Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 201-250 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
------------------------------------------ Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày: Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới. HiệnXuống-201
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào? 2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới? 3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không? --------------------------------
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu: HiệnXuống-202
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không? 2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không? 3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì? --------------------------------
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và: HiệnXuống-203
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
Thưa anh chị em,
Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió mới.
Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa một niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư, thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7). Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng trong tình yêu thương xây dựng. --------------------------------
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên: HiệnXuống-204
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện. --------------------------------
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh: HiệnXuống-205
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người" trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ "đất sét" hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần" này đến ngày thứ nhất trong tuần khác.... từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần... sống nhịp theo những lần "hiện đến" của Đức Giêsu. Chúng ta không thích "nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật" một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! "Cần phải thở hít mà"? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó "gây khiếp sợ".
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi "xảy ra biến cố Phục sinh", là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi" mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ "đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: "Sự chết hoạt động nơi chúng tôi... Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới... Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời" (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là "Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống". Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì "tinh thần" và "thân xác" liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người" cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến "đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người trở thành một "thân thể thiêng liêng", một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa" (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống. Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị "nhốt kín", giờ lại được "sai đi".
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ "xí nghiệp" quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai" Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha". Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: "Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí" (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: "Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hiện hành: đó là "Hơi thở" của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: "Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động" (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời nay không thích "nhận": người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình "như thần thánh". Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
"Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy". Cần phải "nhận "lãnh" "Thân Thể". Nên cũng cần phải "nhận lãnh" Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
- Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
- Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: "Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có "lãnh nhận" ơn tha thứ đó không? --------------------------------
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI HƠI VÀO CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ: HiệnXuống-206
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng" ("L'evangile de Jean, Centurion". trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngôn sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu quả của nó thật là khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với người kia như những người được Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Người. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. "Các môn đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2. Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp "ồn ào" của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại "thiên đường đã đánh mất" để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Người, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả như là:
- "Paraclet", Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
- "Thầy chân lý", giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban "để ở với anh em luôn mãi" và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
- Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
- Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: "Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy".
- Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: "Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu. --------------------------------
Trong cuộc sống đời thường, có những người giàu và người nghèo. Có những người nhờ cha mẹ: HiệnXuống-207
Trong cuộc sống đời thường, có những người giàu và người nghèo. Có những người nhờ cha mẹ ông bà tạo cho họ hoàn cảnh sống mà họ trở nên giàu có. Cũng có những người nhờ dịp may nào đó, họ biết tận dụng nên đời sống được cải thiện tốt hơn.
Cũng có những người biết tận dụng những gì mình có, như tài năng sức lực và trí thông minh để vương lên. Những người biết tận dụng hoàn cảnh sống để vương lên như thế, đời sống của họ không đến nỗi tệ. Nhưng cũng có những người được cha mẹ lo lắng, để lại của cải,sau một thời gian họ vẫn không vương lên được, đôi khi còn rơi vào cảnh bần hàn. Có những người có dịp may đến với mình, như trúng số, hay được người nào đó ủng hộ, bảo bọc, thế mà họ vẫn không vương lên được. Cũng có những người có đầy đủ sức khỏe, trí óc thông minh, nhưng họ vẫn đành chịu cảnh bần hàn, cơ cực. Đó là vì họ không biết xử dụng những hoàn cảnh, dịp may mà mình đã có, hay họ xử dụng không đúng cách để những gì mình có bị tiêu hao đi một cách vô lý.
Hoàn cảnh sống vẫn đầy đủ cho mọi người. Dịp may mỗi người cũng không phải thiếu. Nhưng điều quan trọng là mỗi người có biết xử dụng cho đúng những gì mình có để vương lên, hay phung phí nó một cách vô ý thức.
Hôm nay chúng ta mừng lễ CTT hiện xuống. Biến cố mà chúng ta vừa nghe, vừa chứng kiến Chúa Giêsu đã thực hiện cho các môn đệ của Ngài. Các môn đệ được ban bình an, hơi thở của sức sống mới, sức sống của Đấng Phục Sinh. Ngài đã ban sức sống mới và trao trách nhiệm cho những môn đệ thân yêu. Ngài đã làm thay đỗi hoàn toàn cuộc sống của các ông, vì các ông biết nhận lãnh những gì Ngài ban, biết gìn giữ và biết xử dụng những gì mình đang có.
Từ một con người không có gì hết, các ông đã có tất cả. Từ một người nhát đảm sợ sệt, các ông đã trở thành can đảm lạ thường, ngay cả cái chết cũng không sợ. Từ một người ù lì dốt nát, các ông đã trở nên thông minh lanh lợi, khiến cho bao nhiêu người phải tức giận vì không thể tranh luận nỗi với các ông. Đó là vì các ông đã nhận lãnh CTT , và các ông không để cho những gì mình có trở nên vô ích. Các ông đã biết xử dụng ơn Chúa một cách tốt đẹp, nên Ơn Chúa sinh ích lợi cho các ông và cho những người nhờ các ông mà cũng nhận lãnh Ơn Chúa như các ông.
Ơn CTT cũng đã đến với từng người trong chúng ta, ngày lãnh bí tích rửa tội, thêm sức, và trong suốt những ngày sống trên trần gian, Ơn CTT luôn đầy tràn bao bọc lấy mỗi người. Ơn Chúa vẫn tràn đầy, nhưng con người thì một số đông vẫn còn thiếu, vì không biết xử dụng Ơn Chúa. Một số sống dường như không cần đến Ơn Chúa, họ chỉ sống theo ý riêng tư, thỏa mản dục vọng, đi tìm những thú vui trần thế, tìm những lợi lộc cho bản thân mà không cần biết đến người chung quanh.
Họ chỉ biết có bản thân mình, nên để tự ái lên quá cao, đường như chỉ có con người của họ là trên hết. Còn một số dường như phung phí Ơn Chúa, họ lạm dụng những gì Thiên Chúa ban để mưu tìm lợi ích riêng tư, dùng danh nghĩa Thiên Chúa để làm lợi cho bản thân mình bằng cách này hay cách khác. Cũng có những người lãnh nhận Ơn Chúa rồi để cho Ơn Chúa bị chết ngạt đi, vì tính lười biếng, nên Ơn Chúa không sinh lợi gì cho họ cũng như cho những người chung quanh. May mắn thay, Ơn CTT vẫn hoạt động vững mạnh nơi những người trung thành như các môn đệ khi xưa. Trong bất cứ thời đại nào cũng có những người biết xử dụng Ơn Chúa, biết làm cho sinh lợi cho mình và cả cho những người chung quanh. Họ sinh lợi bằng đời sống tốt đẹp, bằng những hành động bác ái, những cử chỉ yêu thương. Họ biết làm giàu đời sống mình bằng những Ơn Thánh đã nhận được.
Chúng ta, những người ngồi trong nhà thờ này, đang là những người giàu hay người nghèo Ơn CTT . Mỗi người cứ nhìn vào đời sống chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua, nhìn vào những gì mình đã được và mất, chúng ta sẽ biết mình như thế nào.
Xin CTT soi sáng cho mỗi người chúng ta biết xử dụng Ơn Chúa cho chính đáng. --------------------------------
Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh không phải là điều dễ dàng với sức riêng con người. Hơn nữa: HiệnXuống-208
Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh không phải là điều dễ dàng với sức riêng con người. Hơn nữa, niềm tin ấy là cốt lõi của đạo chúng ta. Niềm tin ấy sẽ hướng dẫn cả cuộc đời của người tín hữu. Vì thế, chúng ta phải cần nhờ đến một sức mạnh thiêng liêng. Sức mạnh ấy do chính Thiên Chúa Cha ban cho. Đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta nhớ lại khi Chúa Giêsu bị bắt, thì các Tông đồ đã trở nên những người hoang mang. Các ông chỉ còn biết vào phòng đóng kín cửa. Thế rồi, tâm trạng sợ hãi của các ông không còn nữa khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Bởi vì khi đến cùng các ông, Chúa Giêsu đã trao ban bình an và Chúa Thánh Thần cho họ. Từ những người nhút nhát, bấy giờ các ông đã được biến đổi thành những người can đảm và mạnh dạn lạ thường.
Nhìn vào Giáo hội, chúng ta cũng sẽ thấy gần 2000 năm qua Giáo hội đã trải qua biết bao sóng gió. Có lúc tưởng chừng mất hết hy vọng, hết phương cứu chữa. Thế nhưng nhờ có sức mạnh của Chúa Thánh Thần nên Giáo hội vẫn còn đứng vững và lớn mạnh cho đến ngày nay.
Chúa Thánh Thần cũng đã ở với Chúa Giêsu từ giây phút được thụ thai cho đến dưới chân thập giá. Chúng ta đã được Giáo hội dạy tuyên xưng rằng: “Bởi phép Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã chịu thai trong lòng Đức Mẹ”. Đặc biệt, trong vườn Câu Dầu nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần thì có thể nói Người đã không thể hoàn thành được sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Vậy Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Qua Giáo lý, Giáo hội dạy ta biết: “Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy”. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là sức mạnh tình yêu xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con.
Chúa Thánh Thần được biểu tượng bằng gió, nước, lửa, khí,... Vì thế, Chúa Thánh Thần thật là cân thiết trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa qua Giáo hội trao ban Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Cách đặc biệt, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhờ có Chúa Thánh Thần mà chúng ta được soi sáng để biết cần phải làm gì mà đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, cũng chính Người sẽ dạy ta biết cầu nguyện.
Bằng cách nào ta có thể biết Chúa Thánh Thần còn ở trong ta. Thánh Phaolô chỉ cho trong thư gởi tín hữu Galata như sau: “Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23a). Như vậy, khi ta sống ghen ghét, đố kỵ, ganh tỵ, hận thù, chia rẽ... là lúc ta không còn để cho sức mạnh tình yêu của Chúa Thánh Thần ngự trị trong tâm hồn ta. Những lúc ấy chúng ta hãy mau quay về xin Chúa Thánh Thần chữa lành và đổi mới cách sống của mình.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng con biết để cho Người hướng dẫn đời con. Bởi vì tự sức mình, con không thể sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha được. --------------------------------
Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đồng đâm thấu cạnh: HiệnXuống-209
Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đồng đâm thấu cạnh nương long để máu cùng nước chảy ra từ đó sinh ra nguồn sự sống cho nhân loại, khai sinh Giáo hội Chúa Kitô. Nhưng để Giáo hội ấy được giới thiệu với thế giới thì phải đợi đến 50 ngày sau tức vào ngày Lễ Ngũ Tuần, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì dân Do Thái hay nói rộng hơn là thế giới mới nhận ra khuôn mặt của Giáo hội Chúa Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần đã làm một cuộc đổi mới nơi Giáo hội, đã hoàn tất những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện nơi đời sống dương thế của Ngài. Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ta hãy suy niệm để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như trong chính cuộc sống chúng ta.
Trước hết, Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong Giáo hội. Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập mà các tông đồ là những tín hữu đầu tiên. Ngay trong cuộc thương khó của Chúa Kitô, các tông đồ, các môn đệ đã bỏ chạy tán loạn. Sau khi Chúa Phục sinh mặc dù các tông đồ có hội họp lại với nhau nhưng sự hiệp nhất này là vì sợ hơn là vì tin vào Chúa phục sinh, bằng chứng là Tôma đã có lần không cùng hiệp nhất với các môn đệ khác. Nhưng trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông đã có mặt đông đủ và như trong bài đọc Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 thuật lại rằng “Mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của họ”. Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người tầm thường thành những con người truyền giáo, từ những người phường chài ít học trở nên người nói lời Thiên Chúa cách lưu loát và đặc biệt Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người để họ cùng nghe và cùng hiểu Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo cho mọi dân tộc.
Nhìn vào Giáo hội ngày nay Chúa Thánh Thần đóng vai trò hiệp nhất trong Giáo hội cách đặc biệt. Ngài hiệp nhất muôn dân tộc, muôn người… để cùng tuyên xưng vào một Thiên Chúa duy nhất. Trong Chúa Thánh Thần không có khoảng cách, không có ranh giới. Dù có sự khác nhau về địa lý, và bản sắc văn hoá nhưng tất cả đều nên một trong Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến cho mọi hoạt động tông đồ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu và ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh thì các tông đồ luôn sống trong sợ hãi, luôn sống trong hoang mang bí lối… Nhưng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống thì các ông đã biến đổi một cách rõ rệt. Một Phêrô nhút nhát chối Thầy nay mạnh dạn tuyên xưng: vị chịu chết trên Thập Giá là Thầy mình, là Thiên Chúa, và cùng với Gioan ông đã mạnh dạn tuyên bố “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa điều ấy có phải lẽ không?” (Cv 4,19). Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ hăng say đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và với những con người tham sống sợ chết mà nay lại dám lấy mạng sống mình để minh chứng Đấng chịu chết trên Thập Giá là Thiên Chúa. Sự lớn mạnh của Giáo hội thời sơ khai chính là bằng chứng cho thấy rõ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần như: Các tông đồ mạnh dạn đi loan báo Tin Mừng, thiết lập các phó tế, thành lập các giáo đoàn, Rửa tội cho dân ngoại.. Như thế chính Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến mọi hoạt động tông đồ.
Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội chúng ta ngày nay đơn cử như Giáo hội Việt Nam chúng ta. Năm 1553 Tin Mừng được loan báo đến nước Việt Nam chúng ta nhưng phải trải qua nhiều gian lao khó khăn. Và hàng vạn người đã lấy mạng sống mình để tuyên xưng niềm tin. Nhìn với khía cạnh con người đây qủa là một thất bại vì sự mất mát quá lớn. Nhưng dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì những khó khăn, tù đày, nhục hình… được mặc cho một ý nghĩa lớn lao hơn, nó như là hạt giống ươm mầm cho ngày nay nước Việt Nam có hàng triệu con người Việt Nam tin vào Thiên Chúa. Và hiện nay Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động âm thầm qua những biến cố, những cảnh huống của cuộc sống để đưa dẫn mọi người vững bước trên con đường đi theo Chúa.
Còn nhiều, còn nhiều những tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội nói chung và trong mỗi con người chúng ta nói riêng. Như thế chúng ta phải sống như thế nào để cộng tác với Chúa Thánh Thần Đấng vẫn hằng hoạt động trong chúng ta.
Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, vô hình. Chẳng phải Chúa Thánh Thần chỉ được ví như là lửa, gió, nước … Nhưng phải nhớ rằng Ngài là Đấng thiêng liêng và hoạt động của Ngài là vô tận nên ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho ta nhận được đâu là thánh ý Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn thành trong đời sống của mình. Mặt khác, chúng ta đừng bó buộc Chúa Thánh Thần phải là như thế này như thế kia, nhưng Ngài là tất cả nên chúng ta phải suy ngắm để khám phá được Ngài.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất và Ngài muốn chúng ta là dụng cụ để Ngài thực hiện sự hiệp nhất đó trong gia đình, trong lối xóm, trong xã hội… Nên khi trong chúng ta có sự bất hoà là khi chúng ta đi ngược lại với sự tác động của Thần Khí.
Chúa Thánh Thần là nguồn và phát kiến mọi hoạt động tông đồ. Hãy để Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta. Hãy hoạt động hết khả năng của mình trong sự suy ngắm và cầu nguyện để rồi Chúa hoàn tất những gì Ngài muốn thực hiện.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự trong ngoài chúng ta để chúng ta được trở nên mềm mại trong lòng bàn tay Thiên Chúa từ đó Ngài sẽ làm nên những tác phẩm đẹp ý Ngài. --------------------------------
Không thể nào sống đời tín hữu nếu không có ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần. Nhưng để: HiệnXuống-210
Không thể nào sống đời tín hữu nếu không có ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần. Nhưng để đánh giá cho đúng vai trò của Người, chúng ta phải bắt đầu với chính Đức Giêsu.
1. THÁNH THẦN VÀ ĐỨC GIÊSU
Ngay cả Đức Giêsu cũng cần đến Thánh Thần. Thánh Thần đóng một vai trò to lớn trong đời sống của Người. Thánh Thần ngự xuống trên Người vào lúc chịu phép rửa, mặc khải cho Người biết mình là Con yêu dấu của Chúa Cha.
Khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng đã nhận lấy quyền lực từ trên cao để thi hành sứ mạng Người sắp bắt đầu. Thánh Thần không chỉ được ban cho một thời điểm nào đó nhưng ở lại với Người suốt sứ vụ công khai. Đức Giêsu liên tục được hướng dẫn và củng cố bởi Thánh Thần.
Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ bằng cách gán cho mình những lời của tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18-19).
Thật là một sứ mạng đẹp đẽ. Và Đức Giêsu cũng đã trung thành với sứ mạng ấy như thế nào ! Đức Giêsu được tràn đầy Thánh Thần và sức mạnh phát ra từ Người qua những lời đầy ân sủng và những việc xót thương.
2. THÁNH THẦN VÀ CÁC TÔNG ĐỒ
Cũng chính Thánh Thần đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết. Cũng chính Thánh Thần soi lòng mở trí các môn đệ của Người để họ hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu. Rồi khi Người đi vào vinh quang bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu đã tuôn đổ Thánh Thần xuống trên những kẻ tiếp tục sứ mạng của Người. Chúa Thánh Thần “xuống” trên các tông đồ, một cách cá nhân và tập thể. Được tràn đầy Thánh Thần, họ đã bắt đầu thi hành sứ mạng với sự can đảm và tin tưởng biết bao.
3. THÁNH THẦN VÀ CHÚNG TA
Cũng chính Thánh Thần ấy được ban cho chúng ta khi chịu Phép rửa tội và Thêm Sức. Thánh Thần không chỉ được ban cho ta vào một thời khắc nào đó nhưng luôn theo ta trên cuộc hành trình theo gót Đức Kitô.
a/ Vai trò của Thánh Thần
Thánh Thần ban cho ta sức mạnh để tham dự vào công việc của Đức Giêsu. Thánh Thần là sức mạnh của chúng ta khi ta yếu đuối, là Đấng an ủi chúng ta khi buồn phiền, là Đấng hướng dẫn chúng ta lúc nghi nan, là Đấng trạng sư bầu cử cho chúng ta. Chúng ta không thể bước đi mà không có Chúa Thánh Thần.
b/ Hoa quả của Thánh Thần
Thánh Phaolô nói về những hoa quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5, 22).
c/ Đừng dập tắt Thánh Thần
Thánh Phaolô cũng cảnh giác chúng ta đừng sống bê tha, đam mê lạc thú, bởi vì nó chống lại hoặc dập tắt Thần Khí trong ta. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén và những điều khác giống như vậy” (5, 19-21). Càng từ bỏ chính mình và “nhờ Thần Khí mà tiến bước” (5, 25) cuộc sống của chúng ta càng mang lại hoa trái dồi dào.
d/ Những biểu tượng của Thánh Thần
Thần Khí mà chúng ta được lãnh nhận không phải là một thần khí sợ hãi nhưng mạnh mẽ. Gió, lửa và hơi thở là những biểu tượng của sức mạnh. Gió có thể làm lay chuyển, làm bật rể. Lửa thì có khả năng tinh luyện và làm biến đổi. Sức mạnh mà chúng biểu tượng chính là quyền năng của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần ban cho các tông đồ năng lực, sự can đảm và tình yêu để tiếp tục công việc Đức Giêsu đã trao cho họ. Thánh Thần còn là hơi thở, nghĩa là Đấng tái tạo mọi sự trong ngoài chúng ta, như lời cầu nguyện của ca tiếp liên trong thánh lễ hôm nay: “không thần lực phù trì, kẻ phàm nhân cát bụi thật chẳng có điều chi mà không là tội lỗi. Hết những gì nhơ bẩn, xin rửa cho sạch trong, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương. Cứng cỏi uốn cho mềm, lạnh lùng xin sưởi ấm, những đường nẻo sai lầm, sửa sang cho ngay thẳng…”
Kết luận
Không có Chúa Thánh Thần thì đã không có Giáo Hội như hôm nay. Không có Thánh Thần thì các môn đệ cũng không là các tông đồ của Đức Kitô. Và nếu không có Thánh Thần thì cuộc đời của chúng ta sẽ ra sao ? -------------------------------
Nhìn lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức, nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu giữa lòng Giáo hội. Chúa Giê-su Ngài đã chiến thắng thế gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ chở che Giáo hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời. Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop. . . Và còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương trình của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giáo hội biến chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa Giê-su Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ rằng Phê-rô vụng về năm nào lại có thể mang về cho Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói: “Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín hữu”? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Tê-rê-sa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Vì thế, là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con người mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để nguyền rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm tay nhau đi chung một con đường có tên Giê-su. Con đường của Giê-su là con đường âm thầm, mục nát để đem lại sự sống cho đời. Con đường của Giê-su đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương trong lòng Giáo hội.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương”. Amen
Trước khi về với Cha, và trong quyền năng của Đấng phục sinh, đức Giê-su đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Ngài. Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Vậy Thánh Thần là ai?
Phúc âm ghi lại hai từ ngữ đức Giê-su dùng để chỉ nhân vật này: Thần Khí (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclete) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu ước, Thần Khí mang ý nghĩa: sức mạnh của Yaweh, tức đơn thuần là một thuộc tính của Yaweh. Trong Tân ước, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Hơn thế nữa, nội dung của thuộc tính này, từ Cựu qua Tân ước, cũng đã thay đổi tận căn. Sức mạnh của quyền uy trở thành sức mạnh của lòng xót thương, sức mạnh phán quyết trở thành sức mạnh của tha thứ. Chính vì thế mà một danh xưng mới được đức Giê-su tác chế để biểu thị nhân vật này: Đấng Bảo Trợ.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ ngữ mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải là điều đơn giản. Đã có nhiều tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ này, cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong thơ thứ nhất của mình (14,16.26; 15,26; 16,7; 18,36; và 1Ga 2,1). Danh xưng này được áp dụng cho chính đức Giê-su trước hết, và cho nhân vật sẽ được phái đến sau: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin… Trong 1Ga 2,1 chính đức Giê-su được gọi là Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Và Thánh Thần là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến, sau khi đức Giê-su trở về nhà Cha.
Hiểu biết Thánh Thần như thế quả là điều quan trọng. Thánh Thần chính là thần khí của đức Ki-tô Giê-su, mà khí lực của đức Giê-su Ki-tô là biệu lộ và thực thi lòng nhân từ vô biên của Chúa Cha. Vì thế mà chỉ trong Thánh Thần, người Ki-tô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như đức Giê-su đã muốn mạc khải cho biết. “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14,26) Điều kiện tối cần để trở thành môn đệ của Giê-su là phải nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Và đức Giê-su còn khảng định chắc nịch: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,17). Như vậy Thánh Thần không hề xa lạ, mà chính là niềm tin của tín hữu vào đức Giê-su-Parakletos. Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8,15 và Gl 4,6).
Đức Giê-su đã hứa ban Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ Ngài; đã thổi Thánh Thần trên các Ngài khi phục sinh từ cõi chết. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos-Thánh Thần đã bộc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với sự hiện diện trung tâm của đức Maria), và thế là niềm tin vào Giê-su-Paracletos cũng bùng nổ khắp mặt đất. Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng cho mọi người, mọi thế hệ, biết: “Giê-su Ki-tô là Cứu Chúa”.
Và cũng trong tác động của Thánh Thần, Maria-đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Ki-tô hữu sau này cầu khẩn với danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra), và quả thực tước hiệu này là rất xác đáng. Nhưng không chỉ Maria, cả tôi nữa, linh mục của đức Giê-su trong Thần Khí, tôi thi hành việc bảo trợ (parakletos) các người nghèo khó và tội lỗi nhất, để minh chứng về sự hiện diện sống động của Thánh Thần trong tôi?
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương của Ngài. Xin hãy nối kết con với đức Giê-su thập giá, để con được đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ của Ngài. Trong, và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Maria, xin hãy biến cải con, và các phẩm trật trong Giáo hội Chúa, trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho mọi người, nhất là những ai yếu đuối và nghèo hèn,trong tác động của Thánh Thần ủi an. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB -------------------------------
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín. Hoang mang sợ hãi đang bao trùm các ông. Ngay lúc đó, Đức Giêsu hiện ra đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con” (Ga.20:19). Ngài thổi hơi vào các ông và nói: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga.20:22). Thổi hơi là dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Thổi hơi để truyền ban sự sống. Hơi thở là dấu chỉ của Sự Sống. Hơi thở tượng trưng cho Sự Sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống.
Khi tạo dựng con người và vũ trụ, Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam và ban cho ông sự sống. Khi Ðức Giêsu Phục Sinh từ cõi chết và hiện ra với các môn đệ, Ngài đã thổi hơi vào các ông, để đổi mới các ông, để ban sinh khí và sự sống mới cho các ông.
Từ khi nhận được Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã trở nên một con người mới. Trước kia các ông nhút nhát sợ hãi, nay các ông mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ông chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ông cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ông còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ông chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ông. Các ông đã nhận được sự sống mới: sự sống của Chúa, sống vì Chúa và sống cho Chúa.
“Bình an cho các con…Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga.20:21). Đấng Phục Sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du thăm viếng bình thường, nhưng Ngài đến còn để trao ban một sứ mệnh. Ngài sai các môn đệ lên đường để đến với muôn dân, để tiếp tục xứ mạng của Ngài, để loan báo Tin Mừng Ơn Cứu Độ đến cho muôn người.
Hôm nay Ngài cũng đến, Ngài sai tôi và bạn ra đi để tiếp tục công việc của Ngài. Ngài không sai ta đi một mình, nhưng ban cho ta bình an của Ngài, thứ bình an mà thế gian không thể lấy được. Và hơn thế nữa, Ngài ban cho ta Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh; là sự khôn ngoan sinh động và là người đồng hành hướng dẫn ta trong mọi sự.
***
Ước gì Thánh Thần Chúa thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè và hoang mang khép kín đang đè nặng trong lòng con. Và ước gì Thánh Thần Chúa với hình lưỡi lửa luôn bao bọc và che chở con, để con mạnh dạn lên đường loan báo Tin Mừng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần! Xin Ngài hãy đến và sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1:Acts 2:1-11 – BĐ2:1Cor 12:3-7,12-13 – PÂ: Gioan 20:19-23) -------------------------------
Sự sống con người có hai điều rất cần thiết và rất gần gũi: đó là hơi thở và nhịp đập của trái tim. Dĩ nhiên còn nhiều cái khác cũng rất cần thiết, ở đây ta chỉ bàn về hai điều này thôi. Trước hết, hơi thở: đó là thứ vô cùng cần thiết. Không có nó không thể có sự sống và nó đồng nghĩa với cái chết. Để diễn tả sự chết, người ta nói: nó hết thở rồi (nghĩa là đã chết). Hơi thở quan trọng như thế, vậy mà bình thường không ai để ý nó, cũng không mấy người quan tâm gìn giữ nó cẩn thận. Đợi tới khi gần chết, thiếu hơi thở, lúc đó ta mới thấy nó cần thiết vô cùng…Rồi nói tới nhịp đập của con tim: hơi thở nhiều lúc ta còn chủ động, còn dễ thấy, nhưng nhịp đập của trái tim lại là một hoạt động tự phát của cơ thể; nhiều lúc ta không thấy cần nó, nhưng nó lại là thứ không thể thiếu cho sự sống…. Hơi thở, nhịp đập con tim cần cho sự sống thể xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng cần thiết cho sự sống linh hồn ta y như vậy. Đó chính là đề tài ta sẽ suy niệm ngày lễ Chúa Thánh Thần hôm nay.
a. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ người là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* hãy nhận lấy Thánh Thần (Gn 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là:Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b. hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vũ trụ và trong hội thánh:
Ngay từ chương đầu của sách Sáng thế ký,đã có nói về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động và sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người cách tốt đẹp và lạ lùng… Đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuống trần gian, ta cũng thấy mọi công việc và hoạt động của Người đều có sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần…Rồi chính Hội thánh Chúa Giêsu đã lập ở trần gian, trước khi Chúa về trời, Người đã giao lại cho các tông đồ, chính Hội thánh đó đã đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần; nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện diện sống động trong hội thánh trong các tông đồ từ hôm đó. Chính Người là nguyên lý, là động lực, là sức mạnh tác động trên các tông đồ, trong Hội thánh.
Người không tin Chúa Thánh Thần, họ nói: làm sao để chứng minh Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong hội thánh? Cùng lắm Hội Thánh ở trần gian là một tổ chức hữu hình, có cơ cấu khéo léo hơn các tôn giáo khác!…Ta tin vào Chúa Thánh Thần không phải là không có căn cứ: 1. vì chính Chúa Giêsu trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần. 2. các tông đồ trước ngày lễ Ngũ tuần, rất nhút nhát, ít học; vậy mà sau khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẵn sàng làm mọi chuyện, ngay cả hi sinh chính mạng sống mình. 3. Hội thánh qua 20 tk gặp biết bao sóng gió, tưởng có lúc tan tành rồi; vậy mà đến hôm nay vẫn đứng vững. Thực ra, nếu không có Thánh Thần, Hội thánh tự mình đứng vững được chăng?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù không thầy rõ như hai cộng hai là bốn, nhưng rõ ràng có nhiều biến cố trong Hội thánh không thể cắt nghĩa được nếu không nói đến ơn sủng của Chúa Thánh Thần. là người kitô hữu, ta có tin không?
* Chúa Thánh Thần là sức sống, ngồn mạch mọi ơn sủng, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, không thể thiếu cho mọi kitô hữu. Ta có tin, có năng chạy tới và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Người không? -------------------------------
· Cv 2,1-11: (4) Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.
· 1Cr 12,3b-7.12-13: (6) Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. (13) Tất cả chúng ta đều được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
· TIN MỪNG: Ga 20,19-23
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».
2. Có mấy thứ bình an? Trong bài Tin Mừng, thứ bình an mà Đức Giêsu ban cho các tông đồ là thứ nào?
3. Muốn được thứ bình an của Thiên Chúa thì ta phải làm gì? Điều quan trọng nhất để được thứ bình an ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Bình an là một yếu tố cần thiết trong cuộc đời
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chúc bình an cho các tông đồ tới hai lần. Một lần trước khi cho các ông chứng nghiệm thật rõ ràng và chắc chắn rằng Ngài đã sống lại thật. Một lần trước khi trao sứ mạng, ban Thánh Thần và ban quyền «cởi buộc» cho các ông. Điều đó có ý nghĩa là sự bình an trong tâm hồn là một yếu tố cần thiết để có kinh nghiệm về Thiên Chúa, để nhận lãnh Thánh Thần, để đón nhận và thi hành sứ mạng tông đồ, và để phán xét khi thực thi quyền tháo cởi hay cầm buộc.
Thật vậy, bình an là điều kiện nền tảng của hạnh phúc, của sự khôn ngoan sáng suốt, của đời sống tâm linh. Thiếu bình an, ta không thể sống hạnh phúc, ta sẽ mất khôn ngoan sáng suốt. Thường xuyên mất bình an trong tâm hồn chứng tỏ một đời sống tâm linh còn non kém. Vì thế, bình an là một yếu tố rất quan trọng trong cuộc đời.
2. Hai thứ bình an
Có hai thứ bình an: bình an bên ngoài và bình an bên trong.
a) Bình an bên ngoài: là thứ bình an bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những hay điều kiện ngoài mình. Ta được thứ bình an này khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, dễ dàng, không bị đe dọa, không có nguy hiểm, không gặp khó khăn, được vừa ý mọi chuyện… Thứ bình an này người khác có thể ban tặng hay tạo ra cho ta, mà cũng có thể làm ta mất đi.
b) Bình an bên trong: là thứ bình an không bị lệ thuộc ngoại cảnh mà tùy thuộc tình trạng hay thái độ nội tâm. Một người có nội tâm vững vàng vẫn có thể cảm thấy tâm hồn mình bình an cho dù gặp nghịch cảnh, bị đe dọa, gặp nguy hiểm, khó khăn, hay gặp chuyện không vừa ý. Thứ bình an này, ngoài Thiên Chúa ra, không ai có thể ban hay tạo cho ta, và cũng không dễ dàng lấy mất đi của ta.
Một người được bình an bên ngoài nhưng không có bình an bên trong thì không cảm thấy hạnh phúc. Nhưng người có bình an bên trong thì dù không có bình an bên ngoài vẫn có thể hạnh phúc. Nhiều vị thánh sống rất thiếu thốn, gặp toàn nghịch cảnh, thậm chí đang phải sống giữa những nguy hiểm, nhưng tâm hồn vẫn có thể bình an và tràn đầy niềm vui.
3. Bình an là món quà quí báu của Thiên Chúa
Đức Giêsu đã từng nói về hai thứ bình an trên: «Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian» (Ga 14,27). Bình an mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là thứ bình an bên ngoài, mà là bình an bên trong, một khi đã có thì không ai lấy mất được, trừ khi chính ta làm mất nó. Nó là nền tảng cho những niềm vui nội tâm cũng không ai lấy mất được (x. Ga 16,22). Bình an và niềm vui ấy được xây dựng trên những lý do siêu nhiên, khác với bình an và niềm vui dựa trên những lý do tự nhiên hay ngoại cảnh: «Anh em chớ vui mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy vui mừng vì tên của anh em đã được ghi trên trời» (Lc 10,20).
Bình an nội tâm ấy chính là hoa quả của Thánh Thần (x. Gl 5,22; Rm 8,6; 14,17), và xuất phát từ Thiên Chúa (x. Rm 15,33; 16,20; 2Cr 13,11; Pl 4,9), vượt lên trên mọi hiểu biết của con người (x. Pl 4,7). Nhưng để đạt được sự bình an này thì điều quan trọng là phải có đức tin (x. Rm 15,13). Không đức tin, hoặc đức tin kém cỏi, ta không thể nhận được bình an của Thiên Chúa.
4. Đức tin là điều kiện quan trọng để nhận được bình an của Thiên Chúa
Để có được bình an nội tâm, thứ bình an tự tại, không bị lệ thuộc vào những điều kiện hay hoàn cảnh bên ngoài, điều quan trọng là phải có một đức tin vững mạnh. Một người thật sự tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, tin vào tình thương vô bờ bến và quyền năng vô biên của Ngài, người ấy luôn sống trong bình an.
Chẳng hạn, một trong những điều khiến ta dễ dàng mất bình an là sự bấp bênh của cuộc sống. Chúng ta lo sợ bị mất việc làm, bị thất bại trong công việc làm ăn, bị lừa đảo, bị kẻ ác hãm hại, v.v… Tất cả những điều chúng ta lo sợ ấy rất có thể xảy ra cho chính chúng ta. Chúng ta thường tưởng tượng rằng nếu những bất lợi ấy xảy ra, chúng ta sẽ lâm vào cảnh bất hạnh ngay. Chúng ta không muốn bị bất hạnh, bị lâm vào cảnh khổ. Vì thế, dù những điều đó chưa xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn canh cánh những nỗi lo âu sợ sệt, nhất là khi thấy xác xuất xảy ra khá lớn.
Nhưng nếu chúng ta tin rằng Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đầy quyền năng, Ngài quan phòng mọi sự, không gì xảy ra được ngoài thánh ý của Ngài, và Ngài cũng không bao giờ muốn điều xấu xảy ra cho chúng ta, thì chúng ta sẽ luôn vững dạ an tâm.
Niềm tin ấy rất có nền tảng trong Kinh Thánh. Đức Giêsu nói: «Nếu hoa cỏ ngoài đồng nay còn mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó» (Mt 6,30-32). Chuyện nhỏ nhất xảy ra dưới trần cũng không xảy ra ngoài thánh ý của Thiên Chúa: «Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ» (Mt 10,29-31).
Thiếu niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa khiến chúng ta luôn sống trong lo âu. Nhiều khi chúng ta không dám làm những điều lương tâm đòi buộc, vì nghĩ rằng khi làm những điều ấy thì sẽ có nguy cơ bị lâm vào cảnh khổ, bị tù đày, bị hãm hại. Vì thế, chúng ta ưu tiên lo cho sự an nguy của ta hơn là lo thực hiện thánh ý của Ngài. Nhưng Đức Giêsu bảo: «Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước đã, còn mọi sự khác Người sẽ thêm cho sau» (Mt 6,33).
5. Tin rằng thánh ý Thiên Chúa luôn luôn đem lại lợi ích và hạnh phúc nhiều nhất cho ta, thì sẽ được bình an
Đương nhiên người tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng gặp những thuận cảnh, hay luôn luôn gặp bình an bên ngoài. Rất có thể Thiên Chúa phải thử thách chúng ta để chúng ta nên hoàn thiện hơn, và nhờ đó hạnh phúc hơn. Chính Thiên Chúa cũng đã làm cho «Đức Giêsu phải trải qua gian khổ để trở nên vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10). Ngài cũng đối xử như thế với những người mà Ngài yêu thương và tuyển chọn: «Những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính» (Rm 8,30), và cách Ngài làm cho họ nên công chính là thử thách họ bằng đau khổ: «Anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, vì Thiên Chúa muốn anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường» (1Pr 5,10). Nói chung, tất cả những đau khổ mà Thiên Chúa gửi đến đều nhằm ích lợi cho ta: «Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp lại đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28). Tương tự như cha mẹ bắt con phải uống thuốc đắng, phải bị chích thuốc hay phải chịu giải phẫu đau đớn, chính là để tránh cho chúng những đau khổ lớn hơn, hoặc để chúng hạnh phúc vì có sức khỏe.
Trong cuộc đời, không ai tránh được đau khổ. Rất nhiều khi tránh đau khổ này thì ta lại gặp phải đau khổ khác lớn hơn. Người đời vẫn nói: «Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa», «Ghét của nào Trời trao của ấy». Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng khi tôi sẵn sàng đón nhận những đau khổ mà Thiên Chúa muốn tôi chịu, thì đó là cách tốt nhất để cuộc đời tôi chịu ít đau khổ nhất, và được hạnh phúc nhiều nhất. Tôi thấy những ai tìm đủ mọi cách để tránh đau khổ dẫu phải làm những điều trái lương tâm, và không chấp nhận những đau khổ Chúa gửi đến, thì cuối cùng người ấy phải chịu nhiều đau khổ hơn gấp bội so với người sẵn sàng đón nhận đau khổ Ngài gửi đến. Chính sự sẵn sàng đón nhận những đau khổ Chúa gửi đến làm cho tâm hồn ta luôn bình an.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bình an Cha ban còn tùy thuộc vào thái độ nội tâm của con rất nhiều. Cha không thể ban thứ bình an của Cha cho con khi tâm hồn con đầy nghi ngờ về tình thương và quyền năng của Cha. Cha không thể ban bình an cho con khi lúc nào con cũng muốn tránh tất cả mọi đau khổ, không muốn chấp nhận một đau khổ nào dẫu là đau khổ Cha muốn con chịu. Vậy, xin Cha hãy củng cố đức tin và lòng mến của con đối với Cha, để con nhận được sự bình an của Cha, của Thánh Thần Cha.
Joan Nguyễn Chính Kết -------------------------------
Hàng năm cứ vào dịp lễ hiện xuống, tôi vẫn cảm thấy như có một lực nào đó thúc đẩy một cách rất thiêng liêng, rất kỳ diệu, nhưng lại rất thú vị khi nghe văng vẳng bên tai lời này:” Họ bứ rượu rồi “. Cái cảm giác là lạ vui lây khi tiếng bứ rượu làm tôi cũng ngây ngất như các môn đệ xưa trong ngày lễ Ngũ Tuần được Chúa Thánh thần ngự trị đặc biệt nơi tâm hồn các Ngài một cách đầy quyền năng. Thần khí của Đức Kitô đã biến đổi tâm hồn các môn đệ đến nỗi các Ngài nói năng ai cũng hiểu được dù họ không cùng ngôn ngữ với nhau. Và như thế, bứ rượu là say rượu không còn biết mình nói gì. Ở đây, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Kitô phục sinh đã thở sự sống của Người trên các môn đệ đầu tiên như Chúa Cha đã thở sinh khí sống của Ngài trên con người thứ nhất. Được hơi thở sự sống của Đức Kitô sống lại, các môn đệ họp thành Hội Thánh và Giáo Hội được khai sinh. Sứ vụ bắt đầu.
MỘT SỰ KIỆN, MỘT KINH NGHIỆM VỀ ĐẤNG PHỤC SINH:
Đức Kitô phục sinh đã hiện ra và ở với các môn đệ 40 đêm ngày để củng cố lòng tin cho các ông và để các ông từ từ biết chấp nhận sự ra đi về với Cha của Người. Đức Giêsu Kitô sống lại đã hòan tòan bẻ gẫy những rào cản, những chướng ngại để ở giữa các môn đệ. Các môn đệ đã có kinh nghiệm sâu xa về Thầy mình sống lại. Do đó, các Ngài sẽ hoàn toàn vững tâm làm chứng cho Thầy khi Thầy sai Thánh Thần đến. Đồng thời, các môn đệ hiểu được bài sai của Chúa phục sinh. Đây là một họat động liên tục và cũng là quyền năng tuyệt đối của Chúa phục sinh trong sứ vụ rao giảng của các môn đệ. “ Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Chúa thổi hơi vào các môn đệ và bảo các ông:” Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”( Ga 20, 21-22 ). Đức Kitô phục sinh chuyển đạt Thánh Thần cho các môn đệ và làm phát sinh một sáng tạo mới là Hội Thánh tiên khởi mà các môn đệ là những người đại diện Giáo Hội lúc bấy giờ. Hội Thánh là mối giây liên kết Giáo Hội với Thần khí của Thiên Chúa như Đức Giêsu phục sinh truyền cho. Nên, các môn đệ đã nhận Thánh Thần bởi Đấng phục sinh, ra đi truyền giáo. Thánh Thần đã làm cho các Ngài hòan tòan đổi mới. Các môn đệ đã được thay đổi toàn vẹn từ chỗ chẳng hiểu gì, nay đã hiểu tất cả. Từ chỗ nhát đảm đã vững lòng tin, không hề sợ sệt bất cứ điều gì, đến cả phải hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa sống lại. Phêrô đã đứng lên loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa sống lại, hôm ấy đã có hơn 3.000 người trở lại, gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô.
CÁC MÔN ĐỆ KHÔNG SAY RƯỢU MÀ SAY CHÚA:
Vâng, trong ngày lễ Hiện Xuống, người ta cứ tưởng các môn đệ say rượu, nhưng quả thực các Ngài đang say mê Chúa phục sinh. Người ta cứ tưởng các Ngài điên dại, nói quấy nói quá, nhưng kỳ thực các Ngài đang đầy ứ Thánh Thần.Ngày lễ Ngũ Tuần là ngày Chúa phục sinh khai sinh Giáo Hội. Xuyên qua Chúa phục sinh, Chúa xây dựng một Hội Thánh để Hội Thánh làm tồn tại những ân huệ của Chúa đã được dâng hiến cho loài người bởi cái chết và phục sinh của Người. Chúa sống lại chuyển đạt Thánh Thần và trao ban quyền tha tội cho Hội Thánh nghĩa là thông ban ơn cứu độ. Đó là sứ vụ của Giáo Hội. Hội Thánh có sứ mạng làm sống lại ơn Chúa đã ban và đã bị tội lỗi làm mất . Thánh Thần Chúa sẽ làm mới lại mọi sự, đưa ta vào chính đời sống thánh thiện của Đức Kitô và làm cho ta lớn lên trong Chúa.
SỨ ĐIỆP NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG:
Giáo Hội được khai sinh do hơi thở, một luồng sống mới của Đức Giêsu phục sinh để Hội Thánh tiếp tục công trình cứu độ của Chúa dưới trần gian này. Giáo Hội đang sống giữa thế giới và thế giới cần phải nhận ra Tin Mừng do Giáo Hội giới thiệu nhờ Chúa Thánh Thần. Thánh Thần phải được biểu lộ đặc biệt trong cách sống của Hội Thánh, của những người theo Chúa, trong các cộng đoàn của Giáo Hội, trong các Bí Tích. Đức Giêsu Kitô phục sinh luôn phải được giới thiệu, loan báo cho mọi người. Nhưng để làm được điều đó, chúng ta phải cậy nhờ Chúa Thánh Thần. Công đồng Vaticanô II được gọi là một ngày lễ Hiện Xuống mới, một công đồng tràn đầy Chúa Thánh Thần, một công đồng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đổi mới để Hội Thánh luôn thích nghi và bắt kịp những đà tiến bộ của thế giới hôm nay. Hội Thánh chúng ta là Hội Thánh truyền giáo. Mọi người đều có bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ loan báo Đức Kitô phục sinh cho tới tận cùng thế giới.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến canh tân và đổi mới địa cầu. Xin thay đổi lòng trí chúng con để chúng con luôn sẵn sàng loan báo Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô phục sinh. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại gọi Chúa Thánh Thần là hơi thở ? 2. Trước khi Chúa Thánh Thần được ban xuống các môn đệ ra sao ? 3. Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần có khác Chúa Thánh Thần trong buổi sáng ngày thứ nhất phục sinh ? 4. Hội Thánh chúng ta là Hội Thánh gì ? 5. Công đồng Vaticanô II được gọi là công đồng gì ? 6. Muốn nhận ra Chúa Giêsu phục sinh chúng ta phải nhờ ai ? 7. Chúng ta phải có bổn phận nào ? 8. Bứ rượu có nghĩa gì ? -------------------------------
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống khai sinh Hội Thánh công giáo. Mùa phục sinh được diễn tả bằng hai biến cố lớn, hai lần Chúa Thánh Thần hiện xuống: Lần thứ nhất vào buổi chiều ngày Chúa sống lại và lần thứ hai vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Để làm chứng cho việc Chúa chết và sống lại, Chúa phục sinh đã đổ tràn Thánh Thần của Ngài trên các tông đồ để các Ngài làm chứng cho Chúa và được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng.
Ngày Lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh Giáo Hội truyền giáo, một Giáo Hội được đầy tràn Chúa Thánh Thần, một Giáo Hội được sai đi để rao giảng Tin Mừng cứu rỗi. Hội Thánh ấy vẫn luôn là Giáo Hội truyền giáo cho đến ngày cánh chung, ngày tận cùng thế giới:” Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em “ “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần “( Ga 20, 21-22 ). Ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã được đổi mới hoàn toàn nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa tuyển chọn và sai đi. Vâng, các môn đệ, các tông đồ trước khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần vẫn luôn ở trong tâm trạng hoang mang, hoài nghi, lo sợ. Các Ngài vẫn nhát đảm, vẫn rụt rè, vẫn ham danh vọng, ham lợi nhuận, có thể nói các Ngài vẫn còn đang hoàn toàn sống như những người thế gian, bình thường. Các Ngài ít học, chậm hiểu. Nay, Chúa Thánh Thần đến, các Ngài đã được hoàn toàn đổi mới. Thánh Phêrô trước kia rất sợ, Ngài sợ trước câu nói của một tên tớ gái, Ngài sợ không dám tới gần Chúa trong cuộc thương khó của Chúa, nhưng khi có Chúa Thánh Thần, Ngài đã rao giảng, một bài duy nhất đã làm cho hơn 3.000 người trở lại với Chúa.Và rồi tất cả các tông đồ đều mạnh mẽ rao giảng Đức Kitô, các Ngài còn dám hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa phục sinh. Thực tế, các Ngài được Chúa Thánh Thần biến đổi, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Do đó, các Ngài không phải đang say rượu như nhiều người lầm tưởng mà là tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần dưới hình lưỡi lửa đã đi vào nội tâm của các tông đồ. Đây là một cuộc thanh luyện, một cuộc xức dầu. Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động trong tâm hồn của mọi Kitô hữu. Chúa Thánh Thần biến đổi con người chúng ta để chúng ta sống xứng ơn gọi làm con Thiên Chúa. Buổi chiều ngày phục sinh, Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ và thổi hơi trên các Ngài, rồi nói:” Hãy nhận lấy Thánh Thần “. Chúa phục sinh quả thực cũng đang gửi Chúa Thánh Thần cho nhân loại, cho chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho người môn đệ của Chúa và nhân loại những hành động và suy nghĩ rập theo những tâm tình của Chúa Giêsu.
Thánh Thần là sự sống của Giáo Hội. Thánh Thần là Đấng tốt lành phát sinh những hoa trái tươi tốt. Những hoa trái ấy là sự bình an, vui mừng và yêu mến. Vui mừng, yêu mến và bình an là món quà tặng quí giá nhất Chúa trao cho nhân loại, cho con người.
Giáo Hội do Chúa phục sinh thiết lập luôn tôn tại nhờ sự hiện diện của Ngài và nhờ ơn huệ dồi dào của Chúa Thánh Thần tuôn trào.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần của Chúa đến để đổi mới mặt địa cầu và đổi mới tâm hồn con người.
Ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống đúng như lời Chúa phục sinh đã hứa với các môn đệ trước. Chúa sống lại chọn ngày lễ năm mươi của người Do Thái để ban Thánh Thần cho các môn đệ và nhân loại là để nhắc nhớ cho mọi người đặc biệt cho các tông đồ hay rằng đây là ngày lễ của giao ước mới, từ giao ước này Hội Thánh của Ngài được khai sinh và cũng từ giao ước mới này, các tông đồ và mọi Kitô hữu được mời làm chứng cho Chúa phục sinh và sống một đời sống mới.
BIẾN CỐ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG LÀM THAY ĐỔI TẤT CẢ:
Các môn đệ và mọi người đồng đồng thời với các Ngài trong đất nước Do Thái lúc đó, đang rất âu lo, bối rối, xôn xao về biến cố Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án tử hình trên cây thập giá và rồi Chúa sống lại, đã sống với các môn đệ thời gian bốn mươi ngày để củng cố lòng tin của các Ngài, rồi Chúa về trời và mười ngày sau đó lại cho Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng quả thực theo Tin Mừng của thánh Gioan, Chúa phục sinh đã trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay vào chiều ngày thứ nhất trong tuần khi Chúa từ cõi chết sống lại. Trong đoạn Ga 20, 19-23, tác giả tường thuật việc Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ:” Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn( Ga 20, 20) khiến các ông vui mừng, sung sướng vì được thấy Chúa. Xong Chúa ban bình an cho các ông và trao ban Thánh Thần, ban quyền tha tội cho các ông ( Ga 20, 22-23 ).
Đúng ra thì các môn đệ không cần phải đợi tới ngày lễ Ngũ tuần nữa, nhưng Chúa phục sinh trước khi về trời đã căn dặn các môn đệ:” chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay đi giảng đạo “( Cv 1, 8 ). Đọc lại, Tin Mừng chúng ta cũng bắt gặp nhiều đoạn Chúa trấn an và hứa với các môn đệ:”
Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”( Ga 14, 1 ) và Chúa hứa:” Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”( Ga 14, 18 ). Chúa cũng hứa sẽ sai Đấng phù trợ đến với các ông:” Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”( Ga 14, 16 ). Chúa còn nói rằng:”….Còn nếu Thầy ra đi thì Thầy sẽ sai Người đến với các con “( Ga 16, 6-7 ). Và quả thực, khi Chúa phục sinh về trời đúng mười ngày sau tức vào ngày lễ Năm mươi của người Do Thái, Chúa đã chọn ngày ấy để sai Thánh Thần đến với các môn đệ như lời tường thuật của Sách Công vụ Tông Đồ:” Trong ngày lễ Ngũ tuần khi các môn đệ đang họp nhau trong nhà tiệc ly để cầu nguyện, các cửa đều đóng kín thì bỗng nhiên như một luồng gió bão thổi vào đầy nhà, rồi Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các tông đồ “( Cv 2, 1-4 ). Sách Công Vụ Tông đồ còn viết tiếp:” Chúa Thánh Thần đã đổi mới tất cả và mọi người hôm đó có mặt nói đủ thứ tiếng khác nhau nhưng họ hiểu được nhau. Đây là ân ban của Chúa Thánh Thần. Tất cả đều sống trong sự hiệp nhất khác với con người khi xây tháp Babel…
BIẾN CỐ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG NÓI LÊN SỨC MẠNH VÀ SỰ HIỆP NHẤT:
Chúa Thánh Thần có sứ mạng lớn lao là dạy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông đủ can đảm mà đi rao giảng Tin Mừng( Ga 14, 26 và 15, 26-27 ). Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa mà đổ trên đầu các tông đồ để soi sáng, hướng dẫn các ông hiểu được những điều, những chân lý của Chúa vì ba năm theo Chúa, các ông vẫn còn mù mờ chưa hiểu hết những điều Chúa dậy, những phép lạ Chúa làm. Nay,, Chúa Thánh Thần mở trí, soi lòng cho các ông để các ông thấu hiểu các mầu nhiệm nước trời, hầu các ông có thể dậy dỗ muôn dân .
Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống còn nói lên sự hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa: họ lãnh nhận phép rửa tội, được nhận lãnh Thánh Thần, làm thành Giáo Hội sống dưới sự lãnh đạo duy nhất của các Tông Đồ và bây giờ là Giáo Hội có phẩm trật:”Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, tội người ấy bị cầm lại” ( Ga 20, 22-23 ). Các tông đồ được Chúa trao ban Thánh Thần, ban bình an và trao ơn tha thứ, các ông hiểu rõ sứ mạng cao cả của mình và từ sứ mạng ấy nẩy sinh biết bao người tận hiến dấn thân cho công cuộc cứu thế của Chúa. Các tông đồ cũng hoàn toàn ý thức sứ mạng Chúa sai các ông:” Làm cho nhiều người nhận biết và tuân giữ Lời của Chúa “. Giáo Hội muôn thời luôn có Chúa Thánh Thần, nhờ Ngài Giáo Hội luôn đứng vững dù có lúc gặp phong ba bão tố, gặp thử thách lớn lao. Nhưng Giáo Hội luôn bền bỉ, kiên vững và phát triển. Lời Chúa nói với các tông đồ:”…Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”( Ga 14, 18 ) luôn là sức mạnh và là sự bảo đảm vững bền cho dân Chúa ở trần gian.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến đổi mới tất cả và làm cho mọi người chúng con sống liên kết, hiệp nhất với nhau.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Bạn hiểu sao về Chúa Thánh Thần ? 2. Biến cố ngày lễ Ngũ tuần nói gì cho bạn ? 3. Chúa Thánh Thần dậy bạn những gì ? -------------------------------
Trước công đồng Vaticanô II, Thánh Thần là một ngôi vị bị lãng quên trong một góc trời xa lạ đầy huyền bí. Thánh Linh như ngọn lửa đom đóm leo lét, chập chờn giữa một đêm đông âm u giá lạnh kéo dài gần 14 thế kỷ. Thần Khí như ngọn gió hắt hiu trên sườn đồi cô đơn cuối chân trời. Mới khoảng 30 gần đây, các phong trào Thánh Linh, phong trào Canh Tân Đặc Sủng …phát triển khá rầm rộ với số thành viên lên tới hàng triệu người. Riêng ở Vietnam, có lẽ do hoàn cảnh đặc thù, nên những phong trào này mới được số ít người biết đến và hoạt động tương đối âm thầm.
Nhìn chung, đại đa số giáo dân chúng ta vẫn còn xa lạ với Thánh Thần. Tại sao vậy? Có lẽ chúng ta vẫn còn mang cặp mắt nhân loại.
I. Thánh Thần theo lối nhìn cũ: Thiên Chúa ở ngoài ta
1. Thánh Thần là Ngôi thứ Ba
Thiên Chúa Ba Ngôi là tín điều căn bản của Công giáo mà Chúa nhật nào chúng ta cũng hát hoặc lớn tiếng tuyên xưng qua Kinh Tin Kính. Tuy Ba Ngôi một Chúa nhưng chúng ta vẫn thích tách Ba Ngôi ra làm ba khung trời riêng biệt. Cần tôn vinh, ngợi khen, cảm tạ ư? Ta đồng thanh hoặc âm thầm dâng những lời chúc tụng lên Chúa Cha. Cần tỉ tê tâm sự ư? Chúng ta có thể trò truyện với Chúa Giêsu hàng giờ. Cần xin Chúa soi sáng giúp mình làm một việc gì, lúc đó chúng ta mới chịu ghé qua Chúa Thánh Thần trong giây lát rồi lập tức vùi đầu vào công việc mà chúng ta đã ấp ủ và lên kế hoạch từ lâu rồi. Chúng ta còn tuyên xưng rằng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần …Ngưòi cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con…. Giả sử như sau thánh lễ Chúa nhật, có một người đứng ở cửa nhà thờ đưa ra một câu hỏi: Ông, bà đã thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Thánh Thần như thế nào? Chúng tôi nghĩ rằng có tới 90 % giáo dân chúng mình không trả lời được hoặc trả lời vu vơ. Như thế chứng tỏ một cách rõ ràng rằng chúng ta chỉ thích tuyên xưng ngoài miệng chứ không thực hiện niềm tin này vào trong cuộc sống. Lý do đơn giản là Ngôi Ba Thánh Thần dường như rất còn xa lạ với phần đông giáo dân chúng ta.
2. Thánh Thần là đấng bảo trợ
Trước khi hiến mình trên Thánh giá, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ: Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.(Ga 14:16). Khi còn sống nơi trần thế, Đức Giêsu là đấng bảo trợ các môn đệ của mình. Sau khi Đức Giêsu về trời, Chúa Cha đã ban cho chúng ta một Đấng Bảo trợ khác là chính Thánh Thần. Mang tiếng là Đấng bảo trợ và ở với chúng ta luôn mãi, nhưng thật oái oăm, Thánh Thần dường như không bao giờ được chúng ta nhớ tới trong những giờ phút lâm nguy. Thực vậy, mỗi khi đối đầu với đau khổ, khó khăn người thì vội chạy tới Mẹ Maria, kẻ thì tìm đến Thánh Giuse, Mac-ti-nô. Có người thích khăn gói quả mướp tới tận mũi Cà mau cầu xin với cha Diệp. Người khá giả có thể đáp máy bay sang cầu xin với Đức Mẹ Mễ-du, Đức Mẹ Lộ-đức …Hoá ra Thánh Thần chỉ được tiếng oai phong là Đấng Bảo trợ nhưng thực tế chúng ta vẫn cứ để Ngài ngồi chơi xơi nước !!!
3. Thánh Thần là Đấng Hướng dẫn
Thường thường, trước khi khởi sự làm việc gì đạo đức, chúng ta mới cùng nhau hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con … Cứ như thể suốt đời Ngài chu du khắp nơi và chỉ viếng thăm khi ta cầu xin Ngài. Ấy là chưa kể rất nhiều khi miệng ông ổng hát mà lòng trí vẫn bay bổng tới những phương trời vui chơi, giải trí, làm ăn, học hành.. thậm chí đầu óc còn mải toan tính việc trả thù rửa hận cho hả lòng. Hơn nữa, làm sao ta có thể nghe được tiếng của Ngài hướng dẫn mà làm theo?! Khó quá! Khó quá!
Nếu chúng ta nhìn Thánh Thần với ba khuôn mặt kể trên: Ngôi Ba, Thần Bảo trợ, Thần hướng dẩn, chúng ta khó có thể làm quen với Ngài nói chi tới chuyện sống với Ngài. Như vậy tính sao dây? Có lẽ chúng ta nên xây dựng cho mình một lối nhìn sống động hơn về Thánh Thần.
II. Thánh Thần theo lối nhìn mới: Chúa vốn ở trong tôi
Thánh Thần quả là món quà vô giá, tuyệt vời. Theo ánh mắt tâm linh, Thánh Thần sẽ hoá thành những khuôn mặt cực kỳ sống động và hấp dẫn.
1. Thánh Thần là con tim tình yêu của Cha
Một trong những viên ngọc quý - giữa kho tàng Lời Chúa mênh mông - mà Chúa muốn trao tận tay - không - Chúa muốn trao tận tâm hồn mỗi người chúng ta, đó là: Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. (Rm 5:5).
Vì quá yêu chúng ta, Chúa Cha đã trao cho chúng ta trọn vẹn trái tim thổn thức yêu thương của Ngài. Từ muôn thủa, Ngài đã tuôn đổ vào lòng ta con tim tình yêu Thánh Thần để chúng ta mãi mãi bơi lội trong biển tình thương bao la của Ngài. Ta hít thở tình yêu của Ngài, lớn lên trong tình yêu của Ngài. Đi dâu, ở đâu, tôi cũng nằm gọn trong vòng tay âu yếm của Ngài như anh cả Giêsu trong trái tim nhân lành của Chúa Cha: Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.(Ga 17:26). Ta thấy đó, tình Chúa Cha yêu thương Đức Giêsu ở trong tâm chúng ta. Mà tình yêu thương này chính là Thánh Thần tình yêu của Chúa Cha yêu thương Đức Giêsu và mỗi người trong chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn??!! Thánh Gioan đã xác tín rằng: Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.(1Ga 3:24). Chúng ta đều biết rằng nam nữ yêu nhau mong ước được ở bên nhau đã là khoái lắm rồi! Vợ chồng nên một xương một thịt thì sướng run cả người như cả hai đang tận hưởng hoan lạc nơi bồng lai tiên cảnh !! Tình yêu giữa Chúa và ta sâu đậm hơn nhiều vì Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa. Nam nữ, vợ chồng cùng lắm chỉ ở bên nhau mà thôi. Nhờ đâu mà ta biết được ta kết hợp với Chúa đậm sâu như vậy? Đó chính là nhờ con tim tình yêu Thần Khí - con tim này như một chất keo siêu dính, kết hợp chúng ta nên một với Chúa. Quả vậy, Thánh Thần chính là con tim tình yêu của Cha.
2. Thánh Thần là sự sống thần linh của Cha
Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy,(Ga 5:26). Sự sống thần linh ở đây chính là Thần Khí mà Chúa ban cho trưởng tử Giêsu. Có người chủ trương rằng chỉ riêng mình Đức Giêsu mới được độc quyền hưởng sự sống thần linh của Cha. Thực là nực cười!! Chủ trương như thế có khác gì hình ảnh cái đầu Giêsu thì tràn đầy sự sống thần linh của Cha trong khi thân thể của Ngài là chúng ta thì lại bị khô cứng hoặc thối rữa!! Vì thế, theo ánh mắt tâm linh, không chỉ mình Đức Giêsu mà còn cả mỗi người chúng ta đều được Chúa Cha thương ban sự sống thần linh của Ngài vào tâm hồn ta. Nhờ đó chúng ta mới cảm nhận được Thánh Thần gần gũi chúng ta biết bao!!
3. Thánh Thần là sức mạnh thần kỳ
Trong cuộc sống trần gian này, có biết bao điều làm cho tâm trí chúng ta chán nản, thân xác chúng ta mệt mỏi, rã rời khiến tâm hồn ta tràn đầy thất vọng, chỉ muốn buông xuôi tất cả. trong vũng sâu u hoài đó, ta lấy đâu ra sức mạnh thần kỳ để vượt qua, để vươn lên? Khỏi cần tìm đâu xa, chúng ta chỉ cần trầm tư một chút, ngắm nhìn tâm hồn mình để khám phá ra sức mạnh tiềm tàng ẩn giấu trong đó. Ta sẽ nhận ra kho sức mạnh quyền năng vô tận có thể giúp ta hoá giải hoặc vượt qua những yếu đuối một các khá dễ dàng mà không cần phải chiến đấu vất vả khổ sở bằng ý chí của đầu óc con người. Chính thánh Phao-lô đã chia sẻ cảm nghiệm về sức mạnh Thần Khí trong bản thân mình: Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.(2Tm 1:7)
Tóm lại, chúng ta còn có thể khai thác nhiều đặc điểm khác của Thánh Thần như nguồn chân lý, nguồn mạc khải, nguồn sự sáng, nguồn ân huệ, nguồn tự do, nguồn khôn ngoan, nguồn tái sinh và cứu độ, nguồn tinh luyện và thánh hoá … và còn nhiều nguồn khác mà các nhà thần học đã và đang ra công nghiên cứu. Ai cảm thấy thích nguồn nào thì lao đầu vào nghiên cứu, hy vọng khám phá được nhiều điều thú vị, rồi sống theo cảm nghiệm mình đã đạt được trong quá trình tu luyện và kiếm tìm.
Trong khuôn khổ nhỏ bé của bài chia sẻ này, chúng tôi chỉ xin xoáy vào 3 khuôn mặt thân thương gần gũi của Thánh Thần mà chúng tôi tâm đắc nhất. Đó là 3 đặc tính của Thánh Thần:
Con tim tình yêu, Sự sống thần linh và Sức mạnh thần kỳ của Cha.
Nhờ đó, chúng tôi nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong cuộc sống thường ngày của mình.
Có như vậy chúng ta mới xứng danh là Chứng Nhân Đức Kitô đích thực chứ. -------------------------------
Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh phá vỡ mọi ngăn cách, kỳ thị giữa các dân tộc, để mọi người thực sự là anh em của nhau, thông cảm với nhau, hiệp nhất với nhau.
* 1 Cr 12, 3b-7. 12-13
Các chi thể tuy khác nhau nhưng cũng chỉ là một thân thể.. Thân thể không phải là cộng số các chi thể, mà là nguyên lý thống nhất các chi thể. Đức Kitô cũng vậy, bản thân Ngài là nguyên lý thống nhất, làm cho số đông các Kitô hữu được hợp nhất nên một.
* TIN MỪNG: Ga 20, 19-23
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:" Chúc anh em được bình an!". Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông:" Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: " Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." Ngẫm:
1. Ba bài đọc đã dùng từ gì có nét chung để chỉ Chúa Thánh Thần? Tại sao? 2. Ý nghĩa của từ "Thần Khí" và" Lưỡi Lửa " ? 3. Những bài học cho anh chị em Khôi Bình.
* Suy tư gợi ý:
1. Ba bài đọc đã dùng từ gì để chỉ Chúa Thánh Thần? Đó là từ "KHÍ". Bài đọc 1 đã dùng từ " Gió " ( Cv 2, 2); Bài đọc 2 " Khí " ( 1 Cor. 12,4); Bài Tin Mừng " Hơi" (Ga 20, 22). Ba từ này đều nói lên khí thở. Suy đi ngẫm lại, chúng ta thấy Kinh Thánh hết sức sâu sắc khi dùng từ "KHÍ" , "THẦN KHÍ" để chỉ Chúa Thánh Thần. Tại sao?
a. Rất nhiều người hiểu biết Chúa Thánh Thần vì tất cả đều có thể định nghĩa không khí là gì, sự cần thiết và giá trị của nó. Chúa Thánh Thần chính là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thần Khí của Thiên Chúa.
b. Không khí có mặt khắp nơi, trong cung điện sang trọng cũng như trong túp lều tạm bợ, trong thành phố đông người cũng như nơi hang sâu hoang dã. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện khắp nơi, giữa cộng đoàn cũng như nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người.
c. Vắng bóng khí thở đồng nghĩa với sự hiện diện của tử thần. Không khí vừa tối cần thiết vừa hết sức quí giá. Có người bảo không khí chỉ cần thiết thôi chứ không quí. Cần thiết vì nếu không có KHÍ chúng ta sẽ chết. Nhưng không quí vì khí thở rất dồi dào, muốn có bao nhiêu thì được bấy nhiêu, không mất tiền cũng không hao sức. Nói như thế là chúng ta rơi vào quan niệm thực dụng, nghĩa là giá trị của khí thở ù dựa trên luật cung cầu. Cung vượt cầu thì giá trị thấp. Thực ra quan niệm quí ở đây phải được đặt trên nền tảng cần thiết của nó. Giá trị thực của khí thở chỉ được đánh giá đúng mức khi chúng ta ở vào trạng thái của những nạn nhân Do Thái khi bị phát xít Đức dồn vào lò ngạt. Lúc đó 1 kg khí oxy trở thành vô giá. Cũng vậy, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đồng nghĩa với sự sống: SINH KHÍ (St 2, 7). Chúa Thánh Thần chỉ vắng bóng trong tâm hồn chúng ta khi ta phạm tội trọng, nghĩa là chúng ta đang ở trong tình trạng sự chết. Như thế, sự hiện diện của Ngài hết sức tối cần thiết và vô cùng quý giá cho cuộc sống thần thiêng của chúng ta ngay tại cõi trần này và sự sống vĩnh hằng mai sau.
d. Không khí được Tạo Hoá ban phát cho mọi người không phân biệt giàu nghèo sang hèn cũng như màu da sắc tộc. Để sống, mọi người đều có quyền hít thở cùng một bầu khí quyển, và hít thở tuỳ sức. Thần Khí cũng được ban phát cho mọi người, không có sự loại trừ. Chính vì điều này mà ta hiểu được tính Phổ Quát của Hội Thánh.
2. Tính Phổ Quát của Hội Thánh.
a. THẦN KHÍ: Lễ Hiện Xuống hoàn thành cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, như Giao Ước Xinai hoàn tất cuộc Vượt Qua của dân Ít-ra-en và làm cho dân này trở thành dân riêng của Thiên Chúa. Hội Thánh được hình thành trong Lễ Hiện Xuống. Dân mới là các tín hữu được Thánh Thần qui tụ, thôi thúc và ban cho những đặc sủng để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh, mang ơn cứu độ cho mọi người. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí (1Cor. 12,4) và chính Thần Khí Duy Nhất ấy làm nên tất cả. và được phân chia cho mỗi người mỗi cách.
b. LƯỠI LỬA: Đây là đặc điểm của Ngày Lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã ban ơn Ngôn Ngữ cho các Tông Đồ. Lưỡi dùng để nói. Lửa dùng để tẩy sạch tâm trí người nghe, chuẫn bị đón nhận Lời của Thiên Chúa. Lửa còn hun đúc lòng Tin Yêu Thiên Chúa. Vì vậy, sau khi nhận Lưỡi Lửa, các Tông Đồ được ơn nói tiếng lạ. Chúng ta hiểu "Ơn nói tiếng lạ" là khi các Tông Đồ phát âm bình thường tiếng mẹ đẻ của mình thì mọi thính giả thuộc các dân tộc khác nhau đều nghe được tiếng mẹ đẻ của mình.. Các Tông Đồ đã được ơn diễn tả về Thiên Chúa, về Đức Giêsu Phục Sinh cho người khác hiểu được. Ơn Ngôn Ngữ làm cho người ta hiệp nhất thay vì chia rẽ (x St 11,1-9). Theo quan niệm Do Thái, xưa kia có bảy mươi thổ ngữ thuộc bảy mươi quốc gia.(x St 10.) Thế nên, ngôn ngữ của các Tông Đồ tạo nên tính phổ quát cho Hội Thánh.
Sau khi suy niệm, chúng ta có thể rút ra được những bài học sau đây:
a. Chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần như hơi thở, như Thần Khí ban sự sống vĩnh cữu. Thần Khí phải là điều kiện sống thường hằng của chúng ta như cá ngụp lặn trong nước. Muốn vậy, ta phải giữ tâm hồn sạch tội.
b. Cũng như các Tông Đồ, Lưỡi Lửa Thánh Thần phải biến chúng ta thành những nhân tố của sự hiệp nhất thay vì chia rẽ. Từ nay, lời nói của chúng ta chỉ đem lại hoà bình và đoàn kết, không gây chia rẽ, không gieo hận thù. Những sự chỉ trích phê phán không do thiện ý xây dựng đều phạm đức công bình, và ta có bổn phận trả lại sự công bình cho những ai mà ta đã xúc phạm.
c. Đừng tưởng rằng ta không nói được tiếng lạ như các tông đồ. Ngôn ngữ của ta chính là những việc làm công bình bác ái, là những cử chỉ yêu thương cụ thể. Với những cử chỉ này, mọi dân mọi nước đều có thể hiểu và nhận ra chúng ta là những Kitô hữu đích thực, là các chi thể thuộc cùng một thân thể Đức Kitô, là anh em con cùng một Cha trên trời.
Nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống, xin cho con luôn được ngụp lặn trong ơn Thánh của Ngài, để cuộc sống của con dơm hoa kết trái đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài là Sự Canh Tân, Xin Ngài đến đổi mới tâm can con để con luôn xứng đáng là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngài là Chân Lý, xin Ngài dẫn dắt con luôn đi trên đường ngay nẽo chính, bảo đảm cho con vào đúng cửa Trường Sinh. Amen.
Anrê Nguyễn Hữu Nghĩa -------------------------------
Đang lúc ta sợ hãi hay tuyệt vọng mà có một ai để nương tựa thì quả thực đó là một phép lạ. Giáo Hội sơ khai là một nhóm nhỏ gồm các Tông Đồ và một số môn đệ của Chúa Giê-su. Họ đã trải qua những ngày kinh hoàng đầy hãi sợ và bất an sau cái chết thảm khốc của Chúa. Cứ theo đà này, chẳng mấy chốc Giáo Hội sẽ tan biến, không để lại vết tích gì. Tuy nhiên, một phép lạ đã xảy ra: sự hiện diện của Chúa Thánh Thần hoàn toàn thay đổi và đảo ngược tình huống. Giáo Hội lớn mạnh luôn mãi qua mọi thời đại. Phép lạ của Chúa Thánh Thần tiếp tục diễn ra trong Giáo Hội và thế giới qua lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
1) “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái”
Đó là hình ảnh của Giáo Hội sơ khai, hậu quả của việc người chăn chiên bị đánh và đàn chiên tan tác (Mt 26:31). Kẻ thù của Chúa Giê-su – từ “người Do-thái” được dùng trong Tin Mừng Gio-an để chỉ về họ – tuy chưa có hành động gì là bách hại, vậy mà những Ki-tô hữu đầu tiên cũng sợ bóng sợ vía đến nỗi không dám bước ra ngoài, thậm chí còn cửa đóng then cài thật kỹ. Ta không lạ gì khi thấy họ quá hãi sợ như vậy, vì chính mắt họ đã chứng kiến cái chết thảm khốc của Chúa trên thập giá. Người ta đã giết được vị thủ lãnh thì kể gì những người đi theo Ngài. Tuy nhiên đó chỉ là lý do sợ hãi thuộc bình diện con người. Còn lý do đích thực và sâu xa hơn là vì họ chưa được lãnh nhận Thánh Thần, sức mạnh của Thiên Chúa. Cơn dao động hãi sợ làm cho họ mất bình an, lo lắng không biết khi nào đến lượt mình phải chịu chung số phận như Chúa Giê-su. Hơn lúc nào hết, họ cần được bình an. Và Vua bình an đã tới. Điều đầu tiên Người nói với họ cũng là lời đáp lại sự mong chờ khẩn thiết nhất trong lúc này: “Chúc anh em được bình an!”
Để xác nhận bình an này là do sự hiện diện của chính Người, Chúa Ki-tô đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người. Đó là những dấu chỉ đặc biệt để họ nhận ra Người chứ không phải ai khác. Nhưng đó cũng là dấu chỉ Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi và cái chết để đem lại bình an cho nhân loại. Chiến thắng và bình an của Người là nguồn sức mạnh để môn đệ Chúa và Giáo Hội không phải sợ hãi bất cứ kẻ thù nào. Khi còn ở trần gian, Chúa Giê-su luôn được đầy tràn sức mạnh của Thánh Thần để ra đi thi hành sứ mệnh Chúa Cha đã sai. Lúc này đứng trước những môn đệ đang còn sợ hãi e dè, Chúa Giê-su đã “thổi hơi vào các ông” để ban Thánh Thần cho các ông. Thánh Thần, nguồn sống đã làm cho Ngôi Lời hóa thành nhục thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, được Chúa Giê-su thổi vào các môn đệ, để đến lượt họ sẽ ra đi gây sự sống mới nơi những ai tin vào Người. Như Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su đến để đem sự sống mới cho nhân loại, thì Chúa Giê-su cũng sai các môn đệ ra đi để làm cho sự sống ấy được phát triển thêm mãi. Sự sống ấy là sống theo Thần Khí Chúa Ki-tô. Vậy cánh cửa sợ hãi giờ đây đã được mở tung. Môn đệ Chúa không còn bị giam hãm trong ưu phiền lo lắng nữa. Giáo Hội sơ khai đang chuyển mình lớn mạnh dưới ảnh hưởng của Thánh Thần.
2) Giáo Hội luôn cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Từ Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội đã vươn tới “tận cùng trái đất” và trở thành Giáo Hội toàn cầu. Chính sức sống của Thánh Thần là yếu tố căn bản của sự phát triển ấy. Tuy nhiên Giáo Hội luôn có hai chiều kích: Thiên Chúa và nhân loại. Thiết lập Giáo Hội trên đá tảng tuyên xưng đức tin của ông Phê-rô và các Tông đồ, Thiên Chúa không hủy bỏ những yếu đuối luôn tồn tại trong các vị lãnh đạo và mọi phần tử khác. Do đó, những lúc nguy cơ suy thoái của toàn thể Giáo Hội hoặc những gương xấu của một số người vẫn là những đe dọa cho Giáo Hội nói chung và cho các phần tử nói riêng. Khi ấy, những cánh cửa sợ hãi lại được đóng lại và vang lên những lời cầu xin Chúa Thánh Thần đến để “củng cố các tâm hồn” và “biến đổi bộ mặt trái đất”.
Ngay cả những giáo hội địa phương cũng có nhiều trường hợp “cửa đóng kín” vì sợ kẻ thù. Ta có thể nghĩ đến những giáo hội nằm trong vòng kiểm soát của những chính phủ Hồi giáo hoặc cộng sản. Người tín hữu nhiều khi không dám tỏ ra những dấu bề ngoài mình là người Công giáo. Nhưng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn có những đường lối hoạt động trong những giáo hội đó và những tín hữu đó. Giáo hội tại Đại-hàn và Nhật-bản là bằng chứng cụ thể. Cả trăm năm vắng bóng linh mục, thế mà giáo hội vẫn tồn tại và số tín hữu vẫn gia tăng. Giáo hội tại Pakistan, Ấn-độ, Đông Timor vẫn hùng hồn làm chứng nhân cho đức tin và bác ái Ki-tô. Sức mạnh Chúa Thánh Thần quả thực là vô song.
Đối với từng cá nhân Ki-tô hữu, ta có thể cảm nghiệm được sức mạnh ấy qua những kinh nghiệm sống đạo hằng ngày. Những hồng ân của Chúa Thánh Thần là những trang bị cần thiết để ta sống xứng đáng với danh nghĩa môn đệ Chúa Ki-tô. Hoàn cảnh cuộc sống hằng ngày luôn thay đổi đòi hỏi ta phải sử dụng những hồng ân đó cách linh động. Khi phải làm một quyết định dù lớn hay nhỏ, ta cần đến ơn khôn ngoan. Khi ta gần như sa ngã trước cám dỗ của ma quỷ, tiền bạc, danh vọng, ta xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở ta phải biết kính sợ Thiên Chúa... Như “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”, ta cũng vui mừng vì biết rằng Chúa Thánh Thần luôn ở kề bên để bênh đỡ ta.
3) “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”
Như Thiên Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su xuống thế để phục hồi sự sống của Thiên Chúa cho nhân loại, Chúa Giê-su cũng sai môn đệ Người ra đi để phát triển sự sống ấy trong thế giới. Người sai họ đi vào một thế giới đang bị tội lỗi thống trị và làm mất đi sự sống của Thiên Chúa. Vậy để đối phó với quyền lực của tội lỗi và để thực hiện lời khẳng định của Chúa Giê-su “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10), các môn đệ được Người sai đi để “tha tội” cho mọi người thống hối và tin vào Người. Nhưng làm sao họ có thể làm được công việc này nếu không nhận được quyền năng của Chúa Thánh Thần. Cho nên Chúa Giê-su đã ban cho họ Thánh Thần trước khi sai họ lên đường. “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Khi thi hành sứ vụ cứu thế, Chúa Giê-su công bố Triều Đại Thiên Chúa đã đến và đang được thể hiện nơi Người. Khi về lại với Thiên Chúa Cha, Người đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục hướng dẫn các môn đệ Người trong sứ mệnh giúp cho “nước Cha trị đến”. Giáo Hội thi hành sứ mệnh truyền giáo cùng với các tín hữu mọi thời và mọi nơi. Công tác giải thể tội lỗi và quyền lực của nó là một khía cạnh quan trọng của việc truyền giáo. Nếu ta muốn truyền giáo trong lãnh vực ta đang sinh sống, ta chỉ cần làm sao ngăn chặn và tiêu hủy sự hiện diện của tội lỗi, cổ võ cho những giá trị Tin Mừng được phát triển. Trước hết, ta truyền giáo cho chính mình, nghĩa là để cho ta được Ki-tô hóa mỗi ngày một sâu xa hơn. Khi ấy, ta trở nên “hương thơm của Đức Ki-tô”, khiến cho những người chung quanh cảm nhận được Người và muốn trở về với Người. Là người giáo dân, ta không có năng quyền tha tội, nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần giúp ta chiến đấu với ma quỷ và tội lỗi, để ta làm cho sự hiện diện và ảnh hưởng của chúng dần dần phải biến đi khỏi những nơi ta sinh sống.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Bình an và niềm vui là những hồng ân của Chúa Phục Sinh. Vậy trong mùa Phục Sinh này, tôi có cảm nghiệm được những hồng ân ấy không? Có khi nào tôi chia sẻ những hồng ân đó với anh chị em không?
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, Chúa cũng nói với tôi những lời ấy. Vậy Chúa Thánh Thần đã hoạt động như thế nào trong tôi? Suy nghĩ một vài trường hợp cụ thể về ảnh hưởng hoặc giúp đỡ của Người mà tôi đã cảm nghiệm. Tôi đã cộng tác với những hồng ân của Người như thế nào?
Tôi đã làm gì để làm bớt đi ảnh hưởng của tội lỗi nơi tôi và nơi những người thân thuộc?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời Ki-tô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Ki-tô và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ. Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi. Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 38)
Có khi nào chúng ta so sánh đoạn Tin Mừng hôm nay với việc Thiên Chúa tạo dựng trời đất được kể lại trong sách Sáng Thế không? So sánh như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của Chúa Thánh Thần, nhất là trong việc Thiên Chúa tạo dựng trời mới đất mới.
Chúng ta nhìn lại bối cảnh trước khi Chúa Giê-su ban Thánh Thần cho các môn đệ. “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” chính là thời điểm bắt đầu cuộc tạo dựng mới, giống như “lúc khởi đầu” Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người. Cũng như “đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm”, khung cảnh nơi các môn đệ Chúa Giê-su tụ họp cũng đầy sợ hãi và thiếu bình an. Khi sáng tạo vũ trụ, Thiên Chúa dùng Lời của Người để phán và “liền có như vậy”, còn ở đây Chúa Giê-su cũng phán lời ban bình an và “các môn đệ vui mừng”. Trong Sáng Thế, “thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”; còn nơi nhà Tiệc Ly, Chúa Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Tuy đoạn Tin Mừng không mô tả công việc của Chúa Thánh Thần, nhưng thánh sử Gio-an lại tài tình ám chỉ đến vai trò của Chúa Thánh Thần và sứ mệnh của các môn đệ Chúa là cộng tác với Thánh Thần trong cuộc Tạo dựng Mới. Đúng vậy, Chúa Giê-su sai chúng ta là các môn đệ hôm nay của Người ra đi rao giảng Tin Mừng cứu độ và ơn tha thứ của Thiên Chúa, để thiết lập “bình an” giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa loài người với nhau. Tuy nhiên sức mạnh và động lực chính của sứ mệnh ấy là Chúa Thánh Thần, Đấng “đổi mới bộ mặt địa cầu”. Chúa Thánh Thần là động lực và sức mạnh giúp Chúa Giê-su chu toàn sứ mệnh cứu độ ở trần gian thế nào, thì Người cũng phải là động lực và sức mạnh của chúng ta khi chúng ta được Chúa Giê-su sai đi như vậy. Cuộc Tạo dựng mới được thiết lập nhờ Chúa Ki-tô, được khởi đầu nhờ Chúa Thánh Thần và được tiếp tục nhờ sự cộng tác của chúng ta. Chúa Giê-su đã liên kết chặt chẽ hai sự kiện “Thầy cũng sai anh em” và “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nói tóm lại, chúng ta không thể ra đi mà không nhận lấy Thánh Thần, và chúng ta sẽ chẳng làm được gì nếu không có Thánh Thần hướng dẫn và giúp đỡ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tiếp nối. Công cuộc ấy sẽ biến đổi lòng người và mang lại bộ mặt mới cho trái đất. Việc canh tân của Chúa Thánh Thần không diễn ra trong nháy mắt do quyền năng Thiên Chúa, nhưng trong thời gian và không gian của lịch sử nhân loại chúng ta. Chúa Giê-su sai chúng ta ra đi, trước hết để thay đổi chính con người chúng ta. Người cũng sai chúng ta đến với xóm giềng và khu phố hoặc bất cứ nơi nào chúng ta tới, với sứ mệnh đem theo quyền năng của Thánh Thần, để Người đổi mới mọi sự trong Chúa Ki-tô. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần hôm nay không chỉ là ngọn lửa hay cơn gió mạnh xuống trên các môn đệ Chúa ngày xưa, nhưng tàng ẩn trong cách cư xử của chúng ta như môn đệ Chúa Ki-tô, qua lời ăn tiếng nói, qua những việc bác ái và thương yêu của chúng ta đối với những người chung quanh. Nếu lối sống của chúng ta đi ngược lại với lối sống của môn đệ Chúa Ki-tô, thì đúng là chúng ta đang chặn đứng sức mạnh của Thánh Thần và thế giới này vẫn còn là “đất trống rỗng, chưa có hình dạng và bóng tối bao trùm vực thẳm”.
Lời cầu nguyện của Giáo Hội “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến và đổi mới bộ mặt trái đất” cũng phải là lời cầu nguyện mỗi ngày của chúng ta, đang khi chúng ta ý thức sứ mệnh được Chúa sai đi. Lm. Dominic TTL -------------------------------
Tại quảng trường Thánh Phê-rô Rô-ma vào tháng 5 năm 1989, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II cử hành Thánh lễ kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi đám rước gồm chủ tế và các thừa tác viên tiến gần tới những bậc thang dẫn lên khu vực bàn thờ, thì đột nhiên Đức Thánh Cha dừng lại và tất cả cũng ngừng lại. Mọi người ngạc nhiên: chuyện gì đây? Ngài đã thoáng nhìn thấy hai em bé 11 tuổi ngồi trên xe lăn, cách lối đi độ 15 mét. Ngài rẽ qua trước mặt mươi vị hồng y, ngoại giao đoàn, tiến thẳng tới chỗ hai em, cúi xuống hỏi thăm các em. Hai em mỉm cười với ngài và cám ơn ngài. Còn những người lớn đứng bên cạnh các em thì đưa tay lên lau những giọt lệ trên khóe mắt họ. Vị cha chung của Giáo Hội đã ngưng việc cử hành phụng vụ trong giây lát, để làm cho lửa mến của Thánh Thần được bừng lên trong tâm hồn của hai em nhỏ tàng tật. Cử chỉ ấy của ngài đã làm cho thế giới xúc động.
Lời hứa của Thiên Chúa luôn luôn được thể hiện, đó là một chủ đề lớn trong Kinh Thánh, và ca tụng Thiên Chúa vì Người trung thành giữ lời hứa cũng là một đề tài cầu nguyện phong phú nhất của dân Chúa và Giáo Hội Chúa Ki-tô. Hứa ban Thánh Thần là lời Đức Ki-tô hứa với các môn đệ Người tại nhà Tiệc Ly và sự kiện Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là việc thể hiện lời hứa ấy cũng xảy ra trong nhà Tiệc Ly. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã sử dụng hai đoạn Kinh Thánh hết sức ý nghĩa: đoạn sách Tin Mừng Gio-an nói về lời hứa ban Thánh Thần và đoạn sách Công vụ Tông Đồ nói về biến cố Thánh Thần Hiện Xuống, cả hai đều xảy ra tại cùng một chỗ là Phòng Tiệc Ly.
Việc thể hiện lời hứa ban Thánh Thần đã diễn ra trong một khung cảnh hết sức trang nghiêm, thánh thiện và mang những đặc nét của Thiên Chúa hiển linh. Khung cảnh là chính căn phòng trước đây các Tông Đồ đã lắng nghe Thầy mình là Chúa Giê-su giảng dạy về vai trò của Chúa Thánh Thần và hứa ban cho họ Thánh Thần ấy như là ấn tín nói lên Chúa tiếp tục hiện diện với họ, hướng dẫn và che chở họ trong những ngày tháng sắp tới của lịch sử Giáo Hội. Bên cạnh các tông đồ và môn đệ hôm nay còn có sự hiện diện của Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Chúa Ki-tô. Mọi người cầu nguyện trong niềm vui Phục Sinh, tuy vẫn không khỏi lo lắng tự hỏi không biết mình phải làm gì trong tương lai. Người ta chỉ biết một điều là Chúa Ki-tô đã hứa là Người không để họ mồ côi, nhưng sẽ sai Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, đến với họ, và khi Người đã hứa thì Người sẽ làm, vì Người luôn trung thành giữ lời hứa. Giữa khung cảnh cầu nguyện trang nghiêm và đầy ưu tư ấy, Chúa Ki-tô đã trở lại trong Thánh Thần của Người. Người đã đến trong cơn gió mạnh, trong hình các lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người. Thế là trong giây lát mọi sự đều được thay đổi. Người ta cảm nhận được sức mạnh của Thần khí qua cơn gió mạnh, người ta cảm nhận sự đổi mới qua việc hiểu và nói những khôn ngữ khác. Rồi sự cảm nhận ấy bung ra khỏi căn phòng Tiệc ly bé nhỏ hạn hẹp kia để đến với mọi người, đến với những người sống chung quanh đó, những người tại Giê-ru-sa-lem và cuối cùng đến với mọi người khắp nơi trên thế giới.
Tuy nhiên Chúa Thánh Thần không chỉ đến ở nơi trung tâm tiên khởi của Giáo Hội là căn phòng Tiệc Ly tại Giê-ru-sa-lem, Người còn đến ở trong tâm hồn mỗi Ki-tô hữu. Thánh Thần đến với chúng ta hôm nay, tuy không có gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu chúng ta, nhưng ảnh hưởng và sức mạnh của Người thì vẫn như thế. Bởi vì Chúa Ki-tô đã dạy rằng Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, "đến ở với anh em". Rồi Người cứ lập đi lập lại cụm từ "ở lại với anh em" mấy lần, chắc chắn là Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc Thánh Thần hiện diện nơi chúng ta. Sau này, thánh Phao-lô cũng đã thâm hiểu được vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Ki-tô hữu, nên trong thư gửi tín hữu Rô-ma ngài đã khẳng định rằng chính Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong chúng ta sẽ biến chúng ta thành thọ tạo mới, cho chúng ta được làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ban cho chúng ta một tư cách mới để gọi Thiên Chúa là "Abba" hoặc "Cha ơi!"
Thánh Thần đã ở lại và hoạt động qua bao người trong Giáo Hội hôm qua cho đến Giáo Hội hôm nay, từ Phê-rô vị Giáo Hoàng tiên khởi cho tới Gio-an Phao-lô vị giáo hoàng hiện nay, từ trong lòng các Ki-tô hữu sơ khai cho đến những em nhỏ tàng tật và khách hành hương tham dự Thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mùa hè 1989 tại quảng trường thánh Phê-rô, Rô-ma. Vậy chúng ta cũng tự hỏi: Thánh Thần đang ở lại trong tôi, nhưng tôi có để cho Người hoạt động không? Hay là tôi đã gây cho Người nhiều trở ngại, ngăn cản hoạt động của Người? Cho nên hơn lúc nào hết, chúng ta thấy cần phải cầu nguyện: xin Thánh Thần ngự đến để đổi mới bộ mặt thế giới, và nhất là đổi mới tâm hồn con, để con trở nên nhân chứng loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô.
Dạy về một trong những vai trò của Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su nói với các tông đồ: "Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14:26, bài Tin Mừng). Trong thời điểm trước cuộc Thương Khó và đối với tầm hiểu biết của các tông đồ, Chúa Giê-su chỉ có thể cho họ một ý niệm giản dị về vai trò của Chúa Thánh Thần. Sau biến cố Hiện Xuống, Giáo Hội phát triển dưới sự hướng dẫn của Chúa Tánh Thần. Dĩ nhiên vào lúc này Giáo Hội cũng cần có một suy niệm chi tiết hơn về Chúa Thánh Thần, hay nói khác đi, cần một giáo lý về Chúa Thánh Thần. Vậy thần học gia lỗi lạc về Thánh Thần, không ai khác hơn là thánh Phao-lô.
Bài đọc Tân Ước hôm nay là một suy niệm sâu xa về vai trò của Chúa Thánh Thần và đòi chúng ta phải từ từ đi theo diễn tiến tư tưởng của thánh Phao-lô.
Trước hết thánh Phao-lô phân biệt hai loại người: "những người bị tính xác thịt chi phối" và "những người được Thần Khí chi phối" (câu 8-9a). Tiếp theo, ngài coi tín hữu Rô-ma thuộc loại người thứ hai, nên ngài muốn nói với họ thế nào là người được Thần Khí chi phối, hoặc nói khác đi, Thần Khí chi phối họ như thế nào (câu 9a).
Phao-lô bắt đầu lý luận của ngài với khẳng định: "Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô" (c. 9b). Đức Ki-tô và Thần Khí không thể tách biệt; đây là một điểm then chốt trong Ki-tô học và Thánh Linh học của Phao-lô. Những ý tưởng "anh em có Thần Khí," "anh em thuộc về Đức Ki-tô" và "Đức Ki-tô ở trong anh em" chỉ là ba cách nói khác nhau để diễn tả con người được Thần Khí chi phối. Từ điểm căn bản này, ngài bắt đầu lý luận thứ nhất (c. 10) về vai trò của Thánh Thần. Mấu chốt đầu tiên giúp chúng ta nhận biết vai trò ấy là "Thần Khí ban cho anh em được sống" và "được trở nên công chính." Ở đây ý tưởng khiến chúng ta nhớ lại hành động tạo dựng của Thiên Chúa. "Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật" (St 2:7). Nhưng vì tội tổ tông, con người đã phải chết cả thể xác lẫn thiêng liêng (mất ơn công chính hóa). Cho nên muốn được phục hồi sự sống và ơn công chính hóa, họ cần phải "thuộc về Đức Ki-tô" để "có Thần Khí."
Lấy Đức Ki-tô Phục Sinh làm "khuôn mẫu," thánh Phao-lô diễn dịch thêm vai trò của Chúa Thánh Thần qua lý luận thứ hai (c. 11). Nếu Thần Khí đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết thì cũng sẽ làm cho những ai "thuộc về Đức Ki-tô" được sống lại từ cõi chết. Thuộc về Đức Ki-tô có nghĩa là chi thể kết hiệp với Đầu trong Nhiệm thể, hoặc ngành nho kết hiệp với "cây nho đích thực." Vậy sự Phục Sinh của Đức Ki-tô là nguyên lý sống lại và việc chúng ta kết hiệp với Người là điều kiện tất yếu để được sống lại và sống đời đời.
Nói tóm lại chúng ta nhận ra hai điều Chúa Thánh Thần có thể làm cho chúng ta, là được ơn công chính hóa bây giờ và được sống lại mai sau. Nhưng điều kiện quan trọng và thiết yếu là chúng ta có "thuộc về Đức Ki-tô" hoặc có Thần Khí của Người hay không. Cho nên thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh đến hiện tại của chúng ta, tức là làm sao sống ơn công chính hóa ấy ngay trong cuộc sống trần gian này. Thánh Thần đã ban ban cho chúng ta những hồng ân ấy, vậy chúng ta phải đáp trả những hồng ân như thế nào? Từ câu 12-17, ngài đề ra những phương thức cụ thể nhất:
- sống theo Thần Khí, tức là "diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ." - sống tinh thần tự do của con cái Chúa. - sống quan hệ thân mật Cha-con. - sống tin tưởng và hy vọng chắc chắn nhờ Đức Ki-tô, Đấng thừa kế vinh quang của Chúa Cha.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ Giáo lý của thánh Phao-lô về Thánh Thần quan trọng như thế nào đối với đời sống thiêng liêng của tôi? Qua đoạn Kinh Thánh này, tôi khám phá được gì về Chúa Thánh Thần?
Tôi thuộc loại người "theo xác thịt" hay loại người "theo Thần Khí"?
Kiểm điểm lại đời sống, tôi nhận ra đâu là "những hành vi của con người ích kỷ" nơi tôi? Tôi có kế hoạch nào để "diệt trừ" chúng?
Danh phận của kẻ được gọi Thiên Chúa là "Cha"và cùng chia sẻ với Đức Ki-tô trong mọi sự có được xác tín nơi tôi không? Xác tín ấy ảnh hưởng tới toàn cuộc sống của tôi thế nào?
Sống tinh thần sợ sệt, nô lệ cho lề luật có còn trong tôi không? Khác với tinh thần tự do của con cái Chúa như thế nào?
Trong đời sống cầu nguyện, tôi có bắt chước Đức Ki-tô thưa với Thiên Chúa Cha là "Abba" không? Làm sao thay đổi được cách thân thưa với Chúa?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể hát một bài về Chúa Thánh Thần, hoặc cầu nguyện với kinh sau đây.
Kinh xin ơn tự do nội tâm Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con xin Chúa soi sáng hướng dẫn mọi hành động của chúng con, nâng đỡ giúp chúng con hoàn thành, để mỗi kinh nguyện cũng như mỗi việc làm của chúng con luôn được khởi sự từ nơi Chúa và nhờ Chúa mà được hoàn tất tốt đẹp. A-men.
(Kinh các tu sĩ dòng Tên thường đọc khi bắt đầu lớp học hay hội họp.)
Phụng vụ Lời Chúa mùa Phục Sinh đã soi sáng cho chúng ta hiểu nhiệm cục cứu rỗi do Thiên Chúa hoạch định và thực hiện trong Chúa Giê-su Ki-tô, tiếp tục qua Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần. Tin Mừng thánh Gio-an viết về giây phút Chúa Giê-su tắt thở trên thập giá: “Đức Giê-su nói: Thế là đã hoàn tất! Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19:30). Người trao Thần Khí là để mở đầu sự sống mới và cuộc tạo dựng mới, tựa như trước đây Đức Chúa đã thổi sự sống vào A-đam (St 2:7). Cuộc tạo dựng mới này được thể hiện khi tội lỗi và ảnh hưởng gây chết chóc của nó bị diệt trừ. Tội lỗi càng được tha thứ nhiều thì sự sống càng lớn mạnh và dồi dào. Đó chính là sứ mệnh của Chúa Giê-su: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Khi Chúa Giê-su phục sinh hiện ra và qua cử chỉ thổi hơi vào các tông đồ, Người đã thông ban cho các ông quyền năng gây sự sống mới. Các ông sẽ cộng tác với Người và hành động dưới ảnh hưởng của Thánh Thần để thực hiện cuộc tạo dựng mới của Thiên Chúa. Hiểu kế hoạch của Thiên Chúa như thế, ta mới nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Giê-su, Thánh Thần và sứ mệnh tha thứ tội lỗi.
a) Chúa Giê-su phục sinh đem lại bình an và vui mừng
Làm sao các môn đệ là những người đang buồn nản và sợ hãi lại có thể đem sự sống mới đến cho người khác được! Họ cần phải được đổi mới. Vì thế Chúa Giê-su phục sinh đã đến với họ. Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người. Cử chỉ đơn sơ nhưng thật là ý nghĩa. Bàn tay biểu tượng cho quyền năng và chăm sóc của Chúa và cạnh sườn chứa đựng trái tim đầy yêu thương của Thầy. Các môn đệ chỉ cần trông thấy những biểu tượng ấy và như vậy là đủ để phục hồi cho họ niềm vui và bình an đã mất. Bàn tay Chúa đã từng chữa bệnh, truyền cho sóng gió yên lặng, khiến bánh hóa nhiều, xoa dịu nỗi buồn khổ của bà mẹ mất đứa con một yêu dấu, giơ lên tha thứ cho người tội lỗi... Trái tim Thầy đã xúc động trước đám dân chúng đói lả, trước cái chết của người bạn thân La-da-rô, trước thành thánh Giê-ru-sa-lem thân yêu.
Niềm vui và bình an là hành trang nội tâm cần thiết để họ lên đường thi hành sứ mệnh rao giảng sự sống mới và mời gọi nhân loại tham gia vào cuộc tạo dựng mới. Không chỉ là đổi mới con người cá nhân mình, nhưng còn là gây sự sống của Thánh Thần trên trái đất, đúng như lời nguyện của Giáo Hội sau này: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất. Thánh Thần ban sự sống mới, còn các môn đệ Chúa Ki-tô sẽ là dụng cụ mang sự sống ấy đến cho nhân loại.
b) “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”
Ta hiểu kế hoạch cứu rỗi là việc Thiên Chúa thực hiện một cuộc tạo dựng mới nhờ Chúa Giê-su Ki-tô và trong Thánh Thần. Sứ mệnh thực hiện kế hoạch gồm tóm trong một động tác ý nghĩa, đó là “được sai đi”. Chúa Giê-su đã được Chúa Cha “sai đi” đến với trần gian. Thánh Thần cũng được “sai đến” để đổi mới địa cầu. Giờ đây đến lượt các môn đệ được Chúa Giê-su “sai đi” vào thế giới để đem sự sống của Thánh Thần cho nhân loại. Như thế, khi ghi lại lệnh truyền của Chúa sai các môn đệ đi tiếp tục sứ mệnh của Người, thánh Gio-an đã đặt sứ mệnh của họ trong một diễn tiễn liên tục với sứ mệnh Người đã nhận lãnh từ Chúa Cha.
Được sai đi để thi hành sứ mệnh, nhưng phải thi hành những gì và theo tinh thần nào? Chính Chúa Giê-su đã trả lời điều ấy tại hội đường Na-da-rét. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố...” (Lc 4:18). Chúa Giê-su đã thi hành và chu toàn sứ mệnh, luôn luôn trong sự hướng dẫn của Thánh Thần. Theo cùng một mô thức ấy, giờ đây các môn đệ được Chúa Giê-su sai đi và hoạt động truyền giáo theo dẫn dắt và đường hướng của Thần Khí Người. Vì thế, “nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’” (Ga 20:22). Họ cần phải để cho Thánh Thần đổi mới họ trước khi ra đi giúp Người đổi mới thế giới. Họ cần để cho Thánh Thần đổ đầy lòng mến vào trái tim họ, để họ giúp cho ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa bừng cháy lên trên địa cầu và đáp lại ước nguyện của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12:49).
c) “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”
Xóa tội trần gian là mục đích của kế hoạch cứu rỗi. Chúa Giê-su, Con Chiên Thiên Chúa, đã chết trên thập giá để phục hồi cho con người khả năng được nên công chính. Đó là bước căn bản và cần thiết cho con người biến đổi từ thân phận tội lỗi trở nên mỗi ngày một giống Chúa Ki-tô hơn. Quyền xóa bỏ tội lỗi nhân loại là quyền của Chúa Giê-su (Ga 10:18). Khi ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giê-su cũng thông ban cho họ quyền xóa tội để họ thay Người mà xóa tội trần gian và đổi mới nhân loại.
Tại hội đường Na-da-rét, Chúa Giê-su đã liên kết Thánh Thần với sứ mệnh giải phóng thân phận tội lỗi của con người và diệt trừ những hậu quả của tội lỗi đè nặng trên con người. Giờ đây tại nhà Tiệc ly, nơi các môn đệ trú ngụ, Người cũng liên kết Thánh Thần với việc tha tội cho nhân loại. Cùng một tác vụ và cùng một Thần Khí hướng dẫn, chỉ khác ở điểm là trước đây Chúa Giê-su đã thi hành với sự hiện diện thể xác của Người và bây giờ Người tiếp tục thi hành qua Thánh Thần cùng với công cụ của Thánh Thần tức là các môn đệ.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Trong cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa, tôi thường gặp những lúc hãi sợ, buồn nản. Vậy đâu là những biểu tượng tỏ ra cho tôi thấy niềm vui và bình an của Chúa?
Là môn đệ Chúa, tôi đang được “sai đi” tới đâu và làm gì? Tôi đã đổi mới thế giới chung quanh tôi được chút nào chưa? Tôi có đem sự sống mới đến gia đình, sở làm, cộng đoàn của tôi không?
Xóa bỏ tội lỗi cũng là sứ mệnh tôi phải tích cực tham gia. Vậy tôi đã làm gì để chính mình và những người chung quanh tôi trở nên giống Chúa Ki-tô hơn? Tôi có là dụng cụ để Chúa Thánh Thần sử dụng đổi mới thế giới không?
Cầu nguyện:
Hát “Kinh Hòa bình” của thánh Phan-xi-cô At-xi-xi.
Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai.
Đối với chúng ta hôm nay, thì lễ Hiện Xuống cũng chính là cao điểm, kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Như ngày Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh. Tôi xin đưa ra một vài hình ảnh để so sánh.
Trong ngày lễ Phục sinh, Đức Kitô như mặt trời hừng đông ló dạng. Còn trong ngày lễ Hiện xuống thì mặt trời ấy đã đứng bóng, chói loà và đem lại sức sống. Trong ngày lễ Phục sinh thửa vườn của Giáo Hội nở bông với những tín hữu mới được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Còn trong ngày lễ Hiện xuống, những bông hoa ấy đã kết thành trái chín vàng trên cành cây. Người làm vườn là Đức Kitô đã trồng những mầm non mới. Còn mặt trời làm cho trái chín vàng đó là Chúa Thánh Thần. Trong ngày lễ Phục sinh chúng ta mới chỉ là những trẻ nhỏ của Thiên Chúa, chúng ta cần đến sữa mẹ là Chúa Thánh Thần. Chúng ta lớn lên trong nhà mẹ là Giáo Hội, một cách vô tư và hạnh phúc như những em nhỏ. Nhưng khi chúng ta trưởng thành, Giáo Hội, người Mẹ hiền của chúng ta, không ngần ngại bảo cho chúng ta biết rằng khoảng thời gian êm đẹp và thơ mộng ấy đã qua đi, giờ đây chúng ta là những lữ khách, sẽ gặp phải nhiều đau khổ, nhiều buồn phiền. Với lễ Hiện xuống, chúng ta trở nên là những người trưởng thành. Với lễ hiện xuống Chúa Thánh Thần làm việc và tác động.
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa không để cho chúng ta phải mồ côi, Người sẽ gởi đến cho chúng ta một Đấng an ủi, để nhắc lại những điều Người đã giảng dạy. Ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ tưởng đến Ngài, và chúng ta có thể gặp gỡ Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài ngự trị trong tâm hồn chúng ta kể từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để biến tâm hồn và thể xác chúng ta thành đền thờ cho Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ đã khuyên nhủ: Anh em không nhớ rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần hay sao. Hãy mang lấy Thiên Chúa và hãy tôn vinh Người trong thân xác anh em. Chúng ta sẽ dễ dàng trở nên thánh thiện, nếu chúng ta luôn ý thức rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong chúng ta. Còn đối với Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thánh hoá và hoạt động bằng các bí tích. Chúa Giêsu đã về trời và trở nên vị trung gian bầu cử cho chúng ta trước toà Đức Chúa Cha. Nhưng Giáo Hội trên trần gian hằng được Chúa Thánh Thần giúp đỡ và hướng dẫn. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự hiện diện, nhưng Ngài không thể tiếp nối những hành động mà ngày xưa Ngài đã thực hiện ở Palestin. Trong bí tích Thánh Thể Người chỉ là của lễ và của ăn cho chúng ta,. Thế nhưng, bí tích Thánh Thể lại chính là một dụng cụ Chúa Thánh Thần dùng để thánh hoá chúng ta.
Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Và như chúng ta đã biết Giáo Hội là nhiệm thể của Đức Kitô. Thân xác muốn sống thì phải có linh hồn. Vai trò của linh hồn thật là quan trọng, nó là nguyên lý của sự sống, nếu linh hồn lìa khỏi thì thân xác sẽ phải chết. Cũng vậy Chúa Thánh Thần là linh hồn của nhiệm thể Giáo Hội, chính Ngài trao ban và bảo tồn đời sống ơn sủng trong chúng ta. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể cầu nguyện và làm được những việc tốt lành. Bởi đó, trong ngày mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta hãy mặc lấy ba tâm tình sau đây: Tâm tình thứ nhất là tâm tình vui mừng. Chính vì thế mà Giáo Hội đã mời gọi chúng ta qua lời kinh Tiền Tụng: Trong niềm hân hoan chứa chan, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng. Tâm tình thứ hai là tâm tình tin tưởng vào sự hiện diện và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta phải cảm nghiệm và nhận ra quyền năng ấy. Và sau cùng chúng ta hãy mong mỏi xin Ngài ngự đến như lời Giáo Hội tha thiết nguyện cầu: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổ tràn đầy trong lòng các tín hữu những hồng ân của Ngài. -------------------------------
Trong Bữa Tiệc Ly, trước khi ra đi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã hứa với các Tông đồ: “Thày sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho chúng con Đấng Phù Trợ để ở với chúng con luôn mãi…” (Gioan 14: 16). Trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng nói với các Tông đồ: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên chúng con. Bấy giờ, chúng con sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1: 8).
Vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần (Pentecost) của người Do Thái (50 ngày sau Lễ Phục Sinh và 10 ngày sau Lễ Chúa Giêsu Lên Trời), Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ trong khi các ngài đang đồng tâm nhất trí cầu nguyện trong ngôi nhà các ông cư ngụ, và có mặt Đức Maria và mấy người khác nữa (Cv 1: 14). Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các Tông đồ và các ông được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2: 4). Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa, biến cải các ông từ những con người chỉ mơ ước “một vương quốc trần gian” (Cv 1: 6) được ơn soi sáng nhìn rõ ra thực tại Nước Trời và hiểu rõ đầy đủ hơn về các điều Chúa Giêsu giảng dạy. Hơn nữa, từ những con người nhát đảm, sợ sệt, ở trong nhà “đóng kín cửa” (Gioan 20: 19), các ông trở nên những con người can đảm “mở cửa ra” để hăng hái ra ngoài rao giảng và làm chứng cho Chúa ngay vào ngày Lễ Ngũ Tuần; lúc đó đang có nhiều người từ các nơi tụ họp về Giêrusalem để mừng Lễ. Đặc biệt hơn nữa, cũng nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mà những người nghe các ông giảng dạy, dù họ nói các tiếng khác nhau, nhưng đều hiểu hết các điều các Tông đồ nói (Cv 2: 5-11).
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống được mừng vào Chúa Nhật VII Mùa Phục Sinh.
Thánh Lễ Vọng (Chiều Thứ Bảy): Bài Đọc I: có thể chọn Sách Khởi Nguyên 11: 1-9; Xuất Hành 19: 3-8, 16-20; Êgiêkiêl 37: 1-14; hoặc Gioen: 3:1-5. Bài Đọc II: Thư Rôma 8: 22-27. Bài Phúc Âm: Gioan: 7: 37-39. Các Bài Đọc Sách Thánh chiều nay đều hướng tâm trí chúng ta về hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, hiện hữu từ thuở đời đời, là Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng ban ơn thánh hóa.
Lễ Chính Ngày: Bài Đọc I (Cv 2: 1-11) ghi lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông Đồ, thánh hóa và làm cho các ông trở nên những người thông thái, can đảm rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người lúc đó đang tụ tập mừng Lễ Năm Mươi tại Giêrusalem. Bài Đọc II (1 Corintô 12: 3-7, 12-13) nói đến việc Chúa Thánh Thần hoạt động nơi mỗi tâm hồn để thánh hóa và liên kết nên một thân thể mầu nhiệm trong Hội Thánh Chúa, để mỗi người, tùy theo chức vụ, hoạt động mà đem lại lợi ích chung cho toàn thân thể là Hội Thánh Chúa. Bài Phúc Âm (Gioan 20: 19-23) ghi lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ đang tụ họp cầu nguyện tại Giêrusalem, chúc bình an và ơn Chúa Thánh Thần cho các ông và ban quyền tha tội cho các ông: “Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha…”
Suy gẫm các Bài Đọc trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta thấy: Qua mọi thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong Giáo Hội để dẫn dắt Giáo Hội qua mọi thử thách, mọi sóng gió trần gian, để Giáo Hội luôn giữ vững Đức Tin tinh tuyền, luôn “Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền” như chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính. Chúa Thánh Thần cũng luôn hiện diện trong tâm hồn mỗi tín hữu chúng ta sau khi đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, để giúp chúng ta chu toàn nhiệm vụ sống Đức Tin, rao giảng Đức Tin, và “làm chứng cho Chúa” ở mọi nơi và cho mọi người.
Hơn nữa, từ thời các Thánh Tông đồ cho đến ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn chọn một số người để đại diện Chúa chăn dắt đoàn chiên Chúa ở trần gian. Đó là những Chủ Chăn với những nhiệm vụ khác nhau, và đứng đầu là Đức Giáo Hoàng. Dù ở địa vị nào, tất cả đều chỉ là “những con người, những dụng cụ bất toàn,” nhưng Chúa vẫn dùng để làm các công việc của Chúa ở trần gian. Các Thánh Tông đồ (kể cả Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, hay Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại) dù là những chủ chăn đầu tiên của Giáo Hội phải đương đầu với bao sóng gió, bão táp thuở ban đầu, nhưng xét theo con mắt trần gian, cũng chỉ là những con người “bình dân, ít học thức, lại hay nhát đảm, sợ sệt!” nhưng Chúa vẫn dùng vì “ơn Chúa đủ cho con” và sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa càng được tỏ rạng nơi “những người yếu đuối.”
Ơn Gọi của Chúa luôn là một mầu nhiệm và những người được Chúa chọn vẫn phải khiêm nhường tự thú nhận “không phải vì con Chúa chọn con nhưng vì bí nhiệm Tình Yêu Chúa!”
“Cây càng cao, gió càng lay!” “Càng ở địa vị cao, càng gặp nhiều bão táp!” Các chủ chăn luôn cần những hy sinh và lời cầu nguyện của chúng ta, nhất là trong Năm Linh Mục này, để được ơn Chúa nâng đỡ mà vượt qua mọi thử thách, và noi gương Chúa Giêsu, chịu đựng mọi khổ nhục để luôn cương quyết hướng dẫn Đoàn Chiên Chúa đi đúng theo đường lối của Chúa và Giáo Hội. “Đường lối Chúa thì nhiệm mầu!” “Thiên Chúa vẽ những đường thẳng bằng những nét cong!” Xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn nhận ra ý Chúa và luôn biết tôn kính và thuần phục những Chủ Chăn mà Chúa sai đến giữa chúng ta để phục vụ Chúa và Giáo Hội. -------------------------------
Gio 14:15-16.23-26: 15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.16 Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.
23 Đức Giêsu đáp: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Đoạn tin mừng trên đây gồm những câu liên quan đến Chúa Thánh Thần, rút từ các đoạn trong chương 14. Xin xem bài chú giải Chúa Nhật VI Phục Sinh C. Ở đây chúng ta chỉ chú giải đoạn 14:15-18 trong văn mạch của nó 14:15-24, gồm những câu làm khung “yêu” và “tuân giữ” (14:15.21.23.24), tiếp theo là một lời hứa: ban Đấng Phù Trợ (14:17); Chúa Cha yêu mến người tuân giữ lời (14:21); Chúa Cha không chỉ yêu thương, mà cùng với Chúa Giêsu đến cư ngụ nơi người ấy (14:23). Yêu Chúa và tuân giữ lời của Ngài là chủ đề chính của đoạn nầy. Diễn từ nầy ngỏ trực tiếp với các môn đệ, ở ngôi thứ hai số nhiều; đối trọng với họ là “thế gian” (kosmos) (14:17.19.22.27.30.31). Thế gian không được hưởng những điều như người môn đệ được: không thể nhận lấy Đấng Phù Trợ, không thấy và cũng không biết Đấng nầy (14:17), không thể thấy Chúa Giêsu (14:19), vì Người không tỏ mình ra cho họ (14:22). Đoạn 14:15-24 có thể phân chia như sau: - Ban Thánh Thần (14:15-18); - Chúa tỏ mình (14:19-21); - Chúa đến cư ngụ (14:22-24).
Lời hứa đầu tiên cho môn đệ nào yêu mến và tuân giữ lời của Chúa Giêsu là được lãnh nhận Đấng Phù Trợ. Trong các câu trước (14:13-14), Chúa Giêsu bảo các môn đệ lấy danh của Người mà cầu xin, “aitein”, Người sẽ thực hiện cho. Ở đây, chính Người có sáng kiến thỉnh cầu, “erôtaô”, với Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ cho họ. Đấng Phù Trợ là ân huệ Chúa Cha ban cho và được gởi đến qua lời thỉnh cầu của Chúa Con. Đấng Phù Trợ, “parakletôs”, chỉ vai trò trợ giúp hơn là biện hộ (14:16-17.26; 15:26). Trong tên gọi “Đấng Phù Trợ khác”, tính từ “khác” chỉ Đấng không phải là Chúa Giêsu.
Việc trợ giúp trước tiên là ở với các môn đệ luôn mãi (14:16). Người ở với họ và trong họ (14:17); điều mà Người không làm cho thế gian. Việc trợ giúp khác nữa là Người sẽ dạy dỗ các môn đệ mọi điều và nhắc nhở cho họ những gì Chúa Giêsu đã giảng dạy cho họ (14:26; 16:13). Chúa Giêsu thỉnh cầu Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ cho những ai tuân giữ lời Người, vì Đấng Phù Trợ chính là Thánh Thần của sự sống, hiểu biết và tình yêu. Nhận lấy Thánh Thần, người tuân giữ lời Chúa sẽ được tham dự vào sự sống chung của Thánh Thần và Chúa Giêsu. Công việc của Ngài là làm cho họ hiểu sâu xa và cảm nghiệm hơn ý nghĩa của chân lý Tin mừng.
Thánh Gioan đưa ra hai dẫn chứng cho thấy các môn đệ, sau khi Chúa Giêsu đã sống lại, nhớ lại lời của Người về việc xây cất đền thờ (2:22) và việc Người cỡi trên con lừa vào thành. Chỉ họ mới hiểu ý nghĩa của các việc nầy; bởi đó Đấng Phù Trợ được gọi bằng tên khác là Thần Chân lý (14:17). Ngoài ra, nhờ Ngài và với Ngài, các môn đệ sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt thế gian (15:26-27). Họ sẽ không hổ thẹn hay sợ bắt bớ và khốn khổ vì Người. Vậy việc Đấng Phù Trợ ở giữa các môn đệ là để thay thế sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài bảo đảm cho họ sẽ không mồ côi (14:18tt; 16:7). Lý do thế gian không thể nhận lấy Đấng Phù Trợ vì họ không tin vào Chúa Giêsu. Trong khi đó, các môn đệ tin vào Chúa Giêsu, nên có thể đón nhận Người (7:39; x. 14:12-14).
Chúa Giêsu không hiện diện hữu hình giữa chúng ta, nhưng chúng ta có lời của Người và giới răn của Người. Chúng ta phải giữ lấy và gắn bó vào đó. Chỉ nhờ Thánh Thần, chúng ta mới hiểu ý nghĩa, sống lời ấy cách triệt để và hiệp thông cách sung mãn vào sự sống của Thiên Chúa.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến -------------------------------
Theo tự điển Glossary of Wildland Fire Terminology, lửa là quá trình ôxy hóa nhanh chóng của một vật liệu trong phản ứng hóa học tỏa nhiệt, giải phóng ra nhiệt, ánh sáng, và các sản phẩm phản ứng khác. Để tạo ra lửa, phải cần và đủ 3 yếu tố: chất cháy, ôxy và nguồn nhiệt. Người trắc ẩn gọi phản ứng dây chuyền này là “tam giác lửa”. Thiếu một trong các yếu tố trên hoặc các yếu tố trên không đủ thì sự cháy sẽ không xảy ra. Mỗi chất khác nhau có nhiệt độ bốc cháy khác nhau.
Lửa không chỉ chiếu sáng mà còn sức nóng. Theo nghĩa bóng, độ nóng là sự nhiệt thành, nhiệt tâm, nhiệt huyết. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661, người Anh) nói: “Nhiệt huyết thiếu tri thức chỉ là lửa thiếu ánh sáng”. Còn Ralph Waldo Emerson (1803-1882), thi sĩ và triết gia người Mỹ, so sánh: “Nhiệt huyết là mẹ của nỗ lực, nếu không có nó, chúng ta không thể đạt được điều gì to lớn”. Và tác giả Thánh Vịnh nói: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69:10).
Lửa rất lạ. Một đốm lửa nhỏ có thể thổi tắt dễ dàng, nhưng đốm lửa đó có thể lây lan thành đám cháy lớn, khó dập tắt, gió thổi càng mạnh càng cháy lớn. Lửa chia sẻ không mất, không hết, càng chia sẻ càng có nhiều lửa. Đêm vọng phục sinh, các Kitô hữu cùng nhau chia sẻ lửa từ ngọn nến phục sinh – tượng trưng Đức Kitô phục sinh chiếu sáng chúng ta.
Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng thường xuất hiện qua ba dạng: Lửa (Cv 2:3), Gió (Ga 3:8; Cv 2:2), và Chim Bồ Câu (Mt 3:16).
Sách Tông Đồ Công Vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:1-4).
Khi các Tông Đồ giảng đạo, người nghe đều hiểu theo ngôn ngữ bản xứ của họ (Cv 2:11). Hoạt động của Chúa Thánh Thần vô cùng kỳ diệu. Cùng một việc, một hoàn cảnh, nhưng Chúa Thánh Thần tác động khác nhau nơi từng người. Đơn giản như âm nhạc, chỉ có bảy nốt và năm hình nốt phổ biến nhất (tròn, trắng, đen, móc đơn, móc đôi), nhưng có cả hàng tỷ bài nhạc đủ thể loại được tạo nên với thiên hình vạn trạng. Con người không thể làm được nếu không có Chúa Thánh Thần tác động. Các lĩnh vực khác cũng tương tự. Quá đỗi kỳ diệu!
Vì thế, tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và rồi tác giả chân thành thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1b). Vì không thể trì hoãn, tác giả Thánh Vịnh lại tiếp tục hân hoan xưng tụng: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24).
Không khí là thứ vô hình, không ai thấy, nhưng lại là “vật chất”. Lạ quá! Không khí đơn giản nhưng lại vô cùng cần thiết, không thể thiếu, dù chỉ trong chốc lát. Chúa Thánh Thần là Thần Khí, Ngài cũng vô cùng cần thiết cho sự sống, cả đời thường và tâm linh, cả thể lý và linh hồn: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Uóc gì chúng ta khả dĩ nhận thức đầy đủ, và luôn tâm niệm thành kính: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Con người rất dễ ảo tưởng, do đó mà kiêu ngạo. Làm được gì gọi là “hơn người” một chút thì vội vênh vang, tự cho mình giỏi hơn người, thậm chí có thể muốn “loại bỏ” Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, muốn thay thế Thiên Chúa bằng sự cai trị độc tài chuyên chế – khởi đầu là cuộc cách mạng Bôn-sê-vích (Bolshevik Revolution) của nước Nga, lan truyền chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu từ năm 1917.
Có thể chúng ta chưa bị cộng sản hóa, nhưng chúng ta lại dễ quên rằng tất cả đều nhờ hồng ân, chứ chính bản thân chúng ta chẳng có thể làm nên trò trống gì cả! Thánh Phaolô phân tích: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: Giêsu là đồ khốn kiếp! Cũng không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12:3). Chúa Thánh Thần tác động tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, không thể thiếu vắng Ngài, dù chỉ trong giây lát.
Quả thật, Chúa Thánh Thần đã làm những kỳ công mà không ai có thể phủ nhận. Chẳng hạn việc phổ biến Kinh Thánh. Tính đến tháng 5-2015, Kinh Thánh trọn bộ đã được dịch ra 542 ngôn ngữ, riêng Tân Ước đã được dịch ra 1.324 ngôn ngữ. Không một cuốn sách nào được dịch ra nhiều ngôn ngữ như vậy, và càng ngày người ta càng chú trọng Kinh Thánh – với những ngôn từ được Chúa Thánh Thần linh hứng mà chúng ta gọi chung là Lời Chúa.
Thiên Chúa quan phòng và tiền định cho mỗi người một việc, mỗi người một cách. Anh giỏi cái này, chị chuyên cái kia, tôi biết cái khác. Thật vậy, Thánh Phaolô giải thích về đặc sủng, và xác định là có nhiều nhưng vẫn chung một nguồn gốc: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7).
Thánh Phaolô nói về Nhiệm Thể Đức Kitô: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13). Rõ ràng không ai có thể viện vào bất cứ lý do gì để mà tự cao tự đại. Thánh Phaolô nói: “Ai tưởng mình hiểu biết điều gì thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết” (1 Cr 8:2).
Và hãy lưu ý Kinh Thánh nói về thói kiêu căng, tự tôn, tự mãn:
– Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường (Cn 11:2). – Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào (Cn 16:18). – Tính tự cao hạ đứa tự cao xuống, người tự hạ sẽ được tôn vinh (Cn 29:23).
Chính Đức Maria, khi đến thăm Bà Chị Ê-li-da-bét, đã ca vang bài Magnificat: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:51-52).
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các cửa đều đóng kín nơi các môn đệ ở. Bất ngờ Đức Giêsu xuất hiện giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Hú hồn! Sao thế nhỉ? Vì các ông đang sợ người Do Thái làm khó dễ. Nhưng rồi họ cảm thấy an tâm khi Sư Phụ cho họ xem tay và cạnh sườn. Ôi, Thầy mình thật rồi! Các môn đệ vui mừng lắm, vui vì được gặp lại Thầy.
Rồi Ngài nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23).
Đúng như lời Ngài đã hứa lúc trước: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Đấng đó như thế nào? Chúa Giêsu cho biết: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26).
Chúa Thánh Thần có nhiều ơn, nhưng chúng ta thường “quen” nhắc tới 7 ơn mà Is 11:1-3 liệt kê: Khôn ngoan (cao minh), hiểu biết (thâm hiểu), thông minh (minh luận), lo liệu (chỉ giáo), đạo đức (sùng hiếu, hiếu thảo), sức mạnh (dũng cảm), kính sợ Chúa. Ai có Chúa Thánh Thần sẽ sinh nhiều hoa trái, Thánh Phaolô liệt kê 12 hoa trái: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết (x. Gl 5:22-23). Quả thật, Chúa Thánh Thần vô cùng cần thiết. Có Ngài là có tất cả. Hàng ngày, mỗi khi làm bất cứ việc gì, ước gì mỗi chúng ta không ngừng tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến! – Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Veni Sancte Spiritus! Spiritus!Spiritus! ” (*) .
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết biết đón nhận Chúa Thánh Thần, sống theo Thần Khí, thực hiện đúng hướng dẫn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa thổi bùng Ngọn Lửa Thiêng trong tâm hồn chúng con. Nguyện xin Chúa Thánh Thần mau đến biến đổi thế giới, biến đổi nhân tâm cho hợp Ý Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU (*) Veni Sancte Spiritus, K. 47, của thiên tài âm nhạc Mozart: https://www.youtube.com/watch?v=aE2nouXANaQ -------------------------------
Dòng sinh lực đất trời vẫn ngày đêm tuôn chảy. Nhiều truyền thống đã để lại những phương cách rất phổ thông nhằm khơi dòng lực này để đạt nội lực. Từ huyệt đan điền trong công phu của Tàu đến mạch rắn lửa bên Ấn Độ, hay huyệt khí hải theo kiểu Nhật. Kìa một người bị điểm huyệt mà được giải huyệt lấy lại công lực; một người đang mất tinh thần mà tìm lại được sinh khí sau những giờ tĩnh niệm. Nội lực hay nhân điện vẫn luôn là một đề tài ăn khách kéo theo bao cuộc khảo cứu.
THỜI ĐIỂM BẨY MẠCH NHÂN ĐIỆN
Chuyện rắn lửa Kundalini từ Ấn Độ đã trở thành khá phổ thông. Người Âu Mỹ đã khai thác đủ mọi mặt, nghiêm chỉnh cũng có mà bóp méo lệch lạc lung tung như kiểu kama-sutra cũng nhiều. Rồi mạnh ai nấy sáng chế ra thêm các phương thức như nhân điện, yoga, chữa bệnh theo phương pháp điều hòa thân tâm rất nổi tiếng như của bác sĩ Deepak Chopra với nhóm nghiên cứu thuốc kiểu mới của đại học Harvard, hay của bác sĩ Dean Ornish vùng Vịnh San Francisco. Chữa bệnh bằng phương pháp nhân điện như một số người Việt đang nói tới cũng không ngoài chiều hướng này. Có điều lạm dụng hay hiệu quả tới cỡ nào cũng tùy ở tầm nắm bắt hiểu biết và áp dụng đúng đắn hay không.
Từ căn bản, bẩy huyệt trên cơ thể theo dọc đường xương sống tiến cấp từ dưới lên trên chỉ là một chuỗi hình ảnh tượng trưng. Bẩy huyệt diễn tả khả năng vô hạn của con người còn bị chôn vùi phủ lấp ở ngay trong lòng mình. Nhiều áp dụng tâm lý thực nghiệm ngày nay như chương trình cuối tuần "Khơi Nguồn Nội Lực" (Unleash the Power Within) của Anthony Robbins đã cho thấy những kết quả rất cụ thể trong mấy ngày, điều mà nhiều nhà tu luyện đã xử dụng từ xa xưa như thế luyện gTummo mất nhiều thời gian bên Tây Tạng.
Theo phương pháp thực nghiệm của Anthony Robbins, nội lực nhân điện phát sinh do hai yếu tố:
- giữ một hình ảnh về chính mình, trong tâm tưởng hay vẽ ra được (inner image).
- thực hành hòa nhập với chính hình ảnh đó, hóa thân trở thành hình ảnh đó (physiology), với tác phong, thái độ, cứ chỉ, tâm tình...
HUYỆT RỒNG LỬA, MẠCH CHIM TIÊN
Hình ảnh ở truyền thống Ấn Độ là con rắn lửa phát sinh nội lực. Hình ảnh của Việt tộc là rồng chuyển lửa và chim tiên cũng trong chiều hướng này, là hình ảnh của chính mình vươn tới. Từ tâm lý bây giờ gọi là self-image. Cần thấy được và hòa nhập với biểu tượng là con rồng lửa và chim tiên, theo bẩy nấc tiến lên. So với tâm lý thời mới thì bẩy huyệt đạo lại chính là bẩy nấc nhu cầu phát triển của con người. Từ của nhà tâm lý Karl Jung là thực hiện toàn mãn (individuation) cũng chính là từ sadhana của Tagore đã xử dụng.
Huyệt số 1, muladhara: là huyệt cuối cùng trong nấc thang với hình ảnh con rắn. Theo truyền thống Đông phương, rắn hay rồng là biểu trưng của sức sống, vốn tiềm ẩn, dưới sông dưới nước, trong tận sâu mạch máu, là nhu cầu gốc rễ của con người. Ai mà chả phải ăn uống để sống. Đó là nhu cầu vật chất số một. Nhưng nhiều khi miếng ăn trở thành mục đích đời sống giống như lý tưởng cộng sản Karl Marx: người là con vật đi rình mồi, và cho đó là bước tiến tất yếu của lịch sử khi phát hiện ra cái bụng là chúa tể để tôn thờ! Bước tiến này thời người Canaan trước khi dân Do Thái vào đất Israel đã khám phá ra. Họ thờ thần Baal là thần rắn trao ban sức sống. Rắn chỉ lột xác mà lớn lên chứ xem ra không chết, là biểu tượng của trường sinh bất tử. Dấu vết thờ rắn này còn lại ở những hành lang quanh hồ Bethesda phía bắc Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ chữa người tê liệt đã 38 năm. Trước kia, đây là ngôi đền thờ thần Ran, nơi hy vọng được chữa bệnh mỗi khi có rắn làm cho nước động. Ngày nay dấu tích hai con rắn cuốn biểu tượng của hồi phục sức khỏe vẫn còn thấy nơi cửa phòng các bác sĩ.
Huyệt số 2, svadhisthana: biểu trưng nhu cầu truyền sinh, bản năng tính dục với hình ảnh mặt trăng. Huyệt này được ông tổ của ngành tâm lý miền sâu là Sigmund Freud khai triển mạnh và cho rằng mọi cử chỉ hành vi của con người đều do huyệt số 2 điều khiển!
Huyệt số 3, manipura: biểu trưng nhu cầu quyền lực. Từ mức ăn no mặc ấm đến độ ăn ngon mặc đẹp, để le lói hơn người. Nhà tâm lý Adler chứng minh rằng huyệt này mạnh nhất trong con người. Mọi nỗ lực cũng chỉ nhằm ăn thua đủ với đời, bon chen hơn thiệt, như con gà gay nhau tiếng gáy.
Nhìn kỹ ba nhu cầu trên thì thấy con người có chung với con vật. Trong sa mạc, Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ dừng chân ở ba nhu cầu hạ đẳng này là chỉ biết lo tìm miếng ăn, danh giá, ngoạn mục… Nhưng con người thì lại được tạo dựng với nỗi khát khao vô biên, chẳng thể an thỏa với ba nhu cầu trên. Thánh Augustinô đã nói lên: "Hồn con khắc khoải mãi cho đến khi tìm gặp được Chúa". Chính vì thế mà cuộc tìm kiếm của suốt thế kỷ được biểu trưng bằng ba nhân vật là Marx, Freud, Adler, đã chỉ dẫn đến giằng giật miếng mồi, cắn xé nhau vì tiếng gáy, và bị cơn lốc tình dục đầy đọa nhau biến thành hỏa ngục ngay ở trần gian này.
Vậy là con người phải đi xa hơn, tìm ra con đường vượt lên nấc thang cao hơn để đáp ứng nhu cầu làm người thì mới an thỏa được.
Huyệt số 4, anahata: nằm ở khoảng tim với hình ảnh Lửa. Tình yêu đã vượt lên khỏi tính dục để vươn tới đồng loại, tới những người nghèo đói, nghe được tiếng rên xiết của nhân loại khổ đau. Đây là biểu tượng của người nữ sinh con, của lòng từ bi thương cảm. Lửa tình dục đã biến thành lửa tình yêu đích thực mang lại niềm hoan lạc vô biên. Con rắn thể lý đã biến thành con rồng lửa thiêng. Trong đạo Chúa, hình trái tim Chúa Giêsu hay Đức Mẹ thường được vẽ tỏa lửa là vậy.
Huyệt số 5, visuddha: nằm ở khoảng cổ họng với biểu tượng Khí, diễn tả sinh lực. "Người ta sống không do bởi bánh mà còn do mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra." Nhu cầu tinh thần mới làm cho con người no thỏa đầy sinh khí. Kinh nghiệm này đang thấy rõ nơi xã hội thừa mứa đồ ăn đến ứ mỡ mà vẫn đói khát một điều không mua được bằng tiền bạc.
Huyệt số 6, ajna: nằm giữa hai con mắt. Đây chính là con mắt thứ ba, là huệ nhãn, nhìn thấy vẻ đẹp của mọi vật bằng con mắt của tâm, nhìn thấy dáng nét Thần Linh Chúa trong mọi sự.
Huyệt số 7, sahasrara: ở đỉnh đầu, là chính tòa nhà của Thiên Chúa, là nơi con người bước vào nhiệm hiệp với Đấng Toàn Mãn. Nói theo nét văn hóa Việt, thì con rồng xác thể vật chất đã vươn lên hòa nhập thành chim Tiên tinh thần bay bổng, tức con người đã vươn tới vô hạn khi nối được vào nguồn sức sống vô biên của Đức Chúa Trời.
TIN VUI PHƯƠNG CÁCH LUYỆN THẦN ĐIỆN
Đất trời vẫn nhảy múa theo nhịp theo điệu thành dòng sinh lực như một dòng sông chảy qua muôn vật. Cảm nhận và hòa theo được nhịp vũ này thì đời sống phong lưu thanh thản và đầy hoạt lực.
Nguồn nước thì vô biên vô tận, nhưng lãnh nhận được bao nhiêu lại tùy sức chứa của mỗi người. Bình chứa đây, lạ thay, lại chính là niềm tin thể hiện hình ảnh về chính mình. Tin mình là con vật kinh tế, là nòi khỉ, thì sẽ trở nên như vậy. Tin mình là nòi rồng, giống chim tiên, tức là đã cảm nhận được khả năng của sức thần vươn lên vô hạn. Thánh Kinh quả quyết con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa. Nhưng có ai thấy được Chúa vì Ngài là Đấng vô hình. Vậy mà Thánh Kinh lại diễn lên hình ảnh Thần Linh Chúa hiện xuống như những lưỡi lửa, như luồng hơi thở sinh khí, như con chim bồ câu...
"Họ thấy xuất hiện những hình giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần" (TĐCV 2:3-4).
"Bình an cho các con. Nói thế rồi Chúa thở hơi và phán bảo họ: các con hãy nhận lấy Thánh Thần." (Gioan 20:22). "Bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp" (TĐCV 2:2).
"Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước đi lên, thì kìa tầng trời mở ra. Người thấy Thánh Thần Chúa đáp xuống như chim bồ câu đậu trên Ngài" (Mt 3:16).
Điều kinh ngạc là tại sao nét văn hóa gốc của Việt tộc về rồng lửa và chim tiên lại giống hình ảnh Thánh Kinh về luồng lửa và chim bồ câu đến thế! Chắc vì trong tâm khảm con người Việt đã mang sẵn những biểu tượng uyên nguyên (archetype) này mà đạo Chúa được đón nhận ở Việt Nam nhanh hơn bất cứ nước nào bên Á Đông.
Từ những nhu cầu hạ đẳng có chung với súc vật, con người cần tiến lên những nhu cầu tinh thần, đạt được thần điện, thì mới toàn mãn an vui được. Chẳng cần phải mất công đi tìm phương pháp tâm lý tạp nham khó phân biệt chính tà ngày nay, cũng chẳng phải đi vơ vét thứ rắn lửa bò mãi sang từ Ấn Độ hay thứ luyện công nào của xứ Tây Tạng mà sinh "tẩu hỏa nhập ma". Phương pháp tâm lý luyện nhân điện của Anthony Robbins cũng chỉ là khéo biết áp dụng những nét căn bản của đạo mà thôi, dù vậy vẫn còn nằm trong nấc nhân điện, chưa vươn tới cao hơn được. Thì đây, truyền thống đạo Chúa đã chỉ dẫn phương cách khơi 7 mạch thần điện đủ 7 ơn Thánh Thần từ lâu bằng chính biểu tượng gốc, đặc biệt hình ảnh lửa nhiệt lực và hơi thở sinh khí hay chim bồ câu thảnh thơi thanh thoát.
Vậy một trong những cách thức luyện thần điện đơn giản mà khơi được nguồn sinh lực này là hãy mở tâm ra, hòa nhập vào chính biểu tượng ấy, thấy được luồng sinh khí và lửa trời đang đi vào con người mình, thấy cả con người mình đang biến thành rực lửa đầy sinh khí, chứ không chỉ suy niệm về ý nghĩa ở trên đầu.
PHÚT LUYỆN THẦN ĐIỆN
Xin thực hành một trong hai thao luyện sau đây.
1. Nhận Lửa Tình Sinh Động: Linh mục Anthony de Mello dòng Tên nổi tiếng với phương pháp linh thao hội nhập văn hóa Đông phương, đã cống hiến một số những thao luyện trong cuốn Sadhana. Đây là một bài luyện thần điện với tựa đề là Lửa Tình Sinh Động. Vậy xin cùng thực hành ngay.
Hãy để một vài phút cho tâm hồn và cơ thể an tĩnh lại, cảm nghiệm hơi thở sức sống trong mình.
Hãy hình dung mình đang đi thật sâu xuống đáy lòng mình. Mọi sự thật tối. Nhưng bỗng mình thấy một mạch giếng đang phun lên hướng về Chúa. Hay cũng có thể hình dung một ngọn lửa tình sinh động đang chiếu lên tới Chúa.
Hãy thầm nói một câu ngắn theo nhịp ngọn lửa hay nước phun, như lạy Chúa Giêsu; xin Thánh Thần Chúa đến…
Không cần đọc ra thành lời, nhưng như phát khởi từ đáy lòng, từ thật xa, từ thật sâu. Tiếng vang lớn dần lên và bắt đầu lan tỏa khắp cơ thể, trong đầu, trong ngực, trong lòng… Tiếng vang lan ra khắp cả phòng, khắp mọi nơi, lan ra cả đất trời vũ trụ.
2. Kinh Luyện Thần Điện: Áp dụng phần nào phương pháp tâm lý của Anthony Robbins, mình cũng có thể đọc một kinh có sức tác động mạnh với hình ảnh Chúa Thánh Thần: lửa, khí, chim bồ câu tỏa sáng. Đọc thật chậm, từng lời, từng câu. Đọc đi đọc lại, để hình ảnh, ánh sáng và âm thanh tỏa lan cả con người mình, tỏa lan đầy lòng, đầy khắp các chi thể và cơ năng, đầy khắp các mạch máu và mọi tế bào; cả con người mình như đang sáng dần lên với thần lực mới.
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con, chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống, sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các thánh tông đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, yên ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường -------------------------------
Ai là con người cũng có ngày mở mắt chào đời, ngày sinh nhật. Ngày đó được ghi lại trên tấm giấy khai sinh.
Hội đoàn tổ chức đời đạo nào trong xã hội cũng có ngày khai sinh thành lập. Ngày đó được ghi chép trên giấy tờ tài liệu lưu giữ của Hội đoàn tổ chức như bằng chứng.
Người Mẹ Giáo Hội Công giáo cũng có ngày sinh nhật, ngày khai sinh thành lập. Nhưng ngày này của Giáo Hội Công giáo lại không có ghi lại trên giấy tờ khai sinh hay chứng từ sổ sách ghi lại bằng chữ viết, bằng con số.
Như thế, làm sao có thể nói đến ngày sinh nhật của Giáo Hội công giáo được?
1. Tờ giấy khai sinh
Khi một em bé lọt lòng mẹ mở mắt chào đời, bệnh viện nơi em sinh ra ghi lại trên giấy tờ ngày giờ năm tháng, nơi chốn em sinh ra. Căn cứ vào chứng thư đó, sở hộ tịch làm giấy khai sinh trong sổ bộ đời sống xã hội cho em bé.
Không phải tờ giấy đó làm ra em. Nhưng sống trong cộng đồng xã hộị, em cần tờ giấy khai sinh đó. Tờ giấy khai sinh này gắn liền với đời sống em. Nó là tờ giấy căn bản hộ thân cho em, để sau này làm những giấy tờ cần thiết khác trong suốt đời sống.
Không chỉ khi làm những giấy tờ cần thiết khác ở ngoài công sở xã hội, mới cần đến giấy khai sinh. Nhưng cả khi cha mẹ em bé xin cho con mình nhận lãnh Bí tích Rửa tội gia nhập Giáo Hội Chúa Giêsu, ít là bên Giáo Hội nước Đức, cũng phải cần có kèm theo giấy khai sinh của em bé.
Tên em, ngày tháng năm sinh, nơi chốn quê quán em sinh ra là những dữ kiện quan trọng liên quan đến bản thân đời sống. Tờ giấy khai sinh giúp em giữ lại những dữ kiện đó, giữ lại chút kỉ niệm đầu đời ngày em bắt đầu đời sống trên trần gian. Còn trong niềm tin đạo giáo có giấy tờ khai sinh không?
2. Dấu ấn giấy khai sinh
Dấu ấn Bí tích phép Rửa tội ghi khắc trong tâm hồn người được rửa tội là tờ khai sinh gia nhập đạo Công giáo. Nhưng để lưu trữ ghi nhớ sau này khi cần tra cứu, nơi nhà xứ nào cũng có sổ Rửa tội. Trong cuốn sổ đó, lần nữa ngày tháng năm sinh, nơi sinh cùng tên cha mẹ của em bé, ngày tháng năm rửa tội được ghi lại.
Nhiều người vì hoàn cảnh di chuyển, di cư nơi này sang nơi khác, mất hết giấy tờ, không còn nhớ dữ kiện ngày tháng bản thân của mình nữa. Lần tìm về nơi ngày xưa đã sinh ra, đã được Rửa tội, họ tìm lại thấy những dữ kiện đó.
Trong đạo Công giáo, khi xin cử hành bí tích hôn phối lập gia đình, người ta truy tìm lại sổ rửa tội, để biết xem có đúng là người Công giáo đã được rửa tội chưa, đã có chịu Bí tích hôn phối lập gia đình lần nào chưa. Vì sau hôn phối, có báo lại ghi thêm vào sổ đó: Đã chịu Bí tích Hôn phối.
Những người được chịu chức Thánh trong Giáo Hội, những ai khấn Dòng, những vị thẩm quyền trong Giáo Hội cũng lần dở tìm lại sổ Rửa tội để truy tìm nguồn gốc. Và sau khi người đó lãnh Chức Thánh hay Khấn Dòng báo ghi thêm vào sổ đó: đã chịu chức Thánh hay đã khấn Dòng.
Cuốn sổ Rửa tội trong Giáo Hội là giấy chứng minh để có thể tiếp tục tiếp nhận lãnh những Bí tích khác. Như thế sổ Rửa tội có khác gì giấy khai sinh đâu.
Sổ Rửa tội, một lọai giấy khai sinh trong đạo Công giáo, không chỉ cho nhu cầu đó. Nó còn là một chứng tích lịch sử nữa.
Một ai đó được Giáo Hội phong lên làm bậc Thánh, người ta truy tìm đền cuốn sổ Rửa tội nơi ngày xưa vị đó đã được Rửa tội. Lúc đó cuốn sổ Rửa tội nơi đó có tên vị đó trở nên thời danh, một chứng tích lịch sử.
Cuốn sổ Rửa tội ghi tên cùng ngày tháng Rửa tội của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. Joseph Ratzinger ở nhà xứ Marktl am Inn trở nên thời danh như một chứng tích lịch sử cho việc tra cứu.
Giáo Hội Công giáo của Chúa có gì giấy tờ gì chứng nhận như giấy khai sinh không?
3. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
Giáo Hội Công giáo có ngày khai sinh khởi đầu. Nhưng ngày khởi đầu, ngày sinh nhật đó không có giấy tờ khai sinh cùng sổ sách ghi lưu lại.
Không có giấy khai sinh. Không có cuốn sổ Rửa tội. Nhưng Giáo Hội có sách Kinh Thánh ghi chép lại ngày giờ khai sinh của mình. Thánh sử Luca đã thuật lại ghi lại trong Sách Tông đồ công vụ chương hai, từ câu 1-11.
Căn cứ vào Thánh Kinh, đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. đã diễn tả về ngày sinh nhật của Giáo Hội Chúa Giêsu:
Thánh sử Luca, người đã soạn viết công trình Kinh Thánh với những suy tư rất thận trọng. Ông trình bày quy dẫn hướng trở lại về sự nhập thể làm người của Chúa Giês. Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên địa cầu mọi người cũng đón nhận Chúa Giêsu nữa. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống đổi mới, và Giáo Hội "than thể của Chúa Giêsu" khai sinh chào đời trong dòng thời gian lịch sử.
Điều này xảy đến qua những dấu hiệu làn gío thổi đến và ngọn lửa bùng sáng lên, nhất là qua dấu hiệu của sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ. Trong điều kiện đó, Giáo Hội đã loan truyền và được loan truyền đi khắp nơi, cùng được chấp nhận bằng những ngôn ngữ khác nhau. Điều này trái ngược với lịch sử xây tháp Babel ngày xưa.
Điều khác nữa, một cộng đoàn xã hội mới nảy sinh, mà Thiên Chúa qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, qua ngọn lửa của Thiên Chúa, đã xây dựng nên từ trong tận trái tim tâm hồn con người.
... Nếu Thánh Thần Thiên Chúa được trình bày vẽ như hình một cái lưỡi, như ngọn lửa, điều này nói lên Ngài ngự xuống trên mỗi người cách cá nhân riêng biệt. Đây là những hình ảnh căn bản diễn tả cho chúng ta hiểu, sự cư ngụ ở lại, điều mầu nhiệm bí ẩn của Thánh Thần Thiên Chúa, sự khai sinh chào đời của Giáo Hội. Và cùng với sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ cũng nói lên tích cách công giáo phổ quát của Giáo Hội. (Papst Benedickt, Gott und die Welt, ein Gespr#ch mit Peter Seewald, Von der Kirche, Knaur Verlag, April 2005, S. 376.)
Như thế, Giáo Hội Công giáo của Chúa không phải là sản phẩm của một ai, hay của một trào lưu xu hướng thời đại nào, cùng không giới hạn trong một quãng thời gian nào. Nhưng do chính Chúa qua ân đức sức mạnh Chúa Thánh Thần thiết lập nên, cùng luôn đổi mới trong dòng lịch sử thời gian trên từ hơn hai nghìn năm qua, và còn kéo dài trong tương lai tiếp nữa.
Nếu hiểu Giáo Hội của Chúa như một „Bí tích“ của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong tình yêu của Chúa Thánh Thần, thì cơ cấu của Giáo Hội không chỉ là mặt tiền bên ngoài và như hàng thứ yếu. Nhưng là dấu chỉ ẩn chứa trình bày một nội dung thần học về hiệp thông trong đức tin, cùng về sự hợp nhất nên một.
"Những lời sỉ nhục bỉ báng đấng thay mặt Chúa cùng các đấng làm thầy", như lời kinh đọc trong kinh đền tạ trái tim cực Thánh Đức Chúa Giêsu, là lời xét mình, ăn năn tạ lỗi, cùng nhắc nhở hãy có lòng yêu mến kính trọng Giáo Hội của Chúa. Đừng lạm dụng ngôn ngữ, nhân danh tự do mà coi khinh thường vô phép với Giáo Hội của Chúa, công trình của Chúa Thánh Thần.
Hàng giáo phẩm trong Giáo Hội của Chúa như Bí tích ở trần gian, là những người được Chúa tuyển chọn trao ban cho trách nhiệm gìn giữ cai quản Giáo Hội của Người. Phải, họ là những con người với những giới hạn yếu hèn, do Chúa dựng nên. Họ không phải, hay chưa là thánh. Nhưng họ có bổn phận cùng với mọi người trong Giáo Hội sống trở nên thánh thiện tốt lành như ý Chúa muốn.
Chúa Thánh Thần, Đấng khai sinh cùng nuôi dưỡng Giáo hội Chúa, hằng luôn đổi mới làm tươi trẻ trong dòng lịch sử thời gian công trình Ngài đã lập sáng tạo nên bằng bảy ân đức căn bản cho đời sống: Khôn ngoan, lo liệu, sức mạnh, thông hiểu, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa.
Cùng Hội Thánh, chúng ta kính thờ mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ngôi thứ Ba là Chúa Thánh Thần. Đã từng được nghe giảng dạy về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa Kitô về trời, chúng ta cũng đã được học hỏi về Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Chúng ta còn biết các hình ảnh chỉ về Người như là gió, mây, nước, lữa, chim bồ câu…, rồi Người có các danh xưng là “Đấng ban sự sống”, là “Thần Chân lý”, “Đấng bào chữa”…(x. GLCG chung số 683- 701). Có vị lại ví Chúa Thánh Thần như Đấng dấu mặt. Người ta chỉ thấy hiệu quả tác động của Người chứ nào đâu thấy Người như Đức Kitô vì đã nhập thể làm người.
Nói đến hoa quả của Chúa Thánh Thần thì thật khôn xiết. Người là Thần Chân lý nên Người dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn. Người là nguồn tình yêu nên Người đưa chúng ta vào biển cả bác ái bao la. Người là nguyên lý của sự hiệp nhất nên Người làm cho chúng ta nên một trong Chúa Kitô. Người là ngọn lửa nên Người đổi mới chúng ta từ trong ra ngoài. Người là nguồn bình an nên Người đưa chúng ta vào sự an bình đích thức, một sự bình an không như thế gian ban tặng…
Chúa Thánh Thần đã được trao ban. Người đã được trao ban cho nhân loại từ Trái Tim cực thánh bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá (x.Ga 19,31-37). Người được trao ban cho các Tông đồ, các môn đệ khi Chúa Kitô phục sinh hiện ra: “Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần” (Ga 20,22). Người đã hiện xuống trên các Tông đồ và nhiểu người ngày Lễ Ngũ tuần dưới hình lưỡi lửa (Cv 2,1-11). Chúa Thánh Thần đã được trao ban, nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta có nhận được Người chưa? Và bằng cách thế nào để ta đón nhận Chúa Thánh Thần?
Chúng ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần chưa? Câu trả lời xem ra không dễ. Cứ xem quả thì biết cây. Mặc dù trong đức tin, chúng ta tin nhận khi ta chịu Bí tích Thánh tẩy là ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần. Khi ta chịu Bí tích Thêm Sức, khi ta lãnh nhận các bí tích khác như Truyền Chức Thánh, Hôn phối…, là ta đã lãnh nhận hồn ân Thánh Thần. Thế nhưng hoa trái của Thánh Thần như Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Galata 5,22-23 là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” đã thực sự có nơi đời sống chúng ta thế nào thì thật khó trả lời. Cũng thật khó trả lời rằng ta đã đến cùng chân lý vẹn toàn, đã hiệp nhất nên một, đã đổi mới từ trong ra ngoài…
Một sự thật không riêng gì ở các xứ mà tôi đang phụ trách, đó là nhiều em thiếu niên trước khi chịu Bí tích Thêm Sức thì rất chuyên chăm học giáo lý, tham dự Thánh Lễ, làm các việc tông đồ mà các anh chị giáo lý viên đề ra. Thế nhưng sau khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, một Bí tích mà qua đó các em lãnh nhận hồng ân Thánh Thần cách đặc biệt, thì dường như có phần đi xuống, nếu xét hình thức bên ngoài. Cũng có thể giải thích rằng do tâm lý tuổi mới lớn có nhiều cung cách hành xử không như ý những người có trách nhiệm. Tuy nhiên dưới con mắt nhân loại, để nhận ra những thay đổi nơi các em theo hướng tích cực thì quả là khó thấy và nhiều khi lại có phần theo hướng ngược lại. Dù vậy không ai dám to gan nói rằng các em là chưa nhận lãnh hồng ân Thánh Thần!
Chúa Thánh Thần đã được trao ban cho nhân loại. Xưa, thánh Phêrô đã từng kinh ngạc khi Thánh Thần cũng đã đổ xuống trên những người chưa chịu Bí Tích Thánh Tẩy. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10,47 ). Vấn đề quan trọng là làm sao để có thể nhận lãnh hồng ân Thánh Thần. Xin được đề nghị một trong những cách thế để ta có thể đón nhận hồng ân Thánh Thần đó làhãy mở cửa ra.
Ngày Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ, Người đã trao ban Thánh Thần cho các ngài thế mà dường như các ngài vẫn chưa nhận được. Có thể có nhiều lý do nhưng ta có thể chân nhận một trong những lý do, đó là “cửa vẫn đóng kín”. Cánh cửa vật chất của căn nhà là hình ảnh của cách cửa tâm hồn các ngài. Tâm hồn các tông đồ vẫn còn vương vẫn chuyện Thầy sẽ khôi phục nước Israel (x.Cv 1,6 ). Tâm hồn các ngài còn lo âu sợ hãi trước các thế lực bên ngoài. Đến ngày Lễ Ngũ tuần, gió đã ùa vào đầy cả căn nhà chứng tỏ các cánh cửa đã rộng mở (x. Cv 2,1-2 ). Cánh cửa tâm hồn các tông đồ và những người có mặt hôm ấy cũng đã mở rộng.
Người ta nhìn nhận Công đồng Vatican II như là một cuộc Hiện xuống lần thứ hai cho Hội Thánh Chúa. Khi được hỏi Công Đồng là gì? Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở cách cửa sổ căn phòng của Ngài và nói: Công Đồng là thế đó. Mở cửa để đón nhận hồng ân Thánh Thần. Hãy mở cửa ra ! Một đòi hỏi dường như mang tính tất yếu để có thể đón nhận hồn ân Thánh Thần.
Mở cửa ra để tha nhân, để thế giới nhận rõ, biết rõ con người ta, tập thể ta, Hội thánh ta. Mở cửa ra là một thái độ thẳng thắn chân thành trong sự khiêm hạ. Người có thể thấy được những mặt tốt và cả những mặt xấu xa tồi tệ của mình. Người ta có thể biết được sự thánh thiện và cả tôi lỗi của ta. Mở cửa ra là một động thái can đảm sống trong sự thật. Dù rằng không một ai có thể che dấu Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can, nhưng chúng ta lại có thể che mắt thiên hạ những gì chúng ta muốn che dấu bằng cách này bằng cách khác, với lý do này với lý do khác, có khi là rất hữu lý và hợp tình theo nghĩ suy nhân trần. Thế nhưng, đã không can đảm sống trong sự thật thì e rằng khó mà nhận được Đấng là Thần Chân Lý.
Mở cửa ra để hiệp thông với tha nhân, với nhân loại trên thế gian này, một thế gian mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đa hiến ban chính Con Một (x. Ga 3,16 ), một thế gian mà Đức Kitô đã tự hiến dâng chính xác thịt mình để cho nó được sống (x.Ga 6,51 ). Có sự hiệp thông thì sẽ có sự liên đới, tương ái tương thân. Sự hiệp thông thúc giục ta sống liên đới với nhau, với thế gian này cả trong công nghiệp lẫn trong tội lỗi. Đức bác ái đang chớm nở. Và chúng ta sẽ nhận được Thánh Thần là nguồn tình yêu, nguồn hiệp nhất.
Mở cửa ra để đón nhận tha nhân, đón nhận thế giới cho dù là bất đồng chính kiến hay quan niệm, bất đồng về niềm tin hay cung cách hành xử. Thánh Thần đã được trao ban với Trái Tim mở ra của Chúa Giêsu. Trái Tim cực thánh của Người mở ra đón nhận Mẹ dấu yêu, người môn đệ yêu dấu… và cả những người lý hình đang sỉ nhục Người. Đón nhận không phải là chấp nhận tất cả bất kể tốt xấu, nhưng là để thánh hóa và thăng hoa. Thành quả của Công đồng Vatican II là một minh chứng cho sự mở cửa đón nhận này. Chính những vị trước đây đã bị loại trừ cách này cách khác như Yve Congar, Chenu..., đã được đón nhận cách chân thành. Và hoa trái Thánh Thần đã tỏ hiện.
Hãy mở cửa ra là hãy mở tâm hồn ra, mở vòng tay ra. Sống trong sự khiêm tốn chân thành, sẵn sàng đối diện với sự thật, sống trong sự hiệp thông liên đới với mọi người, sống trong tình thân ái, bao dung đón nhận nhau, chính là cách thế để đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hữu hiệu. Tác giả sách Khải Huyền viết: Thánh Thần và Tân nương là Hội Thánh cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20 ). Có lẽ ta đừng xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”, nhưng hãy xin: “Xin cho con, cho chúng con, cho Hội Thánh biết mở cửa ra!”
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa -------------------------------
Hằng năm Giáo Hội mừng lễ kính đức Chúa Thánh Thần hiện xuống trọng thể. Trong đời sống, người Công giáo chúng ta vào lứa tuổi thanh thiếu niên, đều đã nhận lãnh Bí tích Thêm sức, đón nhận ân đức Đức Chúa Thánh Thần củng cố đức tin ngày chịu phép bí tích Rửa tội năm xưa.
Rồi mỗi khi làm dấu Thánh Gía, đều nhắc đến đức Chúa Thánh Thần: “...và Thánh Thần. Amen". Nhất là người Công giáo Việtnam thường đọc lời kinh: "Chúng con lạy ơn đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng sáng vô cùng. Chúng con xin đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con..." mỗi khi đọc kinh lần hạt mân côi hay trước khi dâng thánh lễ.
Một tập tục thói quen đạo đức tốt lành ăn rễ sâu thấm nhuần trong cung cách sống đức tin! Nhưng càng ngày, nhiều người thắc mắc: Đức Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Ngài?
1. Dominum et vivicantem - Là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.
Mỗi khi đọc kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Sự sống phát xuất từ Ngài và Ngài là sự sống. Trong chương khởi đầu sách Sáng Thế (1, 1-2, 4a) thuật lại công trình sáng tạo trời đất, Kinh Thánh diễn tả Thần linh Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh u minh hỗn mang. Thiên Chúa sau khi đã tạo dựng con người từ bụi đất hà hơi vào họ và họ liền có sự sống. Thần linh Thiên Chúa là hơi thở phát sinh ra sự sống.
1.1. Sự sống do đâu?
Nhiều cái, nhiều sự trong đời sống chúng ta có thể hay phải làm ra. Nhưng sự sống con người ngay từ khởi đầu là do được tiếp nhận, chứ không do làm hay chế tạo ra. Người mẹ không chế hay làm ra đứa con. Nhưng người mẹ đón nhận sự sống đứa con của mình. Người ta đã hay sẽ còn khảo nghiệm để khám phá ra mầm sự sống trong quá trình thụ thai sinh con nơi bà mẹ. Nhưng cho tới bây giờ cũng chỉ biết được những khía cạnh ngoại vi bên lề giữa tình yêu và sự sống, giữa sự sống và tình yêu, giữa sự hoà nhập của yếu tố sinh lý, yếu tố hoá học... còn chính sự sống trước sau vẫn là điều mầu nhiệm chưa khám phá ra. Sự sống không do tự phát xuất ra và cũng không do chúng ta làm ra. Sự sống là ân đức, là quà tặng đến với và cho chúng ta. Chúng ta được quyền đón nhận sự sống và là người đón nhận sự sống.
1.2. Kinh nghiệm trong đời sống.
Không ai làm ra sự sống, nhưng chúng ta có kinh nghiệm nhiều ít, thành công hay thất bại, buồn hay vui, sung sướng hay đau khổ trong đời sống. Kinh nghiệm chúng ta thu lượm được trong đời sống. Chúng ta cũng không thể chế ra kinh nghiệm được. Và mỗi người có kinh nghiệm về đời sống khác nhau, dù cùng cảnh ngộ, cùng điều kiện vật lý... Kinh nghiệm chúng ta trải qua trong đời sống cũng là ân đức từ trời ban cho. Một người kể cho tôi nghe ngày sinh nhật thứ hai trong đời ông (không phải sinh nhật lúc hai tuổi!). Tôi ngạc nhiên hỏi lại: tại sao lại có tới hai ngày sinh nhật? Ông hân hoan thuật lại biến cố đó. Số là cách đây hai năm, đang trong bữa tiệc mừng con trai út người bạn mới thi đậu ra trường, bỗng dưng ông ngã lăn đùng ra giữa nhà nằm bất tỉnh...
Người ta đưa ông vào nhà thương cấp cứu. Sau hai ngày ông sống tỉnh dậy và sống khoẻ mạnh trở lại. Ông cho là đã được tái sinh lại lần thứ hai. Vì thế ông có hai ngày sinh nhật: ngày mở mắt chào đời khi xưa cách đây hơn năm mươi lăm năm, và ngày sống trở lại sau hai ngày trong hôn mê bất tỉnh, như được tái sinh! Còn nỗi vui mừng nào lớn hơn niềm vui được sống trở lại khỏe mạnh với mọi người! Ông không chế ra sự sống ngày tái sinh này. Nhưng ông đã đón nhận nó như món quà tặng, như ân đức từ trời cao. Nhà nghệ thuật, nhà nghiên cứu sau năm tháng miệt mài suy nghĩ, bỗng dưng trong tâm trí bừng lên ý tưởng mới. Thế là họ cặm cụi ghi chép lại và phát triển ra những bức họa, những bản nhạc hoà tấu, những cuốn sách, những công trình phát minh sáng chế nổi tiếng để đời cho hậu thế.
Ý tưởng mới bừng lên trong tâm trí cũng không do họ tự chế tạo ra, nhưng do được gợi hứng ban cho.
1.3. Sự sống cho con người, nhưng...
Chúng ta đón nhận sự sống, thu lượm kinh nghiệm trong đời sống, hoạch định cách sống hôm nay và ngày mai. Nhưng chúng ta không thể thu ngắn, kéo dài hay bằng cách nào đó biến đổi sự sống theo ý muốn mình được. Chúng ta không là chủ sự sống và không thể nắm giữ sự sống lại được. Quá trình sinh lão bệnh tử nói cho chúng ta điều đó. Và nào đã có ai là con người thoát khỏi quá trình này đâu? Sự sống được ban cho và sự sống có ngày được thu hồi về bởi Đấng là chủ là nguồn sự sống. Đó đây ngườ ta thường nói: Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Cuộc sống không còn đơn giản như xưa nữa. Điều kiện sống càng ngày càng phức tạp và tạo ra nhiều vấn đề...!
Con người chúng ta đón nhận sự sống và có bổn phận duy trì, xây dựng phát triển sự sống cho mình, cho gia đình, cho xã hội đất nước. Đó là điều quan trọng, nhưng đó chưa phải là tất cả. Qua việc làm, qua hoạch định hay qua những công trình đã xây dựng, chúng ta mới chỉ đạt được điều kiện, cách thế khắc phục những khó khăn trở ngại trong đời sống, cách xây dựng sự sống. Còn chính sự sống chúng ta không thể làm chế ra được. Sự sống là ân đức, là quà tặng và có giá trị cao qúi tuyệt đối hơn mọi công trình việc làm của con người. Vì sự sống được ban cho, chứ không do chế tạo làm ra. Con người có bổn phận kính trọng, gìn giữ bảo vệ sự sống. Thần Linh Thiên Chúa là sự sống và là Đấng ban sự sống.
2. Creator, Spiritus - Thần linh sáng tạo
Ngày nay khắp mọi người ta nói đến bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia kỹ nghệ tân tiến đưa ra những chương trình bảo vệ rừng núi, bảo vệ nguồn nước dưới lòng đất, bảo vệ đất đai mặt bằng, bảo vệ không khí trong lành, bảo vệ khí trời không bị nóng làm cho khi hậu đảo lộn, bảo vệ súc vật côn trùng... vì con người càng ngày càng nhận ra mức quan trọng của thiên nhiên cho sự sống còn của họ. Đó là nguồn tài nguyên, tài sản cho mọi thời đại mọi thế hệ. Thắc mắc đặt ra: Thiên nhiên cho con người hay con người cho thiên nhiên?
Cả hai vế đều đúng, đều quan trọng như nhau. Không có thiên nhiên làm sao con người có thể sinh sống được. Và nếu con người không nhận ra giá trị của thiên nhiên, không bảo vệ thiên nhiên, thì cuộc sống của những thế hệ kế tiếp sẽ ra sao? Con người có thể sống trong một môi trường thiên nhiên khô chồi, trơ trụi bị ô nhiễm khí độc hại hay bị khói cháy rừng bao phủ ngày đêm khắp bầu trời được không? Sức khoẻ thể xác và tinh thần của họ sẽ như thế nào nếu nguồn nước dưới lòng đất hay ngoài sông ngòi là một vũng ao tù xình lầy chứa đầy rác rưởi, phân tro hay đầy chất hoá học độc hại?
Thiên nhiên cho con người và con người cũng phải cho thiên nhiên! Nhưng nếu chỉ nghĩ đến việc bảo vệ, gìn giữ thiên nhiên đã đủ chưa? Phải chăng thiên nhiên chỉ nguyên là môi trường sinh thái cho mọi loài? Phải chăng khi đưa ra chương trình cứu nguy bảo vệ môi trường sinh thái là đã cứu nguy được thiên nhiên, công trình sáng tạo rồi? Thiên nhiên đâu phải chỉ bao gồm dưới dạng tài nguyên không khí để thở, đất đai rừng núi nguồn nước cây cối, côn trùng sinh vật. Thiên nhiên hay thế giới chúng ta đang sống còn có chiều kích thánh thiêng tôn giáo nữa: Thiên nhiên, vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Sách Sáng thế 1, 1-2a).
Sự sống trong thiên nhiên là do Thần Linh Thiên Chúa tác dụng vào. Chính với sức sống này, con người tìm thấy ý nghĩa của đời sống. Nhận ra chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Và vì thế con người sống trong đó, đâu phải chỉ nguyên có trách nhiệm với thiên nhiên không thôi đâu. Họ còn có bổn phận với Đấng là nguyên ủy của thiên nhiên. Môi trường sinh thái được trao vào tay con người. Họ được quyền xử dụng vào việc xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh sống; và môi trường sinh sống cũng có thể bị lợi dụng hay sử dụng vô trách nhiệm, khiến gây nên tình trạng phá huỷ ô nhiẽm môi sinh. Còn thiên nhiên là do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá dựng nên ban cho như quê hương xứ sở, nơi sự sống Thần Linh của ngài tác dụng và đổi mới. Như thế con người không thể dùng thiên nhiên theo ý nghĩa xử dụng được.
Con người có bổn phận kính trọng thiên nhiên và họ luôn luôn khám phá ra những công trình sáng tạo mới trong đó. Những công trình này gây ngạc nhiên, mang lai hạnh phúc niềm vui, mang nguồn cảm hứng cho con người. Và vì thế phải biết cúi mình tạ ơn Đấng là chủ thiên nhiên, là chủ nguồn sự sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa răn bảo con người: “Con không được phép giết hại!" (Sách xuất hành 20, 13; Đệ nhị luật 5,17). Ngài có ý nhắn nhủ con người:
Con chỉ là người quản lý thiên nhiên Cha trao cho. Nhưng không là chủ thiên nhiên.
Con phải kính trọng sự sống do Cha tạo dựng. Con không được phá huỷ môi trường sinh thái của cây cối cùng súc vật trong đó. Con không được coi trái đất này là sở hữu của riêng con. Con không được vì quyền lợi riêng mình gây đau khổ cho các công trình sáng tạo của Cha trong thiên nhiên.
Khi kính trọng hay ngạc nhiên bỡ ngỡ những kỳ công, sự sống trong thiên nhiên, là nhận ra dâu vết Đấng là chủ, là nguồn sự sống, nguồn tình yêu của thiên nhiên: Đức Chúa Thánh thần. Bài thánh ca ngày lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần mở đầu bằng câu: "Veni Creator, Spiritus – Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo, ngự xuống..." nói đến những hình ảnh về sáng tạo vũ trụ đã diễn tả trong Kinh thánh, nơi sách Sáng Thế ký.
Bài tường thuật về sự sáng tạo vũ trụ đã diễn tả, Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên khoảng không hỗn độn đen tối, trên biển nước bao la. Thế giới vũ trụ, nơi chúng ta sinh sống, là công trình của Thần linh sáng tạo. Lễ đức Chúa Thánh Thần hiện xuống không chỉ là nguồn gốc khai sinh khởi đầu của Giáo Hội Chúa, nhưng còn là lễ của sự sáng tạo.
Thế giới vũ trụ không phải tự mình mà có. Nó có nguồn gốc khởi thủy từ Thánh Thần Thiên Chúa, do từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Và như vậy, nó phản chiếu sự khôn ngoan của Ngài. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo chiều trải rộng ra xa và bao gồm lý luận của những luật lệ, gợi hướng về Thần linh sáng tạo của Thiên Chúa. Nó nhắc nhở tới sự kính trọng, cho người tín hữu Chúa Giêsu Kitô tin vào Thần Linh sáng tạo. Nó nhắc nhớ họ nhận biết thế giới vũ trụ này, và những vật thể trong đó không phải là những vật dụng đơn giản của con người cùng ý muốn được phép sử dụng hay được phép lạm dụng. Chúng ta con người, không được phép nhìn công trình sáng tạo trong vũ trụ như một của riêng đã được ban cho để hủy hoại. Nhưng đó là khu vườn của Thiên Chúa cùng là khu vườn cho con người.
Đức Gíao Hoàng Benedicto XVI Bài giảng lễ Vọng đón Đức Chúa Thánh Thần, Roma 2006 -------------------------------
Chúng ta sẽ còn bàn về nghi thức của những bí tích khác để thấy vai trò nổi bật của Thánh Thần trong đó. Nhưng ở đây chúng ta nêu lên một số nội dung nổi bật nhằm giúp chúng ta nắm bắt được sự hiện diện sâu xa của Thánh Thần và hiểu được rằng Giáo Hội thiết yếu được xây dựng trên phép Thánh Thể và trên Lễ Hiện Xuống. Quả thật, lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống chỉ là một thực tại duy nhất. Dựa vào sự thâm nhập lẫn nhau này, chúng ta phải đón nhận lễ Hiện Xuống như là đỉnh cao của chu kỳ mùa Phục Sinh và phải mở lòng ra đón nhận tác động của Thánh Thần mà phụng vụ thật long trọng của lễ Hiện Xuống khai mở.
Lời nguyện mở đầu khai mạc thánh lễ Hiện Xuống có tầm bao quát hiếm thấy:
«Lạy Cha, hôm nay nhờ mầu nhiệm Hiện Xuống Cha thánh hóa Hội Thánh Cha nơi mọi dân mọi nước, xin thương rải muôn ơn Thánh Thần xuống trên khắp hoàn cầu, và xin tiếp tục nơi tâm hồn các tín hữu tình yêu mà Cha đã thực hiện vào lúc bắt đầu việc rao giảng Tin Mừng».
Và lời nguyện kết lễ như sau:
«Ước gì hơi thở của lễ Hiện Xuống luôn hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Ước gì bữa ăn được Thánh Thần thánh hóa làm cho thế giới tiến gần ơn cứu độ».
Cũng nên suy niệm câu đáp ca tuyệt vời này: «Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến», mỗi chữ đều nói lên thần học về cầu nguyện với Thánh Thần, diễn đạt sâu sắc chứng nghiệm của các nhà thần bí và của các vị thánh.
Cuối cùng, ngoài phụng vụ và ơn ích của phụng vụ trong đời sống, chúng ta cần tái khám phá ngọn lửa của lễ Hiện Xuống, ánh sáng và hơi ấm của Thánh Thần để dấy lên đà yêu thương huynh đệ trên thế giới.
Liên kết phép Thánh Thể với Thánh Thần đồng nghĩa với công bố Kitô giáo là tôn giáo của tình yêu. Người Kitô hữu không chỉ được mời gọi yêu thương anh em hết sức mình, mà còn phải yêu thương họ bằng trái tim của chính Thiên Chúa nữa. Yêu kẻ khác “vì” yêu Chúa chưa đủ: phải yêu kẻ khác “bằng” chính tình yêu của Chúa. Dẫu tình yêu thuần túy phát sinh từ cảm xúc nhân loại cũng rất đáng kính phục, nhưng tình yêu Kitô giáo chân thực (hay bác ái) lại bắt nguồn từ Thiên Chúa. Để trắc nghiệm sự trung thực về bản chất Kitô hữu của mình, Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu thương con người và thế giới trong chính sức mạnh của tình yêu Ngài, đó là Thánh Thần. Và về phía thế giới bên ngoài, người ta tìm một dấu chỉ khả tín về tình yêu nơi các Kitô hữu chúng ta; dấu chỉ ấy là lối yêu thương vượt lên trên cách đánh giá thông thường của người trần. Khi nói về những người vô thần và những lỗi lầm của chúng ta đối với họ – lỗi lầm mà Công Đồng đã nhìn nhận trong Hiến Chế «Vui Mừng Và Hy Vọng» – người ta có quyền đặt câu hỏi: «Nếu những người vô thần tự suy ra những ý niệm sai lệch về một vị Thiên Chúa mà người Kitô hữu chúng ta lẽ ra phải trình bày như là tình yêu, thì như thế không phải do lỗi chúng ta hay sao?». Trái lại, khi người Kitô hữu trung thành với những đòi hỏi của đức tin, thì từ nơi người ấy sẽ toát ra một sức lôi cuốn lạ lùng.
Ngày nọ, một người mới gia nhập Kitô giáo đã nói lên lý do khiến ông gắn bó với Giáo Hội; những lời nói thâm sâu lạ thường: «Tôi tin rằng ở đâu có tình yêu cao cả nhất thì ở đó có chân lý lớn lao nhất». Giáo Hội sống bằng mầu nhiệm Thánh Thể và mầu nhiệm Hiện Xuống. Công cuộc canh tân của Giáo Hội tùy thuộc vào nỗ lực Kitô hữu sống mầu nhiệm tình yêu hai chiều kích nhưng vốn chỉ là một ấy. Tất cả chúng ta phải chứng tỏ điều ấy bằng đời sống thực tế của mình.
Để lôi kéo chúng ta chú ý đến sự kiện Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội, việc canh tân phụng vụ giúp chúng ta ý thức sống động hơn vai trò và chỗ đứng của chứng nghiệm tôn giáo. Điều mới mẻ về Thánh Thần chẳng có gì khác hơn sự hiện diện trung thành và luôn tác động của Thiên Chúa giữa chúng ta. Thánh Thần giúp chúng ta sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa trực tiếp nơi con người và lịch sử. Kinh nghiệm này là cốt tủy của Kitô giáo.
THÁNH THẦN và CHỨNG NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA Hồng Y L.J. Suenens
Thánh Thần sự thật, đấng mà thế gian không thể đón nhận vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Ga 14,17
Sự hiện diện của Thánh Thần không chỉ là tín lý. Truyền thống của Giáo Hội coi sự hiện diện của Thánh Thần như một chứng nghiệm sống thực, được biểu lộ dưới nhiều hình thức không ngừng đổi mới.
Để xác định đúng vai trò của những chứng nghiệm đa dạng ấy, chúng ta cần tìm hiểu xem Thiên Chúa có thể tự tỏ mình ra cho thế gian hay không, và sự việc ấy có ý nghĩa gì.
Trong quyển L’expérience chrétienne, Jean Mouroux đã viết rất đúng:
«Vấn đề chứng nghiệm Kitô giáo được đặt ra cho mọi thứ triết học về tôn giáo và mọi thứ thần học. Vì đó là vấn đề thiết yếu đối với người có tôn giáo. Người có tôn giáo muốn tiếp xúc với Thiên Chúa, muốn thấy, muốn sờ đụng, muốn cảm nhận Ngài.
Họ đưa tay ra sờ soạng như một người mù hy vọng tìm được Ngài (Cv 17,27). Chứng nghiệm về Thiên Chúa là vấn đề đương nhiên phải đặt ra khi thực hành và suy tư tôn giáo. Và chắc chắn đó còn là vấn đề đặt ra một cách gay gắt hơn cho lương tâm Kitô hữu».11
Trước khi đi vào việc mô tả một chứng nghiệm nào đó về Thánh Thần, dẫu chứng nghiệm ấy thuộc loại nào, chúng ta cần can đảm quên đi ngôn ngữ quá trừu tượng để nói theo lối đơn sơ trực tiếp của cảm nghiệm cụ thể của mình.
1. GIỚI TRẺ VÀ CHỨNG NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA
Đức Cha Huyghe có viết:
«Giới trẻ có được đức tin không phải nhờ nghe dạy về các tín điều mà do chứng nghiệm thân thiết của họ về vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô; họ chứng nghiệm một cách cụ thể, và diễn tả theo cách nói của họ. Kinh nghiệm đó có thể kiểm chứng nơi cuộc sống chân thực cụ thể cũng như nơi sức thấm nhập của Kinh Thánh. Ngày nay, đức tin cần phải được cảm nhận một cách chân thực, được biểu lộ, được thể hiện trong cuộc sống cầu nguyện và chia sẻ.
Đức tin là một biến cố, là một cuộc gặp gỡ».
Vả lại, ngay từ nguyên thủy, đức tin vốn là như thế.
Không phải chân lý về Đức Giêsu mà là chân lý của Đức Giêsu mới là nền tảng cho những gắn bó, những cuộc gia nhập vào Kitô giáo. Đức tin trước tiên phát sinh từ sự gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu. Giáo huấn là điều cần thiết, nhưng trong cuộc sống linh động của đức tin, ưu tiên là gặp gỡ.
Về chủ đề này, giới trẻ có điều để nói với chúng ta. Họ đáng được chúng ta nghe: sự phản kháng đến độ triệt để của họ ép buộc chúng ta phải suy nghĩ.
Qua những khiếm khuyết và hồ đồ của thế giới chung quanh, giới trẻ cố tìm nơi Đức Giêsu một cái gì đó để hy vọng, để giải thoát họ khỏi những hình thức nô lệ hiện nay, và để hít thở không khí tự do bên trên bầu khí đạo đức ô nhiễm của thời đại.
Robert Kennedy có lần ngỏ lời với giới trẻ đất nước mình:
«Thảm kịch của giới trẻ Mỹ chính là họ có đủ mọi thứ trừ một điều duy nhất, mà điều ấy lại là điều thiết yếu».
Điều thiết yếu ấy chính là lẽ sống tối thượng của họ.
Giới trẻ cảm thấy điều ấy, dù chỉ mơ hồ. Tuy nhiên để giới trẻ khám phá ra Đức Giêsu Kitô là lẽ sống tối thượng, chúng ta phải cho họ một Tin Mừng nguyên vẹn, được sống một cách tràn đầy. Giờ nghiêm trọng đã đến với Giáo Hội: thế kỷ 19 Giáo Hội đã đánh mất giới thợ thuyền, liệu thế kỷ 20 Giáo Hội có nguy cơ đánh mất giới trẻ hay không
THỬ NGHIỆM VÀ CHỨNG NGHIỆM
Không phải chỉ có giới trẻ mới muốn «cảm nghiệm» Thiên Chúa. Niềm khao khát mơ hồ này đã ăn sâu trong trái tim con người.
Người ta phản bác rằng tình trạng ấy hẳn xảy ra vào thời thánh Âu-Tinh. Thời ấy ngài có thể viết: «Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con để hướng về Chúa, và tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ an trong Chúa». Chứ hôm nay, thế giới tục hóa và chủ hướng của khoa học đã khai trừ Thiên Chúa, xem đấy như một giả thiết vô ích. Khoa học đã loại Thiên Chúa ra khỏi lãnh vực kinh nghiệm có thể kiểm chứng (= thử nghiệm). Con người hiện đại cho rằng chỉ có những gì kiểm chứng được mới đúng là sự thật: “ chân lý nay là kiểm nghiệm” . Thiên Chúa nằm nơi nào tại các bài tính trong máy điện tử của chúng ta ngày nay?
Bằng những dòng sau đây, Jean Mouroux mô tả rất rõ bầu khí của thời đại: « ... Vả lại, tâm thức hiện đại càng làm cho vấn đề này khẩn thiết hơn bao giờ hết. Thời nay là thời thử nghiệm ngự trị, vì đó là thời đại của các cuộc kinh nghiệm. Con người biến đổi vũ trụ, nắm được sự sống trong tay, nghiền nát không thương tiếc chất “người” của mình, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật kỳ dị chưa từng có, truy tìm hứng cảm tâm linh theo đủ mọi hướng: bạo lực, hỗn loạn, đồi bại, tất cả những thứ ấy dìm chúng ta vào một đống chứng nghiệm tạp nham. Và khi con người hiện đại quay về với Kitô giáo chính là để hỏi tôn giáo này:
“Mi có thể mang lại cho ta chứng nghiệm quí báu nào?”»
Để trả lời câu hỏi này, không nên quên rằng chữ «kinh nghiệm» có thể áp dụng cho nhiều thực tế khác nhau. Các triết gia phân biệt chứng nghiệm (expérientiel) và thử nghiệm (expérimental).
Thuật ngữ «chứng nghiệm» muốn nói đến một tri giác sống động, một nhận thức về cái cụ thể, không nên lẫn lộn từ này với thành ngữ “thử nghiệm” trong các phòng thí nghiệm. Kinh nghiệm về Thiên Chúa thuộc trật tự chứng nghiệm, trật tự này không mâu thuan với trật tự thử nghiệm nhưng siêu vượt lên trên và nằm trên một bình diện khác.
Cám dỗ căn đế của người theo chủ nghĩa duy khoa học là giản lược cái thật vào những gì nắm bắt được bằng phương pháp tiếp cận riêng và giới hạn của khoa học, và quên rằng một số thực tại vượt khỏi tầm của dao mổ và viễn vọng kính. Những nhà thông thái đích thực – thường rất khiêm tốn về mặt khoa học – đều biết rõ điều này.
Nhiều người chứng thực rằng đức tin của họ được nâng đỡ nhờ một chứng nghiệm mà họ trải qua trong cuộc sống, và đức tin họ càng trưởng thành thì Thiên Chúa càng hành động cách cụ thể và tích cực hơn trong sinh hoạt hàng ngày của họ.
Chúng ta chẳng cần đưa ra đây nhiều thứ chứng từ làm gì, chỉ cần thấy được điểm đồng quy của những chứng từ đó. Đối với họ, cũng như đối với chúng ta, đức tin thường được sống, được lãnh nhận rồi mới trở thành công thức. Và nhờ chứng nghiệm về Thiên Chúa, ta thật sự ý thức về đức tin, và đức tin từ từ bám rễ trong cuộc sống chúng ta.
Muốn đi sâu vào các bí mật của thiên nhiên, cần có những dụng cụ tối hảo và chính xác.
Cũng vậy, muốn đi sâu vào các bí mật về sự hiện diện ẩn kín của Thiên Chúa nơi chúng ta và trong lịch sử nhân loại,
cần có một năng lực vượt trên sức lực riêng của chúng ta, một thứ ánh sáng xuyên thấu thế giới vô hình nhờ những tia sáng nhạy cảm hơn tia hồng ngoại của chúng ta.
Quyền năng ấy, ánh sáng ấy chính là Thánh Thần, «Đấng duy nhất thăm dò được chiều sâu của Thiên Chúa».
Sứ mạng của Thánh Thần không phải là tự mặc khải mình mà là mặc khải Đức Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa. Nơi mỗi Kitô hữu, Thánh Thần luôn trung thành với sứ mạng ấy của Ngài.
Như một ánh sáng từ bên trong, Ngài từng bước đồng hành với chúng ta trong hành trình đức tin. Nắm bắt được hành động của Thiên Chúa và gặp gỡ Ngài thường không chỉ là một chứng nghiệm đơn giản như bao chứng nghiệm khác. Đó là một chứng nghiệm cần được giải thích bằng đức tin. Một chứng nghiệm mà thiếu đức tin thì không thể là một chứng nghiệm về Thiên Chúa. Nếu không có Thánh Thần, không ai nói được rằng «Đức Giêsu là Chúa» (1Cr 12,3).
3. ĐỨC TIN VÀ CHỨNG NGHIỆM Hồng Y
Toàn bộ vấn đề đặt ra ở đây là sự dung hòa. Làm sao người ta có thể dung hòa được giữa chứng nghiệm về Thiên Chúa và đức tin, khi đức tin vốn được định nghĩa là sự gắn bó trong đêm tối với điều mình không trông thấy và chỉ biết cậy dựa vào Lời của Thiên Chúa mà thôi. Có thể nào vừa phó thác cho Thiên Chúa như nhảy tòm xuống nước, lại vừa cảm thấy an tâm như hai chân đứng vững trên mặt đất hay không?
Tương phản?
Đức tin và chứng nghiệm không phải là những thực tế tương phản sao? Có thể hòa hợp trong lòng mình giữa đêm tối của đức tin với ánh sáng của những vì sao không?
Thoạt nhìn, ta thấy đức tin và chứng nghiệm có vẻ như loại trừ nhau. Theo định nghĩa, đức tin là sự gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và mời gọi chúng ta đón nhận Lời Ngài là chân lý đem lại sự sống, vì Lời ấy đáng tin và vì chính mầu nhiệm bao trùm Lời ấy. Làm sao ta có thể xé bỏ bức màn che Đền-thờ và tiến vào cung thánh mà không phạm đến chốn linh thiêng?
Chẳng phải Kinh Thánh đã dạy chúng ta rằng «người công chính sống bởi đức Tin» và Đức Giêsu đã công bố «phúc cho ai không thấy mà tin» sao? Vả lại, toàn bộ truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội kêu gọi chúng ta đừng lầm lẫn giữa đức tin đích thực và nhận thức chúng ta có về đức tin. Tin bằng một đức tin thực sự là một chuyện, còn cảm thấy có tâm tình đức tin lại là chuyện khác. «Tôi tin! nhưng xin đến cứu giúp lòng tin còn ít ỏi của tôi!» (Mc 9,24). Tiếng kêu than này của người cha xin Đức Giêsu chữa bệnh cho con ông nói lên một thái độ không phải hiếm thấy nơi các môn đệ. Chúng ta đựng báu vật trong những bình dễ vỡ. Nếu không nói là muốn lấy kinh nghiệm để thay thế đức tin, - điều mà không ai chủ trương-, thì ít nhất cũng muốn làm suy yếu đức tin khi cố tìm một điểm tựa bên ngoài lấy cớ là để củng cố đức tin ấy, làm như thế không phải là có thể hủy hoại đức tin Kitô giáo hay sao?
Chủ quan?
Hơn nữa, cứ cho rằng đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa tương hợp nhau, thì như thế không phải là lẫn lộn tính khách quan nhất thiết của nhận thức sự vật với đức tin thuộc chủ thể tính của lương tâm hay sao? và như thế không phải là quên đi ý muốn cá nhân dấn thân tin tưởng đạo lý của đức tin, tiếp nhận các chân lý do Thiên Chúa mạc khải và Giáo Hội bảo đảm hay sao?
Về điểm cuối này, chúng ta cần giải đáp ngay tình trạng hàm hồ của vấn đề nêu lên.
Đừng bao giờ quên rằng từ bản chất,
đức tin là sự gắn bó,
không phải với toàn bộ các tín điều,
mà với chính Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải mình.
Đức tin chính là sự gặp gỡ sống động với vị Thiên Chúa hằng sống; nó được diễn tả trong lòng Giáo Hội, ngay bên trong một chứng nghiệm. Tín lý là sự diễn tả hoặc định nghĩa chung chứng nghiệm về Thiên Chúa đã được các Tông Đồ và cộng đoàn Kitô hữu sống và truyền đến chúng ta. Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, ngài nói với chúng ta rằng chính ngài và các Tông Đồ khác xác nhận rằng:
«Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng» (1Ga 1,1-2).
Chứng nghiệm về Đức Giêsu nhất thiết phải có trước việc xác định chứng nghiệm ấy. Thánh Tôma Aquinô, một nhà thần học không hề bị nghi ngờ là chống lại lý trí, lập lại rằng đối tượng của đức tin không phải là những phát biểu lý thuyết về Thiên Chúa mà là chính Thiên Chúa, được nhận biết và yêu mến trong một mối tương quan thân thiết.
Tín lý rất quan trọng vì nhiều lý do; mà một trong những lý do là vì nó được sử dụng như một bảo đảm khách quan đối với cộng đồng Kitô giáo để xác định sự chân thực của mọi chứng nghiệm cá nhân; chứng nghiệm này không bao giờ được mâu thuẫn với tín lý. Nhưng tín lý vốn để nói đến các chân lý về Đức Kitô, hẳn nhiên nó phải bắt nguồn từ một chứng nghiệm của một cuộc gặp gỡ. Về các chân lý liên quan đến Chúa Thánh Thần cũng như thế. Kitô hữu thời Giáo Hội nguyên thủy trước hết đã sống chứng nghiệm về Thánh Thần – và chứng nghiệm hết sức là thân thiết !– trước khi thiết định thành tín điều về Chúa Thánh Thần mãi tới ba thế kỷ về sau. Đối với họ, đón nhận Thánh Thần và chứng nghiệm Ngài hoàn toàn đồng nghĩa.
Đi quá trớn
Chiều kích chứng nghiệm của Kitô giáo trong Tân Ước đã bị đẩy đến cực đoan trong một vài thuyết về sự thánh hóa; các lý thuyết nầy đi quá trớn khi đề cập đến vai trò của chứng nghiệm.
Những người theo phái Giăng-sen cố tìm chứng nghiệm về tiền định.
Những người theo thuyết tĩnh tại tìm cách chứng nghiệm sự thụ động hoàn toàn về mặt thiêng liêng.
Những người theo trào lưu tân-thời thì muốn xác định yếu tính của Kitô giáo nằm trong những chứng nghiệm đời sống hơn là nằm trong Kinh Tin Kính.
Trong Tin Lành giáo, Schleiermacher cũng cổ suý một thứ tôn giáo mang tính tình cảm lãng mạn,
còn William James thì biến chứng nghiệm tôn giáo thành một thứ thẩm quyền nội tâm tự tại - tự túc.
Vì muốn đề phòng những quá đáng này nên huấn quyền Giáo Hội đã nhấn mạnh đến khía cạnh khách quan của tôn giáo, về mặt lý thuyết cũng như mặt bí tích.
Tuy nhiên, việc đề phòng những lạm dụng không thể được hiểu là coi nhẹ ý nghĩa và vai trò của chứng nghiệm tôn giáo trong một Kitô giáo chân thực. Nhất là vì tôn giáo này ngỏ lời với con người toàn diện vốn không phải thuần tinh thần, cũng không phải là linh hồn không có thể xác đi kèm, mà là một hữu thể toàn vẹn đang thấy, đang cảm, đang chiêm ngưỡng và hành động.
Vả lại, việc đưa chứng nghiệm vào đời sống tâm linh trong Kitô giáo nằm trong sự tiếp nối liên tục với Cựu Ước. Đối với tín đồ Do Thái giáo, biết Thiên Chúa nghĩa là chứng nghiệm Thiên Chúa. Theo khoa nhân học thánh kinh 19 chỉ có một con đường để đi đến nhận thức là con đường của chứng nghiệm. Luật này cũng đúng trong việc đến với Thiên Chúa. Người Do Thái chỉ biết Thiên Chúa qua chứng nghiệm lịch sử cụ thể mà họ có về Ngài. Họ không hề biết đến những suy lý trừu tượng và siêu hình của chúng ta về bản tính và thuộc tính của Thiên Chúa. Họ biết Giavê vì họ đã từng chứng nghiệm về hành động cứu độ của Ngài: Chẳng phải Ngài đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào miền đất hứa đó sao? Kinh nguyện Do Thái luôn ám chỉ đến chứng nghiệm này. Thiên Chúa tỏ mình cho họ trong lịch sử, và lịch sử Israel gắn liền với lời cầu nguyện của họ.
«Dân tôi hỡi, nghe lời tôi dạy bảo … Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ Công bố điều huyền bí thưở xa xưa Điều chúng tôi đã từng nghe từng biết Do cha ông kể lại cho mình Chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả Sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa Với những kỳ công Chúa đã làm». (Tv 78,1-4)
Bằng ngôn ngữ Thánh Kinh
Hơn nữa, mối liên kết giữa chân lý và chứng nghiệm nổi bật lên trong quan điểm của Thánh Kinh về chân lý. Walter Kasper lưu ý chúng ta điều này:
«Người Hy-Bá-Lai chẳng quan tâm đến những gì hiện hữu mà quan tâm đến những gì xảy đến mà họ chứng nghiệm được một cách cụ thể... Sự vật và con người chỉ bền vững nếu ăn khớp với sự mong đợi, và biện minh được niềm tin cậy mà họ trông chờ... Nên chân lý được thực hiện và luôn luôn tỏ lộ ra trong thời gian. Điều quan trọng là cái gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra, chứ không phải “do suy tư để biết” là tự bản tính, là như thế hoặc phải như thế...Cái gì mặc lấy lịch sử thời gian, xảy ra thật, sẽ đến thì mới là thật...”
Sự kiện đó không làm cho mọi chân lý trở thành tương đối ; siêu hình học vẫn giữ được các giá trị của nó. Tuy nhiên, những nhận xét này đưa chúng ta vào trong cái nhìn của Kinh Thánh.
Trong Cựu Ước, sự hiện diện tác động của Thiên Chúa được quan niệm như nằm bên ngoài con người.
Còn trong Tân Ước, sự hiện diện ấy được nhận biết từ bên trong. Chính hành động thâm nhập của tình yêu của Thiên Chúa trong linh hồn giúp ta nhận ra bằng đức tin sự hiện diện của Ngài: «Ai tin vào Con Thiên Chúa thì có lời chứng ấy nơi mình» (1Ga 5,10).
Theo quan điểm này, chúng ta hiểu rõ hơn câu nói của Đức Giêsu: «Ai thực thi chân lý thì hãy đến với ánh sáng». Đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa gắn bó với nhau: chúng ta phải chấp nhận rằng hai sự kiện nhất thiết bổ túc lẫn nhau.
Những điều ấy xác minh vai trò và giá trị của chứng nghiệm tôn giáo đích thực. Nhưng đáng tiếc là có chứng nghiệm tôn giáo giả mạo. Giáo Hội biết rõ tình trạng ấy nên có lý do để cảnh giác chủ trương chủ-quan-thuyết thỉnh thoảng vẫn đe dọa sự toàn vẹn của đức tin.
Thuyết thiên khải
Lịch sử thuyết thiên khải về tôn giáo thật dài dòng ở trong cũng như ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Ngay từ thế kỷ thứ hai, thuyết Montanus – mà Tertulianô là nhân vật tiêu biểu nổi tiếng nhất – chủ trương dựa vào những mạc khải mới mẻ và loan báo ngày tận thế bằng một thứ ngôn ngữ xuất thần và hoang tưởng.
Thời Trung Cổ, một người tên là Joachim de Flore loan báo rằng người ta đã bước vào thời đại thứ ba của thế giới, là thời đại của Thánh Thần. Ông khai triển triệt để vai trò của Thánh Thần, và trình bày Ngài là Đấng tiếp tục thời đại của Chúa Cha (Cựu Ước) và thời đại Chúa Con (Tân Ước). Giáo Hội chỉ bài bác sự gián đoạn và các thời kỳ nối tiếp theo lối trình bày ấy.
Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều dòng tu lúc khởi thủy như đồng hóa với các phong trào ngụy thần bí, nhưng đã cố vượt thoát để tìm ra cho mình một hướng đi trong lòng Giáo Hội. Nhiều chuyện đáng tiếc xảy đến cho họ là do sự lẫn lộn ấy. Thế kỷ nào cũng chứng kiến sự quá đà của các phong trào giả thần bí thuộc loại tĩnh tại hay khải thị.
Các Giáo Hội Tin Lành cũng thường xuyên đương đầu với những phong trào hồi sinh dựa trên những thị kiến Thánh Kinh theo kiểu bảo căn cực đoan hoặc dựa trên những chứng nghiệm bên lề truyền thống hoặc không hợp với truyền thống. Tác phẩm của Ronald Knox bàn về «những người hứng khởi» qua các thế kỷ vẫn mang giá trị cảnh báo cho bất cứ ai bị cám dỗ bỏ qua óc phê phán vốn rất cần thiết.
Chứng nghiệm và đời sống Kitô hữu
Mặc dù những lệch lạc lúc nào cũng có thể xảy ra, Đức Giêsu vẫn không hề loại bỏ chứng nghiệm tôn giáo ra khỏi đời sống Kitô hữu.
Chúng ta không đề cập ở đây chứng nghiệm thần bí, vốn là một thứ chứng nghiệm thuộc loại đặc biệt. Người ta biết rằng các thần học gia bàn luận xem chứng nghiệm ấy có phải là kết quả bình thường của một đời sống Kitô hữu triển nở hay không.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến chứng nghiệm thông thường về Thiên Chúa.
Chưa bao giờ Đức Giêsu trình bày sự khô khan thiêng liêng như là qui luật bình thường của cuộc sống. Tuy nhiên, con đường của thánh Gio-an Thánh Giá hay của thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la là một con đường đặc biệt, các ngài được Thiên Chúa thanh luyện để đi vào chiều sâu thần bí bằng cách cho các ngài trải qua đêm tối của giác quan và tinh thần. Còn con đường được gọi là «chung», bình thường và thông thường của mọi người Kitô hữu cùng đồng hành với Thiên Chúa là một con đường khác.
Tin Mừng đi sâu vào cuộc sống con người: Đức Giêsu biết rõ tâm hồn con người. Lần đầu tiên gặp Na-ta-na-en, để đưa ông ta vào cuộc, Đức Giêsu nói với ông là Ngài đã trông thấy ông dưới gốc cây vả. Na-ta-na-en sửng sốt vì cảm nghiệm được rằng Đức Giêsu quan tâm đến ông cách riêng. Còn Đức Giêsu thì hứa với Na-ta-na-en rằng ông ta sẽ còn trông thấy nhiều điều lớn lao hơn ( Xem Ga 2,45-41).
Hiển nhiên đối với Đức Giêsu, đêm tối của đức tin mà Ngài muốn chúng ta trải qua không phải là một đêm tối dày đặc, không trăng sao. Chúng ta cần nghiêm túc để ý đọc từng chữ những lời hứa của Đức Giêsu rải rác trong Tin Mừng.
Ngài đã hứa ban cho các môn đệ «sự bình an mà thế gian không biết đến, không ai có thể ban cho và cũng không ai có thể cướp đi được» (Xem Ga 14,27; 16,22).
Đức Giêsu không hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ tránh được đau khổ; thậm chí nhiều lần Ngài còn nhấn mạnh họ phải vác Thánh giá đi theo Ngài, và Ngài chuẩn bị cho họ đương đầu với việc ấy. Tuy nhiên Ngai hứa ban cho họ niềm vui và bình an ngay khi chịu đau khổ, điều này quả hết sức khác biệt. Đó chính là sự thanh thản mà sau này những kẻ theo Ngài sẽ chứng nghiệm. Họ sẽ xác nhận bằng chứng nghiệm sống câu Ngài nói: «Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng» (Mt 11,30). Họ cũng cảm nhận được chân lý trong những lời hứa khác của Ngài: «Ai yêu mến Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Thầy cũng sẽ yêu mến và tỏ mình ra cho Người ấy» (Ga 14,21).
Nhân tiện tôi xin lưu ý: để xác nhận những lời hứa ấy đã được thực hiện, chẳng cần trưng dẫn nhiều biểu hiện của Thiên Chúa làm gì. Chỉ cần một biểu hiện được cảm nhận một cách sâu sắc cũng đủ giúp ta chứng nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa, giống như chỉ cần một tia nắng cũng đủ để ta thấy được sự chói sáng của mặt trời. Điều này nằm trong tầm nhận thức của mọi người: đâu cần phải định nghĩa thế nào là năng lượng mặt trời mới cảm nhận được sức nóng của nó.
Toàn bộ đời sống của Giáo Hội nguyên thủy là lời chứng cho việc thực hiện những lời hứa của Đức Giêsu. Sách Công Vụ Tông Đồ đặc biệt ghi lại những biểu hiện của Thiên Chúa xem ra nổi bật phi thường vì tính cách đoàn sủng của chúng; nhưng Thánh Kinh cho thấy những biểu hiện Thiên Chúa hiện diện trong đời sống thường ngày.
Thánh Phaolô nói nhiều về những hoa trái của Thánh Thần.
Những hoa trái ấy, người ta như sờ mó được, cảm nhận được, hưởng nếm được như những dấu chỉ sự hiện diện đích thực của Thánh Thần. Ngài nói với người Ga-lát: «Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ» (Gl 5,22-23).
Đó là những dấu chỉ, những bằng chứng thử nghiệm tính chất chân thực Kitô giáo. Chắc chắn Thánh Thần không ngừng làm phát sinh những dấu chỉ ấy trong tất cả những tâm hồn biết mở lòng ra tiếp nhận Ngài, dẫu họ có biết tên Ngài hay không. Trong các lời kinh phụng vụ có câu:
«Tình yêu Ngài chiếu toả trên chúng ta như mặt trời chính ngọ».
Kitô hữu trung thành với Thánh Thần sẽ cảm nghiệm nơi mình một sức sống dào dạt và cảnh giới cao đẹp của tình yêu, hoan lạc và an bình...; nếu biết nhìn thì đó là dấu chỉ của một sự hiện diện sâu kín, chẳng khác gì ngọn đèn nơi cung thánh dẫn lối Nhà Tạm.
* * * Trong đường hướng suy tư theo Tin Mừng, phụng vụ mời gọi chúng ta cầu nguyện để được ơn thật sự yêu thích những điều Thiên Chúa truyền dạy ta làm. Chúa biết chúng ta cần có bình an và niềm vui nội tâm để có thể đồng hành tốt đẹp với Ngài.
Tại Bắc Âu, những vết tích của phái Giăng-sen vẫn còn gây tổn thương; dấu vết của họ chưa hoàn toàn bị xoá. Tại Hoa Kỳ, một ngày nọ, để làm cho bầu khí hội nghị vui tươi lên, ông chủ tịch Hội nghị quốc gia những tín đồ đoàn sủng hệ phái Tin lành cải cách đã dùng lối chơi chữ tiếng Anh giữa từ chosen (được chọn) và từ frozen (bị đông cứng) khi tuyên bố: «God told us that we are his “chosen” people, not his “frozen” people» («Thiên Chúa nói chúng ta là dân “được chọn” của Ngài, chứ không phải là dân “bị đông lạnh”»)
Phụng vụ Giáo Hội dám nài xin Thiên Chúa hãy tỏ mình ra sao cho chúng ta cảm nhận được. Chúng ta xin điều đó một cách thật tự nhiên:
«Lạy Chúa, Chúa đã dùng ánh sáng của Thánh Thần để giáo hóa tâm hồn các tín hữu Ngài, xin cho chúng con cũng được “hưởng nếm” trong chính Thánh Thần ấy những gì thiện hảo, và “vui hưởng” không ngừng những ủi an của Ngài».
Chỉ cần trích ra đây bài thánh thi Lễ Hiện Xuống: «Veni Sancte Spiritus» (Lạy Thánh Thần in hãy đến) hoặc bài «Jesu dulcis memoria» (Thật dịu dàng biết bao khi tưởng nhớ Đức Giêsu!) và biết bao lời nguyện khác của các thánh, như thánh Bê-na-đô hay Bo-na-ven-tu-ra, cũng đủ nhận thấy trong lời cầu nguyện của mình, Giáo Hội luôn tha thiết cầu xin Thánh Thần đổ ơn Ngài xuống, kể cả ơn được chia sẻ khổ đau.
Những ghi nhận ngắn gọn trên đủ chứng tỏ chúng ta đang ở trong đường hướng tu đức truyền thống nhất và bảo đảm nhất.
4. GẶP GỠ THIÊN CHÚA Hồng Y
Khi nói đến chứng nghiệm về Thiên Chúa, thì dưới mắt một số người, điều đó có nghĩa là thoát khỏi thế gian, chỉ còn hướng về một mình Thiên Chúa thôi, một Thiên Chúa cô độc, cách biệt con người và xa lạ với những vấn đề của con người. Rõ ràng đó không phải là chứng nghiệm về Thiên Chúa của chúng ta, bởi vì chứng nghiệm chân thật không thể có sự cách biệt như thế.
Cởi mở với Thiên Chúa chính là cởi mở với thế giới và với con người được Chúa tạo dựng, yêu thương và thánh hóa. Bước vào tình yêu Thiên Chúa là bước vào chính mầu nhiệm của một Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi ban cho họ chính Con của Ngài, một Thiên Chúa coi tình yêu tha nhân là trọng tâm của Kitô giáo.
Sau khi xác định điều này, chúng ta hãy trở lại với chứng nghiệm đích thực về Thiên Chúa vốn phải được nhìn nhận như một chứng nghiệm bình thường trong đời sống của mọi Kitô hữu.
Chứng nghiệm thông thường và phi thường
Chúng ta thường thích nói về hai loại chứng nghiệm: phi thường và bình thường. Đây là sự phân biệt theo cung cách suy nghĩ của chúng ta, nó tùy thuộc việc gặp gỡ Thiên Chúa của chúng ta có độc đáo, bất ngờ, có một không hai, hay có khác với cách xảy ra bình thường của sự vật không.
Nhưng đó không phải là phân biệt theo cung cách của Thiên Chúa. Đối với Ngài chẳng có một lằn ranh nào giữa bình thường và phi thường cả. Thiên Chúa thanh thản ở trên những ranh giới của chúng ta, chẳng khác gì nét vẽ đơn giản trên một bản đồ quy ước. Nơi Thiên Chúa, điều có vẻ như không thực hóa ra lại là thực.
Thiên Chúa không yêu chúng ta bằng một tình yêu bình thường, rồi thỉnh thoảng lại làm một ngoại lệ bằng một hành vi yêu thương khác thường, vượt mức. Không, tình yêu phi thường của Thiên Chúa gắn liền với hữu thể của Ngài: Thiên Chúa chúng ta là một vị Thiên Chúa tuyệt vời, yêu thương nhân loại một cách kỳ diệu. Những hành vi lạ lùng nhất của tình yêu Ngài – như Nhập Thể, Thánh Thể, Thập Giá – đều vượt qua tất cả những gì ta nghĩ là có thể có thực. Thánh Kinh cho chúng ta biết «Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài» (Ga 3,16). Cử chỉ lạ thường này tự động phát sinh từ tình yêu quá dư tràn của Ngài.
Theo cách nhìn của người trần gian, một tình yêu như thế khiến chúng ta hết sức sửng sốt. Nó vượt hẳn khả năng tưởng tượng táo bạo nhất của chúng ta, nó buộc chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa yêu chúng ta đến độ ban cho chúng ta phép lạ nữa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: «Kẻ nào tin vào Thầy thì cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, thậm chí cả những việc lớn hơn». (Ga 14,12)
Lời hứa như thế không còn gây ngạc nhiên nữa. Điều siêu nhiên đối với con người thì đối với Thiên Chúa lại là điều tự nhiên; tự bản chất Ngài vốn là kỳ diệu. Kinh Tin Kính cô đọng nhất của chúng ta nói: «Chúng tôi đã tin vào tình yêu» (1 Ga 4,16). Và nhờ đó, chúng ta mới dám tin vào hiệu quả của lời cầu nguyện, vào hình ảnh Đức Giêsu đang ngỏ lời với Cha Người ngay cả trước khi xin một điều gì: «Con biết Cha luôn luôn nhận lời Con» (Ga 11,42). Từ ngữ «luôn luôn» này là một phần trong đức tin của chúng ta, ngay cả khi lý trí chúng ta như mù mịt không hiểu gì hết.
Chúng ta phải tìm cách khám phá ra tình yêu phi thường của Thiên Chúa ẩn giấu trong các biến cố có vẻ như ngẫu nhiên nhất. Đức Giêsu đã từng bảo Mác-ta: «Nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa» (Ga 11,40).
Có những lúc chứng nghiệm về Thiên Chúa xuất hiện trong đêm tối đức tin như một tia chớp loé lên giữa đêm đen. Những chứng nghiệm về Thiên Chúa như thế đôi khi không diễn tả hay truyền đạt được, nhưng không phải vì thế mà không có thực hoặc không biến đổi được cuộc sống. Triết gia Bergson từng nói: «Thiên Chúa dựng nên thế gian và làm cho nó điên đảo chỉ vì để tạo nên các vị Thánh». Và hành động này vẫn xảy ra liên tục suốt dòng lịch sử Giáo Hội, dù tỏ tường hay âm ỷ bên trong.
Hành động ấy đã làm Đức Maria phải bối rối khi nghe Thiên Sứ truyền tin, vì bỗng nhiên Mẹ hiểu rằng Mẹ được chúc phúc và tuyển chọn giữa mọi người phụ nữ.
Vào sáng ngày Phục Sinh, hành động ấy được ngụy trang dưới vẻ bề ngoài của người làm vườn để gọi Maria Ma-đa-lê-na bằng tên của nàng.
Hành động ấy nhóm lên lửa nhiệt thành trong lòng hai người khách lữ hành đang nản chí trên đường về Ê-mau.
Hành động ấy nổ vang như một tiếng sét làm mù mắt Phaolô trên đường đi Đamát.
Hành động ấy thì thầm bên tai Âu Tinh bảo «hãy cầm lấy và đọc», và lời ấy đã khiến ông hoán cải.
Hành động ấy đã làm một câu Thánh Kinh chói sáng, tựa như mặt trời làm tấm kính ghép hình màu đang mờ mịt bỗng sáng rực lên, khiến Thánh Phan-xi-cô Át-xi phải hiểu câu ấy nói riêng cho mình: «Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mt 19,21).
Hành động ấy biến thể thành thiên hình vạn trạng tùy theo hoàn cảnh mỗi người chúng ta.
Hành động ấy như ánh sáng từ từ soi sáng hoặc đột nhiên lóe lên cho mỗi người thấy ơn gọi tương lai và sứ mệnh rõ rệt được ủy thác cho mình .
Hành động ấy hàm ẩn trong việc tình cờ gặp một người bạn ở ngã tư đường. Anh ấy đến nói với ta một lời quả quyết giống như A-na-ni-a đã nói với Phaolô. Cuộc gặp gỡ không ai đoán trước được và chứng thực điều mà một tác giả sách thiêng liêng nọ không ngần ngại viết ra: «Nếu ta cần ai đó nói cho ta một lời cần thiết, thì dù người ấy ở tận cùng trái đất, Thiên Chúa cũng sẽ sai đến với ta».
Chúng ta có thể gọi là «việc ngẫu hợp mà xảy ra», bên ngoài là lớp vỏ của những chuyện không đâu, những trùng hợp và ngẫu nhiên, nhưng đây có khác gì chính Thiên Chúa đang hành động. Chúng là những dụng cụ của một tình yêu tinh tế, diệu kỳ và bền vững tuyệt vời.
Thiên Chúa viết nên những quyển tiểu thuyết phi thường qua những cuộc đời sẵn sàng «thuận theo sự dàn xếp của Ngài», những người sẵn lòng đón nhận những điều bất ngờ Ngài gởi tới, luôn chăm chú lắng nghe tiếng thì thầm của ân sủng, những mời gọi của Thánh Thần.
Chứng nghiệm ấy về Thiên Chúa nằm trong tầm với của mỗi Kitô hữu chúng ta; nhưng trong thân phận làm người nơi dương thế,
chứng nghiệm nầy không miễn trừ chén đắng của đau khổ và quyền lực sự dữ.
Thế giới này là một bức tranh theo kiểu Rembrandt, phối hợp giữa bóng tối và ánh sáng. Thiên Chúa đến với chúng ta không phải như một quyền năng đè bẹp tự do của con người, nhưng như một tình yêu tinh tế mời gọi một lời đáp trả trong tự do.
Văn hào Claudel từng nói: «Đức Giêsu không đến giải thích hay hủy bỏ đau khổ mà Ngài đến lấp đầy đau khổ bằng sự hiện diện của Ngài». Lời nói sâu xa này, hẳn không giải thích được mầu nhiệm của bất công và sự ác, nhưng dẫn lối cảm nhận mầu nhiệm ấy trong ánh sáng «Gôn-gô-ta», nơi Thiên Chúa cho chúng ta thấy Ngài ở «về phía chúng ta» để cùng đương đầu với đau khổ và tội lỗi, và Ngài chấp nhận đau khổ để biến nó thành vật liệu làm nên ơn cứu chuộc.
Việc khám phá ra Thiên Chúa đang ẩn mình giữa đau khổ là một chứng nghiệm sống, đôi khi thật diệu kỳ, của những kẻ đau ốm, của những kẻ bị ngừoi khác làm tổn thương. Trong đớn đau khôn tả, nụ cười của họ làm chúng ta sáng lên, và vẻ thanh thản của họ làm chúng ta xúc động. Thiên Chúa đang hiện diện ở đó với một danh nghĩa đặc biệt, vì Ngài tự đồng hóa với họ.
Chiara Lubich nói một câu thật tuyệt vời: «Mọi đau khổ đều là Ngài».
Gặp gỡ cá nhân
Về phần tôi, tôi xin thú nhận rằng qua nhiều năm tháng, càng ngày tôi càng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa đang hoạt động qua tất cả những gì cao cả từ phía Thiên Chúa và tất cả những gì đơn hèn từ phía tôi. Nhờ nhận ra hành động bao bọc, liên tục và rõ rệt của Ngài, trong tôi liền nảy sinh khúc hát nội tâm đầy tâm tình biết ơn. Điệp khúc của nó giống như một bài Điệp Ca rất trang trọng lễ Giáng Sinh: «Ôi Sự Khôn Ngoan đã chi phối mọi sự từ đầu đến cuối và an bài mọi sự bằng sức mạnh và dịu dàng!»
Tôi thích biến tâm tình tri ân này thành một bản kinh cầu ngăn ngắn của riêng tôi, trong đó tôi kể ra nào là tên, nào là kỷ niệm, nào là ngày tháng, nào là chuyện trùng hợp này nọ.
Trong đó tôi cảm ơn Thiên Chúa
vì tôi đã nhận được một lời khuyên vào lúc tôi gặp hoàn cảnh khó xử, vì tôi tình cờ đọc được một cuốn sách đã đem đến cho tôi một sứ điệp, vì một cú điện thoại, một lá thư, một nỗi đau khổ, một niềm khích lệ. Khi ôn lại và tổng hợp tất cả những điều ấy, tôi cảm ơn Thiên Chúa vì đã cảm nghiệm được một niềm vui, một sự bình an mà không ai có thể cướp đi được vì chúng nằm ngoài tầm ảnh hưởng của con người.
Điều đó giống như việc lần chuỗi, các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng nối tiếp và hòa quyện với nhau. Mỗi hạt nói lên sự chú tâm của Thiên Chúa, một dấu chỉ, một cuộc gặp gỡ. Và tôi kết thúc bằng kinh Sáng Danh, cảm tạ tình yêu Thiên Chúa luôn ẩn hiện trong mọi giây phút, nơi mỗi khúc quanh của đường đời.
Hình ảnh người thợ săn rình mồi gợi lại trong tôi bài thơ đẹp nhất mà tôi biết, bài «The Hound of Heaven» (Cuộc săn lùng trên Thiên Đàng) của Francis Thompson.
Mỗi người có thể cảm nghiệm bài thơ ấy một cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh riêng cuộc đời mình, nhưng vị Thiên Chúa luôn rình rập để theo đuổi chúng ta như «kẻ săn lùng trên Thiên Đàng» bằng tình thương khôn nguôi của Ngài cũng chỉ là một Thiên Chúa đối với mọi người; mối quan tâm của Ngài mãi tăng lên đến vô tận, luôn dành trọn vẹn cho từng người; lòng ân cần ấy của Ngài là bầu khí nuôi dưỡng toàn bộ cuộc sống chúng ta.
Mỗi Kitô hữu phải nhìn đời sống mình dưới ánh sáng đức tin. Đức tin ấy là chìa khóa để mở đón Thiên Chúa vào cuộc sống, để phó thác cho Ngài mọi sự, để càng ngày Ngài càng tràn ngập lòng mình.
Họ cũng phải loan báo cho thế gian bí mật mình khám phá ra và hô to lên niềm vui của mình.
Nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện, thân thương, gần gũi;
cái nhìn ấy càng trở nên sắc bén và tinh tế nếu chúng ta càng tập nhận ra vô số dấu hiệu về sự hiện diện ân cần và hiệp thông của Ngài, như người bạn đang ngoắc tay hay ngước nhìn chúng ta.
Thiên Chúa nói với từng người bằng một thứ ngôn ngữ riêng tư, kín đáo nhưng ta vẫn hiểu được.
Phải tập đọc những mẫu tự của Thiên Chúa,
phải biết đánh vần,
biết nhận ra và giải thích những mẫu tự ấy.
Đôi khi chúng ta hiểu sai sứ điệp; chúng ta tưởng rằng vị Thiên Chúa đến trước mặt chúng ta và ra dấu cho chúng ta ấy là một bóng ma. Bấy giờ, Chúa hẳn sẽ phải nói với chúng ta như đã nói với các Tông Đồ Ngài: «Thầy đây, đừng sợ» (Ga 6,20).
Tôi thích so sánh việc tiếp cận bằng đức tin tinh tuyền của chúng ta với Thiên Chúa, như một du khách vào một đêm đông tìm thấy một căn nhà hiu quạnh rực rỡ ánh sáng tại một khúc quặt trên đường.
Tới trước ngưỡng cửa, nhìn qua khung kiếng, anh thấy những khúc củi cháy bập bùng, bắn ra những tia lửa.
Anh đoán rằng sức nóng của lò lửa đang lan tỏa. Nhưng anh chẳng cảm nhận được sức nóng ấy, bao lâu anh còn đứng bên ngoài trời đầy gió lạnh như kẻ bàng quan.
Đó là hình ảnh người Kitô hữu trong đêm tối đức tin biết Thiên Chúa là ánh sáng và hơi ấm. Người ấy có thể nói như tác giả thánh vịnh: «Bóng đêm là ánh sáng và là niềm vui của tôi» (Tv 139,11).
Nhưng chỉ thấy những tia sáng lung linh kia, chỉ đoán được sức nóng dịu dàng đang lan tỏa thôi, thì sức nóng ấy chưa thấm vào da thịt được.
Phải đi vào bên trong, không phải vì mình xứng đáng mà vì Thiên Chúa tha thiết mời gọi và nóng lòng muốn hiệp thông với mình.
Vì thế, phải gõ cửa. Đó là sự hợp tác về phần mình. Đức Giêsu bảo chúng ta đập cửa, không xác định là phải đập bao nhiêu lần. Phải biết bắt đầu lại.
Nhưng nhất là mỗi người phải biết rằng Ngài đang đợi mình bên bếp lò, phải biết mình là con trong nhà, và mình không thể đem lại cho Thiên Chúa niềm vui nào lớn hơn là nhận lời mời của Ngài.
Cứ lấy cớ là khiêm nhường để dừng lại trước ngưỡng cửa là hiểu sai tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng mời gọi tất cả chúng ta sống thân mật với Ngài ngay ở đời này, và tạo dựng chúng ta để chúng ta gặp gỡ Ngài.
Thực vậy chính cái tư tưởng mà chúng ta cứ mang ra mà đầu độc nhau: Chúa chí thánh - tôi yếu đuối tội lỗi. đây là một cách hiểu lầm – hiểu sai một cách thật tệ hại , thật đáng tiếc. Thế mà phần đông chúng ta cứ ôm khư khư trong đầu – kể cả các tu sĩ – giáo sĩ.!!! Và liên tục đầu độc giáo dân – những con chiên của mình – khiến cho cuộc gặp gỡ giữa ta và Thiên Chúa trở thành không tưởng!!!!!!!
Khi đã vào bên trong thì người lữ hành sẽ thấy tất cả đều thay đổi.
Ngọn lửa nóng sáng trong bếp lò như tiến đến trước mặt,
sức nóng của ngọn lửa bao bọc, thấm vào da thịt.
Khuôn mặt rạng ngời, hai bàn tay giang về phía lò lửa,
tứ chi tê cóng nay trở nên ấm áp.
Tia sáng ấm của ngọn lửa như thấm sâu con người anh:
đó là hình ảnh minh họa chứng nghiệm về Thiên Chúa mà chỉ những người biết để cho Ngài tràn ngập lòng mình, biết rộng mở toàn bộ ý thức lẫn vô thức của mình để đón nhận sự hiện diện đầy ánh sáng của Ngài, mới cảm nhận được.
Một sức sống mới đổ tràn trong mình,
và một lần nữa lời của Phaolô trở nên hiện thực nơi mình:
«Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20).
Chúng ta không đơn độc nhưng cảm thấy được Thánh Thần Ngài dẫn dắt; trọn cuộc sống ta hướng về Ngài. Vì tự bỏ mình nên được Thiên Chúa chiếm hữu, vì tự trở thành trống rỗng nên được Ngài lấp đầy.
Chính Thiên Chúa – là tổ ấm tiếp nhận ta với ánh sáng và hơi ấm – đã biến đổi cuộc đời ta và làm cho ta tỏa sáng. Những ai để cho Thiên Chúa chiếm hữu, như thanh củi dần dần rực cháy sáng, thì cuộc sống con người của họ – được nuôi dưỡng bởi ngọn lửa là chính Thánh Thần – cũng sẽ trở thành lửa như Ngài.
Đó là thứ lửa mà Đức Giêsu đã nói tới trong câu: «Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất» (Lc 12,49). Đó chính là chứng nghiệm về Thánh Thần, đấng duy nhất có thể thật sự canh tân bộ mặt trái đất. -------------------------------
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, hiện diện và hoạt động trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Trong thời đại Tân Ước, Ngài chính là ân huệ của Đấng Phục Sinh và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.
Thật thế, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ, Ngài hiện diện và thánh hoá trong lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, hay như khi Chúa Giêsu vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Thế nhưng, chỉ khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, chính Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Trình thuật Phúc âm Thánh Gioan hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22). Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi hơi vào ông Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động. Cũng thế, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là "Chúa và là Đấng ban sự sống" như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Sách Công vụ Tông Đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Gierusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động được biểu lộ qua việc các tông đồ " nói tiếng khác nhau" và "mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các tông đồ" (CVĐ 2, 1 - 12). Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolo đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: " Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất"(1Cr 12, 13). Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: "Đức Giêsu là Chúa", thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta "hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau" "(1Cr 1, 10). Bởi vì, những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai nước trời, mà lại chia rẻ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được.
Đời sống Kitô hữu là đời sống theo Thánh Thần, như Thánh Phaolô đã nói: "Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt thì chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an" (Rm 8, 5). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, ước muốn nên giống Ngài, sống hiếu thảo như Ngài, sống yêu thương mọi người, sống khiêm tốn, hiến lành và phục vụ mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, chúng ta sẽ được lãnh nhận những hiệu quả của Thánh Thần. Và hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tính, hiền hoà, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta". (Gl 5, 22 - 25).
Sống trong thế giới vật chất này, con người vẫn còn cảm thấy bất an, lo lắng, lo sợ, loa toan, ...Và vì thế, con người vẫn luôn khát vọng tìm nguồn bình an. Nhưng sự bình an bên trong không thể mua được bằng tiền bạc, vật chất. Do đó, đối với người Kitô giáo, Chúa Thánh Thần chính là nguồn bình an đích thực, đã hiện hữu và luôn sẵn sàng giúp con người được sống bình an. Chính Chúa Thành Thần sẽ ban cho con người sự sống viên mãn, hạnh phúc đích thực trong Chúa Kitô. Ai sống trong Chúa Thánh Thần thì được sự sống vui tươi, hoan lạc và bình an vĩnh cửu.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Chúa Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và qui tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Khi xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thì hôm nay xin cho chúng con cũng biết đón nhận Chúa Thánh Thần, để chúng con cũng được biến đổi trở thành tông đồ nhiệt thành làm chứng cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen. -------------------------------
1.LỜI CHÚA: "Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
2.CÂU CHUYỆN: THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG NƠI CÁC TÍN HỮU:
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta nước Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: "Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta". Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với nhiệm vụ chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang hấp hối và bị bỏ rơi trên các góc phố thành Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em dòng Thừa sai Bác ái là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ được chết trong bình an.
Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: "Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?". Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ chuyên lo phục vụ cho những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào việc đầu tiên là tìm thuê mướn một căn nhà để làm nơi tạm trú cho họ, đang khi trong túi của bà chỉ còn vỏn vẹn ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã lan khắp các nước trên thế giới. Quả thực, điều này cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa là Hội Thánh.
3.SUY NIỆM:
- THÁNH THẦN TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU:
Về việc đầu thai của Đức Giêsu, trong kinh Tin kính có câu này: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh" (x. Lc 1,35). Chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Maria đã thụ thai Hài Nhi Giêsu mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin chịu phép rửa của Gioan tại sông Gio-đan. Vừa chịu phép rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện và chịu ma quỷ thử thách. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giêsu đã chiến thắng ba cơn thử thách cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng Thánh Thần, Người đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người cũng thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm giữ người ta nữa (x. Ga 20,23).
- HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN TRONG HỘI THÁNH:
Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm và công khai làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng và muốn thoái lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối xin chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).
Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để các ngài chu toàn ba sứ vụ được Đức Giêsu trao phó: Một là sứ vụ ngôn sứ để công bố Lời Chúa. Hai là sứ vụ tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các bí tích. Ba là sứ vụ vương đế để chăn dắt và phục vụ Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng Chung mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì đều bất khả ngộ nghĩa là không thể sai lầm, vì luôn được Thần Chân Lý soi dẫn, như trong quyết nghị của công đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 có viết: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định" (Cv 15,28).
4.THẢO LUẬN:
1)Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào? 2)Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào? 3)Mỗi tín hữu hôm nay phải làm gì để được Thánh Thần tác động giống như các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần khi xưa?
5.NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là một người bạn, người thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa là "Áp-ba!- Ba ơi !" nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giêsu là "Chúa" khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa Giêsu. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
- LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH, xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi âu lo sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ trần gian.
Tôi đã được xem qua câu chuyện ngắn, mà nó gây ấn tượng cho tôi rất lâu. Câu chuyện mang tên Lòng mẹ, của một tác giả nhỏ còn cấp sách đến trường. Nội dung chuyện diễn tả người mẹ và đứa con gái. Gia đình nghèo, người mẹ hằng ngày nhờ vào gánh chè vào lúc đêm để nuôi sống gia đình và lo cho con ăn học.
Vào một ngày lễ của nhà trường, người mẹ cũng cố gắng lo cho con mình một bộ áo dài mới để mặc với các bạn. Đứa con cũng rất ngoan, người mẹ cũng tự hào về con mình. Khi đã mặc bộ đồ mới vào, người con rất cảm động. Nhưng nhìn lại chiếc xe đạp, cô bé không khỏi ngậm ngùi. Chiếc xe đó nó lớn tuổi hơn cô, nên giờ đây cô hơi ngần ngại. Nhưng vì thương mẹ nên cô lặng thinh không muốn làm cho mẹ phải khổ thêm.
Khi trở về, cô có vẽ như mệt nhoài và chạy vội ra sau, vừa chạy vừa khóc. Người mẹ lo lắng, chạy theo xem chuyện gì xảy ra với con mình. Cô khóc lóc, chỉ vào chiếc quần mới và chỉ vào chiếc xe. Ngưới mẹ lặng thinh, an ủi con. Sau đó, mọi chuyện tưởng như đi vào quên lãng. Một hôm cô bé đi học về, tưởng trong nhà mình có khách, vì cô nhìn thấy một chiếc xe đạp mới, dựng trong nhà. Cô hỏi mẹ xe của ai.
Người mẹ âu yếm nhìn con và nói đó là xe của con. Cô bé rất vui mừng cảm động. Cũng từ hôm ấy, mẹ cô về rất khuya. Cô học bài xong ngồi chờ mẹ mãi, vẫn chưa thấy. Một hôm chờ lâu quá cô sốt ruột, nên chạy đi tìm mẹ. Cô đến chỗ mẹ thường bán, hỏi thăm thì nhìn thấy gánh chè mẹ đã bán hết và gởi đó. Cô được biết: thời gian gần đây, sau khi đã bán hết chè, mẹ cô phải đi làm thêm một công việc là đi quét rác. Cô chợt hiểu ra, vì lo cho cô có chiếc xe đạp mới mà mẹ phải vất vã như thế. Cô vội chạy đi tìm mẹ với những dòng nước mắt tuôn trào.
Tôi suy nghĩ: Động lực nào đã thêm sức cho người mẹ như thế. Động lực nào đã làm cho người con hiểu được tình mẹ. Một sức mạnh vô hình mà người ngoài không thể nhìn thấy được. "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Các môn đệ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Người đời chẵng ai nhìn thấy các ngài được thêm điều gì. Nhưng bên trong con người các ông đã thay đỗi hoàn toàn. Từ những người nhút nhát, vào phòng đóng kín cửa, lo sợ bị người khác nhìn thấy, lo sợ cho bản thân bị nguy hiểm. Nhưng giờ đây con người của Các Ông đã hoàn toàn thay đỗi. Thay vì cửa được đóng kín, giờ đây lại mở tung ra.
Thay vì sợ người khác nhìn thấy, giờ đây các ông đứng giữa đám đông để rao giảng. Thay vì sợ nguy hiểm cho bản thân, giờ đây các ông vui mừng vì được chịu đau khổ do những điều mình rao giảng. Người đời chẵng nhìn thấy điều gì. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ và các môn đệ cũng biết rõ điều gì đang xẩy đến với mình, nên các Ngài không thể ngồi yên. Các ngài phải hoạt động, phải chạy đi, phải rao giảng.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã được nhận lãnh Chúa Thánh Thần, đặt biệt trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Hằng ngày trong đời sống, ơn Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong con người của mình. Nhưng chúng ta có nhận ra, có nhìn thấy được không? Hay chúng ta cũng như bao nhiêu người khác không thể nhìn thấy được biến chuyển trong con người của chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả những gì cần thiết, những gì có thể làm được, Ngài đã làm cho chúng ta rồi. Còn phần của mỗi người, hãy nhìn vào chính mình chúng ta sẽ nhìn thấy ơn Chúa Thánh Thần hoạt động.
Hiện tại, ơn Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong mỗi người chúng ta. Nhưng có những nơi ơn Chúa đành phải chịu số phận bị đóng kín cửa. Vì nỗi lo sợ, nếu khi mở tung cửa tâm hồn họ sẽ bị mất mát đi một phần lợi ích riêng tư. Đó là những người sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến chính mình, còn những người khác ra sao họ không cần biết. Cũng có những người đã mở cửa nhưng không dám bước ra khỏi nhà, không dám đi đến những nơi cần thiết. Họ sợ liên lụy bản thân. Đó là những người hèn nhát. Còn có những người, họ biết rất rỏ những công việc phải làm, biết đâu là tốt, đâu là xấu. Nhưng họ vẫn nằm yên bất động. Đó là những người lười biếng.
Còn chúng ta, có giống được cô bé trong câu chuyện, chạy vội đi tìm mẹ để chứng tỏ lòng yêu thương và biết ơn của mình. Đó cũng là tâm tình của các Tông Đồ khi được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Xin Chúa ban sức mạnh cho mỗi người biết sống theo ơn CTT hướng dẫn. -------------------------------
Năm mươi ngày hoan lạc phục sinh đã khép lại và giờ đây, chúng ta được bao phủ bởi ân huệ từ trời của Chúa Cha gởi đến qua Chúa Giêsu là Thánh Thần. Thánh Thần đến ban sự dũng cảm, can đảm, làm nhân chứng, sự thông cảm, hiệp nhất và tự do... cho tất cả con cái Thiên Chúa.
Thánh Luca tường thuật việc trao ban Thánh Thần xảy ra vào ngày lễ Ngũ Tuần. Truyền thống Do Thái tin rằng Thiên Chúa ban lề luật trên núi Sinai cũng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Còn thánh Gioan tường thuật việc trao ban Thánh Thần vào chính ngày lễ phục sinh. Tuy nhiên chúng ta tránh việc nhấn mạnh một trong hai khía cạnh trong ngày lễ Ngũ Tuần là trao ban Thánh Thần. Thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu phục sinh ban tặng Thánh Thần và khơi màu sứ mạng của Giáo hội.
Nếu như ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do Thái là ngày khai sinh một cộng đồng dân tộc sống trong đường lối của Thiên Chúa. Thì Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay cũng đánh dấu một bước ngoặc quan trọng, là ngày sinh ra một cộng đoàn mới là cộng đoàn Giáo Hội.
Chuyện kể rằng: Ngày xưa, có một nhóm người có thế lực muốn bắt tay xây dựng một ngọn tháp đến tận trời. Họ tập hợp các kiến trúc sư, các thợ nề và một lực lượng lao động đông đảo. Để chuẩn bị cho việc xây cất, họ đã mua một số lượng lớn vật liêu gồm: đá gan-nít và xi-măng. Những nhà tổ chức có cùng một ý kiến và nói cùng một ngôn ngữ. Các kế hoạch đã được soạn thảo và các đề án bắt đầu được thi công.
Tuy nhiên, có sự trục trặc trong công việc là tiếng nói . Những người chủ chỉ thích một điều duy nhất là làm vinh danh họ. Ngọn tháp được trở thành đài kỹ niệm biểu dương cho quyền lực của họ. Vì thế, lòng ganh tỵ giữa các kiến trúc sư và từng người muốn rời bỏ vị trí làm việc của mình. Họ làm việc cách ẩu tả nên có nhiều tai nạn xảy ra. Các công nhân bị la mắng, bị hành hạ cách thậm tệ. Vật liệu bị mất cấp liên miên. Chi phí cho công trình bị thâm thủng. Ngân hàng bắt đầu lên tiếng phản đối. Các nhà đầu tư thu hồi vốn lại. Sự nghi ngờ cũng lan tràn khắp nơi. Những người thợ xây dựng không còn nói chung một ngôn ngữ. Ngọn tháp phải dừng lại và bỏ hẳn.
Đây là câu chuyện hiện đại mà kịch bản giống với câu chuyện tháp Babel . Ngọn tháp là biểu tượng cho những cố gắng của nhân loại trong ý định muốn tạo một thiên đường ở trần gian mà không phải trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Sau khi tổ tông loài người ăn trái cấm. Thiên Chúa đuổi hai ông bà ra khỏi vườn địa đàng. Khi đó, họ đã làm gì? Họ đã có sự "hiểu biết" và tự xây dựng một thiên đường bằng chính nổ lực của mình và loại trừ Thiên Chúa. Nhưng thiên đường đó là gì?
Sự nỗ lực của con người vẫn còn đó. Chúng ta có những sa lộ rộng lớn, có những chiếc phản lực siêu âm, có những lò năng lượng nguyên tử, người ta có thể điều khiển tàu vũ trụ bay vào không gian... Nhưng chúng ta vẫn chưa thể sống bình an với người khác.
Lễ Ngũ Tuần mang một ý nghĩa đảo ngược hoàn toàn với những gì xảy ra nơi tháp Babel . Chúng ta cũng có một nhóm người tụ hợp với nhau, những con người tầm thường mà họ không chút tự tin vào khả năng hạn hẹp của mình. Nhưng lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Họ cũng bắt đầu xây dựng một "ngọn tháp" với thể loại hoàn toàn khác biệt. Ngọn tháp này làm nên một cộng đoàn mới, ngọn tháp vươn lên trời nhờ những bậc thang thiêng liêng.
Các Tông Đồ cũng bắt đầu xây dựng cộng đoàn mới này. Họ cùng nói một ngôn ngữ mới là ngôn ngữ của tình yêu và cùng nhau hoạt động. Một ngôn ngữ mà tất cả những người thánh thiện đều có thể hiểu. Nó rạng ngời trên những khuôn mặt và được cảm nhận qua những bàn tay siết chặt với nhau.
Hôm nay là ngày kỷ niệm một biến cố vĩ đại đã xảy ra. Đó chính là ngày khai sinh của Giáo Hội, là cộng đoàn của những người theo Chúa Giêsu. Trong ngày này, chúng ta hãy tạ ơn vì Chúa Thánh Thần đã đến với chúng ta và tạ ơn vì Giáo hội sơ khai đã khai mở những bước chân đầu tiên. Cộng đoàn này được xây dựng không phải từ những con người thánh thiện, nhưng từ những con người tội lỗi. Trải qua bao thăng trầm, dù đối diện với những khó khăn và thất bại, nhưng cộng đoàn này vẫn tồn tại và từng bước được xây dựng thêm.
Ngày hôm nay, chúng ta tụ hợp nơi đây không phải như con người kỳ thị và cạnh tranh nhau nhưng như là những người bạn. Cái nhân tố thông thường để chia cắt hay phân biệt con người là giai cấp, màu da, tuổi tác và của cải. Chúng không có giá trị ở đây! Ở đây, chúng ta là một gia đình sống dưới bàn tay che chở của Thiên Chúa.
Lễ Ngũ Tuần đã thay đổi tai hoạ của tháp Babel đã làm cho nhân loại trở nên lộn xộn và chia rẻ thành một gia đình hiệp nhất. Chúa Thánh Thần đã làm cho mọi người nhận ra một Thiên Chúa Thật và làm cho tất cả nhân loại thuộc nhiều ngôn ngữ thành một tiếng nói là cùng tuyên xưng một niềm tin.
Đây là một kỳ công mà nó được được bắt đầu vào ngày lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, chúng ta không chỉ tìm chổ nương tựa nơi toà tháp là cộng đoàn Giáo Hội, mà chúng ta cần phải có bổn phận xây dựng nó. -------------------------------
Tờ báo tuổi trẻ Chủ Nhật ra ngày 29.4. 2001, có đăng tải một câu chuyện ngắn như thế này: Có một vị vua nọ treo một phần thưởng rất lớn cho bất kỳ họa sĩ nào vẽ được một bước tranh đẹp nhất về sự bình an.
Chỉ năm ngày sau, rất nhiều bức tranh được đưa tới. Và trong số nhiều bức tranh đó, có hai bức tranh tuyệt đẹp mà nhà vua phải chọn lấy một để trao giải. Bức tranh thứ nhất thể hiện một hồ nước êm ả, nước trên mặt hồ nhìn như thể là một tấm kiếng to lớn soi rõ những ngọn núi chót vót bao quanh. Phía trên nó là một bầu trời trong xanh với những cụm mây trắng mịn màng. Đúng là một bức tranh tuyệt hảo về sự bình an.
Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi ấy lại trần trụi xấu xí. Còn bên trên nó là một bầu trời giận dữ, sấm sét bảo bùng cộng với những cơn mưa như thác đổ, tạo thành một dòng chảy hãi hùng, sẳn sàng tiêu diệt tất cả. Thế nhưng ông vua lại phát hiện ra nơi bức tranh này có một chi tiết nhỏ nữa: Đó là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe đất của một tảng đá. Và trong bụi cây đó, ở giữa một dòng thác ầm ầm tuôn đổ, một con chim mẹ vẫn an nhiên đùa giỡn với chim con trên tổ của mình.
Cuối cùng nhà vua đã công bố: Bức tranh thứ hai là bức tranh được chọn để trao giải. Bởi vì sự bình an không có nghĩa là không ồn ào nguy hiểm, không khó khăn cực nhọc. Thế nhưng sự bình an đúng nghĩa là cho dù đang phải ở trong những phong ba bão táp, ta vẫn thấy đượcsự yên tĩnh an bình trong trái tim của mình.
Thưa anh chị em ! Bức tranh mà Đức vua đã chọn nó có phần giống giống như bức tranh mà Thánh Gioan đã vẽ lại trong bài Phúc âm mà chúng ta mới vừa nghe xong: Giữa những phong ba bão táp đang chụp xuống đầu các môn đệ sau những ngày mà Thầy của mình bị giết chết, Đức Giêsu hiện ra với các ông như chim mẹ ngang nhiên đậu trên tổ để canh giữ bầy con mình: "Bình an cho các con".
Bình an của Chúa ban cho các môn đệ không phải là một thứ bình an không có sóng gió, hay đối diện với kẻ thù. Có lẽ vì thế mà sau khi ban bình an cho các học trò của mình, Đức Giêsu đã cho họ xem tay và cạnh sườn như thể là bằng chứng của một sự chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ của Chúa sẽ phải đi tới. Và vì biết rằng các học trò của mình sẽ không đủ sức để vượt qua những sống gió đó, nên Đức Giêsu tiếp tục ban tặng cho họ một sức mạnh đặt biệt hơn, đó là Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ của Chúa đã có một sự đổi mới lạ lùng. Nơi bài đọc thứ nhất, sách Tông Đồ Công Vụ đã thuật lại rằng: Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa, đa số là những người quê mùa kém cỏi, ít học chậm hiểu.
Ròng rã theo Đức Giêsu ba năm trời, nghe không biết là bao nhiêu những lời dạy dỗ củaNgười, chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã làm, vậy mà dường như đâu cũng vào đó. Các ông cũng chẳng hiểu về Chúa về Thầy của mình là bao nhiêu. Chúa nói một đàng, các ông lại hiểu một nẽo. Chúa dạy các ông hãy khiêm tốn phục vụ lẫn nhau, nhưng liền sau lời dạy đó, các ông ôm thơ dệt mộng được chức được quyền, tranh giành với nhau xem ai sẽ làm lớn, còn ai phải làm nhỏ. Rồi lúc Đúc Giêsu bị bắt các ông bỏ chạy hoảng loạn, mỗii người một nơi.
Thế nhưng khi Đức Giêsu đến với các ông rồi, khi các ông có được Chúa Thánh Thần rồi, các ông đã thay đổi hoàn toàn. Từ những con người nhúc nhát sợ hãi, trở thành những con người can đãm anh hùng. Từ những con người kém cõi khờ khạo, trở thành những con người thông minh giỏi dắn, có khả năng thu hút nhiều người, và làm cho tất cả mọi người đều có thể nghe và hiểu lời dạy của các ông. Và cuối cùng như sách Tông Đồ Công Vụ đã kể lại, các ông đã mạnh dạn dùng cái chết của mình để làm chứng cho tin mừng Chúa Phục Sinh.
Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ cũng là ban cho Hội Thánh, cho mọi người chúng ta. Chúa Thánh Thần đang hiện diện, đang đổi mới Hội Thánh, cũng là đang hiện diện và đang đổi mới cuộc đời chúng ta. Thế nhưngchúng ta hãy thử một lần nhìn lại xem: Tôi đã có hàng bao nhiêu năm được học giáo lý, được nghe lời Chúa, được tham dự Thánh lễ, nhưng rồi cuộc sống của tôi có được biến đổi chút nào không, hay là còn tệ hơn những người xung quanh mình?
Trời có mưa một chút tôi có can đảm khoác cái áo mưa vào, để đến nhà thờ đọc kinh xem lễ, giữ ngày chúa nhật không? Mỗi lần đến nhà thờ này, là tôi đến để thờ phượng Chúa thật sự, hay là tôi đến chỉ để xin ơn này ơn khác: xin cho được thoát khỏi những nỗi buồn này, đạt được những ước vọng kia. Và rồi xin mãi mà không dược thì đâm ra buồn phiền, thất vọng không còn muốn đến nhà thờ nữa.
Thưa anh chị em! Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày hôm nay, điều quan trọng mà chúng ta cầu xin với Chúa Thánh Thần, không phải là một cơn gió ào ào cùng với những đốm lữa bùng cháy trên đầu mọi người, giống như các Tông đồ ngày xưa. Nhưng chúng ta hãy cầu xin có được một sự biến đổi mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần nơi con người của mình.
Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cung cách sống đạo hàng ngày đối với Chúa. Chúng ta gọi Chúa là Cha, thì phải hoàn toàn tin tưởng vào Cha chứ không phải là bắt Cha làm theo ý mình. Một người Cha thương con thật sự thì cũng không phải là lúc nào cũng chiều theo ý con mình mà ban cho chúng tất cả những gì chúng xin.
Bởi vì người cha biết rằng: có những điều khi cho nó, thì chỉ làm nó ra hư hỏng, là đưa nó vào chổ chết. Chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cách sống hằng ngày đối với những người xung quanh mình. Bởi vì cho dù họ có nghèo nàn, kém cỏi, tệ bạchơn mình đi nữa, thì trong niềm tin, trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta là những anh em của nhau. Và như Chúa đã nói trước: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của thầy: là các con sống yêu thương nhau". -------------------------------
Chúng ta ít biết về Chúa Thánh Thần, nên cũng ít cầu nguyện với Người. Đó là một thiếu sót lớn. Chúa Thánh Thần vừa là nguồn mạch mọi ơn sủng, vừa là Đấng ban phát các ơn cần thiết cho ta. Đương nhiên, khi hoạt động, Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mật thiết với Chúa Cha và Chúa Con. Khi xuống thế làm người, không có việc nào của Chúa Giêsu làm mà không được sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Tại sao như thế? Thưa, vì cả Ba Ngôi kết hiệp mật thiết với nhau trong bản tính và trong quyền năng, nhất là vì: Ba Ngôi là một. Sau Phục sinh, vai trò của Chúa Thánh Thần còn hiện rõ hơn nữa, để giúp cho Hội Thánh vững mạnh và phát triển. Chính Chúa Giêsu trước khi ra đi, đã ban Chúa Thánh Thần lại cho các tông đồ.
Hơn nữa, Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của Hội Thánh: Khi ta lãnh nhận phép Rửa tội,nhất là Bí Tích.Thêm sức, Chúa Thánh Thần đến và hoạt động trong ta, sống trong ta nữa. Người thông ban cho ta sự sống của TC cách dồi dào, biến đổi ta, giúp ta nên trưởng thành mạnh mẽ hơn, kết hợp mật thiết với Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần dạy dỗ, nâng đỡ, phù trợ và nuôi ta lớn lên trong đời sống làm con cái Thiên Chúa - Chúa Thánh Thần hoạt động trong người tín hữu, trong Hội Thánh nói chung, bằng bảy ơn Thánh Thần, để soi sáng, hướng dẫn và giúp Hội Thánh, vì Chúa Thánh Thần chính là Đấng bàu chữa, Đấng đem lại sự hiệp nhất, Đấng của tình yêu.
Ta có thể lấy ví dụ để dễ hiểu về Chúa Thánh Thần: cũng như thân xác ta cần hơi thở để sống, cần có nhịp đập con tim để máu lưu thông nuôi cơ thể thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng được ví tương tợ như vậy; Người chính là hơi thở, là nhịp đập của con tim của Hội Thánh, của người Kitô hữu.
Thân xác ta không có hơi thở, chỉ là cái xác chết. Con người không có nhịp đập con tim, không có máu lưu thông trong huyết quản, đó chỉ là hồn ma có cử động, không phải là con người nữa. Chúa Thánh Thần quan trọng đối với Hội Thánh, với chúng ta cũng tương tợ như thế. Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cảm nhận về Chúa Thánh Thần còn quá ít!
Một người Tin lành, khi trở về công giáo, đã nói: "tôi đã tìm hiểu hết các đạo, kể cả công giáo, tôi thấy công giáo cũng có những khuyết điểm, nhưng cuối cùng tôi theo công giáo, vì tôi nhận ra dù có khuyết điểm, nhưng Hội Thánh công giáo luôn có Chúa Thánh Thần hiện diện nơi họ".
Qua lịch sử của Hội Thánh, các thánh là những chứng nhân hùng hồn nhất về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh, trong người tín hữu. Vì có Chúa Thánh Thần, họ dám hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống. Các tông đồ trước ngày lễ Ngủ tuần, nhút nhát bao nhiêu, nhưng sau đó họ can đảm bấy nhiêu. Chính Chúa Thánh Thần biến đổi họ nên những con người hoàn toàn khác.
Chúa Thánh Thần là nguồn mạch ơn sủng, là Đấng ban phát mọi ơn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, là Người không thể thiếu cho ta; ta có tin tưởng và năng chạy tới, cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần không?
Thánh Phaolô nói: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho ta nhưng ta có cố gắng sống sao cho xứng đáng là đền thờ của Ngài không? -------------------------------
Dưới vòm trời, vạn sự đều phải chịu luật mòn của thời gian: Một đôi guốc mang lâu ngày sẽ mòn, mất hình thù guốc. Một chiếc áo mặc lâu ngày sẽ mòn, mất hình thù áo. Một ngọn núi cao, cái mà con người tưởng chừng như không có gì có thể làm thay đồi được nó. Vậy mà, với thời gian, khi đứng lâu ngày dưới gió bão mưa sa, ngọn núi cũng mất đi phần nào hình thù của nó... Không những các vật hữu hình bị luật mòn của thời gian chi phối, mà ngay cả các sự vật vô hình cũng bị một số phận tương tợ như vậy, chẳng hạn như: lời nói, tình cảm con ngưòi... cũng bị mòn, bị vo tròn bóp méo, làm mất hẵn ý nghĩa của nó.
Có một điều rất quen thuộc, rất cần thiết với con người, điều đó cũng vô hình nữa, nhưng không bị bào mòn theo thời gian, đó là: Hơi thở của chúng ta, cái mà con người gọi là không khí đó. Nếu không khí mà cũng chịu luật mòn của thời gian, thì vũ trụ này không không còn tồn tại bất cứ một sinh vật nữa, kể cả con người. Bởi khi đó vũ trụ này không có sự sống.
Ngay trang đầu tiên của sách sáng thế ký, khi nói về việc Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đã có "THẦN KHÍ THIÊN CHÚA" bay lượn trên mặt nước (St 1,1). Hình ảnh bay lượn trên mặt nước, như đang muốn nói với chúng ta rằng: Thánh Thần Thiên Chúa chính là "hơi thở", là sự sống trên mặt đất này. Và do đó mọi vật đang hít thở sự sống là chính Chúa
Từ sáng sớm đến chiều tối, chúng ta làm được bao nhiêu công việc, chúng ta biết rất rõ. Gặp gỡ bao nhiêu người, bàn bạc những chuyện gì chúng ta cũng đều kiểm soát được hết. Vậy còn hơi thở của chúng ta, chúng ta có nhớ mình đã thở bao nhiêu hơi trong một ngày không? Hơi thở quá quen thuộc, quá gần gũi thân thương với chúng ta, đến nỗi chúng ta đã quên mất là: "chúng ta đang thở, vạn vật trên mặt đất này đang thở".
Như vậy, chúng ta đang sống trong Chúa Thánh Thần, vạn vật trong vũ trụ này đang sống trong Chúa Thánh Thần. Mà hễ sống trong Chúa Thánh Thần, cuộc sống của chúng ta phải sinh hoa trái,đó là: Chúng ta phải sống bác ái, sống trong niềm vui, biết nhẫn nhục, phải có lòng nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ... Nhưng rồi nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta cũng đồng thời hít thở Thánh Thần.
Nhưng lại không buôn theo Thánh Thần, không để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Cho nên, thay vì sống bác ái, chúng ta sống thù nghịch nhau. Thay vì sống hiền hoà, chúng ta thích sống hung dữ...
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa đưa chúng ta trở về với ngôi nhà tiệc ly. Ở đó, chúng ta nhìn ngắm cuộc đổi đời của các Thánh Tông Đồ. Chúng ta nhớ lại coi, bao nhiêu năm theo chân Chúa Giêsu, các ngài cũng hít thở chính sư sống của Thánh Thần đó chớ. Nhưng rồi chúng ta thấy đó, một Phêrô chối Chúa, Giuda thì tự tử, Giacôbê và Gioan thì đòi chức quyền...cuộc sống các ngài cũng đã không xin hoa trái được, chỉ vì các ngài đã không để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời các ngài.
Sự kiện ở nhà tiệc ly hôm nay, các Thánh Tông Đồ như được sinh lại. Hãy cùng với Mẹ Maria và các thánh tông đồ, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần qua những ngọn lửa của Ngài thiêu đốt chúng ta khỏi những mê muội. Xin Người cũng tái sinh chúng ta trong tình yêu của Ngài. Xin Người là chính hơi thở, là chính sự sống của đời con chúng ta. Amen. -------------------------------
1. Nếu như được một điều ước duy nhất, có lẽ nhiều người sẽ phải đắn đo suy nghĩ, nhưng cũng không ít người sẽ nhanh chóng ước ngay rằng làm sao có được một cuộc sống bình an. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong cuộc sống, nhất là hiện thời, có nhiều lý do khiến cho ta có quá nhiều bất an. Các môn đệ của Đức Giêsu sau cuộc tử nạn của Thầy mình, đang trong tình trạng khép kín, bối rối... Trong lúc bất an như vậy ; một luồng sinh khí mới đến với các ông, Đức Giêsu Phục Sinh hiện đến để ban Chúa Thánh Thần (CTT) và những ơn của Người cho các ông, đặc biệt đó là ơn bình an.
2. Chúng ta dễ nhận ra qua các bài Kinh Thánh hôm nay có 2 tường thuật về việc trao ban CTT: Theo Thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (chính hôm lễ Phục Sinh), Đức Giêsu đã ban CTT cho các môn đệ. Trong khi đó theo Luca, qua sách Tông Đồ Công Vụ (Bài đọc I) cho ta thấy Đức Giêsu ban tặng CTT hôm lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau khi Chúa sống lại (Cv 2,1 tt ), và được tường thuật với nhiều chi tiết hơn.
Sự khác biệt này được giải thích như thế nào ? Thưa Thánh Gioan gom góp vào một ngày những sự kiện mà Thánh Luca đã phân chia rải rác trong thời gian 50 ngày: Đức Giêsu sống lại (Ga 20,1tt ; Lc 25,1tt), lên trời (Ga 20,17; Cv 1,9) và ban tặng Thánh Thần (Ga 20,22 ; Cv 2,1tt). Thực ra, CTT đã hoạt động ngay từ thời sáng thế: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng... và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước"(St 1,1-2) ; CTT đã hướng dẫn các tổ phụ các tiên tri mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Thời Tân Ước, Ngài vẫn luôn hoạt động: nhờ quyền năng của CTT mà Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và chính CTT hướng dẫn hoạt động của Đức Giêsu nơi trần thế...
3. Giờ đây chính Đức Kitô Phục Sinh lại trao ban CTT cho các tông đồ, môn đệ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, việc trao ban CTT như được hoà quyện với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai đi rao giảng. Cho nên có thể nói đây là những ơn đặc biệt mà các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu có được khi nhận lấy CTT của Đức Kitô Phục Sinh.
Trong một cuộc gặp gỡ ngắn mà hai lần Đức Kitô nhắc tới "bình an", cho nên có thể nói "bình an" là ơn cao trọng nhất của CTT, rất cần thiết cho con người. Khi nói tới bình an thường được hiểu là bình an bên ngoài (như không có chiến tranh, không có hận thù giết chóc, bắt bớ...), nhưng có một thứ bình an cần thiết hơn, quan trọng hơn đó là bình an sâu thẳm trong tâm hồn.
Nhờ việc nhận Thánh Thần, các tông đồ, môn đệ của Đức Giêsu đã có thứ bình an đó. Thật vậy, chúng ta thấy rõ dường như các ngài không có được sự bình an bên ngoài: bị tra tấn đánh đập vì Đức Giêsu, vì Tin Mừng, ngay cả phải thiệt thân... Nhưng nhờ có ơn bình an của CTT, thì những đau khổ vì danh Đức Kitô lại trở thành niềm vui, danh dự... như Phaolô đã nói: khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (x. 1 Cr 9,16).
Ơn bình an của CTT vẫn luôn được trao ban trong Hội Thánh, điều này càng thấy rõ vào những thời, những nơi Giáo Hội gặp khó khăn: đã có hơn 70 triệu anh hùng trung kiên với Đức Kitô, qua 20 thế kỷ, các vị này không cho rằng việc đầu rơi máu chảy là bất hạnh, mà đó là niềm vui, tự hào... bởi các ngài có được sự bình an sâu thẳm.
Khi h iểu rằng bình an thực là như thế, chúng ta mới có thể cảm nhận được một ý nghĩa khác của việc Đức Giêsu trao ban Thánh Thần: đó là bình an qua việc được tha thứ. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có được cảm nghiệm bình an trong tâm hồn khi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích Giải Tội, nhất là khi ta lỗi phạm càng nặng. Vì thế Đức Giêsu muốn bình an của CTT được lan toả từ các tông đồ và những người kế vị các ngài trong chức linh mục, qua việc tha tội:"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha..." (Ga 20,23). Không chỉ qua Bí Tích Giao Hoà, mà việc tha thứ cho nhau rất cần thiết trong đời sống của Kitô hữu, khi chúng ta tha thứ cho nhau là dấu hiệu CTT đang hoạt động nơi ta.
Những ai được diễm phúc đón nhận sự bình an của CTT không phải để thụ hưởng mà phải ra đi, phải chia sẻ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ". Đức Giêsu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giờ đây đến nhiệm vụ của Giáo hội, của mọi người chúng ta. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại rằng sau khi nhận ơn CTT, các môn đệ nói được nhiều ngôn ngữ khác lạ của người nghe, tức Hội Thánh phải biết nói ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi ; nói cách khác Hội Thánh, tức chính chúng ta, phải rao giảng Tin Mừng mọi thời, mọi nơi. Có như vậy mới có thể đem bình an của Chúa đến cho mọi người, bởi nếu không có ai rao giảng thì làm sao tha nhân có thể nghe danh Chúa và tin vào Ngài được (x. Rm 10,14) ?
4. Mừng lễ CTT hiện xuống là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại, như các tông đồ, môn đệ xưa đã lãnh nhận dồi dào ơn CTT, cũng thế qua bí tích Rửa Tội, nhất là qua bí tích Thêm Sức, Đức Kitô Phục Sinh đã đổ tràn CTT trên mỗi Kitô hữu, nhưng chúng ta đã cộng tác và làm cho ơn này phát triển như thế nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:
Tôi có được sự bình an trong tâm hồn, một niềm vui sâu xa trong tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa dù có những nghịch cảnh trong cuộc sống hay không ?
Tôi có là khí cụ bình an của Đức Kitô qua đời sống yêu thương, tha thứ đối với nhau hay không?
Tôi có cảm nhận được niềm vui khi giới thiệu Đức Kitô cho người khác bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân như: bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm... hay không (x. Gl 5,22-24)? Nếu chúng ta có được những điều đó, hãy cảm tạ Thiên Chúa, đó là dấu chỉ có sự hoạt động của CTT nơi ta, một cuộc Hiện Xuống mới đang tái diễn ; nhờ đó đem lại cho chúng ta sự bình an thật đời này và sự sống đời đời: "Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an"(Rm 8,6). -------------------------------
Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp để chúng ta cùng nhau đào sâu và chia sẻ kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần. Nhưng thật là khó để nói về Thánh Thần. Chính sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo nhận định rằng: "Nói về Chúa Thánh Thần là rất khó. Bởi vì Chúa Thánh Thần nói cho ta biết về Chúa Cha, dạy cho ta biết về Chúa Con , nhưng Người không nói gì về chính mình".
Vì thế, trong bài suy niêm và chia sẻ này, tôi xin mạn phép tạm bỏ qua những gì mà thần học, triết học...nói về Chúa Thánh Thàn. Ở đây chỉ xin mượn một từ trong Kinh Thánh đã dùng, để chia sẻ một chút về Thánh Thần. Đó là từ Ruah ( Hip). Chính từ ngữ này đã làm nên tên gọi của Chúa Thánh Thần. Ruah có nghĩa là: khí, gió, hơi thở.
Chúng ta sống mà không thể không thở. Thế mới cho thấy hơi thở là rất cần cho sự sớng con người. Có lẽ vì thế mà Kinh Thánh đã dùng hình ảnh hơi thở để diễn tả về Thánh Thần. Thánh thần là hơi thở của Thiên Chúa, là hơi thở làm cho ta được sống. Và sự sống đó không phải chỉ là sự sống của thân xác mà còn là sự sống thần linh nữa. Chính sự sống này làm cho ta có phẩm giá vượt lên trên các sinh vật khác.
Vì thế, chỉ khi nào ta cảm thấy cần đến sự sống ấy, lúc đó ta mới thấy cần Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, khi ta khao khát sống là ta khao khát Chúa Thánh Thần. Xuyên qua khát khao đó, ta sẽ cảm nhận được hoạt động và tác động của Thánh Thần, vốn là Đấng khơi nguồn và là Đấng ban sự sống đó, cách mãnh liệt.
2.Hít thở Thánh Thần .
Ngày hôm nay có rất nhiều phương pháp dưỡng sinh giúp ta được khoẻ mạnh. Trong số nhữgn phương pháp đó có 1 phương pháp rất đơn giản mà người ta thường nói tới đó là phương pháp hít thở 3 thì. Phưong pháp này khuyên chúng ta: chỉ cần 3- 5 phút mỗi ngày, ta nên tìm một nơi thanh vắng, trong bầu không khí trong lành, vào lúc sáng sớm khi thức dậy hoặc khi đêm về, ta ngồi đó và thực hiện 3 động tác:
1.Nhẹ nhàng hít vào thật sâu 2.Ngưng 3.Từ từ thở ra.
Ta cần có những giây phút như thế để mình hít thở thật sâuThần Khí của Thiên Chúa. để Thần Khí của Thiên Chúa thấm vào lòng ta, thấm vào tâm hồn ta, thấm vào trái tim ta, thấm vào suy nghĩ của ta, càng sâu càng tốt. Những giây phút hít thở như thế, người công giáo gọi là những giây phút cầu nguyện. Rất hữu ích!
Thưa anh chị em và các bạn! Ngày xưa, sau khi Chúa sống lại, các tông đồ họp nhau lại và cùng với Mẹ Maria. tất cả cùng cầu nguyện. Chính trong gây phút cầu nguyện đó, Thánh Thần được ban xuống. Chúng ta cũng vậy, chính trong những phút giây tập trung cầu nguyện là ta hít thở Thần Khí của Chúa. Chính lúc đó hoa trái của Thầ Khí thiên Chúa sẽ trổ sinh trong ta. Hoa trái mà trong thơ gởi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô nói rằng: " hoa trái của Thần Khí là: bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, nhân hâu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ".(Gl 5,22-23b)
3.Thay cho lời kết,
Xin mượn tâm tình của một lời kinh như một lời gởi gắm đến anh chị em và các bạn. Ước gì tâm tình ấy cũng phải là tâm tình của mỗi chúng ta. Lời kinh ấy thế này:
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu! Xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống. để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp cao quý và biết ghét những điều đê tiện xấu xa. Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết chống lại những điều mình ghét. Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút sống, con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương. Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu, để từng giây phút yêu con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị. Cuối cùng, Xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống vì hiểu được rằng: Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen -------------------------------
Lễ Ngũ Tuần đánh dấu sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần trên các thánh Tông Đồ và trên Giáo Hội sơ khai.
Biến cố này xảy ra năm mươi ngày tiếp theo sau biến cố Chúa Giêsu sống lại (Trong ngôn ngữ tiếng Hy Lạp, pentêkostê có nghĩa là thứ năm mươi). Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống năm nay vào Chúa Nhật ngày 31 tháng 5.
Biến cố ngày lễ Ngũ Tuần chỉ có thể được hiểu trong mối quan hệ với biến cố lễ Chúa Phục Sinh và Chúa Lên Trời. Chịu chết để cứu độ nhân loại (Thứ Sáu Tuần Thánh), sống lại (vào ngày Phục Sinh) và về cùng Chúa Cha (Lên Trời), Đức Kitô phái Thánh Thần đến cho nhân loại (dịp lễ Ngũ Tuần). Do đó, ngày lễ này khép lại Mùa Phục Sinh vốn được kéo dài trong suốt bảy tuần lễ và cũng là sự đăng quang của Mùa Phục Sinh.
Vào ngày ấy, « các Tông Đồ đang hội họp cùng với nhau. Bỗng nhiên, từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (...) Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình » (Cv 2, 1-6).
Hơn nữa, đây cũng là dịp thực hiện lời hứa của Chúa Giêsu Phục Sinh đối với các Tông Đồ vào thời điểm lên trời xảy ra mười ngày trước đó: « Anh em sẽ lãnh nhận một sức mạnh, sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ đến trên anh em. Và anh em sẽ là những chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong vùng Giuđê và Samari cho đến tận cùng bờ cõi trái đất ».
Thực tế cho thấy, các Tông Đồ khi nhận được sức mạnh của Thánh Thần liền can đảm rời khỏi gian phòng mà trước đây họ tự giam hãm trong nỗi sợ sệt. Ngay lập tức họ bắt đầu làm chứng cho Chúa Phục Sinh, rao giảng giáo huấn của Ngài cho muôn dân và làm phép Rửa Tội. « Trong dịp lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội được khai sinh không do ý muốn của loài người, nhưng là bởi sức mạnh của Thánh Thần ». Trong thực tế, tiếp theo biến cố này các cộng đoàn tín hữu đầu tiên được ra đời, được củng cố, phát triển và lan truyền rộng rãi.
Trình thuật trong sách Tông Đồ Công Vụ mang hàm ý: gió và lửa, cũng như các trình thuật khác trong Kinh Thánh, biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa. Những lưỡi lửa chứng tỏ sự ngự xuống của Thánh Thần trên các Tông Đồ. Và khả năng của họ làm cho tất cả những người nghe hiểu được mà theo như bản văn liệt kê một cách rất cụ thể và chính xác rằng đây là những người dân « Pácthia, Mêđia, Êlam, Mêxôpôtamia, Giuđê, Capađôkia, Pontô và Asia, có người là dân Physia, Pamphylia, Ai Cập, và những vùng Libya giáp giới Kyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do Thái cũng như người mới trở lại đạo; nào là người đảo Kêta hay người Arập ». Hết thảy đều đều nghe các Tông Đồ rao giảng bằng tiếng bản xứ của mình.
Cũng vậy, Tin Mừng có liên quan đến tất cả nhân loại, ơn Chúa Thánh Thần cho phép các Tông Đồ đáp trả lời mời gọi của Chúa Phục Sinh: trở nên những chứng nhân của Ngài cho đến « tận cùng trái đất ».
Cũng như các Tông Đồ, các Kitô hữu được mời gọi không được khép kín nơi bản thân mình như người đứng bên ngoài cuộc sống và ở ngoài thế giới, trái lại phải là những người công bố Tin Vui trong Phúc Âm một cách mạch lạc và tự do. Bổn phận này được đặc biệt nhắc đến trong Công Đồng Vatican II về vai trò của người giáo dân, cũng như trong tông huấn Christideles laici của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề ngày 30 tháng 12 năm 1998.
Nguồn mạch được tỏ hiện trong biến cố Lễ Ngũ Tuần, Bí Tích Thêm Sức thường xuyên được cử hành trong dịp lễ này. Trong nghi thức, giám mục đặt tay trên người lãnh nhận, cử chỉ biểu lộ ơn Chúa Thánh Thần. Ngày nay, người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức có thể là những thiếu niên cũng như những người trưởng thành.
(Nguồn: La Pentecôte, fête de l'Esprit Saint et de l'Eglise)
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng -------------------------------
Một người bạn linh mục kể với tôi một câu chuyện vui như sau: Một ngày nọ, Chúa Cha nói với Chúa Con: "Cha muốn đi thăm lại Sinai, nơi Cha đã tới đó một lần rồi". Chúa Con nói: "Con muốn đi thăm Giêrusalem, nơi mà người ta đã giết Con, nào chúng ta cùng đi". Còn Chúa Thánh Thần thì nói: "Tôi muốn tới thăm quan Vaticăng" Chúa Cha hỏi: "Tại sao", Chúa Thánh Thần trả lời: bởi vì... Tôi chưa bao giờ tới đó lần nào cả"!!!
Đây chỉ là một câu chuyện tưởng tưởng thôi, nhưng có lẽ nó cũng nói với chúng ta một điều gì đó về sự lãng quên Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội như các nhà thần học cảnh tĩnh: "Chúa Thánh Thần là Đấng đại bị quên lãng" (von Baltharsar). Chúng ta thường không để ý tới Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Nhưng Chúa Thánh Thần là ai? Và Người làm? Chúng ta có thể nói về Người được không? Điều này không dễ tý nào! Quả thế, trong Ba Ngôi Vị thần linh, Chúa Thánh Thần là Đấng bí nhiệm hơn cả, ẩn dấu hơn cả, một Ngôi vị không có khuôn mặt, như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Ga 3,5). Người không nói về mình và tự mình nói. Cả tên gọi của Người cũng không phải là riêng của Người, từ "Thánh - Thần" cũng có thể áp dụng tương tự cho Chúa Cha và Chúa Con, bởi vì "Thiên Chúa là Thần khí và thánh thiện" (Ga 4,24). Chúa Thánh Thần tự trút bỏ chính mình (kenosi) để được liên hệ tất cả với Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, Người là Deus sempre major (Thiên Chúa luôn lớn hơn), là Đấng không thể diễn tả, nói theo Thánh Basilio Cả. Chúng ta không thể biết Người cách trực tiếp, nhưng chúng ta có thể tới gần với mầu nhiệm của Người qua sự biểu lộ, những hoạt động và dấu chỉ của Người trong lịch sử cứu độ.
Trong bài đọc I: Chúa Thánh Thần được diễn tả bởi hai hình ảnh: đó là gió và lửa. Trước hết, gió là sự diễn tả về sức mạnh. Đối với thế giới cổ đại, gió là dấu chỉ của sức mạnh thần linh làm thay đổi thế giới và chuyển dời các tinh tú. Nhưng gió cũng là sự diễn tả về một trong bốn yếu tố chính cấu thành vũ trụ - không khí (ruach). Chỉ ở đâu có không khí, thì ở đó có thể hít thở và có sự sống ở đó. Chỉ ở đâu hít thở được, ở đó có thể tồn tại con người, nhân loại và đời sống tinh thần.
Hình ảnh thứ hai được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần đó là lửa: Nếu trong thế giới cổ đại, không khí xuất hiện như là yếu tố nền tảng của sự sống, thì lửa là những gì mà nền văn minh nhân loại cổ dùng nó để phát triển. Lửa là ánh sáng, là sức nóng, là sự vận động, là sức mạnh của sự biến đổi. Và lửa cũng là yếu tố của sư huỷ diệt, của sự phá hủy nếu. Lửa cũng được coi là một phần của mặt trời, là yếu tố của sức mạnh thần linh. Nên khi con người biết sử dụng lửa, con người ý thức mình là giống thần linh. Thế giới hy lạp đã tạo ra huyền thoại về Prometeo, nhân vật đã chiến đấu với các thần, ăn cắp lửa từ trời, rồi mang lửa xuống trái đất và từ đó khởi đầu một thế giới mới.
Như vậy, biểu tượng gió và lửa được dùng trong Kinh Thánh muốn xác định sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Giáo Hội và trong thế giới như là nguyên lý của sự sống, của sự biến đổi, của sự thanh tẩy và soi sáng. Biến cố ngày lễ hiện xuống nói với Chúng ta rằng: Chúa Thánh Thần là lửa và Chúa Kitô là Prometeo đích thực đã lấy lửa từ trời và đã mang xuống trái đất để "canh tân bộ mặt trái đất" (Tv 103,30). Với việc sai Thánh Thần như gió và lửa, Giáo hội được khai sinh và bắt đầu sứ mạng truyền giáo mà chính Thánh Thần là vai chính của việc truyền giáo (protagonist of mission). Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, Người tập hợp tất cả các dân tộc khác nhau về màu da, ngôn ngữ, quốc gia... trong một Thân Thể duy nhất của Đức Kitô (Bài đọc I). Qua Giáo hội, "Lửa Thánh Thần" của Đức Kitô đó đã bùng lên khắp thế giới từ hơn 20 thế kỷ qua, và đã thay đổi khôn mặt thế giới này trở nên nhân bản hơn, tự do hơn, đẹp đẻ hơn.
Chúng ta chuyển sang ý nghĩa khác của bài đọc Tin Mừng trong đó Chúa Thánh Thần xuất hiện như là "Đấng Phù trợ mà Thầy sẽ sai xuống trên các con từ Chúa Cha, Thánh Thần Chân Lý nhiệm xuất từ Chúa Cha sẽ dẫn các con tới Chân lý toàn vẹn" (Ga 15,26). Ở đây, Mạc khải về Chúa Thánh Thần không chỉ đơn thuần là sức mạnh, là năng lực, nhưng là chính Thiên Chúa, là Ngôi Ba. Trong trật tự của Thiên Chúa Ba Ngôi nội tại, Chúa Thánh Thần là Tình Yêu-Ngôi Vị (Amore-persona) như là nexus amoris (rợi dây tình yêu) của Chúa Cha và Chúa Con; là sự viên mãn và sự kết thúc của sự phì nhiêu thần linh ba ngôi. Trong nhiệm cục cứu độ, Người là Quà Tặng (Dono-persona) của tình yêu ba ngôi dành cho nhân loại. Như lời thánh Phaolô nói: "Tình Yêu của Thiên Chúa được đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như thế, Chúa Thánh Thần không xuất hiện như một ngôi vị "xa lạ" với chúng ta, nhưng là Đấng ở trong chúng ta, thần hóa chúng ta và hành động với chúng ta (x. 1Cor 3,16). Chúng ta biết rất ít về Người không phải tại vì Người ở quá xa chúng ta, nhưng tại vì Người ở quá gần chúng ta. Một cách tuyệt vời theo lời Thánh Agustino, Người là Thiên Chúa ""intimior intimo meo et superior summo meo" (Thiên Chúa gần gủi thân mật hơn cả chính con với con), Người trở thành Luật Mới, luật của Tình Yêu được in vào lòng người. Người thực hiện sự thánh hóa của chúng ta, làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Chúa Cha, và nhờ Người, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Abbà, Cha ơi! (Rm 8,15). Và như thế đời sống của người kitô hữu là hành trình bước đi theo và trong Thánh Thần: "Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Những việc do tính xác thịt gây nên, thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, hận thù, bất hoà, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Tôi nói cho mà biết: những kẻ làm những điều đó sẽ không được hưởng Nước Thiên Chúa" (Gl 5,16.19-21).
Ngày hôm nay chúng ta đang đối diện với đầy dẫy những dối trá và nộ lệ dưới nhiều hình thức khác nhau. Tất cả chúng ta được mời gọi hãy nhạy bén và dễ bảo với Chúa Thánh Thần. Ai bước đi trong Thần Khí và Sự Thật sẽ đón nhận được hoa quả của Thánh Thần: đó là "hoa quả của Thần Khí là: bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gal 16,22).
Veni Sancte Spiritus! Xin Chúa Thánh Thần hãy đến để thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Bởi lẽ chỉ có ngọn lửa của Thánh Thần mới có thể biến đổi chúng con, chỉ có Tình Yêu mới cứu độ! Amen!
Qua các phương tiện truyền thông như báo chí, Radio và truyền hình, chúng ta thấy thế giới nhân loại ngày nay không có một ngày nào hoàn toàn được an bình, không có một ngày nào mà không xảy ra những bạo hành và tội ác. Chưa lâu, bộ Nội Vụ CHLB Ðức đã công bố một danh sách dài của các tội phạm trong năm: trên 5 triệu hành vi phạm pháp đủ các loại đã được ghi nhận. Nghĩa là khoảng 7 giây đồng hồ lại xảy ra một tội phạm. Nếu tại một nước văn minh, giàu có và tiến bộ vào bậc nhất thế giới như CHLB Ðức mà còn xảy bao điều tiêu cực như vậy, thử hỏi tại các nước nghèo nàn lạc hậu mỗi ngày còn xảy ra biết bao tội ác, bao điều tồi tệ nữa !
Bởi vậy, nhiều người đâm ra hoài nghi tự hỏi: Phải chăng ác thần đã xâm nhập vào đời sống xã hội hôm nay của chúng ta ? Ðúng vậy, và chúng ta đang cố sức tìm kiếm các phương tiện và đường hướng để chống trả lại ác thần đó. Ðồng thời chúng ta cũng tìm kiếm sự quân bình, các đường hướng và sức mạnh của sự cứu rỗi và của sự hoàn thiện.
Trong khi đi tìm kiếm phương tiện và sức mạnh để chống trả ác thần như thế, chúng ta mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và được nghe nói đến một Thần Khí khác: Thánh Thần. Hoa trái của Thánh Thần đã được thánh Phaolô trình bày trong Thư gửi các tín hữu Ga-lát, là: «Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ » (5,22-23), nghĩa là tất cả những điều tích cực và thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta cũng như cho thế giới. Ở đâu có Thần Khí đó ngự trị, thì ở đó bộ mặt trái đất được đổi mới. Về Thần Khí của lòng nhân hậu và của sự cứu rỗi, Phúc Âm thánh Lu-ca đã viết: « Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người » (11,13). Tuy nhiên, Thánh Thần, Ðấng làm cho bộ mặt méo mó của trái đất trở thành xinh đẹp, sẽ không do con người tạo ra được. Tự khả năng nhân loại của mình, chúng ta không thể dàn xếp hay đặt kế hoạch trước về Người được. Ðiều chúng ta có thể làm và cần phải làm, là: Chúng ta hãy luôn thành khẩn cầu xin và hãy mở rộng tâm hồn mình đón nhận ân huệ đó của Thiên Chúa, vì nhận biết mình yếu hèn, giới hạn và bất toàn.
Ðồng thời chúng ta hãy để cho Thánh Thần Thiên Chúa dìu dắt hướng dẫn cuộc sống cũng như mọi hành động của mình, chứ không phải các tham vọng và ước muốn trần thế. Thánh Phaolô sau khi nêu lên những hoa trái của Thánh Thần, đã không quên nhắc lại điều kiện của những ai bước theo Thánh Thần: « Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê » (Gl 5,24). Cuộc sống theo Thánh Thần Thiên Chúa là một cuộc sống thanh thản và đầy an vui thánh thiện, tức: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, ...Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc sống dễ dãi, theo kiểu được sao hay chớ.
Những ai biết sống và hành động theo Thần Khí, những người đó sẽ được Chúa Cứu Thế chúc phúc. Những vị thánh nhân, như Ê-li-sa-bét Th#-ring-gen, Phan-xi-cô Át-xi-xi, Mác-xi-mi-li-ê Khôn-bê, Vin-xen-tê đệ Phaolô, v.v...là những người đã hoàn toàn trao phó đời mình cho Thần Khí hướng dẫn và dìu dắt ! Ngày nay vẫn còn tiếp tục có những thánh nhân biết sống theo Thánh Thần của Ðức Giêsu chăng?
Trong số các thánh nhân đó, chúng ta có thể kể tên, như: Ðức Gioan XXIII, Ðức Gioan Phaolô II, hay như Mẹ Tê-rê-xa, vị Tông đồ của người nghèo ở Culcutta/Ấn Ðộ, hay rất có thể như Martin Luther King, người tranh đấu cho sự tự do và hoà bình giữa mọi người. Chính ông là người đã phát biểu những lời thời danh như sau: « Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, các con cái của những kẻ nô lệ và các con cái của những người chủ nô lệ xưa kia sẽ cùng nhau thân hữu ngồi vào một bàn ăn ... Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, bốn đứa con của tôi đây sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng không bị đánh giá theo màu da, nhưng theo tư cách sống của chúng... » (Reden, die die Welt bewegten, nhà xuất bản Emil Vollmer, trang 590).
Nếu chúng ta để cho hai tiếng „tự do" của mỗi thành phố, của mỗi thôn xóm, của mỗi nhà nước, của mỗi thủ phủ mỗi miền vang dội lên, thì chúng ta đã thực sự làm cho xuất hiện được cái ngày tất cả mọi con cái Thiên Chúa, dù là da đen hay da trắng, dù Do-thái, Tin Lành, Công Giáo hay ngoại đạo, đều bắt tay nhau và cùng ca hát những lời của vị linh hướng người da đen già: „Thế là được tự do, lạy Thiên Chúa thượng trí toàn năng, thế là chúng con được tự do!" (Srephen B. Oates, Matin Luther King, 1982, tr. 3169).
Vâng, ở đâu sự tự do được thể hiện trong đoàn kết và sự đoàn kết được thể hiện trong tự do, ở đó có Thần Khí của Ðức Giêsu, tức Chúa Thánh Thần, ngự trị. Thánh Phaolô cũng đã viết: „Ở đâu có Thần Khí, ở đó có sự tự do" và „chúng ta đã nhờ Thần Khí mà trở nên một".
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có nghĩa là để cho Chúa Thánh Thần trở nên sức mạnh nội tâm của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do và sự đoàn kết, đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng cộng tác vào việc kiến tạo sự tự do và sự đoàn kết theo khả năng của chúng ta, hầu để cho: Một sự tự do không bị giới hạn và một sự đoàn kết không trùng nghĩa với một sự đồng điệu nhàm chán. (Trong thực tế, điều đó đối với Giáo Xứ của chúng ta ở.. . có nghĩa là là.. .) Con người ở trong Giáo Hội cũng như trong xã hội cần đến cả hai. Chúa Thánh Thần tác động và muốn cho cả hai cùng được hiện thực trong xã hội loài người chúng ta.
Chính trong ngày thứ năm mươi sau biến cố Phục sinh, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, đánh dấu một trang sử mới trong công trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Giáo hội được khai sinh. Kể từ đây, hành trình của Giáo hội tiến về nhà Cha được tràn đầy ơn thánh Chúa và rộng mở dưới sự dạy dỗ và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là nguồn cảm hứng, sự bình an, lòng hân hoan và sự mạnh mẽ làm cho các môn đệ cũng như cho Giáo hội thời sơ khai can đảm ra đi loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc.
Sách Công vụ Tông đồ ghi lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống nhằm vào ngày lễ Ngũ tuần của người Dothái. Có thể nói biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống cách nào đó đã làm mờ đi ý nghĩa của ngày lễ ngũ tuần vốn xuất phát từ ngày lễ truyền thống của nhà nông cũng như sau này dùng để kỷ niệm ngày Giavê ban Lề luật và thiết lập Giao ước Xinai với dân. Bởi biến cố hôm nay chính là ngày lễ Ngũ Tuần mới, ngày mà sách Công vụ Tông đồ ghi lại rất nhiều dấu lạ do Chúa Thánh Thần mang đến.
Tiếng gió và hình lưỡi lửa là những hiện tượng khác thường trong ngày lễ Ngũ tuần. Tiếng gió hẳn gợi nhớ đến thời gian lúc khởi đầu công trình tạo dựng vũ trụ, khi mà "Thần Khí Giavê bay lượn trên mặt nước" (St 1,2b) để tác tạo muôn loài. Chúa Thánh Thần chính là làn gió, là hơi thở làm bừng lên sự sống như Ngôn sứ Edêkien xưa đã trông thấy chính Thần Khí đã làm hồi sinh cả một thung lũng xương khô và gầy đét (x. Ed 37, 1-14). Trong ngôn ngữ Hípri, từ ngữ Thần Khí thuộc giống cái, dường như có ngụ ý rằng Thần Khí của Thiên Chúa giống như người mẹ hiền sản sinh những người con trong tình yêu thương từ ái của mình.
Còn hình ảnh Lưỡi Lửa, chúng ta có thể hiểu lưỡi chính là lời nói, là lời ca của con người. Để con người nói lời của Thiên Chúa, truyền thông sứ điệp của Thiên Chúa, lưỡi đó cần phải được thanh luyện, cần thiết phải đi qua ngọn lửa Thánh Thần để có thể đi vào tâm trí người nghe những lời nói chân thật nhằm đốt nóng tâm hồn mọi người lòng yêu mến Thiên Chúa. Các môn đệ nhờ được tôi luyện bởi ngọn lửa tình yêu và lòng nhiệt thành của Chúa Thánh Thần, khiến các ông hăng hái ra đi, rao giảng Tin mừng và làm chứng cho tình yêu Chúa Giêsu.
Đồng thời với những dấu lạ chính là những ơn ích thiêng liêng do Chúa Thánh Thần mang đến. Một trong số đó chính là ơn nói "các thứ tiếng khác nhau". Các thứ tiếng khác nhau ở đây cần phải hiểu thế nào? Thật thú vị là có nhiều cách giải thích khác nhau xung quanh vấn đề này. Có người cho rằng các môn đệ biết nói nhiều ngoại ngữ (Công vụ Tông đồ ghi lại 16 thứ tiếng khác nhau)! Có lẽ không đúng. Vì các môn đệ lúc bấy giờ đa số là dân biển, đánh bắt cá làm sao có thể "siêu quần bạt chúng" như vậy được. Ngôn ngữ mẹ đẻ của các ông chính là tiếng Aram, và cùng lắm thì các ông nói được tiếng Hylạp chứ làm gì có chuyện biết nói mười mấy ngoại ngữ trên.
Có người lại cho rằng các ông nói tiếng lạ. Thánh kinh có ghi lại ơn nói tiếng lạ này (x. Cv 2,3-4; 10, 44-46; 1 Cr 12, 10). Ơn nói tiếng lạ tức là một thứ ngôn ngữ chẳng ai có thể hiểu được bởi xuất phát từ nguồn cảm hứng của Chúa Thánh Thần và giống như tình trạng xuất thần. Vì là thứ tiếng "chẳng giống ai" nên cần phải có người thông dịch lại. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho người hiểu được loại ngôn ngữ này để truyền đạt cho người nghe. Thế nhưng sách Công vụ Tông đồ không ghi lại có ai đứng ra để giải thích cho đám đông đang nghe các môn đệ nói. Đám đông hiểu trực tiếp tiếng nói của các môn đệ.
Có lẽ cách giải thích sau đây dễ chấp nhận hơn, vì nó liên quan đến câu chuyện về tháp Baben (x. St 11). Thời đó, con người nói cùng một thứ tiếng. Chính vì thế sinh ra lòng kiêu ngạo, phạm thượng đến Giavê Thiên Chúa. Họ muốn làm một ngọn tháp cao chọc trời và bất cần sự có mặt của Thiên Chúa. Chính vì thế, Thiên Chúa đã khiến cho tiếng nói của con cháu Nôe phải xáo trộn, chẳng còn ai hiểu ai. Nay nhờ biến cố Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hàn gắn sự chia rẽ ngôn ngữ đó của loài người. Các môn đệ tuy nói tiếng mẹ đẻ của mình nhưng nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng khiến cho mọi dân tộc, tuy không cùng một ngôn ngữ, đều có thể hiểu được sứ điệp của Thiên Chúa.
Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, các môn đệ hăng hái ra đi, theo chân Thầy Chí Thánh rao giảng Tin mừng. Hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là bình an và sự tha thứ. Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chính là ngôn ngữ của tình yêu sẽ nối kết tất cả nên một. Từ nay, sứ mạng của Giáo hội chính là đi đến muôn dân để rao giảng về một Đức Kytô chịu đóng đinh, làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới với sự trợ giúp cách đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến canh tân bộ mặt thế giới, Giáo hội và gia đình nhân loại hầu tất cả cùng chung một tiếng nói của Tình yêu, ơn an bình và sự hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chúng.
Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. -------------------------------
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay tôi muốn đưa ra một câu hỏi như thế này: Chúa Thánh Thần là Đấng nào? Với câu hỏi này chúng ta đi sâu vào bản tính Thiên Chúa, nhưng chỉ có đức tin mới trả lời được cho chúng ta mà thôi. Đúng thế, thánh Tôma tiến sĩ đã nói: Hiện tại chúng ta không thể nào hiểu thấu vì mầu nhiệm ấy vượt quá khả năng hạn hẹp của trí khôn con người.
Trong Cựu Ước chúng ta chỉ ghi nhận được một vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải chờ đến Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa, đó là tình yêu.
Còn về Chúa Thánh Thần, trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa ngôi thứ ba, là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Qua Chúa Con, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Đúng thế Ngài ở giữa những cặp vợ chồng để họ biết trung thành và hy sinh cho nhau. Ngài ở giữa những người con để họ biết nói lên hai tiếng thưa ba, thưa má với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Ngài ở giữa những người bạn để họ biết tâm đầu ý hiệp với nhau.
Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối. -------------------------------
Khi từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc tử nạn, Chúa Kitô loan báo cho tông đồ đoàn nói riêng, cho Hội Thánh của Người nói chung, Người sẽ ban ơn Chúa Thánh Thần để Chúa Thánh Thần hoạt động trong lòng mỗi người và hoạt động trong lòng Hội Thánh. Chẳng hạn Chúa Giêsu nói: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7). Đấng Bảo Trợ chính là Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô sẽ gởi đến bảo trợ chúng ta.
Rồi ngay trước lúc về trời, Chúa Kitô nhắc lại lời loan báo về Chúa Thánh Thần mạnh mẽ hơn. Bởi giờ đây, cùng với việc trao ban Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô còn trao trách nhiệm truyền giáo cho Hội Thánh. Chúa Thánh Thần không chỉ là “Đấng Bảo Trợ” suông. Người sẽ là tác nhân chính cho công cuộc truyền giáo của Hội Thánh. Ở giữa lòng Hội Thánh, Chúa Thánh Thần hoạt động để Hội Thánh can đảm loan báo tin mừng cứu độ của Chúa Kitô cho khắp thế giới, qua mọi thời đại. (Lc 24, 49; Ga 20, 20).
Đúng như lời Chúa Kitô đã hứa, bài đọc I trong lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, trích sách Công vụ Tông đồ diễn tả thật hùng hồn biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên tông đồ đoàn: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gó mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4).
1. LịCH SỬ NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trong lịch sử Kitô giáo có liên quan đến lễ Ngũ Tuần trong Dothái giáo, bởi Chúa Thánh Thần ngự đến trong Hội Thánh vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần.
Ngũ Tuần có nghĩa là ngày thứ năm mươi. Trong Dothái giáo, lễ Ngũ Tuần được mừng vào ngày thứ năm mươi, tức bảy tuần lễ sau sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần có hai ý nghĩa:
Ý nghĩa lịch sử: Kỷ niệm việc Chúa ban lề luật cho dân của Chúa qua ông Môisen. Chẳng hạn luật liên quan tới lễ Ngũ Tuần, Chúa dạy: “Từ hôm sau ngày Sabbat, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. Các ngươi phải tính năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày Sabbat thứ bảy, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới lên Đức Chúa” (Tv 23, 15-16).
Ý nghĩa nông nghiệp: Nếu trong lễ Vượt qua, lúa mạch đầu mùa được dâng cho Chúa, thì trong lễ Ngũ Tuần, của lễ dâng tiến Chúa sẽ là hai ổ bánh làm từ lúa mạch, để tỏ lòng biết ơn Chúa đã ban cho vụ mùa vừa được thu hoạch. Vì tỏ lòng biết ơn Chúa, lễ Ngũ Tuần sẽ là ngày lễ chỉ dàng riêng cho việc đạo đức, vì thế sẽ là ngày kiêng việc xác. Không ai được phép làm bất cứ việc nặng nhọc nào. Đó cũng là ngày lễ dành cho tất cả mọi người. Vì thế, người ta tụ tập ngoài đường phố đông hơn bao giờ hết.
Giữa lúc mọi người vui mừng trong ngày lễ nghỉ, và giữa lúc tông đồ đoàn đang chăm chỉ cầu nguyện, Chúa Thánh Thần ngự đến như một bầu không khí mới, làm trỗi dậy một quyền năng lạ lùng, chưa từng có: Mười Một người đã từng là môn đệ của Chúa Kitô, hết sức ngu muội, thậm chí dốt nát, lại phát ngôn hùng hồn bằng mọi ngôn ngữ để bày tỏ đức tin của mình cho cả đám đông dân chúng. Bởi đó, ngày Chúa Thánh Thần ngự đến, là một ngày náo động trong lòng người.
Như vậy, với biến cố Chúa Thánh Thần ngự đến trong lễ Ngũ Tuần, Thiên Chúa đã mặc cho ngày lễ nghỉ này một ý nghĩa mới: Từ nay người ta tôn thờ Thiên Chúa không phải chỉ là của lễ, không phải chỉ là kiêng việc xác, không phải chỉ là cùng nhau vui mừng đổ ra đường mà thôi. Vì tất cả những điều đó chỉ là hình thức. Nhưng từ nay với ơn Chúa Thánh Thần, người ta tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần, trong chân lý, trong chính nội tâm của mình. Bởi Chúa Thánh Thần được ban tặng cho ta không là một vật thể, một hình thức nào, nhưng là tất cả tâm tình yêu mến Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần thắp lên trong chính tâm hồn ta và thúc đẩy chính nội tâm của ta lòng yêu mến Thiên Chúa, phụng thờ Thiên Chúa. Người làm cho chính bản thân ta, cuộc đời ta, tình yêu của ta, mọi hoạt động trong đời ta… trở nên của lễ sống động làm lễ phẩm tiến dâng Thiên Chúa.
Với ý nghĩa mới của ngày lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh và mỗi Kitô hữu có chính Nguồn Sống đích thực là Chúa Thánh Thần, làm cho mình có sức sống mạnh và vươn tới chính sức sống của Thiên Chúa. Ý nghĩa mới của ngày lễ Ngũ Tuần làm cho Thiên Chúa ở lại và tiếp tục hiện diện nơi đoàn dân của Người bằng chính Chúa Thánh Thần.
2. CHÚA THÁNH THẦN HOẠT ĐỘNG NƠI CÁC KITÔ HỮU.
Báo Tuổi Trẻ là một tờ báo lớn tại Sài Gòn. Trong số ra ngày thứ Bảy 20.5.2006, với tựa đề lớn: “Một xơ người Việt được tổng thống Mỹ vinh danh”, bài báo nói về nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng, người Mỹ gốc Việt, dòng Đaminh vừa được chính tay tổng thống Mỹ George Bush vinh danh và trao tặng giải thưởng phục vụ tình nguyện vì những đóng góp của Chị và tập thể các chị em thuộc cộng đoàn do chị làm Bề Trên, trong việc giúp đỡ dân chúng tại những vùng bị bão Katrina và Rita càn quét.
Trong những ngày tháng tàn phá của bão, cộng đoàn của Chị Têrêsa Phạm đã mở rộng vòng tay hết sức để đón nhận các nạn nhân tránh bão. “Dù cơ sở vật chất của dòng tu còn khá chật vật”, phải “sử dụng cả nhà nguyện làm nơi ở cho những người tỵ nạn” (lời của bài báo), các nữ tu vẫn lo cho khoảng 200 nạn nhân có đủ chỗ ở, thực phẩm, chăn, nệm, quần áo và các thứ cần thiết khác. Sau khi bão đi qua, các Chị còn tiếp tục lo đầy đủ thức ăn, để họ “mang theo trên đường trở về nhà sau này”… Chính những người đến tá túc trong cộng đoàn cũng ngỏ lời khen ngợi. Bài báo viết: “Xơ Bề Trên đã mời họ ăn cơm chung với những món ăn truyền thống như cà pháo, canh rau đay, cá kho…”.
Trong ngày được vinh danh và được lãnh giải thưởng, nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng đã không nói về mình, lại rất khiêm tốn và thật thà thổ lộ: “Bằng khen này không phải cho riêng tôi mà cho tất cả những việc mà các xơ đã làm để giúp đỡ nạn nhân bão Katrina và Rita. Tôi nhận bằng khen này thay cho các xơ”.
Chẳng những chị không hề khoe khoang vì về mình, mà còn cám ơn những người do chính chị và các nữ tu giúp đỡ: “Khi nào cơn bão còn hoành hành, khi ấy bà con cần nơi lưu trú, nhà dòng sẽ vẫn mở rộng cửa, không giới hạn thời gian. Đừng cảm ơn chúng tôi. Chính chúng tôi phải cảm ơn mọi người. Chúng tôi chỉ là người nhận. Đồng hương trong cơn hoạn nạn đã cho chúng tôi cơ hội để phục vụ”.
Giữa một thế giới có quá nhiều loạn lạc, làm cho người ta có cảm giác thế giới nghèo tình thương, chúng ta lại bắt gặp rất nhiều, rất nhiều anh chị em sống tình yêu thương đậm đà. Trong số đó, có cả một tập thể rất đông những người con của Hội Thánh, vì tình yêu Chúa Kitô, luôn luôn hiến thân, luôn luôn cho đi. Cộng đoàn của nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng chỉ là những đốm sáng trong cả một bó đuốc sáng vô cùng ấy. Để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em, họ đặt đức bác ái lên hàng đầu. Chính họ, những khuôn mặt khả ái của lòng mến đã làm cho bộ mặt của thế giới còn nhiều méo mó, nhiều vết xẹo, được tươi sáng hơn, rực rỡ hơn, hạnh phúc hơn. Họ chính là cánh tay của Chúa Thánh Thần nhằm xoa dịu nỗi đau của lòng người. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động, dù âm thầm nhưng đầy hiệu quả nơi Hội Thánh và trong lòng mỗi Kitô hữu.
Nhiều khi ta cảm thấy Chúa Thánh Thần có vẻ xa lạ, đang khi Người ở nơi ta, ngự trị trong tâm hồn ta. Người hiện diện bên ta vừa như một người bạn, vừa như một người thầy. Người vốn là Đấng an ủi. Người hiện diện trong ta, trong Hội Thánh, trong lòng đời để an ủi và nâng đỡ ta, an ủi và nâng đỡ mọi con cái loài người trong mọi khốn khó của đời người. Chúa Thánh Thần là nguyên lý của tình yêu, Người làm cho tình yêu phát triển và lớn mạnh đến vô cùng.
Bởi Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi và nâng đỡ, Người cũng đòi ta hãy học lấy bài học của sự an ủi và nâng đỡ này mà sống với anh chị em quanh mình. Nữ tu Têrêsa Phạm Kim Hằng và các nữ tu thuộc cộng đoàn của chị, cùng rất nhiều những tấm gương khác trong Hội Thánh chính là bài học thực tế, Chúa Thánh Thần dùng để dạy ta biết sống với anh chị em bằng đức ái chân thành, nhằm an ủi và nâng đỡ anh chị em của mình. Học lấy bài học thực tế ấy, chúng ta không câu nệ, không nề hà, nhưng hăng hái lên được phục vụ anh chị em vì Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban Chúa Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi ích kỷ, mọi tính toán riêng tư nơi các Kitô hữu của Chúa. Xin hãy thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mỗi Kitô hữu, để họ chu toàn sứ mệnh được sai đi với một trái tim bừng cháy lửa yêu mến.
Xin Chúa Thánh Thần ban cho mỗi Kitô hữu sức sống của Chúa, để họ mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình bằng chính đời sống bác ái yêu thương, để qua chính hành vi đầy tình yêu của họ, mọi người nhận ra khuôn mặt nhân từ vô cùng của Thiên Chúa, để tin tưởng và sẵn sàng đón nhận Người làm Chúa của đời mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Chúa, để giữa lòng thế giới, đã có quá nhiều đe dọa, bạo lực, khủng bố, chiến tranh, mạng sống con người bị coi rẻ…, chúng con biết làm cho bộ mặt của thế giới thực sự tươi sáng, và làm bừng lên sức sống mới của Chúa, để nhiều người đau khổ muốn sống hơn, để thế giới bớt đi những tối tăm, để mạng sống con người được tôn trọng...