Mặt trời, trung tâm của thái dương hệ, phải cách xa trái đất gần 145.000.000 cây số mới có thể: PS7-BC1
Mặt trời, trung tâm của thái dương hệ, phải cách xa trái đất gần 145.000.000 cây số mới có thể tỏa sáng trên khắp trái đất. Dù cách xa như thế, nhưng sức hoạt động của mặt trời vẫn rất thiết thân và ảnh hưởng sâu xa tới sự sống trên mặt đất. Càng lên cao càng tìm được chiều kích mở rộng. Chính vì thế, Đức Giêsu hôm nay lên cao chín tầng trời để đem lại cho Tin Mừng một chiều kích vũ trụ và vĩnh cửu bằng chính sức mạnh Thánh Linh.
Đức Giêsu đã chứng tỏ tất cả quyền năng tuyệt đối khi Phục Sinh từ cõi chết. Vinh quang Phục Sinh không thể cầm giữ Người mãi trên trái đất. Trái lại, vinh quang đó phải đạt tới mức trọn vẹn trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Nếu không đạt tới mức toàn hảo đó, chiều kích Tin Mừng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, sẽ bị trói chặt trong biên giới Do thái. Để chuẩn bị cho cuộc ra đi đó, Đức Giêsu đã củng cố niềm tin Phục Sinh nơi các ông. “Người còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(Cv 1:3). Đó là nội dung sâu xa nhất và khẩn thiết nhất của Tin Mừng. Vì nếu Chúa không sống lại, việc xây dựng Nước Thiên Chúa không thể bắt đầu được.
Cho đến lúc Chúa sắp về trời, các tông đồ vẫn chưa hiểu nổi chiều kích vũ trụ của Nước Thiên Chúa. Các ông còn mơ màng : “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Isael không”? (Cv 1:6). Chẳng lẽ Nước Thiên Chúa chỉ có chiều kích hẹp như nước Israel ? Bởi thế, dù xuất hiện với các môn đệ nhiều lần sau khi sống lại, Thầy cũng vẫn bị các Tông Đồ trì kéo vào quan niệm hẹp hòi và trần tục. Thầy cần phải lên cao, dẫn theo đám tù nhân đang bị trói buộc vì những tư tưởng nông cạn của mình. Chính khi Thầy lên cao, mắt họ đã mở “lên trời phía Người đi” (Cv 1:10). Ít nhất họ thấy Nước Thiên Chúa cũng có một chiều cao như chính thân xác Phục Sinh của Đức Giêsu. Họ sẽ không còn cắm đầu xuống đất, để chỉ thấy những sự thuộc về đất. Vì “Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16:19), nên họ cũng được giải thoát khỏi những tăm tối và bừng tỉnh trước một siêu thực tại : Nước Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa và nằm dưới quyền của Đấng uy nghi cao cả.
Sau khi mắt mở ra, cõi lòng cũng phải được nung nấu bằng một ngọn lửa đặc biệt đốt cháy những hàng rào giả tạo. Ngọn lửa đó chính là Thánh Linh. Ngay trong chính giới hạn trần gian, họ sẽ chứng kiến nét kỳ diệu vĩ đại. Họ không cần phải bay xa thực tế. Đức Giêsu đã kéo họ về một giấc mộng lớn sắp thành hiện thực. “Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa” (Cv 1:4). Đã đến giờ niềm hi vọng lớn lao nhất sẽ đạt đến tận điểm. Chúa Thánh Linh sẽ đến thực hiện tất cả những điều Chúa Cha đã hứa. “Anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần, anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” (Cv 1:5, 8). Việc kỳ diệu nhất Thánh Linh đã thực hiện cho Giáo Hội chính là làm cho các Tông Đồ thấy được chiều kích vũ trụ của Nước Thiên Chúa và sứ mạng vô biên giới của các ngài. “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Một cái nhìn như thế sẽ hướng dẫn các Tông Đồ thoát ra khỏi cảnh tù đầy tư tưởng. Tương quan sẽ mở rộng tới vô biên. Công việc thật mới lạ và vô cùng khó khăn. Thế nhưng các Tông Đồ đã hoàn toàn thành công. Đức Giêsu hoàn toàn toại nguyện vì những bước đường làm chứng vô cùng can đảm của các môn đệ. Đó là một dấu chỉ bảo đảm niềm tin Kitô không phi lý khi hướng lên “Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16:19). Nếu Đức Giêsu không được ngồi bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là không có uy quyền của Thiên Chúa và không được phong làm vua vũ trụ (Life Application Study Bible 1991:1780), các Tông Đồ mất hẳn sức mạnh làm chứng và chiều kích vũ trụ của Tin Mừng. Như thế, Người lên cao để hiện diện sâu xa hơn với Giáo Hội. Sự lớn mạnh của Giáo Hội chính là dấu chỉ về sự hiện diện sống động và mãnh liệt đó.
RA ĐI
Một lối nhìn khô khan và chai cứng về sứ mạng làm chứng sẽ cô lập Giáo Hội. Chính vì thế, Đức Giêsu đã thúc giục các môn đệ : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Các ông không thể ngồi yên một chỗ mà thấy được sức mạnh Tin Mừng lan tỏa khắp nơi. Nhưng họ phải ra đi. Ra đi khỏi chính lòng mình. Ra đi khỏi khung cảnh chật cứng của Do thái. Ra đi chấp nhận rủi ro và thách đố khắp nơi để loan báo một Tin Mừng có sức giải thoát mọi loài thọ tạo khỏi cảnh rên siết vì những ngóng chờ ơn cứu độ (x.Rm 8:22).
Ra đi có nghĩa là phục vụ. Theo thánh Marcô, “khi nắm giữ toàn quyền trên trời dưới đất, Đức Giêsu đã chọn con đường phục vụ tha nhân” (Life Application Study Bible 1991:1780). Chính qua con đường phục vụ này, quyền bính Thiên Chúa được mọi người nhìn nhận. Vinh quang chiếu tỏa qua bóng thập giá. Không học được bài học phục vụ này, quyền bính sẽ trở thành trò hề cho thiên hạ đàm tiếu. Trái lại, sức mạnh Tin Mừng chỉ tỏ lộ khi những người rao giảng Tin Mừng biết hết lòng phục vụ. Phục vụ cho công lý và hòa bình. Phục vụ người nghèo, bệnh tật, già cả, cô đơn. Không phục vụ không thể Phúc Âm hóa môi trường và vũ trụ theo lệnh Chúa. Khắp hang cùng ngõ hẻm phải vang lên lời mời gọi của Tin Mừng. Lời mời gọi đó được nghe rõ trong cung cách phục vụ của chứng nhân Tin Mừng.
Làm sao có thể trở thành người thực sự phục vụ Tin Mừng ? Được chia sẻ quyền bính của Đức Giêsu, nhiều người đã coi đó như một nguồn lợi kinh tế và cơ hội bước lên thang danh vọng mà ngoài đời mình không thể có được. Khi nhìn vào họ, mọi người không thấy Chúa Kitô. Nói khác, họ đã biến mình thành một thứ trung tâm. Thiên Chúa trở thành phương tiện để phục vụ cho quyền lợi của họ. Trái lại, những người phục vụ Tin Mừng đích thực luôn luôn “đặt Thiên Chúa vào trung tâm đời sống mình và xem việc tìm kiếm và mở rộng Nước Trời như mục đích của cuộc đời mình” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 30/5/2000). Trung tâm đó sẽ chi phối mọi hoạt động, tâm tư và cuộc sống. Ýù nghĩa cuộc sống không còn tùy thuộc vào cuộc sống, nhưng vào chính Đấng vượt trên cuộc sống. Nói khác, nếu suốt đời chỉ loan báo Tin Mừng nhằm qui tụ muôn dân vào trong vương quyền Thiên Chúa, người môn đệ Đức Kitô sẽ tạo được một giá trị cao cả nhất cho cuộc đời.
Giá trị cao cả đó nằm ở chỗ tiếp giáp giữa văn hóa và đức tin, giữa khoa học và những giá trị tinh thần. Hơn lúc nào, giá trị đó đang gặp cơn khủng hoảng vì sự cách ly giữa tinh thần và vật chất. Người môn đệ Chúa Kitô được kêu gọi để giúp con người “vượt qua sự tách biệt chết người giữa tiến bộ khoa học và những giá trị tinh thần đang cổ võ những tập quán duy vật, đưa tới một xã hội theo nếp sống cá nhân và cạnh tranh, nguồn sinh ra bất công và bạo động, khinh thường và kỳ thị, đối kháng và chiến tranh” (ĐGH Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, số 21, 24/5/2000). Chỉ nơi Đức Giêsu, Đấng đã vượt lên chín tầng trời, người ta mới tìm được một trung tâm đích thực liên kết mọi đối lực và “một giá trị khách quan và phổ quát : sự hiệp thông giữa con người và các dân tộc, một sự hiệp thông bắt nguồn từ sự kiện chúng ta là con cái một Cha, một Thiên Chúa duy nhất "là tình yêu" (1 Ga 4:8). Trong Đức Kitô, Người đưa chúng ta vào ‘thời gian viên mãn’(Gl 4:4), kêu gọi chúng ta vào một đời sống tự do đích thực đầy yêu thương và liên đới” (ĐGH Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, số 21, 24/5/2000).
Với bài đọc cuối cùng trích thư I Gio-an nói về tình yêu của Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa dẫn: PS7-BC2
Với bài đọc cuối cùng trích thư I Gio-an nói về tình yêu của Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa dẫn chúng ta vào tận tâm điểm của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta được sống đời sống đức tin vì Chúa Con đã thực sự cứu chuộc chúng ta. Chúng ta được sống đời sống đức ái vì chúng ta được chia sẻ Thần Khí của Thiên Chúa. Đời sống tin yêu ấy mở đường cho chúng ta đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa, cho dù chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy Người. Tuyệt đỉnh của suy niệm về tình yêu Thiên Chúa phải là đưa chúng ta về với chính tình yêu ấy, tình yêu được biểu lộ qua sinh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói khác đi, để kết thúc cho loạt bài suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày một cuộc hành trình đưa chúng ta đến với Thiên Chúa và “ở lại” với Người.
a) Khởi đầu cuộc hành trình đến với Thiên Chúa: phải xác tín tình yêu của Thiên Chúa
Muốn đến đâu, chúng ta cần phải biết vị trí của địa điểm mình tới và phương tiện mình sử dụng để tới. Với phương tiện “tìm bản đồ” trong mạng lưới hôm nay, việc xác định địa điểm chúng ta muốn tới quả thực rõ ràng. Chỉ cần bấm máy vi tính ra là chúng ta có ngay một tấm bản đồ đầy đủ chi tiết. Văn minh hơn nữa, hệ thống “chỉ đường” còn được gắn ngay trên xe, cứ việc vừa lái xe vừa theo lời của “người” chỉ đường vô hình! Nhưng có bản đồ nào giúp chúng ta tới với Thiên Chúa không? Thánh Gio-an cung cấp cho chúng ta một bản đồ sống động: cứ theo con đường tình yêu mà đi. Vậy tình yêu ở đâu?
Tự bản chất, Thiên Chúa là Đấng siêu việt, thụ tạo không thể tự mình đến với Người được. Có những kẻ vỗ ngực tự cho mình là những người có trực kiến, có sức đạt tới Thiên Chúa được. Nhưng thánh Gio-an khẳng định nhiều lần: Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ (Ga 1:18; 5:37 và 6:46). Không phải là con người đến với Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa đến với con người. Chẳng những Người đã đến, mà còn “ở lại” nữa! Thiên Chúa đã “ở lại” với con người qua dạng thức tình yêu. Trước hết qua Tình yêu Nhập thể, là Con Một Người đã được trao ban cho nhân loại (Ga 3:16). Đâu cần phải lên trời, xuống biển hoặc đến tận chân trời mà tìm kiếm Chúa nữa. Nhưng chính “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Qua Đức Giê-su, Thiên Chúa đã ôm nhân loại vào lòng, đã sờ vào những người phong cùi bệnh tật, đã bênh vực kẻ yếu đuối, đã đón nhận kẻ tội lỗi... Cụ thể nhất, khi tông đồ Phi-líp-phê xin Người tỏ cho biết Chúa Cha, Đức Giê-su trả lời: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9).
Khi Đức Ki-tô, Tình yêu Nhập thể, không còn hiện diện bằng thể xác ở giữa loài người nữa, thì Người lại hiện diện bằng Thần Khí giữa nhân loại. Thiên Chúa luôn luôn muốn “ở lại” với con người. “Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” cũng giống hệt như “Người đã ban Con Một.” Cả hai việc trao ban để “ở lại” với con người đều do cùng một động lực là Tình yêu. Như thế, mầu nhiệm Thiên Chúa đã được biểu lộ và “hoạt động” của Ba Ngôi: Cha, Con và Thần Khí, đã giúp con người nhận ra “nơi chốn” của Thiên Chúa.
b) Yêu thương anh chị em là phương tiện đưa chúng ta đến với Thiên Chúa
Sau khi xác định địa điểm phải tới, chúng ta cần sử dụng phương tiện di chuyển. Thiên Chúa “ở lại” trong chúng ta. Người là sự sống dấu ẩn trong tâm hồn chúng ta và lúc nào cũng chờ đợi được biểu lộ qua sinh hoạt. Sinh hoạt ấy chính là “Nếu chúng ta yêu thương nhau.” Chúng ta sẽ gặp được Người ngay tại cõi lòng mình nếu chúng ta đến với anh em. Đến với anh em trong yêu thương chính là phương tiện chuyên chở Thiên Chúa đến với tha nhân và biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta theo cùng một cách thức sinh hoạt của Ba Ngôi khi đến với nhân loại để tỏ cho nhân loại biết Người là Đấng nào. Thần Khí sinh động của Người đã làm cho mối tình của Thiên Chúa đối với nhân loại (“Thiên Chúa yêu thế gian”) được thể hiện (“đã ban Con Một”). Cũng vậy, Thần Khí được ban cho chúng ta (1 Ga 4:13) để thúc giục và hướng dẫn chúng ta sống tinh thần con Thiên Chúa qua sinh hoạt “yêu thương nhau.” Vai trò của Thần Khí là giúp cho tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta nên hoàn hảo. Thánh Thần khơi lên lòng tin của chúng ta vào Chúa Giê-su (Tình yêu Thiên Chúa) và thúc giục chúng ta sống tình yêu ấy qua việc yêu thương nhau. Tin và Yêu là hai hành động không thể tách rời. Chúng ta nhận ra Đức Ki-tô là dấu chỉ Tình yêu Thiên Chúa (tin) và chúng ta tuân giữ giới răn yêu thương anh em như Người đã dạy (yêu). Đó là con đường đưa chúng ta tới Thiên Chúa.
c) Kinh nghiệm bản thân của Gio-an
Với tư cách là người cha của một cộng đoàn Ki-tô, thánh Gio-an chia sẻ chính cảm nghiệm cá nhân về con đường tình yêu ngài vừa đề cập tới. “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” Thế nào là chiêm ngưỡng và làm chứng? Thưa là tin vào Tình yêu Thiên Chúa và sống Tình yêu Thiên Chúa. Đó cũng là điều mỗi Ki-tô hữu chúng ta phải thể hiện trong cuộc sống mỗi ngày, để mỗi ngày chúng ta có thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa rõ ràng hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ý tưởng của thánh Gio-an hôm nay có giúp tôi liên kết lòng mến Chúa với yêu thương anh em không? Sự liên kết ấy được ngài diễn tả như thế nào?
Từ “ở lại” thánh Gio-an sử dụng ở đây nói gì với tôi về Chúa và về chính tôi?
Có lẽ vai trò của Thần Khí trong đời sống Ki-tô hữu của tôi ít được lưu ý. Tôi phải làm gì để giúp cho mình ý thức hoạt động của Thánh Thần nơi tôi? Nhất là trong những sinh hoạt biểu lộ tình yêu đối với anh chị em?
Mỗi ngày tôi có xét mình để thấy “tình yêu của Thiên Chúa nơi tôi nên hoàn hảo hơn” không? Xét làm sao?
Cầu nguyện kết thúc
Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài ca ngợi Thiên Chúa là Tình Yêu, hoặc bài “Đâu có tình yêu thương...”
Cụm mây bay ngang, cắt đứt cái nhìn của các môn đệ. Chúa đã biến mất trong cái nhìn của các ông: PS7-BC3
Cụm mây bay ngang, cắt đứt cái nhìn của các môn đệ. Chúa đã biến mất trong cái nhìn của các ông. Chúa đã về trời. Ngẩn ngơ! Hụt hẫng! Bên tai, các ông vẫn còn nghe văng vẳng những lời dặn bảo cuối cùng của Chúa. “Anh em hãy đi khắp tứ phương, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Trách nhiệm đè nặng lên vai của mỗi người. Chúa đã xuống trần. Sau 33 năm chung sống với thân phận kiếp người và nhất là, với cuộc tử nạn đẫm máu, Ngài đã hoàn tất công việc Chúa Cha trao phó. Ngài đã gầy dựng một gia tài vĩ đại nguồn ơn thánh cứu rỗi, để cứu vớt toàn thể sinh linh. Giờ đây, Ngài trao lại cho con người; mà một cách chính thức Ngài trao lại cho Giáo Hội; một Giáo Hội hữu hình của Ngài ở trần gian. Ngài muốn cứu vớt tất cả mọi người. Nhưng các công việc trao ban ơn cứu rỗi ấy, Ngài muốn chính con người phải làm. Chính con người phải cứu vớt lẫn nhau.
“Anh em hãy đi”. Rõ ràng, chữ anh em ấy, gởi đến cho mọi người, không phân biệt nam nữ, già trẻ. Không phân biệt đi tu hay không đi tu, phàm đã là người biết Chúa Giêsu Kitô, thì đều có bổn phận phải “đi”. “Hãy đi” – Đơn giản là phải ra khỏi cái tháp ngà của đời mình; là không ngồi thụ động trong cái vỏ bình an của đời mình, là phải đứng dậy và bước đi. Bước về phía nào cũng được; đông, tây, nam, bắc, bất kể miễn là nơi đó có “người khác”. Và nếu vậy, ở đâu và bất cứ nơi nào, cũng đều có thể là nơi truyền giáo.
Nhưng đi và đến với người khác để làm gì? Thưa là để rao giảng Tin Mừng. Tin gì mà mừng? Có 2 tin rất mừng:
Không ai là kẻ mồ côi. Không ngờ rằng, trái đất mà ta đang sống lại là một trại mồ côi tập thể. Gần 7 tỷ người mà mới chỉ có gần 2 tỷ người biết được khuôn mặt của Cha mình. Đó chính là Thiên Chúa. Còn 5 tỷ người nữa cứ ngỡ tưởng đời mình chỉ là cái kiếp bèo dạt mây trôi. Hãy bảo họ biết: Họ có Cha đó, để họ khỏi buồn và bơ vơ. Thiên Chúa là người Cha đích thực của họ.
Và tin mừng thứ hai, hãy vui sống giữa cuộc đời. Cười lên đi, vì tất cả những khuôn mặt ta gặp gỡ giữa chợ đời kia, không ai là lang sói, không ai là kẻ thù của mình đâu, tất cả đều là anh em ruột thịt của mình đó. Cuộc đời này, chỉ là một phiên chợ, mua bán công phúc. Sau phiên chợ người ta sẽ tùy vào hàng hóa công phúc ấy, mà đổi được cái chỗ ngồi vĩnh viễn ở đời sau cho mình.
Nhưng còn một tin quan trọng nhất, mà không thể không báo đó là: Thiên Chúa người Cha dấu ái, đã không còn ở xa nữa, Người đã cho người Con duy nhất, xuống thế làm người, để đi tìm gặp chúng ta. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ai gặp được Ngài và tin vào Ngài, thì chắc chắn sẽ tìm được hạnh phúc ở đời này, và cả hạnh phúc ở đời sau nữa.
Gợi ý suy niệm
1- Chúa bảo bạn điều gì trước khi Ngài về trời không? 2- Bạn có góp được công của hay sức lực cho việc truyền giáo của Giáo Hội không?
Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.Đức Giêsu cầu nguyện, không PS7-BC4
Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện, nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta, những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất, vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người. Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ, theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác. Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21). Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con: “để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều giữa Cha, Con và các môn đệ.
“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng “Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21), “Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương, hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ, xin giúp con quên mình hoàn toàn để ở lại trong Chúa. lặng lẽ và an bình như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu. Lạy Đấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản, xin biến hồn con thành chốn trời cao, thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người, với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo.
Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại một câu chuyện PS7-BC5
Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại một câu chuyện tưởng tượng như sau:
Ngày kia, Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công giáo.
Đội Công Giáo làm bàn trước. Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời.
Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một đều. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung cả mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:
- Này ông bạn, ông bạn ủng hộ đội nào vậy?
Xem chừng như còn bị kích thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
- Tôi hả? Tôi không ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.
Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
- Gã này quả là một tên vô thần.
Trên đường về nhà, chúng tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
- Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói:
- Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, đều phải qui phục và đứng về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người, hay mỗi nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Chỉ có một Chúa, một phép rửa, một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để nói về Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm. Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có nhiều cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội và trong thế giới?
Qua thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự lớn mạnh ấy.
Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý nghĩ khác nhau và việc làm khác nhau, nhưng mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu. Đa dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng nhau.
Lúc đó, Giáo hội được sánh ví như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau.
Ôi xinh đẹp thay, phong phú thay Giáo hội Đức Kitô!!!
Trong lịch sử Việt Nam, tôi thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài PS7-BC6
Trong lịch sử Việt Nam, tôi thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại có mối thù không đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần Hưng Đạo suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần Hưng Đạo gạt bỏ mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một hôm, Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay nấu nước tắm cho Trần Quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.
Sự đoàn kết của Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là dấu chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là một”. Cho đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó, ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên mình. Vì thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào? 2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất? 3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào? 4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
Người ta nói đến Phúc Âm về nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, PS7-BC7
Người ta nói đến Phúc Âm về nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, Marcô và Luca, trong đó mô tả, với một số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong hoàn cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người. Chúa được trình bày như một người rất cụ thể, rất “thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư thánh Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm về thần trí, vì hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho chúng ta. Tất cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song bản, một bộ Phúc Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính và thần trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình hoặc chỉ dẫn của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm nay phụng vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp nhất trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu ra một trong những chức năng cơ bản của Giáo Hội, đó là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức năng ấy.
1) Giáo Hội đóng vai trò trung gian của Đức Kitô bên cạnh thế gian.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ hoạt động tông đồ sẽ tin vào Người. Chúa biết rằng các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu xin cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là đứng giữa, được thiện cảm của cả hai bên, đóng vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông đồ tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của Người được thật sự thuộc về thế gian, đồng thời triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội là những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể nhân loại, một hỗn hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần phải tham dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất trong tình yêu. Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong trào đại kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi Thiên Chúa) phải tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa nhân loại.
2) Vai trò trung gian của Giáo Hội phải mang dấu ấn đại kết.
Thiên Chúa không chia rẽ với chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ đi ngược yêu cầu chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu thương mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn của tội lỗi. Ở điểm này, mỗi người chúng ta phải tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa những “Giáo Hội” (sự phân hoá này giống như một vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt quá sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ trách nhiệm của mình. Bằng cách nào? Bằng cách chiến đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự tội gây chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết- trong khung cảnh sinh hoạt của mình trở nên một cực đại kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa, ăn ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô hữu phải lãnh trách nhiệm mang trong não trạng, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.
----------------------------------
PS7-BC8: Để chúng được hiệp nhất nên một như Chúng Ta
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ PS7-BC8
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly là không bỏ chúng ta mồ côi, Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến, để trong mọi sự con người tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 1, 12-14: Sau khi Chúa lên Trời, các môn đệ họp nhau cầu nguyện - Tv 27, 1: Vâng, chúng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh - 1 Pr 4, 13-16: Nếu bị sỉ nhục vì Đức Kitô thì thật phúc cho anh em - Ga 17, 1-11a: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha "
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 1, 15-17; 20-26: Matthia được chọn là Tông Đồ thay thế Giuđa - Tv 103, 1: Chúa ngự bên hưu Đức Chúa Cha, vinh danh Ngài, lạy Chúa - 1 Ga 4, 11-16: Ai ở trong Tình Yêu, thì ở trong Thiên Chúa - Ga 17, 11-19: Lời cầu nguyện của Đức Giêsu: "Xin Cha hãy thánh hiến họ trong Sự Thật "
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 7, 55-60: Têphanô, trong lúc chụi tử đạo, ông đã thấy Chúa Giêsu - Tv 97, 1: Đức Kitô là Chúa, được đưa lên Trời trong vinh quang! - Kh 22, 12-14; 16-17; 20: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến " - Ga 17, 20-26: "Để chúng nên một như Chúng Ta là một"
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin " Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).
Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha... xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con". Và đây, Đức Giêsu cầu xin Cha cho chúng ta là những kẻ nhờ các Tông Đồ mà tin vào Ngài và xin cho chúng ta được hiệp nhất: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con"(Ga 17, 26)
Nhân dịp kỷ niệm 50 khai mạc Công Đồng Vaticanô II trong bối cảnh của năm Đức Tin, chúng ta cũng nên nhắc lại tư tưởng của Công Đồng, muốn thi hành ý muốn của Đức Giêsu khi nhấn mạnh đến việc phải làm để hiệp nhất: "Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất.
Phải hiểu danh từ "phong trào hiệp nhất" là những hoạt động và sáng kiên được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự "đối thoại" giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.
Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế". (Công Đồng Vaticanô II Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, "Unitatis redintegratio" số 4)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
Thánh Têphanô là người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên PS7-BC9
Thánh Têphanô là người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên quảng đại và can đảm. Ông đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả bằng cái giá của sự chết.
Đặc tính nổi bật của cái chết ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu. Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội. Giống như Đức Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Giống như Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo lực bên ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như những người bị loại bỏ trong cái chết).
Giống như Đức Giêsu, Têphanô cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức Giêsu đã trao linh hồn của Người vào tay Thiên Chúa với lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả những sự kiện, Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức Giêsu.
Sự tàn ác trong việc ném đá Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết ông cởi hết quần áo của ông ra và đặt dưới chân thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết chết những người như Têphanô. Ngày nay, một số người cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết người khác để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.
Sao lô như chúng ta biết không lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Chắc chắn, ông đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải của Sao lô chứng tỏ rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.
Nhưng Têphanô không chỉ bày tỏ những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở thành một anh hùng lúc chết nếu người ấy không là một anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam kết theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những Phó tế đầu tiên được các tông đồ chỉ định để phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ hãi của ông về Đức Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo Do Thái nổi giận.
Têphanô đã đem lại loại làm chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái chết của mình. Mức độ làm chứng này không được ban cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc nơi mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời sống của chúng ta. Đây không phải là một cách làm chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi nhiều sức mạnh với lòng can đảm. Thế giới ngày nay đang kêu gọi sự làm chứng của những người không sợ trở nên một Kitô hữu chân chính.
Ngoài việc chỉ cho chúng ta phải làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách chết thế nào mà mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó mình cho lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.
Có một hậu cảnh, nhưng đóng vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. PS7-BC10
Có một hậu cảnh, nhưng đóng vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. Ông giữ áo cho những người ném đá và là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu. Dù vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán cải và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.
Sự kiện Phaolô tham gia vào việc giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn xấu xa. Đúng hơn đó là một sự mù quáng. Thái độ cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một người có cam kết cao độ, có khả năng làm việc gian khổ và chịu hy sinh to lớn.
Khi một người trải qua một cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã trở thành một con người hoàn toàn mới”. Nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật. Trong mỗi cuộc hoán cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những yếu tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới đã được thiết lập. Tài năng và thiên hướng của một người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng hơn, chúng được định hướng lại.
Nếu chúng ta có mặt lúc Têphanô bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ việc, hẳn là chúng ta đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác trong một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ. Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền tảng của một kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta thành hai loại: thánh nhân và tội nhân.
Nhưng con người không dễ phân loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số người dường như không biết gì về bản tính chia cắt của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu đuối nơi một người nào, họ liền loại bỏ người ấy mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có mùi của chất lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng đắn và khôn ngoan không? Chúng ta có nên cấm người ta thay đổi không?
Một nền văn hoá không không ích lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là giam chúng lại và vất chìa khoá phòng giam đi. Một nền văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi chúng ta không thể chấp nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết người là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có cơ may trở thành người, để sửa chữa và chuộc lại lỗi lầm.
Chúng ta phải học tập sự nhẫn nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng ta phải biết rằng chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một con người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một hành động hoặc bởi chỉ một giai đoạn nào đó của đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người ấy.
Câu chuyện của Phaolô cho thấy rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai ra ngoài ơn cứu chuộc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp của Phaolô. Đó là một bài học to lớn trong đời ông. Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô hữu chân chính. Phaolô đã xúc động bởi lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.
TIẾP CẬN KHÁC: Hội đoàn của người yếu.
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớnhơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy tụ, đặc biệt quy tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người Nghiện rượu Vô Danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe doạ cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radeliffe).
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm và trách nhiệm phải truyền PS7-BC11
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm và trách nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao giảng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho những người khác. Trong việc thực thi bổn phận ấy, sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy sự hiệp nhất đó, là sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự hiệp nhất ra sao, để góp phần vào công việc truyền giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.
Trước khi từ biệt trần gian, Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết với Chúa Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ mà tin vào Chúa Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả nên một”.
Sự hiệp nhất ở đây là một ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không thể là giả tạo như sự hiệp nhất của hai cây gậy buộc lại với nhau thành một; cũng không như hai người bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi, nhưng là nhắm lợi ích riêng của mình; càng không phải là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang chia rẽ. Trái lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó phải được như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha ở trong Con, như Con ở trong Cha”. Như vậy, sự hiệp nhất ở đây không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn bản của sự hiệp nhất này là tình yêu phát xuất từ Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và nhận ra tình yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại.
Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha cho chúng ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền giáo rất đặc biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, những thực tại vô hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy đời sống yêu thương hiệp nhất của các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.
Quả vậy, có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người có đức tin trưởng thành, có khả năng đối thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh chứng chúng ta là môn đệ Đức Kitô, là những con người có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn nữa, một sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa liên kết chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa Cha:”Xin cho họ nên một, như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Sống hiệp nhất nên một cách thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” có một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha được? Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm tay của chúng ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một…” Vinh quang ở đây, chính là sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào chính sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng ta hiệp nhất với nhau, cho nên phương thế hay nhất để thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần Linh của Ngài, nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống; nhờ việc chân thành cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu với nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp nhất với Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiệp nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là dấu hiệu để người ngoại nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình yêu thương của Người, và lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc truyền giáo.
Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất có một sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức rằng Chúa Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa để làm triển nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta sống gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp lễ, lãnh nhận các bí tích, lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình cũng như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu là giềng mối sự hiệp nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh chị em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo sự hiệp nhất nơi chúng ta.
Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp nhất giữa họ. PS7-BC12
Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là một”.
Sự hiệp nhất không giống như sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ với đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã hội để gợi ý rằng Người đã tìm trong tính đa dạng một sức sống lành mạnh.
Sự nên một không thể được thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác nhau. Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác nhau và góp phần bằng những ơn gọi khác nhau, nhưng tất cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải được thanh luyện khỏi nhu cầu chứng tỏ mình là tốt nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.
Chúng ta được kêu gọi từ nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác nhau đó, chúng ta trở thành nhân chứng của Thiên Chúa, Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường lối khác nhau.
Người ta kể lại một câu chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc sáng thế, sau khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn đề bất ngờ. Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh ra lòng kiêu ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất sắt.
Các cây ấy lập tức biết rằng đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc chúng vừa nói: “Oi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ bị lưỡi rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu không có cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu lại làm bằng gỗ, các ngươi hãy cố sống trong bình an và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất và cái rìu sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.
Đức Giêsu biết rằng sự nên một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non trẻ (các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng yêu thương, và là kết quả của lòng trung thành với giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cộng đoàn là một thách đố lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho nhau. Nó bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và niềm vui mừng trong hạnh phúc của những người khác. Tính vị kỷ là một tai họa đối với một cộng đoàn: mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng không một ai muốn quan tâm đến những người khác.
Đáng buồn là qua bao thời đại, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo Hội của Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày nay chúng ta không phải chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một cớ gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật sự gây vấp ngã không phải là có nhiều tín ngưỡng và sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau. Chúng ta thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên quan đến việc giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người trung kiên của một tôn giáo (Do thái giáo) giết những người của một tôn giáo khác nhau. Chúng ta không nên ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự qui tụ sắp tới của mọi Kitô hữu.
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà PS7-BC13
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ Người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng giòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớn hơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó đũa làm ví dụ. Từng chiếc đũa thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gãy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc qui tụ, đặc biệt qui tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người nghiện rượu vô danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau là không để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe dọa cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy “không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radcliffe)
Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời sau mà lãng quên mất PS7-BC14
Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô giáo không phải là một tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống của một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để cướp đi niềm vui của cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và lo lắng cho chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự sống đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay từ ở đời này. Sự sống đó đến với chúng ta, và nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây giờ thì việc lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô ích.
Có một câu truyện kể về một chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn gái và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không thể nào sống nếu thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh Gioan, đừng nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh Gioan liền hỏi lại, “Như thiệt vậy?” Thật ra đó là cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và bày tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả. Chúng ta chỉ nói chơi thôi.
Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ câu truyện người thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng trong tâm hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh vẫn cảm thấy một sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn bé. Đối với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh lại là một người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để tìm kiếm được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã trả lời với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần phải làm thêm một điều nữa là hãy về bán hết của cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo Ngài (Lc 18:22).
Có một câu truyện khôi hài như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác Niagara. Sáng kiến này đã được nhiều người thực hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa là ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một chiếc xe cút-kít và chở một người ở trên đó. Ông đã không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe cút-kít chở đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta có thể làm được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có phải anh rất tin tưởng tôi có thể làm được chuyện này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin như thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì anh hãy lên ngồi trên chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy anh đi trên dây.”
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài hỏi họ có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc xe cút-kít! Hãy chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo ta!” Việc này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối mà không ngoại lệ. Đó là điều làm cho nhiều người phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc, chúng ta lơ là không nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta phải trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.
Nếu các bạn là những người đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc của cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy chuẩn bị để trả cái giá mà nó đòi hỏi. Các bạn phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt đối, ngài đã phải chịu sỉ nhục và ném đá do những người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã quì gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con... Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59). Những lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã nắm chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu. Thánh Stêphanô không phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng không phải là người xa lạ với sự sống đời này. Thánh Stêphênô đã không do dự để trả lời lời kêu gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi vì thánh nhân đã quá quen với sự việc đó nhiều lần trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc sống làm chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức Kitô rằng khi cuộc sống này kết thúc thì phần thưởng sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong chúng ta, có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả cái giá dưới một hình thức nào đó.
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần phải làm gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc sống của chúng ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt sự sống của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín thác vào Ngài.
Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho ......... Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với PS7-BC15
“Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài, chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng đoàn công giáo Việt Nam...
Một linh mục Ấn Độ tên là Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: “Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?”. Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn này là một tên vô thần!”
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: “Thưa Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.”
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo Hội và trong thế giới?
Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân, tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!
Qua bài Tin Mừng của chúa nhật hôm nay, chúng ta đã nghe lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy PS7-BC16
Qua bài Tin Mừng của chúa nhật hôm nay, chúng ta đã nghe lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin cho tất cả họ trở nên một; như Cha ở trong con và con ở trong Cha, tất cả họ cũng phải trở nên một!” Tiếp đến, Đức Giêsu cũng đã nêu lên lý do tại sao Người đã xin cùng Chúa Cha cho các môn đệ của Người biết hiệp nhất với nhau: “...để qua đó, thế gian tin rằng Cha đã sai con!”
Chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những kẻ tin nhận Người như thế vào chính lúc Người và các môn đệ cử hành Bữa Tiệc Ly, bữa ăn sau cùng giữa Thầy trò, vào những giây phút cuối trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Vâng, đó là những lời trăn trối cuối cùng, là bản di chúc, mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ của Người, những Kitô hữu chúng ta. Và bản di chúc của một người đã ra đi vào chốn thiên thu thì bao giờ cũng linh thiêng và có tính cách bó buộc, khiến những người còn sống bao giờ cũng phải kính trọng, bảo tồn và thực thi một cách nghiêm chỉnh. Nhưng nếu đó lại là bản di chúc của một Thiên Chúa làm người, thì giá trị của nó hoàn toàn mang tính cách tuyệt đối, và các môn đệ của Người cũng hoàn toàn bất khả lựa chọn một giải thích khác ngoài việc thực thi trọn vẹn nó, và theo đúng từng chấm phẩy!
Nhưng liệu những người kitô hữu chúng ta đã có được thái độ trân trọng như thế đối với bản di chúc, đối với những lời trăn trối đầy tâm huyết của Đức Giêsu, Đấng từng yêu thương và đã chịu chết để chúng ta được hưởng ơn cứu độ?
Những ai đã một lần kính viếng nhà thờ được xây dựng trên chính mộ Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem và quan sát cảnh các kitô hữu thuộc các giáo phái luôn khích bác và tranh dành cãi vã lẫn nhau, sẽ không khỏi ngậm ngùi đau xót tự hỏi: Tại sao các môn đệ Đức Giêsu, lại khinh thường lời di chúc của Người như thế?
Dĩ nhiên, sự hiệp nhất ở đây không chỉ muốn nói đến sự hiệp nhất giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, nhưng còn là sự hiệp nhất giữa tất cả mọi kitô hữu nói chung và sự hiệp nhất giữa các kitô hữu trong một cộng đoàn. Mọi cãi cọ, tranh dành, hận thù, ghen ghét và kỳ thị, phải được loại bỏ hoàn toàn khỏi các cộng đoàn Kitô giáo, vì nó phản tinh thần và ý muốn của Đức Kitô!
Nếu ngày nay và khắp nơi, mọi thứ đều phải được thử, đều phải được trắc nghiệm trước, thí dụ: Đường hướng chính trị, hàng hóa, xe cộ, v.v..., thì phải chăng lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi chết không phải là một trắc nghiệm về đời sống Kitô giáo của chúng ta, về thái độ đồng cảm và đồng tâm của chúng ta với Đức Kitô? Trước lời cầu nguyện tha thiết như thế của Đức Giêsu: Chúng ta vẫn dửng dưng coi thường hay chúng ta đã quan tâm lắng nghe? Chúng ta có cảm thấy đau xót là từ hằng bao thế kỷ qua và cả đến hôm nay nữa, chính những kitô hữu chúng ta vẫn khép cửa lòng mình lại trước lời cầu xin đó của Chúa Cứu Thế? Chúng ta có đau khổ trước cảnh chính những người kitô hữu chúng ta lại nhẫn tâm chống lại ý muốn của Vị Cha Chung của mình để xâu xé và chia rẽ nhau? Chúng ta không cảm nhận được vết thương đang hằn sâu lên thân mình Đức Kitô sao? Chỉ những người bất tỉnh và mất hết mọi cảm giác mới không cảm nhận được sự đau đớn đó!
Hoặc người ta có thể trắc nghiệm một cách khác, tức: Chúng ta có vui mừng là ngày nay, những người kitô hữu chúng ta đã thức tỉnh và thoát khỏi tình trạng bất cảm và đã biết đau đớn trước những vết thương nơi thân mình Đức Kitô? Chúng ta có vui mừng, là trước lời cầu xin của Đức Giêsu “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một”, chúng ta đã biết cảm thấy đau xót và khao khát? Chúng ta có vui mừng là các kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã biết nỗ lực vượt lên trên những chia rẽ và cùng quay trở về hiệp nhất với nhau như Đức Giêsu muốn không?
Trong tám ngày nữa, chúng ta sẽ mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng mà theo thánh Phaolô là Thần Khí của sự hiệp nhất (x. 1Cr 12,13). Dấu chỉ cho sự hiệp nhất đó, là vào ngày lễ Chúa Thánh Thần đầu tiên của Giáo Hội, mọi dân tộc đã họp nhau trước nhà các Tông đồ và tất cả đã nghe và đã hiểu được sứ điệp thánh Phêrô công bố, bởi vì đó lá sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng trước ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, “tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Đức Maria thân mẫu Đức Giêsu, và mấy người anh em của Người” (Cv 1,14).
Đúng vậy, chúng ta không thể áp đặt hay ép buộc được phép lạ hiệp nhất được, nhưng chỉ cầu xin như Đức Giêsu đã cầu xin vậy. Vâng, phép lạ hiệp nhất chỉ có thể xảy ra nơi những cộng đoàn Kitô giáo có tinh thần cầu nguyện, biết mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa và sống theo tinh thần Đức Giêsu.
Max Metzger, vị anh hùng tử đạo thời danh dưới chế độ độc tài Đức Quốc Xã, và là một trong những vị sáng lập phong trào Una-Sancta-BCewegung, bị xử tử 1944, đã viết trong cuốn Nhật ký của ngài trước khi chết: “Tâm hồn tôi hoàn toàn an bình. Tôi đã cống hiến đời tôi cho sự hiệp nhất của Giáo Hội. Và lòng tôi sẽ tràn đầy hoan lạc, nếu Thiên Chúa chấp nhận!” Những kitô hữu can trường và xác tín như thế đã khích lệ, đã động viên chúng ta, cùng hiệp nhất với nhau và hiệp nhất với Mẹ Giáo Hội! Nhưng nhất là lời cầu nguyện mà trước khi chết Đức Giêsu đã dâng lên Chúa Cha, đã động viên chúng ta một cách mạnh mẽ: “Lạy Cha, con đã ban cho họ sự vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một, như chúng ta là một. Vậy, họ phải hoàn toàn nên một; hầu qua đó, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con!” (Ga 17,22-23). Amen.
Chuyện xưa kể rằng: có một ông bố muốn giáo dục con cái về sự hiệp nhất, vì thế, ông đưa cho PS7-BC17
Chuyện xưa kể rằng: có một ông bố muốn giáo dục con cái về sự hiệp nhất, vì thế, ông đưa cho các con một bó đũa đã cột lại làm một và bảo các con bẻ thử, mấy người con cố gắng cũng không thể nào bẻ gẫy bó đũa... Sau đó, ông lại bảo: hãy tháo bó đũa ra và bẻ từng cái và thế là bó đũa bị bẻ gẫy dễ dàng. Lúc đó, người cha liền bảo: "Như thế là các con đều thấy rằng chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Có đoàn kết thì mới có sức mạnh; đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết".
Tin mừng hôm nay thuật lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Ngài cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất và yêu thương nhau. Bởi vì nếu họ biết hiệp nhất, yêu thương thì sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách cách dễ dàng. Cùng chung tay xây dựng Giáo hội và cùng nhau làm chứng cho Chúa.
1. Hiệp nhất để xây dựng Giáo hội
Đức Giêsu là người hiểu tâm lý của các môn đệ hơn ai hết. Ngài đã đích thân gọi và chọn các ông làm môn đệ cho mình, là những người Ngài sẽ trao phó cách hữu hình công việc xây dựng Giáo hội mà Ngài thiết lập dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa biết rõ sự xuất thân của các ông. Ngài thấu hiểu hoàn cảnh, tâm lý của từng người. Vì thế, lời cầu nguyện cho các môn đệ được hợp nhất là điều rất quan trọng và thực tế. Sự hiệp nhất là yếu tố quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của công việc.
Quả thật, nếu không có sự hiệp nhất, thì việc xây dựng Giáo hội trở nên ảo tưởng và vô lý. Và, những lời rao giảng của các ông không ăn nhập gì với mục đích của lời rao giảng. Sự hiệp nhất đó được khởi đi từ khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga, 15,26). Cũng nhờ Thần Khí ấy ngự trên các môn đệ và làm cho họ hiệp nhất với nhau. Các môn đệ phải là những người đi tiên phong trong sự hiệp nhất này. Trong lịch sử Cứu độ, chúng ta đã thấy rất rõ hậu quả của sự chia rẽ: A đam và E và đã không nghe lời Thiên Chúa nên đã tự mâu thuẫn nội tại khi giơ tay hái và ăn trái cấm. Cain giết Abel vì không hiểu và không thương yêu nhau. Tháp Babel xây không thành vì bất đồng về ngôn ngữ... Chúa Giêsu cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất vì: có hiệp nhất, thì mới có mối tương quan, sự cảm thông; mới xây dựng được đời sống cộng đoàn; có sự hiệp nhất thì mới cùng nhau làm chứng về Chúa cách hùng hồn. Nếu không có sự hiệp nhất, thì lẽ tất nhiên, cộng đoàn tan rã và sứ mạng Chúa trao phó không thể chu toàn.
2. Hiệp nhất để truyền giáo
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cho cả những ai tin vào lời các ông rao giảng cũng được hiệp nhất với nhau. Đây quả là yêu tố quan trọng trong khi loan báo Tin mừng. Bởi lẽ, nếu không có sự hiệp nhất, lời rao giảng của các môn đệ trở nên phản chứng hơn bao giờ hết; và những ai đi theo lời các ông loan báo thì thật tệ hại cho cả một đời của họ.
Chúa sắp sửa trao cho các ông sứ mạng truyền giáo đến tận chân trời góc biển. Sứ mạng ấy là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất về một mối. Chỉ có một Chủ chiên và một đoàn chiên duy nhất. Chính vì điều đó, nên Chúa Giêsu khao khát cho các môn đệ phải là những người sống kiểu mẫu về sự hiệp nhất; đồng thời, những ai thuộc về Giáo hội mà các ngài rao giảng cũng đều có một mẫu số chung như các ngài.
Sứ mạng loan báo Tin Mừng ấy luôn đòi hỏi tinh thần hy sinh và từ bỏ của người môn đệ rất cao. Khó khăn ấy là: ốm đau, bệnh tật, cô đơn, hiểu lầm, bắt bớ và chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng của mình... Nhưng nếu có sự hiệp nhất, yêu thương thì dù trong hoàn cảnh nào, các ông cũng đều làm chứng cho mọi người về một thực tại siêu việt vượt lên trên những thực tại chóng qua và vô bổ ở đời. Nếu người môn đệ Chúa Kitô rao giảng về một Tin mừng giải thoát, yêu thương mà chính bản thân các ngài lại không có những yếu tố hiệp nhất để chứng minh về lời rao giảng đó thì quả là một điều vô lý. Vì thế, trước khi truyền giáo, người môn đệ phải biết "yêu". Yêu thương là đoàn kết. Yêu thương là sống mầu nhiệm tự hủy để chỉ còn sống cho người khác. Yêu thương là muốn cho người khác cũng được yêu thương như mình. Yêu thương chính là điểm hội tụ của những tấm lòng khao khát tìm chân lý. Có yêu thương như Thầy, thì những lời chứng của người môn đệ mới đủ khả tín. Được như thế, người môn đệ của Chúa Giêsu có quyền hy vọng về một tương lai của Giáo hội mà trong đó người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan và muôn dân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu sống hiệp nhất theo tinh thần của Đức Giêsu
"Lạy Cha, xin cho mọi người nên một" (Ga 17,21) là lời cầu nguyện thể hiện mối ưu tư của Chúa Giêsu rất lớn. Lời cầu nguyện này phát xuất từ nỗi lòng của Ngài trong bữa tiệc ly trước khi chia tay các môn đệ.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta biết cùng nhau chung tay xây dựng tình hiệp nhất nơi môi trường, nơi hội đoàn của mình. Biết bỏ đi những kiêu ngạo, ích kỷ, tư lợi cá nhân để xây dựng công ích. Vợ chồng biết nhường nhịn nhau, con cái biết ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ. Anh chị em biết đoàn kết với nhau, yêu thương và đùm bọc nhau. Biết ý thức được giới hạn của mình để cần đến người khác.
Tuy nhiên, không ai cho cái mình không có. Phải có mới cho. Vì thế, sự hiệp nhất phải bắt nguồn từ Chúa Giêsu. Hiệp nhất với Chúa Giêsu như ngành nho với thân nho; như cây cối cần ánh sáng của mặt trời; như cá trong nước... Có hiệp nhất với Chúa Giêsu và nên một với Ngài thì mới phát sinh sự hiệp nhất với nhau. Đây cũng chính là điều kiện để trổ sinh hoa trái. Hiệp nhất mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp nhất. Nếu ai hiệp nhất với Thiên Chúa thì phải sinh hoa kết trái dồi dào. Còn những ai không sinh hoa kết trái thì chính người ấy đã không sống trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa.
Ước mong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi xưa, nay được hiện tại hóa và sinh hoa kết trái dồi dào nơi những môn đệ của Ngài trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con luôn được hiệp nhất với nhau, nhờ biết loại bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, kết án lẫn nhau... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn trong lời nói và hành động, để không làm thương tổn đến sự hiệp nhất trong Giáo hội, trong xã hội và nơi gia đình. Amen.
Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu. Đức Giêsu ngước PS7-BC18
Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng
Tôi thử mường tượng ra quang cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu sắp sửa ra đi chịu chết. Sau khi đã bầy tỏ những tâm sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời bỏ, Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện dài nhất của Đức Giêsu trong các Tin Mừng.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.
Một lần nữa, chúng ta được mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào về Người. Người khoảng ba mươi tuổi sắp phải chết, chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực hiện. Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản nộp Người Đức Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ Người. Trong tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện” cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người trong tương lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công việc phát triển rộng lớn của công trình Người thực hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ người sẽ tin vào Người. Người đã thấy trước Giáo hội.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào Người: Người cầu nguyện cho tôi, ngay chiều hôm đó.
Đó là lời cầu nguyện được thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của một con người cụ thể. Thánh Phaolô quả quyết, lời cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ đây Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện giúp cho chúng ta (Rm 8,34). “Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ”. (Dt 7,25).
Vậy nội dung của lời cầu nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu không?
Xin cho tất cả nên một...
Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự Hiệp nhất!
Một lần nữa, qua lời cầu nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như một người sáng suốt phi thường. Người đã cảm thấy trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)! Người dũng cảm thấy rằng, thảm kịch to lớn của các tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy ra)!. Tư tưởng tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều tuyệt đối mà nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi lên: đáng buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ hiện đại, với đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn đến sự cuồng tín, và do đó đến những ly cách và sai lầm.
Vâng, sự hiệp nhất là một trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết bao thái độ chống đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như trong Giáo hội.
Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha
Đó không chỉ là một sự thông cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều gì khác hơn là một sự khoan nhượng chân thành với nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn” của các khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.
Mô hình tiêu biểu được Đức Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là nhiều nhưng chỉ làm nên một. Thực sự, chúng ta luôn nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là những người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại với chúng ta! Khi hai người chia rẽ nhau vì sở thích, chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự hiệp nhất đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai người tương quan: lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi! Trái lại trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng lại tôn trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự hiệp nhất của nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở chỗ chỉ nhằm tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ phối hợp mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội cần phải xây dựng một sự hiệp nhất trong thái độ tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Tại sao mọi chủng tộc, mọi nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã được Thiên Chúa trao ban cho họ như một yếu tố của sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại có thể buộc những người cầu nguyện cách khác phải tuân theo? Cần phải chân thành thú nhận rằng, Giáo hội Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với “Âu Châu” hay “La tinh” của mình. Những nhà thần học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo thường nghĩ rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Cứu chuộc...) chỉ thực sự bày tỏ tất cả sự phong phú thần học, khi chúng được chuyển dịch lại nhờ các bộ óc của những người An Độ, những người Châu Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm đó đã bắt đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp của Platon và Aristote.
Nhưng chúng ta sẵn sàng sống “sự hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác biệt” không?
Ngày nay, mọi Người đều nói đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự, chúng ta có hướng tới một thái độ chân thành lắng nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng riêng tư một chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một sự tôn trọng kẻ khác không?
Để họ được hoàn toàn nên một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy tư'của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (LG số 1).
Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm tông đồ tốt hơn, những công trình cần phải thiết lập hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để thế gian tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những người trưởng thành đã đánh mất nó. Từ lâu, Đức Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người: chính sự “hiệp nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là người ta có thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người sống đức tin thế nào để đức tin có sức hấp dẫn kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, xin làm cho chúng con nên một như Chúa.
“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”.
Đó là lời cầu nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu thông truyền tất cả những gì Người đã sống trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết riêng” của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song, giúp Người được vinh quang, phấn khởi, tươi vui: đó là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha, được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong nhau”: Cha ở trong con. Đức Giêsu là con người hoàn toàn thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa Cha”.
Lời nói của Người ư? Đó là những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40...): Yêu thương.
Ý muốn của Người ư? Đó là ý muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38...): Yêu thương.
Hành động của Người ư? Đó là hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28...): Yêu thương.
Con người của Người ư? Đó là con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.
Hình tượng của Chúa Ba Ngôi đó là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động của chúng ta trong phạm vi gia đình, thành phố, nghề nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu thương!
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cứng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
Lời nói “Con muốn” trên đây của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin Mừng: một kiểu nói đòi hỏi ít gặp thấy trên môi miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa Cha; thế nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy nhất của Đức Giêsu là gì, khiến Người đã mạnh dạn nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số phận diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh phúc mà chính Người đã cảm mến trước khi thế gian được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên những kiểu nói thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu trước khi thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng ta thấy.
Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa.
Đó là thảm kịch của Đức Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh suốt đời Ngài. Đó là từ chối của con người trước “đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình yêu Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống” với tôi không? - Không. Chúng ta có thuộc vào số những người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận biết” món quà tặng phi thường được trao hiến cho họ không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của sách Khải huyền hoàn toàn sung sướng không?
Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa.
Lời nguyện của Đức Giêsu đã kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp, ta sẽ bước vào vườn Ôliu, để chứng kiến cuộc nộp bắt do Giuđa dẫn đầu.
Ta có thể nghĩ rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế, trong những giờ phút cuối cùng của đời Người. Ta cũng có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của Tin Mừng, “Tin vui” lớn lao: đó là chính Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha đã yêu Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa, được chia sẻ cho mọi người muốn đón nhận.
Điều đang hoạt động giữa lòng nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ đáng thương của ta, cho dù có bất toàn đi nữa, thì thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp các ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một ngày nào đó, chúng ta sẽ được nối lại!
--------------------------------
PS7-BC19: “Lạy Cha, xin cho họ nên một, xin thánh hiến họ trong sự thật”
Vài giờ trước khi chịu chết, Chúa Giêsu không thể không chia sẻ mối lo sợ của Người. Nhiệm vụ của PS7-BC19
Vài giờ trước khi chịu chết, Chúa Giêsu không thể không chia sẻ mối lo sợ của Người. Nhiệm vụ của Người sắp hoàn tất. Ngày mai, cuộc khổ nạn rồi cũng sẽ qua. Và Người cũng sắp trở về với Cha Người trong vinh quang của Đấng Phục Sinh.
Tuy nhiên, Người cũng sắp để lại trên trái đất này các tông đồ, là những kẻ tiếp tục công việc của Người. Người biết điều đang chờ đợi họ: thái độ không hiểu biết và địch thù của nhiều người, hành trình truyền giáo liên tục, mệt mỏi đủ loại và nhất là những cơn bách hại, tù đầy, đánh đòn và cái chết dữ dằn. Họ phải uống cùng một chén đắng như Người.
Trước khi bước vào đêm khổ nạn, trước hết Chúa Kitô nGiáo Hộiĩ đến các môn đệ: những kẻ theo Người khi Người còn sống và tất cả những ai sau ngày vì yêu mến Người, dâng hiến cuộc đời mình để cứu độ thế giới. Người nGiáo Hộiĩ tới họ không phải là tìm cách làm cho họ được một cuộc sống yên ổn hoặc kéo họ ra khỏi thế giới này, cũng không phải là ban cho họ những quyền hành siêu nhiên để công kích những kẻ chống lại họ. Người biết rằng họ sẽ phải gặp nhiều hiểm nguy: hiểm nguy đến từ bên ngoài, vì chưng thế giới thường là chống đối họ; và hiểm nguy đến từ bên trong, đó chính là những yếu đuối của họ.
Trong giây phút đặc biệt này, Người hướng về Cha một kinh nguyện nồng cháy để cầu cho các tông đồ hôm nay cũng như tương lai. Kinh nguyện này gồm 2 phần quan trọng: xin cho họ nên một và xin thánh hiến họ nên thánh.
Người biết có 3 cơn cám dỗ rình chờ họ:
- Cám dỗ chạy trốn thập giá: Vào thời Chúa Giêsu, các tông đồ phải đương đầu với bách hại và sự chết . Các đấng kế vị họ cũng phải chung một số phận như vậy. Và trong thời kỳ bách hại đó, đã có một số tín hữu õ chối đạo. Nhưng tử đạo không nhất thiết là phải đổ máu, biết bao linh mục, tu sỹ và giáo dân phải chăng đôi khi muốn trốn tránh vì thấy các nhà thờ trống vắng, trẻ em bỏ học giáo lý và giới trẻ xa lạc đức tin? Biết bao người giáo dân cảm thấy mệt mỏi vì công việc từ thiện hằng ngày của họ không thấy có kết quả? Vì thế mà Chúa Giêsu tích cực cầu nguyện cho họ!
- Cám dỗ làm méo mó sứ điệp: “Lạy Cha, con đã ban lời Cha cho chúng, vì lời Cha là chân lý”. Sứ mệnh mà Chúa Giêsu giao phó cho các tông đồ thật lớn lao: là phải trung thành chuyển giao lời giáo huấn của Người. Vì chưng, đối với các tông đồ cũng như con người thời đại hôm nay không phải dễ gì mà sống được những đòi hỏi của Tin mừng. Thời đại chúng ta hôm nay thường bị cám dỗ tìm cách giải thích lời Chúa theo ý nGiáo Hộiĩ của người đời. Nhiều khi người ta còn nhân danh tôn giáo để mà chém giết lẫn nhau. Chúa Kitô đã cầu nguyện tích cực để các tông đồ đừng nhát đảm. Trải qua các thế kỷ, nhiều công đồng đã cho phép Giáo Hội vạch ra những hướng đi mới mà không đánh mất căn tính của mình và hướng đi của Thầy chí Thánh đã chỉ dạy.
- Cám dỗ không hiệp nhất: Chúa Giêsu biết rõ điều đó trong con người. Người biết rằng chủ trương Giáo Hội cá nhân có thể phá huỷ nhóm người được xem là hiệp nhất. Người đã thấy trong các tông đồ cũng có sự Giáo Hội tương tự. Người thấy họ cố gắng bằng mọi giá để sau này chiếm được vị trí tốt nhất bên cạnh Người. Người cũng báo trước sự đổ vỡ lớn lao sẽ làm cho Giáo Hội bị chia rẽ qua nhiều thế kỷ: Đông Phương và Tây Phương, Tin Lành cải Cách, Anh Giáo…Người cũng đau lòng khi thấy các giáo xứ chia rẽ giữa các ban hành giáo và các hội đoàn. Người đã cầu nguyện để Giáo Hội hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Người đã có hiệu quả: con thuyền của Giáo Hội vẫn luôn đướng vững trong con bão táp hiện đại của những ý thức hệ lầm lạc.
Xin thánh hiến họ nên thánh. Chúa Kitô biết điều này: Các tông đồ của Người chỉ đứng vững được trong cuộc chiến không cân sức đối với thế giới, nếu họ sống thánh thiện, hay đúng hơn, nếu họ để cho Chúa Thánh Thần thánh hoá họ. Thực vậy, chúng ta không thể nên thánh như thể trở nên một vận động viên nhờ vào sức mạnh của cơ bắp. Không thể nên thánh được đối với những ai hoàn toàn sống theo những tư tuởng của thế tục. Cần phải giữ mình khỏi sa chước thần dữ. Ngày nay, Thần dữ không cám dỗ chúng ta đừng tin có Thiên Chúa nữa. Nhưng Thần dữ cám dỗ chúng ta cứ sống theo tinh thần thế tục, rồi thế nào khi về già về hưu, Thiên Chúa cũng tha thứ cho chúng ta.
Tất cả chúng ta dù là linh mục, tu sỹ hay giáo dân vẫnõ luôn luôn ở trong tư thế giằng co giữa đức tin và tham muốn trần tục. Ở trong thế gian không phải là thuộc về thế gian, đó là một thách thức lớn đối với chúng ta. Nên thánh có nghĩa là phải dành riêng và tận hiến cho Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện để các tông đồ ý thức đầy đủ về việc dâng hiến mình cho chương trình cứu chuộc. Dâng hiến mình và trung thành với lời dạy của Chúa giúp người kitô hữu có một thái độ khôn ngoan đối với những bất toàn không thể tránh được.
Nên thánh cũng có nghĩa là lo lắng bắt chước sự Thánh Thiện của Chúa Cha. “Anh em hãy thánh thiện như Cha anh em ở trên trời”. Bắt chước Chúa Cha cũng là bắt chước Chúa Kitô. Tình yêu phải chăng không là muốn nên giống người mình yêu chăng? Vậy người tông đồ muốn yêu Chúa, đòi hỏi phải chiêm ngắm Chúa Kitô: người ta chỉ có thể trở nên giống người khác nhờ vào việc chiêm ngắm người đó và dõi theo người đó từng bước. Cha Ignace Potterie nói : “Thánh hiến người tông đồ trong sự thật, đó là làm cho người tông đồ luôn hướng về cuộc sống của Con Thiên Chúa trong tương quan đối với Chúa Cha”.
Trang phục không làm nên thầy tu! Cũng vậy, chúng ta không phải là tông đồ đích thực vì đeo cây thánh giá lớn trên cổ! Nên giống Chúa Kitô là làm cho cuộc sống chúng ta nên giống cuộc sống Chúa Kitô. Khi cầu nguyện cho các tông đồ, Chúa kitô không xin gì khác ngoài điều xin cho họ được nên thánh, có nghĩa là họ được Thánh Thần thánh hiến, để giống Chúa Kitô, trở nên biểu tượng sống động của Chúa Cha.
Thế giới luôn luôn có sự thiện và sự ác trà trộn lẫn nhau. Đôi khi chúng ta muốn tẩu thoát hoặc nhốt mình trong phòng thánh. Chúa không muốn như vậy. Người muốn chúng ta ở trong thế giới để làm cho thế giới sống tình người hơn, phúc âm hoá thế giới và làm cho thế giới này thành sân bay bằng phẳng chuẩn bị cho hàng không vĩnh viễn nước trời. “Hãy làm nở hoa mảnh đất mà chúng ta đã được gieo vào. Khi đó chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui mà Chúa Kitô đã hứa và thế giới đó sẽ đẹp hơn”.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hay Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các: PS7-BC20
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hay Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.
Một cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khỏe mạnh. Nó bắt đầu bay và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:
- Tại vì nó không hạnh phúc đó. Cậu bé cãi lại: - Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà. - Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quí nhất. - Điều gì ? - Đó là tự do. - Bộ cha muốn con thả cho nó đi sao ? - Đúng thế.
- Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.
- Nhưng con phải chấp nhận như thế. Cậu bé nài nỉ: - Cha ơi, con thương nó lắm. - Nếu con thương nó thì con phải để cho nó đi.
Cậu bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.
Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói: “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy”. Về cùng Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.
Tình yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người chồng của mình sống theo cách sống của mình.
Tình yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn: đổi mới, lớn lên, phát triển…
Phải biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu quí mà sẽ được điều đáng quí hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con ; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”.
«Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.»
Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của PS7-BC21
Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài, chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng đoàn công giáo Việt Nam...
Một linh mục Ấn Độ tên là Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: «Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?». Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: «Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi». Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: «Hắn này là một tên vô thần!»
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: «Thưa Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác». Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: «Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.»
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo Hội và trong thế giới?
Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân, tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!
Bài đọc Phúc Âm hôm nay là một phần trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu trong bữa tiệc: PS7-BC22
Bài đọc Phúc Âm hôm nay là một phần trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly (17:1-26) và là đoạn kết của Diễn Từ Cáo Biệt - lời cầu nguyện của Ngài trước khi chịu khổ nạn và chịu chết.
Những ý tưởng lập đi lập lại:
"Cha" được dùng tất cả sáu lần (cc.1,5,11,21,24,25) - Kết hiệp hoàn toàn với Cha nên một, Đức Giêsu luôn chứng tỏ là người Con yêu thương và vâng lời Cha.
"sai" (cc.3,8,21,25) - Tin rằng Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến là chấp nhận sự thật rằng Ngài là một cùng Cha.
"Thế gian" được dùng mười bảy lần - là thế gian của không tin tưởng vào Thiên Chúa, của thù hận, đối nghịch với lối sống của một Kitô hữu.
"yêu thương", trong câu 23,24,26 - Giáo Hội là một cộng đoàn tình thương, là dấu chỉ sống động của tình Cha Con yêu thương nhau.
"tôn vinh", trong câu 1,4,5,10,22,24 - tột đỉnh của sự hiệp nhất là được chia sẻ vinh quang của Đức Giêsu với Cha Ngài.
"ban cho"
c.22a "Con đã ban cho họ vinh quang": trở nên rõ nghiã hơn trong câu 26b dưới đây.
c.24 "Cha đã ban cho con": chúng ta là quà tặng của Chúa Cha cho Đức Kitô chứ không phải gánh nặng hoặc sự đau khổ mà Đức Kitô phải gánh chịu.
c.26b "để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa": Đức Giêsu ban cho chúng ta một quà tặng độc đáo đó là tình thương của Chúa Cha và của chính Ngài. Trong Cựu Ước, Chúa ở với dân Ngài nơi Hòm Bia Thiên Chúa. Qua sự ban tặng của Đức Giêsu, Chúa đến ngự ngay trong lòng chúng ta.
"hiệp nhất", sự song song trong các câu sau đây cho thấy rõ hơn nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu: đó là sự hiệp nhất của các tín hữu.
21a. để tất cả nên một 21b. như Cha ở trong con và con ở trong Cha 21c. để họ cũng ở trong chúng ta 21d. như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con 22b. để họ được nên một 22c-23a như chúng ta là một, con ở trong họ và Cha ở trong con 23b. để họ được hoàn toàn nên một 23c. như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.
Cặp câu 1 và 3: mục đích là sự hiệp nhất nơi các tín hữu. Cặp câu 2: gương mẫu của sự hiệp nhất là giữa Cha và Đức Giêsu. Cặp câu 4: ảnh hưởng của sự hiệp nhất các tín hữu trên thế gian.
Một Điểm Chính
Cộng đoàn tín hữu của Đức Giêsu phải hiệp nhất giống như sự hiệp nhất giữa Đúc Giêsu và Cha Ngài.
Suy Niệm
Tình thương và sự hiệp nhất liên hệ với nhau như thế nàỏ Có thể nào chỉ có một trong hai mà thôi chăng?
Cộng đoàn (hoặc nhóm) của tôi hiệp nhất ra sao? Làm sao để gia tăng sự hiệp nhất này?
Những lời cuối trong diễn từ ly biệt, Chúa Giêsu với tư cách là một vị Tư tế đang cầu nguyện hay chính: PS7-BC23
Những lời cuối trong diễn từ ly biệt, Chúa Giêsu với tư cách là một vị Tư tế đang cầu nguyện hay chính Người đang cầu thay nguyện giúp cho hết những ai liên kết với Người trong đức tin và đức mến. Trong giờ cầu nguyện đó, Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho chính mình (17,1-8), cầu nguyện cho các môn đệ (17, 9-19), mà còn cầu nguyện cho những người qua lời rao giảng của các môn đệ, tin và bước theo Người (17, 20-26). Tin mừng hôm nay ghi lại lời cầu nguyện cuối cùng này của Chúa Giêsu dành riêng cho người tín hữu.
Có chứng kiến sự xung khắc giữa các quốc gia gây nên những cuộc chiến liên miên giữa các dân tộc; những xung đột, những hiềm khích nhiều khi chẳng đáng là gì giữa các tín đồ của các tôn giáo; rồi những chuyện chia rẽ trong nội bộ của từng Giáo hội, trong từng cộng đoàn, từng gia đình, chúng ta mới thấy sự trân quý thế nào là sự hiệp nhất, thế nào là tình yêu thương huynh đệ. Đồng thời cũng giúp chúng ta cảm nghiệm thế nào là tình yêu vô bờ bến mà Chúa Giêsu đã dành cho tất cả chúng ta là những kẻ tin theo Người. Điều dễ thấy trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi cầu xin cùng Chúa Cha ban cho tất cả chúng ta là ơn được hiệp nhất nên một (Unicitas). Chúng ta hiểu “hiệp nhất nên một” ở đây là gì? Rất có thể chúng ta hay hiểu sai về điều này và gây ra những ngộ nhận đáng tiếc. Chúng ta vẫn thường hay co cụm trong một tổ chức, một đoàn thể và lấy điều lệ do tổ chức và đoàn thể làm thước đo chuẩn mực để phán quyết đúng sai, ở trong hay ở ngoài, hiệp nhất hay không hiệp nhất,… Tệ hơn, đó còn là những quan niệm mang tính “bè phái” khi cho rằng người này hay tổ chức này, đoàn thể nọ không cùng chính kiến, không cùng trình độ, không cùng “chiến tuyến” nhân sinh quan, vũ trụ quan,… với mình và vì thế, cần phải “quy về một mối” bằng mọi giá!
Hơn ai hết, Chúa Giêsu cũng như các tông đồ mà đặc biệt là Thánh Phaolô không có cái nhìn như chúng ta. Sự hiệp nhất theo đó không phải là xoá bỏ những nét riêng biệt, làm mất đi những tâm tình diễn tả đức tin phong phú và riêng tư nơi tâm hồn mỗi cá nhân hay trong từng bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Điều cốt yếu ở đây chính là niềm tin của chúng ta. Qua lời rao giảng được lưu truyền từ các tông đồ, tất cả chúng ta, không phân biệt giống nòi, ngôn ngữ, giai cấp, biên giới, … đều có cùng một Thiên Chúa là Cha, đều lãnh nhận cùng một phép rửa và có cùng một niềm tin vào Thiên Chúa. Chính điều này làm nên sự hiệp nhất, làm nên sự gắn kết giữa chúng ta với nhau trong tình yêu Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể trong thân thể con người để diễn tả tính hiệp nhất nên một này. Theo đó thân thể không phải là tổng các chi thể cộng lại hay lắp ghép nên mà chính là một nguyên lý nhất thống của mọi chi thể. Với dân miền Trung Cận Đông, thì thân thể còn đồng nghĩa với chính con người. Như thế, Chúa Giêsu Kytô chính là thân thể, là nguyên lý thống nhất để quy tụ các Kytô hữu vốn là những chi thể được hiệp nhất nên một. Như thế, điều cốt yếu ở đây chính là chỉ có một nhiệm thể là Đức Kytô, còn tất cả chúng ta, bất luận là ai đều quy tụ trong cùng một nhiệm thể mà thôi.
Vẫn biết rằng ơn giảng hoà phát xuất từ thập giá của Chúa Kytô để cho Ngôi Lời thực hiện sự kết hiệp giữa các tín hữu với Thiên Chúa và các tín hữu kết hiệp với nhau, không phân biệt. Thế nhưng vẫn còn đó một thực tế không thể chối cãi là chia rẽ vẫn còn đó, phe nhóm bè phái vẫn tràn lan. Chúng ta vẫn còn nghe văng vẵng bên tai điều mà Thánh Phao lô trong thư gửi tín hữu Côrintô nhắc nhở: “Trong anh em có những luận điệu như:‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kytô’. Thế ra Đức Kytô đã bị chia năm sẻ bảy rồi ư?” (1Cr 1, 12-13).
Ước gì chúng ta nhận ra lời cảnh tỉnh của Thánh Phaolô tông đồ để có thể đóng góp phần nhỏ bé của mình nhằm cỗ võ cho sự hiệp nhất không chỉ trong Giáo hội mà còn cho thế giới này biết xích lại gần nhau trong yêu thương hầu tất được hưởng ơn hiệp nhất, tình yêu và bình an của Thiên Chúa. Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Chúng ta đã nghe biết về Walt Disney, tác giả hai bức tranh Mickey Mouse và Disneyland: PS7-BC24
Chúng ta đã nghe biết về Walt Disney, tác giả hai bức tranh Mickey Mouse và Disneyland. Nhưng có lẽ chúng ta không nghe nói đến anh em của ông là Roy. Nhưng hai anh em đã cộng tác với nhau chặt chẽ. Họ đã sớm nhận ra rằng: Walt là một nghệ sĩ và Roy là một nhà kinh doanh. Họ đã hợp đồng với nhau. Roy làm việc trong hậu trường lo mọi chi tiết kinh doanh. Như thế Walt được tự do sáng tác và sản xuất. Như Roy đã tiết lộ: “Công việc của tôi là giúp Walt làm những gì anh ưa thích. Tôi giao dịch với ngân hàng để Walt rảnh tay”.
Đây là một tấm gương về điều Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay khi người cầu nguyện: “Xin cho họ nên một như Chúa Cha và Chúa Con là một” Từ công đồng Vaticanô II, chúng ta đã cố gắng đem lại sự hiệp nhất giữa các Giáo hội Kitô. Nhất là những cố gắng tạo sự hợp nhất giữa các Giáo hội công giáo. Chúng ta có thể mượn tinh thần của anh em trong gia đình đức tin, trong đó cá nhân cũng như đoàn thể chiếm những vị trí khác biệt, trên những phơng diện khác nhau. Những người cấp tiến muốn thay đổi tất cả. Những người bảo thủ không muốn thay đổi gì hết. Thay đổi nhiều quá, chưa thay đổi đủ. Hát nhiều quá. Hát chưa đủ. Bãi bỏ trường công giáo, phải duy trì bằng mọi giá. Chỉ lo vấn đề thiêng liêng, phải hội nhập vấn đề xã hội, phải nới rộng giáo luật – giáo luật phải chặt chẽ hơn.
Ngay trong Giáo hội, cũng có tranh chấp về quốc tịch, giống nòi, giữa anh em công giáo có trình độ kinh tế, nghề nghiệp giáo dục và xã hội khác nhau. Ngay trong một họ đạo, chúng ta cũng thấy có hiều sự khác biệt, nhiều bất công.
Chúng ta phải làm gì ? Làm sao tìm được sự hợp nhất Chúa Kitô muốn giữa các kẻ theo Người.
Sự hợp nhất xây dựng trên tình yêu: thật sự mong muốn điều lành cho mọi người không phận biệt tuổi tác, điạ vị, trình độ văn hóa, kinh tế, mầu da, quốc tịch hay nghề nghiệp.
Hãy cầu nguyện cho những người bạn không đồng quan điểm: “Lạy Chúa, xin giúp con hiểu đường lối họ suy nghĩ, xin giúp họ, hiểu đường lối suy tưởng của con”. Hãy cầu nguyện như Chúa Kitô cho sự hợp nhất.
Hãy đối thoại, bàn luận với họ, và quan trọng hơn, hãy lắng nghe lý do của họ, ý kiến của họ. Hãy cố gắng tìm sự thật hơn là tìm thắng thế bằng lý luận.
Hãy tin tưởng vào sự thành thật của người khác, dầu bạn có thể hoài nghi họ mị dân hay ngoan cố.
Hãy có tinh thần trách nhiệm, trong mỗi cộng đoàn hoặc gia đình bạn. Giáo xứ hay rộng lớn hơn Địa phận của bạn, tổ quốc của bạn... mỗi người đều có phần trách nhiệm phải cân nhắc lời nói.
Hãy chú ý những lời trong kinh nguyện Thánh Thể II “Xin cho chúng con khi thông Mình Máu Chúa Kitô, được hợp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.
Tất cả chúng ta rước cùng một Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, đức Kitô đã cầu nguyện cho chúng ta hợp nhất. Đức Kitô đã ban chính mình Người cho chúng ta trong thánh lễ này, xin tinh thần Chúa Kitô, tinh thần hợp nhất giúp chúng ta, những người công giáo biết cộng tác với nhau. Xin Chúa chúc lành bạn. Amen
Cách đây hai năm tôi có dịp dạy giáo lý cho các em lớp 8 tại thành phố Avondale, Louisiana: PS7-BC25
Cách đây hai năm tôi có dịp dạy giáo lý cho các em lớp 8 tại thành phố Avondale, Louisiana. Tôi còn nhớ có lần đề nghị với các em làm một vài posters treo trong lớp cho sống động. Các em hỏi: "Làm cái gì cũng được hả thầy?" "Thì cái gì cũng được. Miễn là nó nhắc mình nhớ đến Chúa Giêsu là được rồi." Tôi trả lời như thế. Thế là vài ngày sau một trong những tấm posters được trình bày lộng lẫy với những tấm hình sặc sỡ chung quanh hàng chữ: "Jesus is the world!" Nhìn tấm poster, tôi lắc đầu không biết phải nói sao về "tư tưởng thần học" mới lạ này. Khác hẳn với điều tôi được học hỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan cũng đã ghi lại hai chữ: Jesus (Chúa Giêsu) và the world (thế gian). Thánh Gioan không nói Jesus is the world (Chúa Giêsu là thế gian), nhưng ngài nói Jesus prays for the world (Chúa Giêsu cầu nguyện cho thế gian).
Tìm hiểu thánh kinh, chúng ta thấy từ ngữ the world có 3 ý nghĩa: 1/ thế gian là thế giới chúng ta đang sống. 2/ thế gian là những người chưa nhận biết Chúa. 3/ thế gian là những người chống lại Chúa. Cả ba ý nghĩa này không đồng nghĩa với Chúa Giêsu, nhưng nó là đối tượng của công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Thánh Gioan ghi rõ Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho các môn đệ mà thôi, nhưng còn cho tất cả những người nhờ lời các môn đệ rao giảng mà tin vào Cha -- những người chưa nhận biết Chúa, và cả những người chống lại Chúa. Chúa đã cầu nguyện cho tất cả mọi người được hợp nhất nên một.
Đến đây tôi nhớ đến tích truyện của cha Brandsma. Một tấm gương yêu thương tha thứ và ước ao cho người giết mình được nhận biết Chúa. Ngày 26.7.1942, trước khi bị hành quyết, cha Brandsma đã trao cho nữ y tá trẻ tuổi ngoại đạo người Hòa lan một xâu chuỗi Mân côi thô sơ mà ngài đã làm trong tù. Người y tá này có nhiệm vụ chích thuốc độc cho cha chết. Cha nói với cô ta: "Cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện."
- Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện - cô ta đáp.
- Cô cứ thử mà xem, ít là cô hãy lập lại câu: "Xin cầu cho chúng tôi là kẻ có tội..."
Đó là những lời cuối cùng của cha Brandsma trước khi chết. Chính nhờ xâu chuỗi Mân côi của cha Brandsma mà cô đã tìm được đức tin, và năm 1955, cô đã tự ý trình diện để cung khai bổ túc hồ sơ phong chân phước cho cha Brandsma. Cha Brandsma đã được ĐTC Gioan Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 3.11.1986. Cha bị Đức quốc xã giết trong trại tập trung Dachau, gần Muenchen, Tây Đức.
Là người công giáo chắc hẳn chúng ta không những đã được học hỏi thế nào là cầu nguyện, mà còn được khuyên dạy phải sống đời cầu nguyện làm sao. Biết là một chuyện. Sống là một chuyện khác. Nhiều lúc cầu nguyện cho những người thù ghét hãm hại mình xem ra cũng thực hiện được. Trái lại, thật oái oăm thay những lần nghĩ đến phải cầu nguyện cho những người gần gũi, những người đáng lý ra phải yêu mến thì xem ra lại là một vấn đề.
Nhìn lại tấm poster với những tấm hình dán chung quanh: Michael Jordan, cầu thủ bóng rổ nổi tiếng của đội banh Chicago Bulls" mẹ Têrêsa Calcuta bên cạnh những em bé bụng ỏng với thân hình da bọc xương" công chúa Diana" tổng thống Clinton... dường như tôi đã cảm nghiệm được ý nghĩa câu các em muốn nói: Jesus is the world!
Xưa kia, trước khi ông Mô sê lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu: PS7-BC26
Xưa kia, trước khi ông Mô sê lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho các chi tộc Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gian, Đức Giêsu, Mô sê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt lên trời đàm thoại với Cha Người. Người thâu tóm một trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những ngày sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người và các môn đệ.
- Trước hết Người cầu cho chính mình (c.l-5).
- Rồi nhắc đến tình thế do cuộc ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ (c.6-19).
-Và sau cùng Người cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.
2...là lời cầu nguyện trọng đại của Đức Giêsu.
Đức Giêsu cầu xin: "Xin cho họ nên một" bằng hai vế (c:20-21 và 22-23), được kết cấu theo kiểu song hành.
Từ ngữ "nên một” không phải được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ ngữ đó để chỉ sự liên kết giữa Người với Cha (10,30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (l0,16). Còn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ lúc này, từ ngữ đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín hữu, nó chỉ sự hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour giải thích: "Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu sau này thì ta hiểu: sự hiệp nhất nên một của các tín hữu bắt nguồn từ sư hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con " (“Lecture de l'Evangile selon St. Jean", Seuil, cuốn 3, trg 306-307).
Chính nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến: "Như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Chúa đã sai Con”
- “Rằng Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là "chiêm ngưỡng vinh quang của Người " - tác giả giải thích tiếp - là được thấy Người mặt đối mặt, "Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".( I Ga 3,2).
- Nhưng việc các tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con. duy nhất, phát xuất từ việc cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời nguyện kết thúc bằng câu: "Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa ". Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
Dấu chỉ của Thiên Chúa nơi trần gian
(Đức Cha Daloz: "Nous avons vu sa gloire”, DDB, trg 214-216).
Đức Giêsu đã sống những giờ phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị nộp vào tay những kẻ toan giết Người.
Đó là "giờ của Người". Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những lo âu của giờ phút ấy. Ánh mắt ấy mở rộng tầm nhìn hướng về đám đông những người sẽ tin theo Người cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ Chúa thuộc mọi thế hệ . "Con không chỉ cầu cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con”. Chúng ta được lời cầu nguyện của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương tựa của ta đó sao?.
Ngươi cầu xin điều gì cho các kẻ tin? Người chỉ xin có một điều duy nhất: "Cho họ được nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong Cha, cho họ cũng ở trong chúng ta " .
Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng tầm mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn phận Đức Giêsu trao cho ta, để cổ võ sự hiệp nhất và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà Đức Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân huệ của Chúa Cha, một ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một nhiệm vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu xin cho ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha? Sự hiệp nhất thần linh này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta.
Đó chính là điều Đức Giêsu nói: "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một... " ước vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp thông đời sống, là chính sự sống của Thiên Chúa. Chính vì thế, Người mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha và thông huyền cho họ tình yêu duy nhất phát' xuất từ Chúa Cha: "để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa ".
Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể trở thành đấu chỉ của chính Thiên Chúa giữa trần Gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì. họ ở trong Thiên Chúa và Thiền .Chúa sống trong họ, chính nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế gian.
Tình yêu nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính tình yêu nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể khơi dậy đức tin: "Như vậy đê thế gian tin dằng Cha d(ĩ sai Con ". Đức Giêsu hướng về một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích đến từ~ Thiên Chúa và liên kết các môn đệ lại 'với nhau, là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa thế gian. "Như vậy, thế gian' có thể nhận biết rằng chính Cha dã 'sai Con và đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con ". ơn gọi của chúng ta vĩ đại dường nào! Này đây chúng ta được gọi để trở nên địa điểm cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian! Chỉ có sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu mới có thể thực hiện được điều đó trong chúng ta. z Hội Thánh là hiệp thông (HĐGM Pháp: "Giáo lý cho người lớn", trg 187-188).
"Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền ". Khi các tín hữu tuyên xưa đức tin trong kinh_Tin Kính, họ xác quyết rằng Hội Thánh được nhận biết nhờ những đặc điểm đó. Đó là những "điểm son " của Hội Thánh. Vì không chỉ mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý sâu xa về mầu nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải chỉ nguyên nhờ nhìn bề ngoài mà biết được. "Hội Thánh toàn cầu xuất hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (HC "Anh Sáng Muôn Dân" 4, trích th. Cyprianô).
Nguồn phát sinh sự hiệp nhất của Hội Thánh được nói đến'trong thư thánh Phao lô gởi tín hữu Êphêsô: "Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người " (Ep 4,4-6).
Bởi vậy, Hội Thánh ca quyết rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do chính mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sự hiệp nhất này có thể nhìn thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không bao giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng một đức tin, được định thức trong cùng một kinh Tin. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân tộc duy nhất. Bí tích Thánh Thể, bí tích của sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không ngừng canh tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại với nhau bằng dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ cho sự hiệp thông của Hội Thánh.
Bởi vì sự hiệp nhất của Hội Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay do kỷ luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như hiệp thông đó là "một khái niệm trung tâm và nền tảng" (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985) . Khái niệm này được triển khai trong các tài liệu của Công Đồng Vatican II. Sự hiệp thông này là hiệp thông giữa Chúa Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần (xem 1 Ga 1,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ trong tình bác ái.
Sự hiệp nhất còn là một yếu tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của các tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc truyền giáo.
Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu xin là dấu hiệu đầu tiên của sự nối tiếp mạc khải sống: PS7-BC27:
1. Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu xin là dấu hiệu đầu tiên của sự nối tiếp mạc khải sống động của Ngài qua mọi thời đại, là dấu hiệu của sự tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp của mỗi thế hệ tín hữu với Chúa và TC Cha: “Con trong chúng và Cha trong Con để chúng cũng ở trong chúng ta”. Sự liên tục này là phản ảnh sự hiệp nhất nối kết Cha và Con (10,38; 4,10-11). Con chỉ là Con bao lâu còn tiếp xúc với Cha; cũng thế Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi, như các tông đồ, họ trực tiếp gặp gỡ thực tại của Đức Kitô trong lời rao giảng đức tin (1Ga 1,1-3). Họ chưa biết Kitô giáo là gì nếu chỉ biết Đức Kitô nhờ nghe nói lại, biết Ngài sống chết bao lâu, mà không bao giờ đối diện với Đức Kitô hằng sống.
Mối dây hiệp nhất đang nối kết trực tiếp mỗi một thế hệ tín hữu với Đức Kitô và Cha nhờ việc rao giảng đức tin được diễn tả ra bên ngoài bằng sự hiệp nhất giữa các tín hữu và bằng sự hòa điệu của một cơ thể sống động đang qui tụ họ lại. Càng xa dần biến cố lịch sử Đức Kitô, càng phải sợ rằng, những yếu tố ngoại lai sẽ len lỏi vào trong Giáo hội và làm mất đi sự mới mẻ ban đầu. Trước đây là vấn đề hiệp nhất trong giáo thuyết, nhưng cũng là vấn đề tình huynh đệ Kitô hữu, vì đó là qui luật đời sống Kitô giáo. Khi thánh Gioan viết thư nhắc lại giáo huấn mà các tín hữu Ngài đã nghe từ ban đầu (1Ga 2,7.24; 3,11; 2Ga 5-6), Ngài cũng khuyên nhủ họ sống yêu thương nhau và trung thành với giáo thuyết. Từ đó người ta hiểu rằng trái tim của vị tông đồ đầu tiên đã se thắt lại khi, vào cuối thế kỷ thứ nhất, Ngài linh cảm là Kitô giáo sẽ không còn hiệp nhất.
Trong sợi dây lưu truyền sứ điệp cứu độ của một TC tình yêu, thì vòng xích nào cũng đáng kể cả: Cha - Con - các tông đồ, mỗi một tín hữu, mỗi một thời đại. Triều thiên là lòng khoan hậu của TC kết nên chỉ mong trở thành một (1Ga 2,5; 4,12.17). Cộng đoàn Kitô hữu, qua mọi thời đại, hoàn toàn chỉ là một đại gia đình uống cùng một nguồn suối sự sống, nguồn suối của Đức Kitô; trong Ngài tỏ lộ ra nguồn mạch đầu tiên của tất cả sự sống: TC Cha.
Sự tiếp nối nguồn sinh lực này, biểu lộ ra trong sự tiếp nối tinh tuyền học thuyết và củng cố trong tình huynh đệ, là một luận cứ đáng kể để thuyết phục thế gian. Sự vững chắc của một đầu cầu đủ gây ấn tượng cho một thế giới cần phải chinh phục, dĩ nhiên không phải là một ấn tượng sợ hãi mà là một ấn tượng tốt đẹp và lôi cuốn. Vì sự bền vững trong đức tin tinh tuyền và duy nhất của cộng đoàn qua mọi thời đại đủ biện minh cho đấng sáng lập. Ngài đã không thể đạt được hiệu quả ấy nhờ quyền lực nhân loại của Ngài, nhưng chỉ đạt được nếu sứ mạng của Ngài bắt nguồn từ một thế giới siêu nhiên - thần linh. Như vậy sẽ không gì có thể biện minh cho việc thế gian từ chối tin rằng Chúa Cha đã thật sự sai Chúa Kitô và từ chối tin rằng đến lượt Ngài, Ngài đã uỷ nhiệm cho các nhân chứng công bố cho mọi người tình yêu mà Cha đã tỏ ra trong Ngài.
2. Sự hiệp nhất giữa các tín hữu trực tiếp phát xuất từ việc đồng tham dự vào vinh quang Đức Kitô. Ngay từ lúc nhập thể, nhưng nhất là trong sự sung mãn hoàn toàn khi thăng thiên, nhân tính của Chúa Giêsu nhờ thần tính phong phú, đã được tràn ngập vinh quang TC. Khi hiệp nhất với Ngài nhờ đức tin, các môn đệ được thông ban vinh quang đó; mỗi một người tùy theo mức độ, thông vào bản tính của TC khi sinh bởi TC nhờ thánh linh (1,14; 3,6; 2P 1,4). Dù chia sẻ vinh quang và mọi của cải thần thiêng của Ngài, họ vẫn làm nên một thân thể với và trong Ngài mà thôi: “Chỉ có một thân mình và một thần khí, cũng như chỉ có một TC, một đức tin, một phép rửa... Tuy nhiên mỗi người chúng ta đã được ân sủng ban xuống tùy theo lường ân lộc của Đức Kitô” (Ep 4,4-7)
Như thế, nhờ việc Đức Kitô ở trong các môn đệ như nguyên lý tác động sự sống thần linh và đàng khác nhờ việc Cha ở trong Con như nguyên lý sự sống và nguyên lý hành động của Ngài, tất cả chỉ làm thành một: “Con trong chúng và Cha trong Con để chúng hoàn toàn nên một”. Ở giữa Ba Ngôi TC và Giáo hội có một sự hiệp nhất thiêng liêng rất khắng khít: “Điều mà chúng tôi đã từng thấy và đã từng nghe, thì chúng tôi loan báo cho anh em nữa... để anh em được thông hiệp với chúng tôi (nhờ đức tin); nhưng sự thông hiệp của chúng ta, là thông hiệp với Cha và với Con của Người, Chúa Giêsu Kitô” (1Ga 1,3)
3. Sau khi nhìn đến các tín hữu đang sống trong thế gian, Chúa Giêsu nghĩ đến tình cảnh của họ trong tương lai. Đối với Ngài, nay đã đến lúc trở về cùng Cha (14,28), trong vinh quang mà Cha đã ban cho Ngài từ lúc sinh ra trong vĩnh cửu, trong vinh quang mà nhân tính Ngài sắp được liên kết cùng. Đó là điều Cha đã quyết định trong tình yêu dành cho Chúa Con khi, trong vĩnh cửu, Ngài đã ra lệnh cho Con Ngài nhập thể. Những kẻ Cha đã ban cho Chúa Giêsu là toàn thể các tín hữu xét như một khối. Đó là kỷ phần của Đức Kitô. Ngài đã nhận kỷ phần đó từ Cha và đã chấp nhận nó. Kỷ phần đó thuộc về Ngài và Ngài đã tỏ ra sẵn sàng nói lên sự chấp nhận bằng giòng máu đổ ra. Quyền lợi của Ngài, như thế, liên kết với quyền lợi của chúng ta. Do đó Ngài đòi hỏi với một uy quyền khiến ta ngạc nhiên vì nằm trong một lời cầu nguyện. Con muốn diễn tả một hành vi ý chí, chứ không chỉ là một ước muốn đơn thuần. Chắc chắn, Chúa Giêsu bao giờ cũng chỉ muốn điều Cha muốn (4,34; 5,30; 6,38-40). Nhưng trên điểm này, ý muốn nhân loại của Ngài hòan tòan trùng hợp với ý muốn của Cha, nên Ngài đã nói cách cương quyết. Chúng ta thấy Ngài tha thiết với chúng ta dường nào. Điều Ngài muốn bây giờ là chúng ta được kết hợp với sự sống vinh hiển của Ngài. Có thể nói vinh quang và niềm vui của Ngài sẽ không trọn vẹn nếu không có điều đó. Đức Kitô mạc khải tình yêu Ngài đối với chúng ta cách tuyệt hảo. Con người hãy dừng bước để hồi tâm đón nhận và suy niệm trong lòng những lời nói chưa chan lời âu yếm đó.
4. Sau khi nhìn đến số phận tại thế của các môn đệ, vị tôn sư cầu xin cho họ ơn một ngày kia được đi theo Ngài về trời, ở bên Chúa Cha. Ngài đã nói với họ trước khi chịu nạn: họ sẽ theo Ngài lên trời vì Ngài đi dọn chỗ và sẽ trở lại đưa họ theo với Ngài (13,37; 14,2-3). Lúc này, Đức Kitô tỏ cho Chúa Cha thấy ý muốn cương quyết có họ gần bên Ngài. Và đó cũng là chính ý muốn của Cha, Đấng đã uỷ thác họ cho Ngài với sứ mạng bảo vệ họ khỏi hư mất ở đời này cũng như đời sau: “Này đây ý của Đấng đã sai Ta: phàm sự gì Người đã ban cho ta, thì Ta không được để hư đi điều gì, song ngày sau hết ta sẽ cho nó sống lại” (6,39).
Chính khi cho họ sống lại là Chúa Giêsu dứt khoát đem họ theo ở bên Ngài, cho họ thấy vinh quang thần linh sắp hội nhập và biến đổi nhân tính Ngài trên trời. Ngay lúc còn tại thế, vinh quang này đã nhiệm mầu chiếu sáng trong các công việc, cử chỉ và toàn thể con người của Ngài, đến nỗi các môn đệ đã có thể chiêm ngắm vinh quang đó nhờ ánh sáng đức tin (1,14; 2,11). Bây giò khi Ngài phục sinh, vinh quang đó chiếu sáng mãnh liệt hơn, và họ thấy cách rõ ràng hơn. Trên trời, nhân tính của Ngài sẽ tiếp nhận cách sung mãn vinh quang mà Cha đã vì yêu mà ban cho Ngài lúc tiền hữu, trước khi tạo dựng vũ trụ. Như một tấm gương không vết nhơ hay như một tấm màn trong suốt, nhân tính Ngài sẽ phản chiếu và tràn ngập vinh quang này một cách hoàn hảo đến độ thấm nhuần và được biến đổi nhờ vinh quang đó. Khi chiêm ngưỡng vinh quang này, những người được chọn sẽ vui mừng phấn khởi, sung sướng hạnh phúc, như lời Chúa Giêsu: “Ta sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng, và sự mừng vui của các con không ai giựt mất được” (16,22)
Như Đức Kitô vinh hiển sẽ là hình ảnh hoàn hảo của Cha và sự chiếu sáng huy hoàng của vinh quang Ngài (Col 1,15; Dt 1,3), thì chính Chúa Cha vinh hiển mà các môn đệ sẽ chiêm ngưỡng trong tấm gương Con Ngài; chính lúc đó ứng nghiệm lời Chúa Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha...Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta” (14,9-10).
Theo thánh Phaolô, khi chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Kitô nhờ đức tin, các tín hữu đã nhận lãnh một phần vinh quang này: “Còn chúng ta hết thảy, không màn che mặt, ta ngắm, như dọi lại trong gương, vinh quang của Chúa; và nhờ cũng một hình ảnh ấy, ta được biến hình đổi dạng từ vinh quang này đến vinh quang khác” (1Co 3,18). Sự trực tiếp chiêm ngưỡng Đức Kitô vinh hiển sẽ làm cho họ được vinh quang.
5. Cuối lời nguyện, Đức Kitô bày tỏ lý do khiến lời cầu nguyện sẽ đáng được nhậm: Chúa Giêsu đã ngỏ lời với cha Ngài bằng cách gọi Người là Cha chí công. Ngài đã tôn vinh Cha bằng cách tỏ danh Cha (c.4), và việc Ngài đã bắt đầu, Ngài sẽ tiếp tục trong tương lai, bằng cách dẫn con người đến đức tin. Đã có và sẽ có những sự chống đối. Thế gian đã từ chối không nhận biết Cha ở trong Con, Đấng đã được sai đến với họ. Nhưng những người mà Đức Kitô vừa cầu nguyện cho đã cư xử cách khác. Họ đã rộng lòng đón chân lý, vì thế Đức Kitô làm cho họ nhận biết rằng chính Cha đã sai Ngài, để tình yêu của Cha ở trong họ, sống và hành động như trong chính Ngài (vì họ thuộc về Ngài); và nhờ đó, Ngài được yêu mến bởi họ và trong họ. Nếu đó là thái độ tâm hồn của các tín hữu bán chặt vào Đức Kitô, và nếu đó là ý muốn của Đức Kitô suốt cuộc đời của Ngài thì việc Chúa Cha nhậm lời Con Ngài là một điều chính đáng, khi Chúa Con cầu xin Ngài hiệp nhất mọi tín hữu trong tình bác ái.
6. Lúc sắp lìa trần, vị Tôn sư tổng kết thành quả cuộc đời trần thế của Ngài. Dù ngài đã hết sức cố gắng minh chứng và mạc khải cha, thế gian đã không biết, đã khong muốn biết TC với nhận thức đầy tình yêu và vâng phục đức tin, như lời của Đức Kitô nói với người Do thái: “Đấng mà các ngươi xưng rằng: Người là TC của chúng tôi, vậy mà các ngươi lại không biết” (8,55). Trái lại, chính Ngài đã nhận biết Người nhờ trí óc và con tim; Ngài không ngừng sống sự hiểu biết này: “Ta biết Cha và Ta giữ lời của Người”, Chúa Giêsu quả quyết với người Do thái như thế (8,55).
Trái với thế gian, các môn đệ đã nhận biết và thừa nhận rằng Thầy của họ đến từ TC, rằng chính Chúa Cha đã sai Ngài (17,8). Từ đó Ngài đã có thể bày tỏ Cha, mạc khải danh Cha cho những ai mà TC đã đưa ra khỏi thế gian mà ban cho Ngài: “TC, nào ai đã thấy bao giờ, Con Một, ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã tỏ cho biết” (1,18). Một khi được tôn vinh, thì thay vì chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ theo đuổi nhiệm vụ đó cách mãnh liệt và mầu nhiệm hơn; Ngài sẽ tỏ Chúa Cha khi tự thân mật mạc khải và sống với Cha trong các môn đệ. Còn Chúa Cha sẽ yêu mến môn đệ bằng chính tình yêu Người dành cho Chúa Con. Quả thật, vì Đức Kitô và Kitô hữu ở trong nhau, thì chính Chúa Con mà Chúa Cha yêu mến trong người môn đệ: “Ai yêu mến Ta thì được Cha Ta yêu mến, và Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ mình ra cho nó... Ai yêu mến ta, thì sẽ giữ lời Ta và Cha Ta yêu mến nó và chúng ta sẽ đến cùng nó và sẽ lập cư nơi mình nó...” (14,21-23). Đó là điều làm các môn đệ vững tâm khi sư phụ ra đi: họ sẽ tiếp tục hưởng nhờ sự hiện diện, tình yêu và hoạt động mạc khải của Ngài, cũng như tình yêu vô biên và thường xuyên của Cha trên trời.
KẾT LUẬN
Đức Kitô, nhờ cái chết thập giá, đã được Chúa Cha ban cho vinh quang. Vinh quang đó là bày tỏ cho mọi người biết Ngài thông hiệp sâu xa với Cha. Các tín hữu cảm nhận được vinh quang ấy thì cũng được liên kết vào đó, và đến lượt họ, họ sẽ tỏ bày vinh quang của Đức Kitô. Điều này được thực hiện một cách cụ thể bằng việc họ hiệp nhất trong tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ở đầu bản văn, Chúa Giêsu quả quyết không chỉ muốn cầu nguyện cho các môn đệ vây quanh Ngài và đang ăn tiệc ly với Ngài. Ngài còn cầu nguyện “cho những ai, nhờ lời của các tông đồ mà tin vào Ngài”. Ngài cầu nguyện cho những kẻ sau này sẽ kế vị họ và cho những người, nhờ Lời, sẽ nhận biết Đức Kitô là Con TC. Lúc đó, Ngài cũng đã nghĩ đến mỗi một người trong chúng ta hôm nay đang lắng nghe lời Ngài.
2. Trong hoàn cảnh trang nghiêm như thế này, Ngài xin điều gì quan trọng ? Ngài xin: “Chớ gì chúng nên một”, như thể Ngài đoán trước có mối nguy hiểm đang chờ các tín hữu, hiểm nguy đó là sự chia rẽ. Chúa Giêsu vắn tắt nói cho chúng ta cái khuôn mẫu, hiệu quả và phương thế của sự hiệp nhất này, một sự hiệp nhất phải luôn luôn tìm kiếm, nhưng không bao giờ đạt được: “Chớ gì chúng cũng nên một như chúng ta”. Sự hiệp nhất phải thể hiện giữa các tín hữu là sự hiệp nhất có giữa Cha và Con: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Không thể tưởng tượng được một sự hòa hợp, một sự hiệp thông mãnh liệt hơn, hoàn hảo hơn sự thông hiệp giữa Cha và Con. Sự hiệp nhất có giữa tín hữu nhờ lời cầu xin của Đức Kitô, giống như sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Và Chúa Giêsu nói tiếp: “Để thế gian biết rằng Cha đã sai con và Con đã yêu chúng như Cha đã yêu Con”. Khi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ được chấp nhận, thì hiệu quả đầu tiên tỏ ra cho người ngoài biết là Chúa Giêsu yêu nhân loại như Chúa Cha đã yêu Ngài. Một viễn cảnh được mở ra cho những ai buồn phiền vì thấy đức tin đã biến mất, vì thấy Giáo hội không còn được lắng nghe, cho những ai đang tìm phương thế, những kỹ thuật thuyết phục mọi người theo Chúa; Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta phương thế chính Ngài đã hoàn chỉnh: đó là Chúa Cha thực hiện ước nguyện của Ngài: “Chớ gì chúng nên một”.
Sau cùng Ngài nói cho chúng ta biết điều đó sẽ thực hiện như thế nào: “Con đã ban cho chúng vinh quang mà Cha đã ban cho Con để chúng nên một”. Vì vinh quang này là sự thông phần vào vinh quang TC vào sự sống mãnh liệt phát xuất từ Cha, cho nên phương thế hay nhất, để thực hiện sự hiệp nhất Cha Con, là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần linh của Ngài, múc ra từ các nhiệm tích, từ việc nghe lời Chúa, từ việc chân thành và kiên nhẫn cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Bước vào Chúa nhật thứ VII, Chúa nhật cuối cùng mùa Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi PS7-BC28
Bước vào Chúa nhật thứ VII, Chúa nhật cuối cùng mùa Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống như lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi về trời là không bỏ chúng ta mồ côi, Người sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến.
Khi đến giờ rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều, toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là một bằng chứng. Sau một loạt diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (Ga 17, 1-5). Thứ đến là xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1). Và sau cung là lời cầu xin cho các môn đệ. Xin cho chúng nên một
Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối mỏng giòn của các môn đệ, nên Người tha thiết cầu xin Cha cho họ được hiệp nhất trong tin yêu, để các ông có thể thi hành sứ mạng rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, một sứ mạng vô cùng khó khăn và đầy những thử thách. Các ông phải tự mình đương đầu với những khó khăn ở trong thế gian, mặc dù sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, hoạt động của các ông phải qui hướng về thế giới khác. Đó là lý do khiến Chúa Giêsu cầu nguyện: "Xin cho họ nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21). Nhờ "sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần", được ràng buộc "bởi sợi dây bình an", tất cả họ sẽ "duy trì sự hiệp nhất của Thần khí... Chỉ có một Thân mình và một Thần khí " (Ep 4, 3 - 4), giúp họ đồng lòng hợp ý với nhau.
Vì muốn nhân loại kết hiệp ở trong Thiên Chúa, nên đã sai Con Ngài đến thế gian để thánh hiến họ trong chân lý. Khi đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria, Chúa Giêsu đã thực hiện một sự hiệp thông đầy kinh ngạc giữa bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người "Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật" (Kinh Tin Kính). Trong cuộc Thương Khó, Người đã xuống ngục tổ tông, nhà tù giam hãm chúng ta để giải thoát và đưa chúng ta lên cùng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban vinh quang cho các môn đệ: "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con" (Ga 17, 22). Vinh quang ở đây là Chúa Thánh Thần, Đấng liên kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho họ vinh quang khi nói, "Hãy lãnh nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20, 22). Chúa Giêsu đã nhận được vinh quang khi mặc lấy bản tính loài người chúng ta, bản tính đã được tôn vinh trong Thánh Thần. Vinh quang Người đã có "trước khi tạo thành thế gian" (Ga 17,5) liên kết nhân loại nên một trong Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, vinh quang mà Cha đã ban cho con, con đã ban cho chúng, để họ nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22).
Xin Cha gìn giữ chúng
Trong suốt thời gian ở giữa các môn đệ, Chúa Giêsu đã trung thành gìn giữ họ. Khi trở về cùng Cha, Người không vắng mặt, Người cầu xin Cha cho họ, để họ giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu đến thế gian để hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao, đến lượt các môn đệ, họ cũng được trao cho một sứ mạng (x. Ga 13, 1). Chúa Giêsu không xin Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi những hiểm nguy của thế gian (x. Ga 17, 15). Vì nếu đưa họ ra khỏi thế gian thì sứ mạng tông đồ của họ chấm dứt. Xin Cha gìn giữ họ khỏi bị thế gian lây nhiễm, và thánh hoá họ trong sự thật (x. Ga 17, 17), xin cho họ được tràn đầy thần chân lý. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm sáng tỏ: "Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Chúa Giêsu xuống tận vực thẳm của con người để kéo con người lên vì: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Đây là tột đỉnh của Mạc Khải. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta hiệp nhất với Thiên Chúa, và trong vinh quang đầy quyền thế Chúa Giêsu không ngừng cầu nguyện và gìn giữ để: "Không một ai trong chúng bị mất" (Ga 17,12).
Xin thánh hiến họ
Lời khẳng định trên cho thấy Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Để hoạt động trên thế gian và trong thế gian, mà không liên can đến thế gian, nghĩa là được miễn dịch khỏi thế gian, các môn đệ cần phải được hiến thánh (x. Ga 17-19).
Khi muốn bảo vệ các môn đệ khỏi Sự Dữ trong thế gian, Chúa Giêsu đã tự thánh hiến chính mình, Người nhấn mạnh đến tầm quan trọng là "viên mãn trong Thiên Chúa" khi "ở trong tình yêu". Nguồn gốc của sự thánh hiến này là trung thành với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng tự hiến chính mình. Người ban Chúa Thánh Thần cho họ và xin cho họ sớm đạt được điều Người cầu xin. Chúa Thánh Thần là sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con, liên kết tâm hồn họ với Chúa Cha, kết hợp trái tim tội lỗi của chúng ta với Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. "Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17, 14). Họ đã nhận được Lời, từ "Logos", Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta (Ga 1, 14).
"Lời Cha là chân lý "(Ga 11, 14). Bản chất của Lời là ở với Chúa Cha, đó là chân lý. Kể từ khi Người cho họ tham dự vào sứ mạng của Chúa Con (x. Ga 10, 36 và Ga 17, 18), họ cũng phải tham gia vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Người đã chọn và cắt đặt họ để họ sinh nhiều hoa trái. Đức Giêsu được thánh hiến trong sự thật. Người cũng xin Chúa Cha thánh hiến họ "trong sự thật". Sự thánh hiến này không phải là bên ngoài nhưng nó là sự thật, sâu sắc, thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô PS7-BC29
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).
Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha…xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con" (Ga 17, 11). Thứ đến là những kẻ nhờ các Tông đồ mà tin vào Chúa là chúng ta, được Chúa lưu tâm đặc biệt trong lời nguyện hiến tế hôm nay: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17, 20-26 ).
Chúng ta là đối tượng trong "lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu". Người đặc biệt quan tâm đến sự hiệp nhất của chúng ta, vì hiệp nhất làm cho chúng ta nên "một": " Để cả chúng cũng nên một trong Ta" (Ga 17,22). Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng nói: "Vậy làm thế nào chúng ta có thể, nếu, không làm cho thế giới biết được Thiên Chúa là Tình Yêu? Chúng ta chia rẽ, thì làm sao chúng ta có thể là người đáng tin cậy được?" Lời chứng về Tình Yêu là một bằng chứng mạnh mẽ hùng hồn nhất để thuyết phục thế giới. Chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng. Vì chia rẽ làm suy yếu sự đáng tin, và hiệu lực dấn thân rao giảng Tin Mừng của chúng ta và có nguy cơ làm trống rỗng quyền năng của Thập Giá Chúa.
Chúa Giêsu xin cùng Chúa Cha cho tất cả mọi người đã được rửa tội hiệp nhất theo ý muốn: "Xin Cha cho chúng nên một" (Ga 17,21). Thánh Phaolô đã từng cật vấn các tín hữu ở Corintô: "Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?" (1Cr 1,13). Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Chắc chắn Chúa Kitô không bị chia năm xẻ bảy. Nhưng với đau khổ, chúng ta phải thừa nhận cách thành thật rằng cộng đoàn của chúng ta đang tiếp tục sống chia rẽ, đó là những gương xấu".
Thiền Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thì luôn luôn hiệp nhất, do đó, chia rẽ không phải là dấu chỉ của Tình Yêu. Trong hiên Chúa, nơi Ngài không có sự chia rẽ. Chúng ta chiêm ngắm thái độ của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, "Hết thảy họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, mẹ Ðức Yêsu và các anh em Người" (Cv 1,14). Đó là bầu khí của Thánh Thần đã vang lên một tiếng động lớn và toàn thế giới đã kinh ngạc (x.Cv 2,6).
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ còn xin cùng Chúa Cha cho chúng ta nên một để Người ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Người hầu chiêm ngưỡng vinh quang của Người (Ga 17,24). Người yêu mến chúng ta như Chúa Cha đã yêu mến Người và Người muốn ban cho chúng ta tất cả những gì Chúa Cha đã ban cho Người. Vinh quang Người có được từ nơi Cha, đến lượt Người, Người muốn ban cho chúng ta, và làm cho chúng ta nên một. Người muốn rằng, chúng ta không phải là nhiều nhưng làm thành một, hiệp nhất với thần tính của Người trong vinh quang Nước Trời, không phải sát nhập thành một bản thể duy nhất, nhưng trong sự hoàn hảo, tột đỉnh của nhân Đức Tin, Cậy, Mến. Đây là những gì Chúa Kitô đã tuyên bố khi Người nói: "Để chúng được hoàn toàn nên một!" (Ga 17,22).
Theo cách này mà tất cả chúng ta sẽ trở nên một với Chúa Cha và Chúa Con. Vì Chúa Giêsu nói: "Ta và Cha, Chúng Ta là một" (Ga 10,30). Giống như Người cầu nguyện cho những ai bắt chước mình, chúng ta tham dự vào chính sự hiệp nhất… Không phải sự hiệp nhất về bản tính tự nhiên mà Người có với Chúa Cha, nhưng điều này: như Cha đã làm cho Người tham dự vào vinh quang của riêng mình, Người cũng vậy, theo gương Chúa Cha, sẽ hiệp nhất vinh quang của Người với những kẻ mà Người thương mến.
Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: « Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia ; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
Hai diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu kết thúc bằng lời cầu nguyện long trọng duy nhất này. Chúng ta có PS7-BC30
Hai diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu kết thúc bằng lời cầu nguyện long trọng duy nhất này. Chúng ta có cảm tưởng một khi đã khẳng định: “Thầy đã thắng thế gian” (16,33), Đức Giêsu đã bước qua ngưỡng cửa của thế giới vĩnh cửu. Vậy phải đọc lời cầu nguyện này như một Bài Tiền Tụng phụng vụ, y như thể Đức Giêsu đã long trọng đọc hoặc hát lên vào ngay lúc Người đi vào trong vinh quang của Người. Tác giả cho thấy Đức Giêsu nói vừa y như thể Người còn đang còn ở trong thế gian (17,13.19), vừa y như thể Người đã rời khỏi thế gian (17,4.11.12.18). Trong tâm trí của tác giả, Chúa Con vừa trở về cung lòng Chúa Cha vừa hát bài hoan ca này (1,18; 13,1-3).
Như thế, không thể cho rằng lời cầu nguyện này là một thánh ca đã được đọc trong phòng Tiệc Ly. Và cũng không thể cho rằng tác giả Ga hoặc một vị thầy nào trong Giáo Hội tiên khởi đã sáng tác ra lời cầu nguyện này rồi gán cho Đức Giêsu. Do cấu trúc cũng như do những yếu tố căn bản nhất của nó, lời cầu nguyện này được liên kết với biến cố lịch sử là Bữa Tiệc Ly, chẳng hạn: có những quy chiếu về “Giờ”, có những điểm gặp gỡ với diễn từ về Bánh trường sinh (ch.6), vị trí ranh giới giữa cuộc sống trong thế gian và cuộc sống bên Chúa Cha, mối bận tâm đến những người còn ở trong thế gian, lời gợi đến sự phản bội (17,12), sứ mạng của các môn đệ, sự từ bỏ cho đến chết. Tác giả Ga đã ghi nhận những cử chỉ, những lời nói của Đức Giêsu hôm ấy, để rồi cung cấp cho chúng ý nghĩa trọn vẹn và đúng đắn dưới ánh sáng của Thánh Thần.
So với các TMNL và các Thư Phaolô, chúng ta biết là vào buổi chiều cuối cùng ấy, Đức Giêsu đã đưa vào nghi thức những thay đổi để mang lại cho cuộc cử hành lễ Vượt Qua năm ấy một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chỉ có điều là chúng ta không nắm được đầy đủ các thay đổi này. Có lẽ bởi vì trong thực tế, các tông đồ khó có thể ghi nhớ được chi tiết những thay đổi ấy khi mà chúng được đưa vào bộc phát dọc theo Phụng vụ Tiệc Ly. b) Tên của lời cầu nguyện này
Tác giả phái Cải cách là David Chytraeus (1531-1600) đã đặt cho lời cầu nguyện này một tên: Lời kinh tư tế (la prière sacerdotale); tên này đã được truyền thống giữ lại.
Các nhà chú giải hiện đại thích gọi là: Lời cầu nguyện thánh hiến hoặc Lời nguyện truyền chức, tấn phong, bởi vì theo các vị ấy, trong lời cầu nguyện này, Đức Kitô đã tự hiến mình làm lễ vật dâng lên Chúa Cha và đã thánh hiến các môn đệ cho sứ mạng sau này. Trong thực tế, mặc dù việc hiến dâng mạng sống của Người là nền tảng của toàn diễn từ, nó lại chỉ được nhắc đến một lần mà thôi (17,19); việc thánh hóa các môn đệ cũng vậy (17,17-19).
Có những tác giả cho rằng chủ đề của bài là sự hợp nhất; nhưng trong thực tế, dù quan trọng, sự hợp nhất chỉ được nói đến trong ba câu (cc. 11.21-22).
Vậy nên giữ lấy kiểu gọi truyền thống. Trong tư cách là thượng tế duy nhất (Dt 5,1), nghĩa là đại diện toàn thể nhân loại có đức tin hiện tại và tương lai, Đức Giêsu quay trở về với Cha Người và cầu nguyện với Cha cho những kẻ mà Người đại diện. Vào dịp làm hành vi tư tế này, Người quay nhìn lại công việc đã làm (cc. 1-8), Người cầu nguyện cho những kẻ đã được giao phó cho Người, cầu nguyện cho nhóm nòng cốt đầu tiên (cc. 9-19) cũng như cho những thế hệ sẽ đến (cc. 20-23), để một ngày kia, tất cả được sum họp với Người trong vinh quang tương lai (cc. 24-26). c) Bố cục tổng quát
Cc. 1-11a : Đức Giêsu cầu nguyện cho chính mình và các môn đệ; Cc. 11b-19 : cầu nguyện cho hợp nhất; Cc. 20-26 : cầu nguyện cho Giáo Hội mọi thời. Qua bản văn Ga 17,20-26, Đức Giêsu cầu nguyện cho Giáo Hội mọi thời. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần: 1) Lời thỉnh cầu thứ năm (17,20-23); 2) Lời thỉnh cầu thứ sáu (17,24-26). 3.- Vài điểm chú giải
- những ai nhờ lời họ mà tin vào con (20): Công thức tôn pisteuontôn là một phân từ ở thì hiện tại, dùng cho nghĩa tương lai: “sẽ tin vào con”.
- để tất cả nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha (21): “Tất cả nên một”, sự hợp nhất của các môn đệ là sự tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp với Chúa Giêsu và Chúa Cha: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (c. 23). Sự hợp nhất này phản ánh sự hợp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. 10,38; 14,10-11). Chúa Con chỉ thực sự là Con bao lâu Người vẫn liên hệ với Chúa Cha; cũng thế, người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi họ được như các tông đồ ngày xưa gặp gỡ trực tiếp Đức Kitô trong lời rao giảng đức tin (1 Ga 1,1-3).
- con đã ban cho họ vinh quang (22): “Vinh quang” theo ngữ cảnh, cũng là “danh” (cc. 6.11.12.26), “lời Cha” (cc. 6.8 ([2x].17; x. Lời Kinh Thánh: c. 12).
- con muốn (24): Các môn đệ là của riêng của Đức Kitô mà Chúa Cha đã ban cho Người và Người sẵn sàng đổ máu ra để diễn tả rằng Người chấp nhận. Sự nghiệp của Người như thế liên hệ với sự nghiệp của chúng ta. Vì vậy Người đã diễn tả ý mình với một uy quyền khiến chúng ta ngạc nhiên vì ở trong một lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha. “Con muốn” đúng là một hành vi ý chí. Không nên giảm nhẹ nó đi khi coi đó chỉ là một nguyện ước. Dĩ nhiên Đức Giêsu chỉ luôn luôn muốn những gì Chúa Cha muốn (4,34; 5,30; 6,38-40). Nhưng ở đây, ý muốn nhân loại của Người hài hòa thật trọn vẹn – và Người biết – với ý muốn của Cha Người, nên Người đã không ngần ngại nói bằng một giọng chắc nịch như thế. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ Đức Kitô gắn bó với chúng ta như thế nào. Điều Người muốn bây giờ, đó là chúng ta được kết hợp vào đời sống vinh quang của Người. Y như thể vinh quang và niềm vui của Người sẽ không được trọn vẹn nếu không có điều đó. Như thế Đức Kitô đã mạc khải về tình yêu của Người đối với chúng ta đến mức tột cùng.
- để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con (24): Nhìn xa hơn số phận trần thế của các môn đệ, Đức Kitô xin cho họ được ơn theo Người về trời một ngày nào đó, để ở bên Chúa Cha. Người đã nói với họ về điều này (x. 13,37; 14,2-3). Vào lúc này, Người xin thẳng với Chúa Cha cho họ được ở với Người; thật ra, đây cũng là ý muốn của Chúa Cha (x. 6,39). Chỉ khi nào Đức Giêsu đã cho họ sống lại, thì Người mới vĩnh viễn đưa họ về sống với Người, cho họ được thấy không cùng vinh quang thần linh nơi Người. Ngay khi Người còn ở trên mặt đất, vinh quang này đã tỏa rạng nhiệm mầu trong các công trình của Người, trong các cử chỉ và trong toàn bản thân Người, khiến các môn đệ đã có thể chiêm ngưỡng Người dưới ánh sáng đức tin ít nhiều sắc bén của họ (1,14; 2,11). Nay Đức Giêsu đã sống lại, vinh quang này càng rạng rỡ hơn, các môn đệ nhận ra được rõ ràng hơn. Khi nào về trời, chúng ta sẽ nhận được trọn vẹn vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Đức Giêsu vì yêu thương Người từ muôn đời, trước khi tạo dựng thế gian. Như một tấm gương không vết nhơ, nhân tính chúng ta sẽ phản ánh vinh quang này cách hoàn hảo, đến độ nó được thấm nhiễm và biến đổi hoàn toàn nhờ vinh quang này (x. 2 Cr 3,18). Khi đó, các môn đệ sẽ được hưởng niềm vui không cùng (x. Ga 16,22).
Vì Đức Kitô vinh hiển là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha và phản ánh vinh quang của Chúa Cha (Cl 1,15; Dt 1,3), khi các môn đệ chiêm ngắm tấm gương Chúa Con là chiêm ngắm chính Chúa Cha vinh hiển, đúng như Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha ... Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (14,9-10).
- Lạy Cha là Đấng công chính (25): Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha khi làm cho các môn đệ biết Danh Cha (c. 4), và Người sẽ còn tiếp tục làm nữa. Các môn đệ đã mở ra với chân lý và Đức Giêsu đã cho họ biết rằng chính Chúa Cha đã sai Người đến, để tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con ở trong họ và chính Chúa Con cũng được yêu thương bởi họ và trong họ. Nếu đó là thái độ của các tín hữu đang gắn bó với Đức Kitô, và nếu đó là ý hướng của Đức Kitô suốt đời Người, thì điều chính đáng là Chúa Cha nhận lời Chúa Con, khi Chúa Con xin Chúa Cha làm cho tất cả các tín hữu được hợp nhất với nhau trong tình bác ái. 4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong giờ từ biệt, Đức Giêsu không bận tâm đến số phận của riêng Người; tất cả các tư tưởng của Người đều hướng về các môn đệ và nhắm đến việc cứu độ họ. Đức Giêsu không coi chuyện gì là quan trọng hơn chuyện ký thác các môn đệ cho Thiên Chúa khi Người cầu nguyện với Thiên Chúa Cha; Người ký thác họ cho tình yêu và quyền lực của Chúa Cha. Người sắp bỏ các môn đệ ở lại trong thế gian; Người biết họ bị thế gian đe dọa, thế mà Người lại đã giao cho họ một sứ mạng. Vì thế, Người cầu nguyện với Chúa Cha cho họ.
Bản văn đọc hôm nay gồm hai thỉnh cầu cuối cùng Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha. Đây là những lời cầu nguyện cho Giáo Hội: * Lời thỉnh cầu thứ năm (20-23)
Đức Giêsu cho các môn đệ hiện tại và các môn đệ tương lai nữa, những người nhờ nghe lời các môn đệ hôm nay rao giảng mà tin vào Người (c. 21): Đức Giêsu đang nhìn đến hoa trái của sứ mạng các môn đệ đưa lại. Các môn đệ tương lai cũng thuộc về cộng đoàn được xây dựng trên chứng từ của các môn đệ đang ở với Đức Giêsu hôm nay. Hai lần Người xin cho tất cả nên một, như Chúa Cha và Chúa Con là một (c. 21). Rồi vẫn giữ lời thỉnh cầu này, Người xin cho các môn đệ nên hoàn thiện trong sự hợp nhất (= hoàn toàn nên một), sự hợp nhất mà Người muốn có theo điển hình là sự hợp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con; sự hợp nhất này chính là nguồn mạch và sức mạnh giúp các môn đệ sống sự hợp nhất: ở đây tình yêu là điểm quan trọng nhất (c. 23). Chỉ nhờ sự hợp nhất của các môn đệ, thế gian mới “tin rằng Cha đã sai con” (c. 21).
Như vậy, sự hợp nhất giữa Cha và Con không chỉ là điển hình, mà còn là nền tảng cho sự hợp nhất giữa các môn đệ Đức Giêsu. Họ chỉ có thể nên một, nếu họ được kết hợp chặt chẽ tối đa với Chúa Cha và Chúa Con (c. 21), nếu Đức Giêsu, Đấng có Chúa Cha trong mình, cũng ở trong họ (c. 23).
Nhờ lời rao giảng đức tin, luồng hợp nhất không đứt đoạn này đang liên kết trực tiếp mỗi thế hệ Kitô hữu với Chúa Kitô và Chúa Cha và được diễn tả ra bên ngoài bằng sự hợp nhất của các tín hữu trong tình huynh đệ, để rồi cũng có sự hợp nhất về đạo lý. Xuyên qua mọi thời đại, cộng đoàn Kitô hữu là một đại gia đình duy nhất đang uống tại một nguồn mạch duy nhất ban sự sống, sự sống của Đức Chúa hằng sống, nơi đây họ khám phá ra nguồn của mọi nguồn là Chúa Cha. Chính sự hợp nhất này trong đức tin duy nhất tinh trong, làm chứng cho Đấng Sáng lập của cộng đoàn: Người không thể đạt được kết quả này bằng uy tín loài người được, nhưng chỉ nhờ sứ mạng và chính bản thân Người bắt nguồn từ một thế giới siêu phàm thần linh (x. c. 20).
Nhờ cùng được thông dự vào “vinh quang” của Đức Kitô, các tín hữu sẽ hợp nhất với nhau. Khi nhập thể, Đức Giêsu đã có vinh quang, nhưng khi Người đã lên trời, nhân tính của Người được vinh quang của Thiên Chúa tràn ngập viên mãn. Khi kết hợp với Người bằng đức tin, các môn đệ được thông ban vinh quang ấy; mỗi người theo mức độ của mình, được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, được Thần Khí sinh ra (Ga 1,14; 3,6; 2 Pr 1,4). Được chia sẻ vinh quang của Người và mọi điều thiện hảo của Thiên Chúa, họ nên một Thân Thể với Người và trong Người (x. Ep 4,4-7). Vậy giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa và Giáo Hội, có một sự duy nhất thiêng liêng rất bền chặt (x. 1 Ga 1,3). * Lời thỉnh cầu thứ sáu (24-26)
Trong lời thỉnh cầu thứ sáu, Đức Giêsu xin cho các môn đệ được thông dự vào vinh quang của Người, họ được ở với Người nơi Người ở. Đức Giêsu diễn tả lời thỉnh cầu này bằng một ý muốn: “Con muốn”. Người diễn tả nguyện vọng này với cường độ càng lúc càng gia tăng mạnh mẽ. Chúng ta biết ý muốn của Đức Giêsu kết hợp với ý muốn của Chúa Cha, nên ở đây không có sự đối lập hoặc chia rẽ. Ở trên mặt đất này, người ta chỉ có thể nhận ra bằng đức tin vinh quang của Đức Giêsu, tương quan hiếu tử của Người với Chúa Cha và sự hợp nhất hoàn toàn của Người với Chúa Cha. Lời cầu nguyện cuối cùng và nguyện vọng lớn lao nhất của Đức Giêsu là tất cả những ai tin vào Người đều có thể “thấy” vinh quang của Người, đều được ở với Người trên trời và được thông dự vào sự hiệp thông hoàn toàn của Người với Chúa Cha.
Sau khi đã nói xong thỉnh cầu này, Đức Giêsu còn nói lại những gì Người đã làm và sẽ còn làm nữa (c. 26; x. c. 22). Người như muốn diễn tả rằng sự hợp nhất này là dấu chỉ bắt buộc thế gian, đang ở trong thế đối nghịch với Thiên Chúa, phải đối diện với, khiến thế gian có thể mở lòng ra, và như thế đạt tới đức tin và được cứu độ. Sự hợp nhất này giả thiết có tình yêu và được thực hiện xuyên qua tình yêu. Một cách gián tiếp, chúng ta đang được hướng tới Chúa Thánh Thần bởi vì nhiệm vụ của Thánh Thần chính là chứng minh rằng thế gian sai lầm (x. 16,8-10). Chính Thánh Thần sẽ tiếp tục những gì Đức Giêsu đã đặt nền móng trong thời gian Người hoạt động tại trần gian: Thánh Thần sẽ còn làm cho người biết Chúa Cha và tình yêu của Ngài. + Kết luận
Thế gian vừa là mối đe dọa vừa là sứ mạng đối với các môn đệ Đức Giêsu. Mối đe dọa, đó là họ trở nên xa lạ với Chúa Cha và bị kéo ra khỏi sự hợp nhất với Chúa Cha. Sứ mạng, đó là họ sẽ làm chứng và chinh phục nhân loại về sống hợp nhất với Chúa Cha. Lời cầu nguyện cuối cùng của Đức Giêsu vượt quá cuộc sống trần gian. Người xin cho các môn đệ được thông dự vào chính sự viên mãn thiên quốc của Người. Cuối cùng, Người đảm bảo rằng việc từ biệt đây không phải là sự buông rơi, bất động: Người sẽ tiếp tục làm cho người ta biết danh Chúa Cha. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ mà Đức Giêsu gửi vào thế gian không được có gì chung với thế gian, hiểu “thế gian” theo nghĩa là một lực lượng tội lỗi và thù nghịch với Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể hoàn thành nhiệm vụ là đưa đến chỗ hiệp thông với Thiên Chúa. Chính vì thế, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha thánh hiến họ, tức là xin Chúa Cha giữ họ liên kết với Người, đón nhận họ trọn vẹn vào trong vùng tình yêu từ phụ của Người. Vì thế Đức Giêsu nói là Người đang làm gì để họ được thánh hiến. Tiền đề đầu tiên là họ phải thuộc trọn về Thiên Chúa và bám vững vào Ngài (x. cc. 17-19).
2. Cộng đoàn các môn đệ phải trở thành một sự hợp nhất hoàn toàn. Như thế, không những không được có bất cứ thứ đối kháng thù nghịch nào giữa họ với nhau, mà còn phải loại trừ cả những cãi cọ tranh chấp và từ chối người khác. Nếu chỉ có sự kiện người này ở bên cạnh người kia trong thế trung lập, để cho nhau yên, nhưng mỗi người đi theo đường mình, thì chưa đủ. Sự hợp nhất hoàn toàn có nghĩa là tình trạng ở với nhau hoàn toàn, được kết hợp trong tình yêu và trong sự tín nhiệm đối với nhau, hành động trong sự đoàn kết với nhau, cùng một tấm lòng. Sự hợp nhất này mô phỏng theo sự hợp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha và Chúa Con được liên kết với nhau bằng một tình yêu cảm ái, sự trao đổi trọn vẹn, hành động trong sự hiệp thông tâm hồn, có mọi sự chung với nhau. 3. Sự hợp nhất giữa các môn đệ không dựa trên một quy ước và một sự đồng ý giữa những con người với nhau, nhưng dựa trên việc họ gắn bó với Đức Giêsu. Họ càng tin vào Người và, nhờ Người làm trung gian, họ được thông dự vào sự hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con bằng cách đón nhận tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con, họ càng được liên kết với nhau. Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Những đề tài về Giáo Hội đã được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa trong những Chúa PS7-BC31
Những đề tài về Giáo Hội đã được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa trong những Chúa Nhật trước, như quan hệ giữa Mục Tử nhân lành với đoàn chiên, sống yêu thương giữa anh chị em tín hữu với nhau, sứ mệnh truyền giáo. Bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới một khía cạnh đặc biệt của Giáo Hội: sự hiệp nhất. Đề tài này khiến ta liên tưởng tới Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Giáo Hội, từ ngày 18 đến 25 tháng 1. Như thế, cả hai mùa phụng vụ, Giáng Sinh và Phục Sinh, đều có một thời gian để mời gọi ta suy niệm và cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Có lẽ Giáo Hội cố ý sắp đặt như vậy để ta nhận ra rằng việc Chúa giáng trần và chịu chết để cứu chuộc nhân loại đều nhắm đến mục đích cuối cùng là đưa người ta đến với nhau và đến với Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng là phần cuối lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong Bữa Tiệc Ly, thường được mệnh danh là kinh Lạy Cha mẫu dài, gồm những nguyện ước Người dâng lên Chúa Cha để cầu xin hai điều: cho những ai tin vào Người được hiệp nhất với nhau và cho họ được ở với Người. a) Lời nguyện hiệp nhất Hiệp nhất là mục đích của kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã tiền định và thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô để đưa ta về kết hiệp với Người. “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1:10). Từ sau khi phạm tội bất tuân, nguyên tổ nhân loại đã cắt đứt mối quan hệ với Thiên Chúa và hậu quả của tội ấy là con người hoàn toàn mất hết khả năng đến với Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Người. Giữa Thiên Chúa và con người là một khoảng cách mà con người không thể vượt qua để đến với Thiên Chúa. Nhưng do tình thương vô điều kiện dành cho nhân loại, Thiên Chúa đã có một kế hoạch để giúp con người được hòa giải với Người, nói khác đi là được trở về hiệp nhất với Người. Lời hứa trong vườn Địa đàng, cũng gọi là Tin Mừng nguyên thủy (St 3:15), được lập lại qua các ngôn sứ trong lịch sử Dân Chúa. Rồi thời gian thực hiện kế hoạch tới hồi viên mãn là khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở lại giữa nhân loại. Nhờ cái chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã phục hồi cho con người khả năng đến được với Thiên Chúa là khả năng đã bị tội nguyên tổ cướp đi.
Đó là kế hoạch hiệp nhất do Thiên Chúa đề ra. Tuy Người mời gọi toàn thể nhân loại tham dự vào kế hoạch ấy, nhưng vẫn tôn trọng tự do và ý muốn của mỗi người, để họ tùy ý muốn đáp lại hay không. Do đó, đây là lý do Chúa Giê-su cầu nguyện: để ta biết mở lòng đáp lại tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Con đường hiệp nhất để trở về với Thiên Chúa khởi sự từ chính cộng đồng nhân loại nên trước tiên họ phải hiệp nhất với nhau (“để tất cả nên một”). Không ai đi riêng rẽ một mình, nhưng liên đới với người khác, vì đó là ý định của Thiên Chúa khi Người muốn quy tụ “muôn loài trong trời đất”. Từ Giáo Hội lữ hành ở trần gian và dưới quyền thủ lãnh của Đức Ki-tô, nhân loại hiệp nhất ấy mới có thể tiến bước về hiệp nhất với Cha trên trời. b) Để họ được nên một với nhau Sự hiệp nhất của Giáo Hội lữ hành phải có một khuôn mẫu để noi theo. Khuôn mẫu này đã được Chúa Giê-su khẳng định thật đơn giản: NHƯ Cha ở trong con và con ở trong Cha. Những từ “ở trong” hoặc “ở lại” trong Tin Mừng Gio-an mang một ý nghĩa sống động. Không phải là nơi chốn, nhưng là sự hòa nhập của hai ngôi vị, giữa Chúa Cha với Chúa Con, giữa Thiên Chúa với từng cá nhân con người. Quan hệ yêu thương ràng buộc hai ngôi vị với nhau để trở thành động lực duy nhất thúc đẩy họ suy nghĩ và hành động. Dù là đất trời xa nhau, nhưng Thiên Chúa vẫn “ở lại” trong con người. Dù con người đông tây xa cách, nhưng con người vẫn có thể “ở lại” với nhau trong tình yêu Chúa Ki-tô.
Kế hoạch của Thiên Chúa là như thế. Nhưng khi thực hiện kế hoạch, Thiên Chúa vẫn không xóa đi những khác biệt giữa con người với nhau. Bởi thế mới có những hàng rào ngăn cách, những trở ngại khiến con người khó hiệp nhất được với nhau. Cả Ki-tô hữu cũng có những khó khăn ấy, vì Ki-tô hữu vẫn là con người. Vậy Chúa Giê-su đã cầu nguyện xin cho họ thắng vượt được những trở ngại ấy.
Mục đích của sự hiệp nhất Giáo Hội còn nhắm xa hơn tới toàn thể thế giới, nghĩa là giúp cho “thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” Chỉ một người nói cho thế giới biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ thì thế giới chẳng tin đâu, nhưng nếu toàn thể cộng đồng Giáo Hội dưới quyền thủ lãnh của Chúa Giê-su nói cho thế giới biết điều đó, thì thế giới phải biết, phải tin và không còn lý do bào chữa. Sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu càng chặt chẽ và rõ ràng thì sứ điệp họ gửi cho thế giới càng có ảnh hưởng mạnh, vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 14:35), hoặc anh em có sự hiệp nhất với nhau. c) Để họ nên một với Chúa Giê-su Ki-tô hữu không thể hiệp nhất với nhau nếu họ không hiệp nhất với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là mắt xích nối người với người và nối người với Thiên Chúa. Tội lỗi đã chia rẽ người với Thiên Chúa và chia rẽ người với người. Nhưng Chúa Giê-su đã chiến thắng tội lỗi để nối kết lại tất cả nhân loại trong Người và nối kết nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giê-su mới mặc lấy bản tính nhân loại để trong Người có cả Thiên Chúa lẫn nhân loại. Đó là cách Thiên Chúa “ở lại” với con người và trong Chúa Giê-su con người “ở lại” với Thiên Chúa.
Tuy nhiên nên một với Chúa Giê-su lại mang một ý nghĩa hết sức phong phú. Người cầu xin: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con.” Vậy Chúa Giê-su muốn ta ở với Người bất cứ nơi nào Người đã, đang và sẽ ở. Nơi ấy là Na-da-rét, là hoang địa, là con đường truyền giáo, là chỗ người nghèo, cùi hủi, lang thang... đang sống, là con đường thập giá dẫn tới Can-vê, và cuối cùng là bên hữu Thiên Chúa Cha. Để ta chia sẻ với Chúa Giê-su tất cả những gì Người có, nhất là vinh quang của Người. Vinh quang ấy là sự sống lại và kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa. d) Suy nghĩ và cầu nguyện Có bao giờ tôi thực sự ý thức mình là một chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô là Giáo Hội không? Nếu không thì tại sao?
Sự hiệp nhất của Giáo Hội phải được biểu lộ cách cụ thể ngay trong cộng đoàn nhỏ bé của tôi. Tôi đã đóng góp gì cho sự hiệp nhất ấy? Hoặc tôi có để cho óc bè phái, kéo bè kéo cánh lôi cuốn tôi vào những cuộc chống đối, gây khó khăn cho những người đang phục vụ cộng đoàn không?
Tôi đang “ở lại” với Chúa và anh chị em bằng cách nào?
Chúa Giê-su đang ở đâu với tôi bây giờ? Hoặc nói khác đi, tôi đang ở đâu trong cuộc sống của mình và Chúa Giê-su có ở đó với tôi không? Cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)
Thánh ca và lời nguyện mở đầu Kinh Thánh: Công Vụ Tông Đồ 7: 55-8: 1
Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay đề cập tới một chủ đề đặc biệt, một khó khăn đối với sự phát PS7-BC32
Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay đề cập tới một chủ đề đặc biệt, một khó khăn đối với sự phát triển của Giáo Hội, đó là việc tử đạo. Nhận thức việc tử đạo là điều không thể tránh, đồng thời cũng là vẻ đẹp oai hùng của Giáo Hội, thánh sử Lu-ca không thể bỏ qua đề tài này và đã quảng diễn với chi tiết đầy đủ qua câu truyện ông Tê-pha-nô bị bắt và bị ném đá chết. Đồng thời ngài còn ghi lại sự có mặt của một thanh niên tên là Sao-lô, để ngầm hiểu rằng giữa cái chết của Tê-pha-nô và việc trở lại sau này của chàng thanh niên ấy có một mối quan hệ mật thiết, đúng như Văn sĩ Tertulianô đã viết: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh thêm tín hữu." Người tín hữu ưu việt, hoa trái do máu tử đạo tiên khởi Tê-pha-nô, chính là Sao-lô, cũng có tên Rô-ma là Phao-lô, vị tông đồ Dân ngoại và đứng bên cạnh Phê-rô như là hai cột trụ của Giáo Hội.
Câu truyện Tê-pha-nô tử đạo mang thật nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó mở đầu cho một lối sống của Ki-tô hữu. Người ta có thể định nghĩa Ki-tô hữu nhiều cách. Ở đây, chúng ta gọi Ki-tô hữu là người tử đạo. Đúng thế, bất cứ thời nào và bất cứ nơi đâu Ki-tô hữu cũng là những người tử đạo. Bởi vì tự bản chất, lối sống của Ki-tô hữu đã phải đi ngược với lối sống của thế gian rồi (xem Ga 15:18-25). Đức Ki-tô đã đi con đường ấy và Ki-tô hữu, "những người theo Thầy" (Mc 8:34; Lc 9:23; Mt 16:24), cũng phải đi cùng con đường ấy. Con đường Ki-tô dẫn Người đến Gôn-gô-tha thế nào thì cũng đưa Ki-tô hữu đến đấy như vậy, chỉ khác Gôn-gô-tha của mỗi Ki-tô hữu có những đặc điểm riêng. Suốt ba năm chuẩn bị gần cho Năm Thánh 2000, ngoài việc học hỏi và suy niệm về Ba Ngôi Thiên Chúa, Giáo Hội còn nhấn mạnh đến vai trò gương mẫu của Mẹ Ma-ri-a và các thánh Tử đạo. Đức Gio-an Phao-lô II muốn nhắc nhở tín hữu về lối sống tử đạo, hoặc lối sống làm chứng nhân, mà chúng ta thường ít khi để ý tới. Lối sống tử đạo hôm nay là can đảm cho người đời nhận thấy những giá trị Tin Mừng qua cuộc sống hằng ngày của chúng ta, mặc dù chúng ta phải chấp nhận những "thiệt thòi" khi không làm những gì người đời làm, hoặc làm những gì thế gian không muốn làm.
Hình ảnh Tê-pha-nô còn nói lên một khía cạnh khác của hình ảnh Ki-tô hữu với những đặc điểm: "Đầy ơn Thánh Thần, đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa và Đức Giê-su." Làm sao Ki-tô hữu có thể chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Đức Ki-tô nếu họ không có được những đức tính nói trên? Lúc này, Tê-pha-nô đâu cần phải giảng một bài giảng dài để làm chứng cho Chúa Ki-tô. Ông chỉ đứng đó, không thể tự vệ, tâm hồn thuộc về trời cao, hoàn toàn thuộc về Đức Giê-su. Vậy mà chứng từ thầm lặng ấy lại có sức mạnh vô cùng mãnh liệt, khiến cho những kẻ bách hại phải "kêu lớn tiếng, bịt tai lại." Tư thái làm chứng cho Đức Ki-tô cũng phải là mẫu mực cho Ki-tô hữu mọi thời, để không ai có thể bào chữa rằng mình không đủ khả năng làm chứng cho Chúa.
Hình ảnh Tê-pha-nô cũng nói lên một điểm rất quan trọng và là căn tính của Ki-tô hữu: tha thứ. Những lời ông Tê-pha-nô kêu lên "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này" là bản sao của những lời Đức Ki-tô: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23:34). Không tha thứ thì không phải là Ki-tô hữu. Để tha thứ được như ông Tê-pha-nô đã làm, chúng ta cần phải có tâm tình như ông. Vậy động lực để ông có thể tha thứ cho những kẻ đã ném từng hòn đá vào người ông, đã làm cho ông đau đớn không thể tả, đó là đầy ơn Thánh Thần và đầy lòng yêu mến Chúa Giê-su. Thánh Thần và tha thứ không thể tách biệt nhau, như Tin Mừng Gio-an nhắc đến: "Người (Chúa Giê-su) thổi hơi vào các ông (môn đệ) và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha’" (20:22-23a). Hoa trái của Thánh Thần là tha thứ, cho nên nếu không "đầy ơn Thánh Thần" thì không thể tha thứ cho người khác được. Cử chỉ ông Tê-pha-nô đăm đăm nhìn trời, chiêm ngưỡng Đức Giê-su cho thấy ông yêu mến Người đến mức độ nào, đó là mức độ có thể làm được điều con người bình thường không thể làm, tức là tha thứ cho kẻ thù.
Chúng ta thử tưởng tượng nếu Giáo Hội có được những Tê-pha-nô hôm nay, thì Giáo Hội sẽ phát triển như thế nào. Đó không phải là một mơ tưởng viển vông, nhưng là một thực tại Giáo Hội cần phải đạt tới và sẽ đạt tới. Những Tê-pha-nô hôm nay chắc chắn không thiếu, nhưng chỉ vì âm thầm nên chúng ta không nhận ra thôi. Chúng ta có thể tiếp tục chiêm ngưỡng Giáo Hội trong chiều kích tử đạo này. Nhưng quan trọng hơn vẫn là tự hỏi: Tôi có là một Tê-pha-nô của Giáo Hội không? Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Trước đây tôi đọc truyện Tê-pha-nô tử đạo với não trạng nào? So với bây giờ khác nhau thế nào?
- Câu truyện ông Tê-pha-nô có là một bản tự kiểm thảo về căn tính Ki-tô hữu của tôi không? Có đủ để người ta nhận ra tôi là Ki-tô hữu không? Tại sao?
- Tôi hãy chia sẻ chiều kích tử đạo đời Ki-tô hữu của tôi, qua những gì xảy ra hằng ngày, trong gia đình, nơi sở làm, ngoài xã hội.
- Tại sao Phụng vụ Lời Chúa lấy đề tài ông Tê-pha-nô tử đạo sử dụng cho Chúa Nhật VII Phục Sinh? Đề tài này chuẩn bị chúng ta mừng lễ Hiện Xuống như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thích hợp, hoặc đọc kinh sau đây: Kết hiệp với mầu nhiệm sự sống và sự chết của Chúa Giê-su
Lạy Mẹ Ma-ri-a là Mẹ Chúa Giê-su và Mẹ chúng con, chúng con ở với Mẹ dưới chân thập giá Con Mẹ, cầu xin Mẹ giúp chúng con biết kết hiệp với mầu nhiệm sự sống và sự chết của Người; biết ở trong trái tim Người; biết ở lại dưới chân Người trong tư thái lắng nghe và chiêm niệm. Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin khơi dậy nơi chúng con những tâm tình của Mẹ là tâm tình chia sẻ những đau khổ của Chúa Giê-su và của thế giới.
Mẹ thấy lời lẽ chúng con bất toàn như thế nào và tư tưởng chúng con khác xa với chân lý Mẹ đã sống.Xin Mẹ giúp mỗi người chúng con; xin Mẹ giúp tất cả những ai đang cùng chúng con cầu nguyện và thờ lạy Chúa.
Xin Mẹ ban cho chúng con niềm vui trong Con Mẹ nhờ ơn Chúa Thánh Thần là ơn chúng con đang tha thiết xin quyền năng Chúa Cha khứng ban. A-men.
Là người Việt Nam, hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích về những bó đũa. PS7-BC33
Là người Việt Nam, hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích về những bó đũa. Câu chuyện ấy như sau:
Người cha trong cơn hấp hối, biết mình chẳng còn sống được bao lâu, ông đã gọi các con đến bên giường bệnh và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:
- Các con hãy thử bẻ xem sao ?
Với một chiếc đũa trong tay, ai cũng bẻ được một cách dễ dàng.
Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:
- Các con thử bẻ xem sao ?
Với cả một bó đũa trong tay, không ai có thể bẻ nổi, dù đã cố gắng hết sức mình. Dựa vào đó, ông đã trăn trối và khuyên bảo:
- Nếu các con biết hiệp nhất và đoàn kết với nhau, thì chẳng ai có thể làm hại các con được.
Từ câu chuyện này, chúng ta thấy sự hiệp nhất và đoàn kết là điều rất cần thiết để đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội.
Thực vậy, trên bình diện cá nhân, nhiều lúc gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, tự sức riêng chúng ta không thể giải quyết nổi, thế nhưng nếu có người khác trợ giúp, chúng ta sẽ đón nhận được những ý kiến khách quan và sáng suốt, cũng như đón nhận được những nâng đờ cần thiết dể vượt qua những khó khăn ấy một cách dễ dàng, như tục ngữ đã bảo:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Hay như người Tây phương vốn thường nói: - Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.
Tiếp đến, trên bình diện xã hội, sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ tạo dựng được những công trình lớn và sẽ đem lại những thành quả tốt đẹp, mà bình thường một người sẽ không thể nào thực hiện.
Chính vì thế, tục ngữ cũng đã nói:
- Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
- Hợp quần gây sức mạnh.
Hay như người Tây phương cũng thường nói:
- Sự hiệp nhất chính là một pháo đài kiên vững. - Nếu những con cừu biết đoàn kết, thì sư tử cũng sẽ phải ra về bụng đói. - Nếu biết đoàn kết, thì đàn kiến cũng có thể thắng nổi sư tử.
Khi quân thù tấn công, nếu mọi người biết hiệp nhất và đoàn kết, chắc hẳn chiến thắng đã nằm trong tầm tay của mình. Đây cũng là một kinh nghiệm quí giá đã từng xảy ra trong lịch sử dân tộc. Hẳn chúng ta còn nhớ vào năm 1284, trước sự đe dọa của quân Nguyên, do thái tử Thoát hoan dẫn sang xâm chiếm nước ta, vua Trần Nhân Tông đã triệu tập đại hội các bô lão tại điện Diên Hồng. Với sự nhất trí của các bô lão, quân ta dù yếu kém, cũng đã chiến thắng vẻ vang.
Hơn thế nữa, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa, để nền kinh tế được phán triển thì mỗi cá nhân riêng biệt sẽ không thể làm gì được. Trái lại, nếu biết đoàn kết, tập trung mọi khả năng về nhân sự, về tài chánh, về chuyên môn…thì mới xây dựng được những công ty, những xí nghiệp lớn có một tầm hoạt động rộng, ảnh hưởng trên nhiều quốc gia.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay với bình diện thiêng liêng.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, chắc hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấy một tương lai đen tối đang chớ đón các môn đệ và những người tin theo Ngài. Chắc hẳn Ngài cũng biết rằng thế gian sẽ ghét bỏ và quyền lực sự dữ sẽ tấn công họ. Nếu chiến đấu một cách đơn độc, thì họ sẽ thất bại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đặc biệt cầu xin Chúa Cha ban cho họ ơn hiệp nhất:
- …Để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một.
Trước hết, về phương diện cá nhân, sự hiệp nhất sẽ đem lại cho bản thân chúng ta những lơi ích thiêng liêng to lớn.
Thực vậy, sự hiệp nhất sẽ làm cho lời cầu nguyện của chúng ta có được một giá trị trước mặt Chúa, như lời Ngài đã phán:
- Nếu ở đâu có hai hay ba người hợp lời cầu xin, thì Ta sẽ ở giữa họ.
Hơn thế nữa, nhờ sự hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội, chúng ta sẽ được hưởng nhờ những ơn ích và sự giúp đỡ của toàn thể cộng đoàn dân Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng những cám dỗ và hiểm nguy trên đường đời. Đây cũng chính là điểm tín điều các thánh thông công đã dạy.
Tiếp đến, về phương diện Giáo Hội, sự hiệp nhất sẽ làm cho việc truyền bá Tin mừng của Giáo Hội gặt hái được những thành quả tốt đẹp, bởi vì sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ biểu lộ cho người khác thấy một tình yêu thương chân thành, như lời thánh Gioan đã viết:
- Nếu ai nói mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em, thì người ấy chỉ là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em là người họ trông tháy, thì chẳng thể kính mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy.
Đồng thời sự hiệp nhất và đoàn kết còn chứng tỏ chúng ta là người môn đệ đích thực của Đức Kitô và có được một đức tin trưởng thành, nhờ đó dễ lôi cuốn người khác để họ tin vào lời chứng của chúng ta như Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: - Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô.