“Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy. “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy” - Ðó là lời Chúa.
Mỗi Chúa nhật trong mùa Phục sinh, Phụng vụ Giáo Hội giới thiệu với chúng ta một khía cạnh PS 5-B151
Mỗi Chúa nhật trong mùa Phục sinh, Phụng vụ Giáo Hội giới thiệu với chúng ta một khía cạnh, có liên quan đến Đấng Phục sinh. Chúa nhật thứ nhất, Phụng vụ chứng minh với chúng ta: Đức Giêsu đã sống lại thật chứ không phải câu chuyện cổ tích. Người sống lại vì Người là Thiên Chúa quyền năng. Chúa nhật thứ hai, qua câu chuyện ông Tôma, Giáo Hội dạy chúng ta xác tín vào Đấng Phục sinh, mặc dù con mắt thể lý không nhìn thấy Người. Chúa nhật thứ ba, với lệnh truyền của Đấng Phục sinh cho các môn đệ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy trở thành chứng nhân của Đấng Phục sinh giữa đời. Chúa nhật thứ bốn, chúng ta suy tư về cuộc khổ nạn của Chúa như một mục tử hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Và, hôm nay là Chúa nhật thứ năm của mùa Phục sinh, Phụng vụ nhắc chúng ta: sức sống của Đấng Phục sinh như dòng chảy phong phú nơi mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn tín hữu. Dòng chảy ấy bắt nguồn từ Chúa Cha, thông qua Chúa Giêsu, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần và đến với các tín hữu, qua sự hiệp thông gắn bó với Chúa Giêsu Phục sinh, Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho và cành nho để diễn tả sức sống siêu nhiên nơi người tín hữu. Chúa Cha là người trồng nho, Chúa Giêsu là cây nho, người tín hữu là cành nho. Đây là một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu, giúp người nghe dễ lĩnh hội giáo lý cao siêu là sự hiệp thông với Chúa.
Nếu Chúa Giêsu là cây nho và người tín hữu là cành nho, thì như chúng ta thấy trong thực tế, có những cành xanh tươi tràn đầy nhựa sống, vừa có những cành héo úa cằn khô. Hình ảnh này muốn diễn tả đời sống người tín hữu. Thời nào cũng vậy, có những người đạo đức siêng năng, nhưng cũng có những người dửng dưng hờ hững. Người tín hữu không gắn bó với Chúa giống như cành khô, chỉ dùng làm củi. Trong khi đó, những tín hữu gắn bó, giống như cành nho gắn liền với thân, luôn an vui hạnh phúc, khi cầu nguyện họ được Chúa nhận lời. Hình ảnh gắn bó ấy được Chúa diễn tả qua lời mời gọi: “Hãy ở lại trong Thày”. Động từ “ở lại” trong Tin Mừng Thánh Gioan mang ý nghĩa đặc biệt. “Ở lại” là gắn bó, là hiệp thông, là yêu mến, là chia sẻ, là đồng cảm, là trung thành. Chúa Giêsu đã nói đến việc Người ở lại trong Chúa Cha, để mời gọi chúng ta ở lại trong Người. Đó là sự gắn kết thân mật đến nỗi nên một với Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định: Tôi và Cha Tôi là một. Như thế, những ai kết hợp với Chúa Giêsu là được kết hợp với Chúa Cha, được chia sẻ và thông phần sự sống siêu nhiên cũng như hạnh phúc viên mãn từ Chúa Cha. Sự kết nối này chính là mối hiệp thông thân tình giữa ta với Chúa. Nhờ hiệp thông với Chúa, chúng ta được chia sẻ sức sống thần thiêng của Người, được biến đổi mỗi ngày nên giống Chúa, để rồi chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, mà không còn là tôi sống, nhưng là chính Chúa Giêsu sống trong tôi”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về thái độ sống của mỗi người, với tư cách là tín hữu. Quả vậy, có những lúc chúng ta giống như cành nho bị lìa khỏi thân cây, vì chúng ta dửng dưng đối với Thiên Chúa. Một khi không còn gắn kết với thân nho, chúng ta cũng lìa xa các cành nho khác là anh chị em đồng loại. Không liên kết với Thày Giêsu, chúng ta cũng khó mà liên kết với tha nhân. Thánh Gioan tông đồ đã nhấn mạnh đến điều này, khi đặt tình yêu thương lên hàng đầu của các thực hành Kitô giáo (Bài đọc II). Khái niệm “ở lại trong Chúa” cũng được tác giả nhấn mạnh: “Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ”. Đây là sự hòa quyện giữa tâm hồn chúng ta với Chúa Ba Ngôi, nhờ việc Ngài đến ở trong chúng ta, như chúng ta được ở trong Ngài. Theo Thánh Gioan, ở lại trong Chúa còn là trung thành tuân giữ những lời Người truyền dạy. Nhờ việc tuân giữ lời Chúa, chúng ta được tiếp nối sự sống siêu nhiên, như chất nhựa sống thiêng liêng tuôn chảy từ thân nho đến với mọi cành nho, làm cho cành sinh hoa kết trái.
Cây nho muốn sinh hoa kết trái thì phải được cắt tỉa hằng năm. Sự cắt tỉa ấy làm cho cây rỉ máu vì đau đớn, nhưng thật cần thiết, vì nếu không cắt tỉa, cây sẽ cằn cỗi, vô dụng. Mỗi năm, khi tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu, các tín hữu cũng được mời gọi chết đi với con người cũ để sống lại với Đấng Phục Sinh. Sự “chết đi” ấy không phải chỉ là lý thuyết suông, nhưng là những hy sinh cố gắng để vác thập giá cuộc đời, để được gắn bó hơn với Đấng đã hy sinh đến cùng vì yêu thương chúng ta.
Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, đã để cho Chúa “cắt tỉa” đời mình. Từ một người hăng say tìm giết các tín hữu, cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đức Giêsu trên đường đi Đa-mát đã làm thay đổi cuộc đời ông và biến ông thành một nhân chứng trung kiên loan báo Tin Mừng. Tác giả sách Công vụ Tông đồ cho thấy Phaolô đã sớm hòa nhập với các tông đồ để thực hiện sứ mạng Chúa trao phó. Ông sẵn sàng chấp nhận những nguy hiểm đe dọa tính mạng để làm chứng cho Chúa (Bài đọc I). Ông thực sự gắn bó với Đức Giêsu, đến nỗi sau này ông viết: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà làĐức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2,2).
Thông thường, chúng ta không thấy chất nhựa sống trong thân cây. Cũng vậy, chúng ta không nhìn thấy Đấng Phục sinh bằng con mắt giác quan. Giáo Hội sống động, lớn lên và phát triển là nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội được so sánh như cây nho vĩ đại. Cành của cây nho ấy bao trùm trái đất, và đang không ngừng sinh hoa kết trái. Mỗi cá nhân người tín hữu là một cành nho, vừa hiệp thông với Chúa Giêsu là cây nho, vừa hiệp thông với anh chị em mình, liên đới cộng tác với nhau để đem hoa thơm trái ngọt cho đời. Nhờ liên kết với nhau, chúng ta giới thiệu một hình ảnh sinh động tươi đẹp về Giáo Hội của Chúa Kitô. Thánh Gioan khuyên chúng ta: “Anh chị em đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng những việc làm cụ thể”. Đúng vậy, tình yêu chân thật sẽ vững bền và có sức lan toả đến mọi môi trường cuộc sống. Tình yêu ấy cũng phản ánh chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là Cha nhân hậu và là nguồn mạch yêu thương.
Bài hát “Vườn của ba” viết rằng: Má trồng toàn những cây dễ thương. Nào là hoa là rau là lúa PS 5-B152
Bài hát “Vườn của ba” viết rằng: Má trồng toàn những cây dễ thương. Nào là hoa là rau là lúa. Còn Ba trồng toàn cây dễ sợ. Cây xù xì cây lại có gai. Cái gai bưởi đụng vào là chảy máu Trái sầu riêng rớt trúng thì đầu u. Nhựa hột điều dính vào là rách áo. Cây dừa cao eo ôi là cao”. Đã trồng cây thì ai cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, thì phải lắm công phu. Điều đáng nói ở đây là cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Cho nên, Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây nho để nói đến hoa quả của đời sống tâm linh, muốn có hoa quả thì cần phải có 3 điều sau đây:
Thứ nhất, cành gắn liền với thân cây. Nếu cành nào tách rời khỏi thân dĩ nhiên khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Bằng chứng cụ thể Giuđa It-ca-riốt, tách khỏi Thầy, chết héo, tự tử. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, cùng một sự sống như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau như các cành nho liên kết với thân cây nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến thân rồi đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến chúng ta từ một gốc và thân là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.
Thứ 2 “cành nho phải sinh hoa trái”. Cành thì gắn với thân cây để có nhựa sống khi có nhựa sống thì phải sinh hoa trái. Làm thế để sinh hoa kết trái thiêng liêng? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Yêu như Chúa yêu chúng ta, một tình yêu với 4 chữ D: sinh ngoài đồng, ở ngoài đường, ăn đon đả và chết ngoài đồi. Còn mình yêu người cũng 4chữ D nhưng là đẹp, di động, dream và đôla. Chúa yêu ta bằng tình yêu với 3 chữ G: gian lao, gian nan và gian khổ. Còn mình yêu người cũng 3G nhưng là: đẹp giai, nhà giàu, học giỏi… tình yêu như thế nó không bền thì khó sinh hoa thơm quả ngọt cho đời bởi vì những cái này chỉ là phù vân.
Do đó, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ không tính toán, chính lúc ấy chúng ta ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Cuối cùng để có được hoa thơm trái ngọt, cây phải chịu cắt tỉa, còn đối với đời sống mình cũng phải cắt tìa là chấp nhận mất mát, đau đớn. Vì chịu mất mát mới dẫn đến thắng lợi, khổ đau mới dẫn đến vinh quang, chịu chết mới dẫn đến Phục Sinh, chết đi cho tội lỗi mới nên thánh. Thánh Phaolô một con người tài trí và uy lực: nói ra lửa hét ra vàng, ấy thế mà để Chúa Giêsu phục sinh cắt tỉa thành tông đồ lỗi lạc, một bậc thánh đáng kính sau thánh Phêrô.
Kính thưa, … như cành liền cây và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần trong giáo xứ chúng ta hãy yêu thương mọi người một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể: phục vụ, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng gia đình, giáo xứ, giáo phận, đất nước… một cách quảng đại như thế mới thật là môn đệ Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
Bài giáo lý về Dụ ngôn cây nho. Về sự sống trong Chúa Giêsu.
Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô PS 5-B153
Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô hữu:
Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Chúa Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành… Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiếu trái.”
Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình “được Cha Thầy tỉa sạch” bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
Chúa Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: “Nếu các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được.”
Suy gẫm
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “Người thuộc về Đức Kitô.” Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ay là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
2. Cắt tỉa: cuộc đổi đời nào cũng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được. Tuy nhiên với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất… Đức Hồng y Etchegaray có lần đã nói “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên.”
3. Thánh Anphongxô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Inhaxiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến. Các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác quý hơn.
4. “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”
Mỗi ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man; những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy tang thương và chết chóc.
Có lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”
Tại sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.
Lạy Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ. (Cha Carôlô)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, còn chúng con là cành, xin cho chúng con biết kết hợp với Chúa qua từng giây phút cuộc sống, nhất là khi chúng con được rước Thánh Thể Chúa ngự đến trong tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa bởi những tội lỗi, những đam mê mù quáng, những thói đời bất nghĩa, bất trung.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con vẫn biết rằng, để cành nho cuộc đời chúng con sinh hoa kết trái thì cần được cắt tỉa, loại bỏ những gì không phù hợp với sức sống Thần Linh của Chúa. Thế nhưng, Chúa ơi, chúng con vẫn bám víu vào những đam mê tật xấu. Tâm hồn chúng con vẫn chứa đựng đầy những tham lam bất chính, những tư tưởng dâm ô tội loi. Cuộc sống chúng con còn đầy những lầm lỗi gây nên đau khổ cho gia đình và bạn bè. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa cắt tỉa nơi tâm hồn chúng con khỏi những ước ao phạm tội, những toan tính xấu xa, những mưu đo bất chính để chúng con luôn xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự trị.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được lưu lại trong Chúa mỗi khi chúng con rước Chúa vào lòng, để sự sống của Chúa tuôn chảy trên dòng đời của chúng con, qua các việc đạo đức hằng ngày, qua cuộc sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhờ đó mà muôn dân sẽ nhận ra “chúng con là môn đệ của Chúa.” Amen.
Tin mừng Ga 15: 1-8: khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Đối với nông dân vùng Palestine thời Chúa Giêsu, cây nho là một tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier PS 5-B154
Đối với nông dân vùng Palestine thời Chúa Giêsu, cây nho là một tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier đã lưu ý: Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux ở nước Pháp chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu như ở Âu Châu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người" ("Đọc Thánh Kinh" số 78, trang 54).
Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1)”. Chính vì vậy Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để nói với chúng ta: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói.
Tại Palestine, cây nho thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải cắt tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh.
Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được cắt tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch.
Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng khong hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. (William Barclay)
Muốn nhiều hoa quả, cần phải được cắt tỉa. Nhưng cắt tỉa là một quá trình gây đau thương cho một cây ăn quả. Đây là một thực tế không thể chối cãi được. Nhưng mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, mà là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Cũng vậy, với con người chúng ta, mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho chúng ta đau đớn nhưng là để giúp chúng ta sinh trái nhiều hơn và tốt hơn. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Tất cả những cái đó cần phải được cắt tỉa.
Chính vì vậy khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Nói tới việc cắt tỉa là chúng ta phải nói đến vấn đề đau đớn, vấn đề đau khổ. Vấn đề đau khổ là một thực tại ngàn đời tồn tại và luôn luôn đòi được giải đáp. Đau khổ đến với ta dưới mọi hình thức: tinh thần, thể xác, bên ngoài, bên trong, cá nhận, tập thể, cộng đoàn. Ta có cảm tưởng đó là một lực lượng đến phá hủy tiềm năng phát triển con người. Nhưng với ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy được một khía cạnh của đau khổ. Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cho ta sinh hoa trái tươi tốt về đàng thiêng liêng. Điều cần thiết là chúng ta có nhận ra được ý nghĩa của những đau khổ mà Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta.
Một tấm gương điển hình: Cha Titus Brandsma trong cũi chó: Cha Titus Brandsma, thời thế chiến thứ hai, là viện trưởng viện đại học Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc xã bắt và giam tại trại Tập Trung Dachau, Người ta nhốt ngài trong một chiếc cũi chó. Đám lính canh, mỗi lần đi qua, bắt ngài sủa lên như chó. Cuối cùng, ngài đã chết thê thảm, vì bị tra tấn quá tàn nhẫn.
Trong không gian nhỏ bé của một cũi chó, bị chế nhạo như con chó và bị đối xử như một con vật ghê tởm…ngài vẫn chịu đựng. Đặc biệt, còn đủ kiên trì viết lại nhiều suy nghĩ về đau khổ, trong một cuốn sách cũ kỹ, trên một khoàng trống ở giữa hai hàng chữ. Chúng ta có thể nêu ra ở đây một lá thư ngỏ của ngài, gởi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, không một nỗi đau nào làm con ngã xuống được, vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa.
Con đường cô độc chúa đã đi qua, đã giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan…Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở lại với con, chỉ cần Chúa ở lại với con thôi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên, con sẻ chẳng còn sợ hãi nữa”. Amen.
Nói đến việc trồng nho và làm sao để có thể thu hoạch được những trái nho ngon ngọt, đạt năng PS 5-B155
Nói đến việc trồng nho và làm sao để có thể thu hoạch được những trái nho ngon ngọt, đạt năng suất cao; thiết nghĩ tại Việt Nam, không ai có thể làm tốt hơn và có nhiều kinh nghiệm cho bằng những người nông dân miền Ninh Thuận đầy nắng và gió. Tin mừng hôm nay theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu, trong cách thế nào đó, Ngài cũng đã có những kinh nghiệm liên quan đến cây nho cùng với việc canh tác làm sao để cây nho có năng suất tốt. Từ chính kinh nghiệm rất thực tế trong việc canh tác trồng trọt này, hôm nay, Chúa Giêsu đích thân mời gọi chúng ta nhìn lại mối tương quan giữa chúng ta với Ngài. “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”
Trước hết, chúng ta được mời gọi để xác định lại mối tương quan của chúng ta với Chúa; như là những cành nho, chúng ta còn có sự liên kết với thân nho là Đức Kitô Giêsu trong cuộc sống hằng ngày? Có thể chúng ta sẽ trả lời là có liên kết. Thế nhưng, mối tương quan của chúng ta liên kết với Chúa bằng cách thức nào? Thứ đến, làm sao để mối tương quan, liên kết của chúng ta với Chúa hầu giúp cho chúng ta sinh được những hoa trái tốt lành, thánh đức. Vì tự bản thân cành nho, nếu không được chăm sóc chu đáo thì không thể có được những quả nho to-giòn, ngon-ngọt, cho nên, những người trồng nho ngày nay thật vất vả, phải mất giờ-tốn công để chăm sóc cây nho qua việc phải cắt tỉa cành, bón phân, tưới nước và luôn phải xịt các loại thuốc phòng-trừ sâu bệnh… Còn với chúng ta, để trở nên những người con đẹp lòng Chúa, những người Kitô hữu tích cực-sống động, chúng ta đã chăm sóc cuộc đời, tâm hồn của chúng ta ra sao trước những ơn thánh Chúa trao ban: như qua kinh nguyện hằng ngày đặc biệt là tràng chuỗi mân côi, qua bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa, qua các việc bác ái hy sinh…Chính Chúa đã khẳng định: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.” Thật vậy, nếu chúng ta không nỗ lực-cố gắng để đến với Chúa với lòng tin-cậy-mến, nếu không đến với Chúa qua các bí tích ban ơn sủng cùng với các việc lành phúc đức thì cuộc sống chúng ta cũng sẽ èo uột-cằn cỗi, sẽ khô héo, sẽ bị cắt tỉa, vứt bỏ, đốt đi.
Cũng như những người nông dân trồng nho lành nghề tại Ninh Thuận, Thánh Gioan trong bài đọc hai đã cho chúng ta một bí quyết-kinh nghiệm rất quý báu để làm sao “cành nho cuộc đời chúng ta” trổ sinh được nhiều hoa trái công phúc tốt lành, đó là: Phải tin vào Chúa Giêsu Kitô nguồn mạch của ân sủng, phải yêu mến Chúa và yêu thương nhau qua việc chúng ta tuân giữ những giới răn và huấn lệnh Chúa ban. Như thế, chúng ta sẽ được Chúa sống trong chúng ta, được sống liên kết mật thiết với Chúa và chính Chúa sẽ ban ơn giúp sức để chúng ta trở nên những người con thảo đẹp lòng Chúa.
Trong những ngày đầu tháng hoa kính Đức Mẹ, chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm, suy niệm và noi gương bắt chước những nhân đức-công phúc của Mẹ, hầu với sự che chở cầu bầu của Ngài, chúng ta sẽ luôn sống trong ơn thánh Chúa, luôn sống xin vâng theo ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời. Thật vậy, khi Thiên sứ truyền tin cho Mẹ, Ngài đã thưa: “Kính chào Bà, Đấng đầy tràn ơn phúc”; Khi người ta nhìn vào Chúa Giêsu, khi nghe những lời giảng dạy và chứng kiến phép lạ Chúa làm, người ta đã thốt lên: “Phúc cho dạ nào đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú”. Tất cả những công phúc mà Mẹ có được chính là do Chúa ban cho qua việc Mẹ đã khiêm tốn mở lòng trước ơn Chúa, Mẹ đã hoàn toàn thuộc trọn về Chúa, sống xin vâng, thực thi thánh ý Chúa trong mọi lúc, dù là nghịch cảnh. Chính nhờ vậy, mà giờ đây, bên tòa Chúa, Mẹ là Đấng cầu bầu che chở và chuyển thông ơn Chúa cho chúng ta cách đắc lực nhất. Bên cạnh Mẹ, Thánh Cả Giuse cũng là mẫu gương tuyệt vời cho những ai muốn sống đẹp lòng Chúa và trở nên những con người có cuộc sống đầy hương thơm của các nhân đức. Bí quyết trên con đường thánh đức của Thánh Giuse không gì khác hơn đó chính là sự khiêm tốn, lòng tín thác vào Chúa, luôn lắng nghe và mau mắn thực thi ý Chúa trong trong mọi biến cố của cuộc đời.
ACE rất thân mến, chúng ta đã cố gắng-nỗ lực để có những kinh nghiệm tốt, đã vất vả lo toan cho cuộc sống vật chất, hầu có được những thành quả tốt trong công việc mưu sinh-làm ăn; ước mong rằng trong đời sống tâm linh, đặc biệt, trong suốt tháng năm, tháng hoa kính Đức Mẹ, mỗi gia đình và mỗi người chúng ta ai ai cũng phải quyết tâm-dấn thân làm sao để tâm hồn và lòng trí chúng ta được bừng cháy lên bởi lòng mến và lòng tín thác vào Chúa. Cùng với mẫu gương và sự che chở phù trì của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, chúng ta hãy luôn sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua các việc lành phúc đức, qua việc siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhờ đó, cuộc sống của chúng ta mới trổ sinh nhiều hoa trái của ơn phúc, làm tôn vinh danh Chúa, đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.
Tin mừng Ga 15: 1-8: Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người
Hình ảnh cây nho là một hình ảnh đẹp, đã từng gợi hứng cho các văn nhân nghệ sĩ Công giáo cũng PS 5-B156
Hình ảnh cây nho là một hình ảnh đẹp, đã từng gợi hứng cho các văn nhân nghệ sĩ Công giáo cũng như các nhà thuyết giảng đi tới những sáng tác tưởng chừng lãng mạn, nhưng thật ra sâu sắc về tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, và tương quan giữa Đức Giêsu và chúng ta.
Trước khi đi vào khám phá sứ điệp của bản văn, chúng ta cũng nên nắm vững cấu trúc của bản văn như sau:
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu "đóng khung" ("Cha Thầy": 15,1.8; "sinh hoa trái": 15,2.8; "nhiều": 15,2.8; "điều răn/truyền dạy": 15,12.17; "để anh em thương yêu nhau": 15,12.17).
Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:
A = 1-2 B = 3-4a C = 4bcd D = 5 C'= 6 B'= 7 A'= 8
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,1-8
Cho tới đây, trong bài diễn từ cáo biệt (ch. 13 đến ch. 17 của Tin mừng Thứ tư), Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.
Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là c. 5 (D): "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được". Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật, dụ ngôn "Cây nho thật" tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến trái (quả), đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: "Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái/quả) để được sống muôn đời […}. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra" (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy Lạp đến tìm Người, Người đã giải thích cho các môn đệ: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Người cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.
Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc "mang hoa trái", chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ "nhiều hoa trái" ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả "sinh [mang] hoa trái" ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải "ở lại" (= kết hợp) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực ("ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em": c. 4a; "ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy": c. 5b; "nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em": c. 7ab) và cách tiêu cực ("nếu không ở lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy": c. 4cd; "ai không ở lại trong Thầy": c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu - cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và sẽ bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho cắt tỉa (c. 2b) nhờ lời của Người (c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại của các lời Người trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ mới biến đổi con tim họ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Từ lễ Phục sinh, xuất hiện một cây nho mới, cây nho đích thật, cây nho sẽ đưa lại sức mạnh và niềm vui cho mọi người. Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, cũng như nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết. Nếu không có một sự liên kết hoàn hảo, chúng ta không phải ngạc nhiên khi thấy hoa trái chúng ta sản sinh toàn là hoa trái chua chát và khô khan, không thể lấp đầy các bình rượu thế giới bằng rượu mới.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Ẩn dụ cây nho và Tiệc Thánh Thể.
Đoạn văn này trích từ bài diễn từ thứ hai của bữa Tiệc ly. Muốn đọc phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh thể là trung tâm của bữa Tiệc ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa Kitô hữu và Đức Kitô.
2. Một sự liên kết không thể thiếu.
Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vững chắc hơn. Sự cần thiết này càng cấp bách do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2). Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây ? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giữ các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên kết với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.
3. Hoa trái tôn vinh Chúa Cha.
Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người Kitô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sáng suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa Cha cắt tỉa linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người ? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.
Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn "Cây nho thật", chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sự khỏe mạnh và sức sống dồi dào của cây nho. Nhưng "sinh nhiều trái" không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.
Chủ đề: CHÚA PHỤC SINH TÁI TẠO CHÚNG TA NÊN NGƯỜI MỚI.
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Truyền thống Kinh Thánh gọi thế giới và con người bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ là thế giới PS 5-B157
cũ, con người cũ. Cũ là tình trạng sa sút, tổn thương, yếu đuối, tội lỗi... đang gặm nhấm, hủy hoại thế giới, hủy hoại con người. Lòng con người ra hư hốt, buông theo những đam mê lầm lạc và đủ thứ tệ đoan, khiến con người trượt dốc trên tội ác và sự dữ, đẩy họ tới diệt vong.
Con người không thể tự cứu mình. Chúa mới là Đấng giải phóng họ khỏi hành vi mang sự chết, để xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống, mà được sống muôn đời.
Hồng ân sự sống đời đời gọi là công trình tái tạo, công trình sáng tạo mới, được thực hiện trong Đấng Phục Sinh. Nhờ sự chết của Người chúng ta khỏi phải chết, trong sự phục sinh của Người, chúng ta được đổi mới và sự sống nguyên tuyền được phục hồi cho chúng ta trong Chúa Kitô.
Chúa Phục Sinh là Tin Mừng lớn lao nhất phải được loan báo cho muôn dân, để họ tin nhận mà được tái tạo, đổi mới trong Chúa Kitô, gia nhập đoàn chiên Chúa hưởng sự sống muôn đời.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày con đường phục hồi, tái tạo, con đường sáng tạo mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, nhờ sức mạnh Thánh Thần.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, mô tả cách thức Chúa Phục Sinh cải hóa, đổi mới Phao-lô, nhân vật một thời ghét đạo, ra công bức bách môn đệ Chúa.
Trên đường đi Damas, Phao-lô lòng sôi sục căm hờn với thứ đạo, ông cho là đối nghịch với lề luật Mô-sê, cần phải được loại bỏ. Ông nghĩ như vậy, nhưng ông đã lầm, vì giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho chân.
Chúa thương, đã bắt chợt ông, khi đang mưu toan hành động chống lại các tín hữu tại thành Damas. Ngài đã gặp và ra lệnh cho ông vào thành. Ở đó Phao-lô được ơn biến đổi, canh tân lòng trí nên mới, thành lợi khí của Tin Mừng.
Cuộc cải đạo của Phao-lô là rất ngoạn mục, quyết liệt, chóng vánh, khiến cả giới luật sỹ, biệt phái và các môn đệ Giê-su, cũng sửng sốt ngạc nhiên về sự thay đổi thần tốc này.
Phao-lô nhập đoàn với các môn đệ, dạn dĩ làm chứng Chúa Giê-su Phục Sinh cho người Do Thái, cũng như cho dân ngoại. Thành công tông đồ của ngài là đáng khâm phục.
Hội Thánh được bình an, đức tin được củng cố trong niềm kính sợ Chúa, số tín đồ gia tăng, nhờ ơn Thánh Thần của Đấng Phục Sinh nâng đỡ.
Thưa anh chị em,
Giáo Hội thời sơ khai gặt hái những thành quả mỹ mãn về mọi phương diện, là nhờ ơn Chúa và nhờ sự gắn kết nên một của người tín hữu với Chúa mình, ví như cành gắn liền với thân cây, nên không thể không sinh nhiều hoa trái.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc mạc khải sự sống thật ban tặng nhân loại, nhờ liên kết với Chúa Phục Sinh.
Dụ ngôn cây nho vừa tuyên đọc xác nhận Giê-su là cây nho thật, Chúa Cha đem trồng trong vườn nhân loại, bằng việc “Nhập thể làm người”. Bản tính Thiên Chúa đảm nhận lấy nhân tính Giê-su được so sánh với cành nho gắn liền với thân cây. Sự liên kết này thực hiện lời hứa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” luôn mãi.
Nhờ sự chết và sự phục sinh, Chúa Giê-su liên kết kẻ tin vào thân mình mầu nhiệm Ngài, để nhờ sự sống của Cha là gốc rễ thông truyền cho Giê-su là thân cây, rồi từ Chúa Giê-su, sự sống truyền tới chúng ta là những cành nho.
Dụ ngôn cây nho và nhành nho cho thấy bản chất sự sống thật là phải kết hợp, gắn liền với Chúa, ngoài Ngài, không gì có thể tồn tại và phát triển. Dụ ngôn cây nho thật, giúp người tín hữu hiểu thấu đáo hơn mầu nhiệm Thánh Thể và các nhiệm tích cứu độ. Đón rước Mình Máu Thánh Ngài là lương thực sự sống đời đời: “Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta như vậy” (Jn 6, 51).
Cộng đoàn tín hữu thời sơ khai ham thích lắng nghe giáo huấn các Tông Đồ, chuyên chăm cầu nguyện và cử hành bữa tối của Chúa, nên không ngạc nhiên khi thấy cộng đoàn gia tăng phong phú.
Thời đại hiện tại, cũng không thể xem nhẹ các tiêu chí nền tảng đó. Nếu theo sát giáo huấn Hội Thánh, siêng năng cầu nguyện, chăm chỉ lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, nhiệt tâm sống bác ái yêu thương, chúng ta sẽ là những nhánh nho gắn liền với Chúa Kitô, cây nho thật, nhất định, sẽ chứng kiến một lễ “Hiện Xuống mới” bao trùm khắp thế gian, muôn dân sẽ được hưởng một nền hòa bình viên mãn.
Bài đọc II, trích thư của thánh Gio-an Tông Đồ, nêu các tiêu chí, giúp nhận diện: ai thuộc về Chúa, ai đang ở lại trong tình yêu Chúa !
* Một là: Phải chống lại mọi hình thức yêu thương môi mép, giả hình. Mỗi người hãy sống thật với lòng mình: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37). Mối tương quan của chúng ta với tha nhân phải được xây trên một tình yêu không giả dối.
Đức cha cố Phao-lô Bùi Chu Tạo đã chọn câu châm ngôn “In caritate non ficta” (trong tình yêu không giả dối). Ngài đã sống tốt, sống đẹp, đã trở nên chứng nhân cho đoàn chiên về một tình yêu không giả dối. Cuộc đời ngài đã trổ sinh vô vàn hoa trái cho giáo dân Phát Diệm. Con cái giáo phận rất kính cẩn, tự hào, biết ơn, mỗi khi nhắc đến đời sống gương mẫu của vị mục tử nhân lành, chủ chăn thánh thiện này.
* Hai là: Ở lại trong tình yêu Chúa là tuân giữ các giới răn, vì đó là bằng chứng chúng ta chọn Chúa và không gì thay đổi được quyết định chọn lựa ấy.
* Ba là: Ham thích lắng nghe thực thi Lời Chúa, nhiệt tâm cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bích tích Thánh Thể, vì đó là nguồn sống của chúng ta.
Bao nhiêu con người từ xưa tới nay đã sống, đã luôn ở lại trong tình yêu Giê-su, họ đã làm cho Danh Cha vinh hiển, Nước Cha trị đến.
Cuộc sống các ngài vẫy gọi chúng ta tiến lên, tìm về Giê-su, liên kết, ở lại trong Giê-su, chúng ta cũng sẽ sinh nhiều hoa trái, cũng sẽ làm Chúa Cha vinh hiển và trở nên môn đệ của Ngài. Amen!
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh năm B mời gọi mỗi Ki-tô hữu phải xác tín rằng PS 5-B158
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh năm B mời gọi mỗi Ki-tô hữu phải xác tín rằng cuộc đời Ki-tô hữu không thể nào đơm hoa kết trái nếu không được cắt tỉa.
Cv 9: 26-31
Sách Công Vụ tường thuật Giáo Hội Giê-ru-sa-lem ngần ngại tiếp đón thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân đã hoán cải. Nhưng thánh nhân đã thật sự hoán cải: một môn đệ rao giảng Đức Ki-tô với một con tim bốc lửa và một niềm xác tín sâu xa.
1Ga 3: 18-24
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan khuyên người Ki-tô hữu hãy đứng về phía sự thật; có như thế, cuộc đời chúng ta mới thanh thản và bình an và lời nguyện cầu của chúng ta mới được Thiên Chúa nhận lời.
Ga 15: 1-8
Đức Giê-su là cây nho thật. Được kết hiệp với Ngài, các môn đệ mới có thể đơm bông kết trái được, nhưng phải biết rằng họ phải chịu cắt tỉa, nghĩa là phải chịu thử thách.
BÀI ĐỌC I (Cv 9: 26-31)
Trong suốt sáu Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả Bài Đọc I đều được trích dẫn từ sách Công Vụ, năm trong số đó liên quan đến lãnh vực hoạt động của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội. Một đoạn trích duy nhất, đoạn trích hôm nay, nêu bật dung mạo của thánh Phao-lô. Chứng liệu này dâng hiến cho chúng ta mối quan tâm về lịch sử cũng như tâm lý: chính yếu là thời gian thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, sau khi hoán cải. Thánh nhân được đón tiếp với thái độ nghi kỵ.
1. Những thử thách đầu tiên của thánh Phao-lô.
Các Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những biết mà còn biết quá rõ về ông Phao-lô nầy. Trong cuộc bách đạo đầu tiên giáng xuống trên cộng đoàn của họ, ông Phao-lô là kẻ bách hại cuồng tín nhất: “Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8: 3). Ông đã dự phần vào cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô, chính ở dưới chân ông mà người ta để áo để rảnh tay ném đá (Cv 7: 58).
Nhiều năm sau nầy, chính thánh Phao-lô vẫn còn nhớ thái độ cuồng tín mà ông đã phô bày vào lúc đó: “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế ủy quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cv 26: 9-11).
Ấy vậy, cũng chính nhân vật nầy trở lại Giê-ru-sa-lem và tự nhận mình là môn đệ của Đức Giê-su. Làm thế nào cộng đoàn Ki-tô hữu không khỏi nghi ngờ về một kẻ bách đạo cuồng tín nầy nay đã được chính Đức Giê-su Phục Sinh quy phục để trở thành một trong những nhà truyền giáo nhiệt thành nhất của họ được chứ? Thật ra, tin đồn về cuộc hoán cải của thánh nhân đã vang dội tới Giê-ru-sa-lem, nhưng phản ứng đầu tiên là ngờ vực.
Trong thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô tường thuật những gì đã xảy ra cho thánh nhân sau khi được ơn trở lại. Sau khi Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân trên đường Đa-mát và sau những ngày thánh Phao-lô đã trải qua giữa nhóm nhỏ Ki-tô hữu thành Đa-mát, thánh nhân viết: “Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Á-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày” (Gl 1: 16-18).
Tại sao thánh Phao-lô lại trì hoản lên Giê-ru-sa-lem? Phải chăng vì kẻ bách đạo xưa kia đã gây ra biết bao điều tang tóc cho những người Ki-tô hữu ở tại kinh thành nầy nay cảm thấy ngại ngùng? Lý do thật sự mà thánh Phao-lô cho chúng ta ở nơi những lời nầy: “Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi laon báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 16). Vì thế, thánh nhân không hỏi ý kiến của bất kỳ ai, tự xem mình là người được chính Đấng Phục Sinh ủy nhiệm, là người đã nhận mệnh lệnh loan báo Tin Mừng từ chính Chúa. Tức khắc, ông khởi hành ra đi loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây không là lần duy nhất, như đoạn trích Công Vụ hôm nay cho thấy.
Tuy nhiên, trong những ngày lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, khi “tìm cách nhập đoàn với các môn đệ”, thánh Phao-lô lại càng gieo nỗi sợ hãi ở nơi họ. May thay, có một người trong số họ, không xuất thân từ Giê-ru-sa-lem nhưng từ đảo Síp, rất có uy tín trong cộng đoàn vì tấm lòng quảng đại của ông (Cv 4: 37), đó là ông Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là “người có tài yên ủi” (Cv 4: 36). Chính ông nhận ra nhân cách của thánh Phao-lô, vì thế ông lấy uy tín của mình mà đứng ra bảo lãnh thánh nhân và chân thành giới thiệu ơn gọi đặc biệt của thánh nhân. “Từ đó thánh Phao-lô cùng với các tông đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng danh Chúa” (9: 28).
Nhưng rồi thánh Phao-lô nhận thấy Hội Thánh Giê-ru-sa-lem quá bận tâm về sự hoán cải của những người Do thái bản địa, vì thế thánh Phao-lô toan tính mở rộng sứ vụ truyền giáo đến những người Do thái theo văn hóa Hy-lạp. Sở hữu hai nền văn hóa: Do-thái và Hy-lạp, những người Do thái theo văn hóa Hy lạp nầy đến sinh sống ở Giê-ru-sa-lem và hình thành nên một nhóm nhiệt thành và năng động, nhưng cũng là một nhóm nguy hiểm. Thánh Tê-pha-nô đụng phải họ và đã phải trả giá bằng mạng sống của mình (x. Cv 6: 9). Thánh Phao-lô cũng phải chịu chung số phận. Lòng nhiệt thành của thánh nhân đánh thức lòng thù hận của họ. Thánh nhân phải lìa bỏ Giê-ru-sa-lem không chỉ để cứu mạng mình nhưng còn vì lợi ích của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem: “Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô” (9: 30).
Những bước khởi đầu đầy gian nan không tác động đến tâm tình mà thánh Phao-lô dành cho Hội Thánh-Mẹ. Tthánh nhân luôn luôn công bố uy quyền của Hội Thánh-Mẹ mà ông gắn bó sâu xa. Thánh nhân sẽ không quản ngại ra sức quyên góp để giúp đỡ Hội Thánh-Mẹ. Với tấm lòng nhiệt thành truyền giáo, thánh nhân luôn là người tiên phong, nhưng luôn hoạt động trong mối hiệp thông với Hội Thánh.
Ông Ba-na-ba sẽ không quên người bạn đồng hành có tâm hồn bốc lửa nầy. Vài năm sau nầy, ông sẽ cất công đi tìm thánh Phao-lô ở Tác-xô, dẫn thánh nhân theo với mình đến An-ti-ô-khi-a; đoạn, lôi kéo thánh nhân vào cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của mình. Thánh Phao-lô cảm thấy mình thoải mái hơn trong cuộc mạo hiểm lớn lao nầy.
2. Hội Thánh được bình an.
Sau những sự cố xảy ra trong những ngày thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, Hội Thánh lại được bình an. Thời kỳ yên ổn nầy không kéo dài được bao lâu. Vào năm 42-43, cuộc bách hại xảy đến một lần nữa, lần nầy do vua Hê-rô-đê Ác-ríp-pa, cháu của vua Hê-rô-đê An-ti-pa. Trong cuộc bách đạo này, nạn nhân đáng chú ý nhất là thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, bị xử trảm.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 18-24)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Bức thư nầy được triển khai theo một dàn bài khó xác định. Những chủ đề xuất hiện nhiều lần, lúc thì lập đi lập lại, lúc khác với những hàm chứa mới. Nhưng giọng văn luôn luôn thôi thúc và nồng nàn. Vị Tông Đồ trình bày những tiêu chuẩn cho cuộc đời Ki-tô hữu chính danh.
Thánh nhân khuyên người Ki-tô hữu “đứng về phía sự thật”, tức là “sống trong sự thật”, “sống trong bình an” và “sống trong mối hiệp thông với Thiên Chúa”. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo thường hằng được nhắc đi nhắc lại trong bức thư nầy: một biện pháp hữu hiệu nhất đối lại với những đạo lý sai lạc đang hoành hành nhân danh Ki-tô giáo, tự cho mình là cao vời siêu việt.
1. Sống trong sự thật:
Sống trong sự thật, chính là sống theo cách sống của Thiên Chúa, nghĩa là sống trong tình yêu, vì Thiên Chúa là tình yêu: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm” (3: 18). Đây là lời khuyên cảnh giác của vị mục tử, nhưng cũng ngầm quở trách những người lạc giáo mà thánh Gioan vừa mới lên tiếng ở trên: “Ai nói mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (2: 9). Chúng ta không thể xác định cách hành xử của những thầy dạy sai lạc nầy, nhưng sau nầy chúng ta biết rằng những nhà thuyết giáo ngộ đạo này bày tỏ sự khinh miệt đối với đám đông tín đồ không có khả năng vươn tới sự khôn ngoan của họ.
2. Sống trong bình an:
Người Ki-tô hữu nào thực hành tình yêu chân chính cho anh em mình, mới có thể sống trong sự thanh thản và bình an: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (3: 19). Chữ “lòng” ở đây phải được hiểu theo nghĩa văn hóa Do thái, nơi lương tâm ngự trị: “Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (3: 20). Cả câu trích dẫn trên và câu theo sau: “Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa” (3: 21), hình thành nên hai thái độ căn bản ở nơi người Ki-tô hữu: thái độ của tội nhân thống hối ăn năn và thái độ của người công chính “làm những gì đẹp ý Người” (3: 22).
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta đừng xao xuyến vì tội lỗi của mình. Thiên Chúa biết rõ cõi lòng sâu thẳm của chúng ta còn hơn chúng ta nữa; chúng ta hãy phó thác vào trong sự hiểu biết sâu xa của Ngài. Mẫu gương mà bức thư này thường trích dẫn để minh họa lời khuyên bảo nầy là mẫu gương của thánh Phê-rô. Mẫu gương này rõ ràng được thánh Gioan tường thuật trong Tin Mừng của mình. Khi Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô: “Nầy anh Si-môn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?”, vị Tông Đồ nhớ lại ba lần mình đã chối Thầy, nên không dám quả quyết ngay là mình yêu mến Thầy, nhưng khiêm tốn phó thác vào sự hiểu biết của Đức Giê-su, Đấng thấu suốt cõi sâu thẳm của lòng người: “Thưa Thầy, Thầy biết là con yêu mến Thầy”. Và lần thứ ba, với một giọng trầm buồn, thánh nhân thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 18). Ở đây, chúng ta gặp lại cùng một diễn ngữ trong thư thứ nhất của Gioan: “Người biết mọi sự”.
Trường hợp thứ hai là thái độ của người Ki-tô hữu trung tín: lương tâm của họ không cáo tội họ. Thánh Gioan không ngần ngại khuyên bảo họ hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Khi người công chính đạt được tâm trạng nầy, họ biết rằng những lời cầu nguyện của mình phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa; vì thế, “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho” (3: 22). Chủ đề nầy vang dội trong bản văn của Tin Mừng hôm nay.
3. Sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Diễn ngữ: “Tuân giữ các điều răn của Người”, được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc xuyên suốt bức thư nầy. Trong đoạn trích nầy, thánh Gioan hòa hợp ý muốn của Chúa Cha và lệnh truyền của Chúa Con thành một viễn tượng duy nhất, trong quan điểm hiệp nhất của Thiên Chúa. Chúa Cha đòi hỏi họ phải “tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Ngài” và phải “yêu thương nhau” như Chúa Con đã đòi hỏi họ (3: 23). Hai huấn lệnh nầy “được đúc kết thành một huấn lệnh duy nhất”. Như vậy, đối với thánh Gioan, “đức tin” và “đức ái” bất khả phân ly.
Đức tin sống động nầy đảm bảo cho người tín hữu rằng người ấy“ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (3: 24a). Ở đây, chúng ta gặp lại động từ “ở lại” chất chứa cùng một ý nghĩa như trong Tin Mừng Gioan. Chính Thần Khí bảo lãnh đức tin và đức ái nầy một cách chắc chắn và chính thực (3: 24b). Như vậy, chương nầy kết thúc với cuộc đời Ki-tô hữu trong cùng một quan điểm của Ba Ngôi Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Ga 15: 1-8)
Vì Lễ Thăng Thiên sắp đến gần, lễ tưởng niệm cuộc ra đi trở về nhà Cha của Đức Giê-su, các bản văn Tin Mừng của Chúa Nhật V và Chúa Nhật VI Phục Sinh được trích dẫn từ cuộc trò chuyện cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Tiệc Ly, được gọi là “diễn từ Cáo Biệt” (Ga 13: 31-16: 33).
Dụ ngôn về “Cây Nho Thật” được Chúa Giê-su công bố với các môn đệ Ngài trong cuộc chuyện trò sau cùng này. Xét về bối cảnh, dụ ngôn nầy khó lồng vào khuôn khổ lịch sử của buổi chiều cáo biệt nầy. Sau khi dặn dò rất nhiều điều với các môn đệ mình, Đức Giê-su tỏ dấu rời khỏi bàn tiệc mà đi đến vườn Ô-liu: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!” (14: 31). Ấy vậy, ngay sau lời nầy, Ngài tuyên bố: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho” (15: 1) mà không có đoạn chuyển tiếp nào. Phải chăng Chúa Giê-su kể dụ ngôn nầy khi cùng chung bước với các ông trên đường đến vườn Ô-liu trong đêm? Xem ra hợp lý hơn, dụ ngôn này được Đức Giê-su tuyên bố khi Ngài cùng các môn đệ rảo bước băng qua vườn nho của miền Pa-lét-tin. Đây là cách thức thông thường khi Ngài đưa ra giáo huấn của mình khởi đi từ những dữ kiện cụ thể.
Tuy nhiên, không còn chỗ nào thích hợp hơn là bữa Tiệc Ly ở đó Đức Giê-su nhắc lại dụ ngôn nầy khi mà chén rượu được chuyền tay, khi mà cây nho thật sắp sản sinh rượu nho tinh tuyền nhất từ cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài. Dụ ngôn về “Cây Nho Thật” ngân vang một cung giọng đậm nét Thánh Thể. Trong Tin Mừng của mình, dù thánh Gioan không tường thuật Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể như ba Tin Mừng Nhất Lãm, thánh ký đã biết đóng ấn Bí Tích nầy trong bữa Tiệc Ly cao cả nầy ở nơi dụ ngôn về “Cây Nho Thật”. Nếu chúng ta liên kết bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước với bài Tin Mừng của Chúa Nhật này, Chúa Giê-su đưa ra một sứ điệp thật tuyệt vời. Sau khi đã gợi lên tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa dưới dung mạo “Người Mục Tử Nhân Lành”, nay Chúa Giê-su gợi lên tâm tình mật thiết của Thiên Chúa qua một hình ảnh khác, hình ảnh “Cây Nho Thật”.
1. “Thầy là cây nho thật”:
Khi tuyên bố: “Thầy là cây nho thật”, Chúa Giê-su quy chiếu về một lịch sử dài của biểu tượng chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: Ít-ra-en là cây nho được Thiên Chúa ân cần chăm sóc, như các ngôn sứ không ngừng nhắc đi nhắc lại: Hô-sê, I-sai-a, đặc biệt Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Tv 80, các sách Khôn Ngoan, vân vân. Nhưng dù đã được Thiên Chúa hết lòng chăm sóc, cây nho này đã không đơm bông kết trái như lòng Chúa mong ước. Các vị lãnh đạo hiện nay của dân cung cấp một bằng chứng rõ ràng (x. Mt 21: 33-44). Đức Giê-su là cây nho thật, cây nho hoàn hảo, cây nho sinh hoa kết trái như Chúa Cha mong đợi, nghĩa là Đức Giê-su là Ít-ra-en mới, các Ki-tô hữu kết hợp với Ngài hình thành nên Dân Thiên Chúa Mới, dân mà Ngài chuyển thông nhựa sống của mình cho họ.
Như vậy, nhựa sống mà Ngài chuyển thông cho các cành nho thực chất là sự sống thần linh. Thân nho và các cành nho hình thành nên chỉ một cây nho duy nhất, hình ảnh mật thiết về Chúa Ki-tô với Giáo Hội của Ngài. Ở dụ ngôn này, khía cạnh Giáo Hội cũng rõ ràng như trong dụ ngôn Người Mục Tử Nhân Lành, nhưng điểm nhấn được đặt trên đời sống nội tại của Giáo Hội.
2. “Anh em là cành”:
Ở nơi lời tuyên bố: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (15: 5), chúng ta nhận ra một chủ đề căn bản của Tin Mừng Gioan. Đức Giê-su đòi hỏi một chọn lựa: hoặc gắn bó với Ngài hay từ chối Ngài. Gắn bó với Ngài không luôn luôn là dễ dàng. Đức Giê-su gợi lên những công việc mà các môn đệ của Ngài biết rất rõ, những công việc của người trồng nho xử lý cây nho của mình như thế nào để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái: chặt cành tỉa lá một cách nghiêm khắc, không xót thương. Chúa Cha hành xử như vậy đối với những môn đệ của Con Ngài. Đức Giê-su sử dụng những từ rất quyết liệt; Ngài chuẩn bị cho các môn đệ của Ngài bước vào những thử thách đang chờ đợi họ. Đây chính là mầu nhiệm Vượt Qua mà chính Ngài sẵn sàng trải qua. Luật cắt tỉa cứng rắn, nhưng chỉ như vậy người Ki-tô hữu mới trở thành những cành nho đơm bông kết trái.
Tuy nhiên, Đức Giê-su trấn an các ông: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em” (15: 3). Chữ “lời” được hiểu theo nghĩa giáo huấn, sứ điệp. Đây là nét nghĩa thường hằng trong Tin Mừng Gioan: “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (8: 51); “Ai nghe lời tôi, và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (5: 24); “Các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông” (8: 37). Vả lại, đặc ngữ nầy quy chiếu đến Ngôi Lời trong Tựa Ngôn (1: 1-18).
Trước đây, Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô rồi khi Ngài rửa chân cho ông: “Về phần anh em, anh em đã sạch” (13: 10). Các Tông Đồ được sạch nhờ Lời Thiên Chúa mà họ đã đón nhận, Lời này ở trong họ trở thành một sức mạnh biến đổi nội tâm. Đây là một chủ đề tiêu biểu của thánh Gioan: Ai kết hợp với Sự Thật, người ấy có ở trong mình sức mạnh thanh tẩy, sức mạnh giải phóng khỏi sự dối trá và tội lỗi: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8: 31). Sự thật là sự sống, hai khái niệm rất gần nhau tại Tin Mừng Gioan.
3. “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”.
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (15: 4). Động từ: “ở lại”, là từ chủ chốt của dụ ngôn này. Chúng ta biết rằng, khác với ba Tin Mừng Nhất Lãm, thánh Gioan không sử dụng kiểu nói: “Nước Thiên Chúa” (ngoại trừ trong cuộc đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô ở đó kiểu nói nầy xuất hiện hai lần: Ga 3: 3 và 5). Thánh nhân không bao giờ nói: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” hay “Nước Thiên Chúa ở đó”, vì Nước Thiên Chúa không là một thực tại bên ngoài. Thánh Gioan nhấn mạnh “chiều kích nội tại của Nước Thiên Chúa” và diễn tả chiều kích nội tâm nầy bởi động từ “ở lại”.
Cành nho không thể tự mình đơm bông kết trái được, cũng vậy, “Không có Thầy, anh em không làm gì được” (15: 5) Đây cốt là cuộc sống siêu nhiên mà không ai có thể đạt được hay tăng trưởng được, nếu chỉ cậy nhờ vào những phương thế của riêng mình.
Toàn bộ dụ ngôn về “Cây Nho Thật” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Hậu cảnh bí tích được tiềm ẩn ở đây. Đức Giê-su công bố những lời nầy vài giờ trước cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Chính Giáo Hội là những cành nho, nhất thiết phải gắn bó mật thiết với Đức Ki-tô là thân nho, để tiếp nhận nhựa sống thần linh. Nước Rửa Tội và Rượu Thánh Thể sẽ là những chính lộ của sự chuyển thông nầy; cây nho thật ban sự sống thần linh.
4. “Anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”.
Trong Diễn Từ Cáo Biệt của mình, Đức Giê-su nhiều lần nhấn mạnh lời cầu nguyện. Trong viễn cảnh của sự kết hợp mật thiết giữa thân nho và cành nho, Đức Giê-su gợi lên tính hiệu lực của lời cầu nguyện: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (15: 7). Cường độ của cuộc sống nội tâm kéo theo một sự thẩm thấu giữa ý muốn của Thiên Chúa với ước muốn của người tín hữu. Chính Ngài nêu gương khi hoàn tất cuộc trò chuyện của Ngài với các môn đệ bởi những lời thân thương của Ngài với Cha Ngài, được gọi “Lời Cầu Nguyện của Đức Giê-su” (17: 1-26).
5. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh.
Điều đem lại vinh quang của người trồng nho chính là chất lượng của trái nho cũng như sự phong phú của chùm nho. Cũng vậy, các môn đệ sẽ góp phần vào vinh quang của Chúa Cha bằng những hoa trái thánh thiện và sứ vụ rạng ngời của họ. Lúc đó, họ xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa Giê-su. Bằng những lời nầy, Đức Giê-su diễn tả mối bận lòng chủ yếu của Ngài: thực hiện ý muốn của Chúa Cha, tức là họ phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Đoạn Tin Mừng về cây nho nầy nằm trong diễn từ Tiệc Ly, nhưng không ăn khớp gì với những PS 5-B159
Đoạn Tin Mừng về cây nho nầy nằm trong diễn từ Tiệc Ly, nhưng không ăn khớp gì với những đoạn trước, làm như là một đoạn do thánh Gioan thêm vào. Nhưng nó cũng là những lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi Ngài chịu khổ nạn.
Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh nhất là những hình ảnh về đời sống nông dân để dạy các môn đệ biết những mầu nhiệm Nước Trời. Ở đây Ngài dùng hình ảnh cây nho để chúng ta thấy được mối liên hệ giữa Ngài với chúng ta.
Đối với chúng ta, việc trồng nho chỉ có ở một vài vùng và nhiều người không biết cây nho. Tuy nhiên ví dụ Chúa Giêsu dùng, ai cũng có thể hiểu được.
Ở xứ Do thái là xứ trồng nho, hình ảnh nầy thật quen thuộc. Cây nho là một thứ dây leo, cần có giàn như loại bầu mướp, nhưng cây nho sống rất lâu hàng mấy chục năm và mang nhiều hoa lợi cho người trồng. Trồng nho phải có kỹ thuật mới sinh nhiều trái. Tới mùa phải cắt tỉa những nhánh không thể sinh trái để cây nho có sức đâm chồi mới và sinh trái nhiều và phải có kỹ thuật mới biết tỉa nhánh. Ở xứ đó có rất nhiều thợ chuyên cắt nhánh nho.
Chúa Cha là người trồng nho và Chúa Giêsu tự sánh mình là cây nho thật, nghĩa là cây nho sinh trái tốt. Chúa Cha cũng là người biết cắt tỉa cây nho của mình. Những nhành nào không thể sinh trái. Ngài sẽ cắt đi. Những nhành không trái là những người nguội lạnh không thể sinh trái được, Ngài sẽ cắt đi. Đây phải chăng là một lời cảnh báo cho những người giữ đạo theo thói quen, theo hình thức, làm những việc đạo đức như dâng lễ hay lãnh các bí tích mà tâm hồn vắng mặt. Những người nầy không ích lợi gì cho chính mình mà cũng chẳng ích lợi gì cho Giáo Hội. Chúa sẽ cắt họ đi, nghĩa là loại trừ khỏi tình yêu của Ngài. Đây chỉ là một lời cảnh báo, Chúa không bao giờ muốn loại trừ ai, Ngài luôn kêu gọi trở về.
Chúng ta phải nhận thật rằng hạng người nầy không ít, vì thế Giáo Hội không thể phát triển. Những nhành nào sinh trái tức là những người đạo đức chân thật, Ngài sẽ tỉa sạch bằng nhiều cách, bằng thử thách, bằng đau khổ để gột rửa họ khỏi ích kỷ, khỏi đam mê trần thế… và họ sẽ sinh hoa trái nhiều hơn.
Nhưng trọng tâm của hình ảnh cây nho nầy là mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu với tín hữu. Hình ảnh rất dễ hiểu. Nhánh cây không thể lìa cây. Chúa Giêsu cho thấy, chúng ta không thể nào sống mà không có Ngài. Nhánh cây sống nhờ gốc cây thế nào thì chúng ta cũng nhờ Ngài như vậy. Chúa Giêsu đã lặp đi lặp lại nhóm từ “ở lại trong Thầy” sáu lần trong đoạn nầy. Ở lại trong Thầy, mới không bị vứt ra ngoài, ở lại trong Thầy thì anh em xin gì cũng sẽ được nhậm lời, ở lại trong Thầy sẽ sinh nhiều hoa trái. Nhưng ở lại trong Thầy phải hiểu như thế nào?
Đây là ngôn ngữ của tình yêu. Chỉ có những người yêu nhau thực sự mới ở lại trong nhau, nghĩa là luôn gắn bó với nhau trong một sự hiệp nhất toàn vẹn. Tình yêu luôn ở trong chứ không chỉ ở ngoài. Những lời nói yêu thương nồng cháy, những cử chỉ yêu thương say đắm mà không có tình yêu sẽ chẳng có giá trị gì, chỉ đưa đến nhàm chán và nhạt nhẽo. Tình yêu của Chúa Giêsu đã được chứng tỏ bằng nhiều dấu hiệu. Tất cả cuộc sống của Ngài là Tình Yêu. Ngài dám chết cho người mình yêu. Ở lại trong Ngài chính là trung thành với Ngài, giữ lời của Ngài, sống như Ngài đã sống, yêu như Ngài đã yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa đã yêu chúng ta dù chúng ta không xứng đáng, và Ngài đã yêu đến tận cùng.
Đứng trước tình yêu tuyệt đối như thế, dửng dưng đã là đắc tội rồi. Hãy đáp trả bằng tất cả sức lực, tất cả tâm hồn. Chúng ta đã đáp trả như thế nào? Chắc chắn chúng ta không thể nào yêu như Ngài đã yêu, nhưng Ngài vẫn chấp nhận những cố gắng nhỏ hèn của chúng ta. Ngài biết chúng ta yếu đuối, Ngài không đòi chúng ta những gì chúng ta không thể làm được, Ngài chỉ muốn chúng ta đừng buông bỏ những gì chúng ta có thể làm, và cố gắng. Ngài sẽ bổ sức cho.
Ngài vẫn đến với chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta mồ côi. Ngài vẫn nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt Máu chí thánh của Ngài. Đó là sinh lực cần thiết để chúng ta trung tín mỗi ngày. Điều Ngài mong muốn là chúng ta sinh nhiều hoa trái. Với một điều kiện là ở lại trong Ngài. Ăn lấy Ngài, một lòng với Ngài, sống với Ngài, chúng ta mới mong mang lại hoa trái, và hoa trái chúng ta tồn tại. Vì không có Thầy, anh em sẽ không làm được gì.
Nhiều người đã nghĩ rằng không có Ngài họ đã làm được nhiều việc: phát minh ra nhiều công trình vĩ đại, xây dựng những lâu đài nguy nga. Không có Ngài người ta vẫn lên cung trăng, lên cả sao Hỏa, ghép tim, ghép thận…Nhưng những công trình vĩ đại đó không có Ngài sao? Ngài vẫn có mặt vì Ngài là Ngôi Lời sáng tạo. Nếu không có Ngài thì chẳng có vật gì được tạo thành. Không có Ngài con người chỉ là bọt bèo trên mặt nước, là tro bụi thôi.
Hơn nữa, những công trình vật chất kia, dù vĩ đại trước mặt con người, chỉ là hư vô. Chỉ cần một cơn bão, một cuộc động đất, mọi sự sẽ tiêu tan. Thực tế cho chúng ta thấy rõ ràng như thế.
Cái gì tồn tại? Tình yêu của Ngài. Ngài không cần chúng ta, nhưng Ngài thương chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thực sự. Ngài chính là hạnh phúc duy nhất của chúng ta, vì thế Ngài làm như khẩn khoản van nài chúng ta ở lại trong Ngài. Chúng ta có nghe tiếng van nài của Ngài không? Tại sao Ngài lại hạ mình xuống đến mức độ đó? Phải chăng vì Ngài là Tình Yêu? Tình yêu chân thật luôn hạ mình trước người mình yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng vì Ngài là Tình Yêu.
Ngài chỉ mong ước một điều là chúng ta sinh nhiều hoa trái. Hoa trái là gì? Là vâng theo ý Chúa Cha, là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu, là hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Đó là cách chúng ta tôn vinh Cha chúng ta trên trời. Và điều Chúa Giêsu mong ước chính là chúng ta trở nên môn đệ của Ngài.
Ngài đang cần nhiều môn đệ, những người như Gioan, Phêrô, Phaolô… những người dám liều mạng vì Nước Trời, những người dám sống cho tình yêu của Ngài mà không ngại một cản trở nào. Chúng ta là môn đệ của Ngài không? Chúng ta sống cho cái gì hôm nay? Nếu chúng ta không dám sống cho Ngài, cuộc đời chúng ta sẽ là gì? Nếu chúng ta chỉ lo miếng cơm manh áo mà không nghĩ gì đến vinh danh Chúa thì hoa trái của chúng ta sẽ là gì?
Chúa bảo chúng ta hãy để cho những người không có đức tin lo của cải vật chất, vì họ chỉ có một hạnh phúc đó thôi. Còn chúng ta, tiên vàn hãy lo cho Nước Chúa và mọi sự khác sẽ được ban cho chúng ta. Cha trên trời biết những nhu cầu của chúng ta. Điều quan trọng là gắn bó với Chúa trong suốt cuộc đời, vì không có Thầy, anh em chẳng làm được việc gì, vì nhánh phải liền với cây.
Hãy ăn lấy Chúa hôm nay, ngày mai… để được gắn liền với Ngài. Ngài đã dùng một tấm bánh nhỏ để trở thành một với chúng ta, hãy sống hiệp nhất với Ngài, ở lại trong Ngài để có thể sinh hoa trái như lòng Ngài mong ước. Kitô hữu là người luôn là một với Chúa của mình, dù ăn, dù ngủ, dù làm việc gì, cũng làm vì Chúa mà thôi. Điều nầy chúng ta ai cũng có thể làm được, chỉ cần chú ý. Chúng ta có nghĩ rằng cuộc đời đầy cam go của chúng ta có thể là yếu tố cần thiết để nhánh nho sinh hoa trái dồi dào không? Đừng bỏ quên điều đó. “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay toát lên một cảm nhận kép của ‘hiệp nhất và yêu thương PS 5-B160
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay toát lên một cảm nhận kép của ‘hiệp nhất và yêu thương’ cùng lúc với ‘gây sốc và khó chịu’. ‘Hiệp nhất và yêu thương’ khi Chúa Giêsu nói, “Thầy là cây nho, các con là cành”; nhưng ‘gây sốc và khó chịu’ khi Ngài thêm, “Không có Thầy, các con không thể làm gì được!”. Vậy mà suy cho cùng, đây là một lời nhắc nhở tuyệt vời! Và còn hơn cả lời nhắc nhở, đây là một chân lý sống còn của người môn đệ Chúa Kitô; chân lý này bất ngờ đưa chúng ta đến hai tâm tình quý hơn vàng, đó là ‘khiêm hạ và tạ ơn’.
Để diễn tả mối tương quan giữa Ngài với các môn đệ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thân nho và cành nho, một hình ảnh trìu mến và không ít lãng mạn. Thế nhưng, thoạt nghe, “Không có Thầy, các con không thể làm gì được!”, thì dường như có một điều gì đó gây tổn thương; một sự tổn thương ở lòng tự ái của chúng ta và tổn thương này lại dẫn đến những phản ứng tiêu cực với lời nhắc nhở. Chúng ta không làm gì được nếu không có Chúa, có phải là một sự thật không? Nói như thế, có quá lắm không? Rõ ràng, câu trả lời cho điều này là “Có”; vì Chúa Giêsu không bao giờ nói dối, và Ngài cũng không khoác lác. Chúng ta không thể làm gì được nếu không có Chúa! Để minh hoạ, Ngài đưa ra một ví dụ tượng hình dễ hiểu, “Cũng như cành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy”.
Trên thực tế, nếu Thiên Chúa lãng quên chúng ta trong một khoảnh khắc, nào ai sẽ có thể tồn tại. Ngay cả sự tồn tại cũng phụ thuộc vào Thiên Chúa; khi Ngài tiếp tục trong ý chí của Ngài rằng, chúng ta tồn tại; vì thế, chúng ta tồn tại. Đó là chưa nói đến việc làm điều lành, tạo nên một sự khác biệt, sống một cuộc sống hữu ích… chúng ta lại càng không thể đạt được, nếu không có ân sủng của Ngài. Vì thế, dẫu “Không có Thầy, các con không thể làm gì được!” có thể khó nghe, nhưng nếu ngẫm nghĩ thường xuyên một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ xác tín và nắm bắt sự thật này. Và hậu quả sẽ là hai tâm tình tốt lành xảy ra bên trong chúng ta, đó là ‘khiêm hạ và tạ ơn’.
Trước tiên, chúng ta sẽ trưởng thành trong sự khiêm hạ. Khiêm hạ hay khiêm nhường là “Mẹ của các nhân đức”; bởi lẽ, từ nhân đức này, các nhân đức khác sẽ trào tuôn. Khiêm hạ giúp chúng ta nhận ra rằng, Thiên Chúa là tất cả và chúng ta cần Ngài với 100% nhu cầu. Khiêm nhường cho phép chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi sự và mời Ngài đi sâu vào mọi ngõ ngách đời mình.
Tâm tình thứ hai sẽ xảy đến khi chúng ta nhận ra rằng, chúng ta không thể làm gì nếu không có Chúa, đó là chúng ta sẽ lớn lên trong lòng biết ơn. Khi biết Thiên Chúa là tất cả ‘và lúc ấy’, chúng ta bắt đầu cảm nhận, chính Ngài đang tuôn đổ liên lỉ ân sủng này đến ân sủng khác trong cuộc sống của chúng ta; bấy giờ, tâm tình thích hợp duy nhất của chúng ta sẽ là “Tạ ơn”. Chúng ta sẽ biết ơn Chúa về mọi điều vì chúng ta nhận ra rằng, mọi sự tốt đẹp đều là quà tặng đến từ Ngài.
Bài đọc Công Vụ Tông Đồ và thư thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy điều đó. Hội Thánh sơ khai sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’ khi nhận ra ân huệ Thánh Thần và bình an của Chúa Phục Sinh đang ở với họ. Trong niềm kính sợ Chúa, các Kitô hữu đón nhận nhau trong yêu thương; các tông đồ đón nhận Phaolô nhờ sự giới thiệu của Barnaba… Và Hội Thánh bình an hoan hỷ như Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ, “Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội”.
Trong những ngày hôm nay, bao nhiêu anh em Ấn Độ đang chao đảo vì dịch bệnh. Họ đang đứng bên bờ vực tử thần; có người bi quan nói, “Không ai trong chúng tôi mà không dương tính với Corona”. Ranh giới giữa sống và chết của họ thật mong manh. Biết bao nhiêu người đang chạy khắp các thành phố để tìm mua bình Oxy; lý do, một số bệnh viện chỉ đón bệnh nhân khi người nhà mang theo Oxy. Vậy Oxy chúng ta đang hít thở từng giây đến từ đâu nếu không phải từ Thiên Chúa! Khí trời nuôi dưỡng thể xác cần đến thế, phương chi là Thần Khí nuôi dưỡng tâm linh!
Anh chị em,
Cành nho chỉ tồn tại và sinh trái khi được gắn liền với thân nho. Mỗi người chúng ta cũng chỉ tồn tại khi biết gắn liền với Chúa Kitô; nói cách khác, sự sống của Chúa chính là sự sống của chúng ta. Chúng ta là người phàm nhưng đang sống cùng, sống cho, sống với và sống nhờ sự sống thần linh của Ngài. Sống bởi sự sống của Ngài, chúng ta sinh hoa kết trái, đó là các tố chất thuộc phẩm tính thần linh. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi chúng ta sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con nhận thức được sự bất lực của con. Xin cho con luôn sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’ và đừng bao giờ để mình bị bứt ra khỏi Chúa, bởi Chúa là nguồn sống của đời con”, Amen.
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có PS 5-B161
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có mối liên đới với người kia – dù không quen biết hoặc xa cách nhau hàng ngàn cây số. Liên đới với nhau về những điều tốt đã đành, thậm chí người ta còn liên đới với nhau cả những điều xấu. Mối liên đới càng rõ ràng khi mối quan hệ càng thân thiết.
Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách: Tư vấn, mệnh lệnh, ưng thuận, khiêu khích, nịnh bợ, che giấu, đồng lõa, im lặng, biện hộ. Vì vậy, cần lưu ý:
a) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.
b) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9:26). Đó là tâm lý chung, ai cũng sợ, nhất là Saolô (tức Phaolô) đã từng bách hại đạo Công giáo dữ dội. Thế nên, “ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào” (Cv 9:27).
Từ đó, một Saolô-dữ-tợn-và-tội-lỗi đã biến thành một Phaolô-hiền-từ-và-nhân-đức, cùng với các Tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông là dân trí thức nên ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Thấy ông tranh luận về Chúa Giêsu một cách say sưa và chí lý, họ tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. Hồi ấy, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9:29).
Chúng ta, những người từ xa xăm nhưng được nhận biết và tin vào Chúa Giêsu Cứu Thế. Đó là hạnh phúc lớn lao, đó là chúng ta chịu ơn Ngài. Vì thế, chúng ta phải “dâng lời ca tụng Ngài” (Tv 22:26a), và phải hứa với Ngài: “Điều khấn nguyền, con xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Ngài” (Tv 22:26b). Thật vậy:
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng Cầu chúc họ mãi ngàn đời vui sống Toàn thế giới nhớ lại và trở về Cùng Đức Chúa là Thiên Chúa nhân từ Mọi dân tộc phủ phục thờ lạy Chúa (Tv 22:27-29)
Ngay cả “những kẻ ngủ yên trong lòng đất cũng sẽ đều bái lạy một mình Ngài” (Tv 22:30a), và “những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan” (Tv 22:30b). Còn chúng ta, những người được đón nhận làm con cái của Ngài, phải tự nhủ: “Nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Ngài” (Tv 22:30c-31). Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta không chỉ phải hết lòng tôn thờ Chúa, mà còn phải dạy cho con cái biết yêu mến Ngài, trung tín tôn thờ Ngài và nói cho người khác biết về Ngài.
Yêu mến Chúa không thể chỉ NÓI mà KHÔNG LÀM, như Thánh Gioan đã phân tích rất rõ: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Học phải hành. Yêu ai thì phải quan tâm người đó. Nói chung, bất cứ điều gì cũng phải “ngôn hành song song”. Thánh Gioan nói tiếp: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1 Ga 3:19). Thật vậy, “nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Người ta có thể nói dối nhau, thậm chí tự lừa dối mình, nhưng không ai có thể nói dối Thiên Chúa.
Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, như vậy thật phúc cho chúng ta, và “chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, để rồi “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3:22). Chúng ta xin và được ơn là vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm những gì đẹp ý Ngài. Nói đi nói lại, nói xa nói gần, cả Mười Điều Răn cũng chỉ tóm gọn hai chữ Yêu Thương. Thánh Gioan nhắc: “Chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23), rồi giải thích: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:24).
Tất cả đều có tính liên đới. Liên đới cũng là một trong bốn điểm chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo (thường gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo). Chúa Giêsu cũng đã nhắc tới tính liên đới khi Ngài ví Ngài là Cây Nho, còn chúng ta là cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). Đó là điều chắc chắn. Khoa học cũng đã chứng minh rằng, trong não bộ có những “rãnh chất xám” (chất giúp thông minh), ai lười động não thì các “nhánh chất xám” sẽ khô dần và giảm thông minh, nhưng ai chịu động não thì các “nhánh chất xám” sẽ sinh sôi và càng thông minh. Rất tự nhiên mà thật kỳ diệu! Đó cũng là sự liên đới.
Theo Chúa Giêsu, chúng ta “được thanh sạch nhờ lời Ngài đã nói với chúng ta” (x. Ga 15:3). Ngài căn dặn: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:4). Chúa Giêsu không ưa vòng vo, Ngài luôn nói thực tế, rõ ràng, giản dị và dễ hiểu.
Chúa Giêsu tái xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5a), và Ngài hứa: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5b). Nhưng chúng ta có sinh hoa trái hoặc làm được gì thì cũng không bởi tài năng của chúng ta, đừng ảo tưởng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5c). Ngược lại, Chúa Giêsu nói vế một: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15:6). Chúa Giêsu không hù dọa mà Ngài chỉ nói theo nguyên lý liên đới. Rồi Ngài nói vế hai: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15:7). Đó là sự cân bằng trong một phản ứng, giống như phản ứng hóa học vậy. Ngài kết luận: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:8).
Cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Chính trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con can đảm trong mọi hoàn cảnh để đủ sức kiên tâm chịu đựng và quyết tâm theo Ngài đến cùng. Xin đừng để chúng con quá nghèo hoặc quá giàu, vì nghèo quá hoặc giàu quá thì chúng con cũng có thể xa Chúa. Xin thương xót và che chở chúng con như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Mạng nhện là thứ rất bình thường, thậm chí còn bị người ta ghét, vì làm bẩn nhà cửa, nhưng nó PS 5-B162
Mạng nhện là thứ rất bình thường, thậm chí còn bị người ta ghét, vì làm bẩn nhà cửa, nhưng nó lại mặc nhiên có mối liên kết kỳ diệu dạy chúng ta bài học giá trị.
Mạng nhện là cái bẫy bắt mồi vô cùng hữu ích của loài nhện, bất kỳ con côn trùng hay sâu bướm nào lỡ rơi vào cái bẫy này, ngay lập tức chúng sẽ bị dính chặt mà không thể nào thoát ra được. Tuy nhiên, chính con nhện luôn tiếp xúc với mạng nhện, nhưng nó lại không hề bị dính. Các khoa học gia phát hiện loài nhện còn khéo léo dệt thêm các sợi tơ trắng trang trí bắt chéo như một thủ thuật nhằm bảo vệ hệ thống mạng của chúng khỏi bị hư hại. Các khoa học cũng phát hiện các mạng nhện tinh xảo còn có thể tạo ra âm thanh như một nhạc cụ dây. Thật kỳ lạ!
Hệ thống internet mà chúng ta gọi là “mạng” hoặc website là “bắt chước” mạng nhện. Các hệ thống khác chúng ta gọi là “mạng lưới”. Mạng nhện thật là độc đáo, bất cứ một điểm nào trên đó, ở bất kỳ nơi nào, cũng có liên kết trực tiếp hoặc gián tiếp với các điểm khác. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, không ai là một ốc đảo, người này có liên đới với người khác về phương diện nào đó, xã hội hoặc tâm linh, kể cả về phương diện tội lỗi, dù người này ở xa với người kia.
Thật vậy, mỗi chúng ta đều là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, vì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5). Là con người, dù theo tôn giáo nào hoặc chủ nghĩa nào, chúng ta vẫn có “sợi tình” liên kết với nhau một cách vô hình, không thể tách rời. Nghề này hỗ trợ cho nghề khác, không nghề nào cao hơn hoặc thấp hơn nghề nào: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Đừng ảo tưởng hoặc “sĩ diện” hão huyền – tức là đừng “chảnh”.
Tình yêu vô hình, trừu tượng, nhưng khả dĩ cảm nhận. Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Máu-yêu-thương là Máu-Đức-Kitô, ai theo Ngài và muốn nên giống Ngài thì cũng phải có loại máu đó, tương tự máu O có thể chia sẻ cho mọi loại máu khác. Vì thế, Kitô hữu phải tâm niệm: “Dù chết không tấm hình nhưng tình không chấm hết”.
Trình thuật Cv 9:26-31 cho chúng ta biết điều thú vị. Chuyện là khi Chúa Giêsu mới phục sinh, ông Saolô đã tới Giêrusalem để tìm cách “tiếp cận” các môn đệ. Thế nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chả biết “ất giáp” thế nào, cứ chắc hơn lép. Đôi khi bụng còn chưa tin rốn kia mà! Vả lại “tay” này đâu phải vừa, đáng sợ thật đấy, vì trước đây “hắn” đã từng phi ngựa vung gươm thấy ớn, gặp bất kỳ kẻ nào tin vào Ông Giêsu thì kẻ ấy hết đường sống. Chém! Kiểu như IS (Nhà nước Hồi giáo) ngày nay vậy. Ui da, ớn thiệt chứ giỡn sao!
Thế nhưng chuyện đâu còn có đó, coi vậy mà không phải vậy. Cú ngã ngựa và mù mắt đã thay đổi não trạng của tay nằm vùng Saolô khét tiếng rồi. Thế là ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các tông đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào. Đầu xuôi, đuôi lọt. Mọi chuyện tốt đẹp. Trước là Saolô cứng như sáp nguội, nhưng nay là Phaolô mềm như bún rồi. Đừng sợ chi nữa!
Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông, vì thấy Saolô hung hăng thế mà nay lại tâm phục khẩu phục Ông Giêsu. Phải triệt ngay! Các anh em biết thế nên liền dẫn ông xuống Xêdarê và tiễn ông lên đường về Tácxô. Ở lại không ổn rồi. Tính cách khác thôi!
Thật may, thời kỳ yên ổn đã đến. Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ. Tạ ơn Chúa. Tất cả là Thánh Ý Ngài, “Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Chẳng ai là “cái đinh gỉ” nào cả, chỉ có Thiên Chúa mới là tất cả. Kinh Thánh nói đã cảnh báo: “Chớ khoe khoang vì bộ áo bên ngoài, cũng đừng tự cao trong ngày được vinh dự. Công trình của Đức Chúa thật lạ lùng, nhưng vẫn là bí ẩn đối với phàm nhân” (Hc 11:4).
Vâng, tất cả là hồng ân Thiên Chúa bao la, cao vời khôn ví. Sợi Tình quá đỗi kỳ diệu! Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã thú nhận: “Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người” (Tv 22:26). Chịu ơn thì phải biết ơn, biết ơn thì phải đáp đền, đó là chuyện tất yếu, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Và rồi tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời. Toàn thế giới, muôn người nhớ lại và trở về cùng Chúa. Mọi dân tộc dưới trần phủ phục trước Tôn Nhan” (Tv 22:27-28).
Người sống đã vậy, người chết cũng chẳng yên, phải động lòng. Tác giả Thánh Vịnh vui mừng bày tỏ cả chuyện người lẫn chuyện mình: “Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất sẽ đều bái lạy một mình Người, phàm những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan. Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Người. Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa cho thế hệ tương lai, truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người, rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy!” (Tv 22:30-32).
Sợi gì cũng phải thật, dỏm hoặc giả là đứt ngay. Sợi tình cũng vậy, và còn hơn thế nữa. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Yêu thương là đức ái, đức ái liên quan đức tin. Nhân đức nào cũng cần chứng minh bằng hành động. Thánh Giacôbê đã mạnh mẽ so sánh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).
Chân lý vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, không thể bóp méo. Thánh Gioan kết luận: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:19-20). Cáo tội mình chứ đừng cáo tội người khác, nhưng vì chúng ta vốn là người xấu (Lc 11:13) nên chúng ta không muốn tố cáo mình, không muốn thú tội.
Cáo tội mình là can đảm, biết hướng thiện, biết phục thiện, sống khiêm nhường, mà Thiên Chúa lại rất quý mến người khiêm nhường, lợi cả mọi đàng: “Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người” (1 Ga 3:21-22). Điều răn của Thiên Chúa rạch ròi và dứt khoát: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23-24).
Mối liên kết bằng “sợi tình” như vậy thì luôn chặt chẽ và bền vững, không gì có thể tháo gỡ. Tay không thể trách chân, bụng không thể trách miệng, cổ không thể trách lưng, răng không thể trách lưỡi,… Người ta cũng nói: “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Đó là điều tất yếu vậy!
Nên “thú tội mình”, không nên “cáo tội người”. Vừa khiêm nhường vừa yêu thương. Có những điều chúng ta tưởng vậy mà không phải vậy, nhưng có những điều rất thật mà chúng ta không dám tin đó là sự thật. Cẩn tắc vô ưu: “Chưa tra xét thì đừng buộc tội, suy nghĩ trước rồi hãy trách móc sau” (Hc 11:7). Bênh vực người khác là điều tốt, nên làm. Tuy nhiên, con người dễ “dính” máu-phe-cánh, không bênh vực công lý mà lại bao che cho sự bất công. Sự bao che liên quan động thái giấu nhẹm. Và rồi được nê hoặc ỷ lại, vênh váo ra vẻ “ta đây”, kẻ xấu vẫn tự tung tự tác, thế nên Thánh Phaolô đã kêu lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7).
Chúng ta đã và đang thấy những cảnh trái ngang đó vẫn tiếp tục xảy ra ở xã hội ở khắp thế giới hàng ngày, nhưng trong Giáo Hội cũng không phải không có, thế mới thực sự là điều đáng buồn! Đó là hèn nhát hay nhu nhược? ĐGH Phanxicô nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng nói thật”. Giáo Hội là ai? Là chính mỗi người trong chúng ta. Liệu chúng ta có dám đối mặt sự thật, dù phũ phàng? Khó trả lời hay “ngại” trả lời?
Chúa Giêsu mô tả mối liên kết yêu thương đó bằng hình ảnh cây nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). “Chặt” và “cắt tỉa” là hai động từ mạnh mẽ, diễn tả việc tách rời, dạng nào cũng gây đau đớn, nhưng có hai kết quả khác nhau. “Chặt đi” là cắt bỏ, loại bỏ. Cành cây không phát triển không chỉ bất lợi cho chính nó mà còn bất lợi cho cành khác và hại thân cây. Cắt bỏ! Tế bào ung thư là tế bào hư hại, bất lợi cho cơ thể, phải cắt bỏ càng sớm càng tốt. Cắt bỏ! Nhưng có khi phải tỉa bớt cho cây phát triển mạnh. Sức khỏe thể lý, sức khỏe trí tuệ, sức khỏe tinh thần, sức khỏe tâm linh, tất cả đều phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được mức tốt nhất. Đó là dạng “tỉa” chính mình.
Chúa Giêsu giải thích: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:3-4). Ngài nhấn mạnh: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Chúng ta chỉ là con số KHÔNG to lớn, có làm được chút gì thì cũng là nhờ ơn Chúa, ngay cả chức quyền cũng vậy, tất cả là do “Trời ban cho” (Ga 19:11). Vì thế, đừng ngu dại mà ảo tưởng bao giờ!
Sự thật hay mất lòng, nhưng đôi khi phải nói thật. Chúa Giêsu đã “nói toạc móng heo” luôn: “Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:6-8). Thiên Chúa rất muốn chúng ta sống tốt, trước là có lợi cho mình, sau là có lợi cho tha nhân. Không chỉ vậy, Ngài còn muốn chúng ta “sống dồi dào” (Ga 10:10).
Chính Chúa Giêsu đã chết và phục sinh để chứng mình điều sự mong muốn đầy ắp tình yêu thương đó. Trong Tông sắc “Misericordiae Vultus” (Khuôn Mặt Thương Xót), ấn định Năm Thánh Từ Bi Thương Xót từ 8-12-2015 tới 20-11-2016, ĐGH Phanxicô xác định: “Lòng thương xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội” (số 10). Hằng ngày, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn chúc bình an cho nhau, nhưng có thể chúng ta chỉ làm theo “nghi thức” mà quên “chiều sâu”. Lời chúc bình an rất cần, sau khi sống lại, Chúa Giêsu luôn chúc bình an cho người đối diện mỗi khi Ngài gặp họ. Hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy nối kết với nhau bằng “sợi tình” chân thật qua lời chúc bình an của Niềm Vui Phục Sinh cho nhau với cả tâm thành: “Bình An và Thiện Hảo – Pax et Bonum”. Ai cũng nợ tình nhau, chúng ta phải trả cả đời: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).
Thực tế chúng ta thấy rằng, ngư dân hoặc người bán cá có mùi cá, người chăn vịt có mùi vịt, người nuôi heo (lợn) có mùi heo,... nghĩa là nghề nào cũng có mùi đặc trưng của nghề đó, không lẫn đi đâu được. Tương tự, người chăn chiên phải có mùi của chiên, người không có mùi của chiên thì chắc chắn không phải chủ chiên chính hiệu! Mùi của chiên là mùi gì? Chiên ở vùng miền nào có mùi đặc trưng của vùng miền đó. Các “con chiên” ở Việt Nam không thể “thơm” như chiên ở các nước Âu Mỹ, Tây phương – nghĩa là các “ràn chiên” ở Việt Nam “hôi” lắm. Làm sao phát hiện chủ chiên nào có mùi chiên như vậy? Chắc hẳn ngại nói lắm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết liên kết với nhau bằng sợi dây liên đới Kitô giáo, xin giúp chúng con luân chuyển cho nhau loại Máu Yêu Thương để cùng nhau sống dồi dào trong Tình Thương Xót của Ngài, luôn hoán chuyển Nhựa Tình để các cành của chúng con luôn sống nhờ Nhiệm Thể Đức Kitô, Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Một trong những hình ảnh sống động mà Đức Giê-su dùng để mô tả về mối tương quan mật thiết PS 5-B163
Một trong những hình ảnh sống động mà Đức Giê-su dùng để mô tả về mối tương quan mật thiết giữa Người và chúng ta, đó là cây nho và nhành nho. Bởi lẽ, hình ảnh này gần gũi và quen thuộc đối chúng ta.
Như vậy, dựa trên lời của Đức Giê-su hôm nay: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho…các con là nhành” (x. Ga 15, 1. 5), chúng ta học biết và sống mỗi ngày thế nào?
Trước hết, “nhành nho tự nó không thể sinh trái, nếu không dính liền với cây nho” (x. Ga 15, 4). Cũng vậy, nếu chúng ta không kết hợp với Thầy Giê-su, và không ở trong Người, thì chúng ta chẳng thể làm được gì, vì “không có Thầy, các con không thể làm gì được” (x. Ga 15, 5). Tuy nhiên, Đức Giê-su chẳng đợi chúng ta đến kết hiệp với Người; nhưng đúng hơn, Người đi bước trước, tiến tới chúng ta và trở nên một với chúng ta. Mỗi lúc chúng ta gắn kết với Chúa Ki-tô qua đời sống cầu nguyện thân tình, qua việc tham dự Thánh lễ tích cực, qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc nghe-sống Lời Chúa, qua việc bác ái-tha thứ anh chị em, là khi chúng ta được đỡ nâng, được dưỡng nuôi nhờ nguồn dinh dưỡng vô bờ bến của Chúa, tựa như nhành nho hút lấy khoáng chất, nước từ thân cây nho, và cứ thế xanh tươi, trổ bông, rồi kết trái. Sự kết nối thân thiết này là một quá trình liên tục, thường xuyên, không ngắt quãng. Sự kết nối này phải luôn được bồi đắp mọi lúc, mọi nơi, trong mọi trạng huống của cuộc sống, khi vui cũng như buồn, khi thành công cũng như thất bại, khi hạnh phúc cũng như sầu khổ, khi vinh hoa cũng như nghèo khổ, khi được khen tặng cũng như bị chê bai, khi khoẻ mạnh cũng như khi bệnh hoạn, v.v…Như vậy, chúng ta đang sống như lời răn dạy của Thánh Gio-an Tông đồ được trích trong bài đọc II: “Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi (hoặc: đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi), nhưng bằng việc làm và chân thật” (1Ga 3, 18). Quả thật, chúng ta tin chắc Thiên Chúa ở trong chúng ta, nhờ Thần Khí Người ban tặng cho chúng ta, Thần Khí sự thật.
Tuy nhiên, “nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi” (Ga 15, 2). Có phải Chúa quá khắt khe với chúng ta? Xin thưa liền: Nếu Người khắt khe, thì chúng ta đã bị tiêu diệt như thời Cựu ước từ lâu rồi! Thế nhưng, Người luôn chờ đợi chúng ta, luôn ban cho chúng ta cơ hội ‘trở về’, và luôn tuôn đổ ơn cần thiết giúp chúng ta dám thay đổi bản thân, hoán cải trở về. Cảm nghiệm cải hối hoàn toàn này được minh chứng một cách hùng hồn nơi Thánh Phao-lô Tông đồ. Từ một người năng nổ bắt bớ, cấp cách đạo Chúa, trở thành một người đầy nhiệt huyết làm chứng cho Chúa, và mở rộng Giáo hội, đặc biệt cho những ai không phải Do Thái: “Từ đó, ngài ra vào Giê-ru-sa-lem với các ông, và dạn dĩ xưng danh Chúa. Ngài cũng giảng dạy cho dân ngoại…Hội Thánh được bình an trong miền Giu-đê-a, Ga-li-lê-a và Sa-ma-ri-a, sống trong sự kính sợ Chúa, được xây dựng và đầy ơn an ủi của Thánh Thần” (Cv 9, 28.29.31). Nếu chúng ta thật sự ‘ở trong Thầy Giê-su’, chắc hẳn chúng ta để Người biến đổi con người chúng ta, và chúng ta mạnh dạn thay đổi bản thân, gan dạ để Người cắt tỉa. Biết rằng, khi bị cắt tỉa, chúng ta phải hy sinh, có khi đau đớn, mất mát, nhưng nếu so với hoa trái sau khi được tỉa sạch, thì tất cả những gì chúng ta bỏ ra hoặc bỏ đi chỉ là phần ít ỏi mà thôi. Ơn Chúa biến đổi chúng ta lớn lao hơn nhiều.
Sau cùng, “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được” (Ga 15, 7). Niềm tin tưởng giữa con người với nhau luôn khởi đầu từ mối tương quan chân thật và chân thành. Khi mối quan hệ bền chặt, đủ lớn thì lòng tin sẽ được sinh ra, rồi dần dần mạnh mẽ. Hơn thế, lúc chúng ta sống kết hiệp với Chúa Giê-su, giữ Lời Người, dĩ nhiên, Người sẽ ở trong chúng ta, và chúng ta thuộc về sự thật, vì Người là ‘chân lý’. Nói cách khác, chúng ta trở nên tín thác, cậy trông hoàn toàn nơi Chúa, phó dâng mọi điều cho Người, ngõ hầu để Người thực hiện kế hoạch yêu thương nơi chúng ta. Khi ấy, chẳng phải chúng ta xin những gì theo ý riêng nữa, mà luôn theo Thánh ý Chúa. Chẳng phải chúng ta nài van ơn này ơn kia để thoả mãn nỗi khát vọng của bản thân nữa, mà luôn biết đặt niềm tin trọn vẹn nơi Chúa, vì Người thấu tỏ mọi điều, và biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết ta.
Như nhành nho kết hợp với thân nho Xin Ngài luôn nên một với con thơ Để con thơ sống mãi trong tình Chúa Và cuộc đời trổ sinh hoa trái lành. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
CAN ĐẢM RAO GIẢNG PHẢI ĐI KÈM VỚI HÀNH ĐỘNG DŨNG CẢM
Trong bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nghe kể về Saolô (sau này được gọi là PS 5-B164
Trong bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nghe kể về Saolô (sau này được gọi là Phaolô) và việc ngài giới thiệu mình với các Tông đồ. Trước đây, Saolô từng là người bắt bớ các Kitô hữu, nhưng sau một thị kiến và gặp gỡ với Chúa Kitô, ngài đã hoán cải thay đổi cả tâm hồn và thái độ (Cv 9, 1-19). Trong bài đọc hôm nay, chúng ta có thể hiểu được lý do các Tông đồ đã tỏ ra nghi ngại Saolô, khi biết những hành động của ngài trong quá khứ, nhưng Barnaba thì có vẻ thân thiện đứng ra bảo lãnh cho Saolô. Khi Saolô tiếp tục sứ vụ mới của mình, ngài “mạnh dạn tuyên xưng danh Chúa.” Mạnh dạn tuyên xưng có nghĩa là gì?
Trước đó trong sách Công vụ Tông đồ, thánh sử Luca đã miêu tả một vài Tông đồ mạnh dạn nói và cầu xin cho được dạn dĩ, không e sợ (xem Cv 4, 13, 29-31). Thực hành này giúp các ngài loan truyền Tin mừng, đặc biệt qua việc chữa lành và các dấu lạ. Sau khi các Tông đồ cầu xin cho được mạnh dạn, họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và hành động đầu tiên là đến giúp đỡ những người cần giúp đỡ nhất, như chúng ta đã nghe đọc vào Chúa nhật thứ hai Phục sinh. Sự mạnh dạn của các Tông đồ thể hiện qua sự rộng lượng của các ngài, chia sẻ của cải và bảo đảm đáp ứng nhu cầu của người khác. Lời nói dạn dĩ nhân danh Chúa phải đi đôi với những hành động dũng cảm cho những người cần đến sự chăm sóc cả về thể lý lẫn tinh thần. Bài đọc hai hôm nay trích thư thứ nhất của thánh Gioan, trình bày một ý tưởng tương tự, khi quả quyết rằng: “Chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật.”
Trong bài Tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã nói cách ẩn dụ để giải thích về các mối liên hệ: Chúa Cha là người trồng nho, Chúa Giêsu là cây nho và các môn đệ là cành nho. Như cây nho, Chúa Giêsu giúp nối kết các môn đệ với Chúa Cha. Hơn thế nữa, chính Chúa Cha là người đã chăm bón cho cây nho và giúp cho cành nho sinh trái, cũng như cắt tỉa những cành không sinh trái.
Thánh Gioan sử dụng hình ảnh này vì có lẽ nó phù hợp với cử tọa thính giả của ông là những người đã quen thuộc với việc trồng nho. Hơn nữa, ngài ám chỉ đến những hình ảnh trong Cựu ước mô tả niềm hy vọng và kế hoạch của Thiên Chúa dành cho dân Ngài. Một số ngôn sứ so sánh dân Israel với hình ảnh cây nho hoặc vườn nho, thường dùng hình ảnh này để diễn tả nỗi thất vọng về sự bất trung của dân Israel. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa trừng phạt dân Israel vì họ thờ các thần ngoại và không tuân giữ các điều răn: “Thật vậy, Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng, cây nho thuần chủng. Sao ngươi lại thoái hóa thành những cành nho tạp chủng?" (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng chỉ trích dân Israel là một vườn nho không sinh hoa lợi: “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Israel đó; cây nho Chúa yêu mến quý chuộng, ấy chính là người xứ Giuđa; Người những mong họ sống công bằng, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.” (Is 5, 7).
Tuy nhiên, thánh Gioan sử dụng hình ảnh cây nho để đặc biệt nhấn mạnh đến kết quả tích cực. Chúa Giêsu tuyên bố những ai ở lại trong Ngài, hiểu và sống theo Tin mừng, sẽ trổ sinh hoa trái. Việc “ở trong Đức Kitô” có tính năng động. Nó không đơn thuần là niềm tin vào Đức Kitô; nhưng hơn thế, đó là một hành động mưu cầu công bình. Phần kết của bài Tin mừng lập lại các mối liên kết và những kết quả tích cực qua việc khẳng định rằng khi sinh hoa trái và sống như người môn đệ của Chúa Giêsu, họ làm rạng danh Chúa Cha.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở phải nói năng và sống cách mạnh dạn. Chúng ta nên suy gẫm là khi đã tin vào Chúa Kitô thì ta phải có hành động như thế nào, đặc biệt là đối với những người đang cần giúp đỡ nhất. Sống dạn dĩ, mạnh bạo là sống sao cho phù hợp với sứ điệp Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Đêm trở gió! Sáng dậy, vừa bước chân ra sân thì nhìn thấy cành xoài bị gãy! Đó là hậu quả của PS 5-B165
Đêm trở gió! Sáng dậy, vừa bước chân ra sân thì nhìn thấy cành xoài bị gãy! Đó là hậu quả của đêm hôm qua với cơn lốc và gió mạnh đi qua.
Cành xoài nặng trĩu những bông hoa đang đơm trái cũng như những trái non đang lớn nay đã không còn liền cây nữa. Chỉ có một chuyên duy nhất là lất cái cưa ra để cưa phần còn lại dính cây và dọn dẹp bãi "chiến trường".
Trưa đến, vài người trong xóm ghé nhà thấy cây xoài xum xuê hoa và trái cảm thấy tiếc nuối cùng gia chủ. Không phải chỉ cây xoài nhà tôi bị gãy cành tối qua nhưng những cây gần nhà xung quanh xóm cũng cùng chung số phận với cây xoài nhà tôi do cơn lốc lớn.
Tiếc thương cũng rồi bởi lẽ không có cách nào ghét được cái cành gãy lìa khỏi thân.
Nhìn cây xoài mất cành chợ nhớ đến hình ảnh cây nho ngày hôm nay Chúa nói trong trang Tin Mừng.
Để diễn tả mối tình thân giữa mình với các môn đệ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh rất gần gụi trong đời sống đó là cây nho và cành nho. Dĩ nhiên ai ai cũng biết rằng cành nho sinh hoa kết quả khi nó gắn liền thân nó vào cây nho. Cũng như cành xoài kia, muốn có hoa quả tiếp tục thì không có cách nào khác là phải gắn vào cành cây.
Hình ảnh thân thương đó gợi lên cho ta hình ảnh thật gần với Thầy Giêsu. Chúa Giêsu diễn tả mối thân tình giữa các môn đệ và Chúa Giêsu sẽ sinh nhiều hoa trái nếu như cành đó được tỉa sạch đi những chỗ khuyết chỗ dư.
Như thế, càng kết hiệp với Chúa Giêsu, càng cắt tỉa đời mình thì người môn đệ cũng sẽ sinh nhiều bông hạt như lòng Chúa mong muốn.
Hẳn nhiên, nếu ta kết hợp thật, kết hợp thân tình thì ta sẽ sinh những hoa quả thật.
Điều này, ta thấy Thánh Gioan tông đồ vừa nhắc nhở ta rất chân tình trong thư của Ngài: Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật. Do đó, chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.
Có lẽ, nếu như Chúa Giêsu đến và hỏi ta thì ta cũng sẽ nói rằng: "Lạy Chúa! Chúa biết con kết hợp với Chúa mà!"
Nhưng, kỳ thực ta sống với Chúa như thế nào? ta kết hợp thân tình với Chúa như thế nào chỉ có ta mới lượng định được thôi.
Một ngày, Chúa ban cho mỗi người chúng ta đồng đều như nhau là 24 giờ và 1 tuần lễ có 7 ngày. Ai cũng biết và ai cũng có quỹ thời gian như thế nhưng thử hỏi ta sống với Chúa được bao nhiêu giờ trong ngày và bao nhiêu giờ trong tuần.
Hẳn nhiên ta cũng sẽ trả lời vời Chúa rằng: "Chúa ơi! Con phải lo cơm áo gạo tiền, con phải vất vả với cuộc sống lắm!"
Lý do ngụy biện của ta đúng lắm vì ai ai cũng phải lo kế sinh nhai. Thế nhưng trong thực tế ta có bận đến độ như ta biện minh với Chúa hay không?
Chỉ là 1 giờ đồng hồ để gắn kết với Chúa 1 tuần nhưng ta vẫn thường tính trước tính sau và cân đo đong đếm với Chúa. Dường như ta sợ đến với Chúa nhiều giờ ta cảm thấy thiệt thòi và lỗ vốn hay sao đó!
Không phải là nhiều nhưng có những người tìm đến vời nhà thờ ở Sài Gòn nổi tiếng với lễ Chúa nhật có giảng luôn chỉ vỏn vẹn 30 phút! Đến với Chúa còn tính đến độ đó thì làm gì có thời gian, có tâm tình ở lại với Chúa được.
Không chỉ với Chúa người ta tính thời gian như thế nhưng rồi ngay cả ở với nhau người ta còn tính toán.
Một thực tế rõ ràng trong cuộc sống: Giữa cuộc sống bộn bề hối hả, các bậc cha mẹ thường bị cuốn theo công việc và những mối lo toan hàng ngày. Vì thế, họ ít dành thời gian để trò chuyện hoặc chơi với con, với gia đình. Điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách và sự hòa nhập của trẻ trong tương lai cũng như sự gắn kết với nhau trong tình gia đình.
Một câu chuyện thật dễ thương mà chắc ai nào đó cũng đã từng được nghe: Bán cho con 1 giờ của cha”. Câu chuyện đã làm tôi suy nghĩ mãi, nội dung câu chuyện nói về việc đứa con muốn người cha của em dành cho em một khoảng thời gian nên em đã hỏi cha. "Cha ơi, một giờ làm việc cha kiếm được bao nhiêu tiền?”. Người cha đó mới đầu đã rất bực khi nghe đứa con bé bỏng của mình hỏi vậy. Nhưng ông đã cho con biết một giờ làm được bao tiền, sau khi nghe cha nói em bé đã hỏi xin người cha tiền. Người cha quát: "Sao con ích kỷ thế, cha đã làm việc cả ngày vất vả mà con còn xin tiền để mua đồ chơi vớ vẩn. Thằng bé nhìn cha vội vã trở về phòng. Sau khi tắm rửa, cơm nước và nằm thoải mái xem tivi, người cha sực nhớ lại hành động của mình hồi sáng và cảm thấy tội nghiệp thằng bé. Có thể thằng bé muốn mua một cái gì đó và ông đã đưa cho con tiền. Thằng bé bật dậy lấy tiền của cha và lấy thêm một chút tiền lẻ mà nó đã để dành được dưới gối. Thằng bé nói: "Con đủ tiền rồi, cha bán cho con 1 giờ làm việc của cha đi. Con muốn cha chơi với con nhưng lúc nào cha cũng bận làm việc"!
Hãy dành thời gian cho con cái, cho gia đình của bạn, đó là thông điệp mà các thiên thần nhỏ cũng như gia đình của bạn đang mong muốn.
Vì thế dù bận đến đâu đi chăng nữa ta hãy dành một chút thời gian cho con ta, cho vợ ta cho chồng ta, cho gia đình ta đôi khi chỉ là để nghe con giải thích và đừng bao giờ để con bạn nói rằng: “Bán cho con 1 giờ làm việc của bố đi!”
Chúa cũng sẽ nói với ta: "Bán cho Chúa 1 giờ làm việc của con cho Ta".
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta vượt giới hạn con người nhỏ bé của ta để ta dành thời gian đời ta cho Chúa và gắn kết đời ta với Chúa. Chỉ khi ta gắn kết đời ta với Chúa thì khi đó ta mới sinh ra những hoa quả như lòng Chúa mong muốn mà thôi.
Cách đây cũng hơi khá lâu, thì dân chúng náo loạn bởi vì cái nhà thờ chính tòa ở Torino bị cháy PS 5-B166
Cách đây cũng hơi khá lâu, thì dân chúng náo loạn bởi vì cái nhà thờ chính tòa ở Torino bị cháy. Thực sự ra thì, không ai muốn nó bị cháy cả. Nhà thờ cháy thì có thể xây lại được, nhưng mà có một cái mà người ta phải lo lắng đó là gì? Đó chính là cái nhà thờ Tôrinô ở Ý đó chứa đựng cái khăn liệm nổi tiếng mà người ta cho rằng đó là khăn liệm Chúa Giêsu khi mà Chúa Giêsu chết. Hóa ra rằng là người ta quý cái khăn liệm hơn là quý cái nhà thờ. Bởi vì cái nhà thờ có thể xây dựng được còn cái khăn liệm thì không thể nào tìm ra.
Nhưng mà rồi có một người thanh niên đã liều mình chấp nhận đổ mồ hôi máu của mình ra để mà đi vào đi vào tận gian cung thánh để mà cứu lấy cái tấm khăn liệm đó khỏi đám cháy và người lính cứu hỏa đã bay vào nhà nguyện và đem ra cái tấm khăn liệm còn nguyên. Và phải nói rằng Anh ta là một người hùng, bởi vì Anh ta đã cứu lấy báu vật.
Thật sự ra, anh ta là một người hùng đã cứu lấy báu vật là tấm khăn liệm đó cũng đúng! Nhưng người Kitô hữu của chúng ta được mời gọi, quan trọng hơn cái tấm khăn liệm đó chính là chúng ta giữ lấy Đức Kitô, chúng ta ôm lấy, chúng ta mặc lấy Đức Kitô trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Và trở lại với bài đọc thứ I, Chúng ta nhìn thấy gương mặt rất quen thuộc của thánh Phaolô. Thánh Phaolô gặp nhiều trở ngại, gặp rất là nhiều khó khăn, bởi vì trước đây ngài là người bách hại Chúa, ngài đi bắt đạo.
Nhưng mà rồi, ngài lại quay đầu trở lại với Chúa Giêsu, Đấng mà trước đây ngài đã từng đi bắt. Và cuộc trở lại của thánh Phaolô chúng ta suy nghĩ cho kỹ. Nó không phải là cuộc trở lại bình thường như một người nghiện ma túy không có chơi ma túy nữa! Hay là một người đàn ông có 3, 4 bà vợ. Bây giờ trở lại không sống với 3, 4 bà vợ nữa mà sống với bà vợ của mình. Hay là một người thích đi bia ôm không uống bia nữa trở lại với đời sống đạo đức.
Đó là những cuộc trở lại mà chúng ta thấy xung quanh chúng ta. Đó là những cuộc trở lại về luân lý, và đạo đức. Nếu mà chúng ta nhìn thấy cuộc trở lại của thánh Phaolô về luân lý và đạo đức thì không phải. Chúng ta nên nhớ: thánh Phaolô là một người đạo đức và nhiệt thành, và nhìn thánh giữ luật rất là tỉ mỉ.
Chúng ta thấy người Pharisiêu nhiệt thành thì ngoài việc ăn chay 1 tuần đến 2 lần. Còn chúng ta là người Công giáo chúng ta 1 năm ăn chay có 2 lần mà quên tới quên lui.
Có nhiều người bảo rằng là: chết rồi, ngày hôm nay ăn chay mà quên rồi! Thì bây giờ quên thì ăn lại thôi! Biết sao bây giờ!
Nhưng mà nói tới điều đó, thánh Phaolô không trở lại về mặt luân lý và đạo đức nhưng mà hơn nữa rằng là thánh Phaolô đã trở lại bằng cả cái con người với Chúa Giêsu.
Trước đây, cái con người mang tên Giêsu Phaolô ghét cay ghét đắng. Và thậm chí, xin giấy giới thiệu để mà bắt tất cả những ai mà tin vào cái con người mang tên Giêsu. Ngày xưa thì ghét cay ghét đắng, thế nhưng mà bây giờ trở thành một con người si mê không phải si mê bình thường nữa mà chúng ta thấy cái tâm tình của Phaolô: Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi. Sống với tôi là Đức Kitô và chết là mối lợi.
Có khi mình nghe câu nói của thánh Phaolô, Nhưng mà mình chưa thấm được cái lời, cái tâm tình của Phaolô.
Nhiều khi vợ chồng với nhau, nhưng mà có thể, một lúc nào đó hứng thì nói thôi: Sống đối với anh là em, và anh sẵn sàng chết vì em. Nhưng mà một lúc nào đó , người ta không can đảm để mà nói lời đó! Một cái phút chóc nào đó người ta nói lên thôi! Chứ còn không ai dám can đảm như Thánh Phaolô để mà thay đổi cả cuộc đời của mình.
Đó là cốt lõi niềm tin Kitô Giáo. Niềm tin Kitô Giáo không chỉ là giữ một mớ luật luân lý đạo đức. Đó là chưa phải niềm tin Kitô Giáo đích thực. Mà niềm tin Kitô giáo đích thực đó là gắn bó cả cuộc đời của mình với một con người mang tên là Giêsu.
Giữ đạo, giữ luật, giữ một cái hệ thống luân lý, hay là một cái hệ thống tư tưởng về Đức Giêsu rất là tốt! Nhưng đó chỉ là cái việc đến sau thôi. Cái điều đó là cái điều cần nhưng là cái điều căn bản nhất là mình gắn bó cuộc đời với Chúa Giêsu như thế nào?
Và cái chuyện gắn bó Cuộc của mình với Chúa Giêsu. Ngày hôm nay Chúa Giêsu, dùng hình ảnh rất là bình thường để mà diễn tả, rất là dễ thương: Thầy là cây nho, anh em là cành.
Mối liên hệ giữa cây nho và cành cây hay là bất cứ một cái cây nào đó với cành nói lên một cái hệ tư tưởng nói lên một cái hệ thống tư tưởng đó là về Sinh Tử chúng ta liên tưởng đến cái chuyện sinh tử .
Cành cây mà lìa khỏi cây thì sao mà sống được? Cành cây mà lìa khỏi cây thì chỉ có chết thôi.
Và rồi sống niềm tin Kitô giáo là, chúng ta đi sâu trong cái mối Hiệp thông với Chúa Giêsu hơn! Nói thì có thể là lý thuyết, hay là xem ra có thể là thần bí.
Tưởng rằng là giữ đạo, giữ luật nhưng mà, cái tốt hơn là hiệp thông với Chúa Giêsu và để cho cái sự sống của Chúa Giêsu nó chảy trong mình, và cái sự sống của mình nó chảy trong Chúa Giêsu . Và nếu như nói đến đó nhiều người sẽ hỏi rằng là làm sao sống được mối quan hệ sâu xa như vậy? Cây nho và cành nho để diễn tả cái mối liên hệ sống còn giữa cây và cành. Cây và cành nho là thế giới vật chất thôi! để diễn tả cái sự sống còn đó.
Và rồi chúng ta nhìn đến cái hình ảnh nào để mà diễn tả cái mối liên hệ đó?
Mối tình thầy trò, chắc có lẽ chưa đủ, mối tình cha mẹ chắc có lẽ cũng chưa đủ, và chắc có lẽ cao hơn đó chính là cái tình yêu nam nữ, cái tình yêu vợ chồng.
Khi hai người yêu nhau không còn là hai nữa mà là một. Tình yêu của 2 người đó rất là tuyệt vời. Niềm vui của người này cũng là niềm vui của người kia, nỗi buồn của người này cũng là nỗi buồn của người kia . Và cái tình yêu nam nữ đó chia sẻ cái sự sống với nhau.
Và làm sao chúng ta sống cái mối liên hệ sâu xa nhất của chúng ta với Chúa Giêsu. Và chúng ta yêu như thế nào với Chúa Giêsu. Ngoại trừ những cái mối tình sét đánh thì mình không bàn tới. Còn những mối tình yêu chân thật là họ tiếp xúc với nhau, họ khám phá nhau, họ không chỉ nhìn cái nhung nhan bên ngoài, mà họ nhìn cái cách xử sự, cái lối sống, và từ từ , dần dà nó phát sinh ra cái tình yêu. Và rồi với cái tình yêu nam nữ đó, chúng ta lại đặt lại cái tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu.
Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua thánh lễ. Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua Lời của Ngài.
Và rồi Chúa Giêsu, đặt trong trường hợp của chúng ta, chúng ta có hành xử theo cái lối hành xử của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta có phản ứng như phản ứng của Chúa Giêsu hay không? Khi một người hành hạ một người nói xấu một người chà đạp mình chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta sẽ phản ứng như thế nào? và khi chúng ta bị cám dỗ chúng ta sẽ phản ứng như thế nào?
Chúng ta có đặt câu hỏi, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế nào hay không?
Cách cụ thể của chúng ta, chúng ta diễn tả đặc biệt với Chúa Giêsu qua thánh lễ.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” cái câu đó diễn tả một cái niềm tin sâu sắc. Và Thánh lễ chính là cái lúc, cái thời điểm tuyệt vời nhất để diễn tả cái niềm tin, cái sự kết hợp giữa ta với Chúa.
Nhưng mà liệu ngày hôm nay, mấy ai giữ được thánh lễ cho trọn vẹn, mấy ai kết hợp mật thiết với Chúa trọn vẹn. Dường như, người ta chỉ đi lễ cho xong và tự vấn an rằng: Tôi đã tham dự đủ thánh lễ.
Và đặc biệt khi rước lễ: vội vã, vội vàng để làm sao đi về cho lẹ. Có những người chưa kịp nhận phép lành cuối lễ, nhưng đã đi ra về rồi! bởi vì người ta không có cái thời gian đủ, để lắng đọng để kết hợp với Chúa Giêsu.
Hồi nhỏ, con nhớ cái bài hát rất là dễ thương:
- Trong tin yêu say đắm, con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Tuy Hai bên chưa nói nhưng đã hiểu nhau thật nhiều.
Khi mà mình kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể và Chúa Giêsu kết hợp với mình. Khi đó cái tình yêu rất tuyệt vời! Máu của Chúa Giêsu chảy trong ta và máu của ta chảy trong Chúa Giêsu. Và khi đó ta kết hợp nên một với Chúa Giêsu , một cái tình yêu rất tuyệt vời!
Như cành nho gắn liền với cây nho, sinh hoa trái. Cuộc đời của mỗi người Kitô Hữu của chúng ta nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu. Chúng ta yêu thương Chúa Giêsu và chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế, thì cuộc đời của chúng ta sẽ cảm thấy mình hạnh phúc. Và không có gì chia cắt được. Như Thánh Phaolô nói:
“Không có gì tách rời tôi khỏi tình yêu Giêsu Kitô dù chiều sâu, chiều cao chiều rộng, dầu là bắt bớ dù là trần truồng, dù là đói khát”.
Cái cảm nghiệm của thánh Phaolô , cái tình yêu của thánh Phaolô và Chúa Giêsu là một cái tình yêu mà chúng ta cần phải chiêm ngưỡng để chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúng ta có gắn bó, chúng ta có yêu Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã trở lại, đã đổi cuộc đời của mình để nên một với Chúa Giêsu hay không?
Ngày hôm nay, giữa một cái cuộc sống cơm áo gạo tiền, cũng không phải phủ nhận được ai ai cũng phải kiếm tiền để mà sống, để mà lo thân, lo tương lai. Nhưng mà đôi khi chỉ vì tiền chúng ta đánh mất, không những đánh mất tình yêu với Giêsu, mà còn đánh mất cái tình yêu với anh chị em đồng loại.
Có khi chỉ vì vài ngàn đồng bạc, vài chục ngàn đồng bạc, mà người ta đã làm tổn thương người khác. Và chỉ có khi vài phút đồng hồ, vài giây đồng hồ mà người ta làm tổn thương tình yêu Giêsu, người ta cũng không ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu.
Xin Chúa ngày hôm nay, cho chúng ta khi nghe lại câu nói của Chúa Giêsu khi nhắc nhớ đến mối tương quan giữa cây nho và cành nho cũng nhắc nhớ cái mối tương quan giữa mỗi người chúng ta. Để chúng ta chấn chỉnh lại cái mối tương quan của chúng ta, chúng ta có yêu Chúa chúng ta có kết hợp thực sự với Chúa không? Nếu như chúng ta kết hợp, chúng ta yêu Chúa đủ, thì tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ nảy sinh ra nhiều hoa trái như lòng Chúa mong ước. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn PS 5-B167
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Đức Kitô, Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử: xin Chúa lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn chúng ta, là những kẻ tin kính Đức Kitô, và ban cho chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là được tham dự vào tiệc cưới Con Chiên, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền cho thấy: Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là vui hưởng ánh sáng của Đức Kitô, Người là “ngày” không bao giờ tàn lụi, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Mácximô đã nói: Ánh sáng của Đức Kitô là ngày không có đêm, là ngày vô tận. Thật thế, chính Chúa Con là Ngày, vì Chúa Cha là Ngày hằng thông ban bí nhiệm thần tính của Người cho Chúa Con. Tôi xin nhắc lại : chính Chúa Con là Ngày, vì Người đã phán qua vua Salômôn: Ta đã làm cho ánh sáng không tàn lụi bừng lên trên trời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là ơn cứu độ phổ quát dành cho tất cả mọi người, vì thế, chúng ta phải rao truyền ơn cứu độ đó cho mọi người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phaolô và thánh Banaba đã nhiệt tình rao giảng Tin Mừng khắp nơi: Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
Hưởng gia nghiệp muôn đời thì phải sống xứng đáng, và phải có cung cách hành xử giống như Đấng đã cho chúng ta được cùng hưởng gia nghiệp với Người, đó chính là phải biết yêu thương nhau, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia cũng nguyện giữ trọn điều khấn hứa cùng Chúa: Lạy Chúa, giữa lòng đại hội, con nguyện tán dương Ngài. Điều khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước mặt những ai kính sợ Người. Kẻ nghèo hèn được ăn uống thỏa thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Ai ở lại trong Thầy, thì sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Cành nho sẽ không thể tự mình sinh trái, nếu không gắn liền với cây nho; nếu không ở lại trong Đức Kitô, chúng ta sẽ thể tồn tại được; nếu không chấp nhận bị cắt tỉa, chúng ta không thể sinh hoa trái được. Hoa trái của Thánh Thần xuất phát từ thân nho Giêsu, không tháp nhập, không thông dự vào những đau khổ của Đức Kitô, chúng ta không thể sinh được những hoa trái tốt lành. Nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử. Ước gì chúng ta biết ở lại trong Đức Kitô, để chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Đức Kitô, Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử: xin Chúa lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn chúng ta, là những kẻ tin kính Đức Kitô, và ban cho chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là được tham dự vào tiệc cưới Con Chiên, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền cho thấy: Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là vui hưởng ánh sáng của Đức Kitô, Người là “ngày” không bao giờ tàn lụi, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Mácximô đã nói: Ánh sáng của Đức Kitô là ngày không có đêm, là ngày vô tận. Thật thế, chính Chúa Con là Ngày, vì Chúa Cha là Ngày hằng thông ban bí nhiệm thần tính của Người cho Chúa Con. Tôi xin nhắc lại : chính Chúa Con là Ngày, vì Người đã phán qua vua Salômôn: Ta đã làm cho ánh sáng không tàn lụi bừng lên trên trời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là ơn cứu độ phổ quát dành cho tất cả mọi người, vì thế, chúng ta phải rao truyền ơn cứu độ đó cho mọi người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phaolô và thánh Banaba đã nhiệt tình rao giảng Tin Mừng khắp nơi: Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
Hưởng gia nghiệp muôn đời thì phải sống xứng đáng, và phải có cung cách hành xử giống như Đấng đã cho chúng ta được cùng hưởng gia nghiệp với Người, đó chính là phải biết yêu thương nhau, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia cũng nguyện giữ trọn điều khấn hứa cùng Chúa: Lạy Chúa, giữa lòng đại hội, con nguyện tán dương Ngài. Điều khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước mặt những ai kính sợ Người. Kẻ nghèo hèn được ăn uống thỏa thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Ai ở lại trong Thầy, thì sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Cành nho sẽ không thể tự mình sinh trái, nếu không gắn liền với cây nho; nếu không ở lại trong Đức Kitô, chúng ta sẽ thể tồn tại được; nếu không chấp nhận bị cắt tỉa, chúng ta không thể sinh hoa trái được. Hoa trái của Thánh Thần xuất phát từ thân nho Giêsu, không tháp nhập, không thông dự vào những đau khổ của Đức Kitô, chúng ta không thể sinh được những hoa trái tốt lành. Nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử. Ước gì chúng ta biết ở lại trong Đức Kitô, để chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!