thì không thể gọi là tình yêu hoặc lòng thương xót. Thánh Gioan gọi người “mến Chúa mà không yêu người” là kẻ nói dối. (1 Ga 4:20) Có lẽ chúng ta đã nói dối quá nhiều!
Vì yêu thương rất quan trọng nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau NHƯ Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” Chúa Giêsu vừa mời gọi, vừa truyền lệnh, vừa nhắn nhủ, vừa động viên.
Nói xa nói gần, nói đi nói lại, nói tới nói lui, cuối cùng vẫn là YÊU THƯƠNG, “cô đọng” lại là YÊU. Chữ Yêu bdu bằng mẫu tự Y, nhìn giống như một người dang đôi tay, như Chúa Giêsu dang tay trên Thập Giá, và dang tay để ôm choàng mọi người. Thật lạ lùng biết bao!
Chúa Giêsu xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Được mời gọi và được chọn để sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa. Đó là bổn phận của mọi người mang danh là Kitô hữu.
Không ai dám tuyên bố mình là Chúa hoặc thiết lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu. Đạo của Ngài là Đạo Yêu Thương, những người theo Đạo Chúa cũng phải yêu thương mọi người, phải thương xót bất cứ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi chúng con cho đúng Thánh Ý Ngài, giúp chúng con yêu thương chân thành đối với mọi người, để ai gặp chúng con thì cũng gặp được Ngài, và chúng con gặp ai thì cũng gặp được Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tông đồ Công vụ” là cuốn sách ghi lại đời sống Giáo Hội thời kỳ sơ khai của cộng đoàn tín hữu PS 6-B164
“Tông đồ Công vụ” là cuốn sách ghi lại đời sống Giáo Hội thời kỳ sơ khai của cộng đoàn tín hữu Kitô. Tác giả luôn có cái nhìn lạc quan về đời sống đức tin và của các cộng đoàn. Những người tin Chúa gia tăng nhanh chóng. Những thày phù thùy bói toán cũng “bỏ nghề” mà gia nhập Giáo Hội của Chúa. Tâm trạng các tín hữu là vui mừng, mặc dù trải qua nhiều khó khăn ghen ghét từ phía một số đầu mục Do Thái. Có được niềm vui ấy là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh. Niềm vui ấy cũng đến từ việc mọi tín hữu chuyên tâm thực hiện những gì Chúa đã dạy, nhất là đức yêu thương, nhờ đó mà niềm vui của họ là niềm vui trọn vẹn, như Chúa đã hứa. Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ cho chúng ta nghe lại tâm tình của Chúa Giê-su qua những lời tâm sự của Người vào lúc kết thúc bữa tiệc ly. Đó là những lời yêu thương của một vị thầy đối với các môn đệ, của một người cha đối với các con trước lúc đi xa. Tiếp nối những lời dặn dò chúng ta đã nghe tuần trước, Chúa Giê-su tiếp tục mời gọi các môn đệ hãy ở lại trong tình yêu của Người. Nhờ việc “ở lại” này, mà mặc dù Người vắng bóng, các ông vẫn nhận rõ sự hiện diện đầy yêu thương của Người và nhờ đó lòng các ông tràn đầy niềm vui. Thế nào là một niềm vui trọn vẹn? Đó là khi kết hợp với Chúa Giêsu để nhờ Người dẫn tới Chúa Cha. Người xác tín vào Chúa không còn ủ dột lo lắng, nhưng an vui trong mọi tình huống của cuộc đời. Niềm vui trọn vẹn cũng là niềm vui chúng ta có được khi chân thành yêu mến người khác và mong muốn điều tốt đẹp đến với họ. Bởi lẽ niềm vui được chia sẻ là niềm vui được nhân đôi, và đó là niềm vui trọn vẹn hoàn hảo. Vào thời thư thứ nhất của thánh Gioan được viết ra, đức tin của một số tín hữu bị dao động do cách lập luận của một số người, nhằm gieo rắc chia rẽ nơi cộng đoàn. Thánh Gioan an khẳng định: Thiên Chúa yêu chúng ta trước, bằng chứng là việc Ngài sai Con Một của Ngài đến trần gian để chia sẻ phận người và chịu chết vì chúng ta. Theo tác giả, thực thi đức yêu thương đồng nghĩa với việc sinh bởi Thiên Chúa và ngược lại, ghen ghét là sinh bởi ma quỷ (Bài đọc II). Sau này, thánh Phaolô khẳng định: yêu thương là chu toàn Lề Luật. Niềm vui Phục sinh không chỉ dành cho người Do Thái, cũng không giới hạn với một số người được tuyển lựa, nhưng đó là niềm vui dành cho hết những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và tôn thờ Người. Đó là điều Phêrô đã cảm nghiệm, sau khi chính bản thân ông chứng kiến rất nhiều điều lạ lùng phi thường Chúa đã làm. Một trong những điều lạ lùng ấy là việc trở lại của gia đình ông Cornelio. Cùng một lúc, Chúa đã soi sáng cho cả hai người, Phêrô và ông Cornelio, để cho thấy bất kỳ ai cũng được đón nhận vào cộng đoàn tín hữu, và được chia sẻ niềm vui của những con cái Chúa. Trong gia đình của Thiên Chúa, không có phân biệt loại trừ, nhưng dù trong hoàn cảnh đời sống nào chăng nữa, con người vẫn luôn là đối tượng yêu thương vô bờ của Ngài. “Thày gọi các con là bạn hữu”. Lời nói này thật thâm sâu biết bao! Chúng ta thường có thói quen đọc lướt qua những lời trong Tin Mừng, nên ít khi dừng lại suy tư ý nghĩa của những câu từ được sử dụng trong các bản văn Kinh Thánh. Có lẽ không vị sáng lập tôn giáo nào lại nói với các môn sinh của mình bằng những từ ngữ ngọt ngào như thế. Chúa coi chúng ta là bạn, tức là kể chúng ta như những người tâm phúc với Chúa. Bạn bè là những người tri âm tri kỷ, hiểu nhau và sẵn sàng hy sinh giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. Nếu có Chúa là Bạn, chúng ta không còn sợ hãi lo lắng gì. Có Chúa là Bạn, chúng ta cũng nắm chắc phần rỗi. Có bao giờ chúng ta tâm sự với Chúa, thật gần gũi thân thiết, như với một người bạn không? Giữa cuộc đời còn nhiều phong ba bão tố, Đấng Phục sinh mời gọi chúng ta “Hãy vui lên!”. Lời gọi ấy xem ra vô nghĩa, đối với những người đang đau buồn trước sự ra đi của người thân, trước những đổ vỡ trong đời sống gia đình và trước những thất bại ê chề trong cuộc đời dương thế. Tuy vậy, kinh nghiệm đời thường cho ta thấy không thể ngồi mãi mà ôm nỗi đớn đau khi mất một người thân vì phía trước là cuộc sống, là tương lai và biết bao điều tốt đẹp đang chờ đợi. Lời Chúa cũng khẳng định với chúng ta, một khi vững tâm trông cậy vào Người, chúng ta sẽ vượt lên những gian nan, hàn gắn những thương tổn và cố sức để thành đạt. Sự tin cậy tín thác vào Chúa sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui trọn vẹn. Đấng Phục sinh còn sai chúng ta lên đường để đem niềm vui vào lòng cuộc đời, để niềm vui ấy sinh hoa kết trái, làm nở rộ những đóa hoa yêu thương. Đây là sứ vụ cao cả của người tín hữu, cũng là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta.
Ở Việt Nam những năm gần đây các lễ hội gia tăng rất nhiều. Mỗi năm vào Tháng Giêng có hàng PS 6-B165
Ở Việt Nam những năm gần đây các lễ hội gia tăng rất nhiều. Mỗi năm vào Tháng Giêng có hàng ngàn lễ hội. Cách chung, lễ hội là thể hiện niềm tin tín ngưỡng dân gian và để bảo tồn văn hóa dân tộc. Nhưng điều mà chúng ta thấy nơi các lễ hội, đặc biệt là Miền Bắc rất hiếm khi thấy lễ hội có bàu khí linh thiêng, hướng lòng cầu nguyện và đáng buồn là ở nơi đó không hề có yêu thương.
Như lễ hội Đền Trần ở Nam Đinh người ta sẽ thấy gì? Một nơi hỗn tạp với cảnh chen lấn, giẫm đạp, ẩu đả. Người ta đạp lên đầu nhau, xéo lên bàn thờ để cướp hoa, giành lộc… Không còn là xin ấn, phát ấn, thụ lộc, mà là cướp lộc, cướp ấn, giành ấn, mua bán ấn. . . Rồi người ta cũng thấy cảnh giẫm đạp lên nhau để tranh cướp quả Phết ở Vĩnh Phúc; biến lễ hội ném cà chua cầu may ở Thanh Hóa thành nơi giải quyết mâu thuẫn cá nhân thậm chí dùng hung khí tước đi mạng sống của người khác ngay tại cửa chùa Hà Tĩnh…là những cảnh tượng không ai muốn chứng kiến ở những lễ hội ngày đầu năm.
Niềm tin của bất kỳ hình thức tín ngưỡng nào cũng phải hướng con người về tình yêu thương, sự hiệp nhất và đùm bọc lẫn nhau. Không có yêu thương nơi đó chỉ có tranh chấp, giành giựt, ẩu đả . . . Xem ra các nhà văn hóa cần phải tìm về cội nguồn của lễ hội để sống tình liên đới yêu thương, chứ không dùng lễ hội để mua vui hay trục lợi sẽ làm mất đi giá trị văn hóa của dân tộc!
Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Chúa Giê-su Đấng thiết lập giáo hội chỉ giới thiệu cho nhân loại một tôn giáo quy tụ những con người yêu thương nhau nên một trong một đức tin và đức mến. Điều này chúng ta thấy rõ nét trong ngày an táng Đức Cố Tổng Phaolo Bùi Văn Đọc. Hàng ngàn người chung một tâm tình cầu nguyện cho Đức Tổng Phaolo. Hàng ngàn người nối đuôi nhau đi bên linh cửu của Đức Tổng vài cây số trong trang nghiêm trật tự. Đây là nét đẹp của tôn giáo. Nét đẹp của hiệp nhất và yêu thương.
Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su tha thiết mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Chính tình yêu của Ngài nối kết mọi con tim thành một cộng đoàn yêu thương. Khi con người ở lại trong tình yêu Chúa và của nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn, niềm vui sẽ trọn vẹn. Đây cũng là giới răn cao trọng mà Chúa muốn người Ngài yêu mến phải tuân giữ là “Anh em hãy yêu thương nhau”.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với cho nhau? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chắc chắn có rất ít!
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Nhiều gia đình đang đổ vỡ vì thiếu yêu thương. Nhiều vợ chồng sống với nhau bằng mặt nhưng không bằng lòng. Tình yêu đã chết, con tim cũng chết chỉ còn những tháng ngày sống bên nhau lạnh lùng, đôi khi còn đầy đọa nhau. Nhiều gia đình chồng độc đoán luôn coi mình là nhất nên xem thường vợ con, và cũng nhiều người vợ lại quá ích kỷ chỉ lo cho bản thân nên thiếu hy sinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trân trọng tình yêu mà chúng ta đang có. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa và tha nhân. Ở lại mời gọi chúng ta đừng phụ nghĩa vong ân với tình yêu mà Chúa cũng như mọi người dành cho chúng ta. Ở lại bằng việc trung thành tuân giữa giới răn Chúa cũng như chung thủy với người mình thương.
Ước gì chúng ta biết tuân giữ lời Chúa để tình Chúa mãi ở lại trong chúng ta. Ước gì chúng ta đừng xa rời tình yêu của cha mẹ, của bạn bè, người yêu chỉ vì ích kỷ của bản thân mà có lỗi với nhau. Xin Chúa giúp chúng ta biết trung thành với Chúa và với nhau qua việc tuân giữ giới răn của Người. Amen
Chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con trước đó. Chẳng phải con đã yêu PS 6-B166
“Chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con trước đó. Chẳng phải con đã yêu Chúa, nhưng chính Ngài yêu con từ trước. Từ lúc con chưa biết yêu Ngài, từ lúc con chưa nhận biết Ngài, Ngài yêu con giữa muôn người Ngài đã chọn con.”
(Chính Chúa Chọn Con – Hoàng Thy)
Lời ca âm vang trong tâm hồn người môn đệ. Còn nhớ mới ngày nào được Thầy gọi tên, người môn đệ hạnh phúc ngập tràn khi được làm đệ tử của Thầy. Là một người ngư phủ ít học, quê mùa hay một người thu thuế tội lỗi,… mỗi người đều cảm nhận được tình thương của Thầy dành cho mình quá đỗi bao la.
Hôm nay, lời ca trên cũng âm vang trong tâm hồn ta khi suy gẫm đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Lắng nghe Lời thầy vang vọng bên tai, đi sâu vào tâm hồn, ta thốt lên: “Bởi đâu tôi được Chúa thương như vậy?” Thầy Giêsu là Con Một của Chúa Cha nên được Chúa Cha yêu thương. Còn tôi, một con người tội lỗi yếu hèn cũng được Chúa thương như cách Chúa Cha yêu Con Một hay sao? Lời Thầy Giêsu đã khẳng định như vậy và chính tình yêu Thầy dành cho ta và nhân loại đã nói lên điều đó. Con Thiên Chúa làm người và đã sống kinh nghiệm là người trong từng giây phút hiện hữu. Thầy Giêsu là cây nho còn ta là cành nho. Thầy nuôi dưỡng ta cho ta được lớn lên trong Thầy khi liên kết với Thầy, chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái hơn. Là Cây, Thầy Giêsu cũng chịu “cắt tỉa” theo thánh ý Chúa Cha. Thầy đã sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 8). Từ trên thánh giá, Thầy vẫn hát mãi lời ca yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Để tha thứ đòi hỏi ta phải có một tình yêu phát xuất từ nguồn tình yêu vô bờ bến là Thiên Chúa. Ta hãy khắc ghi trong tâm hồn lời Thầy đã dạy“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12). Lòng chân thành sẽ nối kết những trái tim đến gần với nhau. Chính tình yêu sẽ dẫn đường cho ta bước đi đến gần bên nhau. Một tình yêu cụ thể bằng những hành động, bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm.
Lạy Chúa! Nhìn về ơn gọi là môn đệ, con hiểu rằng ơn gọi con đang sống là hồng ân của Chúa. Chẳng phải con đã chọn Chúa như chính Chúa đã chọn con và cắt cử con ra đi, sinh hoa trái và để cho hoa trái tồn tại. (x. Ga 15, 16). Lạy Chúa! Con xin dâng lên Chúa tâm tình của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng là tâm tình của con trong hiện tại, là khát khao con dâng lên Chúa:
“Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An.” Amen.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng luôn mong muốn sống và tuân giữ các điều răn của Chúa. Trong các PS 6-B167
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng luôn mong muốn sống và tuân giữ các điều răn của Chúa. Trong các điều răn, điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 15,9).
Thật sự, giữ điều răn Chúa là một chuyện, còn việc thực hành lại là chuyện khó hơn. Trong cuộc sống hằng ngày, lời yêu thương trao cho nhau cũng không khó, cái khó là hành động yêu thương. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương như Ngài yêu. Từ “như” không chỉ xác định là tương tự hay là giống nữa mà là một sự bằng nhau. Nghĩa là chúng ta hãy yêu thương anh em bằng Chúa yêu chúng ta vậy. Chúa yêu chúng ta không chỉ trên thánh giá mà ngay trong những công việc và lời nói của Chúa khi còn ở thế gian. Chúng ta không thể quên cử chỉ đẹp Thầy đã làm cho các môn đệ qua việc rửa chân (x. Ga 13,1). Chúa Giêsu là Đấng tối cao mà còn cúi xuống rửa chân cho người tội lỗi thấp hèn. Ngài tự hạ khiêm nhường và không chần chừ phục vụ. Tình yêu của Chúa là thế đó. Chúa không mời gọi chúng ta yêu như Chúa yêu cách trọn vẹn vì Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta. Dù vậy, đó cũng là mục đích để chúng ta mỗi ngày phải vươn tới.
Vậy, yêu thương anh em là như thế nào? Một em bé đến sà vào lòng mẹ mà nói: “Con yêu mẹ!”, rồi thơm vào má mẹ một cách tự do. Còn Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương là tha thứ, hy sinh, phục vụ và trao ban. Nhưng đôi khi chúng ta lại rơi vào sự nhầm lẫn giữa yêu thương và trách nhiệm. Yêu thương khác với trách nhiệm. Chúng ta cứ nghĩ yêu thương là phải có trách nhiệm với người ta. Do đó, chúng ta ăn gì, uống gì, sống làm sao thì người ta yêu thương là như vậy. Tôi có uống liều thuốc cảm nào thì người đó cũng phải uống liều thuốc ấy. Và như thế, chúng ta rơi vào sự yêu thương ích kỷ. Yêu thương là chúng ta phải trở nên người hòa giải chứ không là người trung gian. Chúng ta hãy sống cho và vì người khác như Chúa Giêsu đã sống và chết cho chúng ta. Người yêu thương là người biết quên mình và quảng đại với mọi người xung quanh.
Trong cuộc sống chung hằng ngày, chúng ta thấy rằng có rất nhiều chuyện xung khắc dễ xảy ra. Lỗi có thể một phần do người, nhưng lắm khi một phần cũng do người chúng ta. Chúng ta thường cố chấp không chịu nhận lỗi và hay đổ lỗi cho người khác. Đành là vậy, nhưng chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa đã dạy sự yêu thương là thế nào. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có mắt, có đôi tai và bàn tay thì chúng ta hãy mở đôi mắt ra nhìn mọi người xung quanh như người Samari tốt lành đã cứu chữa người bị nạn bên vệ đường; dùng đôi tai để lắng nghe những tiếng kêu cứu và dùng đôi tay để nâng đỡ bao người. Chúng ta hãy sống yêu thương để có hạnh phúc và được hưởng niềm vui trong Nước Trời.
Lạy Chúa! Xin ban cho chúng con có lòng bác ái để con biết yêu thương mọi người không trừ một ai như lời Chúa dạy. Amen.
Các con tuân lệnh Thầy truyền, Như Cha yêu mến, lời nguyền sắt son. Thầy hằng thương mến các con PS 6-B168
Các con tuân lệnh Thầy truyền, Như Cha yêu mến, lời nguyền sắt son. Thầy hằng thương mến các con, Thực hành ý Chúa, vẹn tròn tin yêu. Vững tin tuân giữ mọi điều, Cha Thầy ưu ái, thiên triều chốn đây, Chính Thầy vâng lệnh Cha Thầy, Niềm vui chan chứa, đong đầy tâm can. Các con yêu mến thiên nhan, Vì Thầy thí mạng, thế gian tội tình. Tình yêu bạn hữu sinh linh, Không còn tôi tớ, coi khinh chối từ. Ơn Thầy chọn gọi riêng tư, Sai làm nhân chứng, anh thư giữa đời. Sinh hoa kết trái mọi thời, Yêu thương thông cảm, mọi người anh em.
Đây là lệnh truyền của Thầy:“Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.” Bất cứ ai không yêu sẽ không biết Chúa, vì Chúa là tình yêu. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu. Tình yêu hôn nhân, tình yêu gia đình, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu giữa anh chị em, tình yêu trai gái và tình yêu bạn bè…. Hơn nữa chúng ta có tình yêu giáo hội, yêu tổ quốc và tình yêu tha nhân.
Một đặc điểm của tình yêu là hy sinh và cho đi. Chúa yêu thương chúng ta, Ngài đã cho đi tất cả và cho cả mạng sống. Cho đi tới giọt máu cuối cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu vô điều kiện. Làm sao chúng ta có thể đáp trả tình yêu của Chúa. Chúa truyền cho chúng ta là hãy yêu nhau. Trong đời sống hằng ngày, vợ chồng yêu nhau, hy sinh cho nhau, nhường nhịn và kính trọng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ. Yêu cha mẹ thì chúng ta phải thông cảm cho những nỗi khổ tâm của cha mẹ. Yêu tha nhân thì nâng đỡ và chia gánh nặng với họ cả tinh thần lẫn vật chất.
Yêu là cho đi. Cho đi qua ước muốn với những ý hướng tốt. Cho đi qua thái độ, cử chỉ và cách thế giao tiếp. Hãy cho đi những thái độ tự nhiên, cởi mở và khiêm tốn. Có thể trao cho nhau một nụ cười, một cái nhìn thông cảm và một câu chào hỏi lễ phép. Đó cũng là biểu tỏ của tình yêu. Truyện kể có một ông lính già xấu xí vì bị thương tích. Không ai muốn làm bạn với ông. Khi chết, ông còn để lại một di chúc. Xin trao tất cả số tiền ông có cho một em bé gái, vì ông viết rằng cả đời ông đã không nhận được món qùa nào qúy trọng bằng nụ cười thông cảm của một em bé gái.
Tình yêu Chúa cao vời và bao la như biển khơi. Chúng ta được ngụp lặn trong tình yêu của Chúa, trong khi tình yêu của chúng ta lại ích kỷ và hẹp hòi. Chúng ta bị giới hạn và còn so đo tính toán hơn thiệt trong tình yêu đối với tha nhân. Không dễ để hy sinh và cho đi nếu tình yêu không được đáp trả. Chúng ta luôn muốn rằng dù tình yêu nào đi nữa cũng cần có qua có lại.
Tình yêu của Thiên Chúa đôi khi là tình đơn phương. Chúa luôn kiên trung trong tình yêu với con người, nhưng con người đã nhiều lần ngoại tình và đã phản bội tình yêu. Chúa Giêsu nói rằng: Không có tình yêu nào cao qúi hơn mối tình của người dám thí mạng vì bạn hữu. Chúa nói và Chúa đã thực hiện.
Thánh Maximilien Kolbe là mẫu gương. Ngài là một tù phạm của Phátxít Đức. Theo luật, khi có một người trốn trại, 10 người khác phải chết thế. Họ đọc danh sách 10 người. Trong đó có một người đàn ông, cha của một gia đình có tên trong danh sách phải chết. Vợ con ông khóc lóc thảm thiết. Cha Kolbe giơ tay chịu chết thế cho người bạn tù.
Tình yêu là thế. Chỉ có tình yêu mới lấp được hận thù, tình yêu này phản ảnh tình yêu của Chúa Kitô. Lạy Chúa, xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào tâm hồn chúng con, để chúng con cùng chia xẻ tình yêu với anh em chúng con.
Ngạn ngữ Pháp có câu : “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir en peu). Cuộc ra PS 6-B169
Ngạn ngữ Pháp có câu : “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir en peu). Cuộc ra đi nào cũng hàm ngậm bao lưu luyến, có khi kèm theo cả nước mắt lẫn ngậm ngùi. Cuộc từ biệt của Chúa Giêsu cũng vậy. Trong những giây phút thầy trò quấn quít bên nhau với bao vương vấn, Chúa cũng để lại những lời tâm huyết sau cùng như một di chúc thiêng liêng. Những lời di chúc đó vẫn thường được các nhà chú giải gọi là ‘Diễn từ biệt ly’. Hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời tâm huyết này với lời nhắn nhủ của Chúa : “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Giới răn mới
Yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống con người. Triết gia Aristotle đã nói : “Tính hẹp hòi và ích kỷ sẽ biến con người trở nên dã thú. Trái lại, khi chúng ta biết sống yêu thương với lòng nhân ái, chúng ta sẽ trở nên như thần thánh”. Triết lý Á Đông cũng đề cao phương châm ‘Tứ hải giai huynh đệ’, mọi người bốn bể đều là anh em với nhau. Học thuyết của các tôn giáo khác cũng dạy con người phải sống từ bi, công bình và bác ái. Vì vậy, người ta vẫn thường hay nói rằng đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành, chẳng có tôn giáo nào cổ xúy việc thù hận và chém giết cả.
Nếu như thế, đạo lý Kitô giáo có gì khởi sắc và mới lạ? Tại sao sống yêu thương lại là giới răn mới mà Chúa đã truyền thụ lại cho các học trò của mình?
Để trả lời cho vấn nạn này, chúng ta hãy bình thản đọc lại và suy gẫm những điều Chúa nói hôm nay, nhất là phải đặt mình vào trong bối cảnh của bữa tiệc ly, lúc Chúa Giêsu chuẩn bị đi vào hành trình Thập giá và tiến nhận cái chết. Sứ điệp yêu thương mà Chúa nói đến, không phải là những sáo ngữ rỗng tuếch giống như những lời hiệu triệu nặng tính hình thức của các lãnh tụ chính trị trên khắp thế giới. Họ nói rất hay, họ nêu ra những khẩu hiệu nghe rất hoành tráng, nhưng cuộc sống thực tế của họ có khi khác hẳn. Trái lại, huấn lệnh mà Chúa Giêsu ngỏ trao cho các môn sinh trong bữa tiệc ly là lời cắt nghĩa cụ thể về mầu nhiệm Thập giá, nơi đó Chúa Giêsu đã hiển thị những lời giáo huấn bằng hành động. Ngài đã trao ban tất cả và vẫn còn yêu thương mãi mãi cho đến vô tận.
Đây là giới răn mới, vì đó là cái khung của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu đã đổ ra trên Thánh giá, thay cho máu của chiên bò trong giao ước cũ. Giới răn yêu thương Chúa nói ở đây không chỉ dừng lại trên bình diện nhân bản, nhưng đã được nâng lên một tầm cao mới mang chiều kích thánh thiêng. Hãy ‘Yêu như Thầy đã yêu’. Tình yêu ở đây đã được thần hóa, không phải chỉ là những tình cảm thuần túy nhân lọai, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, bởi vì bản tính của Thiên Chúa chính là tình yêu. Thánh giáo phụ Basiliô đã viết : “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã mang lấy kiếp người, để khi đáp trả và sống hoàn hảo ơn gọi tình yêu, con người sẽ được trở nên Thiên Chúa”. Giới răn mới Chúa nói tới hệ tại ở điểm mấu chốt này.
Những bài học minh họa
Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ngài cũng không dạy các học trò bằng sách vở hay bằng những bài học mô phạm trên lý thuyết. Ngài dạy dỗ bằng chính cuộc sống cụ thể của mình, và cao điểm là chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Vì vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể khẳng quyết : “Không ai có tình yêu cao cả cho bằng người dám hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa ăn cuối cùng, Chúa còn minh họa bài học yêu thương bằng hành vi khiêm hạ, cúi xuống để rửa chân cho các học trò. Việc rửa chân, theo phong tục của người Do Thái, là những công việc chỉ dành cho các ‘Oshin’, những người nô lệ được ông chủ mua về để phục dịch. Vì thế, sau khi rửa chân, Chúa đã giải thích cho các môn đệ : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau (Ga 13, 14)”.
Chúa Giêsu đã thực hiện những nghĩa cử yêu thương và ban những giáo huấn thân tình cho các môn sinh trước lúc lên đường thụ nạn. Phía trước Ngài là cả một bóng tối dầy đặc của sự chết do tội lỗi con người gây ra. Ngài cảm thấu và thấy trước sự phản bội chua chát của Guiđa. Ngài biết những yếu đuối của Phêrô khi ông nhát đảm chối bỏ vị tôn sư khả kính. Chúa cũng nhìn thấy sự ghê tởm và hung hãn của các đầu mục Do Thái cũng như của toàn dân khi họ đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tướng cướp. Nhưng Chúa Giêsu đã chấp nhận tất cả vì một động cơ duy nhất, đó là tình yêu dành cho con người. Vì thế ngay từ đầu diễn từ biệt ly, thánh ký Gioan đã viết : “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Yêu thương và tha thứ
Tình yêu mà Chúa Giêsu thể hiện hàm ngậm sự tha thứ vô điều kiện. Đứng trước sự phản bội của Guiđa, Chúa Giêsu đã không kết án anh ta. Ngài chỉ buồn bã thốt lên : “Thà nó đừng sinh ra thì hơn”. Đứng trước sự yếu nhược của Phêrô, ánh mắt của Chúa đã quét ngang khuôn mặt của ông tại sân nhà thượng tế Caipha và khơi dậy nơi vị tông đồ cảm thức thống hối. Cũng vậy, đối diện trước sự hung hãn và tàn bạo của những kẻ giết mình, Đức Giêsu vẫn lên tiếng cầu nguyện : “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Giới răn mới mà Chúa Giêsu nói hôm nay luôn đi đôi với lòng bao dung và sự tha thứ. Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta đừng bao giờ vội vã kết án người khác, nhưng hãy tự lục soát lương tâm, xem mình đã thực hành luật yêu thương ấy như thế nào. Chúng ta đừng chỉ đấm ngực mình và đọc lớn tiếng ‘Lỗi tại tôi’ trong nhà thờ khi đi dự lễ, còn khi bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại cứ thích ‘đấm nhầm’ qua ngực của người khác, bằng cách nói hành nói xấu hoặc đổ lỗi cho nhau, thậm chí còn vu khống cả những anh chị em đang sống bên cạnh mình.
Kết luận
Người ta vẫn thường nói : “Con đường dài nhất chính là con đường đi từ cái đầu đến đôi tay”. Là Kitô hữu, chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về luật yêu thương. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là chúng ta đã hiểu giáo huấn đó ra sao, nhưng chính là việc chúng ta đã sống và thực hành giới răn đó trong cuộc sống hằng ngày như thế nào.
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Gen 1:27), cho nên ngay từ bẩm sinh PS 6-B170
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Gen 1:27), cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Trong bài đọc 2, Thánh Gioan Tông Đồ đã trả lời cho chúng ta: ”Vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, Ngài ban cho chúng ta tình yêu ấy để chúng ta yêu Ngài và yêu nhau. Chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó.
Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói: ”Này là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi” (St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói: ”đồng bào ruột thịt.” Đồng bào có nghĩa là chung một bào thai sinh ra; đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt.
Thiên Chúa không những yêu thương con người, đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban ơn cứu độ, nâng con người sa ngã lên, một việc làm còn lớn lao hơn việc tạo dựng. Tình yêu ấy đã được Thánh Gioan tông đồ mô tả: ”Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16).Ngài đã dám gánh tội chúng ta, đã chịu chết để đền tội cho ta. Ngài không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: ”Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người thí mạng vì người yêu” (Ga 15,13).
Ngoài ra, Ngài cũng còn tỏ lòng thương yêu chúng ta bằng cách tôn chúng ta lên làm bạn hữu của Ngài: ”Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu” (Jn 15:5). Thực sự, chúng ta không xứng đáng được gọi là tôi tớ Thiên Chúa vì chúng ta là vật thọ tạo đã dám xúc phạm đến Ngài, đến Đấng đã tạo dựng nên mình. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Ngài dành cho chúng ta.
Đức Giêsu muốn truyền lại cho các tông đồ: ”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, vì yêu thương là một lệnh truyền duy nhất gồm tóm mọi lệnh truyền khác (x. Mc 12,28-34). Lệnh truyền này là chúng ta yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Và khuôn mẫu của tình yêu thương là Đức Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này có rất nhiều đặc tính mà chúng ta cùng tìm hiểu để áp dụng vào đời sống thường ngày của chúng ta.
Chúng ta nên lưu ý đến chữ nhau và chữ như, hai chữ ấy nói lên mức độ của tình yêu cả chiều rộng lẫn chiều sâu:
“Yêu thương nhau” nói lên chiều rộng của tình yêu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương nhau. Chữ “nhau” giả thiết phải có hai người trở lên. Vậy phải yêu ai và yêu bao nhiêu người? Chúa không bảo hai vợ chồng hay hai tình nhân yêu nhau, mà bảo phải yêu thương tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Vì thế, ta không nên hiểu chữ “nhau” này theo nghĩa hẹp, chỉ nhằm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta mà thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Cha Zosima nói trong cuốn sách “Anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: ”Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mọi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự” (Flor McCarthy).
“Yêu như” nói lên chiều sâu của tình yêu. Phải yêu thương mọi người không trừ ai, lại còn phải yêu thương với một tình yêu sâu đậm như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Trong Thông điệp “Ánh sáng rạng ngời”, Đức Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể… Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của Người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy” (Số 20).
Một trong các đặc tính của tình yêu là “trao ban”, là cho đi. Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: ”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả.” Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng: ”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ”, thì Thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ mà Thánh nữ sáng tác: Sống yêu đương chính là cho tất cả; Trên đời này không đòi hỏi công lao. Không tính toán, không kể cholà bao; Vì đã yêu có khi nào suy tính.
Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai tại Palestine là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người. Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
“Cho thì có phúc hơn nhận” (Act 20:35). Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 154).
Tục ngữ Tây phương có câu: ”Partir, c’est mourir un peur”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một hy sinh; hy sinh làm ta đau khổ và đau khổ được coi như chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết: ”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật” (Pierre l’Ermite).
Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Nếu đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của nhà văn Khái Hưng, ta thấy cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên rừng để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì ”em phải sống để lo cho các con.” Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống.” Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
Thánh Gioan Tông Đồ luôn khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau. Yêu thì có năm bảy đường yêu, nhưng tình yêu đòi hỏi sự chân thật. Ngài khyên: ”Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19).
Nhiều người chỉ yêu thương hời hợt bên ngoài, lòng họ chẳng yêu gì; đúng là họ chỉ yêu trên đầu môi chót lưỡi như Thánh Gioan đã nói ở trên. Vì thế người ta nói: “Tôi yêu anh vạn; Tôi mến anh nghìn. Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua.” Những người này người ta liệt vào loại: “Thương miệng thương môi; Thương miếng xôi miếng thịt.”
Trong một nghĩa địa, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn miệng nói một câu thảm thiết: “Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để tôi khổ thế này?” Người coi nghĩa địa muốn an ủi, bèn hỏi: “Người quá cố là cha hay anh ông vậy?” Con người khốn khổ rên rỉ: “Không phải cha, không phải anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!”
Rất nhiều người đã thực hành lời khuyên ”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12), bằng cách thể hiện ra trong những việc làm cụ thể hằng ngày. Trong một ngôi làng tại dẫy núi Alpes ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dùng một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân. Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện đó như sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn; người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi huê lợi trở nên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mìnhcòn độc thân, nhưng anh mình còn phải nuôi cả một gia đình.” Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có đồng một ý tưởng đó và tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình có cả gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân.” Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Tại nơi đây, họ đã xây dựng một ngôi nhà thờ, bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Chúa (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 271-272).
Một vị trưởng lão Rabbi hỏi đệ tử của mình rằng: “Làm sao con có thể biết được khi nào đêm PS 6-B171
Một vị trưởng lão Rabbi hỏi đệ tử của mình rằng: “Làm sao con có thể biết được khi nào đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” Người đệ tử suy nghĩ một lúc rồi trả lời, “Khi nào ngài nhìn thấy một con vật từ đằng xa và có thể nói đó là con cừu hay con chó.” “Không phải đâu con,” thầy Rabbi trả lời, “suy nghĩ lại đi con.” Người đệ tử chau mày suy nghĩ nhưng không tìm ra giải đáp. Rồi thầy Rabbi mới nói, “Đó là khi con nhìn vào mặt một người và thấy rằng đó là anh chị em của con. Nếu con không thể nhìn thấy điều này, thì vẫn còn là ban đêm.”
Chúng ta chưa phải là Kitô hữu thực sự khi chúng ta chưa nhìn thấy người khác như là anh chị em của mình. Phúc Âm hôm nay, Gioan 15: 9-17, là những lời trăn trối sau cùng của Chúa Giêsu cho môn đệ vào đêm trước khi Ngài tử nạn: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15:12). Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, không phải chỉ nhìn mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình mà còn nhìn thấy Chúa Kitô ở trong họ nữa.
Một em bé gái quỳ xuống bên cạnh giường cầu nguyện trước khi đi ngủ. Lời cầu nguyện của em như sau: “Lạy Chúa, con thông cảm với sự khó khăn của Chúa phải yêu thương hết mọi người trên thế giới. Gia đình con chỉ có bốn người mà không bao giờ con yêu thương hết tất cả được.”
Phải, chỉ yêu mến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng thân thuộc, và bạn hữu quen biết thôi mà chúng ta còn chưa thực hành nổi, nói chi đến những người nghèo khổ lang thang ngoài đường, những người trộm cắp, tội phạm… và nhất là kẻ thù của mình (Mt 5:44). Đây là sự thách thức lớn lao cho tất cả mọi người mang danh Kitô hữu, sự thách thức của Tin Mừng do chính Chúa Giêsu giảng dạy.
Luật cũ của Do Thái đòi buộc: Yêu người lân cận như chính mình (Lv 19:18). Lấy tình yêu mình là trung tâm. Sự ích kỷ là tiêu chuẩn để cư xử. Nhìn vào mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình!
Luật mới của Chúa Giêsu đòi buộc: Yêu tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Lấy tình yêu Thiên Chúa là trung tâm và tiêu chuẩn để cư xử. ” Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15: 12) (GLCG # 1970).
Luật mới đòi hỏi hơn luật cũ (Rm 15:7). Nó mở rộng đối tượng yêu thương từ lân cận, hàng xóm qua tất cả mọi người tha nhân. Nó nâng cao tiêu chuẩn yêu thương, từ vị kỷ sang tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa thì vô cùng bao la đến nỗi Ngài đã hy sinh tính mạng của mình cho chúng ta trên thập giá. Yêu và chết cho người mình yêu là tiêu chuẩn cư xử của tất cả mọi người Kitô hữu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng mình vì bạn hữu” (Ga 15:3) (GLCG # 1965-1974).
Cuốn phim “Cứu Sống Hạ Sĩ Ryan”- “Saving Private Ryan” đã đoạt 5 giải Oscar 1999, với 11 nominations, kể về một câu chuyện đã xảy ra hồi đệ II thế chiến. Quân đội Mỹ đổ bộ xuống bờ biển Normandy của Pháp để bắt đầu cuộc tấn công qui mô của quân đội đồng minh chống Phát Xít Đức.
Trong câu chuyện này tài tử Tom Hanks đóng vai Đại úy Miller. Ông được trao trách nhiệm dẫn một toán 7 cảm tử quân xông vào vùng đất địch để giải thoát cho một đồng đội có tên là Ryan. Bộ chỉ huy giao sứ mạng này cho Đại úy Miller chỉ vì tình thương đối với bà Ryan. Bà có 3 người con bị báo cáo là đã tử trận tại chiến trường rồi, nhưng thực ra còn một người nữa chưa chết, mới chỉ bị kẹt trong vùng đất địch mà thôi. Vì thế Đại úy Miller bằng mọi giá phải cứu sống Ryan về cho bà mẹ đáng thương đó!
Để cứu được Ryan, 8 người lính cảm tử đã phải trải qua những cảnh tượng ghê rợn nhất của bom đạn, chết chóc, máu me, và thương tích. Thật là hãi hùng với cảnh tượng một người lính đã bị cắt cụt một cánh tay; cánh tay còn lại cứ ôm chặt cánh tay cụt của mình mà chạy như điên. Một người lính đã bị thương lòi ruột ra ngoài cố gắng nhồi nhét đống ruột bầy nhầy trở lại bụng mình. Cảnh một anh lính than khóc gọi mẹ như một đứa trẻ nít. Hay dã man hơn nữa, cảnh một người lính Đức đâm lưỡi lê vào ngực người lính Mỹ, rồi theo cơn căm phẫn từ từ đẩy lưỡi lê vào sâu hơn, trong tiếng thì thầm hung dữ bên tai nạn nhân.
Sau cùng cả Đại úy Miller và 7 cảm tử quân đều bị hy sinh tại chiến trường, nhưng sứ mạng của họ đã hoàn tất. Họ đã cứu được Ryan trở về đất Mỹ, với xứ sở tự do và hòa bình, với người mẹ và gia đình. Sau chiến tranh, Ryan dẫn vợ và con ra thăm mộ của 7 chiến sĩ cảm tử quân, rồi quay sang hỏi vợ: “Do I have a good life? Tell me! Am I a good man?”, “Em ơi, hãy nói cho anh biết anh có phải là một người tốt không?” Hay nói một cách khác, “Em ơi, cuộc đời hiện tại của anh, có sống xứng đáng với sự hy sinh của họ không? Anh đã không lãng phí cuộc đời được trả bằng máu của họ chứ?” Sứ điệp đó là những lời trăn trối cuối cùng của Đại úy Miller cho Ryan trước khi chết.
Qua chuyện phim trên và bài Phúc Âm hôm nay, hai câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là: “Chúa Giêsu đã làm gì cho chúng ta?” và “Chúa Giêsu đã làm gì qua chúng ta?” Hai câu hỏi liên hệ đến hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người.
Thứ nhất, tất cả những người Kitô hữu, phải nhớ đến món nợ Máu Chúa Kitô đã đổ ra cho chúng ta trên thập giá (Rm 5:8; Dt 12:4). Chúng ta cám ơn Chúa vì sự hy sinh cao cả này. Chúng ta có được ngày hôm nay, là do tình yêu cao cả của Ngài ban cho. Chúng ta phải luôn tự vấn lương tâm xem đã sống xứng đáng với sự hy sinh của Chúa chưa?
Thánh Têrêsa Avila đã ở trong nhà dòng một thời gian rất lâu trước khi khám phá ra tình yêu Thiên Chúa có liên hệ trực tiếp đến cái “tôi” của mình. Mặc dù đã là một nữ tu, thánh nữ vẫn chưa cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Một ngày kia, thánh nữ bước vào phòng đọc sách và nhìn thấy bức hình Chúa Giêsu bị đánh đòn. Khuôn mặt khổ đau của Chúa Giêsu đã thu hút trí tưởng tượng của người nữ tu, và lần đầu tiên trong đời, sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và cái “tôi” đã đến với toàn thể sức mạnh của nó. Thánh nữ tự nói với mình, “Ngài đã làm điều đó cho tôi; Ngài đã làm điều đó tất cả chỉ vì tôi.” Và như một kết quả của biến cố đó, tất cả những ngày tháng còn lại của cuộc đời, thánh nữ đã sống điều mà thánh nữ gọi là “một cảm giác về một món nợ không thể trả nổi.”
Điều này cũng luôn xảy ra khi chúng ta khám phá thấy cái “tôi” của mình có liên hệ trực tiếp với ngôi vị Thiên Chúa. Cuộc đời thường thay đổi hoàn toàn, qua Thần Khí, Đức Kitô bắt đầu sống và làm việc trong chúng ta qua tình yêu và ân sủng của Ngài dẫn đến những sự thay đổi thích hợp trong thái độ và hành động (Gl 2:20).
Chúa Kitô đã làm gì trong chúng ta? Có bằng chứng nào về một đời sống mới không? Một trong những đặc điểm nổi bật của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là tình yêu của họ trao ban cho nhau, nguồn vui, và cảm giác sáng ngời của sự viên mãn (Cv 2:46-47). Họ đã chinh phục được thế giới, một thế giới đầy thù nghịch và khó khăn đối với họ.
Thứ hai, mỗi Kitô Hữu có bổn phận với tha nhân: Tertullian Giáo Phụ (160 – 230), nói với chúng ta rằng ngài và hầu hết những người đã trở lại đạo Kitô Giáo trong thời đại của ngài đã được chiến thắng, không phải bởi việc đọc Thánh Kinh, nhưng bằng cách chiêm ngắm những người Kitô hữu đã sống và chết thế nào. Họ mong mỏi có được điều mà những người Kitô hữu đang thu hút họ. Chúa Kitô đã hoạt động trong cuộc đời của các Kitô hữu, đang làm cho họ trở nên thu hút và mời gọi. Đức tin luôn luôn lan truyền ra bằng cách thức như vậy.
Leon Tolstoy cũng đã nói rằng ông trở nên một Kitô hữu vì những người Kitô hữu ông đã gặp gỡ trong cuộc sống. Ông đã nhận ra một sự bình an, vui tươi, sức mạnh và tình bác ái mà không một ai chia sẻ được. Đó là làm chứng nhân bằng đời sống bác ái yêu thương trong đó Đức Kitô đang hoạt động.
Trong tập nhạc của Trịnh Công Sơn, “Tuyển Tập Những Bài Ca Không Năm Tháng”, sau phần lời ngỏ là trang mở đầu với lời tâm sự được viết bằng tay của chính tác giả: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời.”
Mỗi người có một cách khác nhau để nuôi dưỡng tình yêu. Chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta làm theo cách Chúa Giêsu đã dạy. Và chính Ngài đã làm mẫu mực cho chúng ta. Cách ấy nhiều người đã làm theo, như chàng đại úy Miller và các cảm tử quân đã làm cho Hạ sĩ Ryan. Các chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc, cho Nhân Quyền, Hòa Bình và Công Lý trên trái đất. Cách ấy cha mẹ chúng ta đã làm cho chúng ta. Những người thân yêu đã làm cho ta. Và chúng ta, hôm nay, luôn mang “món nợ” đó trên mình (Rm 13:8). Món nợ tình yêu! Món nợ không thể trả nổi làm chúng ta phải trăn trở và tự hỏi mình mỗi ngày là “Am I a good person?”- “Tôi có phải là người tốt không?”
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
(9) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
(16) “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
Đức Giê-su đã long trọng tuyên bố Người không coi các môn đệ là đầy tớ mà là bạn hữu, vì PS 6-B172
2.1 Đức Giê-su đã long trọng tuyên bố Người không coi các môn đệ là đầy tớ mà là bạn hữu, vì các môn đệ đã được Người cho biết Người là Ai, Người có mặt ở trần gian này để làm gì. Hơn nữa các môn đệ còn được dự phần vào công trình cứu chuộc của Người. Còn gì vinh dự và hạnh phúc hơn đối với các môn đệ Đức Giê-su Ki-tô và đối với các Ki-tô hữu chúng ta! Để làm bạn của Đức Giê-su Ki-tô thì việc phải làm là thực thi giới răn yêu thương và sống trong tình nghĩa của Người.
2.2 Người Pháp có câu: ”Bạn cho tôi biết bạn của bạn là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai.” Ý của câu nói đó là: bạn tốt sẽ tạo nên một con người tốt, bạn xầu sẽ tạo nên một con người xấu. Cha ông ta có câu: ”Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” cũng nói lên ảnh hưởng tốt xấu của bạn bè thân cận. Nếu các Ki-tô hữu đều nên bạn hữu nghĩa thiết của Đức Giê-su Ki-tô thì Giáo Hội sẽ toàn là các vị thánh, xã hội sẽ toàn những người tốt.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
3.1 Nhiều giáo dân, trong đó có nhiểu người trẻ, chỉ giữ đạo ở mức tối thiểu chứ không quan tâm gì đến việc trở thành môn đệ và bạn hữu nghĩa thiết của Chúa Giê-su Ki-tô và của Thiên Chúa. Những người ấy không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc thiêng liêng cao quý của ơn huệ làm môn đệ, làm bạn hữu nghĩa thiết của Thiên Chúa.
3.2 Nếu phần đông giáo dân Việt Nam sống đạo như thế thì làm sao họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu Ki-tô cho được? Làm sao họ sinh nhiều hoa trái như Chúa Cha mong đợi được? Nếu để tâm suy nghĩ về hiện trạng của hàng giáo dân Việt Nam, chúng ta không thể không lo âu, bức xúc.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho chúng con là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Chúng con được nuôi dưỡng bằng lời giảng dậy, bằng sự hy sinh hiến tế của Chúa. Chúng con được dự phần vào việc loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho đồng loại. Chúng con thật có phúc.
Xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con biết sống xứng đáng với tư cách là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa,
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.
Bình thường, khi dạy dỗ các môn đệ, Đức Ki-tô chỉ nhắc nhở là: “Đừng…”; “Chớ…” hoặc khuyên PS 6-B173
Bình thường, khi dạy dỗ các môn đệ, Đức Ki-tô chỉ nhắc nhở là: “Đừng…”; “Chớ…” hoặc khuyên bảo là “Hãy…”; “Nên…” (ví dụ: “Khi anh cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” – Mt 6, 6-8; “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” – Mt 10, 8; “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” – Mt 18, 10).
Tuy nhiên, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-B – Ga 15, 9-17), Đức Ki-tô lại nói đó là điều răn: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Người không chỉ khuyên bảo, nhắc nhở, dạy dỗ các môn đệ một cách bình thường, mà Người nhấn mạnh “Đây là điều răn của Thầy” (Điều răn là những lời dạy dỗ có tính răn đe như những điều luật; sống và làm theo thì sẽ được thưởng, nhưng từ chối không làm thì bị trách phạt. Vd: Mười điều răn là 10 điều căn bản về luật pháp mà Thiên Chúa ban cho dân Do Thái và loài người, bao gồm: 3 điều nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa + 7 điều nói về bổn phận con người đối với nhau). Mới thoạt nghe nói tới “điều răn”, tưởng chừng như Đức Ki-tô lần này sẽ “thiết quân luật” một cách khắt khe, nhưng thật không ngờ Thầy Chí Thánh lại nói đến “Luật Yêu Thương”. Thử tìm hiểu xem “Luật Yêu Thương” của Đức Giê-su là gì ?
Vấn đề yêu thương anh em, yêu thương đồng loai đã đươc rất nhiều những vị thầy, những vị thức giả như tiên tri, ngôn sứ… dạy, và cùng lắm thì cũng chỉ khuyên: “yêu thương anh em, đồng loại như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân” – Khổng Tử). Nếu chỉ đọc lướt qua Lời dạy của Đức Ki-tô, có lẽ ai cũng chỉ cho Người dạy môn đệ cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nhân khác; nhưng nếu chú tâm sẽ thấy Lời dạy của Người có khác. Tại sao lại thế? Vì Người dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà muốn yêu thương nhau như Thầy yêu thương mình thì phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ xem Thầy đã yêu thương mình như thế nào?
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này, bởi khi tìm hiểu thật kỹ tình yêu Thầy đã dành cho loài người, sẽ thấy Thầy không chỉ yêu thương loài người như yêu chính bản thân, mà còn yêu thương hơn cả bản thân Thầy nữa. Đó là yêu thương đến độ hy sinh cả tính mạng cho người mình yêu (“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” – Ga 15, 13). Rõ ràng Đức Giê-su Ki-tô không chỉ khuyên bảo hãy yêu thương nhau một cách chung chung, mà Người còn lấy chính bản thân Người làm tấm gương để các môn đệ nhận thức được Tình Yêu Thiên Chúa cao cả đến mức độ nào. Và từ đó, Người khẳng định “Đây là điều răn của Thầy”. Quả thực, với bản tính con người mà muốn yêu thương tha nhân như yêu thương chính mình đã thấy khó khăn, chớ đừng nói là yêu thương người khác hơn cả yêu thương bản thân; thậm chí yêu thương đồng loại đến mức hy sinh cả tính mạng mình thì đúng là thiên nan vạn nan.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giê-su đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên (“Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” – Lc 12, 49). Nói cho rõ hơn thì lửa chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến thần thiêng – như Giáo Lý HTCG (số 696) giải thích: “Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần” (1Tx 5, 19).” Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại “sự sống, sự sống lại và là sự sống mới” cho các Tông đồ, cho các tín hữu. Thật sự chỉ có ngọn Lửa Mến Thánh Linh mới hồi phục, đưa người tín hữu vào sự sống mới trong Đức Ki-tô.
Nói đến yêu thương thì không thể không nghĩ tới 2 hạng người: Có rất nhiều người yêu thương đồng loại bằng tất cả con người của mình trong hoạt động và cuộc sống (điển hình như Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta); nhưng cũng không thiếu cảnh yêu thương trên môi miệng (“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” – 1Ga 3, 18). Vâng, và vì thế muốn “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” thì điều kiện cần có và đủ phải là sống và làm được như Thầy Chí Thánh trong sứ vụ của Người. Khó thật đấy, nhưng không phải là không làm được nếu có đầy đủ ý chí và quyết tâm, vì “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” (Nguyễn Bá Học).
Hãy nhìn vào gương sống và hoạt động của các thánh (nói chung) và nhất là các Thánh Tử vì Đạo, rồi tự đặt câu hỏi: “Các ngài cũng người trần mắt thịt như mọi người trên thế gian này, vậy mà tại sao các ngài lại gặt hái được vinh quang tột đỉnh như thế?” Hỏi tức là trả lời rồi vậy, bởi vì hơn ai hết, các ngài đã thấu triệt được vấn đề “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5, 6; Ep 5, 2; 1Ga 3, 16). “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19); “Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3, 16).
Tất cả mọi Ki-tô hữu (giáo sĩ + giáo dân) kể từ khi được đón nhận phép Thánh Tẩy thì đã được tham dự vào 3 chức vụ của Chúa Giê-su (Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả). Như vậy, với 3 chức vụ ấy, mỗi Ki-tô hữu đều có nhiệm vụ “Phúc Âm hoá” đời sống bản thân, gia đình và xã hội. Một cách cụ thể là làm chứng nhân sống cho Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người. Để sống xứng đáng với phẩm giá cao quí ấy, không gì bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Người đã chia sẻ hay thông phần cho tất cả và cho từng mỗi Ki-tô hữu (“Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa.” – 2Pr 1, 4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16).
Sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – là sống xứng đáng với phẩm giá của con người bằng cách thể hiện cụ thể mình chính là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Cũng vì thế, Đức Giê-su Ki-tô chỉ truyền dạy cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35; 15, 12-17; 1Ga 3, 23; 2Ga 1, 5). Và vào ngày cánh chung, Thiên Chúa cũng chỉ căn cứ vào điều duy nhất ấy để thẩm định, phán xét công tội loài người (Mt 25, 31-46).
Ấy cũng bởi vì “Cho con một điều răn mới yêu thương luật Chúa muôn đời. Cho con một lời dấu yêu, con ơi hãy yêu mến nhau. Theo gương Thầy yêu thương trước, hy sinh mà hiến thân mình. Hy sinh vì người dấu yêu, liều cả tấm thân tình yêu chính nhân. ÐK: Yêu thương là điều răn mới, anh em hãy mến yêu nhau; Yêu thương người ta sẽ biết, anh em là môn đệ Thầy.” (“Luật Yêu thương” – TCCĐ).
Ôi! Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết nhận ra gương mặt của Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết thực hành trước những điều mà chúng con sẽ chia sẻ với anh em, bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời di huấn của Đức Giêsu với các tông đồ trước PS 6-B174
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời di huấn của Đức Giêsu với các tông đồ trước khi Người trở về với Cha. Biết các Tông đồ đang còn trong tâm trạng buồn bã, bất an khi rồi đây không còn có Thầy ở bên. Đức Giêsu nhấn mạnh: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy “ Đây là điều mà các Tông đồ cảm thấy phấn khởi vì Đức Giêsu cho các ông một niềm tin tưởng. Không chỉ các ông mà còn biết bao người đã tin theo Đức Kitô đều được thừa hưởng :” Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy “. Cái cảm giác lo âu phiền muộn nơi các ông sau khi Thầy của mình trở về với Cha chắc hẳn sẽ đeo đẳng mãi. Những ngày còn bên Thầy thì việc gì khó đã có Thầy giúp. Các ông có một chỗ dựa rất vững chắc. Từng chứng kiến dân chúng lũ lượt đi theo Chúa, từng tham dự vào những việc lạ Chúa làm, các ông luôn an tâm. Người lo cho các ông từ miếng ăn, giấc ngủ. Khi mệt nhọc sau những ngày đi rao giảng, Chúa nhắc lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe. Rồi đây không có Thầy ở bên, hẳn các ông bối rối, không an lòng. Sẽ ra sao ngày mai ?
Rồi mỗi người mỗi cảnh, tứ tán khắp nơi. Có còn liên lạc được với nhau, có còn những ngày quây quần bên nhau? Tính tình mỗi người mỗi khác; người thì nhiệt thành nóng nảy, người khác lại e dè, dựa dẫm; cũng có người thì lanh lẹ, giỏi giang. Có thể nào sống đòan tụ bên nhau mà tránh khỏi bất đồng, khác biệt, xung khắc. Biết được tâm trạng ấy, Chúa nhấn mạnh “ Nếu như anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy. . . Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy “
Lạy Chúa,
Các Tông đồ hẳn sẽ được an ủi vì những Lời để lại của Chúa. Các ông sẽ vững tin vào Lời Chúa và những lời hứa của Người sẽ được thực hiện. Các ông sẽ không còn băn khoăn, lo lắng. Sống giới răn Chúa truyền dạy là “ yêu thương như Thầy đã yêu thương”, các ông sẽ được sự bình an mà Chúa đem đến, được hưởng niềm vui có Chúa ở cùng. Khi ấy mỗi người sẽ sống chan hòa với nhau, mọi người không là kẻ thù của nhau, không còn có ác tâm với nhau. Giấc ngủ mỗi đêm về tràn ngập niềm vui hân hoan, an giấc. Bình an trong tâm hồn, trong tâm trí. Con người sẽ không phải toan tính làm gì, nghĩ gì để đối phó, để hơn thua nhau trong cuộc sống ngày hôm sau, sau nữa.
Con cũng muốn được hưởng sự bình an ấy. Con cũng muốn được sống thảnh thơi bên Chúa, vui vẻ với anh chị em con, với những người đang sống bên con. Để có được điều ấy, con phải “ Yêu mến Thầy và tuân giữ Lời Thầy”. Nhưng nhìn lại cuộc sống mỗi ngày, con đã thực tâm sống điều ấy? Nhân lọai còn chiến tranh, con người còn nhiều hằn thù với nhau, vẫn còn tranh chấp phải chăng vì chưa đón nhận sứ điệp YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG của Chúa?
Xin Chúa giúp con mỗi ngày biết yêu mến Chúa nhiều hơn, biết tuân giữ Lời Chúa. Và có được nhiều người giữ Lời Chúa thì hẳn trời mới đất mới hiện hữu trên trái đất này. Khi ấy” tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì người sẽ ban cho”. AMEN.
Tin mừng Chúa nhật VI Phục Sinh hôm nay trong bối cảnh bữa tiệc ly ghi lại những lời tâm PS 6-B175
Tin mừng Chúa nhật VI Phục Sinh hôm nay trong bối cảnh bữa tiệc ly ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giêsu và lệnh truyền yêu thương của Ngài như một lời di chúc để lại cho các tông đồ và cho mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Một tình yêu duy nhất từ Chúa Cha qua Chúa Con “Như Cha đã yêu Thầy”. Từ Chúa Con qua các môn đệ “Thầy cũng yêu anh em” và giữa các môn đệ với nhau“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Sau đây chúng ta tìm hiểu những đặc tính của tình yêu qua giáo huấn của Chúa Giêsu.
– Tình yêu chân thành là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao quý, càng lớn lao. Vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Tình yêu không dám hy sinh, quên mình vì tha nhân là tình yêu giả dối.
– Tình yêu đem đến cho tha nhân niềm vui và hạnh phúc. “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy… và niềm vui của anh em được trọn vẹn”.Người ta thường nghe lời giáo huấn của giáo hội: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy là Thiên đàng. Thiên đàng là nơi an vui hạnh phúc nhất mà Chúa ban cho con người. Vì thế nơi nào vắng bóng Thiên Chúa là vắng bóng tình yêu, nơi đó trở thành hỏa ngục. Nói đến tình yêu là nói đến phục vụ. Càng phục vụ anh em là chúng ta đem đến cho anh em hạnh phúc và niềm vui. Hạnh phúc chính là phục vụ trong tình thương. Chân lý này được xác minh trong đời sống gia đình: cha mẹ phục vụ con cái để đem an vui hạnh phúc cho mọi người trong gia đình.
– Tình yêu luôn phải tôn trọng anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ… Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Chúng ta thương mến nhau vì chúng ta tôn trọng nhau, chấp nhận mọi khác biệt của nhau. Như vậy tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho ta xích lại gần nhau và tình yêu thương nhau ngày thêm thắm thiết. Hơn nữa, tôn trọng là nền tảng giúp cho tình thương của những người đã yêu mến nhaulại càng bền vững hơn. Yêu thương trong sự kính trọng giúp chúng ta dễ chia sẻ, thông cảm, tâm sự trao đổi… để giúp nhau một cách tích cực hơn. “Những gì Thầy biết nơi Cha Thầy, Thầy cho chúng con biết”.
– Yêu là biết Thiên Chúa. Tình yêu là người thầy tốt nhất dạy ta biết về Thiên Chúa và Đức Kitô, yêu thương là ở lại trong tình thương của thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa. Thánh Gioan viết trong bài đọc thứ 2:“Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Thực vậy, tình yêu là điều kiện để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt hiểu biết Thiên Chúa. Danh họa Van Gogh đã nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, vợ con mình… Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa“.
Thánh Augustinô dạy: “Hãy yêu đi, thì muốn làm gì cũng được (Ama et Fac quod vis)“.
Đức Giêsu dạy chúng ta phải “Yêu thương nhau như Chúa yêu thương“.Ngài yêu thương tất cả mọi người, hy sinh mạng sống, chết trên thập giá để nhân loại được cứu sống, yêu thương đến tận cùng, yêu thương vô vị lợi… yêu thương như Chúa yêu thương quả là điều không dễ!
Người Kitô hữu phải sống tình yêu thương với mọi người, vì giới luật yêu thương là lệnh truyền, là lời di chúc của Chúa Giêsu. Chúa không đòi chúng ta làm những điều vĩ đại, nhưng Ngài muốn chúng ta làm bất cứ điều gì dù nhỏ bé làm cho anh em với tất cả tấm lòng của mình, với tấm lòng yêu mến, chia sẻ, giúp đỡ: “Cho anh em một chén nước lã là cho Chúa“.
Dấu chỉ chắc chắn nhất thuộc về Thiên chúa là tình yêu thương nhau, chỉ có tình yêu thương mới có thể xây dựng nền văn minh sự sống và chỉ có nền văn minh thực sự tiến bộ khi con người biết yêu thương nhau chân thành.
Điều kiện cách là một dạng văn phạm trong ngôn ngữ, một trong các dạng đó người ta gọi là bàng PS 6-B176
Điều kiện cách là một dạng văn phạm trong ngôn ngữ, một trong các dạng đó người ta gọi là bàng thái cách (past subjunctive). Đó là một cách đặt giả thuyết: “Nếu… thì…”. Giả thuyết là điều không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra thật trong cuộc sống đời thường.
Chính Chúa Giêsu cũng đưa ra điều kiện khi đặt vấn đề với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Sắp xếp theo cấu trúc điều kiện cách: “NẾU muốn theo Tôi THÌ quý vị phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”. Ngài không ép buộc ai, Ngài muốn người ta tự nguyện chấp nhận chứ không miễn cưỡng.
Vác thập giá là chịu đau khổ. Có thể vui chịu đau khổ nếu người đó có tình mến mãnh liệt. Các thánh là những người chịu đủ thứ đau khổ, cả tinh thần và thể lý. Đau khổ là chén đắng, chén đắng sẽ hóa chén ngọt khi can đảm yêu đến cùng như Thầy Giêsu. Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là ĐẠI HỒNG ÂN; qua đau khổ, linh hồn trở nên GIỐNG Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên TINH TUYỀN; càng chịu đau khổ, tình yêu càng TINH KHIẾT” (Nhật Ký, số 57). Con người bình thường không thể hiểu nổi, và người ta coi đó là sự điên rồ.
Người ta thường ví von: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” chứ không “ít”. Một người không thể gọi là yêu, ít nhất phải có hai người mới khả dĩ có tình yêu. Dù yêu đơn phương vẫn có “đối tượng”. Tình yêu cũng có hệ lụy tất yếu. Có tình yêu thì có thể dẫn tới nhiều hệ lụy khác. Nhưng con người luôn bất toàn, bất túc, bất trác,… “bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh Công Sơn tâm sự: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”. Ông không gọi mà biển gọi, biển nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng thật ra chính ông lại đang rất… nhớ. Bất toàn là thế, con người là vậy, loanh quanh mãi vẫn không ra khỏi chính mình!
Thiên Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến điên cuồng, yêu đến chịu chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ rơi Ngài, phụ tình Ngài một cách trắng trợn. Chắc chắn Ngài cũng rất nhớ chúng ta, nhưng chúng ta lại quá đỗi vô tâm!
Phàm nhân là tội nhân, nghĩa là bất toàn. Câu nói “nhân vô thập toàn” quá quen thuộc, quen đến nỗi hóa… bình thường – nghĩa là “không còn quan trọng hóa” nữa. Thế nhưng câu đó lại rất quan trọng, quan trọng vì… “quá bình thường”. Nghe chừng nghịch lý, nhưng không hề nghịch lý chút nào, gọi là nghịch-lý-thuận.
Một hôm, khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô liền ra đón và phủ phục bái lạy dưới chân ông Phêrô. Nhưng ÔNG PHÊRÔ ĐỠ ÔNG ẤY LÊN và nói: “Xin ông đứng dậy, vì BẢN THÂN TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI PHÀM” (Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường mà lại quan trọng và cần thiết, biết mình và biết người, giản dị như bản chất của một ngư dân, nhưng chính con-người-bình-thường ấy đã được Thiên Chúa cất nhắc và giao trọng trách là trở thành giáo hoàng tiên khởi: chăn cả chiên mẹ và chiên con (x. Ga 21:15-19). Có CHỨC TƯỚC thì cũng mặc nhiên có NHIỆM VỤ kèm theo. Chức vụ là để phục vụ chứ không để hưởng nhàn mà ung dung nhận bổng lộc (x. Mt 20:28; Ga 12:26).
Không còn nhát đảm như trước, ông Phêrô mạnh dạn lên tiếng xác định: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng vẫn hoàn toàn chính xác. Thiên Chúa chí công, không thiên vị, nhưng đôi khi chúng ta “ép buộc” Ngài thiên vị như chúng ta, vì chúng ta làm gì cũng thường theo định kiến cá nhân nhiều hơn, và tự cho rằng Thiên Chúa cũng thế.
Trong khi ông Phêrô còn đang nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ hiển nhiên, nhãn tiền. Vì thế, những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Thiên Chúa không thiên vị, tất nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên vị, vì Chúa Thánh Thần xuống trên mọi người – kể cả dân ngoại.
Sau đó, ĐGH Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều được Ngài tiếp nhận, chắc chắn vậy. Và rồi ông Phêrô đã truyền làm phép rửa cho họ NHÂN DANH ĐỨC GIÊSU KITÔ. Là người khôn ngoan, khi làm bất cứ điều gì cũng phải nhân danh Chúa, vì tất cả chúng ta đều là huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ Ngài: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà không nhân danh Đức Kitô, có lẽ chúng ta quên điều này: “Bất cứ điều gì anh chị em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14:13). Chính Vị Thiên-Chúa-toàn-năng ấy đã được Thánh Vịnh gia mô tả thế này: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86:15). Thật tuyệt vời biết bao khi chúng ta có Vị Thiên Chúa đại lượng như vậy!
Chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn, chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn thiện và toàn năng. Bác học Albert Einstein xác định: “Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều khôn ngoan và ngu xuẩn như nhau”. Nhưng chúng ta vẫn được yêu thương lắm, yêu thương mỗi chúng ta như chính con người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công đã “biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan căn dặn: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không chỉ cho chúng ta được sống mà còn sống dồi dào.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu là người có “máu yêu” nên luôn thích nói về tình yêu. Chính người môn đệ ấy lý giải: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc biệt là tình yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương Xót, chẳng bút giấy nào tả hết, chẳng bộ óc nào đủ thông minh để trình bày hết ý, có nói mãi cũng không thể lột tả đúng mức. Nhiệm mầu biết bao!
Nhưng thật kỳ lạ, Chúa Giêsu nói rất dễ hiểu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy nên mới có thể có cách nói độc đáo này: “Mức độ yêu mến Chúa là yêu mến vô hạn”. Vì không chỉ Chúa muốn mà chúng ta có trách nhiệm phải “yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn”. Yêu Chúa là yêu tha nhân, yêu tha nhân là thước đo lòng mến Chúa. Nếu yêu như vậy, chúng ta chỉ lời chứ không hề lỗ: “NẾU anh chị em GIỮ các điều răn của Thầy, anh chị em sẽ Ở LẠI trong tình thương của Thầy, như Thầy đã GIỮ các điều răn của Cha Thầy và Ở LẠI trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10). Ôi chao, một điều kiện rất dễ chịu!
Thật vậy, Ngài muốn chúng ta “được hưởng niềm vui của Ngài” để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa Giêsu so sánh: “KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH” (Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người đồng đẳng, Chúa yêu chúng ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng: “Anh chị em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu anh chị em THỰC HIỆN những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15:14b). Việc làm chứng tỏ khả năng, chỉ có thể là như thế, nói chưa tin được.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân. Là tội nhân mà được tha thứ là may phước lắm rồi, thế mà chúng ta lại còn được Chúa gọi là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh chị em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh chị em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết. Không phải anh chị em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh chị em, và cắt cử anh chị em để anh chị em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh chị em tồn tại, hầu tất cả những gì anh chị em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy thì Ngài ban cho anh chị em” (Ga 15:15-16). Ơn cao phúc trọng dành cho chúng ta, đó là điều quá kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và tất nhiên chúng ta quá may mắn và quá hạnh phúc!
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhấn mạnh và nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU” (Ga 15:17). Có thể tóm gọn mệnh lệnh đó thành một chữ YÊU. Cũng thật kỳ lạ, mẫu tự Y có hình người dang đôi tay tạo dáng cây Thập Tự. Điều đó có thể coi như “phần cứng” đã được cài đặt mặc định từ muôn thuở. Thật kỳ diệu và tuyệt vời biết bao!
Chúa Giêsu luôn nói tới tình yêu, như một điệp khúc cứ nhắc đi nhắc lại, và chính Ngài đã thiết lập Luật Yêu – nghiêm túc và dứt khoát, đồng thời cũng là điều kiện để được trở thành công dân Nước Trời mãi mãi.
Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin xót thương và tha thứ. Nhờ Lòng Thương Xót của Ngài lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại mà chúng con được diễm phúc dìm mình trong Tình Yêu bao la và kỳ diệu của Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng bao giờ lợi dụng Tình Ngài, và xin giúp chúng con chứng minh đức mến qua việc yêu thương lẫn nhau thật lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen
Khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu, nhớ thương bay theo cùng người. Lời ai oán đó như mãi PS 6-B177
Khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu, nhớ thương bay theo cùng người. Lời ai oán đó như mãi vang lên, khi trái tim còn rung nhịp, khi tình người cứ mãi vu vơ, như trai tài gái sắc chưa tìm được bến đậu, như tình máu mủ gia đình còn đang tắc nghẽn. Tâm trạng buồn, cảm xúc lâng lâng, sẽ thật vi vu lãng mạn, khác gì như “lính chiến” xa nhà đang lạc bước vào khung trời yêu thương. Người xưa cho chúng ta nhiều kinh nghiệm khá phong phú: ăn lúc đói, nói lúc say, không thầy đố mày làm nên, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Dù trẻ thơ, dù đã lớn khôn, dù tuổi đang xế chiều, dường như mọi lứa tuổi đều miễn cưỡng chấp nhận những thành quả không như như ý ? Phải chăng vì lòng người quá tham lam, vì chưa hài lòng với những gì mình đang có, vì ta chưa gặp được thầy đủ đức đủ tài để thọ giáo ?
Không dựa vào tình cảm chóng qua, không lý sự bằng tình yêu đơn độc, mà với tư cách là Thầy, Đức Giêsu nói cùng các học trò rất chân thành: “như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”. Một tình yêu không bến bờ, tính toán so đo, tình yêu gần gũi thân thiện như máu mủ ruột thịt, tình yêu cao đẹp đến độ khó hiểu: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Tình yêu mà Đức Giêsu nói với các học trò, không phải là thứ “hàng quà”, mua-bán, đưa qua, lấy lại, lời hay lỗ, Ngài nhẹ nhàng nhắc nhớ: “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, nếu các con tuân lệnh Thầy truyền”. Nếu người xưa truyền kinh nghiệm sống rất ư là cụ thể: chú như cha, già như mẹ, ít nhiều số đông con cháu vẫn đang cảm nhận giá trị của tình yêu thương không hề giới hạn, luôn được ban phát rộng rãi đến độ ai cũng có thể là anh chị em của nhau.
Như Thầy đã yêu có thể sẽ là lý thuyết, trừu trượng mơ hồ, nếu như người ta đến với Đức Giêsu bằng một tình yêu “thế tục phàm trần”: theo Thầy với hy vọng được làm tướng, được xưng vương, được phần thưởng ở đời này. Như Thầy đã yêu là tự do vâng phục thánh ý Chúa Cha, là hết tình hết mình với sứ mạng được giao phó, là không phải nói lời hối tiếc, dù mạng sống bị đe doạ, dù trái tim dâng hiến bị từ chối. Trong ngôn ngữ yêu của Xuân Diệu đã thu hút khá nhiều người trẻ, dù tình yêu theo quan niệm của ông có phần bế tắc, nhưng không phải là thiếu triết lý: yêu là chết trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ! Trong tình yêu mà Thầy Giêsu nói không phải chỉ là chết hay “tê tái” một chút ; tình yêu sống động là tình yêu nên một, tình yêu mang đến niềm vui trọn vẹn trong cùng một niềm tin.
Như Thầy đã yêu là tình yêu cụ thể trong Chúa Cha, sự kết hiệp đặc biệt đó được diễn tả bằng hoạt động của Thánh Thần trong sứ mạng cứu độ mà Đức Giêsu đã và đang còn thực hiện. Sứ mạng cứu độ nhân loại tiếp tục được đổ đầy nơi các tông đồ, nơi những ai tuân giữ và sống lệnh truyền: hãy yêu thương nhau. Ngày hôm nay, khi nói tới người hiền tài, đại đa số người ta nghĩ họ là người vừa thông minh, vừa có ý chí học tập, hoặc do họ đã may mắn gặp được vị thầy có đủ phẩm chất hướng dẫn. Xưa hay cũ, tân thời hay lạc hậu cũng không ngăn trở đến việc mưu cầu hạnh phúc, vì ai cũng có tự do, có cơ hội để thực thi lý tưởng đời mình tới cuộc sống thật ý nghĩa.
Như Thầy đã yêu không phải là tự đánh mất mình, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của sức sống mãnh liệt hơn, khởi đi từ việc tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha, và ở trong tình hiệp thông nên một. Ông bà cha mẹ là thầy dạy hữu hiệu nhất để nói về tình yêu với con cháu, môi trường xã hội là cơ duyên giúp mọi người có dịp chứng minh chúng tôi là môn đệ của Đức Kitô: “các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu mến các con”. Giữ lệnh truyền của Thầy, ở trong tình yêu của Thầy, hoặc yêu như Thầy đã yêu, là một thực hành rất tự do trong tình hiệp thông với Đấng vừa là Chúa, là Thầy, vừa là bạn hữu, là anh em với những ai đang cùng sống một đức ái.
Khí phách của người quân tử là dám nói, dám làm, nhưng cẩn thận và khiêm tốn không bao giờ thừa, xã hội luôn nể phục khi người ta chắc chắn tới mức: uốn lưỡi 7 lần trước khi nói. Đức Giêsu vì yêu, Ngài thật phóng khoáng và độ lượng khi nâng các học trò lên hàng “bạn hữu”, dù các ông còn đầy bất xứng. “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm ; Thầy gọi các con là bạn hữu của Thầy, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. Như Thầy đã yêu, như Thầy đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, người Kitô hữu chúng ta, hẳn ai cũng có cơ hội được trở nên môn đệ, trở nên bạn hữu và ở mãi trong tình yêu của Thầy Giêsu, khi chúng ta đang đồng lòng sống đức yêu thương. Amen.
Chúng ta vừa nghe lại một trong những đoạn Tin Mừng có nhiều ý nghĩa nhất trong toàn bộ Kinh PS 6-B178
Chúng ta vừa nghe lại một trong những đoạn Tin Mừng có nhiều ý nghĩa nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Chúa nói những lời này trong phòng tiệc ly lúc Chúa sắp đi vào cuộc tử nạn. Chúng ta phải coi những lời này như những lời trối của Chúa.
“Anh em hy yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” Nhưng yêu như Chúa yêu là yêu như thế nào?
Trước hết Chúa bảo các tông đồ : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình” Với những lời như thế rõ ràng Chúa đã muốn nói đến sự hy sinh trong Tình yêu. Không có hy sinh thì không có tình yêu đích thực. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa.
Nhưng làm thế nào mà biết, mà nhận ra được sự hy sinh trong tình yêu? Chúa Giêsu đã đưa một dấu chỉ rất dễ nhận ra. Đó là phải biết tự hiến, phải biết cho đi, phải biết ban tặng, phải biết trao ban v…v
Cho là dấu chỉ của Tình yêu
Cho nhiều là dấu chỉ yêu nhiều
Cho ít là dấu chỉ yêu ít
Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu không bờ không bến.
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình”?
Vâng, đó là một trong những yếu tố làm nên tình yêu nơi Chúa Giêsu.
Chúa nói tiếp: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu” Chúa muốn nói gì khi nói với các tông đồ như vậy?
Rõ ràng Ngài muốn nói đến sự kính trọng nhau trong Tình yêu.
Trong Tình yêu đòi hỏi phải có sự kính trọng lẫn nhau. Thiếu sự kính trọng, tình yêu sẽ khó mà tồn tại. Chúa đã hết lòng quí mến các tông đồ đệ của Ngài. Ngài kính trọng họ…mặc dầu họ chỉ là những con người tầm thường.
Trước khi rửa chân cho những con người này, Chúa nói “Các con gọi thầy là thầy, là Chúa thì thậm phải vì sự thật là thế.” và ngay sau đó Chúa lấy nước quì xuống rửa chân cho họ.
Công việc rửa chân cho người khác trong xã hội Do thái là công việc dành cho các nô lệ hay ít ra cũng là cho những người tôi tớ. Vậy mà Chúa đã làm công việc đó. Một Thiên Chúa rửa chân cho những con người. Như vậy không phải là Thiên Chúa kính trọng con người sao?
Vâng, trong tình yêu, không thể thiếu sự kính trọng, sự tôn trọng lẫn nhau. Nguyên tắc là như thế nhưng trong cuộc sống chúng ta thấy có những người đối xử với người yêu chẳng khác gì với một người đầy tớ, một người nô lệ. Cách đối xử như thế không phải là cách đối xứ của tình yêu mà là của tình dục, chỉ nhằm thỏa mãn dục tính của mình. Nhất định đó không phải là tình yêu như Chúa Giêsu. Thiếu sự tôn trọng lẫn nhau thì bất hòa, hận thù, đỗ vỡ, chia ly sẽ xuất hiện.
Chúa nói tiếp với các môn đệ của Ngài: “Những gì Thầy nhận bởi Cha Thầy thì thầy đã truyền lại cho anh em hết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em con và sai anh em đi” Tại sao Chúa nói như thế? Thưa vì Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài.
Trong tình yêu phải có sự tin tưởng lẫn nhau.
Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài. Chúa thừa biết họ là con người mỏng giòn, yếu duối, dễ sa ngã, dễ phản bội. Thế nhưng vì yêu thương mà Chúa đã hết lòng tin tưởng.
Ai như Phaolô một con người thật nguy hiểm và ác độc. Ông đã tự động đứng ra xin các thủ lãnh của người Do thái cho ông được quyền đi lùng bắt và tiêu diệt Giáo Hội ngay từ lúc Giáo Hội mới chào đời. Một con người như thế quả đáng phải trừng phạt. Thế nhưng Chúa chỉ cảnh cáo ông bằng một cú ngã ngựa. Và ngay sau đó Ngài đã trao cho ông một sứ mạng thật lớn lao: Sứ mạng đem Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại. Việc làm của Chúa thật khó hiểu. Thầy cả Anania đã phải run sợ nhưng Chúa bảo ông: “Đừng sợ đây là người ta đã chọn để làm vinh danh ta”. Chọn một kẻ thù của mình để làm vinh danh mình. Có ảo tưởng hay không? Không! Chúa không ảo tưởng. Bằng tình yêu thương tha thứ, bằng sự tin tưởng Ngài đặt vào trái tim, Chúa đã biến Phaolô thành một dụng cụ tuyệt vời trong tay của mình.
Trong tình yêu không thể thiếu lòng tin. Hầu như mọi sự đổ vỡ trong tình yêu đều ít nhiều bắt nguồn từ sự thiếu tôn trọng và không tin tưởng ở nhau.
Ngược lại nếu biết tin tưởng, tình yêu sẽ làm nên được những điều diệu kỳ. Đây là câu truyện do nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể lại:
Hôm đó khi vừa mới ở trường về đứa bé hỏi mẹ nó: “Mẹ, thế nào là trật đường rầy hả mẹ?
Bà cụ phì cười trả lời:
+ Một chuyến xe lửa trật đường rầy mà con không biết sao?
– Hiểu chứ mẹ, nhưng một đứa nhỏ trật đường rầy nghĩa là làm sao hả mẹ?
+ Nghĩa là nó hơi khùng khùng chứ làm sao.
– Và thế nào là “không bình thường” hả mẹ?
+ Không bình thường?…Nghĩa là….Nhưng con nghe ai nói vậy?
– Chiều nay Ông Thanh tra tới thăm trường của con. Ông có vô thăm lớp con. Ông có hỏi thầy về tình hình học tập trong lớp. Thầy lấy tay chỉ vào con và nói với ông thanh tra là “nó là đứa bé trật đường rầy”- nó là đứa bé bất bình thường, có dạy dỗ nó cũng chỉ tốn công vô ích”.
Tức quá bà cụ nhảy choi choi lên và la lớn lớn:
– A thầy giáo bảo con vậy hả? Đi đi ngay với mẹ. Mẹ sẽ cho ông thầy ấy biết tay con mụ này.
Nói xong bà nắm tay con lôi đi – đôi mắt long lên, đôi môi mím lại, hùng dũng đi đến nhà ông giáo. Tới nơi bà lấy tay chỉ thẳng vào mặt ông giáo và nói dằn từng tiếng:
– Nè, thầy nói gì với ông thanh tra về thằng Al của tôi ?- Tôi biết hết. Thầy bảo nó là “trật đường rầy” là “bất bình thường” hả? Tôi nói thật cho cái mặt thầy biết: Có kẻ nào đó trật đường rầy thì kẻ đó chính là thầy chứ không phải là con của tôi. Tôi cầu cho thầy được thông mình bằng một nửa nó thì cũng là phúc lắm rồi.
Rồi bà nắm tay đập lên bàn nhà thầy giáo…vừa đập vừa hét lớn:
– Thấy nhớ kỹ nghe chưa? Một ngày kia người ta sẽ nhắc đến tên tuổi của nó – Còn cái mặt của thầy không ai thèm biết tới đâu.
Tội nghiệp cho ông giáo cứ nín thinh không dám hé môi nói một lời.
Nói xong bà bảo cậu con.
– Thôi từ nay con khỏi tới trường nữa. Ở nhà mẹ dạy cho con.
Rồi bà dắt con quay gót bước ra.
Rồi bằng một tình yêu với những hy sinh không biết mệt mỏi, bằng một lòng quí trọng không bờ không bến, và nhất là bằng một niềm tin rắn chắc và vững vàng như sắt đá bà thổi vào trong tâm hồn đứa con của bà sự tự trọng, ý chí muốn vươn lên và sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cuối cùng bà đã biến một đứa bé bất bình thường, đứa bé trật đường rầy, đứa bé có lần ông thầy mắng là “dốt như bò” thành một nhà bác học đã đóng góp cho nhân loại một số bằng phát minh nhiều hơn bất cứ một nhà bác học nào ở trên thế giới này từ trước cho đến hôm nay: 2500 bằng phát minh. Vâng 2500 bằng phát minh…trong đó có bằng phát minh rất quan trọng về điện mà chúng ta đang được thừa hưởng hôm nay. Đó là nhà bác học Thomas Alva Edison.
Sau này khi ông thành đạt thì mẹ đã chết, ông hay nói với mọi người: “Tôi được như thế này là nhờ mẹ của tôi.”.
Vâng chúng ta hãy biết yêu như Chúa đã yêu để tình yêu làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc sống của chúng ta . Amen.
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”.
Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của PS 6-B179
Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình".
Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.
Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.
Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.
Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.
Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạngsống vì bạn hữu mình."
Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.
Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.
Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.
Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình"
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.
Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.
Tại Palestine có hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.
Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.
Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai là Biển Chết.
Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
Một hình ảnh cho chúng ta thấy:
Càng trao ban, càng dồi dào. Càng trao ban, càng sinh lợi. Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.
Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.
"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình". Amen.
Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: "Người ta cứ dấu này PS 6-B180
Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".
Ngày 10/10/1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Trong lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: "Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M.Kolbe đã tự nguyện hiến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính Ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một người tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14/8/1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của Ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như Ngài…
Chính tình yêu cao cả đã giúp Ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng người kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…"
Anh chị em thân mến,
Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hóa giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: "Anh em hãy yêu thương nhau". Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giờ phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: "Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau". Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên "yêu thương nhau" đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ "Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra".
Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải qui chiếu khít khao vào chính tình yêu của Chúa Giêsu - một tình yêu vốn đã qui chiếu vào tình yêu Chúa Cha - bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho những kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. "Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x.bđ.1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gủi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x.bđ.2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho nỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ, và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành tranh lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu". Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc Tử nạn Phục sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại Bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào phục sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết "yêu như Chúa yêu" và "yêu người như yêu Chúa".
Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vậy làm bung phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.
Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hon nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…
Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hòa.
Mỗi thánh lễ là một cử hành về Tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.
Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã PS 6-B181
Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta". Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.
Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ lạ, và dường như còn phi thường nữa. Chỉ nguyên bằng một từ rất quen thuộc, "tình yêu", Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào khám phá chính mầu nhiệm bản thân Chúa Cha và của chính Người, mầu nhiệm tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu và cuộc sống mà Người muốn đưa chúng ta đi vào. Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta" (1Ga 4,10). Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,9-17
ª Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho "thật", còn chúng ta là cành, mà cành thì phải "ở lại" trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Gioan). Đức Giêsu đã lệ thuộc vào Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng đã yêu mến anh em như vậy" (15,9). Đây là những biến cố được xác định trong quá khứ. Đức Giêsu ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống Kitô hữu.
Chúng ta phải "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người "ở lại" trong tình thương của Cha Người. Chúng ta cũng có thể "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình bằng hữu ấy. Chúng ta cũng có thể "ở lại" bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là "ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn ; giữ lời]" (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để "niềm vui của Thầy ở trong anh em" và "niềm vui của anh em được nên trọn vẹn" (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài "niềm vui" này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu "ở lại" trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Ngài để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng ta chỉ hiểu điều ta đã nhận khi ta tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
ª Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17).
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Họi thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (15,12 nhắc lại 13,34). Hành vi "Thầy đã yêu thương anh em" trong quá khứ phải được thể hiện trong tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống "vì bạn hữu của mình", "nhân danh bạn hữu mình" (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói đến việc hy sinh tính mạng "vì bạn hữu của mình", Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là "tôi tớ", nhưng là "bạn hữu". Chúng ta chứng tỏ chúng ta là "bạn hữu" của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14 ; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm "tôi tớ của Thiên Chúa". Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (Gs 24,29 ; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là "bạn hữu", như Môsê xưa kia là "bạn hữu" của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các "bạn hữu" thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15).
Các kinh sư Do Thái thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ "ra đi và sinh được hoa trái" (c. 16). Hoa trái này được nhắm "ở lại [= tồn tại]" và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13 ; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, "hãy yêu thương nhau" (c. 17).
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng ; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quí báu nhất của trái tim Người ; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật, là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các "bạn hữu" của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Họi thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta "ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại", vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Ngài đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Ngài cho Con của Ngài.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Mầu nhiệm Chúa Cha, mầu nhiệm khởi nguồn.
Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới ; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã đi ra và hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.
2. Yêu thương hay không yêu thương?
Từ "điều răn" được Đức Giêsu sử dụng bốn lần nhằm cho thấy rằng "yêu thương" là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
3. Bạn hữu của Đức Giêsu.
Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm tôi tớ Thiên Chúa, "làm việc cho Đức Giêsu", mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành bạn hữu của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn những tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.
4. "Hãy ở lại trong tình thương của Thầy".
Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà cao ngạo. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: "ở lại trong Đức Giêsu", "ở lại trong tình yêu của Người" và "yêu thương nhau". Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người ; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Ai trong chúng ta cũng đã biết PS 6-B182
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ai trong chúng ta cũng đã biết: con người đầu đội trời, chân đạp đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng ta có hai loại bổn phận phải chu toàn. Bổn phận hàng dọc và bổn phận hàng ngang. Bổn phận đi lên và bổn phận đi xuống. Bổn phận đối với trời và bổn phận đối với đất. Hay nói một cách cụ thể hơn đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em.
Chính Chúa Giêsu đã xác quyết điều ấy:
- Giới răn thứ nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi điều Kinh Thánh truyền dạy.
Thế nhưng, chúng ta có cảm tưởng là dường như Chúa Giêsu đặt nặng vấn đề thương người, hơn cả mến Chúa, bởi vì như lời Ngài đã phán:
- Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với các ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy tới mà dâng của lễ sau.
Sở dĩ như thế cũng là điều dễ hiểu bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, tất cả mọi thứ tình yêu chân thật của chúng ta đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, để rồi cuối cùng sẽ lại qui hướng về Ngài. Hơn nữa, chính tình yêu đối với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất để xác quyết về lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa như Ngài bảo:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Hay như thánh Gioan cũng đã xác quyết:
- Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy bao giờ.
Thế nhưng, chúng ta phải đối xử với anh em như thế nào? Đâu là cái tiêu chuẩn để hướng dẫn chúng ta trong phạm vi này?
Truyền thống của người Do Thái có một câu chuyện kể lại như sau:
Ngày kia một người tìm đến với thầy Samai, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi:
- Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giêrusalem lâu được.
Nghe nói thế, thầy Samai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gillen, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Có kẻ cho rằng Gillen chính là người mà Chúa Giêsu khi lưu lại trong đền thờ ba ngày vào năm lên 12 tuổi, đã chất vấn ông về lề luật.
Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gillen đã trả lời ngay không cần phải suy nghĩ:
- Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi. Anh hãy đi và suy nghĩ chín chắn về điều tôi vừa nói.
Phải chăng đó chính là bước đầu tiên để chu toàn giới luật:
- Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều tích cực, chẳng hạn như không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nưa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
"Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các ngươi":
Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu tôn vinh Người PS 6-B183
Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu tôn vinh Người của Chúa Cha, tạo nên nền tảng và mẫu mực cao cả cho đời Kitô hữu, một cuộc đời từ đây được phô diễn ra bằng đức ái.
"Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta": Nguyên tự: "hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Ta" (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là ‘trong tình yêu Ta dành cho các ngươi’. Cả bản văn toàn là thuộc cách chủ thể (génihfs Subectifs): tình yêu của Cha đối với Ta, tình yêu của Ta đối với các ngươi (trong đó các ngươi phải lưu lại), các lệnh truyền của Ta (c.10), các lệnh truyền cua Cha Ta, và, lần nữa, tình yêu của Cha Ta đối với Ta.
"Để niềm vui của Ta ở trong các ngươi và niềm vui các ngươi được trọn vẹn": Là dấu hiệu của một đời sống triển nở, niềm vui được Cựu ước xem như là điểm đặc trưng của thời cứu độ và của bình an cánh chung (Is 9,2; 35,10; 55,12; 65,18; Xp 3,14; Tv 126,3-5) và chủ đề này xuất hiện lại trong các Tin mừng (Mt 25,21.23; Lc 1,14; 2,10). Nơi Gioan, niềm vui của Chúa Kitô phục sinh được chia sẻ ngay từ bây giờ cho các môn đồ sống sự sống mới; niềm vui này phải chiếm hữu tất cả con người và như vậy phải đạt được sự sung mãn nào đó (x. Ga 17,13; 1Ga 1,4; 2Ga 12). Hiện giờ, nó có thể cùng đồng hành với đau khổ (16,20-24;14,28).
“Không có tình yêu nào lớn hơn": Nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu Người đối với Chúa Cha (14,30), thì nó cũng là chóp đinh của tình yêu Người đối với những kẻ Người đã chọn làm bằng hữu (13,1.4). Đó chính là nền tảng và quy phạm của tình anh em.
"Và đã cắt cử anh em để anh em ra đi": Động từ Hy lạp tithenai, như công thức Hy Bá tương ứng, diễn tả sự kiện đặt một người nào trong một chức vụ gì đó đồng thời bảo đảm cho kẻ ấy những phương thế để thực thi một cách kiến hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1Cr 12,28; 2Tm 1,11). Như vậy là nhóm môn đồ, nhờ một hồng ân của Chúa, được trao ban trách nhiệm truyền giáo (x. Mc 3,14; 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1).
KẾT LUẬN
Niềm vui hoàn hảo là hậu quả của lời mặc khải của Chúa Con và của việc tuân giữ các lệnh truyền mà lời đó bắt buộc. Bao giờ cũng vậy khi người ta tiếp xúc với những sự xếp đặt của chương trình Thiên Chúa: chương trình này thường đòi hỏi khổ chế hy sinh nhưng cũng bao hàm một sự tiền nếm niềm vui mà chúng ta sẽ được trên trời khi kết hiệp hoàn toàn với chiến thắng của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu vừa cho chúng ta biết bí mật cuối cùng và quý giá nhất của tâm hồn Người. Trong một màn độc thoại dài "trước khi qua khỏi thế gian này mà về với Cha'', Người trút những tâm sự sau hết, nói lên những dặn dò cuối cùng; Người xem ra muốn để lại cho các sứ đồ một di chúc thiêng liêng. Thoạt nghe đoạn văn của diễn từ sau Tiệc ly này, điều đánh động chúng ta là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu mà các sứ đồ cần có đoi với nhau. Trong một đoạn rất ngắn như đây mà Người đã lặp lại chữ "lệnh truyền" bốn lần cả thảy. Như thế Người muốn nhắc nhở một điều tuyệt đối, không bao giờ được đặt lại vấn đề; như thể đó là thực tại chủ chốt, ưu tư thiết yếu, nỗi bận tâm duy nhất của những ai tự cho là thuộc về Người và đáng được vào số những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người.
2) Việc nhấn mạnh này của Chúa Giêsu làm chúng ta bối rối lắng lo. Phải chăng Người không muốn qua đó nói rằng: nguy hiểm chính yếu luôn rình rập nhóm sứ đồ rồi những người sẽ trở nên môn đồ quanh họ, rồi tất cả những ai trong các thế hệ kế tiếp sẽ được quy tụ trong cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, chính là sự thiếu tình yêu. Điều này cũng là cám dỗ thường xuyên nhất là có lẽ là sai lầm thường gặp nhất.
3) Có lẽ! Vì dù sao, xét lại thái độ hiện thời của chúng ta và những nứt rạn mà mỗi thế hệ không ngừng tạo ra trong sự duy nhất của thân thể Chúa Kitô, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Kitô đã chẳng quá nhấn mạnh. Không cần phải nói đến gương xấu của việc các Giáo hội ly khai, những mối bất hòa lớn lao trong mỗi Giáo hội, hay biết bao tranh chấp của các phong trào ngay trong mỗi Giáo hội địa phương; không cần phải xét đến những gì xảy ra chung quanh chúng ta mà thực sự không tùy thuộc chúng ta, chỉ cần mỗi người hãy nhìn đến mình là đủ, vì mỗi người chỉ có trách nhiệm về chính mình, về phương cách: để tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu, chúng ta yêu mến thế nào? Dù trả lời ra sao đi nữa, thì mỗi một người, nếu thành thật, đều biết mình có thể tiến bộ hơn. Để được như vậy, phải nghe Chúa. Người vừa nói với chúng ta: "Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các ngươi". Mẫu gương của tình yêu chính là Người. Thành thử phải đọc lại Tin mừng, khám phá trong mỗi lời nói, mỗi hành vi của Chúa Giêsu, làm sao đã tỏ lộ cái tình yêu hằng có trong Người, để biết được chúng ta phải cư xử thế nào đến phiên chúng ta. Đừng mất công tìm đâu xa; trong diễn từ mới nghe lúc nãy, Chúa cho chúng ta thay quá rõ Người yêu mến ra sao.
4) Ngay từ đầu cuộc đàm đạo; Người đã bảo chúng ta: "Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta" sau khi quả quyết: "Ta đã yêu các ngươi". Người không đòi hỏi chúng ta đáp trả tình yêu của Người đối với chúng ta, không đòi hỏi chúng ta yêu mến Người. Người chỉ xin chúng ta hãy lưu lại, hãy để mình bị bao bọc, để mình chìm đắm trong tình yêu mà Người đang bao phủ chúng ta và đừng làm gì phá vỡ việc lưu lại ấy. Điều tùy thuộc chúng ta là đừng chối từ những gì Người ban cho chúng ta. Người bảo dấu hiệu cho biết ta lưu lại trong tình yêu Người là tuân giữ lệnh truyền Người, một điều thực ra không liên hệ tới Người. Lệnh truyền của Người, ay là đến phiên chúng ta yêu thương kẻ khác; như thể Người không muốn tình yêu Người ban trở về lại với Người, nhưng đổ tràn trên kẻ khác; tình yêu Người biểu lộ như thế sánh được với một con sông luôn tuôn chảy, chẳng bao giờ trở lại về nguồn. Xa hơn Người sẽ nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì bạn hữu”. Tình yêu mà Chúa dành cho chúng ta không giống tình yêu của chúng ta, thứ tình yêu luôn thắc mắc về sự đáp tra nó nhận được: sự đáp trả này đã đủ chưa? Có thành thật và không giả hình chăng? Có bền vững chăng? tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu luôn tiến tới, không chờ đợi đáp trả tí nào. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu không trở lại với chính nó. Nó phong phú luôn mãi; đấy là lý do giải thích mềm vui của Chúa Giêsu mà Người có đề cập chỗ khác: "Cho thì vui hơn nhận" (Cv 20,35).