“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục LênTrời ABC-451
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).
Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.
Hiện diện mới
Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa.Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người.Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Từ“Like” Chuyển Thành “Amen”
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.
Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).
Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh.(x.vaticannews.va/vi).
Đức Thánh Cha dùng hình ảnh thân mình và các chi thể mà Thánh Phaolô đã dùng để nói về những quan hệ hỗ tương giữa con người: “Anh chị em hãy bài trừ dối trá và mỗi người hãy nói sự thật với tha nhân, vì chúng ta là chi thể của nhau” (Ep 4,25). Từ đó ngài kêu gọi dùng các mạng xã hội để kiến tạo tình hiệp thông, với ý thức chúng ta cùng họp thành một thân thể và là chi thể của nhau, và thay vì dùng các phương diện này để chia rẽ, gây oán ghét và thù hận, dựa trên sự dối trá.
“Chính Giáo hội là một mạng lưới được đan dệt bằng sự hiệp thông Thánh thể, trong đó sự hiệp nhất không được đặt trên những nút ‘like’ (thích), nhưng trên sự thật, trên lời ‘Amen’, qua đó mỗi người đều bám víu vào Thân thể của Đức Kitô, và chào đón người khác” (Sứ điệpTruyền thông 53).
Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.
Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi LênTrời ABC-452
Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi trú ẩn của niềm hy vọng”. Vì không chắc hoặc chưa chắc nên mới cần nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhưng đó là đối với cuộc sống đời thường. Còn đối với cuộc sống tâm linh có phần khác: Tùy vào cách sống của mình mà có thể chắc chắn được về trời hay không, còn Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại đón chúng ta về trời thì đó là điều chắc chắn tuyệt đối.
Đối với các Kitô hữu, niềm hy vọng về trời với Chúa Giêsu là điều cao xa – với ý cao thượng, cao cả, chứ không viễn tưởng hoặc mơ hồ. Niềm hy vọng đó là niềm khao khát cháy bỏng và mạnh mẽ, vì thế mà Kitô hữu không ngại từ bỏ mình và chấp nhận mọi thua thiệt ở trần gian này – kể cả sinh mạng của mình, mặc dù cuộc sống rất quý giá.
Là văn sĩ, họa sĩ, kiêm khoa học gia, nhưng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nhận định rất chí lý: “Chín điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú; đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân; đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh; đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng; đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp; đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm; ĐỦ YÊU THƯƠNG để khiến mình có ích cho mọi người; ĐỦ ĐỨC TIN để biến lời răn của Chúa trời thành hiện thực; ĐỦ HY VỌNG để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”. Chín “cái đủ” ấy thật tuyệt vời biết bao!
Chúa Giêsu về trời trước, nghĩa là Ngài xa chúng ta một thời gian – chỉ xa theo dạng hữu hình mà thôi, vì chính Ngài vẫn ở cùng chúng ta cho tới tận thế – cụ thể là Thánh Thể. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm, và người ta luôn hẹn gặp lại nhau. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, vì chính Ngài đã hứa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời hẹn “tái ngộ” của Chúa Giêsu là sự thật chắc chắn.
Khi hẹn gặp lại nhau, người ta luôn nôn nóng chờ đợi tới ngày đó – nhất là đối với đôi nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau. Vương quốc của Chúa Giêsu không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Ngài là nhà cách mạng, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1:6). Thế nhưng không phải vậy và không là vấn đề, rồi Ngài xác định: “Anh em KHÔNG CẦN BIẾT thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7). Vấn đề quan trọng là sống đời chứng nhân chứ không là gì khác.
Và rồi vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, về phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Thật mà như mơ, mơ mà là thật. Nhớ Thầy và thương phận mình lắm, nhưng hy vọng rất nhiều.
Ôi thật lạ lùng quá chừng! Đối với phàm nhân, kể ra thì cũng thấy buồn khi Ngài đã đi xa, thế nhưng chúng ta không hề thất vọng, vẫn tràn trề hy vọng, và chúng ta cũng chẳng mồ côi. Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày, Đấng ấy là Đấng Bảo Trợ – Ngôi Ba Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đi mà chúng ta không hề buồn chi. Hy vọng tràn đầy, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Ôi, thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.
Vui tiếp vui, mừng nối mừng, niềm hy vọng như được kéo dài và lan tỏa kỳ lạ: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Cuộc chia tay nào cũng mặc vẻ buồn, không nhiều thì ít, dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, nhưng cuộc chia tay của Chúa Giêsu với chúng ta lại không u buồn, ngược lại rất hân hoan.
Đất thấp, trời cao. Khác mà không lạ. Xa mà vẫn gần. Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).
Chính vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta chẳng là gì, hoàn toàn bất xứng, thế mà được diễm phúc vô cùng, bởi vì chính Chúa ban cho “quyền sống” đó. Và còn hơn như thế nữa, cũng chính Người đã “mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô khuyên các tín nhân: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10:22-23). Đối với Thiên Chúa, tất cả đều tuyệt đối. Bất cứ ai có đức tin càng mạnh và đức mến càng sâu thì càng được Ngài độ trì.
Đức tin là điều không thể đụng chạm nhưng có thể cảm nghiệm, nhưng cần phải cụ thể hóa bằng việc làm, nếu không thì đó chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Sống đức tin là hành động cần thiết, luôn phải kiên trì và không ngừng canh tân. Vì sống đức tin là mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Đức tin sống nhờ “hơi thở” yêu thương. Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát. David Coperfield có biệt tài ảo thuật thế nào cũng chẳng hơn chúng ta: Là con chiên hiền lành khi vào trong nhà thờ, nhưng hóa con cọp dữ dằn khi ra ngoài nhà thờ. Đúng là “siêu” thật!
Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo một cách chân thành đúng nghĩa, tích cực chứ không chỉ theo luật buộc những điều tối thiểu (đi lễ Chúa Nhật, xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh).
Giữ đạo không hẳn là giống như sống đạo – giống mà khác. Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Và chắc chắn mệnh lệnh này không miễn trừ bất kỳ ai.
Ngày ấy, khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Thầy đi rồi!
Thầy về trời thì trò phải vào đời, không thể khác được. Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng đã phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời để vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng đích thực và niềm hạnh phúc khôn tả đối với các tín nhân.
Chúa Giêsu đã hẹn “see you again” với chúng ta, thế thì lẽ nào chúng ta lại không muốn hẹn tái ngộ với Ngài? Chắc chắn chúng ta cũng hẹn gặp Ngài để đoàn tụ tại Quê Nhà – nhưng trong ngày sum vầy đó, hy vọng chúng ta không bị xếp đứng bên bầy dê lông đen ngòm hoặc xám xịt, mà được xếp đứng bên đàn chiên lông trắng toát.
Lạy Thiên Chúa tối thượng duy nhất và giàu lòng thương xót, xin ban thần khí can đảm để chúng con sống đạo và thể hiện đức tin trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống tạm này. Để nhờ đó, chúng con chắc chắn được về trời đoàn tụ với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ cùng chư thần chư thánh, sau khi chúng con hoàn tất nhiệm vụ sống nơi trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Khi đi đâu xa, cha mẹ thường chuẩn bị cho con mọi đồ dùng cần thiết, nhắn nhủ những lời yêu LênTrời ABC-453
Khi đi đâu xa, cha mẹ thường chuẩn bị cho con mọi đồ dùng cần thiết, nhắn nhủ những lời yêu thương và hứa hẹn mau trở về.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin, để an ủi và trao ban sứ mạng. Ngài hứa sẽ trao ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Ngài mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh mời gọi các ông phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, nghĩa là nhân danh Đấng đã chịu khổ hình và sống lại. Chính các môn đệ là nhân chứng sống động về tất cả những lời rao giảng để kêu gọi mọi người sám hối (x. Lc 24, 45-48). Các ông trở nên những môn đệ đích thực được Chúa chúc lành, được sao đi rao giảng ơn cứu độ cho mọi người. Nhờ đó mọi người được ơn tha tội, được làm con cái Thiên Chúa và chung hưởng vinh quang cùng Ngài.
Còn chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và đổi mới đời sống theo tinh thần Chúa Kitô chưa? Chúng ta có tin tưởng cậy trông và phó thức vào tình yêu và quyền năng của Ngài không? Chúng ta hãy để lời Chúa thách đố từng giây từng phút cuộc sống chúng ta, hầu chúng ta được Chúa nâng đỡ. Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã thực thi sứ mạng mà Chúa đã trao phó như thế nào? Chúa Giêsu không ngừng biểu lộ tình yêu và thực hiện lời hứa nơi mỗi người. Ngài trung tín sẵn sàng bảo vệ từng người chúng ta. Chỉ có Ngài liều lĩnh trao ban tình yêu và sứ mạng cao cả ấy cho chúng ta. Chúng ta hãy lãnh nhận, tạ ơn Ngài và để cho Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu, xin cho mỗi người chúng con biết hoan hỷ vui mừng dâng lời cảm tạ vì Chúa Giêsu về trời, trao ban tình yêu và sứ mạng là con đường dẫn chúng con đến với Chúa, xin cho chúng con vững tin thi hành lời Chúa trao ban, tin rằng Chúa về để trời dọn chỗ cho chúng con. Amen.
Giêsu đã lên trời, trở về với chúa Cha. Người trở về sau khi đã hoàn tất sứ mạng Cha trao phó LênTrời ABC-454
Giêsu đã lên trời, trở về với chúa Cha. Người trở về sau khi đã hoàn tất sứ mạng Cha trao phó.Trước khi được rước lên trời, Người đã chỉ bảo cho các Tông đồ những lời sau hết và chúc lành cho các ông.
Chúa Giêsu được rước lên trời, đó là niềm hân hoan và cũng là niềm hy vọng cho mọi tín hữu. Suốt cuộc sống dương thế, Chúa Giêsu đã đi vào trong tận cùng của đau khổ, thiếu thốn. Người xuống nơi sâu thẳm nhất của cõi lòng tan nát và xoa dịu bằng tình yêu không bờ bến cho những con người bị gạt ra bên lề xã hội. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã là một người nghèo, một người bị đời bội bạc và phụ tình. Đời đã tung hô Người khi đón nhận tình yêu của Người và đời cũng “thẳng tay” phụ bạc khi Người không đi theo đường lối mà họ muốn. Tất cả những gì sách Thánh đã chép về Người đều được ứng nghiệm. Hôm nay khi thời gian ở với các tông đồ đã hết, Người trao ban cho các ông sứ mạng “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Các ông phải trở nên chứng nhân của Chúa Phục Sinh, Đấng đã chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại và đã sống lại để ban tặng niềm hy vọng về sự sống muôn đời. Các tông đồ đã dùng cả cuộc đời và mạng sống mình để hoàn thành sứ mạng Chúa trao. Đang khi chúc lành cho các Tông đồ, Người được rước lên trời Chúa Giêsu vân không ngừng chúc lành cho thế giới mà Ngài không ngường yêu thương. Tình thương của Chúa vẫn trải dài trên cuộc đời ta. Người âm thầm đi vào lịch sử đời ta và cứu chuộc ta ngay trong chính dòng lịch sử của đời ta. Tất cả những gì ta nhận lãnh từ thế hệ đi trước là hồng ân cao quý mà Chúa đã đặt để. Chúa muốn ta được hạnh phúc. Đời ta có ý nghĩa hơn và đáng sống hơn vì ta đặt hy vọng nơi Chúa. Chúa đã làm cho đời ta nên như lúc này, dù đau khổ hay hạnh phúc tất cả đều mang một ý nghĩa cứu độ . Mỗi ngày ta hãy bước đi trong hân hoan hướng nhìn về trời cao, đón nhận thực tại với niềm tin và hy vọng nơi Đấng đã lamg người, đã chết và sống lại để cứu dộ ta. Đó là cách thức ta trở nên chứng nhân của Chúa cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời và không ngừng âu yếm cảm thương chúng con. Chúa đã về cùng Chúa Cha và dọn sẵn chỗ cho chúng con. Con đường lên trời đã được vạch rõ mà bất cứ ai cũng có thể bước lên, đó là con đường đón nhận thập giá bản thân, cùng bước đi với Chúa Giêsu vác thánh giá, cùng đóng đinh với người để tình yêu tỏa lan. Xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày và ban Đấng Bảo Trợ đến với chúng con. Để nhờ đó, chúng con can đảm “ sống cho những gì cao quý hơn.” Amen.
“Phận con người là phải chết một lần rồi sau đó là chịu phán xét” (x.Dt 9,27).
Đức Giê-su cũng là một con người nên Ngài cũng phải chết một lần. Nhưng Ngài đã sống lại LênTrời ABC-455
Đức Giê-su cũng là một con người nên Ngài cũng phải chết một lần. Nhưng Ngài đã sống lại và đã lên trời. Vì là Thiên Chúa nữa, nên Ngài không chịu phán xét mà Ngài sẽ phán xét mỗi người chúng ta: “Đức Giê-su, Chúa chúng ta, đã tự hiến tế chỉ một lần để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Ngài xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (x. Dt 9,28).
Chúng ta là những người tin vào Chúa và cũng chính là những người trông đợi Chúa đến cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta phải gì trong thời gian trông đợi đó? Chẳng lẽ chúng ta cứ đứng nhìn lên trời như các môn đệ sao? Không. Chúng ta sẽ ra sức cố gắng làm việc để được lên trời với Đức Giê-su.
Cụ thể chúng ta sẽ làm gì đây? Việc cụ thể chúng ta làm là: “Chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (x. Dt 10,22-23).
Đấng đã hứa là Đấng trung tín, nên Chúa sẽ xét xử mỗi người chúng ta. Đó là việc sẽ được diễn ra sau khi ta chết, chứ không phải lời nói đùa, nói chơi. Nên chúng ta tin và cố gắng chuẩn bị cho chính mình. Chúa sẽ xét xử từng người, nên chúng ta cố gắng mà sống cho tốt và nếu có bị thiệt thòi hay bị người khác hãm hại thì ta đừng lo, đã có Chúa trả lại sự công bằng cho ta, không có ai chạy đâu cho thoát được. Vì đâu có ai thoát khỏi cái chết đâu, ai cũng phải chết một lần mà. Ai làm tốt và sống tốt thì được thưởng; ai làm xấu và sống gian ác sẽ bị trừng phạt.
Vậy chúng ta hãy đến với Chúa và tin vào Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Bằng cách sống Lời Chúa mỗi ngày nhờ Thánh Thần và chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng.
Đức Giê-su nói: “Có lời Thánh Kinh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi thứ ba, từ cõi chết sống lại. Phải nhân Danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (x.Lc 24,46-48).
Chúng ta có hai việc làm để tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta. Một là Rao Giảng; hai là Làm Chứng.
Chúng ta rao giảng gì đây? Chúng ta rao giảng Đức Ki-tô Giê-su đã chịu khổ hình và ngày thứ ba Ngài đã sống lại.
Chúng ta làm chứng cách gì đây? Chúng ta làm chứng bằng chính cuộc sống của mình.
Nghĩa là chúng ta sẽ giống như Đức Ki-tô, chấp nhận những khó khăn, những vất vả, những gian truân; thậm chí cả những lừa lọc, hãm hại trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin.
Để dù công việc của chúng ta có bề bộn, chúng ta vẫn cố gắng sắp xếp để ta có thời gian cầu nguyện, gần gũi và gắn bó với Chúa.
Dù ta có nghèo, ít tiền ít của, vừa đủ dùng cho cuộc sống, ta vẫn giữ một tâm hồn chân thật, với một đức tin trọn vẹn; không than trời trách đất; không đua đòi cho “bằng chị bằng em” hay bằng người này người kia mà sống bất công; sống gian ác.Ta có một tâm hồn siêu thoát khỏi đời này.
Dù cuộc sống bây giờ có nhiều cám dỗ: nào là tiền tài; nào là của cải; nào là danh vọng, ta vẫn giữ được một lương tâm trong sạch. Ta sống theo Lời Chúa chứ không sống theo người đời.
Dù thân xác ta có bệnh tật hay ung thư đi nữa, ta hãy chấp nhận và dâng lên cho Thiên Chúa như những hy sinh để đền tội cho mình và cầu nguyện cho gia đình, cho con cháu và cho người khác. Đồng thời, ta phải biết giữ gìn sức khỏe, biết siêng năng làm việc, học hỏi; biết ăn uống điều độ và ngủ nghỉ có giờ có giấc.
Ta đừng có ham làm việc quá mà bỏ qua đời sống thiêng liêng; bỏ đi đời sống cầu nguyện; ta cũng đừng lười lĩnh mà ăn chơi lêu lỏng. Ta phải có sự quân bình, đừng làm quá cũng đừng chơi quá. Ta phải có một thời khóa biểu riêng cho chính mình, giờ nào việc đó. Điều đó sẽ giúp ta tận dụng những thời giờ quí báu Chúa ban cho ta khi sống trên đời này mà không lãng phí.
Vì ta biết rằng ta sống ở đời này chỉ một lần; chết một lần; sau đó là chịu phán xét. Phán xét rồi, một là ta được lên thiên đàng, nếu ta sống tốt; hai là ta sẽ phải vào luyện ngục, nếu chưa đền xong. Ở luyện ngục lâu hay mau là do việc ta cố gắng ở đời này.Đó là nói về việc linh hồn của ta, sau khi ta chết.
Còn đến ngày sau hết, thân xác của ta sẽ sống lại mà hợp với linh hồn của ta. Lúc này thì chỉ có hai con đường. Một là lên thiên đàng sống đời đời với Chúa; hai là xuống hỏa ngục sống mãi mãi với ma quỉ.
Vậy mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta càng thêm tin tưởng vào Chúa để sống đức tin của mình. Ta không chỉ nhìn trời mà còn tích cực chuẩn bị ngay từ bây giờ để ta có thể lên trời, bằng cách rao giảng và sống chứng nhân. Chắc chắn với sự cố gắng liên lỉ và mỗi ngày, ta tiến lại gần Chúa với “một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền”, khi chúng ta chết, linh hồn ta sẽ về với Chúa và chịu phán xét, chúng ta được cứu độ, được vào Nước Trời và ngày sau hết thân xác chúng cũng sẽ được sống lại, mà cùng với linh hồn sống đời đời với Chúa trên thiên đàng.
Đó là niềm tin của chúng ta. Đó là niềm hy vọng của chúng ta và đó là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng từng được nghe biết Cristoforo Colombo. Ông là nhà thám hiểm đầu tiên LênTrời ABC-456
Ai trong chúng ta cũng từng được nghe biết Cristoforo Colombo. Ông là nhà thám hiểm đầu tiên phát hiện ra Châu Mỹ vào năm 1492 (cách đây 527 năm). Bấy giờ, ông được vua Tây Ban Nha cung cấp 3 chiếc thuyền buồm và thủy thủ đoàn gồm 88 người tìm cách vượt qua Đại Tây Dương để đi Ấn Độ, không ngờ ông lại phát hiện ra Châu Mỹ nằm ngay trên hành trình của mình.
Colombo và thủy thủ đoàn khởi hành từ Tây Ban Nha ngày 3 tháng 8 năm 1492 và sau một cuộc hải hành gian lao vất vả trên Đại Tây Dương kéo dài suốt 2 tháng 9 ngày, vào ngày 12 tháng 10 năm 1492, Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ, một miền đất chưa từng được biết đến nên người ta gọi đây là Tân thế giới.
Trong những thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Vương Quốc Anh, Pháp cũng như các cường quốc châu Âu khác, đã đổ xô đến miền đất trù phú này lập nghiệp, xây dựng nên nhiều quốc gia lớn mạnh như ta thấy hiện nay, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada.
Sự kiện nhà thám hiểm Cristoforo Colombo phát hiện ra Châu Mỹ, khai lối mở đường cho các dân các nước Châu Âu và nhiều nơi khác trên thế giới tuôn đến định cư lập nghiệp ở đó gợi cho chúng ta nhớ đến một sự kiện khác lớn lao và quan trọng hơn nhiều, đó là sự kiện Chúa Giê-su lên trời để khai lối mở đường cho nhân loại bước vào Vương quốc thiên đàng.
Chúa Giê-su lên trời không phải để rời xa chúng ta, nhưng Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3).
Thế là từ ngày Chúa Giê-su lên trời vinh hiển, cửa trời đã được mở ra, Vương quốc vĩnh cửu vô biên đã được dọn sẵn để đón nhận muôn dân muôn nước vào hưởng phúc đời đời và Thiên Chúa không ngớt mời gọi muôn dân vào chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do và Thiên Chúa tôn trọng tự do của họ đến cùng. Vì thế, Thiên Chúa không lôi kéo, không ép buộc, không xô đẩy bất cứ ai vào thiên đàng, nhưng để cho mỗi người tự do chọn lựa, Ngài chỉ mời gọi thôi.
Chúa Giê-su tha thiết mời gọi chúng ta đến Vương quốc thiên đàng như sau: “Nào, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa…”(Mt 25,31-46).
Và liền theo sau lời mời gọi này, Chúa Giê-su cũng chỉ cho ta con đường dẫn vào thiên quốc. Con đường đó là sống yêu thương, phục vụ và cứu giúp những người bất hạnh chung quanh ta như Ngài nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.
Vậy thì bao lâu chúng ta sống yêu thương, đùm bọc, cứu giúp… người khác như là cho người đói ăn, thăm viếng người đau yếu, cứu giúp người bất hạnh… là chúng ta đang đi trên đường mà Chúa Giê-su đã vạch để tiến vào Vương quốc thiên đàng. Bấy giờ, cửa thiên đàng rộng mở cho chúng ta.
Ngược lại, bao lâu chúng ta không quan tâm, không cứu giúp người bất hạnh chung quanh là chúng ta đang đi trên đường đưa xuống hỏa ngục đau khổ muôn đời. Bấy giờ, lời cảnh báo của Chúa Giê-su sẽ được áp dụng cho chúng ta: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi khuất mắt Ta mà vào trong hỏa ngục… Vì các ngươi chẳng màng quan tâm cứu giúp Ta…”
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chấp nhận chịu khổ nạn, chịu chết ô nhục rồi sống lại và lên trời vinh hiển là để khai lối mở đường cho chúng con vào Vương quốc vô biên.
Xin giúp chúng con vững bước theo con đường Chúa đã vạch để tiến về quê trời là con đường bác ái yêu thương, để mai đây chúng con được chung hưởng vinh quang hạnh phúc muôn đời với Chúa.
Vào buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên (13/5/2018), tại LênTrời ABC-457
Vào buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên (13/5/2018), tại cửa sổ dinh Tông Tòa Rô-ma, trước hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương, ĐTC Phan-xi-cô đã ban huấn dụ. Mở đầu bài huấn dụ, ngài nói: “Hôm nay tại Italia cũng như mọi nước khác là lễ trọng mừng Chúa lên Trời. Lễ này bao gồm hai yếu tố: Một đàng nó hướng cái nhìn của chúng ta về Trời, nơi Chúa Giê-su vinh hiển ngự bên hữu Thiên Chúa Cha (x. Mc 16, 19). Đàng khác, nó nhắc nhớ chúng ta việc khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Tại sao? Bởi vì Chúa Giê-su Phục sinh và lên Trời gửi các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng trên toàn thế giới. Vì thế lễ Thăng Thiên khích lệ chúng ta hướng nhìn về Trời để rồi lập tức nhìn vào trái đất và thực thi các nhiệm vụ Chúa Phục Sinh tín thác cho chúng ta.” (Wikipedia)
Lễ Thăng Thiên đánh dấu việc Chúa Giê-su trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (Ga 3, 13). Sự kiện này nói lên việc nhân tính của Đức Ki-tô tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (Ga 16, 28; 17, 5), đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Người ở trần gian; đồng thời khởi đầu sứ mệnh của Giáo hội. Vào chính ngày Phục Sinh, thân xác vinh quang của Chúa Giê-su được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha”. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Lu-ca, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giê-su dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, hoàn tất việc giảng dạy các môn đệ, củng cố niềm tin và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Với biến cố thăng thiên, Chúa Giê-su không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo hội cho đến ngày tận thế (Mt 28, 20) theo phương cách mới (theo quyền năng của Chúa Thánh Thần) với tư cách là Chúa của vũ trụ (Pl 2, 10-11).
Suy niệm bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/PS-C – Ga 14, 23-29) trình thuật việc Đức Giê-su cáo biệt các môn đệ, chính thức bước vào cuộc khổ nạn. Trong những lời cáo biệt đó, có một câu khó hiểu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Đang ở cùng các môn đệ, Đức Giê-su ra đi tức là rời khỏi các môn đệ để đến một nơi khác, vậy thì làm sao mà “đên cùng anh chị em”? Hôm nay (CN VII/PS-C), cả 3 bài đọc đều chung một chủ đề: Chúa lên trời. Với “Những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ” (Lc 24, 44-49), lại một lần nữa Đức Giê-su nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Hành động “đăm đăm nhìn lên trời” của các môn đệ biểu lộ một tâm trạng hoang mang lo sợ, vì chưa hiểu rõ việc Chúa về trời. Sở dĩ vậy, vì cho đến giờ phút này các môn đệ vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) đối với Người Thầy luôn có những Lời dạy khó hiểu. Thực thế, nếu chỉ với đầu óc bất toàn của con người thì làm sao có thể hiểu ngay được những Lời Người dạy, chẳng hạn như: “Một môn đệ khác thưa với Người: ‘Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã’. Đức Giê-su bảo: ‘Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” (Mt 8, 21-22), “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 34-36).
Trước đó không lâu, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã từng báo trước biến cố Chúa Lên Trời cho các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 1-3). Vậy mà khi nghe Thầy nói “Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” (Ga 13, 3) thì Phê-rô, Tô-ma, Phi-lip-phê, Giu-đa (không phải Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã thi nhau nêu thắc mắc về con đường Chúa sẽ đi, về Chúa Cha, kể cả việc “tỏ mình ra” của Thầy (Ga 14, 4-10).
Tâm lý thông thường của con người là vậy, luôn sống bằng và sống với giác quan: Phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Điều này cũng chẳng có gì đáng trách. Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình luôn mãi, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là đau đớn, buồn rầu, hoang mang lo sợ. Chính vì thế nên các môn đệ chỉ lo nhìn lên theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, khiến các ngài quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Từ đó, các Tông đồ mới bình tâm trở lại và nhờ Đức Ki-tô “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24, 45) nên hiểu ra: Chúa Giê-su lên trời không có nghĩa là Người đã kết thúc sứ mệnh, mà chỉ là chuyển đổi sang một giai đoạn mới – giai đoạn cần sự tiếp tay cộng tác của các môn đệ – và vì thế Người mới dạy: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 3), “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Thời gian Chúa Giê-su hoạt động với tư cách Thiên-Chúa-làm-người đã mãn, để bắt đầu từ bây giờ Người sẽ hoạt động bằng Thần Khí của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giê-su là Nhập Thể, rao giảng Tin Mừng, “phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”. Biến cố Lên Trời mở ra một giai đoạn mới, tiếp tục những gì Người đã thực hiện trong những năm tháng “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14).
Trong giai đoạn mới này, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ cộng tác. Sứ mệnh Người trao cho họ gồm hai việc: *a)- Rao giảng cho thế giới biết Tin Mừng Cứu Độ Người đã thực hiện cho nhân loại (“Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” – Lc 24, 46-47); *b)- Làm chứng nhân cho Người và cho những giá trị Tin Mừng (“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” – Lc 24, 48). Để thi hành sứ vụ cao quý này, các môn đệ được Chúa sai đi cần phải có hành trang. Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đến với nhân loại và hành trang của Người là Thần Khí Tình Yêu. Giờ đây, Người sai môn đệ đi và hành trang của họ cũng phải là Ngọn Lửa Yêu Thương của Thần Khí Sự Thật. Người bảo họ cứ ở lại Giê-ru-sa-lem một thời gian ngắn và họ sẽ được lãnh nhận Thánh Thần làm hành trang cho hành trình thi hành sứ vụ.
Về vấn đề trước khi về trời, Đức Giê-su trao phó sứ vụ của Người cho các môn đệ, Thánh Au-gus-ti-nô đã nói một câu chí lý: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”. Thật thế, khi Đức Giê-su Thiên Chúa vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, nếu chỉ một mình Người “đơn thương độc mã” thi hành sứ vụ thì chắc chắn không có kết quả hoặc nếu có thì cũng chẳng là bao. Vẫn biết với quyền năng vô hạn, Người chỉ phán một lời là loài người được cứu rỗi; nhưng như thế thì nhân loại vẫn chìm trong u tối vì chưa được “vén tấm màn lên” (mạc khải), chẳng hiểu được công trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa rất cần sự cộng tác đắc lực của những “kẻ tin” mà tiên khởi là các vị Tông đồ vậy.
Đến như việc làm chứng nhân cho Người cũng là một yếu tố hết sức quan trọng, bởi với loài người thì bất cứ một công việc, một sự kiện gì cũng đòi phải được thực mục sở thị, được đụng vào hay cầm nắm, hoặc ít ra cũng phải được nghe một nhân chứng sống đáng tin cậy thì mới chịu tin. Cái kiểu đòi trông thấy nhãn tiền “dấu đinh ở tay Người”, được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh” và “đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” như Tô-ma, thì nhan nhản khắp nơi. Thấu hiểu tận chân tơ kẽ tóc lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giê-su mới đòi các môn đệ và rộng ra là các Ki-tô hữu không chỉ rao giảng mà còn phải làm chứng cho Tin Mừng. Vâng, “người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe theo thầy dạy là vì các thầy dạy ấy cũng là những chứng nhân.” (Thông điệp Loan Báo Tin Mừng “Evangelii Nuntiandi”, số 41).
Công cuộc rao giảng và làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ cũng ví như “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian” (“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” – Mt 5, 13-14). Tuy nhiên “muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi… Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” – Mt 5, 13-16). Rõ ràng việc “rao giảng” và “làm chứng” tuy hai mà một, việc rao giảng chỉ đạt hiệu quả khi có chứng liệu cụ thể, mà chứng liệu thuyết phục nhất cũng chính là bản thân người rao giảng. Nói cách cụ thể, người rao giảng phải “lời nói đi đôi với việc làm”, tất cả cuộc sống phải làm chứng cho lời mình rao giảng.
Tóm lại, một lần nữa Thiên Chúa lại mạc khải cho các môn đệ, và nói chung là cho loài người hiểu được mầu nhiệm cứu chuộc thông qua những hiện tượng trong biến cố Lên Trời của Đức Giê-su Ki-tô. Đồng thời, để mời gọi con người cộng tác bằng cách “dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Ấy cĩng bởi vì “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (Dt 4, 12-13).
Người Ki-tô hữu ngày hôm nay đừng “đăm đăm nhìn lên trời” nữa, mà hãy nhìn xuống bản thân mình để thấy được “Tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33), từ đó cầu xin Chúa Thánh Thần dạy dỗ và hướng dẫn, ngõ hầu có đủ hiểu biết và can đảm dấn thân trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Nước Trời vĩnh cửu. Không “đăm đăm nhìn lên trời” như các Tông đồ thủa xưa; nhưng hãy “hướng nhìn về Trời để rồi lập tức nhìn vào trái đất và thực thi các nhiệm vụ Chúa Phục Sinh tín thác cho chúng ta.” như lời dạy của Đức Giáo hoàng (-nt-). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).
Tin mừng chúng ta vừa nghe được đọc trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên. Biến cố Đức Giêsu được LênTrời ABC-458
Tin mừng chúng ta vừa nghe được đọc trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên. Biến cố Đức Giêsu được rước lên trời trước sự chứng kiến của các môn đệ. Biến cố thăng thiên như một điểm kết thúc cuộc đời dương thế của Đức Giêsu nhưng lại khởi đầu thời gian mới, một lịch sử mới, lịch sử của Giáo Hội mà Người hứa là sẽ ở cùng mọi ngày cho đến tận thế. Chúa Giêsu phục sinh được đem lên trời cũng là để ứng nghiệm những gì đã được loan báo về Người: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô phải chịu đau khổ, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ hối cải để được ơn tha tội.” (Lc 24,46-47)
Đức Giêsu lên trời trao lại cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo tin mừng cho muôn dân. Sứ điệp trước tiên chính là làm chứng về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Các môn đệ là người đã ở với Đức Giêsu, đã chứng kiến sự việc ngay từ đầu và trở thành chứng nhân cho Ngài. Biến cố thương khó đã làm các môn đệ thất vọng, lo lắng và sợ sệt trong một thời gian ngắn nhưng giờ đây, chứng kiến Đức Giêsu phục sinh, các ông được bình an, sức mạnh và nhiệt huyết để sống và tuyên xưng xác tín của mình bằng cả cuộc sống. Đức Giêsu rời xa các môn đệ nhưng các ông không đơn côi mà được Thánh Thần trợ giúp và an ủi, làm cho các ông thêm can đảm trong tư cách chứng nhân cho Thầy Giêsu.
Trở thành người chứng cũng là sứ mạng của từng người Kitô hữu chúng ta hôm nay. Lời mời gọi và nhắn nhủ của Chúa Giêsu cho chúng ta vẫn còn gần gũi và mới mẻ như ngày nào: làm chứng cho Chúa trong đời sống và việc làm thường ngày. Người vĩ đại làm được những thành tựu to lớn, nhưng làm những việc tầm thường với lòng yêu mến lớn lao biến chúng ta trở thành người phi thường. Kiên nhẫn và trung thành với lựa chọn và hành động theo Chúa ngay trong những điều nhỏ nhặt thường ngày đòi hỏi sự khiêm nhường và lòng yêu mến chân thành.
Chúng ta hẳn có kinh nghiệm đối mặt với thách đố khi muốn và dám chọn Chúa. Tuy vậy, khó khăn giúp cho lựa chọn của ta thêm ý nghĩa và lòng mến của ta thêm toàn hảo. Trong ánh sáng và niềm vui Chúa Phục Sinh, chúng ta được thêm tin tưởng để mạnh dạn bước theo Chúa vì biết rằng niềm tin ấy không phải hão huyền và rằng vì Chúa Giêsu đã chiến thắng Sự Dữ, qua đau khổ để đi tới vinh quang.
Ước gì Lời Chúa chúng ta vừa nghe cho chúng ta niềm hoan hỷ như các tông đồ xưa, muốn ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa vì những kỳ công Ngài thực hiện. Khám phá ra những điều Chúa làm trên cuộc đời chúng ta, cho người ta thương mến, chắc chắn chúng ta cũng có cùng tâm tình ca tụng và tạ ơn Chúa như người môn đệ đích thực. Xin Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha thông ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết để mỗi người, khi bước đi trong hành trình thiêng liêng của mình, khám pha ra sứ điệp của yêu thương và bình an của Chúa, và qua đó trở nên người chứng nhân cho Chúa cách sống động giữa thế giới hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn. Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh. Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng ...". Đó là lời của Thiên sứ nói với các Tông đồ trong LênTrời ABC-459
"Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời". Đó là lời của Thiên sứ nói với các Tông đồ trong lúc các ông còn mãi mê nhìn Thầy Chí Thánh của mình được đưa về trời. Và hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo long trọng mừng lễ Chúa Thăng Thiên, một biến cố đặc biệt trong lịch sử cứu độ của Chúa Cha.
Sau khi Đức Giêsu sống lại, Ngài đã lên ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang của Ngài. Đó là nơi Ngài đã vâng lời Chúa Cha, từ bỏ ngai vàng, xuống làm người, cứu chuộc nhân loại. trong các bản văn của thánh sử Luca thì ngài trình bày Chúa Giêsu còn ở lại với các môn đệ, các cộng đoàn giáo hội sơ khai thêm một thời gian nữa là 40 ngày, để an ủi, khích lệ, và hướng dẫn họ thực thi trách vụ loan báo tin mừng cho thế giới. Sách Tông Đồ Công Vụ kể lại khi Ngài căn dặn các ông hãy lên đường đến với muôn dân và loan báo tin mừng cho họ với phép rửa kèm theo. Các ông đã đón nhận sứ vụ đó và đồng hành với Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngài sẽ hướng dẫn các ông thực hiện trọng trách mới. lời loan báo tin mừng đó không dừng lại nơi những lý thuyết nhưng khởi đi từ niềm tin xác tín của chính các môn đồ. Tai đã được nghe Thầy nói, mắt đã chứng kiến Thầy sống bên cạnh và những dấu lạ Thầy đã thực hiện, hơn nữa, hôm nay còn được chứng kiến Thầy được nâng lên cõi trời cao, đó là phần thưởng cho người khiêm tốn thực hiện thánh ý Chúa Cha.
Biến cố Đức Giêsu lên trời đưa con người bước vào một hành trình đức tin mới. Ngài đã từ trời xuống mở cánh cửa cho con người được về trời, bởi sau khi nguyên tổ phạm tội, cánh cửa hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đã bị đóng lại, từ đây, con người không chỉ đứng ngước mắt về trời nhưng phải trở lại cuộc sống, để giới thiệu cho nhân loại biết về một Đức Giêsu đã đến thế gian, Ngài đã thực hiện chương trình cứu độ con người của Chúa Cha trong tình yêu thương. “xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”. lời nhắc của thánh Phaolo trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô như là một sự cố gắng của các tông đồ, để gia tăng niềm tin và hy vọng cho những ai tin vào một Đức Giêsu, đấng đã được Chúa Cha đặt bên hữu vì đã thực hiện thánh ý của Chúa Cha vẹn toàn. Thánh nhân còn mong mọi người có đôi mắt sáng, có thần trí khôn ngoan để nhận ra sứ vụ của mình, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong hành trình sứ vụ.
Chứng kiến Thầy về trời, các tông đồ vừa vui mừng, vừa hạnh phúc, nhưng cũng không thiếu cảm giác tiếc thương và lo buồn. Cảm giác vui buồn lẫn lộn đó làm cho các ông quên đi mình đang làm gì, đang đứng ở đâu, vì vậy, các thiên thần đã nhắc các ông hãy quay trở lại với cuộc sống, quay trở lại với công việc và trách vụ của mình. Trách vụ của các ông lúc này không là đứng nhìn trời mà hãy nhìn xuống, nhìn về sứ mạng của mình, nhìn về tương lai của Giáo hội, tương lai của các cộng đoàn. Trách vụ của mỗi người môn đệ là hãy mở những con đường từ tâm hồn mỗi anh chị em, dù đó là Do thái hay dân ngoại, là Hy lạp hay tòng giáo, đều có thể nhận biết con đường về trời với Thiên Chúa qua lời chứng của các môn đệ, nhất là chúng ta hôm nay.
Trong cuộc sống hôm nay, con người bận rộn với bao nhiêu thứ, nào là công ăn việc làm, nào là tương lai, sự nghiệp, nào là hạnh phúc gia đình, giáo dục con cái, tất cả hầu như chiếm hết thời gian trong ngày, nên lắm lúc con người bị vong thân, đánh mất giá trị con người của mình. Bên cạnh đó là áp lực cuộc sống từ xã hội, địa vị, quyền lực, sĩ diện cá nhân, của cải vật chất và tương lai, đã tác động trực tiếp lên đời sống tâm linh của con người, vì thế, họ khó có thể ý thức về căn tính Kitô hữu của mình, ý thức về trách vụ của người môn đệ là hãy nhìn xuống, nhìn vào thế giới để giúp đỡ thế giới, giúp đỡ con người thoát khỏi những yếu tố thực tại, để họ thay đổi con người, thay đổi suy nghĩ, thay đổi ý thức hệ và thay đổi luôn cả những thói quen hàng ngày. Chính sự cố gắng thay đổi đó đã biến cuộc đời mình như là con đường dẫn đưa bản thân lên trời, và cũng là dịp thuận tiện giới thiệu cho tha nhân con đường ngắn nhất, nhanh nhất về trời.
Cuộc sống nơi gia đình cũng không thoát khỏi những áp lực đó, mỗi thành viên trong các gia đình luôn bị tác động rất lớn từ xã hội, từ trách vụ và từ cá nhân chủ nghĩa, nên họ chỉ coi đời sống tâm linh như một nhu cầu chưa tới trong cuộc đời, trong gia đình của mình. Chỉ sống cầm chừng và giữ lấy những nền tảng căn bản chứ chưa thực sự là cố gắng đi tìm nước trời như tìm viên ngọc quý về tinh thần cho mình. Với những tác động như thế, đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc giáo dục con cái, xây dựng tổ ấm gia đình. Con cái được hướng dẫn với mục tiêu thành đạt trong xã hội, có địa vị, có tương lai và có chổ ẩn náu an toàn, còn đời sống tâm linh chỉ là một nhu cầu thứ yếu mà thôi. Đến một lúc nào đó, con cái trong các gia đình đó, chỉ tìm về với giáo hội, với Thiên Chúa khi thất bại trong công ăn việc làm, khi thua thiệt trong ganh đua với xã hội. Vậy, tôn giáo chỉ là một dịch vụ cung cấp những gì cần thiết cho con người thành đạt thôi sao ? Thiên Chúa chỉ là một giám đốc công ty cung cấp những sản phẩm đem lại lợi ích cho con người hôm nay thôi sao, còn cuộc sống đời sau, liệu còn cần thiết cho con người trong xã hội công nghệ cao này nữa không ?
Tưởng cũng nên đi qua những giá trị tinh thần được đề cao đó là đời sống chung cộng đoàn. Hướng về trời, chọn sự bình an, tìm chỗ nhất trong gia đình cộng đoàn có tồn tại trong ý thức hệ và trong đời sống chung của mỗi thành viên cộng đoàn không ? từ những sinh hoạt tầm thường trong cộng đoàn mỗi ngày, cho đến định hướng phát triển của mỗi cộng đoàn, thì con đường để giúp nhau nhìn về trời có phải là kim chỉ nam giúp mỗi thành viên hoàn thiện ơn gọi môn đệ của Thầy Chí Thánh không ? hay chỉ còn là một kho lý thuyết đầy sơn hào hải vị, nhưng trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi thành viên chỉ còn đấu tranh, chỉ còn nịnh hót, chỉ còn chạy đua quyền lực và chỉ còn là những ảo tưởng của thế gian. Cái nhìn về trời của các môn đệ xưa đâu kéo dài mãi, nhưng các ông được mời quay trở lại với cuộc sống, với thế giới đầy đau thương và còn nhiều vết thương lòng, để giúp đỡ họ, để đồng hành với họ như Thầy Chí Thánh đã chia sẻ và đồng hành với họ trong thời gian còn tại thế. Vậy nơi các gia đình, các cộng đoàn, có cần thiết trở lại với chính mỗi thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn, để thấy những ước muốn chân thành, thấy được những khát vọng nước trời trong họ, để giúp đỡ, chia sẻ và đồng hành với họ, giúp họ, giúp mình sám hối, thay đổi cuộc đời và hoàn thiện ơn gọi đã được lãnh nhận.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã được Chúa Cha trọng thưởng qua biến cố thăng thiên, xin cho mỗi người chúng con luôn cố gắng vâng nghe lời Con Thiên Chúa dạy bảo, để mai sau được trọng thưởng trên thiên quốc. Chúa đã hy sinh tất cả cho người mình yêu là con người, xin cho chúng con học bài học yêu thương của Chúa, để chúng con sống với nhau chân thành hơn, không hình thức, không màu mè, để họ nhận ra nơi chúng con một dấu hiệu nhỏ của con đường về trời. Chúa đang ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho chúng con, xin cho mỗi người mạnh dạn đến với tha nhân trong sự tôn trọng và yêu thương, để xây dựng một nước trời ngay hôm nay, hầu mai sau được sum họp trong gia đình của Chúa. Amen.
Thăng Thiên, lễ mừng biến cố Chúa Giêsu trở về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài được đưa về trời LênTrời ABC-460
Thăng Thiên, lễ mừng biến cố Chúa Giêsu trở về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài được đưa về trời, không phải do những phương tiện riêng của ngài hay do sức riêng của ngài. Nhưng chính là Cha ngài, Đấng đã sai ngài đến với chúng ta, giờ đây đưa ngài trở về chốn vinh quang. Qua biến cố đó, Thiên Chúa Cha tỏ cho thấy, Chúa Con đã hoàn thành trọn vẹn công trình được ủy thác.
Như thế, lễ Thăng Thiên biểu dương chiến thắng vinh quang của Đức Kitô, biểu dương sự đăng quang của ngài trong vương quốc Thiên Chúa Cha. Lễ này không chỉ liên quan đến Đức Kitô mà thôi, nhưng còn liên hệ đến số phận con người chúng ta nữa. Khi lên cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Con lôi cuốn chúng ta đến với ngài. Bởi vì ngài là Đấng Cứu Độ của thế giới; bởi vì ơn cứu độ đã được chuyển thông cho chúng ta; bởi vì chúng ta tin tưởng nơi ngài; bởi vì chúng ta là những chi thể của ngài; bời vì sự sống của ngài đang lưu chuyển trong từng thớ thịt, mạch máu của chúng ta; bởi vì chúng ta là môn đệ của ngài.
Cuộc đời chúng ta trên trần gian không phải là bị kết án ngày qua ngày trong tối tăm và chết chóc. Thực ra nó đã được khơi mào trong ánh sáng phục sinh. Một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ được đưa lên trời, như Đức Kitô. Không phải là sự tan rã và cái chết sẽ dành cho chúng ta, mà chính là một cuộc sống sung mãn và rực rỡ với Đức Kitô, bên cạnh Thiên Chúa Cha. Đó chính là sứ điệp của lễ Thăng Thiên.
Một điểm cần lưu ý là, đang khi ngước nhìn Thầy mình được đưa lên trời, các tông đồ cứ mải mê đắm chìm trong nỗi nhung nhớ. Các ông nghĩ rằng, nếu được cùng đi với ngài thì hay biết mấy. Còn gì bằng nếu cùng được đưa lên với ngài.
Thế nhưng, hai thiên thần đã đến đưa các ông trở về thực tại. Một ngày kia, các ông sẽ ở bên cạnh Đức Kitô. Nhưng không phải hôm nay. Ngày hôm nay, công việc đang chờ đợi các ông. Các ông phải làm chứng cho Đấng Phục sinh, khắp nơi trên thế giới, như lời Thầy truyền dạy: “ Anh em hãy loan báo Tin Mừng cho toàn thể tạo vật”.
Sứ mạng này không phải chỉ trao ban cho những môn đệ đầu tiên, là những người đã từng biết rõ Chúa Giêsu, đã từng ăn uống với ngài. Đó là nhiệm vụ chung cho tất cả những ai nối tiếp các ông. Nó được ủy thác cho toàn thể Hội Thánh. Đó là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Những cách thế để làm chứng cho Đức Kitô thì rất đa dạng. Mỗi người có một nhiệm vụ đặc biệt, mỗi người có một vai trò riêng. Trong Giáo Hội, phải có những tông đồ, những tiên tri, những nhà truyền giáo, những mục tử… làm chứng cho Đức Kitô. Nhưng cũng cần có những thầy dạy, người công nhân, những chuyên viên, những người cha, người mẹ trong gia đình, những thanh niên, giới trẻ phải làm chứng nhân.
Có rất nhiều cách thức làm chứng. Nhưng cách tốt nhất, quan trọng nhất, cần thiết, không thể thiếu, hệ tại ở việc sống trong tình yêu. Ai không biết thương yêu, thì không thể làm chứng nhân của Đức Kitô. Ai yêu mến thực sự, ai sống trong chân lý của tình yêu, thì nhất thiết phải là chứng nhân. Chính cuộc sống yêu thương làm cho chúng ta thành chứng nhân.
Lễ Thăng Thiên mời gọi chúng ta lớn lên trong tình yêu, để có thể làm chứng tốt đẹp hơn. Chính vì đã yêu thương, chính vì đã yêu thương nhiều mà một ngày kia, như Đức Kitô, chúng ta sẽ được đưa lên trời, nơi mà chúng ta sẽ được tận hưởng niềm vui và bình an một cách trọn vẹn, sung mãn, tròn đầy.
Ngày hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha sau khi Ngài LênTrời ABC-461
Ngày hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha sau khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Chúa Giêsu hồi hương trong vinh quang phục sinh và được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa.
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Trang Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.
Người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10, 22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.
Mừng Lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, Chúa muốn nhắn gởi cho chúng ta một sứ điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
(Trích dẫn từ tập sách “Giải Nghĩa Lời Chúa” - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
A. Lần Gặp Gỡ Cuối Cùng
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại nhiều lần Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Nhưng chỉ LênTrời ABC-462
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại nhiều lần Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Nhưng chỉ hai thánh sử Marcô và Luca có những lời kết thúc mọi lần gặp gỡ ấy. Marcô viết: sống lại lúc tảng sáng, ngày thứ nhất trong tuần, trước tiên Ngài hiện ra cho Maria Magđala... Sau đó Ngài tỏ mình ra cho hai người trong nhóm họ ở trên đàng... Sau cùng Ngài đến với chính nhóm Mười Một đang khi họ dùng bữa... Và sau khi đã nói cùng họ xong, Chúa Giêsu được nhắc về trời và lên ngự bên hữu Thiên Chúa (16,9-19).
Marcô cho ta có cảm tưởng mọi lần Chúa Phục sinh hiện đến đều xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần và Người đã lên trời cũng trong chính ngày ấy. Như vậy rõ ràng Marcô không đồng ý với Luca trong bài sách Công vụ hôm nay, vì tác giả này viết: Chúa Giêsu chỉ về trời 40 ngày sau khi sống lại và đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ.
Nhưng chính Luca cũng lại mâu thuẫn với mình nữa. Trong sách Công vụ thì ngài viết như thế, còn trong sách Tin Mừng thì ngài lại viết hầu giống như Marcô. Ngài cũng thuật rằng: Ngày thứ nhất trong tuần Chúa Phục sinh tỏ mình ra cho hai môn đệ đi Emmau vào lúc sau khi ngày đã xế chiều. Ngay giờ đó họ đã chỗi dậy trở về Giêrusalem và gặp thấy các bạn đang sum họp cùng nhau... Họ đang còn nói thì Ngài đã đứng giữa họ... Rồi Ngài dẫn họ đến tận Bêthania: đoạn giơ tay, Ngài chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài tách lìa họ và được nhắc lên trời (24,13-51).
Luca có thể quên những điều ngài vừa viết khi soạn sách Công vụ các Tông đồ không? Và ngài có ý gì khi khẳng định việc Chúa Lên Trời khác nhau như vậy? Ðọc kỹ các sách Kinh thánh, chúng ta có thể thấy rằng, trong sách Tin Mừng, Luca đã theo Marcô. Và cả hai đều muốn tô đẹp ngày Chúa nhật Phục sinh. Ðối với cả hai, đó là ngày Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Chắc chắn các ngài đã không muốn thuật lại hết mọi lần Chúa hiện ra. Các ngài đã lựa chọn kể lại một vài lần hiện ra đặc sắc. Và câu các ngài viết để thuật lại việc Chúa Lên trời thực ra nhằm mục đích kết thúc mọi lần Chúa sống lại hiện ra hơn là muốn khẳng định Chúa đã lên trời trong chính ngày Chúa nhật Phục sinh.
Nhất là trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy hai môn đệ đã phải trở về Giêrusalem vào lúc tối. Ðến nơi, họ gặp các Tông đồ, rồi được Chúa hiện ra chung cho mọi người và sau đó tất cả được Người dẫn đến Bêthania để chứng kiến việc Người lên trời. Như vậy, Người lên trời vào lúc đêm tối ư?
Không, lối hành văn của hai bản Tin Mừng Marcô và Luca trên đây không ghi lại lịch sử theo chi tiết thời gian. Hai tác giả muốn loan truyền Tin Mừng cứu độ: Ðức Kitô đã sống lại ngày thứ nhất trong tuần; Người đã hiện ra dạy dỗ các môn đệ nhiều lần; và lần cuối cùng Người đã cho họ thấy Người lên trời. Còn "lần cuối cùng" này xảy ra vào ngày nào, lúc nào, thì không tác giả nào muốn xác định theo lịch sử thời gian. Hai thánh Marcô và Luca, "bề ngoài" có vẻ như muốn quả quyết là vào cuối ngày thứ nhất trong tuần, nhưng thật sự như chúng ta đã thấy, cả hai chỉ muốn dùng việc lên trời để kết thúc mọi lần hiện ra; và các lần hiện ra này lại được xếp cả vào ngày thứ nhất trong tuần để tô điểm cho ngày Chúa sống lại. Ta có thể nói hai bản văn Tin Mừng Marcô và Luca là hai bài thần học về ngày Chúa Nhật: đó là ngày Chúa sống lại hiện đến với các môn đệ. Ðồng thời cũng là những bài thần học về mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Mầu nhiệm này bao gồm việc Người sống lại, hiện ra với các môn đệ và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa.
Theo Luca, chúng ta có thể nghĩ Chúa sống lại như mặt trời lúc rạng đông và Người về trời như vừng ô lúc lặn; còn cả ngày, thì ánh sáng Người chiếu soi cho các môn đệ. Luca kể chuyện Chúa đã liên tiếp hiện ra trong một ngày. Nếu chúng ta gom mọi lần hiện ra đó vào một và coi như chỉ là những diện khác nhau của việc Chúa sống lại tỏ mình ra cho các môn đệ, thì khi Người hiện đến họ biết Người đã sống lại và lúc Người biến đi họ biết Người đã về trời. Không vậy thì phải hỏi Người ở đâu? Nhưng họ đã không hỏi vì đã tin quyền năng Thiên Chúa đã phục sinh Ðức Giêsu từ nơi kẻ chết, thì mặc nhiên họ đã nhận ra rằng Người đã được nhắc lên trong vinh quang Thiên Chúa. Hai người trong nhóm họ đã viết lại việc Người lên trời cách hữu hình chẳng qua để muốn nói rằng từ nay Chúa sống lại không hiện ra nữa.
Nhưng tại sao Luca trong sách Công vụ lại nói đến con số 40 ngày như là thời gian để Chúa Phục sinh hiện ra dạy dỗ các môn đệ? Có thể lần hiện ra cuối cùng đã xảy ra vào ngày thứ 40 sau khi Chúa sống lại. Nhưng có thể hơn là Luca có một ẩy ý gì đây khi nêu ra con số này.
Chúng ta biết Môsê đã ở trên núi 40 ngày; dân được chọn đã đi trong sa mạc 40 năm; Êlya đã đến núi Horeb 40 ngày và nhất là chính Ðức Kitô đã chay tịnh 40 ngày trong sa mạc. Con số 40 ngày trở thành biểu tượng thời gian kết hợp với Thiên Chúa và được Thiên Chúa dạy dỗ. Có lẽ Luca muốn nói lên hạnh phúc và địa vị ưu việt của các Tông đồ. Các ngài là những người được Chúa sống lại hiện đến dạy dỗ trong 40 ngày. Như vậy các ngài đã có giáo lý đầy đủ của Chúa phục sinh và chúng ta phải kính nể, tin yêu giáo lý ấy.
Bởi vì chính đoạn sách Công vụ các Tông đồ hôm nay không có ý trình bày việc Chúa lên trời, đó là những lời mở đầu cho cả một cuốn sách. Tác giả nói đến nhiều ý tưởng mà tựu trung là để chuyển từ cuộc sống trần gian của Ðức Kitô sang thời đại hoạt động của các Tông đồ. Nên vai chính trong đoạn văn này là Phêrô và các bạn ông. Họ là những người được Ngài tuyển lựa dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, được tiếp xúc với Chúa Phục sinh trong 40 ngày là thời gian đầy đủ và lý tưởng, được Ngài dạy dỗ cặn kẽ về hoạt động tương lai và cuối cùng được thấy Ngài về trời để biết rõ nay đã đến thời đại của họ. Chính vì vậy mà bài sách Công vụ hôm nay kết thúc bằng câu: "Ðấng vừa bỏ các ông mà siêu thăng, sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Ngài đi lên trời", để hàm ý nói rằng: các ông phải đi làm việc cho đến ngày Ngài lại đến.
Như vậy chúng ta không còn lý do nào nữa để cứ nhìn lên trời mãi. Hãy đi thi hành mệnh lệnh Chúa để lại mà cả hai bài sách Công vụ lẫn bài Tin Mừng đều tường thuật.
B. Lệnh Chúa Truyền
Bài sách Công vụ cho ta thấy: suốt 40 ngày Chúa Giêsu đã hiện ra cho các môn đệ mà nói về Nước Thiên Chúa. Rồi đang lúc đồng bàn với họ, Ngài truyền cho họ chớ rời xa Giêrusalem... nhưng hãy đợi chịu lấy quyền năng của Thánh Thần... rồi sẽ là chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất.
Cụ thể, các Tông đồ phải ở lại Giêrusalem chờ lãnh ơn Thánh Thần rồi ra đi làm chứng cho Chúa Giêsu. Lệnh truyền có vẻ đơn sơ, nhưng nhiều ý nghĩa và hậu quả. Sau ngày Chúa thực hiện những hành vi quyết định để cứu thế qua việc chịu chết và sống lại, Giêrusalem trở thành nơi phát xuất ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các Tông đồ ở Giêrusalem để tung họ đi vào thế giới. Họ sẽ phải làm chứng về Chúa Giêsu nhưng nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Thời đại của Giáo hội vì thế là thời đại của Chúa Thánh Thần làm việc với các Tông đồ, mà đối tượng là làm chứng cho Chúa Giêsu.
Thánh Matthêô trong bài Tin Mừng hôm nay không dùng những từ ngữ như thế, nhưng ngài cũng không nói khác Luca. Ngài đã tả Chúa sống lại hiện ra lần cuối cùng ở trên núi. Núi nào, ngài không nói rõ, dường như để chúng ta nhớ lại những lần Ðức Giêsu đã chay tịnh trên núi, đã giảng dạy trên núi và đã biến hình trên núi. Và tất cả những kỷ niệm đó đều có thể tăng thêm ý nghĩa cho việc Người đứng trên núi hôm nay với các môn đệ.
Việc Người được các Tông đồ thờ lạy và tuyên bố được Chúa Cha ban cho mọi quyền trên trời dưới đất, phải chăng không muốn gợi lại câu chuyện Satan cám dỗ Người hãy thờ lạy nó để được tất cả trời đất làm vương quốc? Và hôm nay Người đã sống lại vinh quang mà đứng trên núi, làm sao không khiến Phêrô nhớ lại hôm Người biến hình. Và nếu Người đã có lần ngồi trên núi giảng về Tám mối phúc thật, thì hôm nay Người cũng đang lệnh cho các Tông đồ: hãy ra đi làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ, rửa tội cho người ta nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy dỗ họ giữ mọi lệnh truyền. Và nay, Ta ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế.
Thánh Matthêô đã diễn tả lệnh truyền qua nếp sống của Hội Thánh. Ngài dùng các công thức Rửa tội của Hội Thánh. Ngài nói đến sự hiện diện của Chúa ở với Hội Thánh cho đến tận thế như là bảo chứng việc Chúa phù trợ Hội Thánh nhờ Thánh Thần. Nghĩa là đối với thánh Matthêô, thời đại của Hội Thánh cũng là thời đại của các Tông đồ làm việc với sự cộng tác và nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Và đối tượng sinh hoạt của Hội Thánh cũng là làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Chúa Giêsu qua việc rao giảng Người cho họ và rửa tội cho họ nhân Danh Ba Ngôi.
Do đó với những lời lẽ khác nhau, bài sách Công vụ và bài Tin Mừng hôm nay đều ghi lại lệnh Chúa truyền cho các môn đệ trước khi Người về trời. Họ phải đón nhận Thánh Thần và ra đi làm chứng về Chúa Giêsu để thiên hạ trở thành môn đệ Người. Lệnh truyền này được ban bố sau khi Chúa sống lại để tập họp nhóm Mười Một qua các lần hiện ra để họ tin mầu nhiệm Phục sinh và được dạy dỗ về Nước Trời.
Ngày lễ Chúa Lên Trời, Phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm Mười Một ấy đã thực sự trở thành chứng nhân của Chúa Phục sinh. Họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Nhưng việc họ đã được huấn luyện xong nói lên thời gian của Chúa Giêsu ở trần gian đã kết thúc. Người lui khỏi họ mà về trời để thời đại của Hội Thánh khởi sự. Lễ Chúa Lên Trời vì thế có ý nói lên sự kiện mới trong đời sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố nữa trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Bởi vì như lời Kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc: chính vì chúng ta mà Người đã sinh ra làm người v.v... Và hôm nay Người về trời cũng là vì chúng ta. Nên chúng ta phải suy nghĩ về cuộc đời của mình nhân việc Người lên trời để ngày lễ hôm nay đạt được kết quả.
C. Thi Hành Lệnh Chúa
Trong 40 ngày chúng ta đã cử hành mầu nhiệm Phục sinh, chúng ta đã suy nghĩ về những lần Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Và nhất là chúng ta có thể nói được như Phêrô rằng: chúng tôi là những người được chọn để ăn uống với Người sau khi Người đã sống lại, vì từ ngày đó chúng ta vẫn tham dự Thánh lễ và Tiệc Thánh. Chúng ta phải coi mình như các môn đệ 40 ngày sau khi Người Phục sinh: sẵn sàng lãnh lấy trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Người ở trần gian. Phải ra đi khỏi nơi Bàn tiệc này như núi thánh, để gặp mọi người và làm chứng cho họ về Nước Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu về trời nói lên rằng: thời đại của Hội Thánh và của chúng ta đã khởi đầu. Công cuộc cứu thế từ nay chuyển sang chúng ta.
Dĩ nhiên chúng ta không đơn độc. Còn Thánh Thần nữa. Và phải có Thánh Thần chúng ta mới thi hành được sứ vụ. Từ hôm nay Giáo hội khuyên ta hợp ý cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Và như cộng đoàn các môn đệ xưa, Giáo hội chờ đợi Thánh Thần với Ðức Mẹ. Nay cũng là tháng Năm, tháng hoa của Mẹ chúng ta. Con cái Mẹ hãy sốt sắng vây quanh Người để cầu xin ơn Thánh Thần xuống dồi dào trên Giáo hội và trong các tâm hồn.
Tuy nhiên, những ngày tới không phải chỉ là những ngày cầu nguyện. Phêrô và các Tông đồ đã làm việc đang khi chờ đợi ơn Thánh Thần. Các ngài chọn người thay chỗ Giuđa. Và phải là người có tư cách để làm chứng, tức là không những đã ở trong hàng ngũ môn đệ và biết Chúa Giêsu, nhưng nhất là phải tin Người đã sống lại để đem sức sống mới vào thế gian. Vì sứ mệnh của Giáo Hội tựu trung là đem vào đời sống của con người mầm mống của sự phục sinh sau này, tức là sự sống trường cửu của chính Thiên Chúa.
Sự sống này giờ đây Chúa sẽ ban thêm cho chúng ta trong Thánh lễ này để hôm nay và hằng ngày, chúng ta đem tăng cường cho sự sống của mọi người, khi chúng ta phấn đấu cho đời sống loài người mỗi ngày một đẹp hơn, tốt hơn và hạnh phúc hơn.
Lễ Chúa Giêsu lên trời nói với chúng ta thật nhiều điều.
Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với họ. Họ phải biết sống để LênTrời ABC-463
1/ Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với họ. Họ phải biết sống để làm gì?.Chết rồi thì đi đâu?. Con đường chúng ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nào.
Người ta thống kê rằng cứ mỗi ngày trên thế giới có 5000 người trẻ tự vẫn. Đó là những người có cuộc sống đầy đủ, không cần phải phấn đấu, nhưng họ tìm đến cái chết (như lái xe với tốc độ cao…) vì không biết sống để làm gì, không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.
Lễ Chúa lên trời dạy chúng ta rằng cuộc sống có một ý nghĩa, đường ta đi sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là về với Chúa Cha. Chúa Cha là quê hương của Đức Giêsu, là nơi Người phát xuất và cũng là nơi Người trở về. Chúa Giêsu về trời trước rồi Người sẽ trở lại đón chúng ta, để Người ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó.
2/ Chúa lên trời không phải để xa cách chúng ta, cho bằng là để gần kề chúng ta hơn mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Khi còn sống ở dương gian, Chúa Giêsu bị hạn chế về mặt không gian và thời gian. Nếu Chúa ở chỗ này, thì Người không thể ở chỗ kia. Còn bây giờ khi đã lên trời, Chúa không còn bị giới hạn về mặt không gian và thời gian nữa.
3/ Chúa lên trời để ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Người sẽ trở thành Đấng cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Kinh tiền tụng ngày lễ).
4/ Chúa lên trời để Giáo Hội trưởng thành hơn. Giờ đây, Giáo Hội sẽ tiếp tục công cuộc rao giảng của Người: “Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Thời kỳ của Giáo Hội bắt đầu từ đây.
Các môn đệ của Chúa rất ý thức điều đó. Họ đã tuân lệnh Chúa “ra đi rao giảng khắp nơi”, làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa, nghĩa là tin vào Chúa.
5/ Chúa lên trời còn để dọn chỗ cho chúng ta như chính Người đã nói. Mỗi lần sau truyền phép chúng ta đều tuyên xưng: “Trong vinh quang mai Người sẽ đến, đón chúng con lên trời về với Chúa Cha”. Người kitô hữu ý thức rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở với Chúa trên trời. Nhưng việc chúng ta có được vào chốn đó hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta hôm nay.
Để kết thúc tôi xin kể một câu chuyện. Có một bà chủ nhà kia rất mực giàu có. Bà nuôi một gia nhân để dọn dẹp nhà cửa cũng như chăm sóc vườn hoa. Người này rất chăm chỉ lao động, nhưng bà chủ ác độc la mắng anh ta đủ điều, dầu vậy anh ta vẫn phải ngậm tăm
Thế rồi bà chủ đã chết và được quỉ đưa ngay xuống địa ngục, chốn khóc lóc và nghiến răng. Quỉ chỉ cho bà một túp lều rách nát và bảo rằng đó sẽ là nơi cư ngụ của bà từ đây. Bà chẳng còn biết làm sao nữa, cho bằng răm rắp tuân lệnh.
Một thời gian sau, người nô bộc của bà cũng chết và được thiên thần rước ngay lên trời, chỉ cho anh ta một ngôi nhà sang trọng và nói đó sẽ là nơi cư ngụ vĩnh viễn của anh.
Từ đàng xa, bà chủ thấy anh và lập tức nhận ra đó là người nô bộc của mình. Bà không vui khi thấy anh này được ở trong ngôi nhà xinh xắn. Bà đề nghị đổi túp lều của mình để lấy ngôi nhà sang trọng kia, nhưng thiên thần bảo: “Không được đâu bà. Sở dĩ người kia được ở trong ngôi nhà xinh xắn sang trọng, là bởi vì từ trần gian anh ta không ngừng gởi cho chúng tôi những vật liệu quí giá. Chúng tôi chỉ có việc xây nhà từ những vật liệu anh ta gởi lên mà thôi’. Còn bà, bà chỉ gởi cho chúng tôi những vật liệu tồi tàn và ma quỉ cũng đã dùng chính những vật liệu bà đã gởi xuống, để dựng cho bà một cái chòi rách nát mà thôi”. Bà đừng ghen tị mất công. Số phận của mỗi người tuỳ thuộc khi còn sống người ta đã gởi những vật liệu nào về đời sau.
Mt 28,16-21 không nói gì tới Thăng Thiên. Vì nói xuống thế lên trời là theo cách nói bình thường LênTrời ABC-464
Mt 28,16-21 không nói gì tới Thăng Thiên. Vì nói xuống thế lên trời là theo cách nói bình thường. Trên trời cao dưới đất thấp (bản dịch PVCGK) là viết văn không phải là thần học. Dưới đất đối lại với trên trời. Đất là không gian vật chất, có giới hạn vào một nơi chốn cụ thể: ở đây bây giờ. Trời là chỉ sự hiện hữu khác với vật chất, thiêng liêng. Là những hữu thể hiện hữu theo cách riêng, thiêng liêng. Không nói nơi chốn mà nói hữu thể hiện hữu. Trời là Thiên Chúa. Thiên Chúa ở đâu thì ở đó là trời. Nên cũng gọi là Chúa Trời. Đất và trời không xa cách nhau như cách nghĩ thông thường. Đất là vật chất trời là thiêng liêng vô hình. Á Đông nói "Thần vô phương": thần không ở phương nào cả mà ở khắp tứ phương. Hay "bàng lưu bất trú dạ" đi khắp mà không nghĩ đêm vì nghĩ thì dừng lại ở "quán trọ".
Đức Giêsu chấm dứt sự hiện diện bằng thân xác vật chất chuyển sang sự hiện hữu thần linh "thần thì vô phương" không trụ ở một nơi nào mà ở khắp tứ phương.
Người vẫn sống, đang hiện diện và hoạt động bằng Thần Khí, chỉ những người nào cảm nghiệm được thì mới tin vững. Nên còn những người "hoài nghi".
Các Phúc Âm khác có nói lên trời nhưng phải hiểu là cách nói thông thường. CHÚ GIẢI
Mười một môn đệ: Mất Giuda.
Đi tới miền Galilê: Không thấy có thời gian nào để các ông trở về Galile.
Đức Giêsu Galilê bây giờ xem ra chỉ còn là ký ức của quá khứ. Các ông đang ở với Đức Giêsu Phục Sinh vinh quang. Các ông đang say sưa với vinh quang Phục Sinh. Nhưng tất cả những gì Đức Giêsu làm và dạy là ở Galile, gọi là Đức Giêsu Galile. Đức Giêsu Phục Sinh không dạy, không làm gì thêm. Thần Khí chỉ nhắc cho nhớ và làm cho hiểu những gì Đức Giêsu đã nói đã làm. Thần Khí cũng không thêm gì. Trở về Galile là trở về với Đức Giêsu Galile.
Đến ngọn núi mà Đức Giêsu hẹn các ông: Tất cả những gì quan trọng dều được công bố trên núi (nhắc lại việc Thiên Chúa ban lề luật cho Mose lần đầu tiên trên núi Sinai). Hoặc "đẹp thay bước chân người loan tin trên núi".
Khi thấy Người các ông bái lạy: Cử chỉ tôn thờ chỉ dành cho Thiên Chúa. Họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nên mới bái lạy.
Nhưng có mấy ông còn hoài nghi: Các ông chỉ cảm nghiệm "cá nhân" Đức Giêsu vẫn sống, đang hiện diện, đang hoạt động bằng Thần Khí của Ngươi và đang biến đổi các ông và do đó mà các ông tin. Sự cảm nghiệm cá nhân nầy khác nhau, nhiều ít ở riêng mỗi người. Người ít thì chưa tin lắm nên còn hoài nghi.
Đức Giêsu tiến đến gần, nói với các ông: Cho gần gũi. cho thân mật và cho nghe rõ điều Người nói.
Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy: Mạc khải việc Đức Giêsu được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha được phong làm Chúa và Đấng Cứu Thế. Đức Giêsu là Thiên Chúa vì sẽ hành quyền thay thế Thiên Chúa.
Vậy anh em hãy đi: Là mệnh lênh chính thức và chính yếu của Chúa Phục Sinh và của đoạn Phúc Âm nầy. Đức Giêsu sai đi. Các bài viết về Phục Sinh đều nhằm mục đích "sai đi".
Làm cho muôn dân trở thánh môn đệ: Nhiều hơn là rao giảng dù là rao giảng Tin Mừng. Môn đệ là những người có "nhập môn" bằng phép rửa "theo cách của thời đó" và học theo trường của thầy, sống theo giáo lý của thầy, giống Thầy.
Làm phép rửa cho họ: là nghi thức nhập môn của các môn phái thời ấy. Bắt đầu đời sống mới theo giáo thuyết của môn phái.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: là công thức phép rửa của Giáo Hội. Phúc Âm được viết khi phép rửa đã có công thức hẳn hoi. Là gia nhập cộng đoàn của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần như Giáo Hội đã tin và đã rao giảng.
Dạy họ giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho anh em: Là điều kiện hoàn tất mệnh lệnh cuối cùng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa, dạy họ giữ những điều thầy dạy.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Hứa sự trợ giúp. Có Chúa ở cùng thì được quyền năng Chúa phù trợ. Là câu đóng "Thầy ở cùng mọi ngày" đối lại Emmanuel mở đấu Matthêu.
KẾT
Thiên Chúa sai Lời đến thế gian trong Đức Giêsu. Hoàn thành sứ vụ Người trở về. Công việc của Người phải được tiếp tục. Người đã huấn luyện mười hai tông dồ. Người truyền mệnh lệnh "sai" các ông tiếp tục công việc của Người trước khi Người lìa các ông. Những lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra được kể lại dều nhằm mục đích "sai đi", giao nhiệm vụ.
Sứ vụ được "sai đi" gồm truớc hết là "làm cho muôn dân (phổ quát) trở thành môn đệ". Ai "tin" đón nhận lời rao giảng thì làm phép rửa cho họ "thâu nhận họ vào cộng đoàn mới, cộng đoàn của Cha và Con và Thán Thần". Cuối cùng là "dạy" cho họ giáo lý của cộng đoàn do Đức Giêsu truyền lại để họ biết và giữ mọi điều Thầy đã truyền thì mới hoàn thành "môn đệ".
Đó là nhiệm vụ được giao cho Giáo Hội thực hiện cho tới ngày nay. Các tông đồ, những người kế vị, những người tham gia ở nhiều cấp bậc khác nhau đã cùng nhau xây dựng Giáo Hội, nước Chúa ở trần gian. Lễ hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng quên vai trò của mình trong sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội trước khi Người chấm dứt "hiện diện hữu hình" chỉ còn hoạt động bằng Thánh Thần Bảo Trợ. Xin Thánh Thần giúp chúng ta ý thức sứ vụ "được sai đi" và hăng hái góp phần để sứ vụ của Chúa Giêsu được hoàn thành viên mãn.
Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin LênTrời ABC-465
Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: “Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên”.
Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu.
Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy. Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều.
Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Giêsu nói với chúng ta “Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời”.
Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu.
Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
“Thứ Năm thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”.
Thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết tràn đầy những sản phẩm phong phú về chất lượng và tiện ích: LênTrời ABC-466
Thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết tràn đầy những sản phẩm phong phú về chất lượng và tiện ích cho nhu cầu cuộc sống. Những thứ này làm cho con người xem như không muốn lìa khỏi trái đất, và một cách nào đó, không còn mộ mến và cũng không muốn kiếm tìm kho tàng vĩnh cửu của đời sau. Nhưng những sự trên trời là gì? Và tại sao chúng ta cần phải tìm kiếm nó?
NHỮNG CÁI THUỘC VỀ TRẦN GIAN
Trước khi tìm kiếm những sự trên trời, chúng ta cũng cần rảo qua những thứ mà con người ngày nay đang khao khát và tìm kiếm ở trái đất. Nói một cách nôm na là “những sự thuộc về trái đất”.
Những điều mà con người ngày nay đang hăm hở tìm kiếm, và chiếm hữu đó là:
1. Sắc đẹp. 2. Tiền của. 3. Tình yêu. 4. Danh vọng. 5. Thành đạt. 6. Thú vui vật dục.
Sắc đẹp là gì? Tiền của là gì? Tình yêu là gì? Danh vọng là gì? Thành đạt là gì? Và Thú vui dục vọng là gì? Tất cả những thứ này ai cũng biết, vì chúng cũng rất dễ hiểu đối với một trí khôn thông mình vừa phải.
Con người với bản năng tự nhiên thật khó để chống lại sức quyến rũ và khuynh loát của những thứ này. Bằng một cái nhìn có tính cách luân lý, chúng ta gọi những thèm khát và ước muốn chiếm hữu ấy là những cơn cám dỗ, hay những chước cám dỗ. Chính Chúa Giêsu cũng bị lôi vào những cám dỗ này: “Tất cả những vinh quang thế gian này là của tôi. Tôi sẽ cho ông nếu ông sấp mình thờ lậy tôi” (Mt 4:9).
Trong thực tế, ngưòi ta tranh nhau, chống đối nhau, thù ghét nhau, và thanh toán nhau về những thứ ấy. Nhiều người đã dám đánh đổi cả linh hồn mình, cả danh dự mình cốt sao chiếm thủ được những thứ ấy. Nhiều anh Hồi Giáo quá khích, ôm bom tự sát cũng không ngoài sự ham thích là trên Thiên Đàng, sẽ được ôm 72 cô trinh nữ.
NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI
Nếu trời và đất khác nhau, xa nhau như thế nào, thì những sự thuộc về trời cao và những sự thuộc về trái đất cũng khác nhau và xa nhau như vậy.
Tuy không mấy ai quay lưng lại những điều tốt đẹp và thiện hảo thuộc về trái đất, nhưng đối với những vẻ đẹp và sự thiện hảo thuộc về thế giới tâm linh thì hầu như không mấy ai màng tới.
Thật ra, không phải là con người không quan tâm và ưa thích những giá trị tinh thần, nhưng chỉ vì “vô tri bất mộ”. Và điều này chính là lý do khiến nhiều người đã quên hoặc thờ ơ với những vẻ đẹp và sự quyến rũ ấy. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp trên trời là gì? Đó là:
1. Vẻ đẹp của tâm hồn. 2. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. 3. Nghèo khó Phúc Âm. 4. Khiêm nhường. 5. Đơn sơ. 6. Thanh tịnh.
Là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ của những vẻ đẹp thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giầu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp, mình hơn người là thoải mái, và hạnh phúc. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tua sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những cái có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Yêu mến và tìm kiếm. Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yếu mến những sự trên trời. Nếu như tự nhiên chúng ta không yêu mến nổi, không thích thì chúng ta phải cầu xin ơn trên khai mở tâm trí, và cõi lòng mình. Sự mù lòa của con mắt tâm linh và sự tăm tối của trí tuệ khiến nhiều người chối bỏ, hoặc coi thường những giá trị thuộc về thế giới tâm linh. Cầu xin cho được ơn ái mộ, là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ chúng ta, để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy.
NHỮNG GÌ THUỘC VỀ THẦN LINH LÀ THẦN LINH
Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Thí dụ, nhận ra vẻ đẹp và giá trị của tinh thần nghèo khó, hoặc nhận ra được giá trị và vẻ đẹp của Đức Ái Kitô Giáo, một đức ái không chỉ dậy chúng ta yêu thương kẻ yêu mình, mà hơn thế, yêu thương cả những kẻ ghét bỏ mình, thù nghịch và hại mình.
Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Thật vậy, con nguời tự nhiên dù có muốn kiếm tìm và học hỏi nó, những giá trị tinh thần kia vẫn ở xa hơn tầm hiểu biết và vì thế, cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm mà ta gọi là sự khai mở của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được ngài khai mở, lúc ấy chúng ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Và cũng chỉ khi nào tai ta, mắt ta, miệng lưỡi ta được khai mở, lúc ấy ta mới nghe rõ, mới nhìn rõ, và mới nói được, truyền thụ được điều mà trí khôn ta cảm nghiệm và trái tim ta yêu mến.
Nhiều khi chúng ta thấy thương cho những người vô thần, những người vật chất khi thấy họ bị trói buộc và xiềng xích bởi hận thù, ghen ghét, hoặc bị chôn bám vào những dục vọng thấp hèn. Chúng ta tự hỏi làm sao những người này có thể hạnh phúc và bình an được với những suy nghĩ và lối sống như thế. Nhưng vì trí khôn họ, trái tim họ, con mắt họ, lỗ tai họ, và miệng lưỡi họ đã bị xích xiềng và khống chế bởi sự mù lòa tâm linh, nên họ vẫn phải làm những điều mà nhiều khi họ không biết mình làm gì, hệt giống như những bệnh nhân tâm thần.
CHÚA VỀ TRỜI
Không phải chỉ để dọn chỗ cho chúng ta, mà còn là một hướng tới mà mỗi người chúng ta phải nhìn lên.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc bất diệt của chúng con.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, la: LênTrời ABC-467
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, là thần nhãn, thấy được những gì mà hai con mắt thịt vẫn nhìn mà không thấy.
Hồi còn là sinh viên, trong lớp tôi cũng có mấy anh bạn người Ấn. Có lần tôi đã trót dại đi nhạo báng mấy tên này vì cái trò ăn bằng tay có vẻ mất vệ sinh, nhất là khi ăn cà ri thì nhoe nhoét quá chừng. Tôi khơi mào bằng chuyện “bước tiến hóa tất yếu của lịch sử” văn minh loài người, rằng cứ xem cách ăn thì biết một sắc dân đã văn minh tới cỡ nào. Này nhé: ăn bằng cả mười ngón tay là thuộc thời còn trong hang hốc rừng rú; người da trắng văn minh hơn một tí thì đã biết mặc quần áo và ăn bằng xiên tức là bốn ngón; còn người Việt thì chỉ dùng có hai ngón mà thôi, tức là dùng đũa. Văn minh chưa?
Nghe tôi cười nhạo như vậy mà tên người Ấn không tỏ dấu tức giận gì, nhưng cứ bình tĩnh đợi cho tôi nói cho đã rồi mới từ từ nói lại: “Này bạn, khi ba mình trao cho mình một món quà, thì bạn lấy hai cái gậy mà khều hay lấy bốn cái que mà chọc? Tôi thì tôi chẳng dám thế. Tôi sẽ cung kính giơ hai bàn tay ra mà lãnh nhận với lòng biết ơn. Người Ấn chúng tôi thấy mọi sự đều là ơn Trời ban: từng hơi thở, từng miếng ăn, từng ngụm nước, từng hạt cơm. Ăn cũng là một nghi thức đấy.” Đang hí hửng đắc thắng, tôi im bặt ngay, thấy thẹn trong người. Phục tên này quá sức. Đúng là họ có con mắt thứ ba vẽ tượng trưng ở trán. Chẳng lạ gì nhiều nhà khảo cứu đã từng nói tới hạch tuyến Pituitary và Pineal ở chính điểm trên.
CÁI THẤY CỦA CON KIẾN
Một con kiến đang bò trên mặt một tờ giấy, ra sức bò từ đầu này sang đầu kia. Một người đứng quan sát nó bò như vậy vừa tới đầu bên kia thì liền nẩy ra ý vui vui là gấp tờ giấy lại cho đầu và cuối trang giấy giáp vào nhau. Con kiến lấy làm lạ là nó bỗng gặp lại chỗ nó đã khởi hành mà không hiểu tại sao.
Đối với con kiến thì thế giới của nó là cái mặt phẳng hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Nó không thể hiểu và thấy được chiều kích thứ ba gọi là hình học không gian: chiều đứng. Đối với nó thì “thế gian” chỉ vỏn vẹn trong tầm mắt trên tờ giấy. Nếu có người bỏ một miếng mỡ nhỏ vào trên mặt giấy thì nó khoái trá mò đến kiếm ăn khen ngon rốt rít, nhưng nó không thể hiểu miếng mỡ từ đâu tới. Đối với nó, việc miếng mỡ “hiện ra” trên mặt giấy là một phép lạ. Hình ảnh này cũng giúp hiểu một điều xem ra rất mâu thuẫn trong đạo là việc tin Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa hằng hữu, “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” và việc Chúa hiện ra. Chúa vẫn luôn ở đây chứ, nhưng chỉ thấy Chúa “hiện ra” thực khi nhìn với con mắt trong một chiều khích cao hơn mắt con kiến, vẫn được gọi là con mắt thứ ba, con mắt của tâm.
Chúng ta vẫn thường nói: Mặt trời mọc và mặt trời lặn. Sự thật có phải vậy đâu. Nói như thế cũng giống như con ếch ngồi đáy giếng bảo trời đất chỉ bằng cái vòng tròn trên miệng giếng kia. Cho đến thời Isaac Newton bỗng thấy một sự thật khác qua chuyện nhìn trái táo rụng mà “thấy” được, phát minh ra định luật về trọng lực.
Quả thực, Newton và Descartes đã ghi mốc cho một nền văn minh gọi là khoa học kỹ thuật từ Âu Châu tiến đến tột đỉnh ở Mỹ như ngày nay. Sự vật được nhìn như những “thực thể” hoàn toàn vật chất tách rời biệt lập, để được đo lường cân lượng, để trở thành những kết luận, những định luật, định lý.
Cái nhìn và cái thấy mới, được gọi là “văn minh” này, có thể diễn tã đơn giản là con kiến trước đây chỉ biết bò trên mặt phẳng, bây giờ biết bò trong một cái hộp vuông có chiều đứng. Nó bèn vênh mặt lên tự hào đã bá chủ được “vũ trụ.” Cho đến một hôm nó cố gắng mò mẫm bò lên được mặt trăng, chưa kịp gáy để khoe mẽ thì bỗng dưng cụt hứng khi nhìn về trái đất và thấy một sự thất khác: tất cả những đo lường, những dinh thự chọc trời, những bon chen ở dưới kia sao mà nhỏ bé li ti một cách tội nghiệp đến thế! Rồi nhìn ra chung quanh: vũ trụ bao la với triệu thái dương hệ, có những ngôi sao vừa ra đời, có những ngôi sao đang bay vào hố đen thăm thẳm gọi là “black hole.” Con người bằng ấy năm “văn minh” mà sao lệt bệt quá vậy? Cứ tưởng tượng xem: văn minh gì mà cứ phải bò lết trên mặt đường bằng những phương tiện mà loài người gọi là xe hơi, dù là xe láng hay xe sắp ra nghĩa địa. Và mọi đo lường, mọi giá trị vẫn tự hào xưa nay bỗng dưng thay đổi chiều kích.
Mà cả trái đất cũng là một phi thuyền đang bay vào khoảng trống vô biên. Một đời người sống hai chục năm hay tám mươi tuổi nhìn lại cũng chỉ là một koảnh khắc hết sức tương đối. Ôn lại lịch sử con người từ cái ngày còn ở trong hốc đá cho đến khi biết mặc quần jean, mấy ngàn năm tưởng như một nháy mắt. Con người đã bước vào một thiên niên kỷ mới, khởi đầu một vòng xoay của trái đất như một chấm nhỏ li ti trong giải ngân hà, những sinh vật gọi là loài người ngồi tính sổ, rốt cuộc rồi cũng thấy mọi thành quả đỉnh cao, mọi tiến bộ tất yếu chỉ là chuyện nhảm nhí. “Con kiến” mang mặt người như vừa thức tỉnh vượt lên khỏi cảnh “ếch ngồi đấy giếng” với một cái nhìn mới trong một chiều kích mới.
TIN VUI GỬI NGƯỜI ĐANG BỊ QUẨN
Nhiều người vẫn có cảm tưởng mình bị nhốt giam tù túng trong một cái bị thịt, con mắt không sao mà nhìn cao và xa hơn được. Ngay cả về thể lý,con mắt mình chắc chắn là không sáng bằng đôi mắt chim cú, không tinh và đầy quyền năng như con rắn nhìn chú gà con, không đơn thành trong sạch bằng đôi mắt bồ câu, không nhìn xa được bằng mắt chim phượng. Người ta đã từng khám phá ra mắt con ruồi có tới ba ngàn lăng kính, chính xác hơn ống kính nổi tiếng nhất thế giới ngày nay như Zeiss, Leica... Người ta vẫn đổ tội cho ông A-đam và E-và tham ăn tham uống mà con mắt thứ ba là hạch tuyến Pituitary và Pineal bị vít lại, nên hóa ra mù tối mất đi chất trong sáng nguyên thủy. Nhưng thực ra thì những chuyện lắng lo lẩm cẩm hằng ngày của mỗi người bây giờ càng ngày càng che lấp tầm mắt chẳng còn có thể nhìn thấy gì xa hơn nữa. Cộng thêm vào đó là những ham hố, những tham vọng, những bon chen, khiến cho con mắt càng bị che phủ mờ mịt đi. Nhìn lên chỉ thấy ganh tị chưa bằng người; nhìn xuống chỉ thấy những vênh mặt tự đắc tưởng rằng đỉnh cao; nhìn gần chỉ toàn thấy những giấy đòi nợ và những bon chen hơn thiệt triền miên, đau khổ vật vã với những giằng co đi vào đường cùng. Đúng là quẩn quá! Đến một khoảnh khắc sực tỉnh mình bỗng thấy tầm mắt mở rộng, thoát ra khỏi những chặn vít thường ngày:
Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà. (thơ Nguyễn Khánh Hòa, New Orleans)
PHÚT TỊNH TÂM
Hòa mình vào hình ảnh Chúa Giêsu lên Trời, mỗi người sực nhận ra một chiều kích mới: Con người có thể vượt lên khỏi cái bị thịt vốn giới hạn nhốt giam mình trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã làm người, đã trở thành một A-đam mới, con người kiểu mẫu mới, và đã vươn tới vô hạn. Người tin đạo nhận được tin vui lớn là nhìn thấy được Ngài ngay bên cạnh đây lúc này. Trong 33 năm làm người ở Do Thái, Ngài cũng từng bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Trong thời gian đó, nếu Ngài đang ở Giêrusalem thì không thể nào lại có thể có mặt tại Nagiarét, phương chi là ở New Orleans hay ở Sài gòn sau gần hai ngàn năm trước. Lên Trời là vượt lên khỏi tất cả những giới hạn đó để có mặt mọi nơi, mọi lúc. Đây đúng là một Tin Vui lớn. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rõ: “Ngài được cất lên trước mắt các môn đệ, và một đám mây che phủ Ngài khuất mắt các ông.”
Cũng như trong một quán ăn trên đường Emmaus, Chúa Giêsu cũng biến đi như vậy: “Khi ngồi vào bàn ăn với hai môn đệ, Người cầm lấy bánh, đọc kinh cầu phúc, rồi bẻ bánh trao cho họ. Con mắt họ chợt bừng mở, nhưng khi họ vừa nhận ra Người thì Người đã biến mất dạng không còn thấy đâu nữa.” (Luca 24:30-31).
Mắt đây chính là hai con mắt thịt bị che đi để con mắt thứ ba, con mắt của niềm tin mở ra, thấy được Chúa vẫn luôn ở với mình và trong mình mọi nơi mọi lúc như Ngài đã phán: “Con ở trong chúng và Cha ở trong con. Và con yêu thương chúng như Cha đã yêu thương Con." "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Lên Trời hay biến đi không phải là chạy đâu xa, mà là hiển hiện vào trong tâm mỗi người, và chỉ nhìn thấy được bằng con mắt thứ ba. Chính vì thấy được như vậy mà các tông đồ đã trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng, rồi bung đi khắp thế giới loan báo Tin Vui cho thời đại mới.
Xin Chúa cho con cũng thấy được Chúa đang ở ngay đây. Phút giây lắng đọng này chính là lúc con được khai mở con mắt thứ ba mà tâm nguyện với Chúa qua thánh vịnh 139:
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, Biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa. Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét. Mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, Thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, Quá cao vời, con chẳng vươn tới.
Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng LênTrời ABC-468
Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta chứng kiến việc Chúa về Trời. Chúa về Trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Nhìn lại lịch sử thăng trầm của con người, con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Việc Chúa Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.
Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài.
Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).
Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.
Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.
Thật vậy, để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.
Và thầm mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
Mở lại những trang thơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, ta bắt gặp bài thơ : "Những giọt lệ": Trời hỡi, LênTrời ABC-469
Mở lại những trang thơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, ta bắt gặp bài thơ : "Những giọt lệ":
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi! Bao giờ tôi hết được yêu vì Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tợ si?? Họ đã xa rồi không níu lại Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa.... Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu? Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu? Tâm tình sao mà da diết quá! Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Người đi thì mặc kệ người đi chứ có mắc mớ gì đến ta, dính dáng gì đến ta mà hồn ta bỗng dại khờ?
Nói như thế, ắt hẳn không thỏa đáng bởi lẽ là con người, bên cạnh lý trí, con người còn có những cảm xúc, tình cảm hết sức đặc biệt. Nhất là với những người thân quen, những ai đã hơn một lần gặp gỡ, hơn một lần sống chung, làm việc chung. Đặc biệt với người mà mình thương mến, khi xa cách sẽ có một cảm xúc khó tả và thật khôn lường.
Với những lẽ như vậy, ta hiểu được phần nào tâm trạng của các môn đệ khi xa cách Thầy mình. Khi chứng kiến cảnh Thầy lên trời, lòng cứ lâng lâng, cứ bâng khuâng nhìn mãi. Đang lâng lâng, đang bâng khuâng đó thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
Tiếc thương cũng rồi! Đành thôi đã lên trời! Còn đâu, ước mơ gì cũng thế!
Nếu ta là các môn đệ, ta cũng tiếc nuối, cũng nhớ nhung, cũng bâng khuâng nuối tiếc vì sự ra đi của Thầy Chí Thánh.
Nhìn vào cuộc đời các môn đệ, ta bắt gặp được những tình cảm hết sức tự nhiên, rất thật của con người. Các môn đệ tiếc nuối đó, đau đớn đó nhưng rồi nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa sẽ gửi đến đã đồng hành, đã cùng hoạt động nơi các ông. Các môn đệ tưởng chừng như mất phương hướng, tưởng chừng như buông xuôi đó nhưng lại mãnh mẽ lên đường để loan tin mừng Phục Sinh cũng như loan tin rằng Chúa đã lên trời để gọi là dọn chỗ cho những ai muốn đi theo Ngài.
Biến cố lên trời thật sự là một biến cố mất mát dưới cái nhìn của trần gian, dưới cái nhìn của tình cảm con người nhưng việc Chúa Giêsu lên Trời "có lợi hơn cho anh em" như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ. Hẳn nhiên không ở lại mãi ở dưới đất với các môn đệ được. Và nếu cứ ở mãi dưới cái cõi nhân gian này thì cũng chẳng có gì để bàn, để nói cả.
Đọc và suy mầu nhiệm thứ hai trong mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng như thế này : Thứ hai thì gẫm Đức Chúa Giêsu lên Trời, ta hãy xin ái mộ những sự trên Trời! Lời gẫm, lời xin ấy xem ra đơn giản nhưng thật sự là khó bởi lẽ ái mộ thì ai cũng có thể ái mộ bằng lời nói, bằng cái miệng của mình nhưng để sống mầu nhiệm Nước Trời không phải là chuyện giản đơn.
Thật khó khi ta sống trong cái thân phận làm người mà Chúa lại mời gọi ta hướng lòng về Trời cao mà Trời cao đó chưa ai thấy, chưa ai nếm, chưa ai biết cả. Có chăng chỉ biết qua lời mà Thiên Chúa nói nơi Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa, là Con Một của Thiên Chúa mà thôi.
Lời của Chúa Giêsu, sứ mạng của Chúa Giêsu khép lại ở trần gian nhưng đã mở ra một cửa ngõ khác là cửa ngõ về trời. Như Chúa Giêsu đã hứa là Chúa đi và dọn chỗ cho chúng ta. Chính vì vậy, ta lại hoàn toàn tin tưởng và lại ngong ngóng hướng về Trời cao, nơi Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người chúng ta.
Quả thật là khó khi ta sống trong cái thân xác này mà lại đòi hỏi lòng hướng về Trời. Quá khó để sống tâm tình đó vì lẽ trong ta mãi mãi có sự giằng co của sự thiện và sự ác, giằng co của cái bám víu vào thực tại trần gian và cái làm cho ta bay bổng lên cùng Thiên Chúa.
Ta thấy, như cánh diều biếc, càng nhẹ nhõm thì càng dễ vút lên trời. Ngược lại, con diều nặng nề sẽ không dễ dàng hay dù có lên trời đi chăng nữa cũng sẽ chòng chành và sẽ dễ rớt.
Nghĩ về con diều, nhớ về con diều để ta nhìn đến phận người của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta cũng như những cánh diều biếc như vậy. Càng nhẹ nhõm, càng thanh thoát thì ta càng dễ đến gần Chúa và ở bên Chúa hơn.
Nhìn vào cuộc sống, đôi khi ta mãi mê thế sự trần gian nhưng ta quên điều chắc chắn của đời người đó chính là ai ai trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi cái chết. Chính cái chết đã bắt buộc ta phải bỏ lại những cái gì mà ta từng trân quý, ta từng ấp ủ trong đời, ngay cả người mà ta gọi là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con cái... những người thân thương. Yêu lắm, thương lắm, nhớ lắm nhưng buộc lòng ta phải để lại chứ không ai có thể mang theo được. Và, dù người còn lại có yêu ta cỡ nào đi chăng nữa cũng không thể nào đi theo ta hay níu kéo ta được.
Thực tế là ta phải khép cuộc đời ta ở trần gian này tùy theo thánh ý Chúa cho ta sống bao nhiêu năm trên trần gian. Khi ta khép cuộc đời ở trần gian này ta bước qua ngưỡng cửa khác, ngưỡng cửa mới đó chính là ngưỡng cửa Nước Trời.
Nước Trời thật ra cũng dễ vào nhưng cũng rất ư là khó vào bởi lẽ Chúa Giêsu đã hơn một lần nói cho ta biết là phải vào cửa hẹp mới vào được Nước Trời, phải bỏ của cải thế gian, phải làm tôi Thiên Chúa, phải đáp ứng được những đòi hỏi của Nước Trời.
Ngày hôm nay, mừng kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu lên Trời, ta không được dừng lại ở cái nhìn của trần gian, của con người xác thịt nhưng ta xin Chúa cho lòng ta hướng lên Trời thật sự. Lòng hướng lên Trời thật sự khi và chỉ khi ta bỏ bớt những đam mê của trần gian, những quyến rũ của trần gian.
Vẫn là con người mong manh mỏng dòn và yếu đuối, chính vì thế ta lại càng cần xin ơn Chúa hơn nữa để ta bỏ đi những gì là dính bén vào đời ta làm cho ta nặng nề và khó siêu thoát. Xin Chúa thêm ơn cho ta để dù sống trong cuộc đời này nhưng lòng ta luôn hướng về Quê Trời nơi quê hương đích thực của mỗi người chúng ta.
Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách LênTrời ABC-470
Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách "bổ túc" truyện sách Tin Mừng bằng cách thêm vào những cảnh mà họ nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu ngài viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20 nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất gọi là "Phần Kết Dài" hay là "Phần Kết Vô Danh", từ c. 9 đến c. 20 của chương 16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Mácđala và với các môn đệ để thúc giục họ, tức Hội Thánh, đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Các nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một số đề tài trong các câu này không giống gì với những điều họ đã thấy trong TM II. Họ cũng còn có thể nhận ra nơi các đề tài này âm vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng khác, được quy tụ lại để làm cho phần kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga 20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).
Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập trung vào sứ mạng phổ quát của các tông đồ, và giống như Lc 24,36-53, nó kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời mà các ông thấy được. Bài không hề xác định nơi chốn. Tác giả chỉ muốn chúng ta lưu ý đến điều cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (16,15-18); 2) Lên trời (16,19); 3) Ra đi thi hành sứ mạng (16,20). 3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là Nhóm Mười Hai trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một tông đồ, vì Giuđa không còn nữa. Nhóm mang nơi mình dấu chỉ của sự sa sút. Chính là với Nhóm này mà Đức Giêsu đã hiện ra và giao sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin của họ đã được thắng vượt.
- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ điệp phải loan báo không được giải thích, mà lại được tổng hợp trong khái niệm "Tin Mừng". Do khái niệm này được nối kết với "các thọ tạo", nó gần với Cl 1,23. Công thức này đã được chuẩn bị trong Do Thái giáo, nơi mà Thiên Chua được ca ngợi là vua của toàn thể công trình tạo thành của Ngài (Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có lòng yêu thương muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh). Vậy Tin Mưng phải loan báo chính là quyền chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên toàn thể thọ tạo.
- phép rửa (16): Các phản ứng của con người trước sứ điệp Tin Mừng là tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa nhân lãnh trong đức tin đưa tới ơn cứu độ trong cuộc phán xét chung cuộc. Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa và ơn cứu độ được nối kết với nhau. Sự đối lập giữa cứu độ và kết án khiến ta nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở đây bản văn hướng đến cuộc phán xét chung.
- những dấu lạ đi theo (17): Khác với những gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi trước đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền chỉ được ban riêng cho các môn đệ (như ở Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa chuẩn nhận cho những ai đã trở thành tín hữu. Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị Chúa tể mới của tạo thành, Người muon ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành. Năm loại phép lạ quy chiếu về sách Cv: đuổi quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10; 28,8t). Còn thuốc độc có lẽ dựa theo một truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử gia Êusêbiô kể về Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến khả năng đạp trên rắn độc và bọ cạp. Các dấu lạ xảy ra "nhân danh Thầy", tức là với việc cầu khẩn danh Đức Giêsu. Như thế, Đức Giêsu được tôn vinh tiếp tục ở với cộng đoàn của Người và hoạt động.
- Chúa Giêsu được đưa lên trời (19): Danh hiệu "Chúa Giêsu", rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv, chỉ xuất hiện ở đay trong các Tin Mừng. Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh, chính là Kyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ). Cuộc lên trời của Đức Giêsu giả thiết có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời), được mô tả phỏng theo cuộc lên trời của ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).
- Ngự bên hữu Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv 109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả quyền năng của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (15-18)
Ta thấy lệnh truyền của Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng trong thực tế, dường như không phải thế: Đức Giêsu không cho biết rõ khoảng thời gian kéo dài từ khi Ngươi sống lại đến khi Người quang lâm; Người không loan báo rằng các Dân ngoại sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán xét chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm phương hướng hoạt động, với sự giúp đỡ cua Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8; 15,7-11...). Dù sao, ở đây, chúng ta thấy sứ mạng của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ ràng, không ai phản đối nữa: các tông đồ phải ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin Mừng cho "mọi loài thọ tạo". Công thức này tương đương với Mc 1,10 và Mt 28,19: "mọi dân tộc"; chỉ loài người mới có thể nghe rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều hướng của thánh Phaolô (Rm 8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc Đấng Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.
Tại sao lại "loan báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo"? Cây cối có thể nghe Tin Mừng? Khi người ta nghe theo sứ điệp của Chúa Kitô, phải chăng tất cả vũ trụ sẽ được biến đổi? Điều này sẽ được thánh Phaolô giải thích trong Thư gửi người Rôma: "Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người... với niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,19-21). Khi chúng ta sử dụng các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ. Khi sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ được cứu chuộc; chúng không còn bị sử dụng cho điều xấu nữa, mà được sử dụng đúng mục tiêu của chúng như khi chúng được tạo thành: một phương tiện để yêu thương và sống hạnh phúc. Sứ mạng của các môn đệ là làm việc để cho có một nhân loại mới và một thế giới mới chào đời.
Đức tin chính là lời đáp trả lời rao giảng và được liên kết với phép rửa tội (Cv 2,41; 8,12...).
Còn về các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải bao giờ các dấu lạ cũng được các tông đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần hành động nơi và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là những ví dụ, và được chứng thực trong sách Cv.
* Lên trời (19)
Tác giả đã liên kết hai thực tại không thuộc về cùng một bình diện, một bên là một cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục Sinh kết thúc những cuộc hiện ra, được diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một bên là một cuộc tôn vinh trên thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x. Ep 4,10; 1 Tm 3,16...). Thật ra, tác giả Mc không tường thuật một biến cố xảy ra trước mặt các khán giả. Các độc giả sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng Thiên như một "cuộc rời bỏ nhau", "một chuyến ra đi", "một sự biến mất". Đức Giêsu không ở quanh quẩn đâu đó trong vòng bốn mươi này trước khi lên trời. Người đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện. Điều mà tác giả muốn kể cho chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống lại và tiếp tục sống với họ. Cách thức hiện diện thì khác, nhưng Người không bỏ rơi họ. Trước khi sống lại, Người không thể ở với mọi người tại mọi nơi chốn. Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi. Người có thể ở với mọi người chúng ta.
* Ra đi thi hành sứ mạng (20)
Tác giả quan tâm khẳng định rằng trong hoạt động truyền giáo, các tông đồ (và sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa vào sự hiện diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với tất cả quyền năng Kyrios của Người.
Ngay ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo các dấu lạ, nhưng các dấu lạ này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật, nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã từng lon báo.
+ Kết luận
Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết dài của TM Mc là một huấn giáo về Phục Sinh, chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1 Cr 15,1-11. Cuộc gặp gỡ với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành nền tảng cho các biến cố liên hệ đến Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm bảo cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc, nhưng cũng cho thấy cuộc Phục Sinh là như một kiểu trở lại tam thời của Đức Giêsu trong một cuộc sống trần thế. Quan trọng là đi loan báo Tin Mừng "khắp nơi" và chỉ khi loan báo như thế, người môn đệ mới trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực của Đức Chúa được tôn vinh vẫn đang ở lại trong cộng đoàn mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nay đã sống lại, đã được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện với từng người trong chúng ta. Có thể gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự hiện diện của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta có thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể (Kyrios) nhưng vẫn đang "cùng hoạt động" với các môn đệ Người, với mỗi tín hữu đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.
2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ đến tập thể trong đó chúng ta đang hiện diện: gồm những con người bất toàn, có thất trung. Nếu hôm nay, chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng, là vì Đức Giesu Phục Sinh đã tha thứ và khôi phục tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa sai là làm chứng rằng chúng ta đã được ơn tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.
3. Địa bàn hoạt động của người môn đệ là thế giới, "khắp tứ phương thiên hạ"; đối tượng họ gặp gỡ là mọi người và từng người trên đường họ đi, "mọi loài thọ tạo". Người môn đệ của Đấng Phục Sinh không được để cho những phân biệt về màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,... làm cho mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ. 4. Hôm nay chúng ta đang làm các "dấu lạ" nào? Phải chăng chúng ta cứ muốn Thiên Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng muốn thực hiện các "dấu lạ"? "Dấu lạ" có phải la chính sự hiện diện khiêm tốn, nhân ái và có khả năng "chữa lành" của chúng ta? Con người hôm nay có cảm thấy rằng Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng chúng ta tại đây chăng?
Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ LênTrời ABC-471
Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Hôm nay Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Chúa Cha ngay khi sống lại. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Chúa đã lên trời.
Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Đây là một nhiệm vụ cấp thiết như thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio) đã nói:
“Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (RM 86).
Và Đức Phaolô VI đã khẳng định trong Tông Huấn “Loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi): “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (EN 5).
Vì vậy không lạ gì khi Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện.
Thực vậy, Sứ điệp của Đức Giêsu luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa”
Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta. Chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
- Cách rao giảng của Thánh Phanxicô Assisi
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
– Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
– Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
- Cách rao giảng của bác tài xế xe taxi
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế xe taxi ở đó như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.
Dưới mắt người Do thái, trời là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là một kiến trúc vững chắc có các cột trụ chống giữ (Giop 26,11), có nền móng chắc chắn (2 Sm 22,8), có bể chứa nước, tuyết, băng giá, gió (Giop 38,22; Tv 33,7), có các cửa cống để tuôn các chất đó ra: tháo cống nước làm mưa, tháo cống gió làm gió (Stk 7,11; 2 V 7,2; Mal 3,10).
Trời ở trên, đất ở dưới. Trời là nhà của Thiên Chúa (Is 66,1) và đất là phần Thiên Chúa ban cho loài người (Tv 115, 16). Không ai lên trời được (Gioan 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6). Kẻ mơ ước lên trời là người điên (xem Stk 11,4) vì tự xem mình đồng hàng vơi Thiên Chúa (Is 14,13).
2- Chỉ có Chúa Giêsu Kytô đã lên trời vì Ngài từ trời xuống:
"Thầy từ trời mà xuống, không phải làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Gioan 6,38). Thầy phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến"(nt 8,42).
Và khi Chúa Kytô đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại), Ngài trở về với Chúa Cha bằng "con đường thăng thiên":
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Marcô 16,19).
" Đang khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi họ và được đem lên trời" (Luca 24,51)
"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa "(Công vụ 1,9)
"Thiên Chúa đã biểu dương nơi Đức Kytô, khi làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết, và đặt ngư bên hữu Người trên trời" (Ephêso 1,20)
"Thiên Chúa ban cho ta một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kytô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời" (I Phêrô 3,21-22).
Đức Tin dạy chúng ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa xuống mặc lấy thân xác người phàm như chúng ta ngoại trư tội lỗi, gọi là Đức Chúa Giêsu Kytô. Vậy Chúa Giêsu Kytô là Thiên Chúa thật và là người thật. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài ở khắp mọi nơi bằng bản tính và Ngôi Vị nên không thể nói Ngài "lên trời hoặc xuống trần gian ". Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm của chúng ta, như vậy khi sống như con người thì phải hoạt động trong Thân xác có giới hạn trong phạm vi của nó trên bình diện tự nhiên. Khi sống lại, vào trong vinh quang (siêu nhiên), than xác Chúa biến đổi hợp với tính siêu nhiên, nhưng vẫn là thân xác loài người, có những hạn chế, giới hạn. Chúa Kytô lên trời tức là thân xác của Ngài lên trời nghĩa là được đưa lên trời, được vinh thăng trong Nươc Trơi, Ngài làm chủ, làm vua trời đất muôn loài, muôn vật. Và khi Ngài hiện ra, không có nghĩa là Ngài từ trời xuống, nhưng là Ngài ban ơn đặc biệt để các Tông đồ thấy con người của Ngài, nghe tiếng Ngài nói như cũ.
Hiểu như trẻ thơ thế nầy: Chúa sống lại, hiện ra cho các Tông đồ thấy rồi biến đi, trốn vào một nơi bí mật, rồi lại hiện ra. Cứ thế trong vòng bốn mươi ngày, sau đó Chúa mới lên trời. Thật ra, khi sống lại, thân xác Chúa đã ơ cõi siêu nhiên, cõi trời rồi và Ngài hiện ra tức là Ngài ban ơn cho người ta thấy,nghe Ngài nói. Đến ngày thứ bốn mươi, Chúa hiện ra lần chót bằng một "cử chỉ lên trời" đề cho các Tông đồ biết Ngài không còn hiện ra như thế nữa.
Nhưng sự kiện Chúa thăng thiên có một tầm rất quan trọng nên thánh Phaolô đã nói rất mạnh: "Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải Người đã xuống tận các vùng sâu thẩm dưới mặt đất. Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi từng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"(Eph 4,9-10). Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người" (Col 2,14-15). Bản văn nhấn mạnh đến cuộc "đảo chính" (truất phế) vì một nhóm người xem Chúa Kytô ngang hàng với thiên thần nên phải "truất phế, bêu xấu, trói tay" điệu chúng đi trong đám rước chiến thắng của Chúa Kytô.
Về phần tín hữu của Chúa Kytô, vì Chúa lên trời mở đầu cho việc Chúa trở lại trong vinh quang giữa hàng thần thánh, ban ơn cứ độ viên mãn (xác sống lại trong vinh quang), đây là thời gian "trời đất giao hòa" vì Chúa lên trời mà còn ỡ trần gian. Ngay từ bây giờ, dầu chúng ta còn sống trên cõi trần, "Chúa Kytô đã cho chúng ta được cùng sống lại với Người và cùng ngự trị với Người trên cõi trời"(Eph 2, 6), "cũng như chúng ta dã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì nay chúng ta đang mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến (1 Cor 1,49). Tín hữu giống như người thiên quốc, "không thuộc thế gian nhưng không được cất khỏi thế gian" (Ga 17,15-16) và phải hoàn thành sứ mệnh Chúa trao phó trước khi Chúa lên trời nên rất cần sự hiện diện của Chúa tức là Chúâ ở lại cùng Hội Thánh cho đến tận thế. Công đồng Vatcan II đã dạy như thế nầy: Chúa Kytô hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy lễ, không những trong con người của thừa tác viên, vì " như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục", nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể. Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế, ai rửa tội thì chính là Chúa Kytô rửa. Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: "Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ" (Mt 18,20) (Hiến chế Phụng vụ, số 7).
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu LênTrời ABC-473
TMĐP- Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu mến Đền Thánh nơi Chúa ngự.
Lễ Chúa Lên Trời là giao điểm của lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ở thời điểm này, mầu nhiệm phục sinh được bùng phát, lan toả và mở ra sự trông đợi ơn Chúa Thánh Thần đã được Đức Giêsu hứa ban, đồng thời đánh dấu sự hiện diện của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài dưới một cách thế mới.
Là thời điểm mầu nhiệm phục sinh bùng phát và lan toả, vì đây mới chính là lúc các môn đệ nhận ra Đức Giêsu đã thực sự sống lại từ cõi chết, sau khi đã chịu khổ hình (x. Lc 24,46); đây mới là lúc Đức Giêsu chính thức báo cho các môn đệ của Ngài biết: hãy chuẩn bị lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, làm chứng Ngài đã chịu chết và sống lại, nhưng tạm thời “hãy cứ ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49) tức chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống với ơn của Ngài, như sách Công Vụ Tông Đồ đã kể lại: Bấy giờ các môn đệ có mặt hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 6-8). Bằng chứng là “đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?”, như nhắc nhở các môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng “Chúa đã chết, đã phục sinh và sẽ trở lại trong vinh quang” đang chờ các vị.
Thực ra, Đức Giêsu chỉ nhắc lại điều quan trọng nhất mà Ngài đã nói với các môn đệ thân tín của Ngài trước khi đi chịu chết, đó là Chúa Thánh Thần sẽ hiện xuống trên các ông, điều màTin Mừng Gioan đã cẩn thận ghi lại: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). “Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em” (Ga 16,7).
Như thế, Chúa Thánh Thần đến từ trời, thì Đức Giêsu trở về trời, và sẽ không ai còn thấy Đức Giêsu “với thân xác con người” ở giữa nhân loại nữa.
Quả thực, như hai môn đệ Phêrô, Gioan khi ra đến mộ và nhìn vào mộ, họ đã chỉ thấy “những băng vải còn ở đó”, mà không thấy Đức Giêsu đâu (x. Ga 20,12), thì hôm nay, các môn đệ cũng không còn thấy Đức Giêsu phục sinh như khi Ngài hiện ra giữa các ông, chuyện trò, ăn uống, chỉ bảo và ban bình an cho các ông, vì “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1, 9).
Nhưng có thực là Đức Giêsu không còn hiện diện giữa các ông; không còn có mặt trong Giáo Hội của Ngài?
Thưa không, Ngài vẫn hiện diện như lời Ngài hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể mà Ngài đã thiết lập cùng với chức linh mục. Điều khác biệt là từ nay Ngài dành cho các môn đệ của Ngài, và những ai muốn đi theo Ngài “không gian của đức tin”, ở đó mỗi người hoàn toàn tự do tin hoặc không tin vào Ngài, hoàn toàn tự nguyện đi với Ngài hay chối bỏ Ngài. Nói cách khác, “Người đã mở ra cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10,20), để từ nay sự hiện diện của Đức Giêsu bao trùm tất cả, trên trời dưới đất, trong Giáo Hội là Đền Thờ của Ngài mà tất cả chúng ta là những viên đá sống động và “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10,19).
Tóm lại, Đức Giêsu lên trời không những không rời xa chúng ta, nhưng còn gần chúng ta hơn, vì bức màn thân xác của Ngài đã được vén lên, để chúng ta được “tiến lại gần Thiên Chúa với lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn…, được tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,22.23).
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu mến Đền Thánh nơi Chúa ngự, ở đó chúng ta được cùng muôn dân vỗ tay, reo hò chúc tụng Thiên Chúa, vì “Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 46, 2-3), và không bao giờ quên: Đền Thờ Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đang ngự giữa chúng ta chính là “Mình Máu Đức Giêsu”, Bí Tích Thiên Chúa Tình Yêu ở với con người, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển LênTrời ABC-474
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển dịch ngày lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh. Tại Tổng giáo phận Hà Nội vẫn cử hành long trọng lễ Thăng Thiên vào thứ Năm sau Chúa nhật VI Phục sinh, vì theo truyền thống của Giáo Tỉnh miền Bắc, lễ này thuộc “Tứ Quý”: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ. Trong bốn ngày lễ này, người tín hữu phải kiêng việc xác và tham dự thánh lễ.
Dù mừng lễ Thăng Thiên vào ngày nào, thì Phụng vụ vẫn nhắc người tín hữu hướng về Quê Trời, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận dưới đất. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Người về trời sau khi đã hoàn tất chương trình cứu độ. Người về với Chúa Cha, vì Người đã từ Chúa Cha mà đến. Dưới ánh sáng phục sinh, một nhãn quan mới về nhân sinh Kitô giáo đã mở ra: con người không đơn giản chỉ là “đầu đội trời, chân đạp đất”, mà họ đã thuộc về trời ngay khi họ đang sống nơi trần gian. Nói cách khác, Kitô hữu luôn hướng về trời, và đối với những người đạo đức thánh thiện, họ được nếm trước vinh quang Nước Trời ngay ở đời này. Khi suy niệm Kinh Mân côi, ở mầu nhiệm thứ hai Mùa Mừng, chúng ta xin cho được yêu mến (ái mộ) những sự trên trời, để dầu còn sống trên trần gian, một cách nào đó, chúng ta đã hưởng hạnh phúc như các thánh trên trời.
Hướng về trời không phải là một ảo tưởng hão huyền hay là một thứ “thuốc phiện mê dân”, nhưng là niềm hy vọng và niềm xác tín của Kitô hữu. Chúng ta dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Tin Mừng Thánh Gioan chương 17. Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu vừa thân thưa với Chúa Cha, vừa thể hiện tâm tình thương mến đặc biệt đối với các môn đệ. Người xin Chúa Cha cho các môn đệ được ở với Người, vì các môn đệ – và những người kế tiếp các ngài là chính chúng ta hôm nay – là những quà tặng mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu. Như thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ở với Người và cùng Người chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu. Vinh quang này đến từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu cũng được đón nhận vinh quang ấy, rồi Người lại chia sẻ cho chúng ta.
Hướng về trời mở ra cho người tín hữu một chân trời hy vọng. Hy vọng là chờ đợi những điều tốt đẹp ở phía trước. Người tin Chúa biết rõ tương lai hậu vận đời mình, đó là được sống với Chúa, được chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Ngài. Nhờ có niềm hy vọng, chúng ta vững tin ngay cả khi gặp những gian nan thử thách, với xác tín rằng, người yêu mến Chúa sẽ vượt thắng tất cả. Trong lời cầu nguyện vừa nêu ở trên, Chúa Giêsu khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Chúa Cha yêu thương. Ở một nơi khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn những ai yêu mến và thực thi giáo huấn của Chúa Con “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đây là hạnh phúc kỳ diệu. Chúa Ba Ngôi sẽ ở trong tâm hồn người công chính.
Hướng về trời cũng giúp cho người tín hữu có được những nghị lực siêu nhiên. Thế gian là bãi chiến trường, là thung lũng nước mắt, là bể khổ. Đức tin khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa hiện diện giữa bãi chiến trường ấy, vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn nâng đỡ trợ lực chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại chứng từ của thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo: trong lúc sắp tắt thở vì bị ném đá, ông đã nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đức tin vào đời sống vĩnh cửu đã ban cho vị tử đạo của chúng ta sức mạnh và niềm xác tín phi thường, với niềm xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
“Hỡi những người Galilêa, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ năm xưa lúc thày trò chia tay, cũng là lời ngỏ với chúng ta hôm nay. Mừng Chúa lên trời hướng chúng ta về quê hương vĩnh cửu, đồng thời nhắc chúng ta về bổn phận đối với quê hương trần thế. Kitô hữu không phải là người bị “bứng” khỏi cuộc sống đời này, nhưng là những người dấn thân trong mọi môi trường cuộc sống, để làm chứng cho niềm vui của Đức tin, nhất là làm chứng cho Chúa Giêsu trong khi mong đợi Người lại đến.
“Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đời sống Kitô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. mục lục
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện LênTrời ABC-475
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Chủ đề của Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 năm nay là “Hãy lắng nghe bằng con tim”.
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).
Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới - theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối con đường hiệp hành “con đường Giêsu” để thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.
1. Hiện diện mới
Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ: “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này, Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).
2. Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Truyền thông và hiệp hành
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông.Toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023, bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề : “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành : hiệp thông – tham gia – sứ vụ”. Để có được lối sống hiệp hành như thế, cần làm ba việc như Đức Kitô phục sinh đã làm đối với hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24, 13-35). Trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng (10/10/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ rõ có 3 việc cần làm là: Gặp gỡ trực tiếp; Lắng nghe và Phân định. Chúa Giêsu đã lắng nghe bằng con tim, với thái độ bình tĩnh và kiên nhẫn. Chúng ta cần lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau.
Trong sứ điệp Truyền thông năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh những điểm quan trọng: lắng nghe bằng con tim, lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt, và lắng nghe trong Giáo hội.
a. Lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt
Lắng nghe là bước đầu tiên không thể thiếu của đối thoại và giao tiếp tốt. Người ta không thể làm truyền thông nếu không lắng nghe trước và không thể trở thành một nhà báo tốt nếu không có khả năng lắng nghe. Hơn thế nữa, cần phải lắng nghe nhiều nguồn để có độ chính xác của thông tin muốn truyền tải. Và điều đặc biệt là phải lắng nghe kiên nhẫn, điều này không dễ, như Đức Hồng y Agostino Casarli, một nhà ngoại giao lớn của Toà Thánh đã nói về “tử đạo của kiên nhẫn”. Đối với Đức Hồng y, trong các cuộc đàm phán cần lắng nghe và được lắng nghe kiên nhẫn để đem lại lợi ích tốt nhất có thể trong điều kiện tự do bị giới hạn.
b. Lắng nghe trong Giáo hội
Đức Thánh Cha mời gọi trong Giáo hội, mọi người cần phải lắng nghe người khác và lắng nghe nhau, vì đây là món quà quý giá nhất mà các tín hữu có thể dành cho nhau. Và điều này phải được thể hiện cụ thể trong hoạt động mục vụ, như Thánh Tông đồ Giacôbê khuyên: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói” (Gc 1,19). Dành thời gian để lắng nghe người khác là cử chỉ đầu tiên của bác ái.
Hướng đến tiến trình hiệp hành của toàn thể Giáo hội đang thực hiện, Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta hãy cầu nguyện để đây là một cơ hội tuyệt vời cho mọi người lắng nghe nhau. Thực tế, hiệp thông không phải là kết quả của các chiến lược và chương trình, nhưng được xây dựng trong sự lắng nghe nhau. Như trong một dàn hợp xướng, sự hiệp nhất không đòi hỏi phải giống nhau, đơn điệu nhưng là sự đa dạng của các giọng khác nhau. Mỗi người khi hát cần lắng nghe người khác để tạo nên sự hoà hợp tổng thể. Sự hoà hợp các giọng ca là ý tưởng của nhà soạn nhạc, nhưng hiện thực nó thì phụ thuộc vào mỗi giọng ca. Trong Giáo hội, Thánh Thần là nhà soạn nhạc.
Truyền giáo là truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích tín hữu vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).
Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh (x. vaticannews.va/vi).
Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ lắng nghe nhau trong xây dựng yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệp Truyền thông 50).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự lắng nghe bằng con tim và tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.
Khi đọc câu chuyện Chúa Giêsu lên trời chắc chắn tâm trí chúng ta sẽ thấy có những hình ảnh LênTrời ABC-476
Khi đọc câu chuyện Chúa Giêsu lên trời chắc chắn tâm trí chúng ta sẽ thấy có những hình ảnh lướt qua mà có lẽ chúng ta đã từng thấy nơi những bức tranh của một họa sĩ bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng hoặc đơn giản là những bức tranh được sinh ra từ trí tưởng tượng của chúng ta. Quả thực, nếu tiếp nhận câu chuyện này bằng những từ ngữ đơn giản thì lý trí của chúng ta khó có thể diễn tả hết được.
Sách Công Vụ Tông Đồ cũng như Tin Mừng Luca kể câu chuyện về sự kiện này và chúng ta có thể tiếp nhận với đức tin, hoặc với nụ cười trên môi. Nhưng trên thực tế, cơ sở rõ ràng để hiểu biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên này phải đối mặt với một mầu nhiệm vĩ đại và kỳ diệu. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chỉ lên trời để nghỉ hưu ở đó; Như tác giả Thư Hípri chỉ rõ Chúa Giêsu được “đưa lên trời” để “vào trong đó”, “Quả thế, Chúa Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Hípri 9:24). Và bây giờ những gì chúng ta phải giữ lại từ câu cơ bản này, vốn dĩ nói lên trung tâm của mầu nhiệm, đó là cụm từ “cho chúng ta” - Chúa Giêsu đại diện cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa… cho chúng ta, một lần nữa.
Chúa Giêsu được sinh ra cho chúng ta, để bày tỏ cho chúng ta Lời của Thiên Chúa, Cha của Ngài; Chúa Giêsu đã chết thay cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta; Chúa Giêsu đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, và cuối cùng Chúa Giêsu đã vào thiên đàng để báo trước cho chúng ta sự cứu rỗi của chúng ta.
Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Thăng Thiên này và lắng nghe các bản văn thánh trong bầu khí Phục sinh trọn vẹn. Việc Chúa Giêsu lên trời được trình bày cho chúng ta, cùng với sự Phục sinh, như những chuyển động độc đáo; trong khi sự Phục sinh của Chúa Giêsu là một chuyển động từ trong kẻ chết, Ngài đã phục sinh: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Luca 24: 46), thì việc Chúa Giêsu lên trời một chuyển động đưa Chúa vào vinh quang: “rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Luca 24: 51). Và đây chính là nơi đặt ra mầu nhiệm mà chúng ta đang chiêm ngắm. Do đó, lễ Thăng Thiên cử hành long trọng mầu nhiệm hoàn tất sự Vượt Qua trong toàn thể thân mình Chúa Kitô; Thân mình này vốn xưa nay là một sự trọn vẹn bởi vì nó được cấu thành bởi Chúa Kitô, là thủ lãnh và là đầu, và các chi thể là chúng ta, là dân Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta không thể tách rời khỏi mầu nhiệm Vượt qua, vì tất cả những gì Chúa Cha đã làm là vì chúng ta!
Từ đó chúng ta có thể hiểu rằng lý do cuối cùng của việc Chúa Giêsu lên trời chính là để dẫn đến mục đích này: làm cho con người được nên thần thánh giống Thiên Chúa; khi Chúa Giêsu đến thế gian, Thiên Chúa trở thành con người để con người được nên thần thánh, như thánh Clêmentê Alexandria và Grêgôriô Nazianxê đã nói: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học “Mysterium Salutis” của mình cũng đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, dựa vào lời thánh Phêrô: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Ngài đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” (2 Phêrô 1: 4). Hôm nay, Chúa Giêsu đến ngự bên hữu Thiên Chúa, là Cha ngài, và đây là cách thế bản tính con người của chúng ta được nâng lên trên các tầng trời; vì một người trong chúng ta đã vào trong vinh quang của Thiên Chúa. Kinh Tiền Tụng lễ Thăng Thiên còn nói thêm rằng: hôm nay, Đức Kitô đã “lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Ngài, tin tưởng được theo Ngài đến nơi mà chính Ngài là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước.”
Chính mầu nhiệm chưa từng được biết đến này đã làm cho lễ Chúa Thăng Thiên trở thành lễ của chúng ta; Ludolph the Carthusian vào thế kỷ XIV nhận xét rằng “Sự thăng thiên của Đấng Cứu Độ là nguyên lý cho sự thăng thiên của chính chúng ta”, Vì thế, ngày lễ này đối với chúng ta là một nguồn vui lớn trong hy vọng của chúng ta.
Tóm lại, chúng ta có thể nói: chắc chắn, Chúa Giêsu ra đi, nhưng chúng ta vẫn hợp nhất với Ngài! Và do đó hơn bao giờ hết, mầu nhiệm này trở thành mầu nhiệm của sự hiện diện khuất mặt. Và các tông đồ hiểu rõ điều này, như Thánh Luca nói với chúng ta, “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Luca 24: 53-53). Từ đó chúng ta thấy có một sự song hành với sự kiện Emmau. Niềm vui của hai môn đồ khi trở về từ Emmau là kinh nghiệm về sự phục sinh, niềm vui của các môn đồ khi chứng kiến sự thăng thiên là kinh nghiệm về sự sống vĩnh cửu, về sự cứu rỗi. Không khác gì hai môn đồ ở Emmau, các môn đồ ở Bêtania vui mừng khi chiêm ngưỡng, không phải là chiếc bánh được bẻ ra nữa, mà là đám mây trên trời.
Thật vậy, nếu chúng ta hình dung ra rằng một người rời bỏ chúng ta bằng cách bay lên trên mây, chúng ta sẽ không coi đó là mầu nhiệm thăng thiên: chúng ta coi đó chỉ là một sự khuất mặt, trong khi việc Chúa Giêsu lên trời là một mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Ngài, sự hiện diện khuất mặt. Do đó, như Bí tích Thánh Thể đem sự hiện diện của Chúa Kitô vào trong tâm hồn của muôn ngưởi, cũng vậy việc chiêm ngắm thiên đàng không phải là sự bỏ trốn đối với các Kitô hữu. Do đó, nếu các thiên thần nói với các Tông đồ rằng Chúa sẽ trở lại, thì đó là sai họ quay trở lại với nhiệm vụ trở nên sự hiện diện của Chúa Kitô, là Đấng đã trở nên vắng mặt trong thân xác, nhắc nhở họ về sứ mệnh làm chứng cho tất cả những gì họ đã thấy: Chúa Giêsu đã nói với họ “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Luca 24: 48) và “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Công vụ 1:8). Do đó, đây là kết quả từ mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Chúa Giêsu.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm này, chúng ta đi từ thị kiến thực tế của các tông đồ sang cái nhìn đức tin của chúng ta. Đó là tìm kiếm Chúa Giêsu trên trời và làm việc với Ngài dưới đất. Nỗ lực của đức tin đòi hỏi chúng ta là hợp nhất hai mối tương quan này với Chúa Giêsu; chắc chắn chúng có thể biểu lộ rất khác nhau, nhưng chúng ta hãy yên tâm rằng cuộc sống của chúng ta đã được sự sống của Chúa Giêsu trên trời thu hút, là Đấng thu hút chúng ta ngày này qua ngày khác khi chúng ta “gắn chặt khát khao của mình vào nơi mà ánh mắt không chạm tới được”, theo lời nói nổi tiếng của Thánh Lêô.
Chúng ta tin tưởng nơi Chúa Giêsu này, Đấng sẽ Hiện diện cho chúng ta, là những người mở rộng đời sống của mình cho Ngài. André Sève nói câu này như một lời nhắn nhủ: “Chưa bao giờ đức tin của chúng ta lại bị đòi hỏi nhiều như trong mầu nhiệm Thăng Thiên này, nơi mà đức tin phải học cách sống với Chúa Giêsu trên trời và dưới đất.”
Phỏng theo ĐGM. Jean Scarcella – Tu viện Thánh Maurice.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài LênTrời ABC-477
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?
Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.
Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.
Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.
Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.
Trái lại, với sự hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn hiện diện bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa. Người sẽ hoạt động trong con người, nhất là nơi các kẻ tin. Vì thế việc trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện truớc khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.
Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.
Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.
Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”
Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?
Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.
Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.
Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.
Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.
Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?
Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang đồng hành trong mọi sự kiện của cuộc đời chúng ta.
Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa.
Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người.
Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.
Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.
Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành với chúng ta, soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.
Như vậy, Chúa lên trời để dọn chỗ cho chúng ta. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen!
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin LênTrời ABC-478
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)
Chúa Giêsu không chỉ động viên mà Ngài còn hứa. Chắc chắn không có lời hứa nào kỳ diệu như vậy: Ngài ở đâu thì những người tin nhận Ngài cũng ở đó. Mà Ngài ở đâu? Ngài ở trên trời – Thiên Quốc. Như vậy, tín nhân cũng được về trời và ở với Ngài. Thực sự quá đỗi kỳ diệu, bởi vì phàm nhân chỉ là bụi tro mà lại được ở chung với Ngài, nên giống Ngài. Thế thì loại bụi tro này rất quý giá, không như người ta tưởng.
Tất nhiên cái gì cũng có cái gia nhất định của nó. Muốn ăn thì lăn vào bếp, muốn sướng thì phải chịu cực, muốn xài tiền thì phải làm việc. Muốn về trời thì phải hy sinh nhiều thứ, cụ thể là vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Đó là cách định hướng cần thiết. Chúa Giêsu định hướng cho những ai muốn thuộc về Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6)
Chúa Giêsu đã định hướng cách sống để tín nhân cố gắng sống tốt, chờ Ngài trở lại đón về trời – quê hương đích thực. Ngài về trời trước, chúng ta còn ở lại. Đó là cuộc chia tay đầy ý nghĩa, không buồn thảm mà lại tràn trề hy vọng. Vả lại, chúng ta không hề mồ côi, vì Ngài hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14:26)
Người ta lầm tưởng Chúa Giêsu là nhà cách mạng lỗi lạc, chính trị gia đại tài, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Không, Vương Quốc Thiên Chúa không ở thế gian này. Người ta lại hỏi dò: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6) Nhưng Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7)
Khi Chúa Giêsu được cất lên, có đám mây quyện lấy Ngài, không ai thấy Ngài nữa. Người ta ngơ ngẩn, không biết vì tiếc Chúa hay tiếc cảnh lạ. Họ đang đăm đăm nhìn lên trời theo hướng Ngài bay lên, có hai người mặc áo trắng xuất hiện ngay bên cạnh họ và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Thật lạ lùng! Phàm ngôn không thể diễn tả.
Sự kiện Chúa Giêsu về trời là dấu chỉ bảo đảm rằng tín nhân cũng sẽ về trời với Ngài. Điều đó chắc chắn chứ không mơ hồ, viển vông, hoặc ảo tưởng. Với niềm hy vọng đó, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3)
Tín nhân thực sự hạnh phúc vì được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Niềm vui chan hòa: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:6-9) Hạnh phúc nối tiếp, hy vọng kéo dài và lan tỏa.
Thánh Phaolô nói rất rõ ràng: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.” (Dt 9:24-25)
Như có ý giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để CỨU ĐỘ NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI NGƯỜI.” (Dt 9:26-28) Vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh.” (Dt 10:19) Quả thật, tín nhân chúng ta vô cùng hạnh phúc vì được Chúa trao ban cho quyền đó, mặc dù chúng ta hoàn toàn bất xứng.
Nhưng còn hơn thế nữa, chính “Ngài đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Ngài. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa.” (Dt 10:20-21) Và Thánh Phaolô khuyên: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.” (Dt 10:22-23)
Thánh Augustinô nói: “Đức tin là tin những gì bạn không thấy, và phần thưởng của đức tin là thấy những điều bạn tin.” Thánh Tôma Aquinô lý giải: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”
Sống đức tin là thực thi lòng thương xót, việc làm cần thiết, nhưng phải kiên trì và không ngừng canh tân. Thật vậy, có thể nói rằng sống đức tin là mối phúc thứ 9 mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Sống đức tin là thể hiện cách thức sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ, thậm chí là phức tạp, thế nên cần phải ý thức và can đảm.
Chính Chúa Giêsu đã phân tích: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:46-47) Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà lại không đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu nỗi buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo. Chắc chắn như vậy!
Thế nào là sống đạo? Là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu Thiên Chúa, về Lòng Chúa Thương Xót, vì chính Ngài đã truyền lệnh cho mỗi chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24:48) Rất rõ ràng!
Cuộc chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ là cuộc chia tay hoan hỷ chứ không buồn thảm: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.” (Lc 24:49) Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn họ, giúp họ thêm can đảm vào đời và ra khơi trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Luca kể rõ: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, LÒNG ĐẦY HOAN HỶ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24:52-53) Đức Kitô chịu chết nhưng phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hạnh phúc khôn tả, niềm hy vọng tuyệt vời và niềm hy vọng cuối cùng của mỗi Kitô hữu.
Nhập đề, thân bài và kết luận là ba phần thiết yếu của một bài luận. Tương tự, cuộc đời cũng có ba khoảng – tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi già. Có thể có người chỉ có tuổi thơ mà không có tuổi trẻ và tuổi già, hoặc có người có tuổi thơ và tuổi trẻ mà không có tuổi già. Nhưng ai cũng có ba khoảng thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bởi vì “nhân vô thập toàn” nên đừng quay lại quá khứ mà nuối tiếc hoặc tự trách mình thái quá, hãy hướng tới tương lai để vươn lên. Ai nghĩ gì, mặc họ. Hãy cứ là chính mình. Đừng đếm những gì đã mất, hãy quý trọng những gì hiện đang có, và định hướng mới về những gì khả dĩ đạt được trong tương lai. Lý do rất đơn giản: Quá khứ không bao giờ trở lại, nhưng tương lai có thể bù đắp cho những gì đã mất mát hoặc sai sót.
Là Đất rất mực công bình, Thiên Chúa không thiên vị bất kỳ ai. (Gl 2:6; Cv 10:34) Cửa này khép lại thì sẽ có cửa khác mở ra. Hãy vững tin vào Ngài. Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407) xác tín: “Thiên Chúa lượng định đau khổ theo mức cần thiết cho chúng ta.” Cứ an tâm, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định, nghĩa là Ngài đã định hướng riêng từng người. Đừng chê trách hoặc đề cao bất cứ ai, cũng đừng mặc cảm, nhút nhát. Mỗi người đều có vị trí nhất định theo Thánh Ý Chúa, với mục đích là để làm vinh danh Ngài theo cách riêng của mỗi người.
Thánh Lêô nói: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh mà sống lại với đời sống ân sủng, và chúng ta cũng được tới trời cao qua cuộc thăng thiên Ngài. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Ngài, hoàn toàn phụ thuộc vào Ngài và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Ngài.” Giáo lý Công giáo nói: “Niềm hy vọng là nhân đức đối thần mà chúng ta mong ước Vương Quốc Thiên Đàng và sự sống vĩnh hằng là hạnh phúc của chúng ta, tin vào lời hứa của Chúa Kitô và dựa vào không chỉ bằng sức mạnh mà là sự trợ giúp đỡ của ơn Chúa Thánh Thần.” (GLCG số 1817)
Lạy Thiên Chúa nhân lành tuyệt đối, Ngài quan phòng và tiền định mọi sự, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin, xin giúp chúng con can đảm sống đạo và làm chứng về Ngài suốt cuộc lữ hành trần gian. Khi chúng con hoàn tất hành trình đức tin đời này, xin cho chúng con được ở nơi nào có Con Một Yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người LênTrời ABC-479
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh mô tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong...”. Và sau đó “Người lên Trời” (Cv 1,1- 11).
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Lêô Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).
Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, bởi chính Người là Đường. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức Bênêđíctô XVI viết : “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).
Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta có thể sống trong an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ không thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống này. Cái chết đã bị đánh bại nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và con đường dẫn đến sự sống đời mở ra cho chúng ta qua sự lên Trời của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đức Bênêđíctô XVI nói: “Đối với tương lai, cửa thời gian tối tăm đã bị mở tung. Người hy vọng sống khác người đã được ban tặng sự sống mới”. Chúng ta đã được ban sự sống mới trong Chúa Kitô và đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta trong tất cả các cơn bão đang hoành hành xung quanh chúng ta.
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cv 1,10) và nhắc nhở: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Hãy ngước mắt lên trời và chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, Đấng đã về trời với Chúa Cha, để chuẩn bị chỗ vĩnh cư cho mỗi người chúng ta.
Theo Tin Mừng Luca, Jerusalem là thị trấn của số mệnh. Nơi đây ơn cứu độ đã hoàn thành. Nơi LênTrời ABC-480
Theo Tin Mừng Luca, Jerusalem là thị trấn của số mệnh. Nơi đây ơn cứu độ đã hoàn thành. Nơi đây sứ vụ của các Tông Đồ bắt đầu. Và, Jerusalem là trung tâm điểm của sứ vụ, nơi xuất phát sứ vụ các Tông Đồ của Chúa Kitô rồi lan tỏa ra khắp mọi nơi đến “tận cùng thế giới”. Nơi nào có bóng dáng các môn đệ thì ở đó, cộng đồng sơ khai có những tiêu chuẩn giáo lý (x. Cv 15:2,6).
Hai câu đầu của bài đọc 1 (x. Cv 1:1-2) là gạch nối giữa sách Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Luca, cho thấy các môn đệ đã được Chúa Giêsu Phục Sinh dạy dỗ đầy đủ (c 3-5), nhưng các ông vẫn tỏ ra áy náy vì câu trả lời của Chúa nên các ông đã hỏi: “Thưa Thầy, phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục lại vương quốc Israel?” Các ông nghĩ rằng Chúa Cha hứa sẽ mang lại thời đại chính trị thống lãnh của một quân vương như thời vua David. Nhưng Chúa trả lời không phải vấn đề đó. Cả hai việc đó không thể làm cho các ông nghĩ đến cái kết luận ấy, vì các ông không có bổn phận phải biết thời kỳ và ngày giờ việc đó xẩy ra. Thiên Chúa Cha đã định đoạt rồi. Lời hứa đó - nếu là khôi phục lại quyền bính chính trị quốc gia hay được ơn hiểu biết Thiên Chúa - cũng sẽ không làm cho cuộc sống của các ông trở nên dễ dãi hơn. Khi các ông nhận được Chúa Thánh Thần thì cũng là lúc các ông được chịu phép rửa không phải bằng nước mà bằng lửa. Các ông có quyền tiếp tục nhiệm vụ của Chúa Kitô là giảng dạy, nuôi dưỡng và phụng sự, đồng thời sẽ bị từ chối, bị đau khổ và chết vì Người.
Sau khi nói những lời đó, Chúa Giêsu được cất lên lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Quang cảnh đó huy hoàng và tuyệt vời biết bao! Các môn đệ cảm thấy thế nào khi ngắm nhìn Thầy mình từ từ bay về trời! Lời Thiên Thần hiện ra nói với người dân xứ Galilê đã gây cảm giác bi thương và khó hiểu: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Chúa Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11).
Các Tông đồ lúc đó đã nhận ra được một bài học: “Đừng tiếp tục đứng mà ngóng trông ở tương lai. Đừng quá để ý đến giờ nào Người sẽ trở lại.” Đừng đứng yên nhìn trời và than khóc quá khứ mà không hành động gì cả. Hãy phó thác nó trong bàn tay phù trợ và lòng thương yêu của Thiên Chúa! Chúa được tôn vinh thì các môn đệ cũng sẽ được dự phần vinh quang. Hãy tiếp tục mang một mảnh vụn - nhỏ thôi - của Thiên Đàng đi khắp thế giới. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu Phục Sinh và Lên Trời. Thiên Chúa ủy thác nhiệm vụ đó cho chúng ta không phải vì lý do con người nhưng vì sức mạnh của giấc mơ Tin Mừng!
KHỞI ĐẦU TỪ JERUSALEM
Luca miêu tả cảnh Chúa Phục Sinh đã xẩy ra tại Jerusalem hay đâu đó quanh Jerusalem. Ông kể câu chuyện Tin Mừng về thời Chúa Giêsu sát với câu chuyện Chúa Lên Trời (Lc 24:50-53). Tin Mừng kết thúc cũng như bắt đầu (1:9) trong đền thờ Jerusalem (c.53). Luca cũng bắt đầu câu chuyện thời đại của Giáo Hội bằng việc kể lại cảnh Chúa về Trời (Cv 1:6-11). Ở chương nói về Chúa Phục Sinh (24), Luca đã kể lại việc Chúa Lên Trời vào đêm Chúa Nhật Phục Sinh, do đó cũng có liên hệ với Chúa Sống lại.
Như trong những lần suy niệm trước về Lễ Phục Sinh, chương 24 Tin Mừng Luca có thể được chia làm 4 phần chính:
*- Câu chuyện các người phụ nữ nơi ngôi mộ trống kết thúc với việc Phêrô đến thăm mộ để kiểm soát lại (c 1-12).
*- Câu chuyện trên đường Emmaus đi tới việc biết được Chúa cũng đã hiện ra với Phêrô (c 13-35).
*- Chúa hiện ra với các môn đệ tại một bữa ăn dẫn tới việc Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ sứ vụ truyền giáo (c 36-49).
*- Chúa Giêsu thăng thiên (c.50-52)
Có lẽ nên hiểu đây là một biến cố (Phục Sinh, vinh quang, Lên trời, Chúa Thánh Thần hiện xuống – mầu nhiệm phục sinh) đã được Luca lịch sử hóa khi ông viết về việc Chúa Giêsu lên Trời rất rõ ràng sau 40 ngày sống lại và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đối với Luca, Chúa lên trời kết thúc sự xuất hiện của Chúa Giêsu, trừ trường hợp đặc biệt hiện ra với Phaolô. Theo Luca thì lễ Thăng Thiên kết thúc thời đại Chúa Giêsu (Lc 24:50-53) trong lịch sử ơn cứu độ, đồng thời báo hiệu khởi đầu thời đại Giáo Hội.
PHÙ HỢP VỚI KINH THÁNH DO THÁI
Cuối cùng Tin Mừng Luca nhấn mạnh những điều đã được ghi trong Kinh Thánh Do Thái phải được thi hành, bởi lẽ kế hoạch của Thiên Chúa không thể không được hoàn thành. Đời sống, sự Chết và Sống lại của Chúa Giêsu Kitô thì hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh. Vấn đề này có căn bản dựa trên chính lời Chúa Kitô phục sinh nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Xác quyết này nói lên việc ứng nghiệm lời Kinh Thánh về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là có căn bản, được xác quyết tại nhiều đoạn trong Tin Mừng như: “Con Người phải chịu đau khổ vô cùng…. và sau khi chết 3 ngày Người sẽ sống lại” (Lc 9:22); “Nhưng như thế thì Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm ra sao? Vì theo đó mọi sự phải xẩy ra đúng như vậy” (Mt 26:54).“Lời Kinh Thánh này phải được hoàn thành nơi Thầy” (Lc 22:37).
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN Ở TẤT CẢ MỌI NƠI
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức mới cách biệt với Thiên Chúa. Không phải vậy. Là Thiên Chúa, khi nói Chúa Giêsu “ở đây” nghĩa là dưới dạng khác và rất đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử thì mới có thể nối kết với toàn thể thế giới một cách trọn vẹn.
Khi “Thăng Thiên”, Chúa đã cam kết với thế gian là người vẫn luôn luôn hiện diện. Vết chân người không phải như vết chân khắc vào đá để cho người ta coi, nhưng nó hiện diện trong tâm khảm những ai bước theo Chúa. Vì Chúa từ bỏ khả năng hiện diện tại một nơi nên người có khả năng hiện diện tại muôn nơi. Khi Chúa tan biến thì Chúa hòa nhập tràn đầy trái đất bằng sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa có mặt ở đây nhưng Người cũng có khả năng hiện diện trước chúng ta khi chúng ta hoàn thành ước mơ cuối cùng. Chúng ta về Thiên Đàng là để gấn Chúa Giêsu. Chắc chắn Người không ngừng hiện diện với chúng ta qua mọi không gian và thời gian. Qua chúng ta, Chúa muốn hiện diện với nhiều người, ở nhiều nơi hơn nữa, nhất là với Giáo Hội của Người.
BÀI HỌC CẦN PHẢI BIẾT
Chúa Lên Trời dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng về quyền sở hữu. Qua cung cách Chúa Về Trời, nếu chúng ta cứ bám víu vào Người và lịch sử thì chặng có ích lợi gì. Người cũng không bám vào những người ở chung quanh Người vì sẽ làm cho họ mất tự do không tiếp tục được sứ mệnh Tin Mừng của họ. Trái lại, toàn thể cuộc sống của Chúa, cho đến cái chết và phục sinh của Người, đã dạy cho chúng ta biết chấp nhận mọi người và mọi sự như là quà tặng mà chúng ta đã vay mượn.
Chẳng tốt gì nếu cứ bám vào bạn bè và ôm chặt lấy kho tàng trần thế. Hãy học cách tôn trọng tất cả những gì chúng ta có với lòng biêt ơn sâu xa, giữ mọi sự trong bàn tay rộng mở với mọi người. Trong khi cầu nguyện, hãy mở rộng tay và trao tất cả mọi kho tàng quí báu, những liên hệ bạn bè trong cuộc sống của chúng ta cho Thiên Chúa. Hãy ý thức và nghĩ về tha nhân và những cái mà chúng ta đang có. Hãy dùng thì giờ để tạ ơn Thiên Chúa vì những điều chúng ta có. Điều quan trọng nhất là kiếm những phương cách cụ thể để nói lên sự yêu thương và long tri ân đối với những người mà chúng ta chịu ơn, gồm cả Chúa Giêsu. Giống như Chúa sống lại đã trao mình cho những kẻ đáng thương hại và hư hỏng thì Người cũng làm như vậy cho chúng ta. Chúa về trời nhắc nhở chúng ta là Chúa chấp nhận những thiếu sót của chúng ta. Người hiểu bản tính con người là bất toàn, giả dối, phản bội, tham lam và thích uy quyền. Tuy nhiên Người vẫn kêu gọi chúng ta, cho chúng ta đời đời làm con dân của Người, sai chúng ta đi phục vụ Người, yêu mến Người bất kể những thiếu sót của chúng ta.
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức khác. Không đúng mà là ngược lại như vậy. Về Thiên Chúa, khi nói Chúa “ở đây” tức là Chúa hiện diện ở một dạng thức khác và đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử mới có thể nối kết với toàn thế giới một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu rời thế gian về trời để có thể sẵn sàng cho mọi người ở mọi nơi và mọi lúc.
Nói như Thánh John Chrysostom: “Người mà bạn yêu mến không còn ở đây như trước kia nữa. Bây giờ người ở bất cứ nơi nào bạn hiện diện.”
Chúa về trời là để sửa soạn cho chúng ta một tương lai huy hoàng và vĩnh cửu, tức thiên đàng. Với Chúa Giêsu, chúng ta đã có tương lai.
Như đối với mọi trình thuật Khổ nạn và Phục sinh, chúng ta nên suy niệm các trình thuật Thăng Thiên LênTrời ABC-481
Như đối với mọi trình thuật Khổ nạn và Phục sinh, chúng ta nên suy niệm các trình thuật Thăng Thiên khác nhau đã được để lại, trong tính độc đáo của chúng, chứ chẳng nên coi cái nào cũng giống cái nào. Năm nay, chúng ta thậm chí có cơ hội nghe được hai trình thuật về cùng một biến cố do cùng một tác giả là thánh sử Lu-ca kể lại. Sở dĩ ngài đã chẳng tìm cách hòa hợp hoàn toàn hai bài mô tả của mình, hiển nhiên là vì chính các khác biệt có một ý nghĩa đối với ngài, một ý nghĩa vượt lên trên các chi tiết lịch sử.
Trong Tin Mừng, Lu-ca trình bày cuộc Thăng Thiên vào chính chiều ngày Phục sinh hay thậm chí trong đêm tiếp theo ngày đầu tuần ấy (x. Lc 24,1.13.36.50), nếu ta nhớ lại rằng “đã xế chiều” (Lc 24,29) khi hai môn đệ Em-mau ngồi vào bàn ăn, rằng họ phải cuốc bộ khoảng 12 km trong “hai giờ” (Lc 24,13) để trở về Giê-ru-sa-lem, rằng Đức Giê-su đã bỏ thời gian giải thích “Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh đã chép về Người” cho các môn đệ (Lc 24, 44) chính tối ngày Phục sinh ấy… trước khi dẫn họ đến Bê-ta-ni-a nơi Người được đưa lên trời (Lc 24,50). Trong Công vụ Tông đồ thì ngược lại, cũng chính Lu-ca đặt cuộc Thăng thiên vào cuối “bốn mươi ngày” (Cv 1,3).
Vượt lên trên mọi tưởng tượng ấu trĩ, chúng ta phải thấy rõ ràng là Đức Giê-su, giữa các lần “hiện ra” khác nhau, đã chẳng trốn trong một phường nào đó của Giê-ru-sa-lem, tại một nơi bí mật, chờ ngày “lên” với Cha trên trời! Trong thực tế, Phục sinh, Thăng thiên và Hiện xuống là ba mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất [*]: chính ngay khi phục sinh mà Đức Giê-su đã đi vào Vinh quang Chúa Cha, ngự “bên hữu Người” theo ngôn ngữ khải huyền mô tả, và ban Thánh Thần như hồn sống của Thân thể Mầu nhiệm vừa được khai sinh. Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh sự kiện Đức Giê-su “rời khỏi” những ai Người hiện ra cho thấy… Người biến đi trước mắt họ (x. Lc 24,31.51).
Như thế, cuộc Thăng thiên chiều ngày Phục sinh đến đóng ấn lên cuộc sống nhân loài của Đức Giê-su, bằng việc tôn vinh Người làm Chúa… và đây là trang Tin Mừng cuối cùng! Trong khi cuộc Thăng thiên “ngày thứ bốn mươi” đến khai mở cuộc sống mới của Đức Giê-su qua không gian lẫn thời gian… và đó là trang đầu tiên của sách Công vụ! “Thời gian của Đức Giê-su Na-da-rét chấm dứt” là “thời gian của Giáo Hội bắt đầu”.
Ở đây chúng ta có thể thắc mắc: Đức Giê-su nán thêm “40 ngày” sau khi sống lại để làm gì? Trước hết để bổ túc những giáo huấn đã ban cho các Tông đồ, nhất là để dạy các ngài phải đọc toàn bộ Thánh Kinh và nhìn cuộc sống Người dưới ánh sáng biến cố Phục sinh (xem dưới). Thứ đến là để cho các ngài thấy Thầy của họ đã sống lại, không phải như một thiên thần thiêng liêng hay một con ma vô xương vô thịt (x. Lc 24,39), cũng không phải với hình hài cũ (như La-da-rô, như con bà góa…), nhưng là với một thể xác đã biến đổi, chẳng còn lệ thuộc không gian lẫn thời gian, hết chịu những định luật vật lý lẫn hóa học thông thường. Và như thế là mạc khải cho các Tông đồ và chúng ta biết là sự Phục sinh của Chúa đã khai mào một cách thức hiện hữu mới, với những đặc tính mới, của vật chất, của thể xác, mà con người dương gian đầu tiên được thụ hưởng chính là Đức Mẹ (tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).
1. Nhận chỉ thị để đi làm chứng nhân
Để hiểu được trọn vẹn bài Tin Mừng hôm nay, thiết tưởng nên đọc nó bắt đầu từ câu 44: “Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh thánh”. Câu “Khi Thầy còn ở với anh em” là dấu cho thấy Đức Giê-su chẳng còn ở trên trần gian như trước. Cuộc Thăng Thiên lát nữa sẽ chỉ diễn lại cái đã xảy ra trong cuộc Phục sinh rồi: từ nay, sự hiện diện của Người trong tư thế phục sinh, dẫu rất thật, vẫn mang bản chất khác hẳn… Người đã đi vào trong thế giới Thiên Chúa. Và đức tin là phương tiện duy nhất giúp đi vào “thế giới” nầy, nơi Đức Giê-su đang ở sau khi đã giã từ cách hiện diện cũ với chúng ta. Ngay trên đường Em-mau, Người đã quở trách hai lữ khách là những kẻ “chậm tin và ngu độn” (Lc 24,25). Ngu độn và chậm tin “những gì đã chép về Người trong Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh” cũng phải. Vì chỉ sau khi Đức Giê-su “chết và sống lại” đã, người ta mới có thể thấy những gì đã được loan báo lúc đọc lại Thánh Kinh.
Thật vậy, Lu-ca nêu bật sự kiện chỉ vào lúc Phục sinh, các môn đệ rốt cục mới hiểu “điều đã được viết”. Vâng, các biến cố trong cuộc đời Đức Giê-su đều gây ngỡ ngàng, khó hiểu trước ngày đó! “Đau khổ” của Người trên thập giá đã xuất hiện như một rủi ro, một tai nạn, một thất bại. Nhưng này nó cho thấy đó là sự “hoàn thành” một ý định nhiệm mầu của Chúa Cha: “Phải hoàn tất những gì đã được loan báo…”. Đây không phải là một định mệnh bi đát, một số phận khắt khe… nhưng là một dự định “cứu rỗi”, mang lại ơn “tha thứ cho mọi người”! Một dự phóng tình yêu! Nhưng cho tới ngày đó thì các môn đồ không thấy được. Giờ họ sắp trở thành những “người chứng”. Họ phải ra đi, nhân danh Thầy mà rao giảng, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội.
Hôm nay, phải chăng chúng ta luôn làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa? Chứng nhân cho Đức Giê-su là Đấng, trước nỗi công phẫn của hạng “thanh sạch”, đã đứng về phía những tay lạc giáo, những kẻ trệch đường, những cô gái bán thân… những người dốt nát bị hạng thông thái khinh bỉ… những kẻ thỏa hiệp với lũ ngoại bang, những tay thu thuế cộng tác với quân xâm lược… những kẻ nghèo hèn, yếu đuối, bệnh tật, phong cùi bị xã hội loại bỏ? Thay vì hình phạt của Thiên Chúa như được Lề luật loan báo, Đức Giê-su đã công bố “ơn tha tội” vô giới hạn, chẳng loại trừ ai khỏi cứu rỗi phổ quát tặng ban cho mọi người. Vâng, Thiên Chúa là Cha các tội nhân. Tất cả đều được Người tha thứ. Và ai nấy phải bắt chước Người mà tha thứ cho tất cả, ngay cả kẻ thù mình! Chính vì rao giảng hết thảy những điều ấy mà Đức Giê-su đã bị lên án đóng đinh như một “tên phạm thượng”. Nhưng chính cuộc phục sinh đến xác nhận rằng Người có lý. Các đại diện Lề luật đều lầm lạc. Kẻ bị đóng đinh vẫn sống! Tất cả những gì Đức Giê-su đã nói và làm… sắp được tiếp tục, với sự xác nhận của chính Thiên Chúa. Và “anh em là chứng nhân về những điều này!”
Nhưng để được thế, “Thầy sẽ gởi cho anh em điều Chúa Cha đã hứa. Vậy anh em hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời ban”. Họ rất cần điều nầy! Ta cũng cần “sức mạnh” này, vốn không bởi ta nhưng từ trên cao mà đến! Vì các môn đệ sắp phải sống và nói trong một thế giới chẳng có chi thay đổi xét theo bên ngoài: sự dữ, bạo lực, hận thù, cái chết, các lạc giáo, các sai lệch, các áp bức đủ loại… sẽ còn tiếp tục. Đấng sắp ban sức mạnh đó không được nêu danh ở đây, vì như Chúa Cha, “Đấng đã chẳng ai thấy bao giờ”, và khác với Đức Giê-su, “Hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa”, Thánh Thần không có khuôn mặt, vì Người là “Thiên-Chúa-ở-trong-chúng-ta”. Khi cây nến lớn phục sinh tắt vào ngày Thăng thiên, thì này thắp lên những ngọn lửa xuyên thâu mỗi môn đệ ngày Ngũ tuần.
2. Lãnh phúc lành để lên đường phụng sự
“Sau đó, Người dẫn các ông mãi tới gần Bê-ta-ni-a, rồi Người giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời”. Đây là sự “từ biệt” (như kiểu dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: “thì Người đã từ biệt họ”)! Và Lu-ca là kẻ duy nhất sử dụng tiếng ý nghĩa nầy. So với cùng trình thuật trong sách Công vụ Tông đồ, ta nhận thấy bản văn Tin Mừng rất giản dị. Ở đây không có yếu tố mô tả nào, chẳng “mây” lẫn những người “đàn ông mặc áo trắng”. Không phải Lu-ca bất biết ngôn ngữ khải huyền. Ông sẽ sử dụng nó trong trình thuật kia. Nhưng trong đoạn văn này, ông muốn đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất kín đáo: “Người dẫn môn đệ…”, “giơ tay chúc lành…”, “rời khỏi các ông và được đem lên trời…”. “Chúc lành” cho các Tông đồ, việc này Đức Giê-su chưa bao giờ làm cả. Nhưng đây là cảnh giã biệt. Và Lu-ca tiếp nối một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các đại nhân vật của Thánh Kinh đều kết thúc cuộc sống bằng việc chúc lành cho những ai kế tục sự nghiệp: Gia-cóp (x. St 49), Mô-sê (x. Đnl 33), Đa-vít (x. 1 Sb 28-29). Nhưng riêng Lu-ca, thì mở đầu sách Tin Mừng, ông đã cho thấy tư tế Da-ca-ri-a bị câm vì thiếu lòng tin, và do đó không thể chúc lành cho dân: phụng tự thời Cựu Ước bị gián đoạn, bất lực trong việc thánh hóa dân Ít-ra-en, và sẽ bị phế bỏ. Kết thúc sách Tin Mừng, Đức Giê-su chúc lành cho môn đệ tượng trưng cho Ít-ra-en mới và được đem lên trời (cùng một động từ Hy-lạp dùng để nói làn khói hương bay tỏa lên trời và được Thiên Chúa chấp nhận). Phụng tự thời Cựu Ước đã nhường chỗ cho phụng tự của Giao Ước mới! Việc “chúc lành” của Đức Giê-su là cử chỉ sau hết của Người. Một cử chỉ Người sẽ không ngừng làm khi mỗi linh mục, đại diện của Người, “giơ tay” chúc lành cho ta nhân danh Ba Ngôi lúc giã biệt trong Thánh Lễ.
“Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Một nghịch lý. Đức Giê-su đã “rời khỏi” môn đệ, thế mà họ chẳng buồn, trái lại càng vui tươi. Cộng đoàn môn đệ Người đã trở nên nhóm “bái lạy” Người và cùng nhau hát ca “chúc tụng Thiên Chúa”. Tôn sư “lên Thiên quốc trên trời”. Môn đệ “trú Đền thờ dưới thế”. Cả một sự đối xứng đầy tính biểu tượng… Một phụng tự mới bắt đầu. Và cũng bắt đầu một công cuộc phụng sự mới. Trang chủ Suy niệm - Chia sẻ Lời Chúa SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_2022 27-05-2022 95 lượt xem [Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23; Lc 24, 46-53]
Sau khi sống lại từ cõi chết, và trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Ngài LênTrời ABC-482
Sau khi sống lại từ cõi chết, và trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và có bạn, một nhiệm vụ hết sức quan trọng và khá là nặng nề, đó là "Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem " (Lc 24:47).
Tuân theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh Giêsu, các Tông Đồ, các môn đệ và các Kitô Hữu trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã cố gắng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, mọi lúc. Có thể nói việc làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh của họ rất đa dạng và rất phong phú. Ngoài việc rao giảng về cuộc đời, sự nghiệp và về Con Người của Đức Giêsu Kitô bằng lời nói, các môn đệ của Chúa Giêsu và các Kitô Hữu còn làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh qua những cử chỉ, hành động và những thái độ thật tuyệt vời khác nữa, ví dụ như:
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh qua những việc bác ái, giúp đỡ cho người túng cực thiếu thốn và cho những người lâm vào cảnh bất hạnh: “Khi nạn đói xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô. Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11:28-30).
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh qua việc tha thứ cho những kẻ ngược đãi & bách hại họ. “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông…quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.’ Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59-60).
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng cách vui vẻ chấp nhận hy sinh, chịu sỉ nhục và chịu bách hại vì danh Ngài. “Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi!…Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cr 11:24-27).
Bạn thân mến, ngày hôm nay, có thể nói chả có ai trong chúng ta có cơ hội làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh theo kiểu của các tông đồ hay của các Kitô hữu khi xưa, vì chẳng có ai tra tay bắt bớ, đánh đập, cấm cản chúng ta giữ đạo và làm việc truyền giáo cả. Nhưng như vậy không có nghĩa là chúng mình lơ là và quên đi nhiệm vụ nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Bạn và tôi, mỗi người chúng ta vẫn có thể trở thành nhân chứng của Chúa Kitô Phục Sinh qua những cách thức khác nhau, nhưng tôi xin đề nghị với bạn hai phương cách rất hữu hiệu sau đây, bạn thử xem sao nhé!
CHIA SẺ: Rộng rãi, quảng đại giúp đỡ về mặt vật chất cho Giáo Hội, cho các dòng tu trong việc mở mang, xây dựng và bảo trì các bệnh viện, trường học, trại mồ côi, trại tị nạn, trung tâm dạy nghề, những cơ quan bác ái…Bởi vì nhờ và qua những nơi này, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và các nhà truyền giáo mới có dịp đem Tin Mừng của Chúa đến cho tha nhân. Không có những cơ sở vật chất lo cho việc giáo dục, chữa lành và giúp đỡ cho những người nghèo đói …thì khó lòng mà người ta biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu Phục Sinh lắm! Tiền bạc là một tên đầy tớ rất tốt, bạn là chủ của nó, bạn hãy sai nó đi làm việc truyền giáo ngay đi, đừng để nó ngồi một chỗ!
LẠC QUAN: Nếu bạn đang làm những việc thiện nguyện, ví dụ như chở người này đi lễ, đưa người khác đi bệnh viện, giúp thông dịch cho ông này, cho bà kia, làm vệ sinh nhà thờ, cắt cỏ, tỉa cây, tưới cỏ, nấu ăn giúp giáo xứ gây quỹ… Nếu bạn đang nỗ lực hy sinh thời giờ, công sức, tài năng và của cải vật chất cho việc dạy giáo lý, việt ngữ, tham gia ca đoàn, cắm hoa, trang trí, quản lý tài chánh, sửa chữa và bảo trì nhà thờ…vì ý ngay lành, vì Chúa và vì yêu mến Giáo Hội, vì yêu mến giới trẻ…nhưng lại bị cha mẹ, vợ chồng, anh chị em họ hàng thân thuộc hay người ngoài đàm tiếu, dèm pha, nói hành nói xấu, nói xiên nói xẹo, vu oan cáo vạ…thì xin bạn hãy lạc quan, hãy vui lên, bởi vì bạn đang làm chứng nhân cho Chúa đấy! Hơn thế nữa, bạn đang được hưởng mối phúc thứ tám mà Chúa Giêsu đã hứa ban: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:11).
Làm chứng cho Chúa qua việc chia sẻ và sống lạc quan, dám chấp nhận những đau khổ thử thách như vậy không phải là chuyện dễ dàng, nếu không muốn nói là vô cùng khó khăn và nặng nề. Thế nhưng, với lòng tin tưởng, phó thác, với sự quyết tâm của chính mình, cộng với sự trợ giúp của Thiên Chúa, tôi tin chắc rằng, bạn và tôi sẽ trở thành những nhân chứng sống động của Chúa Giêsu Phục Sinh trong môi trường mình đang sống, nơi mình đang làm việc, và ở những nơi chúng mình đang phục vụ, bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1:37).
Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, ban ơn giúp sức để chúng mình luôn luôn chu toàn trách vụ mà Chúa Giêsu đã giao phó trước khi Ngài lên trời: “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Tường thuật của thánh Luca trong sách Tin Mừng phải được bổ túc bằng bài tường thuật của ngài LênTrời ABC-483
trong đoạn đầu của sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta mới có đủ thông tin về cuộc thăng thiên của Chúa Giêsu.
Trong bản tường thuật này của thánh Luca, chúng ta lưu ý đến hai yếu tố: yếu tố vật chất và yếu tố thiêng liêng.
Nhiều người chỉ chú ý đến những dữ kiện vật chất, chỉ chú trọng đến tường thuật những sự kiện, người khác thì cho những sự kiện vật chất là thần thoại. Nhưng chúng ta không loại bỏ yếu tố nào, vì mỗi sự kiện có ý nghĩa và vai trò của nó.
Chúa Giêsu sau khi phục sinh vẫn hiện ra với các môn đệ, khoảng bốn mươi ngày, là một thời gian không xác định, nhưng cũng không quá dài cũng không quá ngắn. Trong thời gian đó, Ngài nói với các ông về Nước Chúa và nhắc đến biến cố quan trọng là chết và sống lại, là nền tảng đức tin: “Đấng Kitô chịu khổ hình, ngày thứ ba, sống lại”, và Ngài bảo họ phải nhân danh Ngài rao giảng những điều ấy.
Rao giảng và kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha thứ. Phải chăng đây là hiệu quả tất nhiên của sự chết và phục sinh của Chúa?
Ngay từ khi mới xuất hiện, Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Chúa Giêsu tiếp nối sứ điệp đó, và Tin Mừng của Chúa luôn là một lời mời gọi con người tự giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi để bước vào cuộc sống mới do Ngài mang đến. Ngài còn đòi buộc các Tông đồ phải là “chứng nhân cho các điều đó”, là sự chết và sống lại của Ngài, là suối nguồn sự sống: “Ta đến để họ được sống và sống dồi dào”.
Làm chứng nhân cho Chúa. Đó là mệnh lệnh, nhưng công việc này không thể thực hiện nếu không có nguồn sinh lực, “quyền năng từ trời ban xuống”, là Thánh Thần Ngài đã hứa. Vì thế, Ngài bảo các ông đợi cho đến khi mọi sự được thực hiện như Ngài đã báo.
Ngài chúc lành cho các ông và “được đem lên trời”. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Luca nói rõ hơn: “Người được cất lên trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người khiến các ông không còn thấy Người nữa…” (Cv 1,9) Hai người mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?...”
Những dấu hiệu thực tế này chứng tỏ Ngài đã rời các ông và trở về với Chúa Cha như lời Ngài đã nói trước. Lên trời ở đây không thể hiểu là lên không trung, và áng mây, theo Kinh Thánh, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Ngài đã tuyên bố trước mặt Công Nghị Do Thái: “Rồi đây, các ông sẽ thấy Con Người ngự trên áng mây”. Thầy cả Caipha đã hiểu và đã xé áo…
Đây là những dấu hiệu hữu hình mà chúng ta không thể bỏ qua.
Chúng ta là những con người vừa vật chất vừa linh thiêng. Thiên Chúa thương xót con người ngu muội, và muốn họ hiểu được ý Ngài, Ngài phải dùng thứ ngôn ngữ mà Ngài đã ban cho họ. Ngài phải dùng những dấu hiệu hữu hình để giúp chúng ta đạt tới những thực tại linh thiêng. Ngài đã phải nhập thể để có thể nói với chúng ta trong chính ngôn ngữ của chúng ta. Các bí tích đều là những dấu hiệu vật chất hàm chứa những nội dung linh thiêng.
Trước khi rời khỏi các tông đồ, Ngài căn dặn họ chờ đợi cho đến khi nhận được quyền năng từ trời ban xuống.
Để làm gì?
Để làm chứng nhân và rao giảng.
Sứ mệnh quan trọng này được trao phó cho các tông đồ, cho Giáo hội và cho mọi tín hữu. Thế nhưng, hiện nay, chỉ có một số quá ít những người dám dấn thân làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cần loan báo Tin Mừng phục sinh, “nhưng ngày nay, sứ điệp này không dễ dàng được chấp nhận. Cần những dấu chỉ đáng tin. Nhưng điều đáng tiếc là sự vắng bóng của những dấu chỉ và sự hiện diện của những phản chứng.
Công Đồng Vatican II, trong sắc lệnh về “Truyền Giáo” và “Tông Đồ Giáo Dân” đã vạch rõ con đường phải đi, phải mạnh dạn dấn thân vào một thế giới văn minh tiến bộ về khoa học nhưng nghèo nàn về chân lý.
Nhưng khó khăn không thiếu.
Con người hôm nay dựng lên rất nhiều bức tường thành kiến đối với những gì là tâm linh. Họ lo âu trước sự trống rỗng của tâm hồn, nhưng họ lại yêu thích sự vô nghĩa vì nó cho họ được thư thái vì khỏi phải suy nghĩ.
Điều khó hơn là chính chúng ta, người tín hữu, đã tạo ra những rào chắn làm họ nghi kỵ. “Nhiều cái trong cách hành xử của chúng ta (tập thể cũng như cá nhân) đi ngược lại với những gì chúng ta tuyên xưng”. Chính Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng cũng công nhận rằng: “Có thể các tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc làm nảy sinh chủ thuyết vô thần” (số 19).
Chúng ta có bi quan không?
Chúng ta không bi quan, nhưng can đảm nhìn sự thật, khiêm tốn và không tránh né.
Nhưng càng nhiều khó khăn, chúng ta cần nỗ lực nhiều hơn, cần gia tăng lòng mến và lòng tin hơn. Thánh Thần Chúa không bỏ chúng ta một mình, Ngài đủ sức giúp chúng ta dấn thân nhiệt tình hơn. Những thử thách là điều kiện giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, vững chắc trong hy vọng và mạnh mẽ trong tình yêu.
Chúng ta chỉ cần chăm chú lắng nghe Vị Tôn Sư Thần Linh mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta, và không dừng bước. Các Tông đồ trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan chứ không buồn như khi ở bàn Tiệc Ly, khi Chúa nói đến cuộc ra đi của Ngài: “Vì Thầy nói những điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền”. Hân hoan vì họ không còn nghi ngờ gì nữa. Thầy đã sống lại và vẫn sống. Thầy ra đi “dọn chỗ” cho họ và Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ sẽ đến.
Chúa Giêsu ra đi, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Lương thực Ngài ban để nuôi dưỡng ý chí chúng ta là chính Ngài, Thịt Máu Ngài.
Ăn lấy Ngài, sống với Ngài, chúng ta sẽ “tràn đầy hân hoan” như các Tông đồ và luôn tiến bước vui tươi giữa mọi thử thách: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ thăng thiên như Ngài.
Không phải trong nhà Đạo mới có “từ” này, mà trong ngôn ngữ dân gian, người ta nói nhiều đến LênTrời ABC-484
Không phải trong nhà Đạo mới có “từ” này, mà trong ngôn ngữ dân gian, người ta nói nhiều đến “từ” này. “Từ” đó là: trời, chầu trời, về trời; “từ” đó là “từ” thăng: ông ấy đã chầu trời rồi; cụ đã thăng rồi…
Hôm nay lễ Chúa về trời, lễ Thăng Thiên, tuy có cái khác rất xa giữa việc Chúa thăng thiên và con người thăng (ông kia, cụ nọ thăng) nhưng có cái giống giữa hai cái thăng đó, là xa cách, là không thấy bằng con mắt trần nữa. Ta không xét đến sự khác nhau giữa hai việc thăng: Chúa thăng thiên và con người thăng, mà chỉ dừng lại nơi điểm giống nhau giữa 2 việc thăng, tức là “thăng” là xa cách, với câu hỏi sau: Vì sao Chúa về trời, tức là vì sao Chúa xa cách ta?
Ta sẽ xét dưới góc độ con người và ta sẽ thử xét dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
1. Dưới góc độ con người.
Tại sao Chúa về trời, tại sao thầy Giêsu lại giã từ các đồ đệ?
- Thưa là để các đồ đệ trưởng thành. Nếu thầy cứ ở mãi, đồ đệ không trưởng thành được. Có thầy ở bên thì lúc nào cũng bám lấy Thầy, lúc nào cũng hỏi ý kiến Thầy. Cái này làm sao thưa Thầy? Cái kia làm sao hả Thầy? (Khổng Minh Gia Cát Lượng thì dùng túi gấm [cẩm nang] để thay mình chỉ dẫn).
Sư phụ Nasreddin đến Trung Quốc, ở đó ông thâu nhận một số môn đệ và dạy dỗ họ hầu giúp họ chuẩn bị giác ngộ. Nhưng khi đã giác ngộ rồi, các đồ đệ bỏ đi hết không nghe thầy Nasreddin giảng nữa. Người ta hỏi thầy có buồn không khi đồ đệ bỏ thầy như vậy. Nasreddin trả lời: “Không phải là danh sư (thầy nổi tiếng) nếu suốt đời đệ tử cứ phải ở với thầy”. Đệ tử phải ra đi xa thầy, thì thầy mới là danh sư. Trường hợp của thầy Giêsu thì ngược lại nhưng cũng cùng mục tiêu. Thay vì đệ tử xa thầy, thì thầy xa đệ tử, để đệ tử tự mình xoay sở và trưởng thành.
Bộ phim “Ở nhà một mình” với bé Mc Caulkin thủ vai chính cho ta thấy, khi cha mẹ đi vắng, bé này đã nảy ra nhiều sáng kiến độc đáo trong việc chống lại kẻ trộm. Đây là bộ phim, tưởng tượng, nhưng thực tế vẫn có thể như vậy. Những trẻ em mất bố mẹ sớm thường trưởng thành và chững chạc hơn những đứa trẻ đầy đủ mẹ cha và sống với cha mẹ cho đến già đầu.
Trong thuật lãnh đạo, người ta kể có 3 loại thầy:
- Loại 1: Thày và trò cùng làm. Tam cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm.
- Loại 2: Thầy không cần làm, nhưng sự hiện diện của thầy cũng đủ cho đệ tử phấn chấn.
- Loại 3: không có thầy hiện diện mà chỉ cần nhớ đến, nghĩ về thầy, là đệ tử hăng say làm việc.
Đức Giêsu chắc phải là loại thầy thứ ba này. Thứ ba theo liệt kê, nhưng lại là đệ nhất theo thứ hạng: đệ nhất danh sư. Chỉ cần nhớ đến thầy, là trò lên tinh thần. “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Vậy ở góc độ con người suy nghĩ, vì sao Chúa xa cách ta: là để đồ đệ trưởng thành…
2. Dưới góc độ Thiên Chúa
Tại sao Chúa Giêsu lại xa cách các môn đệ? Ta hãy để chính Chúa Giêsu trả lời, và trả lời này được Sách Tin Mừng Gioan ghi rõ:
• Ga 14,3: Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em. Không phải trên Nước Trời sẽ có ghế có bàn, phải dọn phải dẹp, nhưng Đức Giêsu muốn nói Ngài đi trước. Trong ngành du lịch gọi là tiền trạm.
Người thứ nhất từ kẻ chết sống lại là Ngài, thì người thứ nhất lên trời cũng là Ngài. Người thứ nhất chứ không phải người duy nhất. Thứ nhất là đi trước. Chúng ta sẽ là thứ hai, thứ ba, thứ một tỷ... Người thứ nhất như vậy là để dọn đường dọn chỗ. Và rồi Thầy sẽ trở lại đón đồ đệ, để Thầy ở đâu, đồ đệ cũng ở đó với Thầy.
• Ga 16,7: Thầy đi thì có lợi cho anh em.
Đức Giêsu không nói suông: Thầy đi, người khác tới. Mà nói rõ: có lợi cho anh em. Cán cân “lợi” đã nghiêng về người sẽ tới, tức Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.
Người ta thường sánh ví thế này:
- Nếu Giáo hội là một toà nhà, thì người có sáng kiến xây toà nhà đó là Chúa Cha. Người thực hiện, người xây là Chúa Con, và người bảo trì, trang trí, làm cho toà nhà hoạt động là Chúa Thánh Thần. Vai trò bảo tri, trang hoàng, điều hành, quan trọng đến mức nào.
- Nếu Giáo hội là một đoàn thể, thì người có ý định lập đoàn thể là Chúa Cha. Người thành lập là Chúa Con và Người nuôi dưỡng đoàn thể đó sống là Chúa Thánh Thần. Thầy đi thì có lợi vì lúc đó Đấng nuôi dưỡng mới tới. Ta hay nói, lập một đoàn thể không khó cho bằng duy trì đoàn thể đó hoạt động.
- Nếu Giáo hội là một lớp học thì Đức Giêsu là thầy dạy, chất liệu để dạy là từ Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần là Đấng Ôn Tập, làm cho học trò nhớ và làm điều thầy dạy. Thầy đi thì có lợi cho anh em, vì lúc đó Đấng Ôn Tập sẽ tới (Ga 16,13-15; 14,26).
• Ga 14, 12 Họ làm những việc Thầy làm và còn làm những việc lớn hơn nữa khi Thầy về cùng Cha.
Thầy ra đi, là để chứng tỏ tin tưởng vào đồ đệ. Người ta kể rằng khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Người về trời. Thiên thần Gabriel đi đón từ xa, và phỏng vấn:
- Thưa Ngài, công trình Ngài được tiếp tục thế nào ở trần gian?
- Ta có 12 tông đồ, một nhóm môn đệ và vài ba phụ nữ. Ta đã trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng tới mút cùng trái đất.
Nghe vậy, chưa thoả mãn, thiên thần Gabriel hỏi thêm:
- Nếu nhóm nhỏ đó thất bại, Ngài có chương trình nào khác không? Có phương án 2, kế hoạch B… không?
Đức Giêsu mỉm cười:
- Không, ta không dự trù kế hoạch nào khác. Ta tin tưởng vào họ.
Tin Mừng Ga 14,12 ghi rõ: Họ làm những việc Thầy làm và còn làm những việc lớn hơn nữa khi Thầy về cùng Cha.
Chả trách gì Tin Mừng Luca thuật lại việc Chúa về trời, xa cách các môn đệ, lại ghi rõ ràng đầy ”mâu thuẫn”, khi xa cách Thầy, các môn đệ không buồn mà lại “lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24, 52).
Mỗi người chúng ta đều có lúc phải ra đi. Ông bà sẽ ra đi, cha mẹ sẽ ra đi. Ta đã chuẩn bị gì cho con cái chưa để khi ra đi, con cái, con cháu ta đã trưởng thành, đủ hành trang vào cuộc sống.
Ta là người lãnh đạo, người thợ chuyên môn… Khi rời vị trí, ta phải làm sao để không có một khoảng trống nào, không có một công việc nào bị suy sụp, mà trái lại, người đến sau vẫn hoạt động và hoạt động còn hơn ta nữa, như vậy ta mới là danh sư đệ nhất, giông đệ nhất danh sư Giêsu: Thầy đi thì có lợi cho anh em.
Tin mừng Lc 24: 46-53: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...
SUY NIỆM
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố: Chúa Giêsu thăng thiên. Khi cử hành biến LênTrời ABC-485
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố: Chúa Giêsu thăng thiên. Khi cử hành biến cố này, Giáo Hội không đơn thuần nhắc lại một biến cố, một sự kiện, nhưng là xác tín lại một niềm tin: quê hương đích thật của con người không phải ở trần thế, nhưng ở “núi thánh của Thiên Chúa” được hiểu là “chốn trời cao”, điều đó cũng có nghĩa là thân xác con người tuy được cấu tạo bởi những yếu tố hữu cơ, nhưng nhờ cái chết của Chúa Kitô trên Thập Giá, yếu tố hữu cơ ấy đã bị hủy bỏ, và thân xác được thần hóa qua việc Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, ra khỏi thế giới hư hoại để biến thân xác đó thành bất tử và được dự phần vào sự sống vĩnh hằng với Thiên Chúa, nơi để sự sống đó hiện hữu chính là “chốn trời cao”.
Vì thế việc lên trời của Chúa Giêsu tiếp nối sau biến cố phục sinh của Chúa là một tiến trình của nhiệm cục cứu độ. Nhiệm cục đó khởi sự do chính Đấng ở ngự trên tròi, như thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Phl 2, 6-7). Và sau khi đã hoàn tất sứ vụ Người trở về nơi Người phát xuất. Trở về không có nghĩa là chấm dứt, nhưng như lời Chúa Giêsu phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (Ga 14, 2-3). Như vậy, Chúa về trời là để tiếp tục sứ vụ cứu chuộc qua việc “dọn chỗ” cho những người thuộc về Chúa, để “Chúa ở đâu, họ ở đấy với Chúa”. Việc dọn chỗ trước tiên chính là Người gởi Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ, để các ngài đi loan báo Tin mừng, qua nghe người ta tin và nhờ đó học được cứu độ.
Quả thật chỗ mà Đức Kitô dọn cho chúng ta không là một không gian ba chiều theo vật lý, nhưng là nơi cư ngụ của Đấng vô thuỷ vô chung, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, không lệ thuộc vào bất cứ một điều gì liên quan đến cấu trúc của thế giới này, bởi thế giới này chẳng có gì là tồn tại, vững bền. Vâng, nơi mà Đức Kitô lên ngự, chính là nơi được xây lên bởi những viên đá tình yêu, nơi đó không bao giờ bị huỷ diệt như thánh Phaolô khẳng định: “Đức mến không bao giờ mất được’’ (1Cor 13, 8). “Mất làm sao được” vì nơi đó không có hận thù ghét ghen, không có đố kỵ, hận thù, vì thế không có mầm mống của đau khổ và chết chóc, nơi đó chỉ có bình an và hạnh phúc, không có huỷ diệt chỉ có trường tồn, không có bóng tối chỉ có ánh sáng, không có sự chết chỉ có sự sống, vì gạch tình yêu làm nên nơi ở luôn thấm đượm điều mà thánh Phaolô nói: nơi đó toát lên sự: hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cor 13, 4-7). Thánh Gioan đã minh định: “Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Ga 4,16), và Thánh nữ Têrêsa Hầi Đồng Giêsu đã cảm nghiệm được niềm vui của người ở trong tình yêu Thiên Chúa: “Tình yêu chỉ mong ước được trao hiến: Tôi cảm thấy tình bác ái đi vào trong tâm hồn tôi, nhu cầu phải quên mình để làm đẹp lòng, và từ đó tôi cảm thấy hạnh phúc. Đó không phải chỉ là hạnh phúc mà thôi, nhưng còn là niềm vui mừng sâu xa nữa”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng vào ngày 17-04-2013 đã khẳng định rằng, chúng ta, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đã được thánh hiến để trở thành con của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, vì thế, mỗi người chúng ta đều có niềm hy vọng được đến nơi ở mà Chúa Giêsu đã dọn, ngài nói: Chúa Thánh Thần tạo ra trong chúng ta tình trạng làm con cái Thiên Chúa mới này, và đây là món quà lớn nhất mà chúng ta nhận được từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Và Thiên Chúa đối xử với chúng ta như những người con, Ngài hiểu chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ôm ấp chúng ta và yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta lầm lỗi. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia nói rằng mặc dù một người mẹ có thể quên con mình, Thiên Chúa chẳng bao giờ quên chúng ta, chẳng bao giờ (x Is 49:15). Và điều này tuyệt vời”, vì nhờ đó mà chúng ta được chung hưởng vinh phúc trong Vương quốc của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, việc đón nhận hồng phúc đến ở với Chúa không là một ân ban mang tính thụ động, nhưng còn là lời mời gọi mang ân ban đó đến cho người khác. Như vậy, việc “dọn chỗ” không là công việc của riêng Chúa về trời, mà còn là công việc của chính chúng ta, những người môn đệ của Chúa, những người con được Cha yêu thương. Quả thật, Chúa Giêsu đã chỉ thị rõ ràng: người môn đệ phải là chứng nhân về công trình cứu chuộc, chứng nhân về ân ban được làm con Thiên Chúa và được bước vào vương quốc của sự sống. Quả thật, việc loan báo công trình cứu chuộc của Chúa thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, bởi qua phép Rửa, người Kitô hữu được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, được dự phần vào nhiệm vụ của Chúa Kitô, tức là dự phần vào việc “dọn chỗ trên trời” của Chúa. Vì thế, khi cử hành biến cố thăng thiên, cũng là lúc chúng ta minh định nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của chúng ta, có như thế chúng ta mới hiểu được tâm tư của thánh Phaolô: Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.(1Cr 9, 16). Rao giảng Tin Mừng là chứng tá về một cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban qua cái chết và sự phục sinh của Người, và nói tới một nơi cư ngụ vĩnh cửu mà Người dọn sẵn qua biến cố thăng thiên của Người. Có thể nói rằng, giữa cuộc đời trần thế chất chứa bao nỗi muộn phiền, chúng ta, những người Kitô hữu còn có cơ hội để kín múc được niềm vui và hạnh phúc, bởi khi thi hành nhiệm vụ loan báo chúng ta trao ban cho lương dân niềm hy vọng, niềm hy vọng sự sống đời trong Vương quốc của Thiên Chúa, và khi chúng ta cho ai niềm vui cũng là lúc chúng ta đón nhận niềm vui. Niềm hy vọng chúng ta loan báo không là chuyện hão huyền, nhưng đây là một thực tại không thể nào không có, bởi chính Chúa Kitô là thực tại đó, và chúng ta cũng đang là chứng tá cho thực tại đó, một thực tại mà thánh Gioan đã quả quyết: “Thật vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1 Ga 1, 2-3).
Vâng, sự sống của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô chúng ta vẩn thấy và vẫn nghe hằng ngày ngay chính trong lòng Giáo Hội, Đức Benêđictô XVI trong bài giảng ngày 29-04-2009 đã quả quyết: “Chính trong Giáo Hội mà Thiên Chúa hiện diện, Ngài tự hiến cho chúng ta trong Thánh Thể và ở lại đó để chúng ta thờ lậy. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Giáo Hội. Trong Giáo Hội Thiên Chúa ‘đi dạo với chúng ta’ như thánh Germano đã nói. Trong Giáo Hội chúng ta nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và học tha thứ”. Chúng ta làm chứng cho thực tại này, thực tại của niềm hy vọng mai sau bằng chính thực thi điều kiến tạo nên nơi ngự của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Đây cũng chính là huấn lệnh của Chúa để lại trước khi Người về trời: các con hãy yêu nhau như Thầy yêu các con”. (Ga 15, 9-17)
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được dự phần vào công việc thánh thiêng: dọn chỗ trên trời cho anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con ý thức được hồng ân này để chúng con hăng say loan báo Tin Mừng, sống chứng ta cho niềm hy vọng mà chúng con đang hướng về. Amen.
Tin Mừng Lc 24: 46-53: Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng về những điều ấy” (Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy...
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng LênTrời ABC-486
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng về những điều ấy” (Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy. Vậy làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất chính xác, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Chính vì thế khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Ra đi tuyên xưng niềm tin, niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, vào Đấng đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “mỗi tín hữu, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nhất là bí tích Thêm Sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa và cách thức làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt lành thánh thiện của chúng ta.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được nghe nói. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu thật ý nghĩa: “người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Đức Kitô”.
Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao diễn tả được dung mạo của Ngài ngay trong cuộc sống của mình. Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sống. Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa chúng ta.
Để có thể làm chứng về Chúa Giêsu cho những người khác, chúng ta phải thực hiện nơi chính bản thân của chúng ta như trong ngạn ngữ của Trung Hoa:
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân, Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia, Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp, Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa, Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị, Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Làm chứng một cách mạnh dạn như tổng thống Putin: báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ Rửa Tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế. Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “tôi tự hào là một người tín hữu… niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta dành ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta, nhưng chúng ta cũng sẽ không được thụ động mải mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. Chúa đã nhắc nhở chúng ta hôm nay: Đấng Kitô phải chịu đau khổ, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24,46-53). Phải trải qua đau khổ mới có thể tham dự vào vinh quang của Chúa. Phải cùng Chúa vác Thập Giá thì mới được vào vinh quang thiên quốc, cùng với Chúa hưởng niềm vui trên cõi trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)
Vào đại lễ Thăng Thiên chúng ta đã cử hành việc Đức Giêsu trở về với Cha. Thánh Luca đã thuật LênTrời ABC-487
Vào đại lễ Thăng Thiên chúng ta đã cử hành việc Đức Giêsu trở về với Cha. Thánh Luca đã thuật lại cho chúng ta khoảnh khắc đó trong bài đọc một, trích từ sách Công vụ Tông đồ (1,1-11). Khi Đức Giêsu được cất lên khuất khỏi tầm mắt của các môn đệ thì xuất hiện "hai người đàn ông mặc áo trắng" đứng bên cạnh họ. Rồi hai người đó hỏi các môn đệ tại sao vẫn đứng đó mà ngước nhìn về trời. Họ đã quả quyết với các ông rằng Đức Giêsu sẽ ngự đến "y như các ông đã thấy người lên trời." Hai ông đã gợi lại những gì Đức đã hứa với các môn đệ: Thánh Thần sẽ đến để hoàn tất những gì Đức Giêsu đã khởi sự, bằng việc tăng sức cho họ để họ tiếp tục sứ vụ của Người cho đến khi Người trở lại. Họ cũng nói về sự trở lại của Đức Giêsu vào thời sau hết, khi Người đến để đưa mọi sự tới thành toàn.
Thông điệp mà hai người đàn ông đã nói với các môn đệ cũng là nói với chúng ta. Chúng ta sẽ không bị bỏ mặc một mình để hoàn tất một danh mục "những việc phải làm và không được làm" mà Đức Giêsu để lại. Không có loại danh mục như thế. Những gì Người hứa là gửi Thánh Thần để trợ giúp. Nếu Thánh Thần không đến thì các môn đệ và cả chúng ta chỉ có nước đóng cửa tiệm mà về nhà và quên đi việc cố gắng trở thành Kitô hữu trong một thế giới thờ ơ lạnh nhạt này! Nếu không có Thánh Thần, chúng ta có thể bị bỏ mặc với những cố gắng công thức hóa các lời dạy của Đức Giêsu thành một mớ những lối hành xử. Như thế thì thật là tẻ nhạt, quan liêu và trống rỗng làm sao!
Không phải mãi tuần tới mới là lễ Hiện Xuống, song ngay hôm nay chúng ta đang ở giữa thời điểm mà Đức Giêsu đã nói: mong đợi "lời hứa của Cha," Thánh Thần đến vào ngày lễ Hiện xuống. Dĩ nhiên, Thánh Thần đang ở với chúng ta; Đức Giêsu đã hoàn thành lời của Người, và gửi cho chúng ta Đấng Được Hứa. Cũng thế, Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta một cơ hội để đụng chạm đến những gì mang lại cảm giác giống như đang sống trong thời kỳ đợi trông và chưa hoàn tất. Dù có quà tặng của Thần Khí, chúng ta vẫn đang ở khoảng giữa của thời điểm đức Giêsu Thăng thiên và ngày Người trở lại vào giờ tận thế. Quá nhiều việc còn bỏ dở dang trong đời sống của mỗi chúng ta, trong giáo xứ và trong thế giới. Chúng ta vẫn còn nghe vang vọng lời khuyến dụ của bài đọc Khải huyền, "Ai nghe hãy nói 'Xin Ngài ngự đến." Ai khát hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh."
Chúng ta là một dân đang chờ đợi. Tuần này, Chúng ta được nhắc nhớ điều đó khi chúng ta cử hành ngày lễ vọng để đón Thần Khí đến cuộc sống chúng ta một lần nữa vào ngày lễ Hiện xuống. Trong lúc chờ đợi, chúng ta biểu tỏ qua lời Kinh Lạy Cha: "Nước Cha trị đến..." Chúng ta muốn được là khí cụ mang đến sự hoàn tất của vương quốc tình yêu, hiệp nhất và công bình mà Đức Giêsu đã loan báo. Trong sự chờ đợi, chúng ta cũng cầu nguyện bằng câu cuối cùng trong Tân Ước, được trích trong sách Khải huyền rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến."
Bài Tin mừng của ngày hôm nay trích lại diễn từ từ biệt của Đức Giêsu và lời cầu nguyện của Người trong đêm trước ngày chịu nạn. Người sẽ nhìn vượt khỏi những người đang cùng bàn và hướng đến tương lai, để thấy chúng ta những người sẽ tin vào Người nhờ những lời rao giảng của họ. Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu các tường thuật về những gì các môn đệ đầu tiên đã thực hiện nhờ tác động của Thánh Thần. Họ không còn sợ hãi và đi rao giảng khắp mọi nơi. Chúng ta đã đón nhận và chấp nhận những lời của các môn đệ, và cùng với các ngài, chúng ta đã cảm nghiệm được sự sống của Thánh Thần. Thánh Thần đó làm cho chúng ta có thể sống một đời sống của tình yêu hy hiến mà Đức Giêsu đã dạy.
Chẳng hạn, trong bài đọc Công vụ hôm nay, chúng ta chứng kiến cái chết của vị tử đạo đầu tiên là Têphanô. Chúng ta đừng bỏ qua điểm tương đồng trong cái chết của Têphanô, cũng có lời cầu nguyện cho những kẻ hành hình, với cái chết của Đức Giêsu? Sẽ đến ngày chúng ta được thông ban Thần Khí của Đức Giêsu, chúng ta cũng sẽ cầu nguyện như Têphanô "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con."
Ngày đó có thể vẫn còn xa. Chúng ta đang trong thời điểm lưng chừng, đang mong đợi sự hoàn tất mọi sự trong Đức Giêsu. Chúng ta nghe thấy câu mà hai người đàn ông đã hỏi lúc Chúa Thăng Thiên, "Sao các ông còn đứng đó mà nhìn lên trời?" Trong lúc chờ đợi sự trở lại của Đức Giêsu, chúng ta có việc phải làm. Chúng ta phải sống đời sống thường nhật của mình với sự hướng dẫn của những lời cuối cùng mà Đức Giêsu nó với các môn đệ - chúng ta hành động vì hiệp nhất; hoa trái của sự hiện diện đầy yêu thương của chúng ta trong thế giới. Chúng ta được hứa ban cho Thần Khí và vì vậy chúng ta mở lòng ra với sự nhân ái và yêu thương đối với tất cả mọi người thuộc mọi tôn giáo và truyền thống.
Trong khi đợi chờ Đức Giêsu trở lại và mọi sự được hoàn tất trong Người, chúng ta tin rằng lời hứa của Đức Giêsu đã được hoàn trọn. Chúng ta đã được Thần Khí làm cho mạnh mẽ và vì thế có thể gạt đi những hận thù và trao tặng sự tha thứ. Nhờ Thần Khí của Người, đời sống của chúng ta được ghi dấu cũng bằng chính tình yêu của Đức Giêsu. Qua Thần Khí, chúng ta học được sự tín thác mỗi ngày và phó thác đời mình hơn nữa trong bàn tay của Thiên Chúa. Chúng ta sống mỗi ngày trong khoảnh khắc hiện tại khi chúng ta phục vụ và yêu thương những người thân cận. Trong tất cả lời nói, hành động, suy nghĩ, yêu thương và trao tặng, chúng ta nguyện rằng Đức Giêsu sẽ nối kết chúng ta lại trong một mái nhà, một công việc và trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống, để giúp chúng ta làm việc thiện trong danh của Người. Chúng ta cầu xin "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến." Vì chúng ta cầnThánh Thần của Người để giữ vững niềm hy vọng và nỗ lực như môn đệ của Người trong một thế giới không ngừng chối bỏ và chống đối này.
Sứ vụ mà Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha là bộc lộ qua đời sống của Người tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Giờ đây, lời cầu nguyện của Đức Giêsu cho thấy ước mong của Người rằng: Người và Cha sẽ cư ngụ trong cộng đoàn những người tin và tình yêu của cộng đoàn sẽ phản chiếu sự hiện diện yêu thương của Cha và Con. Nếu chúng ta làm chứng cho tình yêu linh thánh giữa chúng ta, thì tình yêu đó sẽ lôi kéo người khác đến với chúng ta ("... để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa"). Sứ vụ của Giáo hội là phản ánh tình yêu mà chúng ta đã biết nơi Đức Kitô.
Đức Giêsu muốn rằng chúng ta cũng sẽ phản ánh sự hiệp nhất giữa Người và Chúa Cha. Đó là một lệnh truyền cho chúng ta - cả trong Hội thánh cũng như giữa các Giáo hội. Nếu chúng ta chưa phản ánh hoàn toàn sự hiệp nhất như Đức Giêsu với Cha, chúng ta được khuyên hãy nghe Người nói, "Con đã cho họ biết danh Cha và sẽ còn cho họ biết nữa". Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Để nhận biết Thiên Chúa của chúng ta là công việc tiệm tiến; Đức Giêsu tiếp tục mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta và bày tỏ ước muốn của Thiên Chúa vì sự hiệp nhất của chúng ta,
Hôm nay, khi lên hiệp lễ, chúng ta sẽ hiểu được sự hiệp nhất đã có trong chúng ta: chúng ta sẽ nhận cùng một Mình và Máu của Chúa. Nhưng chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ việc thiếu sự hiệp nhất giữa chúng ta. Thực ra, dường như ngày nay sự khác biệt ngay trong Hội thánh của chúng ta lớn hơn gấp nhiều lần sự khác biệt giữa các giáo hội. Khi hiệp lễ sẽ cho ta một cơ hội để cầu xin Đức Giêsu rằng sự hiệp nhất Người với Cha được phản ánh một cách hoàn hảo hơn nữa trong chính giáo hội của chúng ta và giữa tất cả người tin.
Một thuyết minh viên trên truyền hình cách đây vài ngày đã cho rằng vụ bê bối về lạm dụng hiện nay trong Giáo hội của chúng ta là khủng hoảng tồi tệ nhất của chúng ta trong 200 năm qua. Thần Khí mà Đức Giêsu đã hứa cần đến để làm mới lại một lần nữa, như Người đã làm trong ngày lễ Hiện Xuống, với luồng gió và hình lưỡi lửa. Bởi vì chúng ta đang trong tuyệt vọng và cần hơi thở chữa lành và khôn ngoan của Thần Khí. Chúng ta cần Thần khí để nhóm lên một ngọn lửa mới trong chúng ta để chúng ta có thể chú tâm trọn vẹn cho sứ vụ Đức Giêsu đã trao cho chúng ta khi Người ra đi là: Hãy loan báo Tin Mừng bằng lời nói và cả việc làm.
Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời LênTrời ABC-488
Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời là lên đâu? Phải chăng là bầu trời cao xanh mà chúng ta nhìn thấy mỗi sớm mai thức dậy? Người ta bảo rằng, khi nhà du hành vũ trụ đầu tiên người Nga tên là Gagarin từ ngoài không gian vũ trụ trở lại trái đất, ông đã phát biểu: Tôi đã nhìn và tìm kiếm nhưng chẳng thấy Chúa Trời đâu cả. Một phi hành gia khác người Mỹ tên là Aldrin đã cùng Armstrong đặt chân xuống mặt trăng đầu tiên. Trước vũ trụ bao la, Aldrin đã đọc to: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến”.
Trời, nơi gặp gỡ Thiên Chúa
Nếu Trời mà Chúa Giêsu đi lên là bầu trời trong không gian vũ trụ thì thật buồn cười và phi nghĩa. Nhưng Trời mà Chúa Giêsu đi lên là Ông Trời, là Đức Chúa Trời, là Nước Trời, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ. Nơi ấy vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an và hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa.
Nhân loại, đặc biệt là Á Đông, cũng cố gắng hình dung ra nước trời. Quang cảnh của thiên đình được mô tả có ngọc hoàng, có các vị thần tiên. Nhưng đó là cái nhìn phóng chiếu từ cuộc sống của con người. Chính Đức Giêsu đã khẳng định “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Đấng từ Trời mà đến nên chỉ có Ngài biết rõ Trời là thế nào.
Đức Giêsu luôn hướng về Trời
Đức Giêsu trong thân phận là người, Ngài đã luôn luôn hướng về Trời. Và sau khi chiến thắng tử thần, Ngài đã sống lại từ cõi chết và trở về Trời, trở về với Chúa Cha.
Trong những năm tháng Đức Giêsu đi rao giảng, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước mỗi công việc. Ngài cầu nguyện một mình nơi hoang vắng. Đó là giờ phút Ngài gặp gỡ Thiên Chúa, tìm thánh ý Chúa. Ngài luôn thi hành công việc của mình theo ý Trời chứ không theo ý riêng của mình. Chỉ có một tâm hồn luôn hướng về Trời mới có tâm tình như Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
Mọi lời rao giảng của Đức Giêsu là rao giảng về Trời. Lời rao giảng đầu tiên của Ngài là: “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng” (Mc 1,14). Chỉ có Ngài là Đấng từ Trời mà đến nên mới có thể nói một cách chính xác Nước Thiên Chúa ấy là thế nào. Nhưng bởi trí khôn loài người có hạn nên Ngài luôn phải dùng những biểu tượng có tính tượng trưng để nói về Nước Trời: giống như hạt cải (Mt 13, 31-32), như nắm men (Mt 13,33)….
Ngài chữa lành các bệnh tật cho nhiều người. Nhưng sau khi chữa lành Ngài mời gọi họ hãy đi tạ ơn, hãy đi dâng lễ tế, hãy đi theo Ngài. Ngài mời gọi họ bước ra khỏi cuộc sống tầm thường này, Ngài đẩy họ đến với Trời.
Cả cuộc đời của Ngài luôn hướng về Trời cao. Ngay cả đến những giờ phút quyết liệt trước cuộc thương khó hay trên thập giá Ngài vẫn hướng về Trời mà thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27); “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Không chỉ thế mà Ngài còn mong muốn kéo chúng ta lên Trời với Ngài: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Trước khi về Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra đi rao giảng và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài. Trở thành môn đệ của Ngài là đi theo Ngài. Đi theo Ngài để về Trời. Cuộc đời của người môn đệ, của những người đi theo Đức Giêsu có đời sống luôn thuận theo Ý Trời, luôn hướng về Trời cao, luôn ước ao được trở về với Trời.
Theo Đức Giêsu, chúng ta hướng về Trời
Tôi có thể là người đang điền viên với tuổi già, có thể là nhà khoa học trong những lãnh vực khác nhau, là sinh viên hay học sinh, là công nhân hay là nông dân, là người thành thị hay thôn quê. Nhưng dù là ai thì cùng đích đời tôi phải hướng về Trời. Công việc mà mỗi người đang đảm nhiệm chỉ là công cụ để giúp mình tiến về Trời. Mỗi nghề, mỗi lãnh vực đều có luật riêng của nó. Người bước theo Giêsu không hướng về những của cải vật chất mau qua, không hướng về quyền lực hay danh vọng, nhưng luôn sống trọn vẹn trong cương vị của mình với tâm hồn luôn hướng về Trời. Trời là đích điểm, là mục tiêu cuối cùng mà ta nhắm tới.
Trên hành trình tiến về Trời, ta không cô đơn. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Lời Chúa Giêsu hứa ban Nước Trời cho những ai theo Ngài là bảo đảm chắc chắn. Bởi chính Ngài đã vượt qua cuộc sống khó khăn này và đã về Trời.
Đức Maria là người môn đệ đầu tiên bước theo Giêsu. Cả cuộc đời Mẹ đã luôn hướng về Trời. Những lúc khó hiểu, Mẹ vẫn tâm niệm một niềm tìm thánh ý Trời cao. Và Mẹ là người đã được về Trời cả hồn lẫn xác.
Có tình yêu của Chúa Giêsu ở với ta. Có Mẹ Maria đồng hành, ủi an, nâng đỡ ta. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu và lòng yêu mến Mẹ Maria, chắc chắn ta đi đến được cùng đích của đời mình, sẽ được về Trời cùng với Giêsu.
Lạy Chúa, xin kéo tâm hồn con luôn hướng về Ngài. Xin Ngài đừng để con lạc hướng giữa dòng đời xô đẩy. Chỉ nơi Ngài con mới được an vui.
Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian. Nhưng LênTrời ABC-489
Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian.
Nhưng không vì thế mà Ngài bỏ rơi trần gian. Trái lại, Ngài đoan hứa hằng cùng đồng hành với trần gian trong mọi ngày.
Chúa Giêsu trở về với Thiên Chúa Cha của Ngài sau khi đã hoàn thành thánh ý của Thiên Chúa trên trần gian: dấn thân hy sinh mang ơn đức cứu độ cho con người.
Nhưng không vì thế mà sứ mạng của Ngài đến đó là hết. Trái lại, Ngài thành lập Giáo Hội để tiếp tục công việc Ngài đã thực hiện trên trần gian.
Chúa Giêsu trở về nơi là nguồn mạch của đời sống, sau khi Ngài đã rao truyền cho trần gian giá trị sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Nhưng không vì thế mà trần gian bị cắt đứt xa lìa nguồn mạch sự sống. Trái lại, qua Giáo Hội Ngài để lại nguồn mạch ơn đức sự sống của Thiên Chúa nơi các Bí tích.
Những gì ta xem thấy hay đọc được qua biến cố Chúa Giêsu trở về trời?
1. Vầng mây bao phủ
Theo khía cạnh kỹ thuật chuyên chở ngày nay nay, biến cố Chúa Giêsu trở về trời được thuật lại trong Kinh Thánh: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông” (Cv 1,9).
Đọc những lời ngắn gọn này, ta có thể tưởng tượng như một chiếc máy bay cất cánh bay lao thẳng vào không trung xuyên lớp tầng mây.
Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu không dùng máy bay như bây giờ di chuyển từ nơi này đi sang khác. Nhưng vầng mây diễn tả điều gì huyền bí nhiệm mầu, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, của Thần Thánh.
Thiên Chúa hiện ra thiết lập giao ước với ông Noe sau trận lụt đại hồng thủy trong vầng mây (St 9, 12-13).
Trên đường trở về quê hương đất hứa, Thiên Chúa hiện ra dẫn đường cho dân Israel trong cột mây dẫn đầu chỉ đường đi (Xh 13, 21-22).
Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa hiện ra với Thánh Tiên tri Môsê trong vầng mây trao cho ông 10 điều răn của Chúa (Xh 24, 12-18).
Vầng mây bao phủ nói lều nhà tạm lên sự hiện diện vinh quang của Thiên Chúa ( Xh 40, 34-38).
Trên đỉnh núi Tabor, khi Chúa Giêsu biến hình, từ trong vầng mây có tiếng của Thiên Chúa Cha phán vọng ra (Mt 17,5).
Trong vầng mây bao phủ Chúa Giêsu trở về trời cao ( CV 1,9).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền thuật lại thấy Chúa Giêsu hiện ra trong vầng mây (Kh 1,7; 14, 14-16).
Như thế, có thể nói vầng mây là dấu hiệu sự thánh thiện huyền bí về hiện diện của Thiên Chúa, và cũng sát gần gũi với con người.
Chúa Giêsu trở về trời quyện trong vầng mây cao trên nền trời, nhưng Ngài không rời xa trần thế con người. Người muốn Giáo Hội tiếp tục rao giảng làm chứng cho Ngài giữa trần gian.
2. Anh em là nhân chứng của Thầy
Khi người cha hay người mẹ đi xa vắng nhà. họ thường nói với các con mình: cha mẹ không quên, không bỏ các con một mình đâu. Cha mẹ luôn hằng nhớ đến các con. Các con nhớ giữ những lời cha mẹ đã dạy bảo căn dặn mà sống yêu thương đùm bọc nhau!
Cũng vậy, trở về trời Chúa Giêsu không bỏ rơi các học trò Tông đồ, những người tin theo Chúa. Người căn dặn họ: Anh em tiếp tục sống như Thầy đã dạy nhắn nhủ. Hãy tiếp tục rao truyền cùng làm nhân chứng cho Thầy, cho những lời giáo lý của Thầy giữa lòng xã hội trần gian (Mt 28,20).
Trung thành với lời Chúa Giêsu truyền lại cho, từ ngày đó hơn hai ngàn năm nay Giáo Hội không ngừng thi hành sứ vụ truyền giáo cho mọi người trải qua mọi thời đại, trong mọi hòan cảnh đời sống xã hội.
Và Giáo Hội đã trải qua thời kỳ hưng thịnh phát triển về nhiều mặt rất khả quan tốt đẹp. Nhưng cũng có những thời kỳ Giáo Hội gặp khó khăn bị nghi kỵ, bị theo dõi bắt bớ, bị cấm cách, gặp khủng hoảng từ trong lòng nội bộ.
Nhưng nhiệm vụ rao giảng làm chứng của Giáo Hội luôn trên căn bản làm sao những giá trị theo tinh thần Phúc âm của Chúa được loan truyền thể hiện trong đời sống xã hội về sự sống, về công bình bác ái, về tình liên đới giữa con người với nhau.
Trong dòng thời gian Giáo Hội đã luôn cố gắng rao giảng làm chứng cho Chúa:
– Xuyên suốt trải qua mọi thời gian ngày tháng, năm, thế kỷ.
– Tới cùng mọi biên giới hình thể địa lý trái đất.
– Nơi mọi con người trong các giai tầng hoàn cảnh thân phận đời sống về thể lý cũng như về tâm lý. Mang niềm vui cũng như sự an ủi giúp đỡ cảm thông đến cho con người.
– Gìn giữ bảo vệ ngôi nhà thiên nhiên là vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người. Và cùng với con người phát triển văn hóa, văn minh cho đời sống
– Củng cố các gía trị đạo đức tinh thần trong lòng đời sống xã hội của con người, nhất là cho mọi người biết Chúa, Đấng là nguồn tình yêu, nguồn hy vọng và ơn tha thứ cho con người.
*****
Vầng mây trên trời đã bao phủ đưa Chúa Giêsu trở về trời. Nhưng vầng mây cũng là dấu hiệu sự hiện diện, sự gần gũi của Chúa nơi con người.
Trở về trời Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội qua các Tông đồ nhiệm vụ rao giảng làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Sự hiện diện sát gần của Chúa giúp Giáo Hội vững tâm làm nhiệm vụ này, cùng giúp lòng con người sống niếm hy vọng. Vì có Chúa hằng cùng đồng hành bên cạnh trong mọi hoàn cảnh.
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa LênTrời ABC-490
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa trải qua một biến cố trọng đại vô tiền khoáng hâu: sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu Phục Sinh đã không để các ông phải thất vọng: Người đã ban cho các ông một mệnh lệnh và một lời hứa. Mệnh lệnh là: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Còn lời hứa là: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Mệnh lệnh và lời hứa được đặt trên nền tảng vững chắc là quyền bính của Đấng Phục Sinh: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.‘
Chúng ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giêsu Kitô Thăng Thiên và hãy mạnh dạn đi đến với chư dân như Chúa đã truyền.
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): "Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời" Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ rằng: "Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): "Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời". Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người; xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): "Mọi quyền năngg trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy" Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Chúa Kitô, khi làm cho Chúa Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Chúa Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.
Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giêsu Nadarét.
* Là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng
- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”
- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”
- đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
- và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng được Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó trước khi Người về trời.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:
Thứ nhất là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.
Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thứ ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
Mỗi người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế nào?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:
* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giêsu Kitô và với lời Người hứa, nhờ:
- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày; - chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ; - học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh; - đào luyện tâm linh; - các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
* Bước 2: Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được giúp đỡ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu trở thành người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời mỗi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà truyền giáo trên mọi nẻo đường để họ nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Con Chúa Trở Về Nơi Thiên Quốc, Tín Nhân Mong Đến Cõi Vĩnh Hằng. Là tín nhân, chắc chắn LênTrời ABC-491
Con Chúa Trở Về Nơi Thiên Quốc Tín Nhân Mong Đến Cõi Vĩnh Hằng.
Là tín nhân, chắc chắn ai cũng muốn về trời, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn vào đời. Đó là vấn đề. Phải thực sự can đảm mới đủ sức vào đời, vì trách nhiệm nhiều mà đau khổ cũng chẳng ít.
Tín nhân, ai cũng phải vào đời rồi mới được về trời với Con Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã vào đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải chết trên Thập Giá rồi mới được về trời. Không có lối tắt hoặc đường khác mà về trời. Chắc chắn như thế!
Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài bảo chúng ta phải vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Chúng ta không lẻ loi vì Ngài hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Vả lại, chính Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý sẽ dạy những điều chúng ta phải làm. (x. Ga 14:26)
Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy Ngài vẫn sống sau khi chịu chết. Một hôm, đang khi dùng bữa với các tông đồ, Ngài truyền cho họ không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:5) Có người “vô tư” hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Ngài nói ngay: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7-8)
Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính trị gia có thể đảo chính để cướp chính quyền mà khôi phục quốc gia Israel. Nhưng ai cũng “bé cái lầm,” vì có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Sau 40 ngày sống lại, và căn dặn các môn đệ xong, Chúa Giêsu được cất lên ngay trước mặt họ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Ngài nữa.
Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Các ông ngạc nhiên vì chứng kiến “hiện tượng lạ” chưa thấy bao giờ.
Ở đây, lên trời là về trời chứ không phải đi du lịch một thời gian, cũng chẳng là huyền thoại như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền. Họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Phải trở lại đất cho nhanh, kẻo hết dưỡng khí là chết chắc.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định với ông Nicôđêmô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3:13) Chúa Giêsu lên trời là sự kiện vô cùng kỳ lạ. Các ông đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy Giêsu bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nào ngờ Thầy phục sinh. Hạnh phúc trào dâng. Nay các ông lại càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, còn lâu Thầy mới trở lại, tiếc hùi hụi, nhớ ngẩn ngơ, nhưng vẫn tràn đầy hy vọng. Và mỗi tín nhân cũng vậy.
Cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi Chúa Giêsu chia tay lại không buồn mà lại vui mừng và hy vọng. Ngài về trời là dấu chỉ chắc chắn rằng chúng ta cũng được về trời. Vui chứ không buồn. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3) Chúa Giêsu về trời, nơi Ngài đã xuất phát, Thánh Vịnh gia mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài.”
Nhưng cuộc sống không êm đềm như thảm lụa, nên chúng ta luôn phải tiếp tục động viên nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:8-9) Sự khôn ngoan cần thiết trong mọi hoàn cảnh, cả xã hội và tâm linh. Sự khôn ngoan đó không như khôn ngoan bình thường, mà đặc biệt hơn, đó chính là Chúa Thánh Thần.
Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em THẦN KHÍ KHÔN NGOAN để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người SOI LÒNG MỞ TRÍ cho anh em thấy rõ, đâu là NIỀM HY VỌNG anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là GIA NGHIỆP VINH QUANG PHONG PHÚ anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là SỨC MẠNH TOÀN NĂNG đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1:17-20)
Nhờ khôn ngoan, chúng ta đón nhận nhiều điều quý giá khác từ Thiên Chúa. Thật tuyệt vời! Thánh Phaolô kết luận: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1:21-23)
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ tọa thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.” (Rm 12:6-8) Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh và trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô. Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng hợp lại để phát triển Nhiệm Thể Thánh.
Thánh Phaolô nói thêm về phong cách vào đời: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.” (Rm 12:9-13) Được vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta, và Thiên Chúa cũng vui mừng vì Ngài được tôn vinh nơi chính mỗi chúng ta.
Loan báo Tin Mừng không chỉ là lời căn dặn của “người ra đi” mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Và Ngài thẳng thắn nói: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16:16) Đó là hệ lụy tất yếu và công bằng.
Chúa Giêsu xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khỏe.” (Mc 16:17-18) Đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm mà Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm, người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được hai hoặc ba tặng phẩm, cũng như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng dù nhiều hay ít cũng chỉ là để làm sáng danh Thiên Chúa, chứ không phải để cậy mình hoặc tìm tư lợi. Đức tin rất quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người.
Thánh sử Máccô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16:19-20) Chúa Giêsu về trời thì các ông vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô với ba sự kiện: Chết trên Thập Giá, phục sinh và lên trời. Và ngày nay mỗi tín nhân cũng phải hành động như vậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn kiên trì lữ hành và hướng tâm lên trời, cố gắng hoàn thiện theo ý Ngài. Xin Đức Maria và Đức Giuse đồng hành và hướng dẫn chúng con đi đúng hướng tới Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Cha André Sève, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Un rendez-vous d'amour” (Một cuộc hẹn hò tình LênTrời ABC-492
Cha André Sève, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Un rendez-vous d'amour” (Một cuộc hẹn hò tình yêu), có kể lại rằng: trong một lần trò chuyện, một linh mục Chính thống đã nhận xét với cha là người Công giáo ít quan tâm cách thiêng liêng tới mầu nhiệm Lên trời: “Quý vị biến nó thành một ngày lễ, nhưng hình như chẳng mấy để ý tới khía cạnh tôn giáo của nó. Đối với chúng tôi, người Chính thống, đây là một lễ được hết sức yêu mến, được mãnh liệt cảm nghiệm” - “Vì sao vậy?” - “Vì đó là lý do cuối cùng của việc Đức Giê-su đến trên trần gian: Thiên Chúa trở nên con người để con người được thành Thiên Chúa. Vào lúc Thăng thiên, nhân tính viên mãn của Đức Giê-su, kết hợp với thần tính Người, được nâng lên trời đồng thời Người cũng nâng chúng ta lên tới Thiên Chúa” - “Người ra đi, nhưng chúng ta vẫn kết hợp với Người mà!” - “Dĩ nhiên rồi! Kết hợp hơn bao giờ hết. Đây là một mầu nhiệm khiếm diện-hiện diện”.
Thấy Đức Giê-Su Có Mặt Trong Sự Vắng Mặt
Khi cố gắng tưởng tượng Đức Giê-su rời chúng ta bằng cách bay lên mây trời, so sánh việc kính nhớ Người ra đi hôm nay như việc đưa tiễn một thân nhân Việt kiều về lại Mỹ, là chúng ta giết chết mầu nhiệm Thăng thiên; chúng ta biến nó thành một sự khiếm diện đang lúc đó là một mầu nhiệm hiện diện đầy hiệu quả. Mác-cô giúp chúng ta cảm nhận sâu xa điều này bằng cách thẳng thừng đặt cận kề nhiều chuyện trái ngược nhau: “Chúa Giê-su được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với họ”.Mát-thêu chỉ nói đến hiện diện, đó là tiếng cuối cùng của Đức Giê-su trên trần gian: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Phần Lu-ca thì nêu bật sự khiếm diện: “Người rời khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc 24,51). Ông còn nhấn mạnh điều này hơn nữa trong sách Công vụ: “Người lên trời ngay trước mắt các ông và có đám mây che khuất Người khỏi mắt các ông” (Cv 1,9). Nhưng trong Tin Mừng của mình, Lu-ca có đưa ra nhận xét lạ lùng này: “Các ông trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,52). Hoan hỷ vì Đức Giê-su bị cất đi khỏi họ sao? Đây là cái nháy mắt đầy ý nghĩa: “Coi chừng! Kiểu vắng mặt này sắp trở thành một kiểu có mặt sâu xa hơn đấy”. Vì thế, trong Công vụ, hai thiên thần (hiểu ngầm: Thiên Chúa) lay tỉnh các môn đệ đang nghếch mũi lên không trung: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11).
Như thế sự vắng mặt hữu hình của Đức Giê-su không cản trở việc Người tiếp tục hiện diện và hoạt động bên các Ki-tô hữu. Ki-tô giáo sống còn chính là nhờ Đức Giê-su đang sống và hoạt động qua Thánh Thần của Người. Người không bị đưa về trời theo kiểu Kha-nốc hay Ê-li-a. Được tôn vinh trên trời đối với Người chẳng phải là làm một cuộc đi xa, nhưng là đến gần nhân loại. Phục sinh và lên trời là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Từ đây, Người là Thượng Tế cầu bàu cho ta trên trời (x. Hr 7,25), và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại: “Một khi Tôi được nâng lên khỏi đất, Tôi sẽ lôi kéo mọi người đến cùng tôi” (Ga 12,32). “Ta ra đi nghĩa là Ta sẽ đến. Ta vắng mặt chính là để ở cùng”
Vắng mặt-có mặt! Tìm kiếm Đức Giê-su trên cõi trời-làm việc với Người dưới trần gian! Nỗ lực đức tin đòi hỏi nơi ta, chính là hợp nhất hai mối quan hệ xem ra rất khác biệt với Đức Giê-su như thế.
Tìm Kiếm Đức Giê-Su Trên Cõi Trời
Vâng, Đức Giê-su đang “ngự bên hữu Chúa Cha”. Điều đó muốn nói là “trong vinh quang Thiên Chúa”, chia sẻ quyền năng với Thiên Chúa, và ta có thể mơ tưởng, có quyền mơ tưởng, có quyền “ngước mắt lên trời”. Đức Giê-su phục sinh vẫn là một con người, một trong chúng ta. Nay Người lên trời tức là có một con người trong nhân loại đã đi vào vinh quang Thiên Chúa! Mừng lễ Thăng Thiên là mừng ngày nhân vật mang tên Giê-su đi vào chỗ sâu thẳm nhất của thế giới thần linh, với thân xác đã được thần hóa của mình. Và cùng với Người sẽ là tất cả chúng ta, nếu chúng ta tin vào sự hợp nhất của cả nhân loại trong Đức Giê-su-Ki-tô. “Ngài lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì Ngài là Đầu và là Thủ lãnh chúng con, nên Ngài đã lên trước, để chúng con là những chi thể của Ngài vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo” (Bài Tiền tụng lễ Thăng thiên). Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Vậy làm sao cuộc sống chúng ta lại chẳng được thu hút bởi cuộc sống trên trời ấy của Đức Giê-su, Đấng ngày qua ngày thúc đẩy chúng ta “gắn chặt nỗi ao ước của mình, như kiểu nói tuyệt diệu của thánh Lê-ô giáo hoàng, vào nơi mà cái nhìn không vươn tới được”.
Thế nhưng, thay vì gắn chặt nỗi ao ước của mình vào cõi vô hình đó, bằng một thái độ can đảm sống đức tin, chấp nhận mọi thiệt thòi và mọi gian khổ để hiên ngang làm ngôn sứ, thẳng thắn tố cáo những vi phạm nhân quyền nhan nhản trước mắt, lắm Ki-tô hữu, trong đó không thiếu các chủ chăn, đang can tâm quỵ lụy quyền lực hay ngậm miệng im tiếng (rồi tự cho đó là khôn ngoan!?) để “được việc”, để “an thân”, để mong thế gian bố thí chút tự do và lợi quyền. Như thế làm sao chứng tỏ cho loài người thấy Ki-tô hữu chúng ta luôn “tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Giê-su đang ngự bên hữu Thiên Chúa”? Đang khi ấy không thiếu những con người ngoài đức tin lại anh dũng đương đầu với gian khổ, tù đày và bắt bớ để làm chứng cho những giá trị đích thực.
Làm Việc Với Đức Giê-Su Dưới Trần Gian
Suốt cuộc sống tại thế của Đức Giê-su, lắm kẻ đã thấy, đã nghe, đã động tới Người. Nhưng được bao nhiêu kết quả? Không hiếm kẻ đã sinh nghi về mầu nhiệm của Người dù đã dệt những quan hệ với Người. Kể cả các Tông đồ và môn đệ. Phản ứng của họ trong ngày Người tử nạn đủ cho thấy rõ. Nhưng khi có vẻ “ra đi” vào ngày Thăng thiên, Người trái lại trở thành Đấng sẽ hiện diện đối với bất cứ ai mở rộng cuộc sống cho Người. Chính vì thế thánh Lu-ca đã có thể nói: “Người được cất đi và điều này khiến các môn đệ lòng đầy hoan hỷ!” Họ là những kẻ đầu tiên kinh nghiệm về kiểu hiện diện mới. Thay vì mất Người, họ được cái lợi là từ nay có thể sống với Người trong một sự mật thiết về tư tưởng và hành động, sự mật thiết mà người ta cảm thấy rất rõ khi đọc sách Công vụ: “Thầy ở cùng anh em”. Dĩ nhiên mọi chuyện chẳng phải dễ dàng trôi chảy. Vẫn còn một khó khăn rất lớn, đó là phải đi từ kiểu nắm bắt, đụng chạm khuôn mặt và giọng nói, sang lối tiếp cận cách vô hình của đức tin. Ở đây thánh Lê-ô lại có lời dạy bảo: “Đức tin đã được mời gọi chạm tới Con độc nhất, bình đẳng với Đấng đã sinh ra Người, không phải bằng bàn tay xác thịt nhưng bằng trí tuệ thiêng liêng”.
Niềm tin “có Chúa cùng hoạt động” với chúng ta như thế sẽ thúc đẩy chúng ta “nhân danh Người mà trừ được quỷ”, những thứ quỷ không mang bộ mặt đen đủi, ghê tởm như trong các hình tượng tranh ảnh, nhưng có những dáng dấp lôi cuốn: chủ nghĩa vô thần, não trạng duy vật, khuynh hướng hưởng thụ, thói tìm kiếm hư vinh, lợi lộc và thành công trước mắt... “sẽ nói được những tiếng mới lạ”, những tiếng nói không a dua với quyền lực, chẳng làm công cụ cho thế gian, không tô son trát phấn cho ách độc tài, chẳng biện minh cho thể chế áp bức, nhưng là đề cao các giá trị thiêng liêng, bênh vực các nhân quyền cơ bản, cổ võ tinh thần tự do đích thực và cương quyết đòi cho Thiên Chúa lẫn Tin Mừng được lên tiếng trong xã hội... “sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao”, nghĩa là có thể bị lôi tới trước chỗ thẩm vấn, trước tòa án trần đời, bị bôi nhọ xuyên tạc, hay thậm chí bị những anh em đã tôn quyền lực trần thế làm “ông chủ” chê là quá khích, nông nổi, thế mà vẫn bình thản bất khuất, hiên ngang sống thẳng nói thật vì Tin Mừng!
Việc Chúa Giêsu bị bắt giữ, bị đánh đòn, vác thập giá, bị đóng đinh một cách tàn nhẫn và chết LênTrời ABC-493
Việc Chúa Giêsu bị bắt giữ, bị đánh đòn, vác thập giá, bị đóng đinh một cách tàn nhẫn và chết nhục nhã trên thập giá là một trải nghiệm cay đắng hầu như không thể chịu nổi và cũng không thể hiểu nổi đối với các môn đệ của Chúa Giêsu. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nhận một sự mất phương hướng sâu sắc; nó phá hủy chỉ trong vài giờ những hy vọng và ước mơ lớn lao nhất trong cuộc đời mà họ tất cả đều ấp ủ trong lòng. Họ đã mất đi một người mà họ yêu quý và ngưỡng mộ trong một cuộc hành quyết tàn bạo. Thầy Giêsu của họ đã chết, đã được chôn cất trong mộ đá niêm phong (Mt 27: 62- 66). Họ đã tận mắt chứng kiến mọi việc đó (Mt 27: 57-61). Thế là hết! Mọi giấc mơ huy hoàng lung linh vốn vẫn còn là hiện thực trong cuộc rước Thầy vào Thành Thánh Giêrusalem dăm ngày trước thì hôm nay đã lung lay và sụp đổ tan tành trong u uất!
Thế nhưng điều kinh ngạc lại đã xẩy ra, mà còn vô cùng kinh ngạc hơn những phép lạ mà Thầy Giêsu quyền năng đã từng thực hiện khi Ngài còn sống với họ: họ tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ vào Chúa Giêsu còn sống đến với họ (Mt 28: 9). Không có gì trong lịch sử dân tộc Do Thái hoặc đức tin Do Thái giáo của họ, từ các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacóp, các thủ lãnh tầm cỡ như Môsê, hoặc các tiên tri vĩ đại như Êlia, Êlidê, Isaia…đã chuẩn bị cho họ những gì đang xảy ra. Thật ra, họ, và cả các tổ phụ, các thủ lãnh, các tiên tri đã không hiểu hết, mà cũng không thể hiểu hết những gì đã được Sách Thánh nói về việc này và mường tượng ra được những gì sẽ xẩy ra một cách cụ thể như bài đọc thứ nhất trích sách Công vụ Tông đồ mô tả: “Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (CVTĐ 1: 3).
Hôm nay Thánh Mátthêu tường thuật cuộc gặp gỡ cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài và những lời cuối cùng của Chúa Giêsu khép lại Tin mừng. Các Tông đồ được “bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria” (Mt 28: 1) kể lại lời Thầy: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10), các ông lại tuân theo, dù không biết mình sẽ gặp điều gì khác nữa. Galilê là nơi bắt đầu tất cả câu chuyện và dường như Galilê sẽ lại đánh dấu một khởi đầu mới. Thật khó để tưởng tượng hành trình sắp tới của họ như thế nào, nhưng đó hẳn là một chuyến đi đáng nhớ. Đó là chuyến hành trình cuối cùng, với đầy những cuộc trò chuyện dài tập trung tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện đã xảy ra, khiến tâm trí khó hiểu, và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Khoảnh khắc cuối cùng này được ở cùng với Chúa Giêsu sẽ là một thời điểm quan trọng đối với các Tông đồ. Họ đã mất tất cả mọi thứ trong những sự kiện thảm khốc xảy ra trước đó, và họ đang trên đường khám phá xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các ông đến” (Mt 28: 16).
Gặp lại Chúa Giêsu tại Galilê, phản ứng của các môn đệ có phần khác xưa, không còn là cung cách ứng xử đối với một con người phàm trần: khi nhìn thấy Chúa Giêsu, họ bái thờ Ngài. Chúa Giêsu “đã trỗi dậy từ cõi chết” (Mt 28: 7), Ngài đã Phục Sinh, dù vẫn là con người nhưng toàn bộ con người của Ngài, kể cả thân xác, không còn lệ thuộc “cái thân phải hư nát này” mà đã “mặc lấy sự bất tử” (1 Cr 15: 54). Thầy Giêsu của họ đã chết thật, thế mà bây giờ họ lại thấy Thầy hiện diện rõ ràng ở đây! Họ bán tín bán nghi: “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28: 7).
Việc tôn thờ không đi đôi với sự nghi ngờ. Trên thực tế, nhiều người cảm thấy nghi ngờ, nhưng họ vẫn không thừa nhận điều đó. Ở đây sự hoài nghi của mấy môn đệ không có nghĩa là không tin mà chỉ là chưa nhận thức đủ rõ ràng về một tình huống phát sinh từ một hoàn cảnh bất thường, thậm chí không thể có thật được. Sự hiểu biết của các môn đệ về thế giới và về cách thế mà Thiên Chúa đã thực hiện công trình Cứu độ của Ngài không như những gì họ vẫn tưởng nghĩ. Chúng ta cần phải thừa nhận nhiều khi chính mình cũng nghi ngờ nhiều điều Giáo Hội giảng dạy ngày nay, khi tiếp bước các Tông Đồ theo lệnh truyển của Chúa Kitô Phục Sinh. Vì thế, tất cả chúng ta, giống như các môn đệ xưa, đều phải nỗ lực để hiểu được công việc lạ lùng của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, và cần quyết tâm cố gắng, bằng mọi cách có thể, tìm hiểu càng sâu sắc càng tốt về Chúa Kitô tử nạn và sống lại, qua các giáo huấn của Giáo Hội, trong tâm tình tĩnh nguyện suy ngẫm nhằm đạt tới mức chiêm niệm, như Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đưa chúng ta ra khỏi sự bất an và thiếu hiểu biết đó: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Ngài. Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Ngài kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Ngài đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực” (Ep 1: 17-19). Nhờ sức mạnh toàn năng đó, chúng ta có thể tập trung vào Chúa Kitô vinh quang, là Đấng đã được “tôn lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1: 21-22).
“Được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18), chính Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh đã truyền cho các Tông đồ, và cũng là cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28: 19-20).
Giờ đây những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài trở thành một lệnh truyền mà chúng ta thường nghe, nhất là trong Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, tại các nhà thờ, các buổi hội thảo truyền giáo…“Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Trong tất cả các tác giả sách Tin mừng, Thánh Mátthêu nói nhiều đến việc dạy bảo những người trở thành môn đệ của Chúa Giêsu làm theo mọi điều Ngài đã truyền. Điều này tuân theo chỉ dẫn của chính Chúa Giêsu: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5: 17-19) và “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21), trong đó Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải làm theo những gì Ngài dạy chứ không chỉ đơn thuần là nói suông. Hành động của chúng ta phản ánh niềm tin của chúng ta. Những lời tuyên bố về đức tin rất quan trọng trong cộng đoàn, nhưng đức tin không có hành động thích hợp thì “như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7: 26-27).
Thánh Mátthêu kết thúc sách Tin mừng của mình với câu nói có lẽ là một trong những câu nói an ủi nhất trong Kinh thánh: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20). Tin mừng mở đầu bằng một lời khẳng định tương tự: “Tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:23). Lời này nhắc chúng ta nhớ đến con người của Chúa Giêsu trong cuộc sống trần gian của Ngài – Đấng đã chia sẻ không gian, thời gian, lịch sử với con người, sống và hiện diện với họ, đồng thời cho con người thấy Thiên Chúa là như thế nào. Giờ đây, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu, với tư cách là Chúa của tất cả, hứa sẽ ở với chúng ta, với Hội thánh, luôn mãi, cho đến khi mọi sự hoàn tất. Sự hiện diện liên tục, lâu dài này của Chúa Giêsu là một nguồn an ủi sâu xa cho tất cả các môn đệ của Ngài.
Cốt lõi đời sống của mỗi môn đệ Chúa Kitô là sống theo những lời dạy của Chúa Giêsu với tư cách là nhân chứng cho Ngài trong môi trường sống hàng ngày của họ. Và nền tảng sâu xa nhất của đời sống này chính là lời Chúa Giêsu hứa ở trên: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Lời hứa này hướng các môn đệ Chúa Kitô tới một tương lai còn nhiều việc cần làm. Nói cách khác, câu chuyện về “Chúa Giêsu lịch sử” của Mátthêu chưa kết thúc ở đây mà hướng chúng ta đến một kỷ nguyên mới trong sứ mệnh phổ quát của Giáo hội, một Giáo hội thực hiện các nỗ lực của mình dưới sự bảo vệ của Chúa Kitô phục sinh, một “Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô, là sự viên mãn của Ngài, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:23).
Trước khi trả lời câu hỏi trên, xin mời bạn đọc đoạn trích từ văn kiện Hiến Chế Tín Lý Về Giáo LênTrời ABC-494
Trước khi trả lời câu hỏi trên, xin mời bạn đọc đoạn trích từ văn kiện Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại… [Và] mọi Kitô Hữu được mời gọi góp phần trực tiếp hơn và bằng nhiều cách vào công việc tông đồ của hàng giáo phẩm [trong công việc] rao giảng Phúc âm” (# 33). Hy vọng qua đoạn trích này, mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ ý thức hơn về bổn phận và trách nhiệm về sứ vụ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.
Về câu hỏi trên, để có thể loan báo Tin Mừng cho có hiệu quả cao, tôi nghĩ, bạn và tôi hãy chú ý đến ba nhân đức sau đây:
Thứ nhất là SỐNG THẬT THÀ.
- Trong đời sống hàng ngày, trong mối tương quan với tha nhân, bạn và tôi hãy cố gắng ăn nói thật thà "Hễ có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5:37). Không thêm điều đặt chuyện, không ăn gian nói dối.
- Đối xử với những người trong gia đình, với bạn bè, với đồng nghiệp, với anh chị em trong cộng đoàn dòng tu ... một cách chân tình, không sống giả hình, giả bộ, không làm ra vẻ đạo đức giả, đừng đóng kịch, "bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao."
- Đã hứa với ai cái gì, thì phải giữ lời, không biện hộ, không viện cớ này cớ kia để thoái thác.
- Phải có tinh thần phục thiện, tức là khi làm sai, khi phạm lỗi, thì phải nhận lỗi, không bào chữa, không kiếm cách đổ tội cho người khác.
Chúa Giê-su đã phán: "Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14:6). Khi chúng mình NÓI THẬT, SỐNG THẬT và có tinh thần PHỤC THIỆN, là khi đó bạn và tôi đang loan báo Tin Mừng Phục Sinh đấy!
Thứ hai là SỐNG HIỀN LÀNH & KHIÊM NHƯỜNG.
- Sống vui vẻ, tươi cười, hòa đồng và cởi mở với những người chung quanh.
- Không khoe khoang, không nổ, không lên mặt dạy đời, không chê bai ai, không phê bình chỉ trích ...
- Không tranh chấp, không bon chen, và luôn tâm niệm trong lòng: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba."
- Không ỷ thế, không lạm quyền, không hống hách, không bắt nạt hay ức hiếp những người thấp cổ bé miệng hay dưới quyền của mình.
- Trong tư tưởng, trong suy nghĩ, không khinh khi, không coi thường không kỳ thị bất cứ ai.
- Khi có ai khen tặng, hay khi họ tán dương con trai mình ngoan, con gái mình giỏi, cháu nội của mình thông minh xuất chúng...xin hãy khiêm tốn nhỏ nhẹ nói với họ: “Cám ơn ông/bà/anh/chị/em...tạ ơn Chúa, xin ông/bà/anh/chị/em cầu nguyện cho cháu với nhé!"
Chúa Giê-su là Đấng hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29). Khi tôi và bạn sống hiền lành, khiêm nhường, là lúc đó Tin Mừng đã được loan báo tới những người mà chúng mình gặp gỡ.
Thứ ba là BIẾT QUAN TÂM tới những người chung quanh.
- Nghe tin một người bạn làm chung trong hãng xưởng, trong công ty, trong văn phòng, trong tiệm tóc, tiệm nail...bị tai nạn, hay con của họ phải đi bệnh viện, hoặc họ bị mất một người thân yêu...thì hãy gọi phone để động viên, khích lệ, an ủi và nhớ làm một việc thật cụ thể nào đó, ví dụ như dâng lễ cầu nguyện cho họ, nấu một món ăn, gửi một món quà...
- Đứng giữ cửa, nhường cho một người già lão, một người tàn tật đi vào trước mình.
- Cho một người bạn làm cùng hãng, cùng tiệm, cùng trường, cùng lớp...đi quá giang xe đi làm.
- Giúp thông dịch cho người không biết hay không giỏi tiếng Anh trong việc xin việc làm, xin trợ cấp, xin housing.
- Rộng rãi, quảng đại, vui vẻ làm việc bác ái, bố thí, và chia sẻ cho những người kém may mắn.
Tôi tin chắc rằng, khi bạn và tôi cũng như tất cả mọi Kitô Hữu sống THẬT THÀ, KHIÊM NHƯỜNG & BIẾT QUAN T M tới tha nhân, thì người ta sẽ tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, nhờ vậy họ sẽ được đón nhận ơn cứu độ.
Hôm nay cũng là ngày Hiền Mẫu, xin Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, qua bàn tay nhân ái của Mẹ Maria, chúc lành, ban bình an, và sức khỏe cho tất cả các bà mẹ. Xin cho các bà mẹ nhận được thật nhiều niềm vui và cảm nhận được tình yêu của con cái dành cho các bà, không phải chỉ có trong ngày Lễ Hiền Mẫu nhưng trong mọi ngày của các bà. Happy Mother’s Day!
Suy niệm ngày Chúa về trời, thánh Augustine đã nói: “Hôm nay Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta LênTrời ABC-495
Suy niệm ngày Chúa về trời, thánh Augustine đã nói: “Hôm nay Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta về trời, chúng ta hãy hướng tâm hồn lên trời với Ngài.” Giáo Hội đã dùng tư tưởng này để khuyến khích các tín hữu cầu xin với Người trong ngắm thứ Hai mùa Mừng: “Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời.”
Theo Eusebius, lễ Chúa Lên Trời được mừng kính từ thế kỷ thứ 4. Thánh Augustine cũng cho rằng, nguyên thủy lễ Chúa về trời bắt nguồn từ thời các Tông Đồ, và sự kính nhớ này mang tính hoàn vũ. Lễ được thánh Gioan Chrysostom, thánh Gregory Nyssa, và trong Constitution of the Apostles ghi lại. Theo Cuộc Hành Hương của Aetheria (the Pilgrimage of Aetheria), đêm canh thức và thánh lễ được cử hành tại thánh đường xây trùm hang Bethlehem, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra. Các bài thánh ca về lễ này cũng được tìm thấy trong Georgian Chantbook of Jerusalem, với những sáng tác thuộc thế kỷ thứ 5.
Ascensio hay Ascensa trong tiếng Latin có nghĩa là Đức Kitô đã được đưa lên trời bằng quyền năng của chính Ngài. Trong trích đoạn Tông Đồ Công Vụ nói về biến cố Chúa Giêsu lên trời, một câu trong đó có thể làm chúng ta phải suy nghĩ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (1:11).
Sao còn đứng đó nhìn trời? Câu hỏi này đã nhắc tôi nhớ lại hình ảnh mà tôi đã có đối với thầy tôi lúc chúng tôi từ giã nhau trước khi tôi về lại Hoa Kỳ năm 1996. Lần họp mặt ấy cũng là lần cuối sau 21 năm cha con xa cách do biến cố Tháng Tư năm 1975. Trong hơn một tuần lễ cha con bên nhau biết bao niềm vui, nỗi buồn, và kỷ niệm. Mẹ và các em tôi đều thấy thầy tôi thời gian ấy tuy đang đau yếu và mệt mã nhưng khi tôi về thăm, ông đã khỏe trở lại ăn uống bình thường và tươi cười vui vẻ. Nhưng trước ngày tôi từ giã ông, tình trạng sức khỏe của ông bắt đầu thay đổi. Trong lúc cha con chia tay, tôi đã ôm hôn ông, và nhìn vào cặp mắt u buồn của ông. Ông không khóc, nhưng tôi thấy có những dòng lệ trong khóe mắt của ông. Và khi nhìn vào đôi mắt ấy, linh tính báo cho tôi biết đây là lần cuốn cha con tôi gặp nhau trên dương thế. Tôi đã mang tâm sự này về lại Hoa Kỳ, và chỉ sau đó ít tháng ông đã từ giã cõi đời!
Giây phút chia ly thì ai mà chả buồn? Hình ảnh chia ly của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài cũng không khác. Trước đó, thầy trò cũng có những lời như trăn trối, căn dặn và hứa hẹn. Khi Thầy được cất lên trời trong tư thế từ biệt, các ông đã bịn rịn, quyến luyến nhìn theo. Thánh Kinh ghi lại: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói : “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời?” (Tông Đồ Công Vụ 1:9-11).
Tuy Thánh Kinh không nói rõ phản ứng của các môn đệ trong giây phút Thầy trò từ biệt ấy, nhưng đã cho biết các ông làm gì khi bóng Thầy khuất xa khỏi tầm nhìn: “Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ôliu trở về Giêrusalem. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (x. 1:12-14). Tâm trạng ngổn ngang có pha chút sợ hãi người Do Thái. Thực tế, tất cả các ông đều đã trốn chạy sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh (Gioan 20:19), chính vì vậy, trong 40 ngày sau khi phục sinh, Ngài đã chứng tỏ cho các ông biết Ngài đã sống lại, thêm sức mạnh, hứa ban Chúa Thánh Thần, và khích lệ các ông về sứ mạng được ủy thác. Theo Tiến Sĩ Corine Williams, “Sau khi sống lại, Chúa Giêsu có thể hiện ra với vài người ngay trong ngày hôm đó rồi trở về với Chúa Cha. Tuy nhiên, Ngài đã không làm như vậy… Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta, cho Giáo Hội của Ngài là lý do quyết định của Ngài ở lại 40 ngày sau khi phục sinh.” Có ít nhất ba lý được tìm thấy trong Tông Đồ Công Vụ 1:3.
1.Dạy dỗ các môn đệ: Trong thời gian này, Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn các môn đệ về Nước Trời và sứ mạng mà các ông sẽ đảm trách.
2.Trao phó sứ mạng cho các môn đệ: Chúa Giêsu lệnh truyền cho các môn đệ hãy đi và rao truyền Tin Mừng khắp thế giới, rửa tội muôn dân trong danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Marcô 16: 15-16).
3.Chuẩn bị tinh thần các ông: Chúa Giêsu dùng thời gian để chuẩn bị các Tông Đồ để sẵn sàng được sai đi, khích lệ họ tiếp tục tin và mong chờ Chúa Thánh Thần đến: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các con, để các con trở nên nhân chứng của Thầy ở Giêrusalem, ở Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất” (Gioan 14: 26; 16:12-13).
Ngoài ra, một lý do nữa đó là Chúa Giêsu muốn dành tình yêu cho Phêrô kẻ đã chối bỏ Ngài. Đối với Phêrô, Ngài biết ông sau khi chối Ngài đã ăn năn, thống hối. Do đó, Ngài muốn dành thời gian này để củng cố niềm tin của ông, cho ông biết Ngài đã tha tội cho ông. Hơn thế nữa, Ngài còn muốn đặt ông làm thủ lãnh các Tông Đồ: “Hãy chăn dắt các chiên Thầy” (Gioan 21:15-19). Và sau cùng là tình yêu Ngài dành cho chúng ta và Giáo Hội của Ngài.
“Sao còn đứng đó nhìn trời?” (Tông Đồ Công Vụ 1:11)
Chúa không muốn chúng ta bày tỏ tình cảm với Ngài bằng cái nhìn tiêu cực, nhưng Ngài muốn qua việc Ngài về trời như một động lực thúc đẩy chúng ta hướng về trời, ao ước nước trời bằng một lòng mến thiết tha, và bằng tinh thần tông đồ. Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta. Nhưng bầu trời cao vút, bao la, thăm thẳm là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng. Trái đất còn bề bộn bao việc phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn hướng lòng lên trời cao. Hãy tìm những giây phút ngước nhìn lên… ngắm bầu trời để giúp ta biết sống như thế nào trên mặt đất.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay bao gồm hai điều: Thứ nhất là viêc Chúa trao ban sứ mạng cho LênTrời ABC-496
Trình thuật Tin Mừng hôm nay bao gồm hai điều: Thứ nhất là viêc Chúa trao ban sứ mạng cho các môn đệ. Trước khi đi về cùng Cha, Người trao năng quyền cho các môn đệ để họ tiếp tục sứ mạng của Người cho muôn dân. Người không để họ mồ côi, nhưng ở cùng với họ luôn mãi. Nói khác đi, với sự hiện diện mới, không còn bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian; Người hoạt động trong các kẻ tin, đặc biệt nơi các bà mẹ.
Khi nói đến việc đi về cùng Cha, chúng ta bước sang ý tưởng thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay, đó là việc Chúa được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa.
Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay trong giờ chết. Việc được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin.
Vì thế, điều mà tác giả của bài Tin Mừng muốn truyền đạt cho chúng ta hôm nay là Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ của Người. Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ. Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ ở trần thế, Đức Giê-su đã không ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay đã được tôn vinh, Người hiện diện mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người.
Chúng ta mừng sự thay đổi, cách hiện diện mới của Chúa.Tuy rằng chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta được liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.” Và ở đâu có tình yêu thương thì ở đấy có Thiên Chúa. Tình của Thiên Chúa là một thứ tình hiến dâng, hiến dâng đến mức hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Khi nói đến tình yêu đến độ hiến mạng sống mình cho người khác là lúc chúng ta nghĩ đến sự hy sinh của các người mẹ mà chúng ta tôn vinh trong ngày Mother’s Day hôm nay. Tình yêu và sư sống là những hạt giống quí báu nhất mà Thiên Chúa đã trao ban để các ngài gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Muốn cho các hạt giống này triển nở thì chính mẹ phải đón nhận tình yêu và sự sống như quà tặng mà Thiên Chúa ban cho mình trước.
Khi nói mẹ là sự sống thì tôi nhớ lại đoản truyện ngắn vô cùng thương tâm mà tôi đã đọc được trong nguyệt san ‘Reader’s Digest’. Đó là một sự kiện có thật đã xẩy ra tại Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Trong cuộc di tản dân chúng khỏi vùng hỏa tuyến tại miền Trung, phái đoàn y tế Hoa kỳ đã chứng kiến cảnh một cháu bé khoảng chừng 9 tháng đang cố gắng nuốt những giọt sữa hòa chung với dòng máu trên thân xác tuy đã chết nhưng vẫn còn hơi ấm của mẹ em.
Lại một sự hy sinh khác. Vào năm 1995, sau vụ động đất tại Thành Phố Kô-bê, bên Nhật, người ta đào bới và khám phá dưới đống gạch vụn của một tòa nhà đã đổ nát là hai mẹ con. Người mẹ, tuy còn sống nhưng đã bất tỉnh; còn đứa cháu gái đang cố gắng ngậm chặt ngón tay của người mẹ và cố hút nguồn sống bằng máu phát xuất từ thân thể của mẹ cháu.
Sau khi phục hồi sức khỏe cho hai mẹ con. Người ta nghe bà mẹ kể lại rằng. Tuy bị chôn vùi ở dưới đống gạch đổ nát của tòa cao ốc. Nhưng hai mẹ con chúng tôi quả thật đã gặp vận may. Có một cái đà thay vì đổ suống đập vào chúng tôi thì lại bị ngăn lại bởi bức tường vụn và trở thành vật chắn giúp hai mẹ con chúng tôi không bị đè chết. Sau đó, đứa con vài tháng tuổi của chị đói quá khóc thét lên. Bà mẹ không biết phải làm gì! Dòng sữa thì khô quặn vì đã mất mấy ngày họ đâu có gì để ăn và để uống.
Bà mẹ mò mẫm trong bóng tối và tay bà đã chạm vào một vật sắc và nhọn. Với bản năng yêu thương của một người mẹ, bà không kịp suy nghĩ, lập tức dùng ngay vật nhọn đó cắt vào ngón tay của mình và đặt vào miệng cháu. Cứ thế mỗi lần con của bà khóc thét lên là một vết cắt của yêu thương được xuất phát từ thân thể của bà. Cứ thế cho đến khi bà ngất đi vì bất tỉnh và không hề biết những chuyện xẩy ra sau này.
Người ta hỏi bà là khi cắt da thịt mình để lấy máu thay sữa cho con, bà không sợ chết sao? Bà trả lời rằng với bản năng của người mẹ, tôi không có thời gian để suy nghĩ. Sự sống còn của con tôi là tất cả những gì mà tôi có thể làm được; cho dù giờ này biết làm thế rồi chết, tôi vẫn làm.
Anh chị em thân mến,
Tình mẹ thật cao cả. Ơn gọi làm mẹ thật thiêng liêng. Nó không chỉ là một chức năng mang tính thể lý hay sinh vật của người phụ nữ. Ngày nay người ta bàn nhiều về việc trao ban các thừa tác vụ trong Hội Thánh cho phụ nữ. Nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc phong chức cho các phụ nữ làm mẹ hay chưa?
Thật ra, mẹ không cần tôn phong. Mẹ là một Thiên chức mà Thiên Chúa ban tặng cho các người phụ nữ. Theo một nghĩa nào đó, chỉ có mẹ mới có quyền mang thai, nuôi dưỡng và thông ban sự sống cho con người ngay lúc còn trong bụng mẹ. Đó là sự ban tặng thiêng liêng của Thiên Chúa dành cho phụ nữ. Mẹ noi gương Đấng Tạo Hóa trong việc tạo nên những sinh vật mới và giúp chúng tồn tại. Vì cuộc sống là một món quà thiêng liêng từ Thiên Chúa cho nên khi người mẹ mang một cuộc sống mới vào thế giới này là lúc mẹ thực hiện phần vụ đáp trả lời mời gọi thiêng liêng nhất. Bất kỳ một người đàn ông nào, dù có muốn cũng không làm được việc này.
Sau đây là vài chia sẻ của các người mẹ gửi cho các con nhân ngày Mother’s day. Tâm tình của mẹ như thế này: “Mẹ không ngẫu nhiên hay tình cờ là mẹ của các con. Thật ra Mẹ và Ba cũng chẳng có kế hoạch cụ thể khi sinh ra các con. Người lập kế hoạch này là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là người cộng tác, thừa hành và đón nhận.
Quả thật, sau khi tạo dựng nên người phụ nữ, Thiên Chúa đã đặt tên cho bà là E-và, có nghĩa là “mẹ chúng sinh”. Qua việc đặt tên, Thiên Chúa muốn nhắn gửi cho bà biết rằng chính Thiên Chúa đã tạo nên tình mẫu tử, và Người cũng muốn bà và những người mẹ sau này cộng tác vào chương trình tạo dựng của Người bằng cách sinh hạ chúng sinh. Thật vậy, các con đã được Chúa chọn để ban cho mẹ. Các con nằm trong kế hoạch vẹn toàn của Thiên Chúa để ban cho mẹ. Mẹ chỉ biết xin vâng và đội ơn Thiên Chúa thay cho các con.”
Và có thêm một bà mẹ khác đã tâm sự rằng: “Sau khi thấy các người con của mẹ lớn khôn và trưởng thành. Mẹ đã thốt lên rằng Chính Chúa làm chứ không phải tôi. Chúa biết mọi sự và hiện diện khắp mọi nơi cho nên mọi điều Người làm là phần ích của con cái tôi. Thiên Chúa không hề sai lầm. Người binh vực và yêu thương các con cho nên tôi tin Chúa đã chọn tôi làm mẹ cho đàn con của mình hơn là tôi tin vào chính tôi nữa.”
Tâm tình của mẹ không bao giờ cạn. Thân xác và hình hài của mẹ có thể bị cất nhắc đi. Nhưng tâm tư của mẹ vẫn còn in thật rõ nét trong cuộc sống của các người con. Mẹ chính là nguồn suối tình yêu tuôn chảy không ngừng. Để đáp trả, chúng ta có một cách nói tuy đơn sơ nhưng diễn tả tất cả, đó là: Thưa mẹ, chúng con thật vinh dự khi có mẹ là mẹ chúng con. Chúng con tôn vinh và tri ân các người mẹ, không phải vì những gì mà mẹ đã làm cho bằng là mẹ của chúng con.
Vâng, mẹ là tất cả, là thế giới của chúng con. Nhờ mẹ mà chúng con nhận ra tình yêu lân tuất, tình yêu cao cả của Thiên Chúa, Đấng đã tín thác và đặt chúng con vào cung lòng mẹ để mẹ giữ gìn và chăm sóc. Xin dâng lời cảm tạ và tri ân. Mẹ mãi mãi là mẹ chúng con.
Happy Mother’s Day. Xin tôn vinh và dâng một nén hương trầm lên mẹ hôm nay và luôn mãi, Amen!
Mừng lễ Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình nhưng đã về trời, cùng lúc Hội Thánh nhấn LênTrời ABC-497
Mừng lễ Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình nhưng đã về trời, cùng lúc Hội Thánh nhấn mạnh đến ơn gọi truyền thông Lời Chúa, đến nay (2024), Hội Thánh đã trải qua 58 lần cử hành ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày Quốc tế Truyền thông đầu tiên là dịp lễ Chúa về trời 6.5.1967. Vậy có liên quan nào giữa ngày lễ Chúa về trời với sứ vụ truyền thông?
Bài đọc I là phần mở đầu sách Công vụ Tông đồ cho biết Chúa ban lệnh sai đi: "Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất".
Nội dung Tin Mừng là phần kết thúc Tin Mừng theo thánh Marcô cũng là lời căn dặn ngay trước lúc Chúa về trời: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật".
Cả hai đoạn Kinh Thánh đều quả quyết: "Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông". Hoặc: "Sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa".
Rõ ràng có một liên hệ thật lớn giữa biến cố thăng thiên và truyền thông. Đó là dù Chúa Giêsu về trời nhưng sứ mạng của Chúa nơi Hội Thánh không kết thúc. Chúa Giêsu kết thúc sứ mạng trần thế, nhưng mở ra cho các Kitô hữu sứ mạng thánh hóa loài người nơi trần thế. CHÚA VỀ TRỜI NHƯNG SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH VẪN Ở LẠI.
Đó là sứ mạng rao giảng Tin Mừng, sứ mạng loan báo ơn Chúa, nói về Chúa, về sự cứu độ của Chúa cho muôn người. Do sứ mạng cao cả này, Hội Thánh tiếp tục nhân danh Chúa truyền thông Lời Chúa khắp nơi trên toàn cầu.
Cử hành ngày Truyền thông, xét khía cạnh truyền giáo, Hội Thánh như muốn tuyên bố, bất cứ ai xưng mình là Kitô hữu, bất cứ ai biết mình là con của Hội Thánh, đều có bổn phận thông truyền Lời Chúa cho anh chị em ở tại bất cứ nơi nào mình hiện diện, mình được sai đến.
Các Kitô hữu cần nhớ đinh ninh, ngày Truyền thông không chỉ là ngày của người làm báo nhưng là ngày nhắc nhở các Kitô hữu về sứ mạng truyền thông Lời của Chúa Giêsu Kitô để lại.
Truyền thông Lời Chúa là đem lời chân lý đến với anh chị em. Người truyền thông Lời Chúa là người ý thức mình lãnh hội lời chân lý và có bổn phận phân phát lời ấy.
Trên thực tế, với chiếc điện thoại luôn ở bên, hầu như mỗi phút giây, ta đều tiếp xúc với truyền thông. Truyền thông gần gũi đến độ như cùng ta ăn, ngủ, làm việc, giải trí, gặp gỡ, tương quan...
Không chỉ tiếp xúc với truyền thông, không chỉ thụ nhận từ truyền thông, không chỉ biến nhiều phương tiện truyền thông trở thành vật "bất ly thân", thậm chí ta còn là chủ thể tạo ra truyền thông.
Một tin nhắn, một bình luận hay tương tác trên mạng xã hội, một dòng chữ trong thư điện tử..., đến một viđeo clip, một bản tin truyền hình, trên nhiều trang xã hội..., ta thực sự tích cực tham gia vào đại lộ truyền thông, tích cực hoạt động để truyền thông thêm thông dụng, thêm phổ biến...
Cho nên sứ điệp Lời Chúa của lễ Thăng thiên gắn với ngày đặc biệt về truyền thông mời gọi mọi người hãy cộng tác cùng Hội Thánh, làm cho những trang mạng truyền thông trở thành những trang mạng giàu ơn cứu độ.
Chỉ cần ít nhất một lần trong ngày, khi chúng ta lướt điện thoại - nào là những clip, những phim trên youtube, trên facebook, những lần tán gẫu trên ứng dụng nào đó, hoặc vào tiktok, zalo... mà ở đó chúng ta đều đặn tương tác, nghiền ngẫm, vui hay phẫn nộ với nó, like, bình luận, share nó... - hãy vào youtube hay facebook, hay web của các kênh Công giáo để trau dồi giáo lý, học hỏi Lời Chúa, để ngày càng thêm đức tin, thêm lòng mến với Chúa và Hội Thánh.
Ta cũng có thể phổ biến những kiến thức đức tin bằng cách đăng trên các trang của cá nhân mình một lời cầu nguyện, một hình ảnh có nội dung đức tin, hay chia sẻ những đường link Công giáo, những bài học về đức tin, đức ái... phù hợp với giáo huấn của Hội Thánh và của Tin Mừng Chúa Kitô...
Có thể ta chưa loan Tin Mừng, chưa nói về Chúa cho ai, thì hãy góp phần mình, làm cho những trang tin Công giáo sống động hơn, mạnh mẽ hơn.
Hãy nhớ lại hành vi làm truyền thông của mình, dù thật nhỏ nhặt, chỉ xoay quanh chiếc điện thoại, cái truyền hình, chiếc máy tính riêng... lại trở nên quan trọng vô cùng, nếu mỗi người đều ý thức và thực hành bằng cả lòng mến để xây dựng Nước Chúa trong khả năng, trong điều kiện của bản thân.
Hãy khắc ghi lệnh truyền "ra đi loan Tin Mừng", để ít nhất, trong bổn phận và khả năng bản thân, chúng ta cộng tác làm truyền thông nhằm mang lại sự sống, mang lại lợi ích cho chính hồn mình, cho đời sống đức tin của mình, và sau đó là của bao nhiêu anh chị em xung quanh.
Chúng ta hãy thử làm truyền thông Công giáo bằng cách ấy, để chỉ với hành động nhỏ của bản thân, lại có thể thêm một phần ảnh hưởng cho thế giới.
Hãy tưởng tượng, một người thì nhỏ, nhưng một ngàn người, cả một cộng đoàn cùng thực hiện theo cách ấy, để có thể chia sẻ cho nhau, dù chỉ một hình ảnh nào đó về Chúa, về giáo huấn của Hội Thánh, thì sức ảnh hưởng của nó sẽ vô cùng đáng kể, sẽ vô cùng to tát mà chúng ta khó có thể ngờ.
Chúa đang cần chúng ta. Hội Thánh đang cần từng người. Chúa đã về trời. NHƯNG SỨ MẠNG THÁNH HÓA NH N LOẠI MÃI Ở LẠI. TỪNG NGƯỜI HÃY CỘNG TÁC ĐỂ MẠNG LƯỚI THÁNH HÓA ẤY LUÔN VỮNG VÀNG, LUÔN TRIỂN NỞ.