Hiểu được Ki-tô giáo đã là khó. Cảm nghiệm được điều cốt yếu, nét tinh túy hay cái hồn của Ki-tô giáo lại càng khó hơn. Nhưng nếu không hiểu, nhất là không cảm nghiệm được cái hồn của Ki-tô giáo thì làm sao người tín hữu có thể có một niềm tin sâu sắc, một lối sống dấn thân tích cực được? Các bài sách thánh của Chúa nhật VI Phục Sinh năm B đưa chúng ta vào trung tâm, vào cốt lõi, vào cái hồn của Đạo: Tình Yêu !
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
(25) Khi ông Phê-rô bước vào nhà ông Co-nê-li-ô, thì ông liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. (26) Nhưng ông Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói : "Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm."
(34) Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng nói : "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. (35) Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.
(44) Ông Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. (45) Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, (46) bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói rằng : (47) "Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ ?" (48) Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày.
(2) Bài đọc 2: 1 Ga 4,7-10: Nguồn mạch đức ái.
(7) Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. (8) Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. (9) Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. (10) Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 15,9-17: Thiên Chúa yêu chúng ta trước.
(9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
(16) Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
1. Bài đọc 1 (Cv 10,25-26.34-35.44-48) là tường thuật việc Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho những người chưa chịu Phép Rửa mà Tông đồ Phê-rô gặp tại nhà ông Co-nê-li-ô. Trước cảnh tượng lạ lùng và bất ngờ ấy, Tông đồ Phê-rô phải tuyên bố: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”
Qua sự kiện trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng không thiên vị ai : do lòng yêu thương, Người đã ban Thánh Thần và niềm tin cho mọi người thành tâm thiện chí tìm kiếm Người.
2. Bài đọc 2 (1 Ga 4,7-10) là lời giảng dạy của Tông đồ Gio-an dành cho các môn đệ: hãy yêu nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.” Thế có nghĩa là những ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Thiên Chúa thể hiện Tình yêu của Người đối với nhân loại bằng việc sai Con Một Người đến thế gian để nhờ Con Một ấy mà con người được sống. Trong Tình Yêu Thiên Chúa là Đấng đi trước khi dựng nên chúng ta, cứu chuộc chúng ta, chọn chúng ta làm con, làm bạn hữu nghĩa tình.
3. Bài Tin Mừng (Ga 15,9-17) là những lời tâm sự của Đức Giê-su tiếp nối những lời khẳng định về mối quan hệ khắng khít giữa Người và các môn đệ. Cả một kho tàng phong phú được chính Chúa Giê-su mạc khải và trao ban cho chúng ta:
(a) Chúa Cha yêu mến Chúa Giê-su thế nào thì Chúa Giê-su cũng yêu thương các môn đệ như vậy. Chúa Cha yêu Chúa Giê-su vì Chúa Giê-su đã giữ các điều răn của Cha. Còn Chúa Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến hy sinh mạng sống mình vì họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”
(b) Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ đáp lại tình thương vô biên của Người là ở lại trong tình thương của Người. Bằng cách tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn yêu thương - như Người đã vì yêu thương mà giữ các điều răn của Cha.
(c) Chúa Giê-su đã coi các môn đệ là bạn hữu thân thiết nên đã bộc lộ cho biết những điều Người đã nghe/biết được ở nơi Cha. Và Người đã chọn các ông trước, chứ không phải ngược lại. Người chọn các ông để sai họ đi rao giảng, làm chứng cho Nước Trời và cho Tình Thương của Thiên Chúa. Người chọn các ông để họ sinh nhiều hoa trái không hư nát.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là :
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU CHO ĐI.
* Thiên Chúa Cha đã yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người cho nhân loại.
* Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa đã hiến mạng sống mình vì các môn đệ (và mọi người) và đã kết bạn với các môn đệ.
* Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa cho dù họ chưa được thánh tẩy bằng nước.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Chúng ta sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay bằng cách đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI:
Trước hết chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cá nhân bằng một đời sống mật thiết gắn bó với Chúa Giê-su, với Thiên Chúa và thể hiện lòng Mến Chúa trên hết mọi sự.
Kế đến chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống gia đình bằng một đời sống hy sinh, phục vụ những người ruột thịt với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán và giúp mọi người trong gia đình biết yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như Chúa dạy.
Sau cùng chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cộng đồng và xã hội bằng một đời sống mình vì mọi người nhằm mưu ích chung cho mọi người, nhất là cho những người yếu kém nhất trong xã hội.
IV. CẦU NGUYỆN
* Lạy Thiên Chúa Cha là Tình Yêu, chúng con chúc tụng ngợi khen cảm tạ Cha về sự kỳ diệu của Tình Yêu mà chúng con đã cảm nhận: Vì yêu thương chúng con, Cha đã dựng nên chúng con, đã cứu độ chúng con, đã ban Con Một Cha là Đức Giê-su Ki-tô cho chúng con.
- Xin Cha cho chúng con cảm nghiệm mỗi ngày mỗi sâu sắc hơn Tình Yêu của Cha, để chúng con không ngừng ca ngợi Tình Yêu của Cha và làm chứng cho Tình yêu ấy trong mọi môi trường gia đình và xã hội.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng ngợi khen cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho chúng con được diễm phúc trở thành bạn hữu nghĩa thiết của Chúa; vì Chúa đã hé mở những bí mật của Thiên Chúa cho chúng con; vì Chúa đã mời gọi chúng con sống luật yêu thương của Chúa.
- Xin Chúa cho chúng con biết trân trọng Tình Yêu và cách đối xử tuyệt vời của Chúa và biết cách lấy Tình Yêu đáp lại Tình yêu: Yêu Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn hết trí khôn. Yêu tha nhân như chính mình, như chính Chúa đã yêu và hy sinh mạnh sống vì người mình yêu.
* Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí và là Tình Yêu của Thiên Chúa, chúng con chúc tụng ngợi khen cảm tạ Chúa vì Chúa đã xuống trong tâm hồn chúng con và ngự ở đó để cùng với chúng con sống yêu thương và phục vụ.
- Xin Chúa hướng dẫn và nâng đỡ chúng con trên mọi bước đường chúng con đi, trong mọi cuộc gặp gỡ chúng con có, để Tình Yêu của Thiên Chúa sáng ngời trong mọi lời nói, thái độ và hành động của chúng con.
Chưa có một vị thần linh, hay một sư phụ nào trước khi chết lại có lời trăn trối cao thượng và tâm huyết như Chúa Giêsu của đạo Kitô chúng ta. “Con chim trước khi chết thì cất tiếng hót bi thương, con người trước khi chết thì nói lời chân thật” Điều này chúng ta có thể lấy Chúa Giêsu làm bằng chứng. Trong bữa tiệc ly, trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thành, và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Người. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”
Luật cũ trong Cựu Ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, n g hĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu bản thân tôi thế nào, thì tôi cũng hãy yêu thương người khác như vậy. Đó là mức yêu thương cao độ lắm rồi, nhưng vẫn còn giớihạn và chưa loại trừ hết được động lực vị kỷ. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Người đưa tình yêu đó lên đến tột đỉnh mà loài người không ai dám nghĩ tới. Đó là Người dạy: hãy yêu thương như chính Người yêu thương. Chúng ta không chỉ lấy chính mình làm tiêu chuẩn, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn và mẫu mực: yêu người như Chúa yêu. Chúng ta phải yêu như Chúa đã yêu. Khó quá! Ai trong chúng ta cũng phải kêu lên như thế.
Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Cả cuộc đời của Người, Người đã yêu thương tất cả mọi người, và mỗi người một cách thức khác nhau, nhưng thiết thực và chân thành đến cùng. Người không để ai đến với Người phải ra về tay không: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què đi được, kẻ câm nói được, người chết sống lại…vv… thậm chí, đám cưới đang lúng túng vì thíêu rượu cũng được Người cho rượu tràn trề. Người quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của môn đệ và đưa họ đi nghỉ ngơi dưỡng sức. Người quan tâm tới những yếu đuối của họ để sửa dạy và nâng đỡ. Quả thực, tình yêu của Người thiết thực như một người mẹ hiền chăm sóc đàn con thơ bé.
Có những người xem ra không xứng đáng cho Người yêu thương, thế mà Người vẫn quan tâm đến họ. Những cô gái điếm, trước mắt Người vẫn có giá trị. Những người sống ngoài lề xã hội, những người không một ai thèm để ý tới, thì người đã đi bước trước đến với họ. Tất cả mọi người, trong ánh mắt Người đều rất quan trọng. Mỗi người là một nhân vị Người thấy cần được yêu thương. Ngay cả khi Người đứng trước cái chết, Người vẫn thể hiện một tình yêu đến cùng, đúng như Người nói: “Tình yêu lớn nhất là thí mạng cho người mình yêu” Thực là khó quá, làm sao chúng ta có thể thực hiện được?!
Có một câu truyện cùng lời khuyên sau đây: trong một lớp học kia, thầy giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em hãy quan sát và tìm ra một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay nơi đồng nội. Những bông hoa không được ai để ý đến và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng một tên chung là 'hoa dại', không có giá trị gì” Cả lớp học hăng hái thực hiện bài làm. Mỗi em mang theo một cái kính lúp và quan sát thật kỹ những bông hoa các em gặp bên đường. Sau đó, từng em lên mô tả lại nét đẹp của những bông hoa dại mà các em đã gặp và quan sát. Cuối cùng, cả lớp cùng có chung một công nhận: tất cả những bông hoa dại bị khinh thường bên vệ đường, mỗi bông hoa đều có vẻ đẹp riêng thật tuyệt vời đến không thể ngờ được.
Và thầy giáo lên tiếng kết luận: Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta dành thời giờ để chú ý, và quan sát đi quan sát lại, thì chúng ta sẽ thấy cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại kia cũng sẽ có vẻ đẹp trước mắt chúng ta. Áp dụng vào mối tương quan giữa người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của Đấng Tạo Hoá. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát cho hết được.
Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau, tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau hời hợt bên ngoài, ngay khi chúng ta ở bên cạnh nhau. Chúng ta chỉ ghi nhận những tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến những điều hay, cái đẹp của những người chúng ta gặp gỡ, hay người đang ở bên cạnh ta. Chúng ta không thể có tất cả những cái, những ai chúng ta thích, nhưng hãy biết yêu thích những gì chúng ta đang có, hãy yêu mến những ai chúng ta gặp hằng ngày. Ước gì, lời nhận định cuả thầy giáo trên đây thức tỉnh mỗi người chúng ta về mối tương quan của mình đối với đồng loại. Chúng ta có dành đủ thời giờ để tìm hiểu và nhận ra những điều tốt đẹp nơi tha nhân hay không? Có phải vì thường xuyên gặp mỗi ngày mà chúng ta có thái độ coi thường, không biết tôn trọng không? Có phải vì cuộc sống khó khăn mà chúng ta sống thơ ơ vô cảm với anh chị em chung quanh không? Có phải vì một điều gì đó mà chúng ta né tránh và phủ nhận những điều cao đẹp của người anh em không?
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ trước khi Người bị trao nộp, với tình thân thương của Thầy đối với trò, Chúa Giêsu đã tâm sự và tỏ lộ tất cả những gì cần nói của một người sắp sửa ra đi. Lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu cho các môn đệ không dài dòng, mà cũng chẳng với mục đích để trăn trối một kho tàng vật chất lớn lao. Không, di chúc của Chúa Giêsu rất ngắn gọn, nhưng bao hàm tất cả giáo huấn của Người và cũng chính là trọng tâm của đạo Kitô: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12).
Để làm gương cho các môn đệ và để cho các ngài thấy rằng Người không chỉ nói trên lý thuyết hoặc nói suông mà không làm, Chúa Giêsu đã hy sinh chính tính mạng mình, đã chấp nhận cái chết trên thập giá để chuộc tội loài người. Còn bằng chứng hùng hồn nào hơn Người có thể dùng để chứng tỏ tình yêu của Người? Cái chết trên thập giá đã bày tỏ hoàn toàn không những tình yêu của Người đối với Chúa Cha mà còn là chóp đỉnh của tình yêu của Người đối với nhân loại, vì "không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).
Truyện kể rằng, ngày kia tướng quỷ cố gắng tìm cách đột nhập vào Thiên Đàng nên hắn đã cải trang làm Đức Kitô Phục Sinh. Hắn dẫn theo một đoàn quỷ con cũng cải trang như các Thiên Thần. Đoàn rước tiến về phía cổng Thiên Đàng, vừa đi vừa ca hát thánh vịnh: "Hãy ngẩng đầu lên, hỡi cửa ngàn thu, hãy mở cửa ra để Vua Vinh Quang ngự tới!" Các Thiên Thần đứng ở trên thành nhìn xuống tưởng là Đức Kitô, Vua của họ, và đoàn tuỳ tùng đang trở về trong chiến thắng vinh quang sau phục sinh. Do đó các ngài đã xướng đáp lại: "Vua vinh quang là ai vậy?" Tướng quỷ liền cao hứng mạnh dạn giang tay ra tuyên bố: "Vua vinh quang chính là ta!" Nhưng hắn đã làm một sự sai lầm vì khi giơ tay ra, bàn tay của hắn không có dấu đinh, không có những dấu thương tích của tình yêu. Do đó, các Thiên Thần phát hiện ra sự giả tạo của hắn và đã đóng sập cổng Thiên Đàng lại.
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta nên đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, và Người muốn chúng ta cũng yêu thương nhau như vậy. Mọi người trong chúng ta ai ai cũng cần tình yêu, ai cũng sinh ra để yêu và được yêu. Tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của mọi người. Vì thế, giới luật yêu thương Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ Người cũng truyền lại cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cũng được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa (Ga 15,9) và trở nên bạn hữu của Người (Ga 15,14). Ở lại trong tình yêu của Chúa và tình bạn hữu với Người bảo đảm sự hiện diện của Người trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ sự hiện diện này, linh hồn mỗi người được tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, một thứ niềm vui mà không của cải vật chất hay khoái lạc nào của trần gian có thể đem lại được.
Để lãnh nhận những ân huệ đó, Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ giới luật yêu thương Người đã truyền là hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. "Yêu thương nhau" không phải chỉ là thứ tình yêu hạn hẹp chúng ta dành riêng cho cha mẹ, ông bà, con cái, họ hàng, bạn bè, và các thành viên khác của gia đình. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu rộng rãi, yêu tất cả thành viên trong nhân loại, không loại trừ ai: yêu cả người tốt lẫn người xấu, yêu cả người chê ghét chúng ta... Yêu như Chúa yêu còn đòi phải hy sinh tiền của, thời giờ, sức lực, và thậm chí còn phải chết đi cho chính mình.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con biết yêu Chúa với hết tâm hồn, hết sức lực, hết trí khôn, và yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Bài chia sẻ cho Phúc Âm tuần trước đã nói là bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Phục Sinh năm B tuần này có chất chứa chi tiết về một thứ nhựa sống thần linh, một thứ nhựa sống được Chúa Kitô là Cây Nho hay Thân Nho thông sang cho Giáo Hội, cho Kitô hữu là các cành nho của Người, để các cành nho hiệp nhất với Người ấy có thể nhờ đó sinh muôn vàn hoa trái. Vậy nhựa sống thần linh ở trong bài Phúc Âm tuần này đây là gì, nếu không phải là đức ái trọn hảo, là Tình Yêu Thiên Chúa? Bởi vì, nếu không có yêu thương cũng chẳng có sự sống, chủ đề của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh. Chính bởi yêu thương Thiên Chúa mới tự động đến với con người, tìm kiếm con người, dù con người tạo vật vô cùng thấp hèn chẳng là gì trước nhan Ngài, trái lại, còn đáng bị trầm phạt muôn đời vì đã chống phản Người. Chính bởi yêu thương Thiên Chúa chẳng những đã đến với con người, nhưng không đến với con người như là một vị chủ tể đến với bầy tôi tớ, mà là đến để nâng con người lên hàng bạn hữu với Ngài, sống thân tình thiết nghĩa với Ngài. Theo lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay thì có hai dấu hiệu Thiên Chúa quả thực chứng tỏ cho thấy Ngài hết lòng muốn làm bạn với con người và muốn con người làm bạn với Ngài, đó là việc Ngài hy sinh mạng sống cho con người và tỏ cho con người biết tất cả những gì về Ngài.
Đúng thế, theo tự nhiên, chẳng có ai lại chết cho kẻ thù của mình, kể cả cho người dưng nước lã. Mạng sống là cái gì quí nhất thì phải được đổi lại hay thay thế cũng bằng những gì tương đương hay đáng giá hơn. Vậy nếu một khi con người được Thiên Chúa hy sinh mạng sống mình cho nơi Con của Ngài thì không phải là con người vô cùng quí giá trước mặt Thiên Chúa hay sao!?! - “Không tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu của mình. Các con là bạn hữu của Thày…”. Cũng theo tự nhiên, chẳng có ai lại đi tâm sự với một người thù ghét mình, hay với một người chẳng bao giờ quen biết, hoặc thậm chí cả với những người ruột thịt nữa, (đó là lý do thực tế cho thấy nhiều khi bạn bè còn thân hơn cả anh em trong nhà, nhất là trường hợp kết bạn trăm năm). Vậy một khi Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho con người qua Chúa Giêsu Kitô là “tất cả sự thật” (Jn 16:13), là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, đến nỗi “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9), thì không phải là Ngài đã coi con người như bạn hữu của Ngài hay sao!?! - “Thày không gọi các con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết gì về chủ của mình. Song Thày gọi các con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho các con biết tất cả những gì Thày đã nghe thấy nơi Cha Thày”.
Nếu nói đến chủ tớ là nói đến quyền bính, thì nói đến bạn bè là nói đến yêu thương. Vậy một khi Thiên Chúa muốn làm bạn với con người là Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người yêu mến Ngài. Thực tế cho thấy, con người tạo vật chỉ có khả năng yêu hay chỉ biết yêu khi được yêu, được nâng lên làm bạn với Thiên Chúa mà thôi. Nghĩa là họ được Thiên Chúa ban cho họ khả năng để yêu như Ngài yêu. Đó là lý do con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26), với tâm linh để nhận biết Ngài yêu họ ra sao và với tự do để đáp lại tình Ngài thương mến. Thiên Chúa đã yêu thương con người nơi Con của Ngài, và Con của Ngài đến để cho con người thấy rằng “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đã yêu con người biết là chừng nào, “yêu đến cùng” (Jn 13:1), yêu đến thí mạng sống mình làm giá chuộc họ (x Mt 20:28): “Cha Thày đã yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như thế”.
Một trong những con người đã ý thức được thực tại thần linh này, đã ý thức được chẳng những bản tính trọn hảo của Thiên Chúa mà còn đã triệt thấu được cả bản chất của tình yêu lẫn nguyên tắc yêu thương, đó là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Jn 13:23; 19:26; 20:2; 21:20), người môn đệ được ngả đầu (biểu hiệu cho tâm linh con người) vào ngực (biểu hiệu cho tình yêu) Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:25). Về bản tính toàn thiện của Thiên Chúa, người môn đệ này đã cảm nghiệm rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16). Về bản chất của tình yêu, người môn đệ ấy đã nhận thức ở câu cuối cùng trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Tình yêu là ở chỗ không phải chúng ta yêu Thiên Chúa mà là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và đã sai Con Ngài đến làm của lễ đền tội lỗi của chúng ta” (1Jn 4:10). Về nguyên tắc hay đường lối yêu thương, người môn đệ này huấn dụ, đối với chính Thiên Chúa: “Phần chúng ta, hãy mến yêu, vì Ngài đã yêu chúng ta trước” (1Jn 4:19); còn đối với tha nhân, thánh nhân đã nói đến trong lời mở đầu của bài đọc thứ hai hôm nay là: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa”.
Huấn dụ của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” này về nguyên tắc hay đường lối yêu thương trên đây hoàn toàn chính xác, đúng như lời Chúa Kitô đã khẳng định trong bài Phúc Âm về vai trò chủ động tỏ mình của Thiên Chúa và vai trò tích cực đáp ứng của con người khi minh định: “Không phải là các con đã chọn Thày mà là Thày đã chọn các con để các con đi sinh hoa kết trái”. Đúng thế, con người tạo vật chúng ta được dựng nên từ hư vô, không hề biết Thiên Chúa là Đấng nào và ra sao để yêu Ngài như Ngài là và như lòng mong muốn của Ngài, cho tới khi Ngài tỏ chính bản thân của Ngài ra, tỏ tất cả bản thân của Ngài ra nơi Con Ngài. Thế nhưng, cho tới khi biết được sự thật vô cùng mầu nhiệm diễm phúc này, biết được Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng như thế, con người tội nhân vô cùng hèn hạ, khốn nạn và bất lực cũng không thể nào yêu mến Ngài và đáp lại tình Ngài cho cân xứng, nếu không được tình Ngài chiếm đoạt, để con người có thể yêu Ngài bằng chính quả tim của Ngài. Vấn đề ở đây là làm sao con người bất toàn và bất lực của chúng ta có thể chiếm được quả tim thần linh này để nhờ đó xứng đáng đáp lại Đấng “đã yêu thương chúng ta trước”?
Bài Phúc Âm hôm nay đã cho chúng ta câu giải đáp ngay ở hai câu đầu tiên, nhất là ở câu thứ hai: “Như Cha Thày yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu của Thày”. “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” đây là gì, nếu không phải là hãy chấp nhận tình yêu của Thày, hãy tin tưởng vào Thày, nhất là hãy tích cực đáp lại tình yêu của Thày, bằng cách hãy sống tình yêu của Thày, hay hãy mang tình yêu của Thày các con cảm nghiệm được mà chia sẻ. Đó là lý do, ngay sau hai cầu mở đầu bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ của Người biết cách thức để có thể “sống trong tình yêu của Thày”, cũng như để có thể đáp lại tình yêu của Người, hay sống tình yêu của Người.
Để có thể “sống trong tình yêu của Thày”, thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô, như Người cho biết, cần phải: “tuân giữ các giới răn của Thày”, tức đáp lại các ước muốn của Thày. Và các giới răn của Thày hay các ước muốn của Thày đây là gì, nếu không phải, như Người minh định sau đó, là “các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con”. Nếu “Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng phải yêu nhau như vậy” (Jn 13:34), mà Thày đã yêu các con “đến cùng” (Jn 13:1), đến “tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19), một tác động hoàn toàn vượt trên bản năng bảo tồn, hoàn toàn nghịch lại với khuynh hướng yêu sự sống mình của con người (x Jn 12:25), thì thực tại “các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con” là một chứng cớ hùng hồn nhất và hiển nhiên nhất cho thấy Chúa Kitô “là sự sống” đang sống trong Kitô hữu, và đang tiếp tục yêu thương nhân loại bằng chính con tim của Kitô hữu, một con tim đã bị tình Người chiếm đoạt để chỉ rung động theo những Nhịp Đập Thần Linh, những nhịp đập của một Vị Thiên Chúa Làm Người!
Vào một buổi tối đẹp trời, Francoise đi dự một dạ tiệc đăng quang của vua Louis V nước Pháp. Nhà vua trang trọng bước ra bàn tiệc, đầu đội mão vương ba tầng. Francoise đã hứng thú nhảy múa nhảy múa tưng bừng và đầy vui vẻ với các vũ nữ trang trọng trong buổi dạ tiệc. Khi mãn tiệc trở về, người ta hỏi: "Có giây phút nào trong buổi tiệc mừng mà ông thấy nổi bật không ?" Ông trả lời: "Có, đó là lúc vua ra trang trọng như một ông thần. Nhưng cảnh tượng xúc động nhất đập vào mắt tôi là cảnh hai em bé một đứa chưng 12 tuổi, một đứa chừng 4 tuổi, chúng đang nằm co bên nhau trên đường phố. Đứa lớn cởi áo choàng của mình quàng lên bờ vai bé gái. Lại lấy mũ len bọc lấy chân cô em đang lạnh cóng giữa đêm khuya. Chính hình ảnh hai em nằm co bên nhau làm lu mờ hết cả vẻ tráng lệ và nhộn nhịp của cuộc dạ vũ đăng quang cũng như những cuộc đối thoại với các nhân vật nổi tiếng".
Câu chuyện tuy diễn tả đơn sơ nhưng là một cảnh rất đặc biệt mà Thánh Gioan nói đến trong bài đọc hôm nay mà chính Chúa Giêsu nói: "Không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì người mình yêu". Em nhỏ đã vì yêu thương em mình mà chia sẻ cho em phần hạnh phúc của mình. Chúa cũng đã nói và thực hành điều mình dạy. Chúa đã liều mạng sống để chết cho chúng ta, để cứu chuộc chúng ta mà ít có ai dám chết cho người mình yêu.
"Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương các con". Hãy quên mình để quan tâm đến anh chị em chúng ta. Hãy noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến cuộc đời cho anh chị em.
Những lời nói cuối cùng trong cuộc đời của một người thường là những lời nói tâm huyết, bộc lộ: PS6-B106 Lượng
Những lời nói cuối cùng trong cuộc đời của một người thường là những lời nói tâm huyết, bộc lộ cả một tấm lòng chân thực. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi ra đi chịu chết, Ngài đã cùng với các môn đệ dùng bữa tối. Trong bữa ăn này, sau khi đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nói với các ông tất cả những gì cần nói.
Trong cuộc trao đổi này, Chúa Giêsu đã xác định các ông là những người bạn hữu của Ngài, bởi vì các ông được Ngài cho biết tất cả những gì Cha Ngài đã nói với Ngài. Cũng trong cuộc trao đổi ấy, Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại với các môn đệ một lệnh truyền quan trọng, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Bằng chính cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ mẫu gương sáng chói của tình thương yêu. Chính Ngài đã đi tới tận cùng của lòng thương yêu ấy như Ngài đã từng nói: Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến mạng sống mình vì bạnhữu. Quả thực, nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với Thiên Chúa, thì cũng là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với con người. Đó cũng chính là mẫu mực, chính là nền tảng cho tình yêu thương huynh đệ.
Hơn thế nữa, ở đây Chúa Giêsu còn đặt tình yêu thương giữa các tông đồ vào trong mạch thương yêu xuất phát từ Thiên Chúa: Như Cha đã yêu mến Thầy, thầy cũng yêu mến các con. Vậy các con hãy yêu mến nhau. Chính nhờ tình thương yêu này mà các môn đệ ở trong tình thương yêu của Chúa Giêsu, cũng như vì lòng thương mến các môn đệ, mà Chúa Giêsu ở trong tình thương của Chúa Cha.
Chúng ta có thể nói: với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào cối lõi của chương trình cứu độ, tức là đưa mọi người vào lại trong tình thương của Thiên Chúa và trong tình thương yêu lẫn nhau. Hai vế của tình thương này không thể tách rời nhau như lời thánh Gioan đã khẳng định: Kẻ nói mến Chúa mà không thương người, thì chỉ là kẻ nói dối. Với lòng thương yêu này, các tông đồ sẽ được nếm thử niềm vui ơn cứu độ, đồng thời còn phản ảnh được lòng mến Chúa của chúng ta nữa như lời Chúa Giêsu đã phán: Nếu các con yêu thương nhau thì mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy.
Điều Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ ngày xưa, cũng là điều Ngài truyền cho chúng ta hôm nay. Đạo của Đức Kitô chính là đạo của tình thương, của lòng yêu mến. Tất cả mọi tổ chức, mọi lập trường, mọi quan điểm của Giáo Hội cũng như của chúng ta, nếu không thực sự phục vụ tình thương đều là những gì nằm ngoài Kitô giáo. Ngược lại, việc rao giảng Tin Mừng, và làm chứng tá cho Chúa một cách hữu hiệu nhất, không gì bằng thực hiện giới luật của Chúa, đó là hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta.
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)
Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta: PS6-B107
Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nào chúng ta có thể yêu và được yêu?
Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ là “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhọc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.
“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rất nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.
Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người. Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? PS6-B108
Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người.
Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? Thế nào là yêu và được yêu?
Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”.
Như thế nguồn gốc phát sinh ra tình yêu là Thiên Chúa. Ngài là người yêu thương chúng ta trước và chúng ta là người được yêu: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước” và Ngài đã biểu lộ tình yêu ấy đối với chúng ta là Ngài “đã sai Con Một Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người Con Một ấy mà chúng ta được sống”.
Về phần con người, nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mang bản chất của Thiên Chúa và chúng ta nhận biết Ngài là Cha yêu thương. Yêu thương là dấu chỉ để thế gian nhận biết chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Yêu Chúa, yêu người là hai giới răn quan trọng, tóm kết những giới răn khác. Như thế, là con cái Thiên Chúa, là Kitô hữu chúng ta phải có bổn phận biểu lộ bản chất yêu thương với Thiên Chúa và với mọi người.
Tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa đến con người tựa như một cây nho mà gốc và thân cây nho là Thiên Chúa và cành nho là con người như lời Thầy Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng…anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 5:1, 5). Chúa Cha yêu thương Chúa Con bằng nhựa yêu thương là Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nuôi dưỡng cây nho lớn mạnh và phát triển sinh nhiều hoa trái: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga. 15: 9) và “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga. 15: 12)
Nhưng chúng ta phải yêu Thiên Chúa, yêu con người như thế nào?
Hôm nay, qua đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga. 15: 9-17), Thầy Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương yêu thương: Yêu như Thầy yêu.
Để cho cây nho yêu thương phát triển và lớn mạnh và sinh nhiều hoa trái, thì cả thân lẫn cành phải ở lại, phải gắn liền, phải liên kết từ gốc đến cành bằng nhựa yêu thương, phải chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái,tức là tuân giữ lệnh truyền, tuân giữ giới răn mà tình yêu đòi hỏi, và hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Khi yêu, không ai lại muốn đem điều xấu, điều bất hạnh đến cho người mình yêu. Hơn thế, Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân lành thì chắc chắn không bao giờ Ngài bắt con người tuân giữ những lệnh truyền, những giới răn đưa con người đến bất hạnh và khổ đau; còn hơn thế, Chúa Cha đã hy sinh Người Con Một yêu dấu mình, Chúa Con đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Như Cha Thầy yêu Thầy, Thầy Giêsu cũng yêu thương anh em. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau.
Tình yêu Chúa Cha và Chúa Con đã lan phát sinh ra tình yêu con người và từ tình yêu con người lại lan toả ra tình yêu giữa con người với con người.
Thầy đã thể hiện tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha bằng “đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài”.
Chúng ta không biết Chúa Cha yêu Chúa Con đến mức độ nào, nhưng qua lời công bố của Chúa Cha: “Này là Con Ta rất yêu dấu và đẹp lòng ta, các con hãy vâng nghe lời Ngài” và qua lời xác nhận của Thầy Giêsu: “Thầy yêu anh em như Cha Thầy yêu Thầy”, chúng ta tin Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau rất thắm thiết, yêu nồng nàn, yêu chứa chan hơn bất cứ một tình yêu nào khác!
Chúa Con đã yêu thương Chúa Cha bằng vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng không theo ý con mà xin theo ý Cha”. Vâng theo ý Cha là tuân giữ lệnh truyền của Cha, thực thi ý muốn của Cha, và như thế là làm đẹp lòng Cha và ở lại trong tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống thế làm người, chịu đau khổ,chịu chết để đem con người vào cõi phúc trường sinh. Đó là tình yêu của Thầy Giêsu dành cho con người. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại yêu thương nhau nhưThầy đã yêu thương chúng ta.
Theo gương của Thầy Giêsu, chúng ta lại phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta, mà muốn yêu thương anh em, chúng ta phải ở lại trong tình yêu của Thầy như Thầy ở lại trong tình yêu của Cha Thầy và muốn ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta lại phải giữ giới răn Thầy truyền dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga. 14,23-24), và hy sinh mạng sống mình vì anh em. Hy sinh mạng sống mình vì anh em là biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, là đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…. Hy sinh mạng sống vì người mình yêu là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình”. (Ga. 15,13)
Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga. 15,15).
Xin kể một câu chuyện về bạn hữu ở đời thường như sau:
Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.
Bão Thúc chết, Quảng trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:
- Ông với Bão Thúc không phải là người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?
Quản Trọng giải thích:
- Ngươi không rõ ngọn ngành đâu! Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc ; lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ, mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ...
Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu! (Thuyết Uyển. Cổ Học Tinh Hoa)
Thật là người bạn đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, người bạn tri kỷ!
Tình bạn giữa con người chưa mang dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa mà còn được thán phục như thế, thì kết qủa của tình bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người lại càng cao trọng và đáng thán phục hơn nhiều Yêu thương anh em như chính mình đã khó, yêu thương anh em như Thầy Giêsu yêu chúng ta lại càng khó hơn! nhưng đó là những nỗ lực chúng ta cần phải đạt tới để được xứng đáng là Kitô hữu, là bạn hữu của Thầy Giêsu. Điều kiện để yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là giữ giới răn Chúa truyền dạy, là ở lại nơi Thầy và hy sinh mạng sống mình vì anh em, cụ thể hơn là đọc và nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng và ở lại, sống kết hợp với Chúa trong phép Thánh Thể.
Chúng ta đã đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với Thầy Chí Thánh của chúng ta như thế nào để được xem là bạn hữu của Thầy Giêsu!
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu.: PS6-B109
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu. Chúa Giêsu đã nâng các tông đồ lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực. Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ. Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành. Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên. Vậy lý do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này? Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15, 15). Chúa Giêsu đã không dấu điều gì. Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng”.
Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng”? Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa. Chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy. Trò lại được gọi là bạn hữu. Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu. Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trước, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả. Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy”(Ga 15,10). Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ mà không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 15,17).
Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12). Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài. Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả. Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê. Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực? Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi? Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.
Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng. Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu”(Ga 15,13). Đức Giêsu đã cho đến tận cùng. Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người. Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản và hay thay đổi của con người. Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người. Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời. Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao? Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao? Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn. Và lòng biết ơn đó là gì? Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”(Ga 15, 16). Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” và “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ. Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với tất cả điều này, người Ki tô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi. Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:
- Hãy biến những trìu tượng thành thực tế; - Hãy hiện thực hóa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;
- Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;
- Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.
Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU. Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau. Và đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa. Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.
Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.
Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời. Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chúng con và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7).
Thuật ngữ Do Thái qodesh trong cựu ước nói về sự thánh thiện. Thuật ngữ Hy Lạp hagiasmos trong: PS6-B110
Thuật ngữ Do Thái qodesh trong cựu ước nói về sự thánh thiện. Thuật ngữ Hy Lạp hagiasmos trong tân ước cũng mang chở ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai hạn từ này theo nguyên ngữ có nghĩa là “Sự tách biệt”. Sự thánh thiện nói lên việc tách chia giữa trong sạch và nhơ uế. Nhưng trên hết, hạn từ này diễn tả ý niệm về Thiên Chúa một cách sâu xa. “Ai trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa? Ai sánh được như Ngài, Đấng rạng ngời thánh thiện? (Xh 15,11)” Trong khi Đức Chúa Giavê và Đấng Thánh độc nhất, dân Israel có thể thông dự vào sự thánh thiện của Ngài bằng việc tuân giữ lề luật. Dân Chúa vẫn được xem là một dân tộc ưu tuyển, một dân tư tế, một chủng tộc thánh thiện, tách biệt khỏi các dân khác (Xh 19,6). Chính Đức Chúa cũng đã truyền lệnh “Các ngươi phải thánh thiện, vì ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2).
Việc chia tách sự tinh sạch ra khỏi nhơ uế là một chủ đề xuyên suốt được nhắc đến rất nhiều trong các sách Tin mừng và cả sách Tông Đồ công vụ. Ý niệm về sự nhơ uế phản ánh quan niệm xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đồng thời cũng gợi lên những thách đố mà giáo hội sơ khai phải đấu tranh khi tiếp nhận những tân tòng không phải gốc Do Thái. Theo quan niệm Do Thái cổ xưa, một người bị cho là nhơ uế hay phàm tục, không được phép vào đền thờ để cầu nguyện, không được tham dự các sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng ngay tại các hội đường ở địa phương. Để được tham dự các sinh hoạt đó, họ phải tuân thủ những luật lệ về sự tinh sạch. Những người phong hủi, những người thu thuế, đĩ điếm, những người bị thần ô uế ám, và ngay cả những dân ngoại, đều bị coi là nhơ uế. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Ngài thách thức chống lại não trạng hủ lậu đó, và lột bỏ nhãn hiệu “Bị nhơ uế” ra khỏi những con người nói ở trên, nhất là nơi những người Samari. Đối với Ngài, luật về sự nhiễm uế khi được thực hành cách máy móc và cứng nhắc sẽ trở nên vô nghĩa hoàn toàn. Trong khi người Do Thái rất coi trọng luật này, Đức Giêsu hoàn toàn không để tâm đến một chút nào.
Thánh Thần, quà tặng của Đức Kitô Phục sinh, đã tuôn đổ ơn sủng trên các dân ngoại, là những người mà dân Do Thái vẫn xem là nhơ uế. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe kể lại câu chuyện Phêrô được sai tới nhà ông Cornêliô, một người ngoại giáo. Trong bài diễn từ, Phêrô đã công bố “ Qủa thật, tôi thấy Thiên Chúa không thiên vị một ai. Nơi mọi dân tộc, những ai kính sợ Thiên Chúa, và sống ngay lành, đều được Ngài đón nhận”. Khi Thánh Phêrô đang nói, Thần khí Chúa đã xức dầu cho những người ngoại giáo trong căn nhà của ông Cornêliô. Những người đi tháp tùng Thánh Phêrô đều ngạc nhiên, bởi vì “quà tặng Thánh thần được tuôn đổ xuống cho cả những người ngoại giáo nữa (Cv 10,45).”
Rõ ràng, quan niệm xưa cũ về sự tinh sạch đã bị phá đổ hoàn toàn. Thế nhưng còn quan niệm về sự thánh thiện thì sao? Có phải đây là một ý niệm hoàn toàn mới thay thế cho lề thói cũ đã bị Chúa Giêsu loại bỏ hoàn toàn hay không? Chúng ta hãy từ từ tìm hiểu xem.
Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay đều diễn bày một chỉ lệnh sâu xa: “Hãy trở nên Thánh”. Huấn lệnh này cũng định dạng lại mô thức về sự thánh thiện. Thánh Phêrô trình bày cho chúng ta một khởi dẫn để bắt đầu. Ngài nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức. Sách Tông đồ công vụ thuật lại rằng ông rất kính sợ Thiên Chúa, và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn đến (Cv 10,4). Cũng vậy trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan tông đồ đã chuyền tải cho chúng ta một sứ điệp trọng yếu, trở thành khung căn bản định hình sự thánh thiện: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,7-9).”
Đây là một vòng tròn khép kín mang chiều kích linh thánh. Thiên Chúa yêu mến chúng ta trước. Điều đó biến chúng ta trở nên thánh, và giúp chúng ta cũng biết yêu thương như chính Ngài đã yêu. Đi vào quỹ đạo tình yêu, chúng ta vươn đạt đến quy chuẩn duy nhất về sự thánh thiện. Một khi chúng ta đón nhận một quà tặng, chúng ta sống sung mãn quà tặng đó, và tiếp nối, chúng ta lại trở nên quà tặng tình yêu ban trao cho người khác. Tình yêu Thiên Chúa làm cho chúng ta thông dự vào đời sống linh thánh của Ngài. Đồng thời, tình yêu như một dòng chảy bất tận, khiến tâm hồn chúng ta không thể đóng khép, nhưng luôn mở rộng để thông chia tình yêu cho người khác.
Tình yêu và sự thánh thiện đều là quà tặng mà Thiên Chúa hiến trao cách nhưng không cho mọi người. Ngài trao ban cho tất cả không loại trừ ai. Chúng ta đã thấy rõ ràng điều ấy nơi Cornêliô. Chúng ta cũng thấy quà tặng đó hiện lộ nơi những tâm hồn kết hiệp sâu xa với Chúa, có thể ẩn kín bên trong hay bộc lộ cụ thể ra bên ngoài. Đúng như Thánh Phêrô đã quả quyết “Thiên Chúa không thiên vị ai bao giờ”.
Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu truyền dậy: Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến: PS6-B111
Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu truyền dậy: Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con. Chúa Giêsu đã tóm kết các giới răn của đạo cũ và mới vào hai điều: Yêu Chúa và yêu người. Chúng ta không xa lạ gì với giới răn cao trọng này. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chúng ta thuộc lòng các giới răn: Yêu Chúa, yêu tha nhân như chính mình và yêu thương cả kẻ thù. Thánh Gioan nói: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa (1Ga 4,7).Ai trong chúng ta cũng biết yêu, vì chúng ta được sinh ra trong tình yêu. Nhưng chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Chỉ những người đang yêu mới hiểu và cảm nhận được ý nghĩa của tình yêu.
Trong văn học, người ta dùng ca dao, tục ngữ, châm ngôn, thi phú, ca nhạc và văn thơ để ca ngợi và đánh bóng từ ngữ ‘tình yêu’. Tình yêu có nhiều mức độ như chúng ta có cảm tình, ưa, chịu, hợp, khoái, thích, thương, chuộng, mến… rồi yêu. Tình yêu cũng có nhiều cấp bậc. Tình yêu gia đình và con cái, tình yêu trai gái, yêu quê hương xứ sở, yêu quốc gia dân tộc, yêu giáo hội và yêu thương nhân loại. Chúng ta chẳng có thể kể ra hết các loại yêu vì chúng ta đang đan xen chằng chịt trong tình yêu. Thật rất khó để hình dung một tình yêu tinh tuyền không đối tượng. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận một tình yêu qua những hành vi cử chỉ được biểu lộ. Tình yêu gắn kết giữa trái tim, ý chí, trí khôn và đối tượng yêu.
Quan sát thế giới chung quanh, có bao nhiêu điều và bao nhiêu người mà chúng ta thật sự yêu thích? Những người hàng xóm láng giềng, chúng ta gặp gỡ và chào hỏi nhau hằng ngày. Chúng ta cũng chẳng yêu và chẳng ghét họ. Có nhiều người cùng dân tộc, mầu da, tiếng nói, nói chung, chúng ta cũng chỉ có chút cảm tình, chúng ta có thể biết nhau và hiểu nhau, nhưng nói là yêu nhau thì chắc là không. Những người bạn cùng sinh hoạt trong một nhóm hội, một cộng đoàn, một giáo xứ, chúng ta cũng chẳng quan tâm nhiều lắm. Nếu nói yêu thích thì không hẳn, nhưng chúng ta có chút tình cảm thân thương, liên đới và sự gắn bó gần gũi.
Chúng ta thử giới hạn lại trong đời sống đại gia đình, trong đó có cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em là những người sống gần gũi nhất, chúng ta thật sự yêu thương họ bao nhiêu. Trong gia đình, đôi khi anh chị em chúng ta còn tranh dành, cãi cọ, phiền trách và giận hờn nhau. Tình yêu dành cho những người thân thường được biểu lộ qua sự quan tâm, lo lắng, cảm thông, tha thứ, hy sinh và chăm sóc cho nhau. Hãy tự vấn xem chúng ta có đối xử tốt, tôn trọng, quí mến và yêu thương nhau thật tình không? Gia đình chính là tổ ấm của tình yêu.
Tất cả mọi thứ tình yêu trên đời đều tương đối và vô thường. Tình yêu cha mẹ con cái được kể là sâu đậm nhất. Tình yêu vợ chồng rất cao quí thật đáng khâm phục và tôn trọng. Trong cuộc đời, đã có những cặp vợ chồng sống trung tín tới tuổi già và tóc bạc răng long. Chính họ đã biết lo lắng, thông cảm, tha thứ và hoàn thiện lẫn nhau. Họ đã dám hy sinh cho nhau và cho con cái, cao quí nhất vẫn là tình phụ và mẫu tử. Qua mọi thời, đã và đang có nhiều gia đình sống trong an vui và hạnh phúc yêu thương.
Đời thường người ta đề cao tình yêu trai gái và tình yêu lứa đôi là cao đẹp và gắn bó nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy có rất nhiều anh chị lúc đầu yêu nhau tha thiết quyết định đi đến hôn nhân, nhưng rồi sau một thời gian chung sống, nhiều cặp vợ chồng cũng có những đổ bể, ly thân, ly dị và thù ghét nhau. Theo dõi tin tức xa gần, chúng ta nghe biết đã có những người dám tự tử vì yêu. Trong những trường hợp này, có lẽ họ đã đặt nền tảng tình yêu trên nền cát và sự chọn lựa không cân xứng. Vì không chiếm hữu được hoặc bị mất người yêu, nên đã tự tử. Đây có thể là một thứ tình yêu bồng bột, tình yêu Solonpas, tiếng sét ái tình và tuyệt vọng vì yêu.
Chúng ta suy về ý nghĩa đích thực của chữ YÊU. Tình yêu quanh quyện trong lòng mọi lúc và ở mọi nơi. Yêu nhau ở xa thì nhớ, ở gần thì thương. Thương nhau là muốn ôm ấp, muốn ngắm nhìn, muốn chia sẻ, muốn lo lắng chăm sóc và muốn ở bên cạnh. Xem ra tình yêu rất bao la, nhưng cũng rất giới hạn. Chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương mọi người, nhưng thực sự chúng ta chẳng yêu thương ai tròn đầy. Chỉ nói tiếng yêu cho đẹp thôi. Làm sao gọi là tình yêu, khi làm việc gì cũng so sánh, chành cạnh, phân biệt hơn thua và còn lạm dụng lẫn nhau để tiến thân. Tuy nhiên xét cho cùng, về mặt tích cực của tình yêu gia đình, vì có yêu thương nên mới có ghen và vì có yêu nhau nên có những sự góp ý, chỉnh sửa, cấm cản, cằn nhằn và tranh cãi cũng là để giúp nhau nên hoàn thiện. Mỗi người hãy tự hỏi ai là người chúng ta yêu thương nhất và chúng ta đã đối xử với người đó thế nào?
Chúng ta có thể tìm mẫu tình yêu chân chính và cao quí nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho chúng ta một giải đáp của tình yêu:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã hy sinh hiến mình trên thập giá để cứu độ chúng ta. Chúng ta biết rằng họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Chúa Giêsu đã chết cho kẻ tội lỗi là chúng ta. Tình yêu của Chúa vượt trên mọi thù hành, ganh ghét, bách hại, tù đầy và giết chóc. Tình yêu thí mạng của Chúa cao vượt mọi thứ tình yêu. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu như Chúa yêu.
Có lẽ phần đông trong chúng ta sống giới luật yêu thương cách ơ hờ như khách bàng quan. Đôi khi chúng ta cũng cảm thông và động lòng trắc ẩn chia sẻ chút ít cơm áo, tiền bạc giúp đỡ những người đau khổ và cùng khốn trong một vài trường hợp. Việc bác ái của chúng ta còn bị cân đo đong đếm và rất giới hạn. Làm phước nhưng muốn được phước báo ngay, cần phải có lời cám ơn, đăng tên hoặc muốn được nêu danh khen ngợi. Tình yêu của chúng ta bị giới hạn trong sự ích kỷ riêng tư và thiếu vị tha. Chúng ta thường muốn sống trong tình yêu trao đổi cân xứng. Thật ra yêu nhiều thì cho nhiều và cho nhiều là yêu nhiều. Tình yêu vị tha được nhận biết và trân quí khi chúng ta có từ bi tâm và hiến mình vì người khác.
Trong Giáo Hội, không thiếu những vị đã học bài học yêu nơi Chúa. Các ngài đã dám xả thân vì bạn hữu như các vị: Cha thánh Đamien of Molokai, tông đồ người hủi tại Hawaii; Thánh Francis Xavier hiến dâng cuộc đời đem tin mừng cho các dân tộc Á Châu; Đức cha Jean Cassaigne đã hiến thân mình nơi trại cùi Di Linh, Việt Nam. Chân phước Têrêxa thành Calcutta hy sinh một đời phục vụ những kẻ cùng khốn tại Ấn Độ và qua mọi thời đại, đã có rất nhiều mẫu gương của các đấng bậc và anh chị em đáng yêu kính đã dõi theo bước chân của Thầy Chí Thánh để xả thân vì yêu. Các ngài đã học yêu thương như Chúa đã yêu các ngài.
Lạy Chúa, chúng con muốn yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết tâm hồn và hết sức cùng yêu thương anh chị em như chính mình. Chúng con ước muốn yêu và được yêu, nhưng lòng chúng con vẫn thờ ơ và chìm đắm trong tham sân si mà thiếu lòng bao dung. Chúa còn mời gọi chúng con hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho kẻ thù thì chúng con có thể làm, nhưng tha thứ và yêu họ thì chúng con cứ khất lần. Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở lòng, mở trí và ban thêm sức mạnh để chúng con biết yêu và yêu như Chúa đã yêu chúng con.
“Quả thực, tôi biết Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10,34)
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời vẫn như thế, cuộc: PS6-B112
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời vẫn như thế, cuộc sống vẫn như vậy…”. Không biết điệp khúc này muốn nhấn mạnh đến tính “vẫn như thế” hay tính bất biến không đổi thay của cuộc sống, thắc mắc này vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy thế, người ta nghiệm thấy trong cuộc sống vẫn có những điều đổi thay, tăng trưởng và cả sự bền vững, không đổi thay của thực tại. Kinh nghiệm Phục sinh của các tông đồ cho chúng ta thấy nhiều minh họa về sự thường hằng và cả sự đổi thay này.
Chúng ta biết Thiên Chúa vẫn như thế, không đổi thay và vĩnh cửu, như Người đã tỏ lộ cho ông Mô-sê “Ta là Đấng Hằng sống” (Xh 3,14). Ở tâm điểm của Hữu thể không đổi thay của Thiên Chúa là chính sự Hiệp nhất và Tình Yêu. Tuy nhiên, cách mà sự hiệp nhất và tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cho các tông đồ, các môn đệ của thời Giáo hội tiên khởi, lại dường như phá vỡ sự bất biến không đổi thay của bản tính Thiên Chúa. Qua việc sai phái Người Con một của Thiên Chúa là Đức Giêsu Ki-tô xuống trần gian để cứu chuộc chúng ta khi chiến thắng trên tội lỗi và sự chết, và sau đó trao ban Thánh Thần an ủi để hướng dẫn Giáo hội, có điều gì đó làm đổi thay cách thế chúng ta biết và cảm nghiệm về hữu thể và tình yêu của Thiên Chúa.
Hẳn rằng không phải tình yêu của Thiên Chúa là điều mới mẻ đối với người Do Thái. Như lá thứ thứ nhất của Thánh Gio-an đã nói tới điều này “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa”. Tình yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong suốt lịch sử của dân Ít-ra-en. Tuy nhiên “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chính qua sự biểu lộ của Người Con Một, mà có một điều gì mới đã xảy ra.
Điều mới mẻ này được tìm thấy nơi sự phát triển mở rộng của Giáo hội sau biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô, và nó làm cho những gì Đức Giêsu đã thực hiện không chỉ dành cho một nhóm nhỏ các môn đệ của Ngài, nhưng cho toàn thể nhân loại. Đã chẳng có một lối đường rõ ràng cho Giáo hội, một đồ án hay một bản hướng dẫn cho kế hoạch phát triển 5 năm của Giáo hội. Những gì mà các tông đồ có được vẫn là ân huệ của Chúa Thánh Thần để giúp họ nhận biết sứ mệnh của mình và khám phá ra Giáo hội thực sự là gì.
Vẫn còn có một thứ sa mạc trong Chúa Thánh Thần, một điều gì đó dường như chưa thuần thục hay chưa kiểm soát được, và công việc của Chúa Thánh Thần có thể làm thay đổi những lối tư duy và hành động cũ kỹ. Hẳn rằng điều này cũng thách đố chính Giáo hội tiên khởi, như chúng ta nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Cornelius trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Qua những thị kiến, cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, Phêrô đã đi đến một lối nhận định mới mẻ: Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho cả Dân ngoại nữa. Nếu chuyện này dường như không tạo nên cơn “sốc” cho chúng ta, đó là vì chúng ta đã được Phêrô và các tông đồ chia sẻ: ngay cả các dân ngoại cũng được cứu độ. Thế nhưng chính sách Công vụ cũng nói tới việc Phêrô bị “sốc” về chuyện này (Cv 10).
Tính chất mới mẻ về việc cả dân ngoại cũng được đón nhận, đã được công bố qua lời của Phêrô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Đây là điều thực sự mới mẻ, mới mẻ tận căn, mở ra con đường mới cho sứ mệnh phổ quát của Giáo hội. Phêrô không đợi sự đồng thuận của các tông đồ khác, nhưng hành động dựa vào sự cảm nghiệm Thánh Thần Thiên Chúa ở giữa họ. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”. Thế rồi, Phêrô đã làm phép rửa cho họ.
Người ta không thể chối bỏ sự đổi thay gây sốc này trên các môn đệ của Đức Giêsu qua tác động của Thánh Thần, và tính mới mẻ của việc dân ngoại cũng được đón nhận, dầu Phêrô có quyết định một cách nhanh chóng, cũng cần được Giáo hội phê chuẩn tại công đồng Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng tính mới mẻ này cũng ở ngay trong trạng thái thường hằng của nó, tức là trong tình yêu không đổi thay của Thiên Chúa. Vì những gì mà Giáo hội được mời gọi thực thi cũng chính là việc đưa toàn thể thế giới tới với lời mời gọi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, một điều xem ra rất xưa, nhưng lại được làm mới mẻ trong tương giao với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Đây là giới răn của Thày: anh em hãy yêu mến nhau như Thày đã yêu thương anh em” – Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu cận nhân, vốn vẫn như thế, nhưng đã được làm nên mới hoàn toàn.
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền: PS6-B113
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật : nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là "các con hãy yêu mến nhau" (Ga 15, 12). Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu ?
Vậy, "yêu như Thầy đã yêu" là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ "như" có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói "yêu như Thầy đã yêu mến các con" là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : "Các con là bạn hữu" (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : "Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con" (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa ? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, "Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người" (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp : "Yêu như Thầy đã yêu các con", khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết : "Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7 - 8). Gioan quả quyết : "Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta" (1 Ga 4, 10).
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.
Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.
Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : "…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy". Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Chúng ta vẫn thường nghe nói: "gia đình là Giáo hội thu nhỏ", thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: "yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng".
Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô : Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời : ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao ?
Chuyện khác : Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:
Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.
Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : "Thầy truyền cho các con" ( Ga 14, 12 ), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.
(9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (12) Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết.(16) Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau.
2.Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về dụ ngôn cây nho và cành nho ám chỉ liên hệ mật thiết giữa Đức Giê-su với các môn: PS6-B114 Simon
Sau khi trình bày về dụ ngôn cây nho và cành nho ám chỉ liên hệ mật thiết giữa Đức Giê-su với các môn đệ, Đức Giê-su tiếp tục trình bày về sự hiệp thông giữa các môn đệ với nhau. Người ban cho họ một điều răn mới là “phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu”. Người coi tình yêu ấy chính là dấu hiệu môn đệ thực sự của Người.
3.CHÚ THÍCH:
- C 9-10): + Chúa Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha đã yêu Chúa Con (x. Ga 3,35), Đức Giê-su cũng yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu vô cùng mật thiết. + Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Vâng giữ các giới răn là một cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giê-su. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người. + Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc sống ở trần gian, Đức Giê-su luôn vâng theo Thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38), đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá (x. Pl 2,8). Sự vâng phục các điều Chúa Cha truyền chính là bằng chứng Đức Giê-su luôn ở lại trong tình thương của Người.
- C 11-13: + Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan của Đức Giê-su có được do luôn làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông cũng tuân giữ giới răn yêu thương mà Đức Giê-su truyền dạy. + Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em: Các môn đệ phải yêu thương nhau không phải chỉ bằng tình cảm hay là lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng phải thể hiện qua việc dấn thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức Giê-su đã yêu thương và nộp mình chịu chết đền tội cho môn đệ. + Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương thực sự đòi sự hy sinh và cho đi. Món quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng sống của mình là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh. Đức Giê-su đã yêu thương môn đệ đến cùng nên sẵn sàng hy sinh chịu chết thay cho môn đệ. Người cũng đòi họ phải noi gương Người mà hy sinh mạng sống vì anh em (x.1 Ga 3,16; 1 Pr 2,21).
- C 14-15: + Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình bạn dẫn đến hiệp thông về tư tưởng, tâm tình và sự sống. Đức Giê-su đã cư xử với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã tỏ cho các ông biết tất cả những gì Người nhận được từ nơi Cha.
- C 16-17: + Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em: Ơn gọi làm môn đệ Đức Giê-su không do công trạng hay sự lựa chọn đi theo Người, nhưng là do Người đã kêu gọi và tuyển chọn các ông trước và các ông đã đáp lại bằng sự từ bỏ mọi sự mà theo Người như 4 môn đệ đầu tiên (x. Mt 4,19-21). + Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giê-su đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Người (x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su và nhờ Ơn Thánh Thần tác động mà các ông đã đưa được nhiều người gia nhập Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41). + Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em: Những lời cầu xin nhân danh Đức Giê-su chắc sẽ được Chúa Cha chấp nhận. + Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương nhau là một giới răn mới của Đức Giê-su và là điều quan trọng nhất, nên được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
4.CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su ban cho môn đệ giới răn mới thế nào? 2) Tình yêu thương môn đệ của Đức Giê-su giống như tình yêu của ai đối với Người? 3) Môn đệ phải đáp lại tình yêu của Đức Giê-su thế nào giống như Người đã yêu mến Chúa Cha? 4) Niềm vui Đức Giê-su có được là do đâu và các môn đệ phải làm gì để cũng có được niềm vui ấy? 5) Đức Giê-su truyền cho các môn đệ phải yêu thương theo cung cách tình yêu của ai? 6) Hai đặc điểm của tình yêu thực sự là gì? 7) Đức Giê-su đã đối xử với môn đệ như bạn hữu thể hiện qua điều gì? 8) Đức Giê-su khẳng định chính Người đã yêu thương kêu gọi và tuyển chọn các môn đệ. Hãy cho biết tên của bốn môn đệ đầu tiên được Đức Giê-su kêu gọi và tuyển chọn là những ai? 9) Đức Giê-su đã ra lệnh cho các môn đệ đi truyền giảng Tin Mừng trong hoàn cảnh nào? 10) Đức Giê-su dạy phải cầu xin nhân danh ai để được Chúa Cha chấp nhận?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: VỀ MỘT TÌNH YÊU CỤ THỂ:
Thánh Phaolô đã cho biết tình thương phải được thể hiện bằng hành động như sau: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).
Ngài cũng khuyên dạy các tín hữu Cô-lô-sê: ”Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 12-14).
2.CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU CỤ THỂ LÀ GÌ ?
1) TÌNH YÊU HY SINH TỰ HIẾN:
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền. Rất may là máu của cậu bé lại cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút.
Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc khi tỉnh dậy, cậu đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và cười ồ khi nói: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi chấp nhận hiến máu, là cậu phải cho em tất cả số máu trong người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn em chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em cậu được sống!
2) TÌNH YÊU VƯỢT QUA HẬN THÙ DÂN TỘC:
Vào năm 2001, chiến tranh giữa Israel và Palestine lại bùng phát dữ dội. Hầu như ngày nào cũng có nhiều người chết và bị thương. Số nạn nhân Palestine luôn nhiều hơn bên Israel. Tuy nhiên, giữa bầu khí hận thù giữa hai dận tộc này, thỉnh thoảng vẫn loé sáng lên những câu chuyện cảm động như chuyện Tình Yêu không biên giới sau đây:
Ngày 6 tháng 6 năm 2001, các đài phát thanh và truyền hình khắp thế giới đã loan truyền một bản tin đặc biệt: Trong một trận tấn công của quân đội Israel, một số người Palestine đã bị giết chết, trong số này có một thanh niên người Palestine. Sau đó gia đình anh đã tình nguyện hiến tất cả các bộ phận trong cơ thể của anh cho các bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện. Nhờ đó mà 5 người đã được cứu sống, trong số này có một thanh niên người Israel. Anh ta bị suy tim rất nặng đang nằm chờ chết. Nhưng nhờ quả tim của người thanh niên Palestine trên đã bị quân đội Israel bắn chết mà anh thanh niên người Israel này lại được sống. Khi phóng viên hỏi tại sao lại cho đi trái tim của con trai để cứu sống một người dân Israel thù địch, thì ông bố người Palestine đã cho biết: ông chỉ quan tâm cứu mạng bất cứ người nào đang phải đau khổ không cần biết họ là ai. Còn viên bác sĩ làm phẫu thuật ghép tim thì phát biểu: Khi so sánh 2 quả tim của người Palestin và người Israel trên tay. Tôi thấy cả hai đều có cấu trúc giống y như nhau và không thể phân biệt đâu là tim của người Palestin, đâu là tim của người Israel”.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
"Tôi là một linh mục công giáo Ba-lan, tôi đã già, Tôi muốn được chết thay cho ông này, vì ông còn có vợ con" Lời của cha KÔN-BÊ (Maximilianus Maria Kolbe) đã nói với viên cai ngục Đức Quốc Xã, trong lúc hắn chọn ra 10 tù nhân phải chết đền tội thay cho một tù nhân mới vượt ngục vào đêm hôm trước. Quyết định của Cha Kônbê đã cứu tù nhân tên là PHĂNG-XIT (Francis) thóat chết, khi ông là người cuối cùng được chọn ra xếp hàng vào hầm chết đói. Sau đó, cha Kôn-bê đã chung số phận với 9 tù nhân kia. Suốt trong những ngày trong ngục tối nhịn đói chờ chết, người ta không nghe thấy những tiếng la hét nguyền rủa quen thuộc phát ra từ hầm này, nhưng thay vào đó là những lời kinh tiếng hát của nhóm tù nhân sắp chết do tác động của cha Kônbê. Câu chuyện tình nguyện chết thay cho người khác của cha Kôn-bê đã cho thấy “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Thực vậy, Chính do tình yêu Chúa và tha nhân thúc bách mà cha Kôn-bê đã không còn sợ chết để tình nguyện chịu chết thay cho một người không quen biết là ông Phăng-sít. Sự tình nguyện chết thay cho người khác của cha Kônbê cũng cho thấy tình yêu của cha thật là cao cả noi gương Chúa Giêsu như lời Người dạy trong Tin mừng Chúa Nhật hôm nay: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
3. THẢO LUẬN:
1)Sau nhiều năm theo Chúa, bạn đã thực hành được giới răn yêu thương trong gia đình, khu xóm và trong môi trường làm việc hay chưa?
2) Để sống được tình yêu thương cụ thể theo gương Chúa, ngoài việc năng đọc Lời Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện, bạn còn cần phải làm thực tập sống yêu thương tha nhân như thyế nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ và các tín hữu chúng ta hôm nay: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Thánh Gio-an cũng viết thư khuyên các tín hữu của ngài: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Vậy Thế nào là yêu thương nhau theo lời Chúa dạy ? Tại sao chúng ta phải yêu thương tha nhân ? Tình yêu thực sự đòi phải được thể hiện ra sao trong cuộc sống ? Chúng ta phải làm gì để có thể sống giới răn yêu thương theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu ?
1) Thế nào là yêu thương tha nhân ? :
Thánh Gioan tông đồ đã dạy các tín hữu về sự thực hành giới răn yêu thương như sau: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,7-8). Chúa Giêsu đã yêu thương nhân lọai đến cùng và để lại giới răn yêu thương cho các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
2) Tình yêu thực sự phải được thể hiện bằng việc làm hơn là lời nói:
Loài người ngoài phần trí khôn biết suy nghĩ phải quấy, còn có tình cảm yêu ghét thôi thúc để làm điều tốt và ghét điều xấu, từ đó sẽ dẫn đến việc làm tốt yêu thương phục vụ chia sẻ điều lành và tránh làm điều ác có hại cho tha nhân. Các việc thể hiện tình yêu này đã được Hội Thánh tóm lại trong kinh Thương Người, trong đó có thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối. Thánh Giacôbê cũng đòi các tín hữu phải yêu thương cụ thể như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?” (Gc 2, 15-16). “Nhờ hành động mà con người nên công chính, chứ không phải nhờ đức tin mà thôi” (Gc 2,24).
3) Yêu thương cụ thể là điều kiện để được vào Nước Trời:
Đến ngày tận thế khi đến lần thứ hai để xét xử muôn dân, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ xét xử mọi người sống kẻ chết. Người không xét họ dựa theo các việc đạo đức đọc kinh dự lễ, mà dựa trên các hoa trái từ các việc đạo đức là các hành vi bác ái cụ thể như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”…”Ta bảo thật: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40.45).
4) Thực hành yêu thương cụ thể: phương cách hữu hiệu để làm chứng cho Chúa:
Ngày nay chúng ta cần ý thức sứ mạng làm chứng cho Chúa như lệnh Chúa truyền cho Hội Thánh trước khi lên trời. Làm chứng cho Chúa chỉ thực sự hiệu quả bằng các việc yêu thương cụ thể như sau:
- Cảm thông và tận tình giúp đỡ những người bệnh tật nghèo khổ bên cạnh.
- Nhẫn nhịn chịu đựng những lời nói xấu của người khác, bỏ qua những lỗi lầm của kẻ khác: “biến việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không có gì” để sống hòa thuận với anh em.
- Dấn thân đi bước trước đến với tha nhân bằng việc năng thăm viếng những người khuyết tật, neo đơn, nhà cô nhi, nhà mở, nhà tình thương… để động viên an ủi, chia sẻ cơm bánh tiền bạc… hầu đáp ứng các nhu cầu cấp bách của họ.
- Trao học bổng cho học sinh sinh viên nghèo khó chăm học, mở lớp xóa mù chữ, dạy nghề đơn giản, lập quỹ giúp vốn buôn bán làm ăn nhỏ để giúp người nghèo có phương tiện tự lập và vươn lên…
Đó là một số phương cách thực hành yêu thương cụ thể theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu và Đức Maria.
5) Thực tập nếp sống yêu thương:
Hầu như mọi tín hữu đều đã biết phải thực hành giới răn mến Chúa yêu người để nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu và xứng đáng gia nhập vào Nước Trời. Nhưng khi xét mình, có lẽ chúng ta phải nhận rằng mình chưa thực hành điều răn này được bao nhiêu. Để có thể sống bác ái yêu thương, ngoài việc phải năng dự lễ đọc kinh chúng ta còn phải đọc Lời Chúa và cầu xin ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần để có thể tập sống yêu thương tha nhân trong từng việc cụ thể.
Bác ái là một nhân đức nên phải tập thành thói quen tốt từ nhỏ đến lớn và trong suốt cuộc đời. Tâp luyện nghĩa là phải lặp đi lặp lại những việc tốt sao cho thành thói quen tốt, trở thành lối phản xạ tốt bằng lời nói, thái độ, lối ứng xử vị tha, nhân hậu, cảm thông, nhẫn nhịn, hy sinh, khiêm tốn, phục vụ… đối với tha nhân mà không cần phải suy nghĩ…
Thánh Phanxicô Át-si cũng dạy các tín hữu chúng ta thực hành giới răn mến Chúa yêu người trong Kinh Hòa Bình mà mỗi người cần tâm sự với Chúa mỗi ngày, cần thực tập từng lời kinh như nguyên tắc ứng xử bác ái với tha nhân để loan báo Tin Mừng Tình Thương cho họ:
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng.
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khí hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn An Bình.
5) LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha giàu lòng từ bi nhân ái. Xin ban Thánh Thần đến giúp chúng con thực hành giới răn yêu thương của Chúa Giêsu theo gương mẫu và lời dạy của Người. Nhờ quyết tâm sống yêu thương bằng việc thực tập sống nhân bản hằng ngày và việc học sống yêu thương noi gương Chúa làm và lời Người dạy, kèm theo cầu xin ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng con mới hy vọng sẽ được Chúa biến đổi để ngày một nên giống Đức Giêsu: Làm con hiếu thảo luôn làm vui lòng Chúa Cha, nên môn đệ đích thực bằng việc thuộc lời Chúa dạy và thực hành bác ái cụ thể, chúng con sẽ ngày một nên hòan thiện hơn, tích cực góp phần loan báo Tin mừng, làm chứng nhân tình thương cùa Chúa trước mặt người đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 15:9-17)
Chúng ta có bao giờ nghe ai nói về tình yêu mà lại đem chính mình ra để làm gương mẫu không? PS6-B115
Chúng ta có bao giờ nghe ai nói về tình yêu mà lại đem chính mình ra để làm gương mẫu không? Chắc là không. Vậy mà Chúa Giê-su đã làm chuyện đó. Người định nghĩa tình yêu không phải bằng ngôn ngữ văn chương, triết học hay luân lý. Nhưng Người định nghĩa tình yêu bằng kinh nghiệm sống của mình, tức là bằng mối tương quan giữa Người với Thiên Chúa và với các môn đệ.
Nói đến gương mẫu tình yêu là phải nói đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Từ nơi Người, tình yêu phát xuất và được chia sẻ cho tạo vật. Tình yêu Thiên Chúa là nguồn sự sống của mọi loài. Con người được Chúa dựng nên cũng là do động lực tình yêu. Trong kế hoạch cứu độ nhân loại, Chúa Cha đã sai Con Một xuống trần để làm Chứng Nhân cho tình yêu của Người. Với tính cách là con người, Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được tình yêu vô điều kiện ấy của Chúa Cha. Cho nên cách tốt nhất để Chúa Giê-su định nghĩa tình yêu là sử dụng kinh nghiệm cá nhân để diễn tả những chiều kích của tình yêu.
Trước hết Chúa Giê-su đề cao Chúa Cha như gương mẫu yêu thương và chính Người đã yêu thương theo gương mẫu ấy. Người nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Giáo lý dạy chúng ta rằng yêu thế nào của tình yêu Cha-Con, đó là Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, hoặc chúng ta có thể nói Thánh Thần là thế nào của tình yêu Thiên Chúa. Giờ đây Chúa Giê-su áp dụng gương mẫu thế nào vào tình yêu Người dành cho các môn đệ. Như Chúa Cha đã hết mình yêu Chúa Giê-su, thì Chúa Giê-su cũng yêu chúng ta hết mình, đến độ hy sinh tính mạng mình vì chúng ta. Tiếp đến, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta phương thức biểu lộ tình yêu. Phương thức đầu tiên là “ở lại”. Tình yêu luôn mời gọi người yêu hãy ở lại bên nhau, nghĩa là ở lại trong mối tương quan mật thiết. Vợ chồng ở lại bên nhau trong sự kết hợp thể xác lẫn tinh thần. Bạn hữu ở lại bên nhau qua những liên lạc thư từ hay gặp gỡ. Chúng ta và Chúa ở lại bên nhau mọi nơi mọi lúc, khi cầu nguyện, lúc làm việc và bổn phận, khi gặp gỡ Chúa nơi người khác qua sự giúp đỡ, khích lệ, an ủi…
Đặc biệt, chúng ta và Chúa ở lại bên nhau trong sự kết hợp của Bí tích Thánh Thể. Phương thức thứ hai biểu lộ tình yêu được Chúa Giê-su nhấn mạnh, đó là “giữ các điều răn của Chúa”. Chúa Giê-su cũng dạy phương thức này bằng kinh nghiệm bản thân: “Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy…” Đúng vậy, các “điều răn” Chúa Cha muốn Chúa Giê-su tuân giữ là trung thành với sứ mệnh và thi hành thánh ý Cha. Chúa Giê-su đã tuân phục giữ những điều răn của Chúa Cha đến nỗi trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, làm người và chết nhục trên thập giá (Phi-líp-phê 2:6-8). Đó là cách tuyệt hảo Người biểu lộ tình yêu đối với Chúa Cha. Người muốn chúng ta áp dụng cùng một phương thức để giữ điều răn của Người là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Quả là một phương thức giản dị: muốn yêu Chúa thì chúng ta hãy yêu anh chị em bằng cái thế nào của tình yêu Chúa Cha và của tình yêu Chúa Giê-su. Loại bỏ mọi hình thức ích kỷ, để hoàn toàn sống cho người mình yêu.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su cho chúng ta thấy một đặc điểm của tình yêu: tình yêu thúc giục chúng ta “đi trước” hoặc chủ động. Yêu chúng ta nên Chúa đã “chọn” chúng ta. Người chọn chúng ta bằng cách muốn giúp chúng ta sống như bạn hữu của Người. Yêu thương đích thực thì muốn cho người mình yêu nên tốt hơn, vì đó là hoa trái của tình yêu. Chúa Giê-su muốn chúng ta sinh hoa trái, là nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng toàn hảo. Mà đường lối để chúng ta nên hoàn hảo là tuân giữ điều răn yêu thương Chúa truyền cho chúng ta. Yêu người là yêu mến Chúa. Đây là điều chúng ta nên chú tâm suy nghĩ thật nhiều. Chỉ cần làm một điều này thôi, là mỗi ngày chúng ta thử xét lại xem mình đã thực sự yêu những người trong gia đình và chung quanh chúng ta chưa. Nếu chưa, chúng ta cố gắng sửa đổi. Cứ thế, chúng ta sẽ trở nên giống như “gương mẫu yêu thương” là Chúa Cha và Chúa Giê-su!
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, các tôn giáo thường chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa Thượng Đế và PS6-B116 Luong
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, các tôn giáo thường chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa Thượng Đế và con người. Còn mối liên hệ giữa con người với con người, nếu không bị bỏ quên, thì cũng bị coi nhẹ. Bởi vì tự bản tính loài người, chúng ta ai cũng ích kỷ chỉ lo cho mình mà thôi.
Thế nhưng với Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã lập lại thế quân bình giữa hai mối liên hệ: giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thật vậy, khi người ta hỏi Ngài xem điều răn nào là điều răn quan trọng nhất, thì Ngài đã xác quyết: Mến Chúa và yêu người, cả hai đều giống nhau, nghĩa là có giá trị bằng nhau.
Hơn thế nữa, với Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta có cảm tưởng như Chúa Giêsu chỉ chú trọng điều điều răn thứ hai mà Ngài gọi là điều răn mới. Ngài nói đây là điều răn của Thầy: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu. Thực ra Chúa Giêsu không có ý bảo chúng ta rằng: Từ nay khỏi cần phải nghĩ tới chuyện kính mến Thiên Chúa, chỉ cần yêu thương anh em mà thôi. Nhưng sở dĩ Ngài không nói tới lòng kính mến đối với Thiên Chúa là vì mọi tình yêu thứ thiệt điều bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì Ngài chính là Tình yêu.
Nước chảy phải có nguồn. Chặn nguồn lại thì nước sẽ không thể chảy xuống sông ngòi mà đi vào ruộng đồng. Với niềm tin, chúng ta thấy nếu không có lòng kính mến đối với Thiên Chúa, thì cũng không thể có tình yêu thương đối nhau thực sự được. Bởi thế, trong điều răn mới đã bao gồm điều răn thứ nhất rồi.
Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bản chất của tình yêu ấy luôn luôn là trong sạch, vui tươi và viên mãn. Thế nhưng khi vào đời, tình yêu ấy cũng như dòng nước chảy, nhiều khi uốn khúc quanh co, nhiều khi đụng phải những chướng ngại vật và phải chảy qua cả những chỗ sình lầy dơ bẩn. Nhưng cuối cùng, thì chính tình yêu sẽ thanh tẩy tất cả, sẽ biến đổi tất cả, để rồi hướng mọi dòng chảy, nghĩa là hướng mọi thứ tình yêu con người chảy vào lòng đại dương bao la là chính tình yêu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta tình yêu, để rồi nhờ chúng ta mà mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc sẽ được trở về với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Alpha và Ômêga, là khởi thuỷ và cùng đích của mọi tạo vật.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên PS6-B117
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
1. Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói “nàng là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi” (St. 2, 23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói “đồng bào ruột thịt”. Đồng bào nghĩa là cùng chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt. Nói khác đi, ta nhận nhau như chính mình.
Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St. 3, 12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.
2. Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho loài người, nhưng đã thất bại, loài người không thể thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lần này, Thiên Chúa nhờ chính Con Một Ngài là Đức Giêsu thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho loài người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” để “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha truyền sang Chúa Con, và Chúa Con truyền sang chúng ta, như thế, tình yêu này mang bản chất Thiên Chúa, chứ không mang tính xương thịt như ban đầu nữa. Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa để chúng ta noi gương Chúa Con mà yêu thương nhau.
Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.
Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.
Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.
Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.
Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô mà bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.
Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.
Lần nọ, có một người thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, một ngày kia anh PS6-B118
Lần nọ, có một người thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, một ngày kia anh ta đến gặp một vị linh mục nổi tiếng là thánh thiện. Anh ta hỏi vị linh mục: "cha có tin vào Thiên Chúa không?". Vị linh mục trả lời: "vâng, cha tin" Người thanh niên hỏi tiếp: "dựa vào bằng chứng nào mà cha tin là có Thiên Chúa." Vị linh mục trả lời: "cha tin vào Thiên Chúa bởi vì cha biết Ngài, cha cảm nghiệm được Chúa hiện diện trong cha mỗi ngày". Người thanh niên lại hỏi: "nhưng làm thế nào cha cảm nghiệm được Thiên Chúa." Vị linh mục đáp: "khi chúng ta yêu thương, chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và sự nghi ngờ lập tức biến mất như sương của buổi sáng dưới ánh nắng mặt trời.
Người thanh niên suy nghĩ về điều này một chút, sau đó anh lại hỏi: "làm sao con có thể đạt được điều này?". Vị linh mục trả lời: "bằng hành động yêu thương. Hãy cố gắng yêu người thân cận của bạn, yêu họ tích cực và không mệt mỏi. Khi bạn tập yêu thương họ càng nhiều thì sự cảm nghiệm của bạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự bất tử của linh hồn càng sâu sắc. Đây mới là bằng chứng và con đường thật sự về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Vị linh mục nhắc lại những lời của Thánh Gioan: "các con thân yêu, các con hãy yêu thương nhau, bởi vì tình yêu đến từ Thiên Chúa; ai yêu thương thì người đó sinh ra từ Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu là điều kiện đầu tiên để hiểu biết đúng đắng về cuộc sống và cảm nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa. Như cha Zosima đã nói trong quyển "anh em nhà Karamazov" của Dostoevsky: "các con hãy yêu thương tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên, cả vũ trụ và những hạt bụi nhỏ bé trong đó. Nếu con yêu thương tất cả chúng, các con sẽ có được cái nhìn thiêng liêng về chúng. Van Gogh cũng nói tương tự như thế: "cách tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương mọi sự: yêu bạn bè, yêu vợ chồng...và bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa cách đúng đắng."
Tình yêu là vị thầy tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng nó không đến theo ý thích cá nhân ta... mà chúng ta phải trả bằng cái giá thật đắt. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn nhiều năm để một con người có thể đến đỉnh điểm nào đó mà anh ta hoặc cô ta có thể yêu.
Có một khoảng cách, một sự khác biệt to lớn giữa biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Không yêu thì không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta yêu thương thì khoảng cách đó được rút ngắn lại. Yêu thương là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu thì có Thiên Chúa; nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có tình yêu. Biết thì không cần phải chứng minh và cũng không cần phải giải thích.
Ghen ghét là một tật xấu, chính tật xấu này làm cho ta ghét mọi thứ. thật là cao quývà quảng đại khi con người yêu thương mọi thứ, thậm chí chỉ là một bụi hồng. "Chính bản thân cảm thấy hài lòng khi chỉ là một người giữ vườn âm thầm, nhỏ bé để yêu mến những gì mình vun trồng" (Von Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa phú bẩm một khả năng để yêu thương. Tuy nhiên, chúng ta cần phải để tình yêu nảy nở trong tim một cách đúng đắng, mô phỏng theo tình yêu của Chúa. Khi đó, chúng ta sẽ biết cho đi nhiều hơn. Nhưng tiếc thay, con tim thì thường hay lạnh lùng và thường hay đóng kín, trống rỗng và khô khan... Chúng không nên ngạt nhiên về điều này. Vì người ta quan niệm rằng chúng ta có một con tim bằng thịt chứ không phải bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương nơi con tim mình, để chúng ta có thể sản sinh nhiều hoa trái yêu thương.
Hình ảnh của Thiên Chúa trở nên tốt nhất và sáng tỏ trong mỗi người khi chúng ta biết yêu thương.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ một điều răn mới: "là hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương". Xin Chúa hãy chạm vào trái tim con để con có thể yêu thương như Chúa, để con luôn vui sống trong bình an và sự hiệp nhất trong Nước Trời nơi mà con sẽ sống mãi mãi. Amen.
Trong cuộc sống không có gì tẻ nhạt và vô vị cho bằng thiếu tình yêu. Con người luôn khát mong PS6-B119
Trong cuộc sống không có gì tẻ nhạt và vô vị cho bằng thiếu tình yêu. Con người luôn khát mong và đi tìm cho mình một cuộc sống yêu thương, và dĩ nhiên không ai chối bỏ tình yêu. Tình yêu là sức hút, và là động lực giúp con người sống gần nhau và cho nhau.
Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người và tạo nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Và cũng vì yêu mà Thiên Chúa đã sai Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Trong mười giới răn của Chúa, thì hai giới răn: Mến Chúa và Yêu người là quan trọng nhất. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã chứng tỏ tình thương của Ngài đối với dân Do Thái bằng việc dưỡng nuôi và dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Còn trong Tân Ước Ngài đã chịu khổ hình, chết trên thập giá, và lấy chính thịt máu mình để nuôi sống nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay, thánh Gio-an cho chúng ta thấy nỗi khát mong lớn nhất của Đức Giêsu khi sắp giã từ thế gian mà về cùng Thiên Chúa Cha là: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em". Đây là diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi lên Giêrusalem chịu khổ hình. Lời nhắn gởi thiết tha và chân tình nhất: "Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy". Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ phải làm được những công việc lớn lao, nhưng xin các con hãy thương yêu nhau. Mẫu gương yêu thương của Giêsu là lấy thân xác của mình để chứng minh cho tình yêu đó. "Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13). Thánh Gioan còn kết luận rằng: "Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta phải thí mạng vì anh em" (1Ga 3, 16).
Yêu là kéo dài hành động của Thiên Chúa. Thực thế, Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Đấng đáng được chúc tụng và tôn vinh mà đã đến với kẻ cơ bần, cho người trần truồng có áo mặc, an ủi kẻ khổ đau, an táng người qua đời… Hành động của Giêsu đã khơi lên trong các bạn những tâm tình nào? Bạn có hành động gì trước những người khổ đau, nghèo đói, bệnh tật và ngay cả những tệ nạn xã hội…?
Chúng ta biết rằng yêu người khác thì khó hơn yêu mình. Thế nhưng, chúng ta không thể nói yêu mà không nhắm đến một đối tượng nào. Nhà thơ Xuân Diệu nói về một thứ tình yêu không đối tượng hay không hành động:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ Nếu em yêu mà chỉ để trong lòng Không tỏ hay, yêu mến cũng là không.
Như thế, yêu mà chỉ để trong lòng, không tỏ lộ ra ngoài thì tình yêu đó chưa đủ và có khi còn làm cho người khác đau lòng nữa là đàng khác. Nếu như thánh Phao lô đã nói: Đức tin không có việc làm là đức tin chết, thì chúng ta cũng có thể nói một tình yêu không có hành động là một tình yêu giả trá, vụ lợi và độc đoán.
Có một câu chuyện làm cho nhiều người phải xúc động, vì tinh thần cao thượng của một người dám chết thay cho bạn của mình: Sau cuộc chiến phân tranh Bắc Nam ở Hoa Kỳ, một du khách đến thăm nghĩa trang quân đội ở Nashville và gặp một người đang trồng hoa bên ngôi mộ. Du khách liền hỏi:
- Con ông an nghỉ tại đây à? - Không. - Hay là thân nhân của ông? - Cũng không. - Thế tại sao ông lại trồng hoa bên ngôi mộ này? - Đây là ngôi mộ của "một người chết thay tôi"
Rồi ông kể: Khi chiến tranh xảy ra, tôi được lệnh phải nhập ngũ. Khi chuẩn bị xong đồ đạc, từ biệt vợ con để lên đường, thì một người bạn của tôi đến nói với tôi: "Gia đình anh đông con, và anh là lao động chính, nếu như anh đi thì e rằng vợ con anh sẽ không đủ khả năng mưu sinh, các con anh sẽ đói khổ và giả như anh có chết thì các con anh sẽ mất cha, đời chúng nó sẽ khổ. Thôi! Tôi sẽ đi thay cho anh, vì tôi chưa có gia đình". Tôi rất xúc động và lưỡng lự, nhưng rồi tôi cũng đồng ý. Và trong một trận chiến, anh ta bị trọng thương và qua đời. Tôi rất đau xót và bàng hoàng khi có người dám hy sinh cho tôi. Tôi rất cảm phục tấm lòng cao cả đó. Hôm nay tôi đến viếng và trang hoàng lại nấm mộ cho bạn tôi. Nói xong, ông cắm một tấm bảng nhỏ với dòng chữ: Anh đã chết cho tôi.
Thưa cộng đoàn, đây thực là một cái chết vì bạn hữu của mình. Vì tình thương mà anh ta dám chết cho bạn của mình. Nếu như người bạn không có lòng yêu thương, không thấu cảm sự khốn khổ cùng cực của người vợ và những đứa con sẽ mất cha, chắc anh ta không đi thay để rồi phải bỏ mạng như thế.
Anh bạn trong câu chuyện không phải là một siêu nhân, nhưng là một con người bình thường, rất bình thường nhưng lại có một trái tim phi thường - thực là tình yêu mạnh hơn sự chết. Cho dầu anh đã chết, nhưng tình yêu của anh vẫn tồn tại và cái chết là lời chứng cho tình yêu cao thượng và bất biến.
Chỉ có tình yêu là dòng lưu chuyển, nối kết tình người và làm cho con người được bình an, hạnh phúc. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi chẳng tiếc người Con duy nhất của mình. Chúa Giêsu không đòi buộc chúng ta phải làm như Ngài, nhưng chúng ta cũng có thể học nơi Ngài một bài học nho nhỏ: khi yêu thì cố gắng cho đi hơn là nhân lãnh, và có thể chết đi cho những tị hiềm ghét ghen, thù oán …
Chúng ta đang sống trong một thế giới đói khát tình thương, vì thiếu tình yêu mà người ta sẵn sàng khủng bố, chiến tranh, phân biệt chủng tộc, phá thai… Chúng ta phải làm gì với những vấn nạn này?
Thân phận con người được sinh ra bởi tình yêu - tình yêu giữa người cha và người mẹ. Thế nhưng, con người lại thường sống trong thù hận và giết chóc. Thực là một nghịch cảnh cho phận người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận thân phận yếu đuối, hữu hạn, tội lỗi, nhưng không được loại trừ tình yêu, vì một ngày vắng bóng tình yêu là con người sống trong đau khổ. Tình yêu có thể xoá bỏ mọi ranh giới, hận thù, chia rẽ và giúp chúng ta tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả (1 Cr 13,7). Chúng ta cần ý thức rằng: Điều còn lại và không bao giờ mất được chính là tình yêu. Và một khi sống cho tình yêu là chúng ta đã chu toàn luật Chúa: Mến Chúa yêu người là chu toàn lề luật.
Tình yêu cần cho mọi người, và chỉ có tình yêu mới làm thỏa mãn khát vọng sống yêu và được yêu của con người. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thận phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô hạn. Chúng ta phải làm sao nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu đó có thể cứu chuộc thân phận chúng ta trên cây thập giá đời".
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta cùng tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, cùng lãnh nhận một Thần Khí và sự sống nơi Người, lẽ nào chúng ta lại hờ hững trước những khổ đau, bất công của anh chị em đồng loại. Và chúng ta có đáng để được Đức Kitô chết thay cho mình không? Thiên Chúa vì yêu phận người chúng ta, nên Ngài đã xoá bỏ mọi ranh giới giữa Thượng Đế với phàm nhân, giữa Cha với con, giữa chủ với tớ, giữa vì Thiên Chúa quyền năng với phận người hèn yếu, để cho con người được làm bạn với mình - Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (Ga 15,15).
Cuối cùng vì yêu nhân loại, Ngài lấy chính thân thể Ngài để chứng minh cho tình bằng hữu đó. Thiên Chúa cho con người ngang hàng với mình, sẻ chia và cảm thông một cách sâu sắc. Những gì Chúa Giêsu nhận được từ nơi Thiên Chúa Cha, Ngài đều cho chúng ta biết, không còn là bí mật, cất giấu.
Chúng ta học được gì qua bài Tin Mừng hôm nay- phải chăng là một lời nói suông về tình yêu? Có lẽ Chúa Giêsu không buộc chúng ta phải chết cho người khác và chúng ta cũng không có cơ hội để chết thay cho ai đó. Nhưng, vẫn còn đó những tị hiềm ghen ghét để chúng ta thể hiện lòng nhân ái; vẫn còn đó những tranh chấp để chúng ta thể hiện lòng từ tâm; vẫn còn đó những oán thù để chúng ta thể hiện lòng quảng đại thứ tha; …
Thiên Chúa là tình yêu, nên vũ trụ được khai sinh, Thiên Chúa là tình yêu, khi tạo dựng con người, Thiên Chúa là tình yêu, bởi Ngài sống cho con người, Thiên Chúa là tình yêu, nên đã chết cho nhân loại, Thiên Chúa là tình yêu, nên con người được sống, Thiên Chúa là tình yêu, nên bạn hãy học sống yêu thương. Dù bạn có liệt kê hàng trăm ngàn thứ tình yêu nơi Thiên Chúa, thì Ngài cũng chỉ là: Thiên Chúa Tình Yêu (Ga 4, 8).
Thưa cộng đoàn, chúng ta không có dịp để chết thay như anh bạn trong câu chuyện trên, nhưng mỗi ngày chúng ta có thể "chết" một ít: Anh chị em có thể chết cho lòng vị kỷ, ghét ghen, thù oán… Những cái chết đó sẽ giúp anh chị em chuẩn bị cho cái chết của chính bản thân. Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương tưới đẫm trái tim héo khô và chai cứng của chúng con. Xin Ngài giúp chúng con nhận ra rằng: Lòng tốt được đáp đền bằng lòng tốt, tình yêu được đáp đền bằng tình yêu.
Những ai làm vườn đều có kinh nghiệm bực bội, tức tối khi phải phá giây leo. Để leo lên cao giây PS6-B120
Những ai làm vườn đều có kinh nghiệm bực bội, tức tối khi phải phá giây leo. Để leo lên cao giây leo cuốn chặt vào cây trong vườn, cuốn tròn nhiều vòng để leo lên. Mỗi một vòng lên cao một bực và khi đạt đến ngọn cây chúng mau chóng toả lan ra nhiều nhánh bao trùm cây và từ cây này ngọn giây leo vươn dài bám sang cây khác. Cứ thế mau chóng lan ra. Giây leo không những tạo gánh nặng cho cây chúng còn che lấp ánh nắng cần thiết khiến cây chậm lớn và là chỗ mát tốt cho sâu rầy sinh sản mau chóng. Tệ hơn nữa giây leo còn gieo mầm bệnh cho cây chúng leo và dĩ nhiên hút phân bón, và chất dinh dưỡng của cây. Đức Kitô dùng hình ảnh giây leo để nói đến tình yêu liên kết trong Chúa và nhờ tình yêu đó thanh tẩy làm trong sáng cuộc sống tâm linh.
Liên kết trong tình yêu là điều Đức Kitô mời gọi chúng ta sống. Liên kết để được ở cùng, sống chung và nhận sức sống từ Đức Kitô. Một khi chúng ta sống dưới sự che chở của Đức Kitô cuộc đời ta sẽ thay đổi. Thay đổi vì mối liên kết phát sinh trong tình yêu Chúa. Mối liên kết vô hình cho những ai không tin vào Đức Kitô. Qua đức tin ta cảm nhận đuợc mối liên kết vô hình và nhận biết thành quả do tình yêu Chúa trao ban. Tương tự như giây leo làm thay hình đổi dạng của cây, tình yêu Chúa có sức mạnh thay đổi cuộc sống con người. Biến ta thành con người có tâm tư như Đức Kitô, sống và suy nghĩ theo sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi thói hư xã hội. Thói hư kìm chế cuộc sống. Nó làm ta mất tự do bằng cách ta bị lệ thuộc vào chúng. Sống lệ thuộc là sống trong nô lệ, nô lệ của sa đoạ, của ham muốn, nô lệ của hận thù. Những thói tật kia khuyến dụ ta bằng hào nhoáng bề ngoài và những phút vui chơi ngắn hạn. Sống theo hào nhoáng đòi hỏi chạy đua với hào nhoáng. Chạy hoài sẽ hết giờ cho tình bạn, tình yêu gia đình và tình yêu Chúa. Chạy hoài sẽ mệt mỏi và thua cuộc. Thua cuộc nên bực dọc, cáu kỉnh, chán đời. Thua cuộc nên cảm thấy đời trống rỗng, vô vị, cuộc sống trở nên vô nghĩa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi cám dỗ lệ thuộc. Tình yêu Chúa ban phát tự do cho tâm hồn. Tình yêu Chúa cởi trói cho con tim khỏi ràng buộc xã hội và ban bình an cho con tim. Tình yêu Chúa giúp ta sống an vui, hạnh phúc thật. Tình yêu Chúa thanh tẩy lối suy nghĩ và hành động. Tình yêu Chúa nâng cao phẩm giá con người, biến ta thành con cái sự sáng, trở nên thân hữu của Đức Kitô.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa .... nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu. (c.15)
Bạn bè đối thoại với nhau bằng nhiều cách. Họ chia sẻ với nhau tình cảm, tâm tư và ngay cả mối lo trong cuộc sống. Họ an ủi nhau khi có người sầu khổ, và chung vui khi có niềm vui. Tương tự như thế Đức Kitô gọi chúng ta là bạn hữu Ngài cũng đối xử với chúng ta như những người bạn đối xử với nhau. Liên kết với Đức Kitô qua cầu nguyện hàng ngày, qua việc siêng lãnh nhận các bí tích. Liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được thông cảm, an ủi, nâng đỡ, cùng đồng hành với Đức Kitô trong mọi tình huống cuộc sống. Nếu chẳng may có người thân ra đi chúng ta than khóc. Thiên Chúa hiểu ta hơn cả bởi chính Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm mất con một Ngài là Đức Kitô. Đức Kitô ra đi ở tuổi thanh niên, ra đi một cách đau đớn nên Chúa hiểu nỗi mất mát của ta khi phải chia lìa người thân.
Liên kết với tình yêu Chúa giúp đổi mới tâm hồn. Đổi mới bằng cách xén tỉa, làm cho cuộc sống tâm linh ngày một trong sáng, gần Chúa hơn. Chính việc đổi mới, trong sáng tâm hồn giúp cho niềm vui trở nên dồi dào, trọn vẹn. Niềm vui mà hào hoáng xã hội không thể nào có vì niềm vui này phát xuất tự tâm hồn, như giòng suối trong không ngừng chảy vì nó lấy sức sống, sức mạnh và niềm vui từ nguồn yêu vô tận từ trái tim Đức Kitô. Một trái tim dám chết cho người mình yêu.
Không phải chỉ có con người mới đi lạc mà con vật cũng đôi khi lạc đường, sai lối. Điểm khác biệt PS6-B121
Không phải chỉ có con người mới đi lạc mà con vật cũng đôi khi lạc đường, sai lối. Điểm khác biệt là con vật lạc đường vì nhận sai phương hướng, lầm lẫn trong lối đi. Trong khi con người lạc đường không phải lầm lẫn phương hướng mà chủ trương đi lạc. Con đường đi lạc là con đường người đó đi lại hàng ngày, mỗi ngày đi lại cùng con đường, mòn mỏi trên con đường. Dù đi lại nhiều lần vẫn lạc bởi vì người đó chủ trương đi lạc. Dù có đi lại ngàn lần mỗi lần đi tăng thêm một lần lạc. Con vật lạc đường tránh không đi lại con đường đó nữa
Đó là câu chuyện con chim cánh cụt tại vùng nam cực. Nó chưa đầy một tuổi, người ta phỏng chừng nó mới mười tháng tuổi, trên đường đi săn mồi về đã lạc đường bơi theo giòng nước nhiều ngàn cây số trước khi trôi dạt vào bờ biển Tân Tây Lan. Báo chí đặt cho nó cái tên là đôi chân hạnh phúc. Đối với con người thì quả là hạnh phúc, lần đầu trên đời nhìn thấy nó mà không phải tốn công, mất của đến nam cực, giá buốt để xem nó. Hạnh phúc vì đời người may mắn lắm mới gặp một lần bởi vì cách đây 44 năm cũng có con chim cánh cụt bơi lạc vào Tân Tây Lan. Đối với sự sống, tồn vong thì con chim cánh cụt quả có đôi chân hạnh phúc. Nhờ đôi chân đó mà nó sống sót. Mới 10 tháng tuổi nó đã cao 80cm. Trung bình chim cánh cụt nam cực cao 122cm và năng khoảng 34kg.
Nghĩa tương phản, đôi chân cánh cụt là đôi chân bất hạnh, dẫn đưa nó xa đàn, rời tổ. Hạnh phúc có chăng là nó sống sót, đôi chân mỏi mệt kia dẫn đưa nó đến bến bờ, dù là bến bờ ngoài í muốn nhưng nó sống sót trên đường đi, không bị cá mập xơi tái trong cuộc hành trình.
Chim cánh cụt thường ăn tuyết để cơ thể đủ nước, giữ mức độ thân nhiệt cân bằng với nhiệt độ nam cực. Lần đầu trên đời nó nhìn thấy cát lại lầm là tuyết nên nó xơi một bụng cát. Kết quả cơ thể không tiêu hoá được phải nhờ đến bác sĩ thú i rửa ruột.
Con người đi lạc gia đình đau buồn, hàng xóm láng giềng lo sợ và Giáo Hội đau khổ. Con người đi lạc không bao giờ chấp nhận mình đi lạc. Trái lại còn tự hào, tự nhận mình tiến bộ, hiểu biết hơn người, sống lối sống mới. Mới ở đây không có nghĩa là tốt mà chọn lựa đi lạc lại hãnh diện mình làm đúng, tài khôn. Giáo Hội luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ, tạo cơ hội cho người đó trở về.
Con chim đi lạc được người ta ca tụng, người đến xem kẻ viết bài tường thuật. Hình ảnh con chim đi lạc đăng tải đủ kiểu, lớn nhỏ, chụp thẳng, chụp nghiêng, chụp người coi sóc chim, phỏng vấn người đầu tiên nhìn thấy con chim lạc. Mọi chi tiết được diễn tả rõ ràng mạch lạc. Nhóm bảo vệ súc vật sẵn sàng lên tiếng bênh vực con vật đi lạc. Ca tụng con vật đi lạc đã đành họ còn vận động yêu cầu chính phủ chi tiền cho một chuyến máy bay riêng chở con chim về tổ ấm cũ.
Đối với con vật đi lạc là thế, nó là con vật vô danh, đi lạc trở thành con vật hữu danh, danh tiếng lẫy lừng. Nổi tiếng cỡ nào đi chăng nữa thì con vật cũng không hưởng gì, không ích gì. Điều nó thích nhất, sung sướng nhất là hãy trả nó về đời sống hoang dã, nơi nó sinh ra, nơi nó ngày ngày bơi tìm mò cá, nhặt tôm. Được chăm sóc chu đáo trái lối sống tự nhiên của nó nên nó không thích. Nó không thích tiếng cũng chẳng thích miếng, nếu miếng đó không do chính công lao của nó, do cánh cụt cộng với đôi chân vẫy bơi trong nước, do chính mỏ nó bắt được con mồi. Danh tiếng đối với nó bằng thừa.
Cá nhân đi lạc người thân lo lắng, họ hàng tiếc thương. Báo chí không lên tiếng lấy một câu, truyền hình không cho lấy một tấm ảnh. Nếu báo chí có nhắc đến một là qua đời cách mờ ám, hai là kết quả của những lỗi lầm khai ra trước toà. Khác với con vật, con vật đi lạc thường ít gây tai vạ cho con người cho xã hội. Con người đi lạc thường tạo ra những tệ đoan xã hội. Lạc càng nhiều mức tàn phá xã hội càng lớn. Lạc càng sâu đặm thì mức phá hoại gây ra càng khủng khiếp. Trong tất cả các loại lạc thì loại lạc tư tưởng là nghiêm trọng hơn cả. Nhất là khi kẻ lạc đó lại ở thế lãnh đạo, chỉ huy thì mức độ tàn phá không phải do một người mà do một phe nhóm, một đảng phái. Khi một đảng phái cùng nhau hợp lực tàn phá thì mức huỷ hoại khủng khiếp tăng nhiều ngàn lần. Số người thiệt mạng vô số kể, tài sản quốc gia hao mòn, thất thoát, tương lai dân tộc lụn bại xuống dốc theo sự hướng dẫn sai lạc của nhóm chủ trương.
Về phương diện tâm linh, lạc giáo, lạc đạo sẽ dẫn đến tình trạng một là li khai khỏi tôn giáo mình có thời tin theo để lập một tôn giáo mới có cùng căn bản của tôn giáo cũ nhưng giải thích trại đi. Hai là hoàn toàn chống lại tôn giáo có thời đã tin theo. Cách nào thì lạc giáo cũng tạo nên chia rẽ, ngăn cách, bài xích tôn giáo cũ.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật luôn đến từ Thiên Chúa. Gọi là tình yêu chân thật vì PS6-B122
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật luôn đến từ Thiên Chúa. Gọi là tình yêu chân thật vì tình yêu đó dẫn ta đến sự thật, nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Tình yêu chân thật bất biến với thời gian. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào tình Chúa yêu ta cũng sáng chói như mặt trời. Tinh ròng như nắng sớm, đẹp như hoa chớm nở và chan hoà yêu thương.
Tình Chúa vĩ đại, cao vời, vô bờ bến, tình Chúa khơi dậy trong ta:
- Tình thương người đồng loại. - Quí trọng sự sống con người. - Quí trọng đức công bằng. - Yêu quí và thực thi đức ái. - Mau mắn nhận sai trái, lỗi lầm. - Hay thứ tha. - Giầu lòng xót thương.
Tình yêu Chúa giúp ta nhận ra hình ảnh Chúa Kitô trong người anh chị em mình. Bất kể họ mang mầu sắc gì, tôn giáo nào, người hay thai nhi, già hay trẻ, giầu hay nghèo, nam hay nữ, sang hay hèn, tự do hay tù tội, mạnh khoẻ hay yếu liệt họ đều là con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Dù họ không chọn Ngài nhưng Đức Kitô chọn họ làm bạn. Họ chưa thuộc đàn chiên nên Ngài đi tìm kiếm.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về (Ga 10,16)
Chúa sai tôi đi
Tình Chúa yêu ta thể hiện qua tình người. Thiên Chúa thi ân, giáng phúc cho nhân loại bằng cách cho phép ta cộng tác vào công trình của Ngài. Nhờ thế mà tình người được nâng cao và thánh hiến.
Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sanh nhiều hoa trái (Ga 15,5) Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, Sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại (Ga 15,16)
Sai đến người đau khổ; đỡ dậy người vấp ngã, sánh vai người tàn tật, an ủi kẻ cô đơn, viếng thăm người bệnh tật, cho kẻ đói ăn, dóng lên tiếng kêu gọi giao hoà và thứ tha. Điều này thể hiện lòng thương xót vô bờ Chúa dành cho nhân loại, qua bàn tay yêu thương trìu mến của con cái Chúa. Các việc lành thánh, công trình từ thiện diễn tả một Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Sống đời sống xót thương là môn đệ chân chính của Chúa.
Tình người
Bên cạnh tình Chúa có tình người. Tình người tốt lành khi tình người được thánh hoá, hướng dẫn bởi Lời Chúa và ân sủng Ngài.
Lời Chúa thanh tẩy tình người
Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em (Ga 15, 3)
Nhờ tình người được thanh tẩy mà nhân loại tránh được muôn đại hoạ phát sinh do lòng ích kỉ.
Chối bỏ ơn Chúa, con người không làm được việc gì tốt. Vì phán đoán, quyết định hướng dẫn bởi kiêu ngạo và lợi nhuận.
Người ta nhân danh tình người hành hạ, làm khổ nhau. Vì lợi nhuận mà dân tộc này xâm chiến dân tộc nọ. Vì lợi nhuận mà quân viễn chinh đi không bao giờ trở lại. Vì lợi nhuận mà bao gia đình tan nát. Vì kiêu ngạo dân tộc này tự nhận văn minh hơn dân tộc nọ. Chủ thuyết này tìm cách triệt tiêu chủ thuyết kia. Lối sống này đòi lãnh đạo lối sống nọ. Nguồn gốc chiến tranh bắt nguồn từ lòng người. Không vì lợi nhuận thì cũng sanh bởi kiêu ngạo hoặc do ích kỉ mà ra. Chối bỏ ơn Chúa, cá nhân tự chuốc hoạ cho gia đình, lãnh đạo chuốc hoạ cho dân tộc.
Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. (Ga 15,5)
Lưới tình
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra các loại tình khác đến từ con người. Sản phẩm con người sáng chế ra thường bất toàn. Tình yêu con người mặc cho cũng bất toàn nên kết quả của các cuộc tình đó cũng bất toàn. Tệ nhất là quái thai tình yêu. Quái thai tình yêu do gian tà, đội lốt và giả tạo sanh ra. Mặt ngoài là tình yêu. Vỏ trông giống tình yêu nhưng sau lớp son tô, phấn điểm là gian tà, ngụy biện và lạm dụng.
Là quái thai thời đại nên phải che đậy bằng mỹ từ, đánh bóng, tuyên truyền, tẩy não. Ai phanh phui sự thật bị liệt vào tội phản bội. Phản bội bị khai trừ. Bắt người khác yêu như họ yêu, nói như họ nói, nhận xét như họ nhận xét.
Trung thành với tình người hay phản bội tình người cả hai đều đau khổ. Kẻ phản bội sống phận hèn tôi tớ, trọn kiếp đoạ đầy. Nặng thì đầy rừng thiêng nước độc, nhẹ ở nhà sống ngày đói, đêm khát. Trung thành góp phần làm băng hoại xã hội. Vì cơm, áo, tư lợi, người dối người, lừa gạt, bỏ tù người. Vật chất trọng hơn tình người. Miệng lưỡi để lừa gạt. Kêu gọi đấu tranh, khích lệ hy sinh, hiến thân cho lí tưởng lường gạt.
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra không có mối tình nào tuyệt hảo.
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong PS6-B123
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giêsu giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giêsu (14,15.21.25; 15,10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gioan thì Đức Giêsu hình như đang đề cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giêsu với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “… Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tới điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15,12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giêsu vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22,36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giêsu sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14,23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn của Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giêsu nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ động. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giêsu khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đọc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta - nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vậy thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giêsu từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. Amen.
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy PS6-B124
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu. Chúa Giêsu đã nâng các tông đồ lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực. Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ. Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành. Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên. Vậy lý do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này? Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15, 15). Chúa Giêsu đã không dấu điều gì. Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng”.
Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng”? Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa. Chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy. Trò lại được gọi là bạn hữu. Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu. Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trước, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả. Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy”(Ga 15,10). Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ mà không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 15,17).
Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12). Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài. Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả. Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê. Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực? Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi? Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.
Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng. Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu”(Ga 15,13). Đức Giêsu đã cho đến tận cùng. Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người. Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản và hay thay đổi của con người. Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người. Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời. Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao? Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao? Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn. Và lòng biết ơn đó là gì? Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”(Ga 15, 16). Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” và “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ. Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với tất cả điều này, người Ki tô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi. Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:
- Hãy biến những trìu tượng thành thực tế; - Hãy hiện thực hóa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;
- Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;
- Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.
Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU. Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau. Và đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa. Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.
Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.
Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời. Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chúng con và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng PS6-B125
Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.
Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3, 16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.
Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.
Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.
Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10)
Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)
Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tức là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chờ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Tình yêu là cái gì thật khó nói, khó diễn tả, nhưng nó lại kỳ diệu đến nỗi ai cũng cần tình yêu. PS6-B126
Tình yêu là cái gì thật khó nói, khó diễn tả, nhưng nó lại kỳ diệu đến nỗi ai cũng cần tình yêu. Quả vậy, tình yêu làm nên những điều vô cùng quý giá, làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu, và thực hiện tình yêu.Thánh Gioan đã định nghĩa “ Thiên Chúa là Tình Yêu “.
Tình yêu huyền nhiệm nhưng cũng đầy năng lực đã khiến biết bao nhiêu người hy sinh, quảng đại chăm lo cho những người bất hạnh, nhưng người nghèo, những người già cả, neo đơn. Tình yêu đã thúc đẩy nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhóm, cá nhân đầy lòng từ tâm, nhân đạo, đã làm những việc tử tế, những việc bác ái yêu thương để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, những kẻ tât nguyền, những bệnh nhân tâm thần, cùi hủi vv…Nhiều con tim đầy yêu thương đã cùng hòa nhịp với Đức Giêsu Kitô, đã mau mắn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Người :” …Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu “ ( Ga 15, 12 ).
Vâng, từ khi Thiên Chúa sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để sống cho, sống với, sống vì nhân loại thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người thật gần gũi, Ngài coi mọi người như con cái, như bạn hữu thân tình. Tình yêu ấy đã giúp con người, nhân loại hiểu được mối thâm sâu mà Thiên Chúa Cha đã mặc khải :” Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết “ (Ga 15,15 ). Thiên Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con đã mặc khải sự thực, tỏ lộ mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chính Đức Giêsu vén mở để nhân loại, để chúng ta được biết Cha của Người. Chúa Giêsu đã yêu nhân loại, yêu con người, yêu chúng ta đến cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu tự hiến, nhưng không, tình yêu không giới hạn, không mức độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thực ra,tình yêu nối kết chúng ta với Chúa Cha, với Chúa Giêsu, nên nó cũng thôi thúc chúng ta phải yêu thương nhau. Tuy vẫn biết chúng ta khó lòng thực thi tình yêu như Chúa đã yêu ta, tuy nhiên chúng ta vẫn được thôi thúc, vẫn được mời gọi để noi gương bắt Chúa, thực hành yêu như Chúa yêu.
Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly đã để lại cho chúng ta gương tình yêu tuyệt đỉnh, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nêu gương yêu thương và phục vụ cao vời, Ngài mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu như Ngài, đã phục vụ, đã khiêm nhượng như Ngài.
Nhiều Vị Thánh đã sống hết mình vì người nghèo, đã hy sinh quảng đại, từ tâm vì những người đau khổ, nhiều nhà truyền giáo cũng đã sống hết mình vì người nghèo. Thế giới đang cần tình yêu đích thực. Chúng ta phải là chứng nhân sống động cho tình yêu đích thực. Thế giới hôm nay cần những chứng nhân hơn là những người nói giỏi mà không thực hiện điều mình đã nói. Chết như Đức Kitô để gánh tội cho tha nhân, chúng ta đã không có cơ hội, đã không có dịp nhưng sống cho kẻ khác, chúng ta có rất nhiều dịp. Chúng ta hy sinh âm thầm giúp đỡ, cầu nguyện cho những người đang gặp thử thách. Chúng ta quảng đại, giúp đỡ vật chất, tiền của cho những người đang gặp khó khăn để họ vượt thắng, và can đảm tiếp tục sống là chúng ta đang thực hiện điều Chúa mởi gọi:”: Hãy yêu như Thầy đã yêu “ , yêu cho tới cùng và yêu cho tới chết.
Tình yêu không dành riêng cho một ai, nhưng dành cho tất cả mọi người. Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều nhưng chúng con đáp lại tình yêu vô biên của Chúa chẳng là bao.Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng để chúng con luôn biết noi gương Chúa mà yêu tha nhân như Chúa đã yêu.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Yêu là gì ? Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện thế nào ? Chết vì yêu là sao ? Tại sao lại gọi tình yêu không mức độ ? Yêu như Thầy yêu là sao ? --------------------------------
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại những hoạt động của Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ và những PS6-B127
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại những hoạt động của Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ và những Kitô hữu đầu tiên. Đó chính là hành động của Thiên Chúa trong chúng ta, và nhắc cho chúng ta nhớ lúc Giáo hội sơ khai còn non yếu, nhờ Lời Chúa Giêsu hứa trước khi Ngài về trời: "Còn anh em, hãy… cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24:49)
Lời Chúa Giêsu hứa không phải là chút an ủi cho các Môn đệ trước khi Ngài ra đi. Hay để hướng dẫn cho các ông cách thực hiện những điều Ngài đã dạy bảo. Nhưng đây chính là lời hứa là Ngài sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến với các Môn đệ. Và trong khi các ông đang tề tựu bên nhau (Cv 2:1), Chúa Thánh Thần đã ngự xuống như "lưỡi lửa" và như "tiếng gió mạnh ùa vào". Các Môn đệ và cả chúng ta nữa, cần sức mạnh ấy để rao giảng Nước Trời cho toàn dân thiên hạ. Thần lực của Chúa Thánh Thần là động lực thúc đẩy Giáo Hội đi khắp thế gian để rao giảng và làm phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về việc Chúa Thánh Thần dẫn đưa Phêrô đến để nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi dân ngoại. Co-nê-li-ô là một đại đội trưởng một cơ đội của Sê-Da. Ông và cả gia đình đều được coi như là những "người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa". Họ chấp nhận đạo đức và tín ngưỡng của người Do Thái, và có lẽ họ cũng đã đến đền thờ Do Thái. Dù vậy, Co-nê-li-ô vẫn còn là người ngoại, nên Phêrô và các người khác trong cộng đòan không nghĩ ông và gia đình ông được ơn cứu rỗi của Chúa. Nên nhớ: sau khi Chúa Giêsu về trời, các Môn đệ Ngài vẫn còn là một nhóm trong cộng đòan Do Thái.
Nhưng, đoạn trước bài đọc hôm nay, ghi lại Co-nê-li-ô có thị kiến: ”một thiên sứ của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn, cũng gọi là Phê-rô" (Cv 10:5). Phê-rô cũng có thị kiến trong cùng giờ đó (Cv 10:19). Vì thế, khi có hai người của Co-nê-li-ô đến nhà Phê-rô để mời ông, Phê-rô nhận lời ngay. Làm thế nào Phê-rô khẳng định được đó là ý Chúa qua hai thị kiến: một cho Co-nê-li-ô, và một cho Phê-rô là tiếp nhận người ngoại vào cộng đoàn Môn đệ Chúa Giêsu. Bằng chứng là khi Phê-rô đến nhà Co-nê-li-ô gặp ông và cả gia đình đạo đức của ông, thì Chúa Thánh Linh xuất hiện và “Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa" (Cv 10:44)
Hãy thử xem lại câu chuyện: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa. Và Thánh Thần không chỉ ở trong Phụng vụ và Giáo hội; Thánh Luca diễn tả Chúa Thánh Thần trong lễ Hiện Xuống như "tiếng gió mạnh ùa vào…và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa" (Cv 2: 1-3); Mà Ngài còn xuất hiện bất kỳ nơi nào, như gió và lửa.
Hôm nay, trong Phụng vụ Lời Chúa, khi được đọc lên trong cộng đòan, sách Công Vụ Tông Đồ nhắc cho chúng ta việc Thánh Thần ngự xuống giữa chúng ta và trong lòng chúng ta như "lửa" và "gió mạnh" để thổi nguồn sống mới, đem sức mạnh đức tin cho chúng ta. Và Thánh Thần Chúa làm cho chúng ta, cũng như các Kitô hữu lúc ban sơ, đủ quyết tâm ra đi rao giảng về Chúa Giêsu Kitô cho toàn thế giới trong kế hoạch lớn của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cộng tác với Ngài để thực hiện.
Chúng ta hãy mở lòng trí để lãnh nhận Lời Chúa và Thánh Thần. Nếu khi xưa Thánh Thần Thiên Chúa đã mở lòng trí Phê-rô và Giáo Hội sơ khai biết đón nhận người ngoại vào cộng đoàn, thì biết đâu Thánh Thần Chúa cũng sẽ làm những điều lạ trong thế giới và Giáo Hội nhỏ bé hôm nay.
Sáng nay, báo chí đăng tin Tổ chức Y Tế Quốc Tế loan tin quan trọng là dịch cúm heo đang lan tràn khắp trái đất. Nhiều quốc gia đã tìm cách ngăn ngừa bệnh cúm cho công dân họ. Khi nạn dịch xảy ra, sẽ có nhiều người bị bệnh, vậy ý Chúa như thế nào trong trường hợp này? Cũng như, mỗi khi có những biến cố lớn xảy ra như động đất, sóng thần, hạn hán v.v..., thì chúng ta thường gọi đó là việc của Chúa. Chúng ta thường gán cho Chúa mỗi khi có những chuyện xấu xảy ra. Thử hỏi có phải chính Chúa đã gởi đến những cơn bão lớn tàn phá bang Texas, và gây tử vong nhiều người không? Có phải Chúa đã xử dụng quyền năng của Ngài như vậy chăng?
Theo đức tin, tôi biết Thiên Chúa chỉ có một việc làm là: Ngài đã xuống trần gian, làm người như chúng ta, cam nhận đau khổ và cái chết. Và rồi Ngài sống lại, đem đến cho chúng ta một đời sống mới. Phúc âm có nói đến hành vi lớn lao của Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình."(Ga 15,13) Chúa Giêsu đã làm điều này cho chúng ta. Hành vi yêu thương này mới là "Việc Chúa Làm".
Chúng ta không đến nhà thờ cầu nguyện để làm đẹp lòng Chúa, hầu được Chúa thương và giúp đỡ. Cũng không nài van để được Ngài đoái đến. Chính đời sống, sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu là tin mừng lớn mà chúng ta lại được nghe hôm nay. Đó là Chúa đã thương chúng ta. Không vì chúng ta thương Ngài trước rồi Chúa mới đáp lại. Mà vì Chúa đã thương chúng ta trước nhất. Nếu chúng ta còn do dự thì hãy nhìn vào Chúa Giêsu: Ngài đã chứng tỏ tình yêu đó quá rõ ràng, do vậy, chúng ta phải làm gì để chứng tỏ là chúng ta đã nghe lời đó. Phải thay đổi cuộc sống như thế nào để đáp lại tình thương mà Ngài đã ban cho chúng ta một cách nhưng không? Khi một người đang yêu, chúng ta thấy họ có sự thay đổi: Người đó vui vẻ hơn, kiên nhẫn hơn và dịu dàng hơn v.v.. nổi bật lên một cách tự nhiên không gượng ép. Vậy nơi chúng ta; trong tình Chúa yêu thương; đã nỗi bật được những đức tính gì?
Hôm nay, khi chúng ta thưa "lạy Chúa Giêsu, vậy con phải làm gì để chứng tỏ tình Chúa yêu thương chúng con"? Ngài sẽ trả lời: "hãy giữ giới răn của Thầy". Ắt chúng ta sẽ nghĩ ngay đến 10 điều răn, và tự xét mình xem có vấp phạm ở giới răn nào không? Tôi đã làm trái điều gì? Nhưng Chúa Giêsu không xét đến 10 điều răn ấy, coi xem chúng ta có vấp phạm hay thiếu sót không. Nhưng trái lại, Ngài nói đến một điều răn tích cực hơn là "hãy thương yêu nhau". Đó là giới răn đáp ứng được nhiều khía cạnh, tạo nhiều dịp cho chúng ta có thể thực hành những gì chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa một tình yêu vô điều kiện.
Nếu không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình, thì tôi có thể đáp lại giới răn của Chúa Giêsu bằng cách tự xét mình xem: Tôi phải hy sinh cái gì của cuộc sống tôi cho tha nhân? Bỏ đi: tính kỳ thị, tránh né việc giúp đỡ tha nhân, sự giận hờn, ganh tị với người khác, những điều cáo gian, thâu vén của cải vật chất v.v..? Chúa Giêsu không hề đưa danh sách các điều răn để chúng ta xét rồi tự nói "đây, tôi đã phạm điều này". Trái lại, Ngài cho một điều răn tổng quát là "hãy thương yêu tha nhân như Thầy đã thương con". Thử hỏi chúng ta có bảo đảm được rằng đã giữ được điều răn đó chưa? hay dám nói: "tôi tự xét là đã làm được điều này rồi" - Không? Sự đòi hỏi của tình yêu là vô cùng. Không người bạn đời nào trong chúng ta có thể nói: "Đây, tôi yêu mình như thế là quá đủ rồi, không thể đòi hỏi hơn được nữa"? Tình yêu là ngọn lửa cháy trong lòng chúng ta, làm chúng ta luôn khao khát được thương yêu nhiều hơn và không có quy ước định lượng thông thường. Do vậy chúng ta cần có Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đón nhận tình yêu Chúa và luôn khao khát triển nở tình yêu ấy đến cho tha nhân.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta có cuộc sống cứ phải cực khổ cố gắng làm mọi sự cho đúng như một nô lệ, vì sợ bị phạt nếu chúng ta vấp phạm. Ngài gọi chúng ta là "bạn hữu". Tình bằng hữu này không phải là loại tình cảm yếu đuối, hẹp hòi, thiếu sự nâng đỡ, phát sinh tiêu cực, nhằm thỏa mãn dục tính. Mà là tình bạn hai chiều, thương yêu và kính trọng nhau. Giúp mở rộng tầm nhìn và những vận hội mới, những sáng tạo mới, nâng đỡ khi chúng ta cần. Nó đưa chúng ta về cuộc sống đời thường, giúp chúng ta thoát ra khỏi chính mình khi tâm hồn đã khép kín, kéo chúng ta thoát khỏi sự chán nản, đối thoại trong những lúc trao đổi tâm tình, và tình bằng hữu đó đã mở ra cho chúng ta một thế giới mới trong cuộc sống.
Chúng ta đã là bạn hữu của Chúa Giêsu. Nhờ Ngài đã mời: "Thầy gọi anh em là bạn hữu". Nhờ Thánh Linh Ngài, chúng ta có thể làm việc như bạn của Ngài và mổi ngày nên giống Ngài hơn. Hay, như Lời Chúa hôm nay, vì là bạn hữu của Chúa, chúng ta "sẽ sinh được hoa trái, và hoa trái sẽ tồn tại". Trong Tiệc Thánh hôm nay, chúng ta hãy mời Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta cách chết đi những mặt nào trong đời sống để cuộc sống của chúng ta trổ sinh hoa trái mới, hầu làm Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết thương yêu nhau, xin giúp chúng con sống tình thương ấy để mọi người biết chúng con là bạn của Chúa."
Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa PS6-B128 Dalat
Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.
1) Tình yêu không biên giới
Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 - 10; Ga 15,9 - 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.
Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là : Thiên Chúa và tình yêu của Người.
Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta : “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: "Như Thầy đã yêu mến các con".
Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui : “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.
Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài : Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!
2) Tên mới của các môn đệ là : BẠN
Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định : “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn” : “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).
Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu : “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta : “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.
3) Tình yêu hỗ tương : tình bạn
Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.
Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả : tình yêu được sinh ra bởi đức tin.
Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.
Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều : hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).
Tất cả có thể tóm gọn trong từ : “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.
Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa : “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa : yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.
Yêu như Chúa đã yêu là một đòi hỏi của Tin Mừng . Do đó, những môn đệ của Chúa luôn phải suy PS6-B129
Yêu như Chúa đã yêu là một đòi hỏi của Tin Mừng . Do đó, những môn đệ của Chúa luôn phải suy nghĩ, học đòi, noi gương Chúa sống yêu thương. Thực tế, đã có những người chỉ bo bo, ích kỷ lo cho mình, cho gia đình mình, nhưng bên cạnh đó lại có không biết bao người đã có tấm lòng quảng đại, từ tâm đối với anh em đồng loại, đặc biệt là những người nghèo, những người bơ vơ, vất vưởng, những người bất hạnh.Và đó là những con người đã có trái tim, có tấm lòng như Chúa, đã biết trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của kẻ khác, đã biết lắng nghe và thực hành lời mời gọi của Chúa :” Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con “ (Ga 15, 12 ).
Xuyên suốt Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta bắt gặp một Chúa Giêsu đầy lòng nhân từ. Ngài cảm thông với mọi hạng người trong xã hội, Ngài đến với những kẻ tội lỗi, Ngài đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ bần cùng. Ngài chữa lành những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Đọc Tin Mừng, chúng ta nhìn thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân nghĩa, một Thiên Chúa thứ tha, một Thiên Chúa yêu thương đến tột cùng, đến chết. Ngài tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Ngài thứ tha cho kẻ trộm lành. Ngài yêu thương con người, yêu thương bạn bè, Ngài đã cho Lagiarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Chúa đã làm cho con bà góa thành Naim sống lại khi người ta đang khiêng cậu con trai của bà góa đi chôn. Chúa Giêsu đã luôn để ý tới nhu cầu của đám đông, của nhóm người, của từng người. Tình thương của Người vô biên, không biên giới, không giới hạn vv…” Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết “ ( Ga 15, 15 ). Tình yêu của Chúa đã đi tới chỗ tuyệt đỉnh, đã đi tới cùng :” Người đã yêu thương họ đến cùng “ ( Ga 13, 1 ).
Nên, Chúa Giêsu muốn con người cũng phải có thái độ, có tình yêu đối với nhau như Ngài đã yêu, đã đối xử đối với mỗi người chúng ta. Tình yêu của Chúa là tình yêu tận hiến, tình yêu vô vị lợi :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Gạ, 13 ).
Tình yêu của Chúa đến từ Thiên Chúa Cha, tình yêu này luân chuyển từ Ngài đến mỗi người và giữa con người với con người :” Các con hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con “ ( Ga 15, 12 ).
Thiên Chúa là tình yêu. Người môn đệ Chúa cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Chúa. Do đó, thánh Gioan đã viết Tin Mừng thứ tư để chia sẻ cảm nghiệm tình yêu của Chúa. Bản chất của tình yêu là chia sẻ, dâng hiến và trao tặng. Nhìn vào Chúa Giêsu cúi mình rửa chân cho các môn đệ, chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu chết treo trên thập giá, chúng ta sẽ nhận ra tình yêu tận hiến của Chúa là thế nào! Nhìn gương Đức Mẹ, thánh cả Giuse, các thánh, đặc biệt những vị thánh sống gần gũi chúng ta như thánh Maximilianô Kolbê, Chân phước Têrêsa Calcutta, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu…Chúng ta sẽ nhận ra sống như Chúa đã yêu phải làm sao ! Yêu như Thầy đã yêu là yêu cho đến cùng và chết trên thập giá.
Chúng ta đang sống trong một thế giới với đà văn minh phát triển tột bực. Con người nhiều khi chạy theo công nghệ,chạy theo thời gian, chạy theo những tiến bộ khoa học, tìm lợi nhuận, tìm hư danh, tìm những của chóng qua…Những con người này nhiều khi trở nên chai đá, thiếu cảm thông, thiếu lòng nhân từ. Giữa sa mạc khô cằn của cuộc đời. Một nụ cười, một ánh mắt cảm thông sẽ nâng đỡ, vực dậy con người. Người môn đệ của Chúa phải làm chứng cho Chúa qua cuộc sống bác ái của mình. Yêu như Thầy đã yêu là chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Một cử chỉ bác ái, một hành động yêu thương là chúng ta đang tập sống như Chúa đã yêu. ] Linh mục Duvillaret viết :” Tình yêu Chúa mang đến cho chúng con và Chúa muốn chúng con làm đầy con tim chúng con, không phải là một tình yêu nhân loại nghèo nàn và mỏng dòn, đây là một tình yêu thần linh, đây chính là tình yêu mà Chúa lãnh nhận từ Chúa Cha :” Thầy yêu các con như Cha Thầy yêu Thầy ! Chính là tình yêu mà Thầy nhận từ Cha Thầy mà Thầy đến chia sẻ với các con “. Chúng ta không cần phải cố gắng bắt chước tình yêu vô biên đó, nó kết hiệp Cha với Con và với Thánh Thần.Chúng ta chỉ cần mở tay, mở lòng chúng ta ra, và đón lấy tình yêu đến từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng con để chúng con luôn cảm thấy hạnh phúc khi chúng con có dịp gặp gỡ anh chị em chúng con.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Chúa nhắn nhủ các môn đệ những gì ? 2.Chúa hứa với các môn đệ điều gì ? 3.Đấng phù trợ là ai ? 4.Tại sao Chúa Giêsu lại được gọi là Đấng chữa lành ?
--------------------------------
PS6-B130: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Bài Phúc Âm hôm nay vạch ra cho chúng ta định hướng của tình yêu đích thực. Nói yêu thôi chưa PS6-B130
Bài Phúc Âm hôm nay vạch ra cho chúng ta định hướng của tình yêu đích thực. Nói yêu thôi chưa đủ mà là phải yêu như thế nào.
Định hướng tình yêu mà Chúa Giêsu đề nghị chúng ta là: “Thầy đã yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Cha Thầy đã yêu thương Thầy và anh em cũng phải yêu thương nhau bằng chính tình yêu mà Thầy đã yêu thương anh em”.
Nguồn mạch của tất cả tình yêu là tình yêu của Chúa Cha trên trời. Chúa Cha chỉ tồn tại trong ân ban mà Người đã làm cho Chúa Con từ đời đời và cho đến muôn đời. Người là ân ban, Người không có thể làm gì khác hơn là cho đi.
- Chúa Cha chỉ sống để mà tự hiến cho Chúa Con. Chúa Cha không để thời gian trôi qua để nhìn ngắm mình trong gương.
- Chúa Cha tự trao ban cho Chúa Con từ thuở đời đời với một niềm vui không thể phai mờ được để chiêm ngắm Chúa Con Yêu Quí mà Người đã sinh ra. Như nguồn nước chảy đi không giữ lại gì cho mình và cũng chẳng tính toán gì, đồng thời cũng chẳng đề phòng cho những ngày tháng khô cạn, Chúa Cha là tất cả ân ban từ chính mình vô vị lợi: “Con ơi!.. tất cả những gì thuộc về cha đều là của con”.
Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có ý thức rằng tình Cha của Thiên Chúa là một tình yêu vô bờ bến không? Trong khi học hoặc dạy giáo lý, chúng ta rất thường nói về tình yêu của Chúa Kitô đối với chúng ta mà không nhấn mạnh chính nguồn mạch tình yêu này là Chúa Cha . Nên nhớ rằng Chúa Kitô đã không một mình thực hiện công cuộc cứu chuộc vĩ đại.
Câu nói: Như Cha đã yêu Thầy, phần Thầy, Thầy cũng yêu anh em”, nên được hiểu thế này thì rõ hơn: “Thầy đã yêu anh em bằng chính tình yêu mà Cha Thầy đã yêu Thầy từ đời đời và trong suốt cuộc sống trần thế của Thầy”.
Suốt cuộc đời trao ban của Chúa Kitô là dấu chỉ mà Chúa Kitô đã sống tình yêu chính xác như là Chúa Cha đã sống.
- Cuộc đời nghèo khó và tự huỷ của Người cho tới năm 33 tuổi, và cuộc đời ẩn dật tại Nagiaret phải chăng không mặc khải sự kín đáo của Chúa Cha sao?
- Tương quan tình yêu của Người đối với các môn đệ thắm thiết đến nỗi Người không coi họ như là cấp dưới nhưng là bạn hữu, và cử chỉ rửa chân cho các ông phải chăng không là hình ảnh khiêm nhường và đơn sơ của Chúa Cha sao?
- Hình ảnh Chúa Cha bế xác Chúa Con chết phải chăng không là biểu tưởng tấm lòng quảng đại của một tình yêu trao ban hay sao? Maurice Zundel nói: “Thập giá Chúa Giêsu, chính là tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa giang cánh tay hướng về chúng ta”. Liệu chúng ta có thể khám phá ra cách thế Thiên Chúa yêu qua các cử chỉ hoặc hành động mà Chúa Kitô đã thực hiện khi Người sống ở trần gian không? Chỉ mình Người biết yêu đích thực và chỉ mình Người có thể dạy chúng ta biết cách yêu.
Khi làm người, Chúa Kitô cho phép tất cả chúng ta là anh em của Người bám vào bản tính nhân loại của Người. Thật vậy, nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được ghép vào Chúa Kitô, và khi đó đời sống và tình yêu của Thiên Chúa được ban cho chúng ta.
Tình yêu này không phải là một nhân đức đơn giản được rót vào trong chúng ta, nhưng là một ngôi vị, là chính Chúa Thánh Thần, Tình Yêu tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhờ Chúa Thánh Thần, nhựa sống thần linh tuôn tràn để chúng ta trở thành cành nho sống động và xanh tươi.
Mỗi bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể nối kết trực tiếp chúng ta với Thiên Chúa. Bí tích giao hoà lau sạch hệ thống ống dẫn bị tắc nghẽn do tội lỗi.
Nếu tình yêu của chúng ta bám chặt vào tình yêu của Chúa Kitô, thì tất cả những người mà chúng ta yêu mến sẽ được biến đổi và sống động nhờ tình yêu của Chúa Kitô.
Danh xưng kitô hữu thôi chưa đủ, mà còn phải có nhiệm vụ tưới tắm cho gia đình của mình bằng cách yêu mến đến nỗi tha thứ và trao ban mạng sống cho đến hơi thở cuối cùng như Chúa kitô .
- Người kitô còn phải có trách nhiệm tưới tắm cho bạn hữu mình bằng cách hiện diện với họ trong mọi hoàn cảnh khó khăn và nếu cần sửa chữa khuyết điểm của họ với tinh thần bác ái.
- Người kitô cần phải tưới tắm cho nơi làm việc của mình, bằng cách không bao giờ chấp nhận sự gian dối dù là nhỏ bé trong một xã hội mà mọi giá trị luân lý hầu như đã bị băng hoại và người kitô cần phải thắp sáng lên các giá trị tin mừng.
- Người kitô cần phải tưới tắm cho họ đạo và giáo xứ của mình bằng cách trở nên những người có trách nhiệm nối kết và hiệp nhất.
- Người kitô cần phải tưới tắm cho mảnh đất mình đang sống bằng lời cầu nguyện để mảnh đất đó không còn nghèo đói vật chất cũng như tinh thần.
Chúng ta chỉ có thể trở nên nguồn nước giải khát cho anh chị em chúng ta nếu chúng ta biết trở về với nguồn nước thần linh của Tình Yêu Thiên Chúa.
Thánh nữ Têrêsa Lisieux nói: “Lạy Chúa Giêsu, để yêu như Chúa yêu con, con phải vay mượn tình yêu của Chúa, lúc đó con mới có thể bình an được. Chúa biết rõ con không bao giờ có thể yêu chị em con như Chúa yêu, nếu tình yêu của Chúa không ở trong con. Vâng con biết điều đó. Khi con có khả năng yêu thương, chính là lúc Chúa hoạt động trong con”.
Linh mục Ga Đặng Văn Nghĩa
--------------------------------
PS6-B131: ĐẾN NGUỒN TÌNH YÊU VÀ RA ĐI VỚI TÌNH YÊU
Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17
Sau thế chiến lần thứ II, Nước Pháp có nhiều người vô gia cư, ăn xin các nơi… Cha Pierre (Abbé PS6-B131
Sau thế chiến lần thứ II, Nước Pháp có nhiều người vô gia cư, ăn xin các nơi… Cha Pierre (Abbé Pierre) giúp họ có công ăn việc làm, tìm chỗ ở…
Mùa thu 1949, cha Pierre đã cứu thoát Georges, một người đang cô đơn và thất vọng sau 20 năm tù khỏi ý định tự tử. Cha đề nghị anh về ở với mình để, cùng nhau, xây dựng nơi tạm trú cho những người bất hạnh khác. Từ đó, Cộng đoàn Emmaus ra đời và căn nhà nơi Cha trú ngụ biến thành trung tâm Emmaus đầu tiên.
Mùa đông buốt giá 1954 tại Pháp, lạnh đến 20 độ âm, Cha Pierre đã lên tiếng trên Radio Luxembourg báo động : ‘xin mọi người hay giúp đở vì một người đàn bà vừa chết cóng lúc 3 giờ sáng nay trên vỉa hè đại lộ Sépastopol, tay còn cầm án lệnh tòa cho phép trục xuất khỏi nhà… Để thảm trạng không tái diễn, từ đêm nay, những nhà có treo bảng ‘Trung tâm huynh đệ khẩn cấp’, các bạn đau khổ hãy vào đó ăn uống và ngủ nghỉ, tìm lại niềm hy vọng…
Trong 20 phút sau, người ta lần lượt kéo đến khách sạn Rochester, kệ nệ áo quần, chăn mền, trao các chi phiếu lẫn nữ trang… để cứu trợ.
Chiều đó, Cha lại lên tiếng kêu gọi các tình nguyện viên để chở những người bất hạnh đến nơi mà các lều vừa dựng lên hầu không một người lớn lẫn trẻ em phải ngủ trên vỉa hè qua đêm giá lạnh. Đúng 21 giờ như đã định, khoảng 500 xe cộ mới củ, tốt xấu đã có mặt để chở người vô gia cư, dưới sự điều khiển của Abbé Pierre. Từ đó, Cha đã là hình ảnh một ‘Linh mục bác ái chăm lo cho người vô gia cư’ trong lòng dân Pháp…
Đầu mùa đông bất thường đó, dựa vào các dự đoán khí tượng, Cha Pierre đã đề nghị Quốc hội biểu quyết một ngân khoản một tỉ francs để lo xây nhà cho người vô gia cư nhưng các dân biểu đã bác bỏ. Thế nhưng chỉ ba tuần sau, chính họ đã phải thông qua ngân khoản 10 tỉ để xây cất ngay 12.000 căn nhà cho người bất hạnh…
Và cứ thế, cha giúp đỡ anh chị em bất hạnh đầu đường xó chợ có công ăn việc làm để mưu sinh. Giúp các thanh niên lầm lỡ hội nhập… Các cuộc thăm dò dư luận quần chúng của Viện thăm dò dư luận quần chúng Pháp (Institut francais d'opinion publique) cho thấy Cha Pierre là người được dân chúng Pháp yêu thích nhất liên tục trong 17 năm liền, từ năm 1989 tới 2003, đến nỗi tới năm 2004 Cha phải xin rút lui, để nhường cho những người khác.
Khi người ta hỏi Cha Pierre : nếu mai đây ngài mất đi, người ta nên ghi lại điều gì về cuộc đời ngài. Cha trả lời liền không ngần ngại: “Xin đề trên mộ tôi câu nầy: nơi đây yên nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương”. Sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh nhất như lệnh truyền của Chúa Giêsu : Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Cha Pierre, đã sống yêu thương, được nuôi dưỡng bởi tình yêu như lời mời gọi của Chúa Kitô dành cho những ai bước đi theo Ngài: “Hãy ở lại trong Tình thương của Thầy” (Ga 15,9c). Dịch sát theo nguyên tự Hy lạp là: "hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Thầy" (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I), nghĩa là "trong tình yêu Thầy dành cho anh em". Yêu Chúa Kitô, gắn bó với Ngài thúc đẩy theo mệnh lệnh của Ngài thực thi điều răn quan trọng nhất: “Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Tình yêu xuất phát từ nguồn - Thiên Chúa Cha như Thánh Gioan sau này đã định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,16a), một tình yêu vô tận và không ngừng trao ban:
- Từ Chúa Cha qua Chúa Con như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: như "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào" (Ga 15,9a). Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5)
- Rồi từ Chúa Con – Đức Giêsu đến môn đệ, như Ngài khẳng định: "Thầy cũng yêu mến anh em như vậy" (Ga 15,9b). Người môn sinh khám phá và chiêm nghiệm: “Hãy ở lại trong Tình thương của Thầy” (Ga 15,9c).
- Chính vì xuất phát nguồn từ nơi Thiên Chúa đến với nhau rồi lan ra giữa các môn đệ với nhau theo tiêu chuẩn mô phạm tình yêu của Thầy: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12). Ở lại trong tình yêu và trung tín với lệnh truyền yêu thương của Người, môn sinh sẽ được "tràn đầy niềm vui" vì "ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy" (1 Ga 4,16b).
Từ ngữ trung tâm của lời Chúa truyền là "tình yêu" (tiếng Hy lạp: agape), và tình yêu cũng là từ chìa khoá của chuyển động tuần hoàn vòng tròn, A.Marchadour đưa ra một nhận xét: “Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em” (Tin Mừng theo thánh Gioan Centurion, trang 202).
Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:
- Yêu như Chúa yêu: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,8.11). Tình yêu chia sẻ ấy đã được thánh Gioan tông đồ mô tả: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì, đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16), hãy yêu thương nhau như yêu như thầy chúng ta (x.Ga 15,12). Yêu tận cùng bằng hy sinh bản thân và cho đến chết.
- Yêu đến tận cùng như Chúa Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Ngài đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ như các tông đồ xác tín: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6.8; x. Ep 5,2; 1Ga 3,16). Thánh Gioan diễn giải “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Bằng việc làm cụ thể, đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết.
- Tình yêu phải được thể hiện trong việc làm như Chúa Giêsu truyền là: “… các con giữ điều răn của Thầy” như Thánh Gioan sau này diễn giải: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,16-17).
Theo lời Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong Tình thương của Thầy” (Ga 15,9), đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại và nhân loại trao cho nhau như Chúa Giêsu truyền, cho nên R.Tagore nói :
“Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu”
Vâng, tôi và bạn cùng tiến bước vào thế giới mang tâm tình:
“Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu” (William Blake).
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có rất nhiều chuyện kể về những người cha mẹ hay những PS6-B132
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có rất nhiều chuyện kể về những người cha mẹ hay những bậc tôn sư, trước khi nhắm mắt, muốn dặn dò con cái bằng những hình ảnh, những lời khuyên để mong họ hòa thuận, thành đạt. Những lời di chúc ấy luôn là tâm huyết của người sắp đi xa, gói trọn tình thương yêu trìu mến. Con cái ở lại, nhờ thực hiện những lời khuyên ấy, mà cảm thấy như cha mẹ vẫn hiện diện bên mình để yêu thương và phù trợ.
Những lời của Chúa Giêsu được đọc trong phụng vụ hôm nay là lời di chúc dành cho các môn đệ và cho tất cả những Kitô hữu. Đây là tâm tình thày trò trước lúc Chúa bước vào cuộc khổ nạn. Chúa lặp đi lặp lại nhiều lần: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thày”, “Anh em hãy yêu thương nhau”. “Ở lại trong tình thương của Chúa” và “Yêu thương nhau” là hai mặt của một tấm huân chương, là hai vấn đề liên kết có tính “lô-gíc” hướng chúng ta về Đấng cao cả và về phía tha nhân.
Trong xã hội hiện đại này, xem ra người ta lãng quên cả hai khía cạnh của lời di chúc đó. Một đàng, lời giáo huấn của Chúa ít được đón nhận và thực hành. Đàng khác, sự dửng dưng vô cảm đối với tha nhân càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Dựa trên những thông tin về bạo lực được đăng trên các trang tin điện tử, có người đã nhận định, người Việt mình bây giờ càng ngày càng hiếu chiến và thích đánh nhau. Giữa cảnh đất nước thanh bình mà huynh đệ tương tàn, làng xóm đổ máu. Trong 6 ngày nghỉ lễ dịp 30-4-2015 vừa qua, riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã có 300 ca đánh nhau phải nhập viện (x. Vnexpress ngày 3-5-2015). Còn nhớ trong dịp tết Ất Mùi trước đó, có trên 6000 ca đánh nhau bị thương, theo con số thống kê từ các bệnh viện. Rồi phải kể đến bạo lực trong gia đình, tại trường học, dẫn đến nhiều cái chết thương tâm. Lãng quên Thiên Chúa và coi thường tha nhân là cội rễ sinh ra mọi tội lỗi. Đức yêu thương mà Chúa Giêsu rao giảng hơn hai ngàn năm nay là chìa khóa của hạnh phúc, nhưng nhiều người đã khước từ.
Một khi chuyên tâm thực hiện lời dạy yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở thành “bạn hữu” của Người. “Anh em là bạn hữu của Thày, nếu anh em thực hành những điều Thày truyền dạy”. Thật là một vinh dự lạ lùng! Chúng ta là con người còn đầy yếu đuối và tội lỗi, lại có thể trở nên bạn hữu của Đấng Cứu thế. Quả vậy, một khi thực thi những giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương, thì chúng ta sẽ luôn có Chúa là người đồng hành, là người chia vui sẻ buồn, là người tâm huyết, gần gũi và thân tình. Khái niệm Chúa Giêsu là “bạn hữu” giúp chúng ta đi vào sự kết hợp bền chặt thâm sâu với Người, nhờ đó, chúng ta có sự bình an và niềm vui nội tâm, là nền tảng định hướng cho mọi suy tư và hành động trong cuộc sống hằng ngày.
Để lại cho các môn đệ lời dặn yêu thương, Đức Giêsu cũng đã ban cho Giáo Hội và thế giới Đấng chính là Tình Yêu Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần. Thánh Phêrô đã ngỡ ngàng khi thấy Chúa Thánh Thần cũng ngự xuống nơi những người chưa chịu phép Rửa. Chúa Thánh Thần là quà tặng Chúa ban cho cả thế giới, để canh tân vũ trụ và đổi mới lòng con người. Chúa Thánh Thần tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, làm cho vương quốc công chính sớm được thực hiện nơi trần gian. Những ai đón nhận Chúa Thánh Thần thì được Ngài soi sáng và dạy dỗ. Sự trường tồn và phát triển lớn mạnh của Giáo Hội trước bao sóng gió trần gian, là bằng chứng về hoạt động mạnh mẽ của Ngôi Ba Thiên Chúa (Bài đọc I).
Yêu thương là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vì chính Ngài đã yêu chúng ta trước (Bài đọc II). Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về đức yêu thương. Người đã hiến mạng sống mình trên thập giá vì yêu thương nhân loại và để đền tội cho chúng ta. Người tín hữu được Chúa sai vào lòng cuộc đời sống và loan truyền tình yêu thương cho tha nhân, đồng thời làm chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống. Vâng, Chúa đã chọn và đang cắt cử chúng ta vào cuộc sống xã hội còn đầy những khó khăn phức tạp, để hát lên niềm vui của Tin Mừng và để làm chứng Chúa đã phục sinh.
Biết ơn, cám ơn, không bao giờ là mơ hồ hay trừu tượng, đơn giản vì người nào mà chẳng từng được PS6-B133
Biết ơn, cám ơn, không bao giờ là mơ hồ hay trừu tượng, đơn giản vì người nào mà chẳng từng được yêu thương, được sống trong tình yêu của gia đình, quê hương đất nước. Để đọc, để nói lời biết ơn, để lập lại lời yêu thương, không khó; tuổi nào ta cũng thực hiện được, nhưng để sống tình yêu thương, người ta phải đủ khôn ngoan, đủ trưởng thành về quyết định của mình.
Để tạo nên ý chí thành công cho người trẻ, xã hội đã hô vang câu khẩu hiệu : với sức người, sỏi đá biến thành cơm; tiền nhân chúng ta thì quả quyết hơn : không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Hôm nay Chúa Giêsu thật nhẹ nhàng khi cho các học trò biết : “như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”. Bài học giúp người môn đệ theo Đức Giêsu, trước hết không cần dùng mưu hay vận dụng sức của mình, chỉ cần tin vào sự hiệp thông nơi tình yêu Ba Ngôi đang sống động trong tâm hồn mỗi người.
Nếu như loài chim tự hào vì sự di chuyển nhanh lẹ nhờ đôi cánh, chúng lại cần đến một bầu trời để tung bay; nếu loài cá có thể tung tăng bơi lội, chúng sẽ được niềm vui trọn vẹn hơn khi có một đại dương không ô nhiễm. Các môn đệ có Đức Giêsu làm chuẩn mực yêu thương, các ông sẽ thật hạnh phúc khi biết ở lại trong tình yêu của Thầy Giêsu, và các ông không còn phải mơ hồ sống lệnh truyền hãy “yêu thương nhau”.
Người ta có thể dựng nhà bằng nhiều vật liệu tùy theo điều kiện mỗi gia đình, nhưng xây nhà vững chắc không thể thiếu xi-măng gạch đá, sắt thép. Người ta có thể được gọi là Kitô hữu qua phép rửa, nhưng để trở nên môn đệ, nên người Tín hữu như lòng Chúa mong ước, nhất định phải có tương quan yêu thương với Chúa và tha nhân. Thánh sử Gioan nơi bài đọc 2 cho chúng ta kinh nghiệm : “Thiên Chúa là tình yêu, vì lẽ hễ ai thương yêu, thì sinh bởi Thiên Chúa”. Chúa Giêsu chính là nền tảng yêu thương, Ngài không muốn ta lẫn lộn tình yêu Thiên Chúa với tình yêu thế gian, vì thế Chúa nói : “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu như Thầy yêu là tình yêu trao ban, tình yêu vô vị lợi, tình yêu vượt trên sự chết.
Trong ca dao, cha ông ta diễn tả hình ảnh người con gái luôn ưu tư tới “tình yêu thương” với chồng, đã vậy, với bố mẹ chồng “tình yêu thương”còn cần hơn cả vật chất: chẳng tham nhà ngói ba tòa, tham vì một nỗi mẹ cha anh hiền. Trong Kitô giáo, hiền hậu, không gian tham, cũng chỉ là một phần nhỏ trước tinh thần bài giảng trên núi của Chúa; điều trọng tâm, là mỗi người biết ý thức và sống yêu thương như thế nào cho phù hợp với tình yêu mà ta đã nhận lãnh. Trong tương quan hiệp thông, Chúa Giêsu gợi ý cho ta mạnh dạn hơn, giúp ta tự tin sống yêu thương : “Thầy sẽ gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”.
Mỗi chúng ta ở đây, ai mà chẳng có kinh nghiệm như thế nào là tình yêu và như thế nào là hận thù; tình yêu luôn khơi lên trong tâm trí ta : yêu đời, yêu người, yêu mình, và rồi sống, và sống hạnh phúc hơn. Còn hận thù sẽ để lại sự chia rẽ, chán nản lo sợ bất an, khiến ta đau khổ và rồi phải chết, và chết đời đời. Vì tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Vì người Tín hữu tuân giữ lệnh truyền của Thầy Giêsu, nên chúng ta sẽ được lưu lại trong tình yêu của Thầy. Lời kêu gọi ở trong tình yêu của Thầy, không phải là lời gọi của kẻ đang yêu đầy tính “lãng mạn”, cũng không phải là lời phát biểu ở trong “thế giới ảo”, cao siêu, áp đặt riêng cho một vài cá nhân, mà cho tất cả mọi người mọi thời.
Tục ngữ có câu : nguồn đục thì giòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng. Cha mẹ được sánh ví là “cái gốc”, như “ngọn nguồn”, mà các thành viên gia đình đang nối tiếp, vì thế mà con cháu ta luôn cần đến gương sáng, cần tình yêu thật. Sống yêu thương là sống có trách nhiệm, là biết chia sẻ, biết khiêm tốn để được sửa chữa những cá tính xấu xa nơi con người mình. Sống yêu thương là sống lệnh truyền của Thầy Giêsu, là được trở nên môn đệ, là ở trong tình yêu thương Ba Ngôi, là diễm phúc được sống trong ơn gọi làm bạn hữu của Thầy Giêsu.
Dân tộc nào cũng lấy yêu thương làm trung tâm, tôn giáo nào cũng lưu ý các tín đồ về bài học yêu thương phục vụ; Đức Giêsu lấy mẫu mực tình yêu thương giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhắc nhớ chúng ta hãy hiệp nhất nên một trong tình yêu. Có sống yêu thương hiệp nhất, cuộc đời ta không cảm thấy mình phải cô đơn buồn chán. Có sống yêu thương, trí lòng ta chắc chắn sẽ được biến đổi và dễ dàng đón nhận nhau hơn; sống yêu thương, ta sẽ thấy rõ hơn nghĩa vụ và quyền lợi đối với đại gia đình Hội Thánh. Amen.
Có một cô gái đã chia tay với người yêu được 6 tháng, lý do là vì cô yêu người khác. Cô bỏ người PS6-B134
Có một cô gái đã chia tay với người yêu được 6 tháng, lý do là vì cô yêu người khác. Cô bỏ người yêu cô để chạy theo người cô yêu. Nhưng buồn thay người này rất đa tình, cô cũng chỉ là một trong những cô bạn gái của anh ta mà thôi! Cô trở thành nạn nhân bị người này lợi dụng như nhiều cô gái nhẹ dạ khác. Đến với người cô thương mà họ không thương chỉ làm cho cô đau khổ. Cô nuối tiếc vì mình đã bỏ rơi một người rất yêu cô để đi yêu một người không yêu mình, để rồi tình đơn phương chỉ làm cô đau khổ. Cô đã bỏ rơi người rất mực yêu cô để chạy theo người không yêu cô nên cô không bao giờ có niềm vui mà chỉ có buồn tủi, cô đơn.
Đôi khi chúng ta cũng nuối tiếc vì đã để lỡ một tình yêu. Một tình yêu đang đẹp nhưng chúng ta lại “đứng núi này trông núi kia” để rồi bỏ lại cái mình đang có chạy theo những ảo ảnh do mình tạo nên. Khi cuộc tình đã lỡ chúng ta mới nuối tiếc vì mình không trân trọng tình yêu đang có trong tay. Nuối tiếc thì đã muộn, làm sao ly đã vỡ lại có thể lành lại. Tình yêu không phải cứ muốn là được. Tình yêu phải vun đắp, phải xây dựng. Khi xa rời tình yêu là mình tự đập bỏ tình yêu thì làm sao xây dựng lại?
Có rất nhiều tình yêu nam nữ đang nồng nàn, đang đẹp đôi. Thế nhưng, vì tham tiền mà họ rời xa nhau. Vì danh vọng mà họ chia tay nhau để chay theo mối tình chỉ dựa trên đồng tiền, danh vọng, quyền lực. Sống với nhau không có tình yêu chỉ là một cuộc trao đổi thân xác để đổi lấy danh lợi thú mà thôi. Họ đã rời xa tình yêu chân thật thì làm sao họ có thể hạnh phúc trọn vẹn trong đời sống hôn nhân không có tình yêu.
Có rất nhiều bạn trẻ vì nông nổi chạy theo đam mê cuồng vọng mà rời xa tình yêu cha mẹ. Họ muốn tận hưởng giây phút tự do không có sự che chở của cha mẹ. Nhưng cuộc đời đâu dễ ban không cho họ hạnh phúc. Chỉ trong tình yêu cha mẹ mới ban phát nhưng không mà thôi! Thế nên, nhiều bạn trẻ khi rời xa gia đình mới nuối tiếc vì mình không ở lại trong tình yêu của gia đình nên bây giờ mới cô đơn giữa chợ đời.
Có rất nhiều người đã rời xa tình yêu của Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Họ nghĩ rằng không có Chúa họ vẫn sống. Rời xa Chúa để tự do hưởng lạc những thú vui trên đời. Họ nghĩ rằng sẽ hạnh phúc nếu không có Chúa trong cuộc đời của họ. Nhưng họ quên rằng Thiên Chúa không phải là cảnh sát chỉ có nhắc nhở, cấm đoán, mà Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn làm những điều tốt nhất cho người mình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa còn vượt lên trên tất cả tình yêu vì “dám chết cho người mình yêu”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trân trọng tình yêu mà chúng ta đang có. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa và tha nhân. Ở lại mời gọi chúng ta đừng phụ nghĩa vong ân với tình yêu mà Chúa cũng như mọi người dành cho chúng ta. Ở lại bằng việc trung thành tuân giữa giới răn Chúa cũng như chung thủy với người mình thương.
Ước gì chúng ta biết tuân giữ lời Chúa để tình Chúa mãi ở lại trong chúng ta. Ước gì chúng ta đừng xa rời tình yêu của cha mẹ, của bạn bè, người yêu chỉ vì ích kỷ của bản thân mà có lỗi với nhau. Xin Chúa giúp chúng ta biết trung thành với Chúa và với nhau qua việc tuân giữ giới răn của Người. Amen
Trong cuộc sống, mỗi người có thể có nhiều loại bạn : từ bạn học, bạn lối xóm đến bạn nhậu, PS6-B135
Trong cuộc sống, mỗi người có thể có nhiều loại bạn : từ bạn học, bạn lối xóm đến bạn nhậu, bạn làm ăn… nhưng bạn thân thì thường rất ít. Bạn thân là những người bạn có thể dễ dàng tâm sự, chia sẻ và hết lòng giúp đỡ nhau khi vui cũng như khi buồn. Trong văn học Việt Nam, người ta hay nhắc đến tình bạn của Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình đã hy sinh vợ con để giúp Dương Lễ được học hành thành đạt. Kinh Thánh thì kể về tình bạn của Nathan và Đavít, Nathan yêu Đavít như yêu chính bản thân mình. Anh không giành quyền nối ngôi vua cha, nhưng sẵn sàng nhường lại cho Đavít. Thánh Kinh cũng kể lại tình bạn giữa con người với Thiên Chúa qua câu chuyện của Apbraham và Mose. Họ được gọi là những người bạn của Thiên Chúa, vì họ đã sống hết mình với Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Nếu trong bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên sự gắn bó, thì hôm nay, Chúa diễn tả sự gắn bó ở một mức độ sâu hơn, thân tình hơn : Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Là bạn thân của nhau, cần phải có tình yêu chân thành dành cho nhau. Chúa Giêsu không muốn chúng ta chỉ là người bạn chung chung, mà phải trở thành bạn thân của Người. Bạn thân của Chúa là người ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu là đón nhận và đồng thời đáp lại tình yêu của Người, là luôn ở lại trong sự hiện diện, luôn có Chúa đồng hành, là thường xuyên chuyện trò thân mật với Chúa qua việc cầu nguyện. Ở lại trong tình yêu là còn là dám buông mình vào vòng tay của Thiên Chúa, là ngụp lặn trong tình thương của Ngài như người con buông mình trong vòng tay cha mẹ, như hai người yêu nhau ngụp lặn trong tình yêu của nhau.
Dấu hiệu để nhận ra bạn thân của Chúa là tuân giữ các điều răn của Ngài. Khi hai người yêu nhau, họ muốn đón nhận từng lời nói, cử chỉ của nhau ; người này đoán được ý của người kia để làm vui lòng nhau. Cũng vậy, một khi yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta không thể bỏ ngoài tai những giới răn lề luật của Chúa. Trái lại, chúng ta phải đón nhận những giáo huấn của Chúa và thực hành trong cuộc đời, vì những điều răn của Chúa không làm cho chúng ta trở thành nô lệ, nhưng giúp chúng ta trở nên con người hoàn thiện hơn, tinh tuyền và xứng đáng hơn trước mặt Chúa.
Điều răn Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành đó là : Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Chúa muốn những người bạn thân của Chúa cũng phải trở nên giống Chúa, đó là dám yêu thương anh em đến tận cùng. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu quảng đại, hy sinh. Ngài không hề tính toán hơn thiệt với chúng ta. Ngài chấp nhận từ bỏ địa vị Thiên Chúa để đến làm bạn với con người, ở với con người và chia sẻ những đau khổ, buồn vui của kiếp người. Làm bạn với con người, Chúa không tìm bất cứ một mối lợi nào, nhưng Ngài chấp nhận cúi xuống để rửa chân cho các bạn hữu, phục vụ họ như một tôi tớ phục vụ chủ. Làm bạn với con người, Chúa Giêsu không nỡ nhìn con người phải chết, Ngài đã chấp nhận chết thay cho con người bằng cái chết trên thập giá, để giải thoát con người khỏi tối tăm, trói buộc của ma quỷ, đem con người đến hạnh phúc đời đời. Một khi đã nhận con người làm bạn của mình, Chúa Giêsu còn chia sẻ vinh quang Nước Trời cho con người. Ngài chia sẻ phần gia sản của mình trên Nước Trời cho con người, thông truyền ý định của Thiên Chúa cho con người biết rằng : Con người được Thiên Chúa yêu thương.
Việc được làm bạn với Chúa Giêsu không phải do chúng ta dễ thương hay có công trạng gì, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương chúng ta. Vì đã chọn chúng ta nên Ngài làm cho chúng ta trở nên dễ thương trước mặt Ngài. Vì được yêu thương tuyển chọn, Thiên Chúa chờ đợi chúng ta đáp trả tình yêu của Ngài, bằng việc trổ sinh nhiều hoa trái yêu thương trong đời mình và đem tình yêu thương ấy đến cho anh chị em chung quanh. Chúng ta có thể thấy việc được tuyển chọn và trổ sinh hoa trái nơi Phêrô và các Tông đồ.
Chúa Giêsu đã chọn Phêrô trở nên bạn thân của Chúa mặc dù Phêrô chẳng có gì đặc biệt. Vì được Chúa chọn nên Phêrô đã gắn bó với Chúa bằng một tâm hồn đơn sơ chân thành, dù có lúc tình bạn của ông dường như bị sứt mẻ vì sự phản bội. Chúa Giêsu đã không hề trách Phêrô vì Ngài biết rõ tâm hồn và con người của ông. Chúa tín nhiệm trao cho ông sứ vụ hướng dẫn anh em và dẫn dắt đoàn chiên của Chúa.
Phêrô biết rất rõ về bản thân mình và cũng biết rất rõ về tình yêu của Chúa Giêsu dành cho ông. Phêrô không hề mặc cảm, ông đã hết mình với Chúa trong nhiệm vụ Chúa trao. Ông đi khắp nơi để nói về tình yêu của Thiên Chúa. Ông quả quyết rằng : Quả thật, tôi biết rõ, Thiên Chúa không thiên tư tây vị người nào, nhưng bất cứ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì được Thiên Chúa tiếp nhận. Qua tình bạn của Chúa dành cho Phêrô và tình bạn của Phêrô dành cho Chúa, ông đã trở thành hiện thân của Chúa nơi các cộng đoàn tín hữu. Qua sự hiện diện và phục vụ của ông, các tín hữu sơ khai đã nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu. Ông nhân danh Thiên Chúa để ban Thánh Thần xuống trên các tín hữu như hoa trái của ân sủng Thiên Chúa.
Ai sử dụng facebook cũng muốn kết bạn với nhiều người, thì trên trang facebook cuộc đời, chúng ta cũng cần phải kết bạn với Chúa Giêsu. Đừng sợ, Ngài không bao giờ từ chối yêu cầu kết bạn của chúng ta. Đừng né tránh Ngài, hãy mạnh dạn làm bạn với ngài, để chúng ta có thể dễ dàng tâm sự, chia sẻ những lo âu phiền muộn của mình, của gia đình mình với Ngài. Hãy nói với Chúa những trăn trở toan tính, cũng như những khát vọng của tuổi trẻ, của gia đình, chắc chắn Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm như thế nào để sinh ích cho bản thân, cho gia đình và cho hạnh phúc đời đời.
Làm bạn của Chúa Giêsu, chúng ta còn phải nghe và thực hành Lời của Ngài. Lời của Chúa đang nói với mỗi người qua các Thánh lễ mỗi ngày. Chúa cũng đang nói với mỗi người qua các biến cố của gia đình, của bản thân. Đón nhận các biến cố ấy trong tin tưởng và lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được sự hướng dẫn của Chúa, giúp chúng ta giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Lời Chúa đang nói với mỗi người qua sự nhắc bảo của lương tâm. Mạnh dạn thực hành theo tiếng nhắc bảo ấy là chúng ta làm theo ý Chúa.
Đừng quên một điều hết sức quan trọng của tình bạn đó là luôn ở bên nhau, sống trong sự hiện diện của nhau. Cũng vậy, muốn trở nên bạn thân của Chúa Giêsu, mỗi người cần phải thường xuyên gặp gỡ Ngài trong cầu nguyện, trong các Bí tích. Hãy đem theo bạn Giêsu bên mình, đem Ngài vào trong cuộc sống : nơi trường học, nơi công ty xí nghiệp, nơi làm ăn buôn bán… để Ngài cùng hiện diện, cùng chia sẻ với chúng ta. Ngài sẽ giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn.
Làm bạn thân với Chúa, có những khi Chúa cũng “đùa” với chúng ta. Thánh nữ Têrêsa D’Avila đã sống với Chúa Giêsu cách thân tình như người bạn. Một lần, trong một chuyến xe ngựa đi thăm viếng các chị em trong Dòng. Ngồi trên xe, chị trò chuyện với Chúa như với người đối diện. Bỗng con ngựa lồng lên khiến chiếc xe lọt xuống rãnh. Thánh nữ bị hất văng ra khỏi xe. Thánh Têrêsa lẩm bẩm trách Chúa : Tại sao Chúa lại xử tệ với con như vậy ? Con đang đi làm việc tông đồ, làm việc cho Chúa mà Chúa lại để con té xe đau như thế này ? Chúa trả lời : Ta thích đối xử với các bạn của ta như vậy. Thánh Têrêsa trả lời Chúa : Hèn chi Chúa có ít bạn !
Đức Maria đã trở nên bạn của Chúa khi Mẹ sẵn sàng lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Mẹ giúp chúng ta noi gương Mẹ, sống như người bạn thân của Chúa dù trải qua lúc vui hoặc lúc buồn, luôn gắn bó tâm sự với Chúa. Amen.
Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô PS6-B136
Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48). Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9). Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Huyền thoại tình yêu “Họa mi và bông hồng đỏ” kể rằng.
Một sớm mùa hè, con họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ :”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi“. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin :
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
– Hoạ mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.
– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau ? – Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình – Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ. – Bằng mọi giá chị ạ. – Bằng giá sinh mạng? – Kể cả sinh mạng em
– Hoạ mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò. (Wiliam Oscar Wilde).
Họa mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.
Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.
Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.
Vị tu sĩ đáp : có chứ.
Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?
Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.
Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi :Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.
Vị tu sĩ đáp : Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.
”Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa : ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
Có thể nói kể từ Chúa nhật Chúa chiên lành (Chúa nhật thứ bốn) cho đến Chúa nhật cuối cùng PS6-B137
Có thể nói kể từ Chúa nhật Chúa chiên lành (Chúa nhật thứ bốn) cho đến Chúa nhật cuối cùng của Mùa Phục Sinh, tức Chúa nhật thứ bẩy, các bài Tin Mừng gắn kết với nhau theo một ý tưởng xuyên suốt. Hai Chúa nhật trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh để nói về tương quan giữa Người với các môn đệ (Mục tử- đoàn chiên, cây nho- cành nho), thì tới Chúa nhật này, bài Tin Mừng được suy ngắm chính là phần tiếp theo bài Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa không dùng hình ảnh, ví dụ nữa mà nói một cách trực tiếp.
Xét theo văn mạch, những lời tâm tình ở đây mang một kiểu nói lập luận, kiểu tam đoạn luận. Chính vì thế, lời tâm tình dễ làm cho người nghe, người đọc cảm thấy đôi chút khó hiểu, nhưng chính cái khó hiểu ấy lại dẫn chúng ta có thể đi sâu hơn vào một huyền nhiệm vô cùng thâm sâu và cao quý. Đó là huyền nhiệm tình yêu vô bờ và phong nhiêu của Thiên Chúa. Kiểu nói lập luận bắt đầu bằng câu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. “Ở lại trong tình thương của Thầy” là gì nếu không phải là nối tiếp tình yêu thương của Chúa, các môn đệ phải tiếp tục yêu thương lẫn nhau. Điều này Chúa sẽ nói ngay sau đó. Một kiểu lập luận khác như sau: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”.
Huyền nhiệm vô cùng thâm sâu và cao quý ấy bắt đầu từ nơi Chúa Giêsu. Chính Người tỏ lộ cho các môn đệ biết sự thật về mình. Người là ai? Là Đấng luôn được Thiên Chúa Cha yêu mến và Người đã sẵn sàng ban lại tình yêu ấy cho các môn đệ. Giờ đây Chúa muốn rằng tình yêu thương ấy phải được tiếp nối nơi các môn đệ, cho nên Người mới đưa ra tôn chỉ cho các ông: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuân giữ các điều răn Chúa dạy chính là phương thế để tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục tuôn chảy nơi các môn đệ. Tại sao vậy? Bởi vì điều răn Chúa truyền dạy chính là một lời khuyên, một lời nhắc bảo: nếu làm như thế thì sẽ được như thế. Và: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều răn của Chúa cũng chính là mấu chốt của vấn đề. Để đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, con người không chỉ dừng lại ở những ước muốn và niềm khao khát, nhưng còn phải mở rộng lòng mình qua những hành động cụ thể, đó là yêu thương sự thực, yêu thương có đối tượng, yêu thương tha nhân thật lòng. Rõ ràng có một nguồn suối tình yêu rất phong nhiêu phát xuất từ cung lòng của Thiên Chúa Cha, tuôn chảy qua Chúa Giêsu và đến với các môn đệ; để từ các môn đệ, dòng suối tình yêu ấy lại tiếp tục chảy tới hết thảy anh chị em đồng loại và cứ chảy mãi bao lâu còn có con người sống trên mặt đất. Hễ có một người được sinh ra là có một cánh cửa đã được mở ra cho tình yêu của Thiên Chúa tuôn chảy vào. Chảy vào đó để rồi lại chờ dịp tiếp tục chảy vào một con người mới. Tình yêu của Thiên Chúa như một nguồn suối phong nhiêu vô tận chứ không thể trở thành một thứ ao tù. Chỉ khi nào chúng ta được hòa mình sống trong nguồn suối tình yêu vô tận ấy, chúng ta mới cảm thấy được niềm vui và hạnh phúc thực sự. Phải chăng vì thế mà Chúa đã thốt lên: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Suy nghĩ về nguồn suối và ao tù, tôi liên tưởng tới mười một tông đồ đang ngồi lắng nghe từng lời tâm tình của Chúa với một sự xúc cảm sâu xa; tôi cũng nghĩ tới Giuđa, vị tông đồ đã đang tâm bỏ Thầy và anh em để ra đi trong đêm tối (Ga 14,30). Nơi tâm hồn con người, há chẳng phải đã có những dòng suối và ao tù đó sao? Mừng thay biết bao tâm hồn luôn mở rộng cánh cửa lòng mình cho tình yêu phong nhiêu vô tận của Thiên Chúa tuôn đổ vào và làm cho dòng chảy đó tiếp tục tuôn đổ trong tâm hồn anh chị em đồng loại. Đau đớn thay những tâm hồn chỉ biết mở lòng mình đón nhận nguồn suối tình yêu thần linh ấy, nhưng đã vội vàng đóng kín ngay đường ra, biến nguồn suối phong nhiêu vô tận kia trở thành ao tù hôi hám của lòng người.
Cuộc sống có nhiều mối quan hệ, từ huyết tộc đến xã hội, không ai lại không có mối quan hệ nào. PS6-B138
Cuộc sống có nhiều mối quan hệ, từ huyết tộc đến xã hội, không ai lại không có mối quan hệ nào. Riêng các Kitô hữu còn có MỐI QUAN HỆ THÁNH với Thiên Chúa và với tha nhân. Đó là mối liên kết kỳ diệu.
Thật vậy, ngay khi người ta muốn ném đá Chúa Giêsu, vì họ cho là Ngài lộng ngôn và phạm thượng, Ngài đã dẫn chứng Kinh Thánh: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh” (Ga 10:34). Và Ngài xác định: “Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ” (Ga 10:35). Mối liên kết thánh đó được thể hiện trong mối quan hệ của Giáo Hội cùng thông công: Giáo Hội vinh hiển (các thánh), Giáo Hội đau khổ (các linh hồn nơi luyện ngục), và Giáo Hội chiến đấu (chúng ta) – cũng gọi là Giáo Hội lữ hành. Tất cả đều là thánh vì có mối quan hệ thánh.
Lời Chúa chứng minh rạch ròi về “sự thánh” đó: “Trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương, nên Ta đã thí bao người đổi lấy ngươi, nộp bao dân nước thế mạng ngươi” (Is 43:4). Chúng ta chỉ là bụi tro nhưng lại được Thiên Chúa quý mến, coi trọng. Vô cùng kỳ diệu. Vì thế, chúng ta phải sống xứng đáng và duy trì mối quan hệ thánh đó.
Nói về mối quan hệ, thi sĩ Rainer Maria Rilke (1875-1926, người Áo, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20) nhận định: “Bản chất một người không phụ thuộc vào cuộc nói chuyện gần nhất mà thể hiện trong toàn bộ mối quan hệ”. Còn thần học gia và triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, người Đức) nói: “Chân giá trị của mỗi người không nằm trong bản thân họ, mà nằm ở các sắc màu và đường nét trở nên sống động trong người khác”. Rõ ràng chúng ta luôn có mối quan hệ với nhau, còn gọi là tính liên đới. Đó là mối quan hệ yêu thương, mối quan hệ của lòng thương xót, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16).
Khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (Cv 10:25-26). Một động thái khiêm nhường thật đáng khâm phục. Không phải dễ mà nói được và làm được như ông Phêrô, vì “cái tôi” trong mỗi chúng ta luôn “to lớn”, lúc nào cũng chỉ rình “vùng lên”.
Ông Phêrô xác định: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Thiên Chúa không thiên vị, nhưng chúng ta thiên vị, do đó mà chúng ta thường coi trọng mối quan hệ này và coi thường mối quan hệ kia. Người giàu sang và có địa vị luôn được đề cao, vào thưa ra bẩm. Còn người vô danh tiểu tốt thì luôn bị “ngó lơ”. Ngay cả trong nhà thờ cũng có chỗ cao và chỗ thấp! Có phải chỗ “cao” thì gần Chúa và được nhiều ơn hơn, còn chỗ “thấp” thì xa Chúa và được ít ơn hơn? Sự phân biệt giai cấp này bởi đâu? Chắc chắn Chúa không như vậy!
Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Đúng là Thiên Chúa không phân biệt ai hoặc điều chi cả. Ai nghe lời Ngài là Ngài thương, tất cả đều bình đẳng trước mặt Ngài. Chúng ta đừng ép Chúa “kỳ thị” theo kiểu của chúng ta!
Ông Phêrô nói: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Họ là những người nghe lời Chúa và đón nhận Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ được gia nhập vào cộng đoàn thánh, thuộc mối quan hệ thánh trong Giáo Hội của Chúa Giêsu, Nhiệm Thể của Đức Giêsu Kitô.
Đó là phép lạ của Chúa. Con người không thể làm được. Chúng ta chẳng là gì, chỉ là “dân ngoại”, nhưng chúng ta lại được liên kết trong mối quan hệ thánh thì quả là điều không thể ngờ được. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1). Còn nữa, chính “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân, và đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” để “toàn cõi đất này xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Thật xứng đáng để chúng ta phải “tung hô Chúa và reo hò đàn hát” (Tv 98:4). Niềm vui không chỉ tăng theo cấp số cộng, mà còn tăng thep cấp số nhân. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi! Nhưng chúng ta đã được chứng kiến các kỳ công của Thiên Chúa, đơn giản mà kỳ diệu như không khí hoặc chuỗi DNA. Đúng như Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe” (Mt 13:16).
Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8). Ai được Thiên Chúa sinh ra thì phải biết yêu thương, cũng vậy, ai biết yêu thương mới là người được Thiên Chúa sinh ra. Rất rõ ràng. Rất lô-gích!
Thánh Gioan giải thích thêm: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Đó chính là mối quan hệ thánh mà chúng ta đang được liên kết trong Đức Giêsu Kitô. Càng ý thức được mối quan hệ thánh này, chúng ta càng kết hiệp mật thiết với Ngài, được thể hiện qua mối quan hệ với tha nhân.
Trình thuật Ga 15:9-17 là những lời Chúa Giêsu nói về mối quan hệ thánh. Ngài phân tích: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Càng sống lâu chúng ta càng nghe Chúa Giêsu nhắc nhở nhiều lần về tình yêu, về lòng thương xót, thế nhưng nghe tai này rồi chui qua tai khác. Bay theo gió mất tiêu! Theo Việt ngữ, danh từ tình yêu gồm hai từ, rút gọn còn một từ là YÊU – có thể coi đó là động từ. Một động từ ngắn gọn nhưng lại quan trọng cả đời của mỗi con người. Đi đâu cũng thấy cần yêu, lúc nào cũng thấy cần yêu, với ai cũng thấy cần yêu. Thậm chí cả động vật cũng thấy cần yêu. Điều đó cho thấy tình yêu rất quan trọng. Nhưng đâu có thể cứ nói yêu là yêu, mà phải chứng tỏ bằng hành động. Khó quá! Tình yêu không tiết ra chất hy sinh và đau khổ thì không thể gọi là tình yêu hoặc lòng thương xót. Thánh Gioan gọi người “mến Chúa mà không yêu người” là kẻ nói dối (1 Ga 4:20).
Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Với Chúa Giêsu, chúng ta có vài mối quan hệ: Chúa tôi (chủ và tôi tớ), Phụ tử, Huynh đệ, Bạn hữu. Chúng ta hoàn toàn bất xứng nhưng Ngài không ngại coi chúng ta là bạn. Thật kỳ diệu biết bao!
Cuối cùng, Ngài xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”. Nói xa nói gần, nói đi nói lại, nói tới nói lui, cuối cùng vẫn là yêu thương. Không ai dám tuyên bố mình là Chúa, chỉ có Chúa Giêsu; không ai dám lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu. Nhưng Đạo của Chúa là Đạo Yêu Thương. Người theo Đạo Chúa cũng phải sống yêu thương, phải thể hiện lòng thương xót.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết yêu thương theo đúng Tôn Ý Đức Giêsu Kitô – nhất là yêu thương những kẻ hèn mọn, xin giúp chúng con luôn duy trì mối quan hệ thánh với Ngài và với tha nhân ở mọi nơi và trong mọi lúc, để bất cứ ai gặp chúng con thì cũng gặp được Ngài nơi chúng con, và chúng con gặp bất cứ ai thì cũng gặp được Ngài nơi họ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ 6 Phục Sinh và cũng là tuần chúng ta mừng ngày Hiền Mẫu, để ghi nhớ PS6-B139
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ 6 Phục Sinh và cũng là tuần chúng ta mừng ngày Hiền Mẫu, để ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ, đã gieo vào trong tâm hồn chúng ta hạt giống đức tin và mầm mống yêu thương đầu tiên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Hôm nay, những người con có dịp tạ ơn, bày tỏ lòng thương yêu, kính trọng và nhớ ơn mẹ một cách đặc biệt. Đạo làm con phải biết thảo hiếu và kính trọng cha mẹ như Chúa đã dạy, cố gắng sống và làm những điều tốt lành, bác ái để đáp trả lại lòng yêu thương của người mẹ. Trong Thánh kinh, Chúa dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ, che chở, bảo vệ đàn gà con dưới cánh, và cũng qua hình ảnh này, Chúa cho chúng ta biết Ngài muốn kết hợp mật thiết với chúng ta trong một tình thương yêu che chở.
Trong những bài Tin mừng trước đây, Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên, cây nho và cành, diễn tả sự liên hệ mật thiết quan trọng phải có giữa chúng ta là những Ki-tô hữu với Ngài. Trong bài Tin mừng tuần này, Chúa dạy chúng ta là những cành của một cây, những chiên trong một đàn, và là anh chị em trong Chúa Kitô, một giới răn quan trọng để sống, là phải biết yêu thương nhau. Qua cuộc sống yêu thương, chúng ta mới được sống trong Chúa và Chúa ở trong chúng ta, và để mọi người nhận biết chúng ta là những môn đệ của Ngài.
Có một câu chuyện cảm động được đăng trong tập san Reader’s Digest về một em bé trai như sau. Em bé này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ bỏ rơi em, nhưng em được một người đàn bà nhận về nuôi. Bà nầy đã từng nuôi năm đứa con của chính mình, nên bà biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ tật nguyền như thế. Bà cho biết rất vui mừng được chăm sóc cho em. Thế nhưng nuôi và chăm sóc cho em quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân em, bà đã cầu nguyện và đã phải rơi lệ vì em. Một người nói với bà: “Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào nơi giữ trẻ tật nguyền? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?”
Thật sự, em bé càng lớn càng có nhiều vấn đề đặt ra cho bà. Thời gian trôi qua, năm, mười, mười lăm năm, cho đến khi em được 16 tuổi, bà mới có thể tập cho em đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà vẫn luôn yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẫu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà chợt nhận thấy cậu dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ, bà tự hỏi: “Điều ấy có ý nghĩa gì? Biết đâu cậu lại nhạy cảm với âm nhạc chăng?” Và bà bắt đầu cho cậu nghe âm nhạc. Sau đó người chồng mua một chiếc dương cầm nhỏ cũ đặt vào giường của em. Bà cầm những ngón tay của em tập cho em biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu chả hiểu gì.
Thế rồi vào một đêm đông, bà chợt thức giấc vì nghe có tiếng dương cầm đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của một nhạc sĩ nổi tiếng. Bà đánh thức chồng dậy và hỏi ông có quên tắt radio không. Người chồng nói không. Họ dậy để xem xét. Khi ra tới phòng khách, họ thấy một cảnh tượng vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ: cậu bé tật nguyền đang ngồi tại chiếc dương cầm. Em đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây là sự thật! Trước đây em chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình. Trước đây em chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, em cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ em lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Vợ chồng vội quì xuống và cùng thốt lên: “Lạy Chúa! Chúng con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên đứa con tật nguyền của chúng con.”
Bây giờ cậu chơi nhạc cho những ca đoàn nhà thờ, cho các bệnh nhân, và còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Em kiếm được ít tiền để sống bằng cây dương cầm. Em chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê và trữ tình. Bà và mọi người chung quanh hoàn toàn không thể nào tin nổi. Thật ra, tất cả những bài nhạc bà đã mở cho cậu nghe và từng chơi cho cậu đều tồn trữ trong óc cậu, và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Các bác sĩ mô tả cậu như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ vì thiếu cơ nơi não, nhưng lại cực kỳ tài năng. Các bác sĩ cho biết họ không thể chứng minh, cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù y khoa đã biết về bệnh này gần 200 năm rồi. Bà mẹ nuôi cũng không thể cắt nghĩa được điều ấy, nhưng bà biết và tin chắc rằng nhờ lời cầu nguyện và tình yêu mà tài năng của em được khai mở.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện trên đây diễn tả một cách cụ thể giáo huấn, chân lý yêu thương nhau của Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta phải sống với nhau. Và câu chuyện trên đây cũng nói lên được ý nghĩa tại sao chúng ta lại dành ngày đặc biệt hôm nay để làm Ngày Hiền Mẫu, bởi vì, thông thường, các bà mẹ sống lời Chúa Giêsu dạy về yêu thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác. Câu chuyện trên đây cũng cụ thể hoá năng lực mạnh mẽ của tình yêu, có thể thay đổi và biến hóa cuộc sống. Tình yêu, lời cầu nguyện và những gì mà bà mẹ nuôi đã làm cho em bé tật nguyền qủa thật là lạ lùng. Đó cũng chính là những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta là những môn đệ phải có cho một tình yêu thương đích thực. Đó là những phương cách mà các môn đệ phải sống, để có thể tạo nên những phép lạ trong đời sống hôm nay, đúng như cách Chúa Giêsu đã làm những phép lạ cho những người thuộc thời đại Ngài. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải sống chân lý, giới luật yêu thương nhau một cách cụ thể bằng hành động.
Chúng ta nhận biết, ngày nay, trong cuộc sống bình thường hàng ngày, chúng ta ít có cơ hội hy sinh mạng sống cho nhau. Nhưng chúng ta lại có rất nhiều cơ hội hy sinh những điều đáng quý khác như thời giờ, sức lực, tiền bạc, uy tín, nghề nghiệp và ảnh hưởng. Chúa Giêsu đã khiêm nhường tự hạ mình nhận chịu những đau khổ, bị đánh đòn, vác và bị đóng đinh trên thập giá vì và cho chúng ta. Chúng ta cầu xin cho các Kitô hữu, nhất là cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, biết sống yêu thương hiệp nhất, giúp đỡ và có tấm lòng quảng đại, nhau, để cùng nhau xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa, và để những người chung quanh biết chúng ta là ai. Xin chúc mừng và xin Thiên Chúa và Hiền Mẫu Maria ban nhiều ơn lành xuống cho những người mẹ, nhất là trong giáo xứ và hiện diện trong Thánh lễ hôm nay.
Khởi đi từ định nghĩa củaThánh Gioan và dựa vào Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu của Đức Thánh PS6-B140
Khởi đi từ định nghĩa củaThánh Gioan và dựa vào Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu của Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, phải chăng Tin Mừng của chúa nhật VI Phục sinh cũng là đề tài về"Tình yêu". Nhưng tình yêu thì có muôn vàn cách để hóa giải, Xuân Diệu cũng đã có lần bất chợt thốt lên rằng:
" Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"
Con người thì không thể, nhưng Thiên Chúa thì có thể, bởi vì Ngài chính là Nguồn của mọi tình yêu. Là con người, ai cũng cũng biết yêu thương,chỉ trừ ra những người không còn khả năng, không có lý trí, hay bị mất trí, bị tâm thần...thì không biết yêu là gì, còn tất cả, bao lâu tim còn đập là bấy lâu con người vẫn phải yêu:" Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu"(1Ga 4, 8). Khi nói như vậy thì có quá lắm không, vì những anh em theo các tôn giáo khác hoặc không theo một tôn giáo nào, họ đâu đã biết Chúa, vậy họ không biết yêu? Không hẳn như vậy, tình yêu cũng như những cơn sóng cuồn cuộn trong đại dương bao la bất tận. Nó cũng như những thác nước ầm ầm vượt mọi chướng ngại vật đổ xuống. Tình yêu là trừu tượng, nhưng con người là cụ thể. Người Hy lạp dùng động từ"Eros" để diễn tả tình yêu. Còn Kitô Giáo thì dùng động từ" Agapê". Ở giữa hai từ này còn có từ" Philia.
Eros là tình yêu vụ lợi, là một sự ham muốn, một tình cảm lôi cuốn của người khác khi nơi họ có điều gì đó hợp với mình. Eros là một khát vọng, một sự thèm muốn để chiếm đọat. Eros như những nấc thang giúp con người đi từ thế giới khả giác đến thế giới tâm linh. Đức Thánh Cha trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã sử dụng động từ Eros rất nhiều lần. Còn philia là tình yêu vô vị lợi, thường dùng để chỉ tình bạn, tình bạn này chỉ căn cứ ở sự hợp tính nhau, nó giới hạn trong một số người. Còn tình yêu của người Kitô Hữu, nó có sức mạnh và vượt lên trên thứ tình cảm của eros và Philia. Đó chính là AGAPÊ, Agapê là tình yêu vô vị lợi, tự do và dựa trên sự tín nhiệm, không căn cứ trên sự hợp tính nhau. Người kitô hữu thương mến nhau không chỉ là bạn hữu, nhưng còn là chi thể, là anh em trong Chúa Kitô. Tình yêu này phổ quát, vì mọi người là chi thể của Chúa Kitô. Như vậy phải có yếu tố mến Chúa như là lý lẽ tối hậu của lòng yêu người. Người Kitô Hữu nhìn thấy Chúa trong con người anh em. Vậy đối tượng của đức mến là Thiên Chúa và anh em là tạo vật của người. Agapê không nằm trong sự chiếm hữu mà là sự cho đi. Thiên Chúa là tình yêu cho đi một cách trọn vẹn nhất. Tình yêu Agapê xuất phát từ Thiên Chúa, nó không đòi hỏi một sự đáp đền, Agapê là tình yêu dâng hiến hòan tòan và trọn vẹn cho tha nhân, tình yêu vô vị lợi. Chính tình yêu này( Agapê) đã làm cho Đức Giêsu chịu chết trên thập tự Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người:" không có tình yêu thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình"( Ga 15, 13).
"Tình yêu chính là đặc thù của nhân bản con người", " Con người không thể thiếu tình yêu và con người được kêu gọi để trở nên những người có khả năng yêu"( Thông Điệp Thiên Chúa là tình yêu). Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, triết gia KierKegaard viết:"Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu có tương quan đảo ngược với sự vĩ đại và cao cả của đối tượng. Kẻ bị bỏ rơi ở trần gian là người được Thiên Chúa yêu thương nhiều nhất.
Cha vừa đọc và cho chúng con nghe những lời dạy của Chúa Giêsu trong Bài Tin Mừng hôm nay. Cha PS6-B141
Cha vừa đọc và cho chúng con nghe những lời dạy của Chúa Giêsu trong Bài Tin Mừng hôm nay. Cha thấy bài Tin Mừng hôm nay là bài Tin Mừng hết sức đặc biệt
Cha đố chúng con đặc biệt ở chỗ nào đấy?
- Thưa cha, đặc biệt ở chỗ Chúa nói nhiều đến việc yêu mến.
- Rất đúng! Cám ơn chúng con. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa nhắc hai chữ "yêu mến" đến 9 lần. Và nếu tính chung tất cả các bài đọc thì chữ “yêu, thương yêu, tình yêu” được nhắc đi nhắc lại tới 18 lần. Điều đó cho chúng ta thấy đều gì chúng con?
- Thưa điều đó cho thấy: Tình yêu có một chỗ đứng hết sức quan trọng trong đời sống Giáo Hội mà Đức Giêsu mới thiết lập.
Chúng ta hãy nghe lại Lời của Chúa: "Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".(Ga 15,12)
Chúng con hãy để ý hai tiếng: Như Thầy. Yêu như Chúa yêu. Vậy thì Chúa yêu như thế nào?
Cha hỏi chúng con: Chúng con đã yêu bao giờ chưa?
- Dạ rồi.
Thí dụ….
- Yêu Chúa, yêu ông bà, yêu bố mẹ, yêu bạn vvv
- Thế tình yêu có to không chúng con?
…….
Tình yêu màu gì? Tình yêu nặng bao nhiêu? Tình yêu ngọt ngào hay đắng cay vv và vv
Đúng là tình yêu không có màu sắc, trương độ, mùi vị, trọng lượng v.v cho nên chúng ta không thể thấy được tình yêu như ta thấy được những gì chung quanh chúng ta. Vậy thì làm sao mà chúng ta biết được tình yêu như thế nào?
Thưa công đồng Vaticano II bảo là chúng ta có thể nhìn và biết qua các "dấu chỉ". Chính Chúa Giêsu ngày xưa cũng đã bảo: "Nếu các con yêu thương nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Ga 13,35).
1. Chúng con hãy nghe chính lời của Chúa: "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.(Ga 15,13).
Hồi tháng 2-1988, một trận động đất lớn đã xảy ra tại một phần đất của Aménia thuộc liên bang Xô viết làm cho nhiều người bị thiệt mạng. Trong trận động đất này có rất nhiều cảnh thương tâm. Tuy nhiên câu chuyện sau đây đáng chúng ta lưu ý hơn cả.
Sau khi trận động đất xảy ra, rất nhiều nhà cửa bị sập, đất lún sâu xuống. Có hai mẹ con của một thiếu phụ bị vùi lấp ở dưới cả hàng trăm ngàn tấn gạch đá, ciment. Nhưng may mắn là họ đã nằm lọt vào một khoảng đất nhỏ nên còn sống sót. Nói là một khoảng đất nhỏ nhưng thực ra chỉ vừa đủ để hai mẹ con ngồi mà thôi chứ không thể đứng hay di chuyển được. Lương thực của hai mẹ con có, chỉ là một hũ mứt trái cây mà lúc trước khi động đất người mẹ đang cầm trong tay. Chẳng mấy chốc hũ mứt đã hết. Lúc ấy đứa con gái 4 tuổi nói với mẹ nó:
- Mẹ ơi con khát quá, mẹ cho con uống nước đi.
Nhưng biết lấy nước đâu bây giờ, chung quanh thì tối đen như mực và gạch đá thì như đang ôm lấy hai mẹ con, rồi đứa bé lại kêu:
- Mẹ ơi con khát quá, mẹ cho con uống nước đi.
Người mẹ lúng túng không biết phải làm sao có nước cho con uống. Nhưng rồi tình mẫu tử đã làm cho người mẹ nảy sinh sáng kiến, bà nghĩ bà có thể hy sinh những giọt máu của bà để làm nước cho con uống. Nó có thể cầm cự với tử thần. Lúc đó bà lấy tay rờ rẫm ở dưới chân chỗ hai mẹ con đang ngồi, bà sờ được một miếng kính bể. Thế là bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay của bà ra rồi bà đút ngón tay vừa cắt vào miệng đứa con đang kêu khát và bảo con mút mạnh vào. Em bé nút ngón tay mẹ một lúc rồi nói:
- Mẹ ơi cho con mút thêm nữa đi, con còn khát lắm.
Người mẹ lại cắt ngón tay thứ hai đút vào miệng đứa con gái.
Sau khi được cứu sống người mẹ này thuật lại rằng, lúc đó tôi nghỉ thầm thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho đứa con tôi được sống.
Cha hỏi chúng con; Tình yêu của người đàn bà trong câu chuyện cha vừa kể có lớn không chúng con?
- Dạ thưa rất lớn. 2. Chúng con hãy nghe Chúa bảo tiếp: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu. (Ga 15,15)
Chúa muốn nói gì khi nói với các tông đồ như vậy?
Thưa Chúa muốn nói đến sự tôn trọng nhau.
Có lần Chúa nói "Các con gọi thầy là thầy, là Chúa thì thậm phải vì sự thật là thế." và ngay sau đó Chúa lấy nước quì xuống rửa chân cho họ.
Alberto Cavalcanti và Victoria kết hôn với nhau, họ sống với nhau rất tình cảm và hòa thuận. Nhưng có một điều không vui đó là việc bà ấy là một nữ hoàng.
Có một hôm, hoàng cung tổ chức yến tiệc, nữ hoàng bận rộn với việc tiếp kiến các vương công. Để chồng bà lạc loài bên cạnh. Alberto rất tức giận, liền âm thầm bỏ về phòng ngủ. Không bao lâu thì nghe thấy tiếng gõ cửa.
Alberto lạnh lùng hỏi: "Ai?".
Người gõ cửa ngang nhiên đáp: “Nữ hoàng đây!".
Cánh cửa vẫn không mở, căn phòng im lặng. Người gõ cửa giận bỏ đi, nhưng đi được nửa đường thì quay lại gõ cửa tiếp.
Người trong phòng hỏi: "Ai?". Người gõ cửa đáp: "Victoria".
Thế nhưng cửa phòng vẫn không mở. Bà tức giận bỏ đi, nghĩ rằng không tôn trọng một nữ hoàng Anh. Bỏ đi được nửa đường thì quay lại gõ cửa một lần nữa.
Vẫn tiếng lạnh lùng phát ra từ bên trong: "Ai?".
Người gõ cửa dịu dàng nói: "Vợ của anh".
Lần này cửa mở ra.
Tôn trọng nhau là như vậy. Không phải vì chức tước mà là "Bạn của nhau" 3. Chúng con nghe Chúa nói tiếp: "Những gì Thầy nhận bởi Cha Thầy thì thầy đã truyền lại cho anh em hết". Chúa truyền lại cho các môn đệ những gì Chúa nhận từ Thiên Chúa Cha. Việc này nói lên điều gì trong tình yêu?
Thưa Chúa tin tưởng các môn đệ của Chúa. Tin tưởng là trao gửi. Tin tưởng là phó thác. Tất cả đều phát xuất từ tình yêu.
Từ nhỏ nó đã chơi với những đứa trẻ hư hỏng. Khi học trung học, nó thường xuyên bị giữ ở đồn công an vì tội đánh nhau. Sau đó nó bị đưa vào trường giáo dưỡng một thời gian. Chưa tốt nghiệp trung học nó đã bỏ học, suốt ngày chơi bời lêu lổng với đám thanh niên du côn. Cha mẹ tức giận đuổi nó ra khỏi nhà. Sau này với tội danh giết người, nó bị kết án tù 20 năm. Trong tù nó không chỉ ăn hiếp những tù nhân khác mà còn mấy lần định trốn trại. Vì thế hình phạt lại càng gia tăng. Mỗi khi trại giam cho người nhà vào thăm phạm nhân, nó là người nhàn rỗi nhất, bởi lẽ người thân chưa bao giờ đến thăm nó, hơn nữa nó cũng không hy vọng.
Nhưng vào một ngày kia, người quản giáo thông báo, có người đến thăm nó. Nó cứ tưởng mình nghe nhầm. Khi người quản giáo gọi tên nó một lần nữa, nó mới đi ra phòng tiếp thân nhân. Khi quay trở về phòng, nó đã khóc nức nở. Sau đó, nó dường như biến thành một người khác hắn, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, kỷ luật của trại giam, tích cực cải tạo
Người phụ nữ với mái đầu điểm bạc đến thăm nó hôm đó chính là cô giáo chủ nhiệm lớp hai của nó. Đúng là người phụ nữ này đã không thất vọng về đứa học trò của mình. Bà vẫn tin tưởng theo đuổi chờ cơ hội để đem đứa học trỏ hư hỏng của mình về với cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tình yêu thương đã thay đổi cuộc đời một con người. Vì thế chúng ta hãy thương yêu những người xung quanh chúng ta.
(Suy niệm Tin mừng Gioan (Ga 15, 12-17) trích đọc vào Chúa nhật 6 Phục sinh)
Tình yêu xóa bỏ ngăn cách
Có những khoảng cách lớn lao giữa những người ở những địa vị khác nhau trong xã hội, như giữa bậc PS6-B142
Có những khoảng cách lớn lao giữa những người ở những địa vị khác nhau trong xã hội, như giữa bậc vua chúa và người dân đen, giữa vị lãnh đạo hàng đầu của đất nước và người bình dân, giữa ông chủ sang trọng và người tôi tớ thấp hèn… Chính vì những khoảng cách nầy, đôi bên khó lại gần nhau, khó hoà hợp với nhau, khó chân tình yêu thương nhau.
Nhưng một khi hai bên đã yêu thương nhau đậm đà, thì tình thương sẽ xoá hết mọi ngăn cách.
Người mẹ thương con, thì mẹ cho con ngồi lên đầu và cảm thấy vui thích vì được làm như thế. Cha thương con, cha làm bò cho con cỡi và lấy thế làm vui. Vị hoàng tử yêu cô gái quê mùa thì cư xử bình đẳng với cô gái ấy, dù hai người thuộc hai tầng lớp khác biệt nhau. Tương tự như thế, Thiên Chúa hết lòng yêu thương con người nên Ngài xoá bỏ mọi khoảng cách giữa Ngài với chúng ta.
Lẽ ra, Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, là Đấng đầy quyền năng phép tắc, là Chúa tể vũ hoàn bao la vô biên vô tận; còn loài người chỉ là những hạt bụi li ti trong vũ trụ vô cùng lớn lao này, thì trước mặt Ngài, chúng ta chẳng đáng là gì cả!
Do đó, nếu chúng ta có đối thoại với Ngài thì phải xưng hô làm sao cho tôn kính, như là: Muôn tâu Ngọc hoàng Thượng đế! Muôn vạn lạy Chúa tể càn khôn!… Vậy mà Chúa Giê-su lại dạy ta hãy thưa với Thiên Chúa Cha một cách thân thương là: Abba, Bố ơi, Ba ơi! Đó là tiếng gọi thân mật mà đứa con bé bỏng gọi cha của mình.
Và nếu ai trong chúng ta xưng mình là bạn của đức giáo hoàng, là bạn của thánh tông đồ vĩ đại như Phê-rô hay Phao-lô… thì người ta xem kẻ ấy là người tự phụ, tự cao, khoác lác… vì người đó, cũng như ta, có đáng là gì mà dám xưng mình là bạn của các đấng cao cả. Vậy mà Chúa Giê-su, là Thiên Chúa quyền năng thánh thiện, cao vời khôn ví, lại muốn chúng ta xem Ngài là bạn, Bạn Giê-su!
Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giê-su đã tuyển chọn chúng ta trước khi ta biết Ngài. Ngài nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16).
Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giê-su nâng chúng ta lên hàng bạn hữu. Ngài nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15).
Vì yêu thương chúng ta nên Chúa Giê-su tâm sự với chúng ta như với người bạn chân tình, Ngài thổ lộ can tràng với chúng ta. Ngài nói: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Vì yêu thương chúng ta nên Chúa Giê-su hiến mạng vì chúng ta như lời Ngài nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúa tể trời đất vô cùng cao cả và quyền năng lại đi kết bạn với con người bé nhỏ, thấp hèn, tội lỗi… là điều khó tin nhưng là sự thật, vì Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta như thế.
Sống xứng tầm người bạn Chúa Giê-su
Là người được Chúa Giê-su tuyển chọn trước để làm bạn thân thiết của Ngài, là người bạn tâm phúc được Chúa Giê-su thổ lộ can tràng, bày tỏ cho biết những gì Ngài nghe biết từ Thiên Chúa Cha, là người bạn quý được Chúa Giê-su hiến thân chết thay cho… thì chúng ta phải sống sao cho xứng tầm người bạn của Chúa.
Điều quan trọng nhất và là điều đầu tiên mà Chúa Giê-su yêu cầu bạn hữu Ngài phải thực hiện, là phải yêu thương nhau như lời Ngài nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy thì anh em phải thực hiện điều Thầy truyền dạy… là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12.14). Và “người ta căn cứ vào dấu hiệu này để biết anh em là bạn hữu, là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu mến nhau” (Ga 13, 35).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Chúa tể đất trời đã chấp nhận xuống thế làm người để kết bạn với chúng con, Chúa đã chịu chết đau thương tủi nhục để đền tội thay, chết thay cho chúng con là bạn hữu của Chúa và Chúa mong muốn tình bạn giữa Ngài và chúng con luôn chung thủy keo sơn.
Tuy nhiên, chúng con sẽ không còn là bạn Chúa nữa, không còn là môn đệ Ngài nữa, nếu chúng con không đáp ứng yêu cầu quan trọng nhất Chúa đòi buộc là phải yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Xin cho chúng con xóa sạch tâm hồn mình mọi hình thức ghen ghét, giận hờn, xúc phạm người khác… vì đó là những nguyên nhân khiến chúng con dứt nghĩa đoạn tình với Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. PS6-B143
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được trích dẫn từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ thân thương của Ngài, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48
Đoạn trích sách Công Vụ tường thuật thánh Phê-rô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo tên là Co-nê-li-ô: Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Ngài trên viên sĩ quan lương dân nầy cùng thân bằng quyến thuộc của ông; như vậy, cho thấy rằng tình yêu Thiên Chúa được ban cho hết mọi người không loại trừ bất kỳ ai.
1Ga 4: 7-10
Trong đoạn trích thư thứ nhất này, thánh Gioan ca ngợi tình yêu Thiên Chúa đi bước trước: “Tình yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Ga 15: 9-17
Sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được trích dẫn từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ thân thương của Ngài, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48)
Câu chuyện nầy thuật lại một biến cố đặc biệt nhất trong sự nghiệp tông đồ của thánh Phê-rô và mang tính quyết định nhất đối với việc phát triển Giáo Hội tiên khởi: chấp nhận một lương dân và thân bằng quyến thuộc của người nầy vào trong cộng đoàn Ki-tô giáo, không cần qua luật Mô-sê, nhất là phép cắt bì. Một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã bắt buộc vị lãnh tụ các Tông Đồ thực hiện điều nầy.
Người lương dân nầy tên là Co-nê-li-ô, viên sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rô-ma đồn trú tại thành Xê-da-rê. Viên sĩ quan nầy là một người có thiện cảm với Do-thái giáo, một trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Họ là những người nhận ra vị Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, cầu nguyện với Ngài và cứu trợ cộng đồng Do-thái, nhưng không gia nhập vào cộng đồng nầy, khác với những tân tòng, nghĩa là những người chấp nhận phép cắt bì, tuân giữ ngày sa-bát và những đòi hỏi khác của luật Mô-sê.
1.Thái độ khác thường của thánh Phê-rô.
Chấp nhận lời mời của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thân hành đến tại nhà ông. Hoạt cảnh được thánh Lu-ca tường thuật thật cảm động. Việc thánh Phê-rô vào nhà một người lương dân, không sợ giao tiếp với một “kẻ ô-uế” thì thật khác thường. Như chúng ta biết, những phong tục tập quán, chứ không luật, đã thiết lập muôn vàn rào chắn giữa dân Do-thái và lương dân, trước hết nhằm tránh tất cả sự nhiễm uế ngoại giáo, tiếp đó tuân giữ luật thanh sạch một cách nghiêm nhặt và phức tạp như thanh tẩy, kiêng cử đồ ăn thức uống.
Thái độ của ông Co-nê-li-ô cũng khác thường: “Khi thánh Phê-rô bước vào nhà, ông Co-nê-li-ô đích thân ra đón và phủ phục dưới chân vị Tông Đồ mà bái lạy”. Cử chỉ của viên quan Rô-ma nầy thật đáng ngạc nhiên. Việc phủ phục là một nghi lễ Đông Phương, được dành cho các vị thần linh và các bậc vua chúa.
Trước cử chỉ chỉ dành cho Thiên Chúa này, thánh Phê-rô phản ứng ngay liền lúc đó: “Bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm”. Có lẽ thánh nhân nghĩ đến hình ảnh của người phong hủi và người đàn bà tội lỗi đã phủ phục dưới chân Thầy mình. Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa trong khi thánh nhân chỉ là một người môn đệ khiêm tốn của Đức Giê-su.
2.Bài diễn từ khác thường của vị lãnh tụ Tông Đồ.
Bài diễn từ của thánh nhân cũng khác thường. Số người tham dự thì đông: “Ông Co-nê-li-ô cho mời thân bằng quyến thuộc đến”. Lúc đó, thánh Phê-rô công bố những điều thật bất ngờ: không còn một dân đặc quyền đặc lợi nữa, Thiên Chúa không thiên vị người nào hay dân tộc nào; “nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Vị lãnh tụ Tông Đồ nhận ra chiều kích mới của dân Thiên Chúa.
3.Hoạt động khác thường của Chúa Thánh Thần.
Sau cùng, hoạt động của Chúa Thánh Thần thì cũng khác thường. Sách Công Vụ làm chứng rằng Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Giáo Hội tiên khởi. Vì thế, không phải là vô căn cứ khi sách Công Vụ Tông Đồ được gọi là “sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Chính Chúa Thánh Thần đã xếp đặt cuộc gặp gỡ giữa thánh Phê-rô và ông Co-nê-li-ô. Chính Ngài đã ban cho cả hai người thị kiến hay xuất thần; chính Ngài làm gián đoạn bài diễn từ của vị Tông Đồ để tỏ mình ra và ngự xuống trên mọi người. Có mấy anh em ở Gia-phô, tức các Ki-tô hữu gốc Do thái, cùng đi với thánh Phê-rô (Cv 10: 23). Họ vô cùng kinh ngạc vì những dấu chỉ đặc sũng làm chứng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi lương dân, ngay cả trước khi những lương dân nầy đón nhận phép Thánh Tẩy hay nghi thức đặt tay. “Lễ Ngũ Tuần lương dân” nầy, khá giống với Lễ Ngũ Tuần trước đó, cho thấy Thiên Chúa có sáng kiến ban tặng muôn vàn thiên ân cho “những ai ăn ngay ở lành”.
Đối với Giáo Hội tiên khởi, đây là một mặc khải và là một cuộc cách mạnh. Chính thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, ý thức đầu tiên về điều nầy. Với những người lương dân nầy mà Chúa Thánh Thần chỉ định, thánh nhân mở rộng cánh cửa Nước Trời khi “truyền làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”.
BÀI ĐỌC II (1Ga 4: 7-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong đoạn trích nầy, chúng ta gặp lại chủ đề mà thánh Gioan không ngừng lập đi lập lại: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế, chúng ta hãy yêu thương nhau. Lời khuyên bảo nầy được xoay quanh hai ý tưởng. Trước hết, Thiên Chúa là Tình Yêu, vì thế, tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa. Sau nữa, tình yêu Thiên Chúa được chứng thực ở nơi việc Ngài đã ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
1.Tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa.
Như Đức Giê-su trong Tiệc Ly, thánh Gioan cũng gọi cộng đoàn Ki-tô hữu của mình bằng những lời trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ”. Cách xưng hô nầy rất xứng hợp để giới thiệu một cộng đồng được phát triển trên nền tảng tình yêu. Những lời chan chứa yêu thương nầy khơi dậy sự chú ý và loan báo tầm quan trọng của giáo huấn.
Trong chỉ vài lời, thánh Gioan đặt nền tảng cho “sự hiểu biết” Ki-tô giáo đích thật. Trái với những khẳng định của các ngôn sứ mạo danh, những kẻ làm xáo động các tín hữu, thánh nhân quả quyết rằng chúng ta biết Thiên Chúa không bởi ánh sáng thần khải, cũng không bởi những suy luận thuần túy trừu tượng, nhưng từ thành quả của một kinh nghiệm: kinh nghiệm của đức ái: yêu thương nhau như Thiên Chúa yêu thương chúng ta. “Tình Chúa đối với chúng ta” là khuôn vàng thước ngọc và là nguồn mạch của mọi tình yêu.
Thần học nầy, thánh Gioan đã nêu lên rồi trong Tin Mừng của mình: “Sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha” (Ga 17: 3). Thuật ngữ “biết” trong Tin Mừng Gioan chứa đựng “trọn cả khối óc lẫn con tim”. Vả lại, di sản Do-thái rất dễ nhận ra ở nơi đoạn trích dẫn nầy: lời quả quyết vừa theo hình thức khẳng định: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” vừa theo hình thức phủ định: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa”, là nét đặc trưng của lối hành văn Do-thái.
Như vậy, “biết Thiên Chúa” thông qua đức ái nầy: vừa trải rộng cho hết mọi người vừa hướng về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, đưa chúng ta dự phần vào cùng một cuộc sống với Thiên Chúa, chia sẻ cùng sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan không giới hạn viễn cảnh chỉ vào đức ái Ki-tô hữu: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Cũng như trong Tựa Ngôn, khi định nghĩa Thiên Chúa là ánh sáng, thánh Gioan nhấn mạnh rằng ánh sáng nầy “đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
2.Tình yêu Thiên Chúa được chứng thực ở nơi việc Ngài ban cho chúng ta Con Một của Ngài.
Trong bức thư nầy, những lời khuyên bảo và những lời nhắc nhở về đạo lý được quyện vào nhau đến độ khó nắm bắt. Điều quan trọng là giúp các Ki-tô hữu kiên vững trong niềm xác tín của mình khi phải đối mặt với những lời nói vớ vẩn liên quan đến con người của Đức Ki-tô, tức là những kẻ muốn loại bỏ tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể khỏi Tin Mừng, và vì thế, đánh mất cả ơn Cứu Độ.
Ấy vậy, sự kiện Nhập Thể, nhờ đó, Đức Ki-tô mới có thể dâng hiến thân thể của mình thành của lễ, lại là bằng chứng xác thực nhất và cao cả nhất cho thấy tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
“Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian”. Diễn ngữ nầy chỉ được gặp thấy nơi bút pháp của thánh Gioan. Trong thư nầy, trong Tựa Ngôn và trong sách Tin Mừng Gioan, đều có chung tư tưởng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16).
Nhập Thể đã dẫn đưa tình yêu Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa: ban Con Một của Ngài để tha thứ tội lỗi. Như vậy, Nhập Thể và Ơn Cứu Độ là hai mặt của một thực tại, không thể nào bị loại ra khỏi Ki-tô giáo. Chúng không là những khái niệm xuất phát từ những suy luận phàm nhân, nhưng là những sáng kiến đến từ Thiên Chúa và chứng thực chân lý hàng đầu và căn bản nầy: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Gioan nhấn mạnh hơn ai hết tình yêu Thiên Chúa. Bản văn Tin Mừng hôm nay dâng hiến cũng những âm vang như thư thứ nhất nầy.
TIN MỪNG (Ga 15: 9-17)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích dẫn từ “Diễn Từ Cáo Biệt” của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài. Đoạn Tin Mừng nầy tiếp liền sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được công bố vào Chúa Nhật trước.
Trong dụ ngôn “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su đã cho thấy rằng cành nho chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu nó gắn liền với thân nho. Cũng vậy, các môn đệ dự phần vào sự sống Thiên Chúa và sinh hoa kết trái chỉ khi nào họ kết hợp với Ngài.
Qua hình ảnh nầy, Đức Giê-su diễn tả mối liên hệ mới mà Ngài đến thiết lập giữa Thiên Chúa và con người: mối tâm giao của tình yêu.
1.Tình yêu của Đức Giê-su đối với các môn đệ của Ngài.
Trong bầu khí ly biệt nầy, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài, những người mà Ngài yêu thương cho đến cùng, bằng một cung giọng rất mực trìu mến: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Ở đây, chúng ta chạm đến đỉnh cao của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối liên hệ Phụ Tử độc nhất. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào những mối liên hệ giữa Cha và Con được nêu lên, đều được liên kết vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại. Điều nầy vén mở rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì tập trung trên chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta. Tình yêu mà Chúa Cha dành cho Chúa Con, cũng chính là tình yêu Chúa Con dành cho các môn đệ của mình.
2.Tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giê-su.
Đến lượt mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu mến Ngài, không là một thứ tình cảm trừu tượng, nhưng nhất mực trung thành với các điều răn của Ngài. Ngài đã nói với họ rồi trước đó một chút: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (14: 21).
Chúng ta đã thấy rồi, động từ “ở lại” là động từ chủ chốt của từ vựng Gioan. Trong chương 15 nầy, động từ “ở lại” nầy, xuất hiện mười ba lần, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, đức ái mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài, thực hành những huấn lệnh Tin Mừng; bên trong, tăng cường mối liên hệ với Đức Ki-tô.
“Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn”. Thật là mâu thuẩn biết bao, “niềm vui” nầy được công bố bởi người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Và cũng thật mâu thuẩn biết mấy, Ngài hứa ban niềm vui tròn đầy cho những người sắp phải chịu cơn choáng váng đến tận cùng nỗi tuyệt vọng về cái chết của Ngài. Tuy nhiên, niềm vui nầy được định vị ở trung tâm lập luận: vui trong bầu khí thân tình nầy, đó sẽ là cách thế hiện diện vô hình của Ngài ở nơi họ, sự hiện diện lòng bên lòng, nhờ đó họ sống sự sống của Ngài và lòng tràn đầy niềm vui mà “không ai lấy mất đi được” (16: 22), như Ngài sẽ xác định một lát sau đó.
3.Tình yêu của các môn đệ đối với nhau.
Trong Diễn Từ Cáo Biệt, những lời dặn dò sau cùng nầy, những lời trăn trối này, những lời tâm huyết nầy, được cô động ở nơi một lệnh truyền duy nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giê-su là khuôn mẫu tình yêu của Ngài đối với họ; đến phiên họ, tình yêu của Ngài đối với họ phải là khuôn mẫu tình yêu của họ đối với nhau.
Đức Giê-su đã công bố lệnh truyền nầy rồi với một cung giọng đầy cảm xúc, ngay liền sau khi Giu-đa rời bỏ bàn tiệc mà ra đi: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi… Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13: 33-34).
“Giới Răn Mới” nầy cốt yếu là gì? Người ta đã đọc thấy từ lâu trong sách Lê-vi: “Hãy yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Tuy nhiên, lệnh truyền mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ của Ngài có tầm mức vượt quá mọi mức độ, không còn tình yêu quy chiếu về chính mình, nhưng về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa là “hy sinh mạng sống mình cho những người mà Ngài yêu”.
“Những người mà Ngài yêu”, trước hết chính là các môn đệ của Ngài đang vây quanh Ngài và lắng nghe lời Ngài; tức là những người mà Ngài gọi là những bạn tâm phúc của Ngài và trao gởi cho họ sứ điệp của Ngài; họ là những người mà Ngài đã chọn để tiếp tục sự nghiệp của Ngài. Sự tuyển chọn nầy tấn phong họ là những người được Ngài sai đi, những nhà truyền giáo “thu được kết quả và kết quả tồn tại mãi”.
“Những người mà Ngài yêu”, cũng chính là, ở bên kia các Tông Đồ đang hiện diện với Ngài, tất cả những ai mà Ngài đã hy sinh mạng sống mình cho họ. Lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” phải rộng mở bao la như tình yêu của Đức Giê-su: “chết cho tất cả mọi người”.
Tuy nhiên, cung giọng trực tiếp của Ngài là cung giọng chứa chan tình thương mến, cả với tư cách con người lẫn tư cách Thiên Chúa. Chính bằng cung giọng chan chứa tình thương mến nầy mà Đức Giê-su ngỏ lời với các Tông Đồ vào lúc từ giả các ông ra đi. Tấm lòng phàm nhân của Ngài để lộ chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa nầy.
Dựa trên truyền thống các ngôn sứ, Người Do Thái tin rằng ơn Cứu độ chỉ được ban cho dân PS6-B144
Dựa trên truyền thống các ngôn sứ, Người Do Thái tin rằng ơn Cứu độ chỉ được ban cho dân tộc Do Thái, vì đó là dân được tuyển lựa. Các môn đệ đều là người Do Thái. Họ đã theo Chúa Giêsu và được Người giáo huấn. Tuy vậy, các ông vẫn mang não trạng chật hẹp của truyền thống. Một số trong các ông tin Thày mình là một chính trị gia, đến để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người La mã, vì thế, vào lúc Chúa phục sinh quy tụ các ông và chuẩn bị lìa xa các ông mà về trời, vẫn có người trong số môn đệ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?” (Cv 1,6).
Chính vì ảnh hưởng bởi não trạng tự tôn dân tộc, mà ông Phêrô lúng túng khi có người ngoại, tức là không phải người Do Thái, xin gia nhập Đạo. Chính Thiên Chúa đã can thiệp qua hai thị kiến để giúp ông Phêrô và các tông đồ thoát khỏi những băn khoăn này. Ngài vừa sai sứ thần đến với ông Cornêliô, vừa cho ông Phêrô thấy một thị kiến là một tấm khăn lớn buộc bốn góc từ trời thả xuống đất, trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết, cùng mọi thứ chim trời. Đó là những con vật luật Do Thái cấm ăn vì coi là vật không thanh sạch. Chúa đã giải thích cho ông Phêrô: đừng gọi là ô uế những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch. Qua thị kiến này Chúa muốn khẳng định: ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô dành cho mọi dân tộc, không loại trừ ai. Vì Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân, là Mặt trời công chính rạng soi cho mọi nước.
Thực ra, trong giáo huấn của Chúa Giêsu, đã nhiều lần Người khẳng định tính hoàn vũ của ơn Cứu độ. Người nhấn mạnh đến tình thương của Chúa Cha, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những kẻ lành cũng như người dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất nhân. Trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi rào cản và thành kiến, đồng thời Người khẳng định: đã đến lúc việc thờ phượng không còn giới hạn bởi ranh giới địa lý hay chủng tộc, mà là lúc những ai thờ phượng Chúa thì thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Qua câu nói của ông Caipha Thượng tế: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, Thánh sử Gioan nhận ra đó là một lời tiên tri: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối” (Ga 11,50-52).
Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Như thế, cây thập giá, hay đúng hơn là cái chết của Chúa Giêsu là điểm quy tụ muôn dân. Cây thập giá cũng là điểm kết nối, giao hoà Thiên Chúa với nhân loại, để rồi từ nay, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nhưng tất cả những ai đang sống dưới gầm trời này, nếu họ kêu cầu Danh Đức Giêsu Kitô, thì họ được cứu độ. Mặc dù Giáo Hội tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Giáo Hội cũng công nhận những tinh hoa của các nền văn hoá như hạt giống của Lời. Vì vậy, những ai không được nghe nói đến Chúa Giêsu và ơn Cứu độ của Người, nhưng thành tâm sống theo chỉ dẫn của lương tâm, thì họ cũng thuộc về Vương quốc Chân lý của Chúa Giêsu.
Với lời tuyên bố của thánh Phêrô: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” Giáo Hội sơ khai đã bước sang một trang sử mới. Từ nay mọi người đều có thể gia nhập Đạo Chúa. Đức tin vào Đức Giêsu đã vượt qua biên giới Do Thái để đến với dân ngoại. Sau này, với thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, một viễn cảnh mới được mở ra. Thánh Phaolô xác tín rằng, mình được chọn để đem Tin Mừng của Chúa đến với các dân ngoại. Vì vậy, ông nỗ lực cố gắng thiết lập các cộng đoàn. Những cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô là những gian nan chông gai, nhưng vị tông đồ dân ngoại vẫn can đảm hy sinh, vì ông được Chúa nâng đỡ: “Ơn Ta đủ cho con”.
Ơn Cứu độ thực hiện trong Đức Kitô đã mở ra một thế giới mới. Không còn biên giới, không còn rào cản, không còn phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ. Thế giới mới Chúa Giêsu thiết lập có một ngôn ngữ mới: đó là tình yêu. Tiếp nối lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Chúa nhật trước, lời mời gọi “ở trong Thày” được nhắc đi nhắc lại, như một điểm nhấn nổi bật. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Mẫu mực của yêu thương không phải là một vĩ nhân trần thế, nhưng là chính Chúa Giêsu. “Như Thày đã yêu”, đó chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa Giêsu đã chứng minh lời dạy này bằng cuộc khổ nạn thập giá.
Một khi chuyên tâm thực hiện lời dạy yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở thành “bạn hữu” của Người. “Anh em là bạn hữu của Thày, nếu anh em thực hành những điều Thày truyền dạy”. Thật là một vinh dự lạ lùng! Chúng ta là con người còn đầy yếu đuối và tội lỗi, lại có thể trở nên bạn hữu của Đấng Cứu thế. Quả vậy, một khi thực thi những giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương, thì chúng ta sẽ luôn có Chúa là người đồng hành, là người chia vui sẻ buồn, là người tâm huyết, gần gũi và thân tình. Khái niệm Chúa Giêsu là “bạn hữu” giúp chúng ta đi vào sự kết hợp bền chặt thâm sâu với Người, nhờ đó, chúng ta có sự bình an và niềm vui nội tâm, là nền tảng định hướng cho mọi suy tư và hành động trong cuộc sống hằng ngày.
Yêu thương là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vì chính Ngài đã yêu chúng ta trước (Bài đọc II). Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về đức yêu thương. Người đã hiến mạng sống mình trên thập giá vì yêu thương nhân loại và để đền tội cho chúng ta. Người tín hữu được Chúa sai vào lòng cuộc đời sống và loan truyền tình yêu thương cho tha nhân, đồng thời làm chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống. Vâng, Chúa đã chọn và đang cắt cử chúng ta vào cuộc sống xã hội còn đầy những khó khăn phức tạp, để hát lên niềm vui của Tin Mừng và để làm chứng Chúa đã phục sinh.
Qua việc thực thi đức yêu thương, chúng ta giới thiệu ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết cho muôn người, Đấng Cứu độ muôn dân. Đấng ấy đang sống và hiện diện giữa chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ký thác bí mật cuối cùng là lời di chúc quý báu nhất từ trái PS6-B145
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ký thác bí mật cuối cùng là lời di chúc quý báu nhất từ trái tim Ngài:“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng để yêu như Thầy yêu, thì điều cốt lõi là “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. “Ở lại” là đừng sống xa cách Ngài, đừng ra khỏi Ngài, nhưng hãy sống gắn bó với Ngài mọi nơi mọi lúc, qua mọi việc, như chim liền cánh như cây liền lành. Tất cả các cành cây đều được nuôi sống bằng một dòng nhựa, nên hiệp thông với Chúa khiến ta hiệp thông với nhau.
Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: Như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau. Yêu thương là một dòng chảy không ngừng phát xuất từ Cha, nên chúng ta không được biến nó thành ao tù, mà phải làm cho lan tỏa khắp nơi, đến với mọi người trên thế giới. Đức Giêsu muốn toàn thể nhân loại làm thành một cộng đồng tình yêu, không muốn các môn đệ chỉ loay hoay vun quén cho nhau để rồi làm thành một thứ Hội Thánh đóng kín. Vì vậy mà “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi và sinh được hoa trái”.
Yêu thương là điều tự nhiên trong đời sống con người. Ai cũng muốn yêu và được yêu. Tuy nhiên, tình yêu không phải là thứ tình cảm cạn cợt và hời hợt như tình đời. Tình yêu mà Chúa Giêsu mong đợi nơi chúng ta là tình yêu hy sinh quên mình, để đem lại hạnh phúc cho con người. Bởi vậy, ta thấy dễ yêu nhưng yêu không dễ, như lời bài hát:“Đường vào tình yêu có nhiều trái đắng mang tên khổ qua”, hoặc “Trong tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sầu”. Các cô họa thêm là: Trong tình yêu có trăm lần thua có một lần huề. Tình yêu là một tiến trình trải nghiệm gian nan nhất, có khi rơi vào tình trạng khổ sở và cay đắng nhất. Chúng ta không gặp tình yêu trong tình trạng đã tốt đẹp và có sẵn để mà hưởng, nhưng phải tập luyện và làm tăng trưởng mãi.
Thực tế có nhiều quan niệm về tình yêu, và vì có những quan niệm lệch lạc nên tình yêu bị biến chất, biến dạng, có khi còn biến thái. Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Đức Bênêđictô XVI cho thấy: chưa bao giờ “hai chữ tình yêu” bị lạm dụng như ngày nay. Trong một xã hội chạy theo lợi nhuận và hưởng thụ, nên những người trẻ cũng dễ yêu cuồng sống vội, tình yêu chỉ còn là một thứ chộp giựt. Trong một não trạng xã hội ngày càng tôn vinh thân xác và lạc thú, thì tình yêu trở thành trò đùa, hay thứ hàng hóa để mua bán đổi trao. Trong một xã hội mà người ta chỉ quan trọng vật chất và coi nhẹ giá trị tinh thần, thì tình yêu bị giảm thiểu xuống hàng thứ yếu. Bao nhiêu hỗn loạn phát sinh từ đó, vì đã đánh mất bản chất của tình yêu.
Tình yêu không phải là cảm xúc, cảm xúc đến rồi đi, chỉ có tình yêu là ở lại. Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế. Tình yêu là một bước tiến vươn lên sự thiện hảo, luôn được đặt trong tiến trình thanh luyện và trưởng thành. Để đạt được mức độ trưởng thành của tình yêu, phải có sự góp phần của toàn thể con người, bằng sự kết hợp mọi khả năng của lý trí, ý chí, tình cảm, không chỉ là những hành động và kiểu cách bề ngoài.
Tình yêu không tìm chiếm đoạt mà tìm niềm vui trong sự trao ban, cho dù người khác không đáp trả, không biết ơn, không dễ thương, không xứng đáng. Tình yêu đích thực chỉ ao ước làm điều thiện cho mọi người, coi hạnh phúc của họ quan trọng hơn hạnh phúc của bản thân, dù nhiều khi phải trả giá đắt. Tình yêu có cái giá của nó, là chính thập giá để biểu hiện tình yêu. Chính nỗi đau mới dạy cho chúng ta cách thức yêu thương. Tình yêu như vậy trở thành sự từ bỏ, sẵn sàng trở thành lễ vật tặng ban như chính Chúa Giêsu, Đấng nâng cao chúng ta lên thành bạn hữu, và đã “hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Thế giới ngày nay khao khát một tình yêu đích thực. Kitô hữu phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho người khác như cha Kônbê, nhưng ta luôn có nhiều dịp để sống cho anh em. Sống cho anh em là chết cho chính mình: chết qua những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần mòn cho hạnh phúc của tha nhân. Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Chỉ khi thực sự yêu mến Chúa ta mới biết yêu thương tha nhân. Và chỉ khi thực sự yêu thương tha nhân ta mới nói lên được tình yêu mến Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho con hiểu rằng, điều làm nên cuộc sống con hôm nay, không phải là những công trình to tát, kiến thức uyên bác hay là công trạng, nhưng là tình yêu thương đầy tràn, vì mọi sự sẽ qua đi, chỉ tình yêu là ở lại.
Xin cho con tận dụng mọi khoảnh khắc, để sống với với nhau và cho nhau, vui với người vui, khóc với người khóc, chia sẻ và cho đi với tất cả tấm lòng.
Sống ở đời chỉ có thân phận và tình yêu, thân phận thì giới hạn mà tình yêu vô hạn, xin cho con biết sống bằng tình yêu, là chính Chúa trong tất cả mọi điều.
Chúa đã yêu con thật quá nhiều, mà tình con đáp trả chẳng bao nhiêu, nên thánh ý Chúa chẳng mấy khi con hiểu, vì chỉ ham sống theo kiểu của người đời, lo sao cho danh lợi có thật nhiều, mà quan trọng nhất là tình yêu lại thiếu.
Xin cho con đừng chạy theo nhãn hiệu, kẻo đời con sẽ phải sống kiếp cô liêu, vì thiếu tình yêu là điều tồi tệ nhất, là chính ngục thất khiến cho đời tàn úa.
Xin gột sạch trái tim con nhem nhúa, để có một tình yêu tinh ròng như Chúa, biết quên mình và quảng đại hy sinh, trong mọi nơi mọi lúc sống tận tình, yêu người như Chúa đã yêu con, là bằng chứng vẹn tròn con yêu Chúa. Amen.
Nhiều người hay thắc mắc: Tại sao cha là con trai mà lại tên “Tuyền”? Tôi nói rằng “Tuyền” là suối PS6-B146
Nhiều người hay thắc mắc: Tại sao cha là con trai mà lại tên “Tuyền”? Tôi nói rằng “Tuyền” là suối. Duy Tuyền là một Dòng Suối. Giống như người ta vẫn nói Cửu Tuyền là chín suối. Thế nên tên tôi là Duy Một Dòng Suối. Một dòng suối thật tự do tự tại, thanh thoát mà lại có ích cho đời như bài thơ ai đó đã viết:
Tôi là con suối nhỏ Nằm dưới tàng cây xanh Bạn của sương của gió Của hoa thơm trái lành
Tuổi thơ ai cũng từng tắm suối, đùa giỡn với chúng bạn dưới dòng suối trong mát giữa trưa hè. Lặng đứng bên suối ngắm dòng trôi, ta thấy con suối luôn miệt mài đêm ngày mang dòng nước mát cho đất nảy mầm ươm lộc suốt dọc đôi bờ. Con suối cứ âm thầm, lặng lẽ mà dâng hiến cho đời như dòng sữa mẹ đi qua ngàn năm thương nhớ. Dòng suối luôn cho đi mà không tính toán. Không bon chen với đời. Dòng suối cống hiến cho đến khi tan lẫn trong dòng sông lúc nào không hay.
Tôi là con suối nhỏ Bước chân không biết dừng Mang niềm vui bày tỏ Với dòng sông mênh mông
Lời Chúa Chúa nhật 6 mùa phục sinh cho ta thấy Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn trút hết vào các dòng sông rồi tuôn chảy vào đại dương.
Dòng suối yêu thương của Chúa luôn êm đềm, bình thản như con suối lặng lẽ tràn qua muôn tâm hồn, rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi và tái tạo cho con người một tâm hồn trong sạch đầy ân sủng Chúa.
Dòng suối ấy bắt nguồn từ Chúa Cha. Qua Chúa Giê-su mang đến trần gian và đi qua những gập ghềnh khổ giá để mang tình yêu ấy thẩm thấu đến muôn tâm hồn con người. Ngài đã dốc cạn dòng suối tình yêu ấy để cho chúng ta được sống và sống dồi dào trong ân sủng của Ngài.
Và đến lượt chúng ta, Ngài kêu mời hãy trở thành những con suối nhỏ mang tình yêu Chúa đến mọi ngõ ngách của cuộc đời. Đây không chỉ là lời mời gọi mà là huấn lệnh của Chúa đòi buộc chúng ta:
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Gioan 15,12)
Ước gì những con suối nhỏ nơi tầm hồn chúng ta đừng để cho hận thù, chia rẽ, nghi kỵ… trong lòng trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh. Hãy để tâm hồn mình như dòng suối trong lành với một tình yêu không tính toán thiệt hơn, không vu lợi. Hãy để cho tình yêu của mình như dòng suối giầu lòng quảng đại mang đến cho tha nhân sự ấm áp, vui tươi và hạnh phúc.
Điều quan trọng là xin Chúa cho chúng ta luôn ở lại trong tình yêu Chúa nhờ đó mà chúng ta có khả năng mang tình Chúa đến cho muôn người. Amen
Khi yêu thương ai, người ta luôn mong muốn được yêu mãi không ngơi nghỉ, luôn mong cho người PS6-B147
Khi yêu thương ai, người ta luôn mong muốn được yêu mãi không ngơi nghỉ, luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc, bình an. Nhất là trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, người ta trao gửi hết cho nhau những niềm tâm sự, những yêu thương nồng nhiệt và cả những yêu thương thầm kín. Thầy Giêsu – Đấng đã yêu thương các môn đệ đến cùng – trong Bữa Tiệc Ly, Người cũng đã dốc bầu tâm sự với các môn sinh. Người dạy dỗ các ông, và nhắn nhủ: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 17).
Được chung bàn tiệc với Thầy Giêsu và các môn đệ trong bữa tiệc này, lắng nghe từng lời Thầy, lòng ta bừng lên một nỗi khát khao cháy bỏng: được yêu như Thầy. Lặng ngắm khuôn mặt của Thầy, để ý đến từng hành động, ánh mắt và mỗi lời nói của Thầy Giêsu, ta nhận ra tất cả đều diễn tả một người đang yêu. Người trìu mến nhìn từng người, giọng nói của Người lúc khoan thai, lúc mạnh mẽ và quả quyết, lúc lại ôn tồn rỉ rả. Người khẳng định rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Chúa Cha đã yêu thương Chúa Giêsu như thế nào? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, khi Người vừa lên khỏi nước, lúc ấy các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (x. Mt 3, 16-17).
Chúa Cha yêu Chúa Giêsu bằng tình yêu hiền phụ. Chúa Giêsu đáp lại tình yêu của Người bằng tình yêu con thảo (Lm. Gioan Nguyễn Như Yêng). Chúa Giêsu luôn lắng nghe và thi hành mọi ý muốn của Chúa Cha, vì người yêu Chúa Cha trên hết mọi sự, trên cả mạng sống mình. Người cũng yêu nhân loại đến cùng, đến nỗi tự nguyện trao nộp chính mình để chuộc tội cho nhân loại, để con người được giao hòa với Thiên Chúa, được trở lại sống tình con thảo với Chúa Cha. Người mời gọi ta hãy ở lại trong tình thương của Người. Người cho ta được tự nguyện đến với Người, đón nhận tình yêu của Người. Khi đã ở trong tình thương của Người, ta hãy ở lại, đừng rời đi, nghĩa là hoàn toàn hiện diện với trọn con người mình. Có nhiều khi, ta đến với Người nhưng chẳng ở bên Người vì tâm tư ta đang bận tâm đến người khác, những việc khác. Thiên Chúa luôn tuôn đổ tình yêu xuống trên cuộc đời ta. Người hiện diện với ta nhưng ta không nhận ra. Bởi vì, ta chưa yêu Người như Người đã yêu ta vậy.
Đâu là cách để ta thẩm định tình yêu mà ta đã dành cho Chúa Giêsu? Chúa Giêsu mời gọi ta hãy luôn ở lại trong tình thương của Người bằng cách giữ các điều răn của Người. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Nếu ta thật lòng yêu Chúa, ta sẽ luôn mong muốn làm mọi điều mà Người truyền dạy. “Hãy yêu thương nhau”, lời mời gọi ấy phải luôn được ghi tạc trong lòng ta. Ta được trở nên môn đệ của Chúa, đó là một hồng ân. Vì ơn gọi luôn khởi đi từ Thiên Chúa: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,16). Mỗi khi ta làm bất cứ điều gì, ta hãy ý thức mình làm nhân danh Chúa, bởi vậy những gì ta đang làm phải luôn diễn tả tình yêu. Sống chứng tá tình yêu đòi hỏi ta phải chết đi mỗi ngày, chết đi với chính con người đầy ích kỷ nơi mình. Trước khi nghĩ đến việc mình sẽ được nhận lại điều gì từ người khác, ta hãy nghĩ đến điều cốt yếu này: Thiên Chúa muốn tôi làm gì cho họ, hay nghĩ đến việc tôi làm có đẹp lòng Chúa không. Đừng chỉ nghĩ cho riêng mình nhưng hãy học cách nghĩ cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn ở lại với con và yêu thương con. Mỗi lần con mệt mỏi trong việc yêu thương anh chị em con, xin cho Lời của Chúa vang lên trong con, thức tỉnh con và ban sức mạnh cho con để con đi bước trước trong tình yêu. Xin Chúa cho con luôn nhớ rằng: Con được Chúa sai đi, vì vậy con phải biết ra khỏi mình để đến với anh chị em, luôn trổ sinh hoa trái tình yêu trong đời sống. Xin cho con luôn xét mình về hai khía cạnh này: lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Amen.
Tình yêu là chủ đề muôn thuở được nhiều thi sĩ, nhạc sĩ khai thác. Cũng từ đó, nhiều tác phẩm PS6-B148
Tình yêu là chủ đề muôn thuở được nhiều thi sĩ, nhạc sĩ khai thác. Cũng từ đó, nhiều tác phẩm văn học, ca khúc bất hủ được ra đời. Tuy nhiên, tất cả chỉ mới phản ảnh phần nào đó vẻ đẹp của tình yêu và còn hạn hẹp bởi ngôn ngữ loài người. Tình yêu là hương vị của cuộc sống. Đó là tình yêu giữa con người với nhau và cả tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho con người. Qua Đức Giêsu, tình yêu Thiên Chúa được mạc khải một cách cụ thể, rõ nét và trọn vẹn. Tình yêu ấy cao cả, khôn dò khôn thấu. Và nhất là “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người không bao giờ thay đổi. Đó là tình yêu của tự hiến, tự hủy. Tình yêu ấy tỏ lộ trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Đối với những kẻ tin, Đức Giêsu thật sự là Con Một Thiên Chúa. Trên thánh giá, Người bày tỏ và lột tả tình yêu của Ngài dành cho nhân loại cụ thể hơn bao giờ hết. Đó là cách yêu của Ngài. “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9). Đức Giêsu đã luôn yêu theo cách mà Ngài đã được yêu. Bởi đó, không có sự chiếm hữu hay sai lầm trong tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy thôi thúc Ngài mong mỏi cho những kẻ Ngài yêu cũng được ở lại trong tình yêu của Ngài. Ngài mời gọi họ hãy ở lại trong tình thương của mình qua việc tuân giữ các giới răn của Ngài.
Điều răn Thầy để lại chính là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Yêu như Thầy đã yêu phải chăng là Thầy yêu làm sao con yêu làm vậy. Nghe thì có vẻ dễ nhưng để thực hành thì chưa hẳn. Yêu như Thầy là yêu hết mọi người, không loại trừ ai, kể cả kẻ thù (x. Mt 5, 44). Cách yêu của Thầy Giêsu mạnh mẽ, lớn lao đến độ sẵn sàng hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình. Cách yêu ấy đòi buộc ta phải bỏ mình và luôn sẵn sàng đón nhận người khác như họ là. Mặt khác, để yêu như Thầy thì buộc ta phải có được kinh nghiệm thực sự, được đụng chạm, được cảm nhận Thầy yêu ta như thế nào thì mới có thể bắt chước được. Đó không phải là một sự hiểu biết mơ hồ, lý thuyết qua sách vở nhưng là kinh nghiệm, là đụng chạm. Kinh nghiệm đó rất cá vị.
Thực tế cho thấy, chúng ta có khuynh hướng yêu theo cách ta hiểu, cảm nhận. Tình yêu của ta là tình yêu vị kỷ, chiếm hữu. Đến bao giờ ta mới yêu được theo cách của Thầy? “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Chiêm ngắm tình yêu của Chúa, ta thấy nó đẹp dường nào nhưng cũng khó biết bao. Bao lâu ta còn nghĩ đến mình, yêu mình hơn tất cả thì bấy lâu ta hãy còn xa tình yêu Chúa và cách yêu của Chúa. Nếu yêu theo cách của ta, ta sẽ chỉ muốn yêu những kẻ hợp với ta, những kẻ yêu thương, mang lại lợi ích cho ta. Và khi ấy, ta mới chỉ sống theo luật cũ: “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Yêu như vậy nhiều khi ta dễ bị sai lầm và dẫn đến đổ vỡ. Bởi, nếu ta yêu mình chưa đúng cách thì làm sao yêu tha nhân đúng cách được.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con, cứu chuộc chúng con bằng giá máu châu báu của Chúa. Xin cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa. Vì chỉ khi ở lại trong tình yêu của Ngài, chúng con mới có khả năng yêu theo cách của Chúa. Xin Chúa không ngừng dạy bảo, hướng dẫn chúng con đi trên lối đường tình yêu của Ngài và tin nhận rằng chính Ngài là Đấng chọn gọi chúng con. Amen.
Từ lâu nay có những con cá voi, khi thì một vài con, khi thì cả đàn lên đến hàng chục, hàng trăm PS6-B149
Từ lâu nay có những con cá voi, khi thì một vài con, khi thì cả đàn lên đến hàng chục, hàng trăm con, không biết vì lý do gì, lại từ bỏ đại dương như lòng mẹ hằng đùm bọc ấp ủ chúng, để bơi ngược vào bờ nên bị mắc cạn, rồi phơi mình trên bờ biển chờ chết.
Những tổ chức bảo tồn sinh vật biển nỗ lực cứu mạng chúng, dùng những chiếc tàu kéo đưa chúng ra khơi, trả chúng về với lòng mẹ đại dương, nhưng rồi sau đó chúng lại bơi vào bờ, nằm chết thối trên cạn. Đó là những cái chết tự chọn thật khó hiểu và có vẻ điên rồ!
Loài cá thì phải sống trong nước, ngày nào rời khỏi nước thì cá chết.
Tương tự như thế, loài người được Chúa sinh ra để sống trong tình yêu; Nếu sống ngoài tình yêu thì con người cũng phải gánh lấy hậu quả tai hại.
Khi con người xa lìa tình yêu, không sống trong tình yêu thì con người cũng tự chọn tai họa cho mình như những con cá voi mắc cạn trên đây.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu Ngài bao la như trời như biển. Ngài muốn chúng ta được sống hạnh phúc trong biển tình yêu dào dạt của Ngài. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tha thiết mời gọi chúng ta hãy ở lại trong biển tình yêu vô bờ đó. Ngài nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.”
Trước lời mời gọi nầy, chúng ta có hai lựa chọn: Một là ở lại trong tình yêu; hai là ở ngoài tình yêu.
Ai là người ở lại trong tình yêu?
Người ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là người tuân giữ các giới răn như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.”
Mà giới răn quan trọng nhất là luật yêu thương. Vì thế, ai yêu thương, phục vụ, giúp đỡ người chung quanh thì người ấy đã giữ tròn giới răn của Chúa và đang ở lại trong tình yêu của Ngài.
Ai ở lại trong tình yêu thì sẽ được hưởng phúc đời đời trên thiên đàng với Chúa. Đến ngày phán xét, Chúa Giê-su hoan hỉ tuyên bố với những người nầy rằng: “Nào, những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các con từ thuở tạo dựng vũ trụ…” vì các con đã thực lòng yêu thương (Mt 25, 34).
Còn số phận những người ở ngoài tình yêu thì sao?
Ai không giữ giới răn của Chúa, nghĩa là không yêu thương, phục vụ, giúp đỡ những người lâm cơn quẫn bách, thì người đó ở ngoài tình yêu; người đó tự rời xa khỏi tình yêu như cá trườn mình ra khỏi nước, người ấy tự chọn cho mình án phạt đời đời.
Đến ngày phán xét, Chúa Giê-su nghiêm khắc lên án những người nầy bằng những lời đáng kinh sợ! Ngài nói: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia! Đi đi cho khuất mắt Ngài mà vào lò lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và bè lũ của nó…” vì các ngươi chẳng có lòng yêu thương (Mt 25, 41).
Đây là hậu quả khủng khiếp mà người sống xa lìa tình yêu phải gánh chịu.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi đàn cá rời khỏi nước thì chúng phải chết thối, chết khô; tương tự như thế, khi chúng con xa lìa tình yêu, nghĩa là không tuân giữ luật yêu thương Chúa dạy thì chúng con sẽ phải chịu đau khổ đời đời.
Xin giúp chúng con sống đời bác ái, chia sớt đùm bọc nhau, phục vụ chăm sóc những người lâm cảnh khốn cùng… nhờ đó, chúng con được sống hạnh phúc muôn đời trong biển yêu thương của Chúa. Amen.
Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây là di ngôn bất hủ của Thánh Gioan sau một đời theo Chúa. Thánh PS6-B150
“Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây là di ngôn bất hủ của Thánh Gioan sau một đời theo Chúa. Thánh nhân đã được diễm phúc tựa đầu vào lòng Chúa trong tiệc ly, lắng nghe những thổn thức yêu thương của Chúa.Thánh nhân đã đi theo Chúa trên con đường thập giá đến tận đồi Canvê, được Chúa trối thay Ngài làm con Đức Mẹ. Sau đó là những năm tháng dài suy niệm chín mùi về con người, cuộc đời và tình yêu của Chúa, để sau cùng cất lên di ngôn bất hủ ấy. Thiên Chúa yêu thương tạo thành con người giống hình ảnh Người và mời gọi chung chia hạnh phúc muôn đời. Người yêu thương nên hứa cứu độ con người sau khi con người sa ngã phạm tội. Và Người đã ban Con Một để thực hiện cứu độ, hồi phục lại quyền làm con Thiên Chúa và được hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa.
Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã biểu hiện tình thương vô vàn của Cha bằng sự hoàn toàn vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự và vâng phục đến chịu chết thập giá. Suốt một đời, Chúa Giêsu miệt mài rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, chạnh thương đoàn chiên không người chăn dắt, đi lại và đồng bàn với người tội lỗi để ban ơn tha thứ cho họ. Chúa Giêsu ban luật mới là luật yêu thương mà thánh Phaolô quả quyết “yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”. Chúa Giêsu dạy, vào ngày chung thẩm, Ngài sẽ xét xử mọi người dựa trên tình yêu : Sự gì làm cho một người bé mọn là làm cho chính Ta. Cuộc đời kitô hữu được mời gọi hãy sống yêu thương. Chỉ có tình yêu mới đem lại hạnh phúc. Chúa xét đoán chúng ta không dựa trên tuổi tác, công phúc, tài đức, nhưng chỉ dựa trên tiêu chuẩn độc nhất là yêu thương, vì Người là Thiên Chúa tốt lành, nhân hậu và giàu lòng thương xót.
Tin Mừng hôm nay, tiếp nối khung cảnh Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về ẩn dụ cây nho và cành nho để dạy các môn đệ bài học: ở lại trong tình yêu của Chúa : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, muốn “ở lại trong tình yêu của Chúa”, chúng ta phải yêu thương nhau “như Chúa đã yêu” chúng ta. Chúa còn hứa ban cho những ai biết yêu “như Chúa đã yêu” sẽ được hưởng niềm vui của Chúa, được làm bạn hữu của Chúa và muốn xin gì Chúa cũng ban cho.
Vì thế, khi nói đến Kitô giáo, cách riêng Công giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
Như Chúa Giêsu đã yêu Thánh Augustinô viết : khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu hiến dâng mạng sống.
Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu các con“, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Tình yêu của Chúa được biểu lộ qua những việc làm cụ thể sau đây.
Chúa yêu thương con người cả phần hồn lẫn phần xác. Chúa chữa lành bệnh tật phần xác như cho kẻ què được đi, người câm nói được, người mù sáng mắt, người phung hủi được sạch… và còn xua trừ ma quỷ, thứ tha tội lỗi… Chúa không chỉ ban lời hằng sống mà còn dùng quyền năng để nuôi đám đông dân chúng mà Tin Mừng tường thuật qua phép lạ hóa bánh (x. Lc 7,22; Mt 14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15).
Chúa quan tâm săn sóc con người cả đời này lẫn đời sau. Sau phép lạ hóa bánh, Chúa mời gọi dân chúng hãy lo tìm kiếm lương thực đem lại sự sống trường sinh, đó là tin vào Người là Đấng mà Chúa Cha sai đến (x. Ga 6,26-29).
Chúa vừa khoan dung tha thứ cho người có tội nhưng vừa quyết liệt tẩy trừ tội lỗi và lên án các gương mù, gương xấu, nhất là khi chúng gây dịp tội cho những người bé mọn.
Khi yêu thương, Chúa sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, đau khổ xảy đến cho mình, nhưng Người luôn tìm cách bảo vệ, gìn giữ những kẻ Chúa Cha đã ban cho Người khỏi những sự dữ (x. Ga 10,28; 17,11-12; 18,8-9). Người sẵn sàng đón nhận lời vu cáo, nhưng vẫn công bố lời chân lý trước cả thần quyền lẫn thế quyền (x. Mt 26,59-66; Ga 18,33-38)…
Anh em hãy yêu thương nhau
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn (x. 1Cr 15,26 . 54; Dt 2,14), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12, 24).
Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ phải làm được những công việc lớn lao, nhưng muốn “các con hãy thương yêu nhau”.
Nói lời yêu thương thì dễ, nhưng để thực hành giới răn yêu thương không dễ chút nào. Yêu thương đòi hỏi hy sinh, chấp nhận chịu thua thiệt và có khi chấp nhận tổn hại đến bản thân và cả mạng sống.
Yêu thương là ban tặng trái tim của mình cho người yêu; yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16); “ Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau.Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu của kẻ ấy chỉ là trên môi miệng.
Yêu thương còn là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình.
Yêu nhau là đón nhận nhau: đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau, càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình.
Tình yêu làm hỗn mang trở nên mầu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã bước vào trần thế bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương chúng ta bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Chúng ta phải yêu thương nhau vì chính Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
Dùng thời gian để yêu thương
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy: Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh. Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan. Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác. Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn. Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa. Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Giá trị đời người không được tính bằng thời gian ngắn hay dài, nhưng ở chỗ mình đã sử dụng nén bạc thời gian, sức khỏe, trí tuệ Chúa ban để phục vụ cuộc sống ra sao. Giá trị ở chỗ mình đã sử dụng thời gian như thế nào, có sinh nhiều ích lợi cho mình, cho tha nhân và cho thế giới hay không.Thời gian qua đi thật mau và chẳng chờ đợi ai. Sống có ý nghĩa là làm cho thời gian hiện tại trở thành yêu thương.
Và như thế, được sống ở trên đời phải là một hồng ân, được một phút giây hiện hữu phải là một lời ca ngợi và được một ngày phục vụ yêu thương là một mùa xuân hạnh phúc. Và như thế, chúng ta có thể nói lên trong thanh thản vui tươi như Kahil Gibran : Cám ơn đời mỗi sáng mai thức dậy.Ta được thêm ngày mới để yêu thương.