Suy Niệm Tin Mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi 7/10 Bài 1-50 Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai
------------------------------------------ Phúc Âm: Lc 1, 26-38: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn ......... Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sư.: 07/10-1
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn trình bày về ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với quê hương đất nước. Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sư.
Biến cố thứ nhất đó là cuộc chiến thắng tại Lépante.
Vào năm 1571 dưới thời Đức Thánh Cha Piô V, vua Sélim nước Thổ nhĩ kỳ đem quân thôn tính Âu châu, trước tai họa thảm khốc này, Đức Thánh Cha một mặt liên kết các quốc gia Âu châu, một mặt kêu gọi mọi người ăn chay cầu nguyện và nhất là lần hạt Mân côi.
Chính nhờ kinh Mân côi, đoàn quân ô hợp của các nước công giáo đã chiến thắng đoàn quân tinh nhuệ của Thổ nhĩ kỳ tại Lépante.
Và để tạ ơn Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã thiết lập ngày lễ Mân côi hôm nay.
Biến cố thứ hai là trường hợp của Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha là một quốc gia đạo đức và sùng kính Đức Mẹ. Thế nhưng đã rơi vào tay bọn Tam điểm từ năm 1910.
Trong suốt 16 năm nắm chính quyền, họ đã gây nên biết bao cảnh xáo trộn lầm than. Nào là giết chết các linh mục tu sĩ., phá hủy các dòng tu, cướp bóc các cơ sở từ thiện của Giáo hội.
Cũng trong thời gian ấy đã xảy ra tất cả 16 lần đảo chánh, 45 lần thay đổi chính phủ và tiền nợ nước ngoài lên tới hai tỷ mỷ kim.
Thế nhưng, vào năm 1917, Đức mẹ đã hiện ra tại Fatima và đã hứa với ba em nhỏ :
• Bồ Đào Nha sẽ giữ vững được đức tin.
Và sự thật đã xảy ra như thế. Dân công giáo Bồ Đào Nha đã vùng lên, đập tan xiềng xích của bọn Tam điểm, lòng đạo đức được phục hồi và ngày 12. 6. 1925 chính phủ và toàn thể nhân dân Bồ Đào Nha đã long trọng dâng kính đất nước mình cho Mẹ Fatima.
Sau cùng là trường hợp của Tây Ban Nha.
Cũng vậy, Tây Ban Nha là một quốc gia đạo đức nhưng đã bị rơi vào tay những kẻ chống đối tôn giáo. Dưới sự hướng dẫn của tướng Franco một mặt trận giải phóng được thành lập và mãi tới năm1939 mới lật đổ được chính quyền.
Ông đã tiết lộ như sau :
• Chúng ta đã nắm được những tài liệu của kẻ thù cho hay : họ định triệt hạ các thánh đường, biến đất nước chúng ta trở thành một quốc gia không còn tôn thờ Thiên Chúa nữa.
Qua những sự kiện lịch sử ấy, chúng ta thấy Mẹ Maria luôn sẵn sàng can thiệp để giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp phải khó khăn và thử thách. Phương thế mẹ muốn chúng ta sử dụng đó là kinh Mân côi, như lời mẹ tỏ lộ tại Fatima :
• Thế chiến lần thứ nhất sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không lo cải thiện đời sống, tôn sùng trái tim Mẹ và lần hạt Mân côi thì rồi chiến tranh sẽ lại bùng nổ một cách tàn khốc hơn.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi bi quan khi nhận thấy rằng :
• Bất công và bạo động, hận thù và đàn áp đang xảy ra khắp nơi, những chiếc ngòi của một cuộc chiến tranh thảm khốc vẫn sẵn sàng bùng nổ. Rồi nghèo đói, bệnh tật và những tệ nạn xã hội luôn liên tục phát triển, không một phần đất nào mà lại không có.
Riêng tại Việt Nam, mặc dù hòa bình đã trở về trên quê hương chúng ta gần ba chục năm rồi, thế nhưng vẫn còn biết bao nhiêu khó khăn cần phải tháo gỡ, biết bao nhiêu vấn đề cần phải giải quyết nhất là về phương diện kinh tế và đạo đức.
Chiến tranh như một cơn ác mộng đã qua đi, nhưng hậu quả đắng cay và nghiệt ngã của nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Bởi đó, là người dân Việt Nam, chúng ta phải cố gắng góp phần vào việc phát triển đất nước bằng chính công sức lao động sản xuất của mình.
Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta còn có những phương thế siêu nhiên. Và một trong những phương thế siêu nhiên đó là sự cầu nguyện.
Đồng thời, một trong những cách thức cầu nguyện đắc lực và hiệu nghiệm hơn hết, đó chính là kinh Mân côi.
Bởi vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin mẹ nâng đỡ và phù trợ cho đất nước Việt Nam, quê hương yêu dấu của chúng ta.
Thời của Ma-ri-a, người ta tin tưởng và mong chờ Đấng Cứu Thế sẽ sinh: 07/10-2
1. Con người và lập trường phụng sự Thiên Chúa của Ma-ri-a
Thời của Ma-ri-a, người ta tin tưởng và mong chờ Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra là người Do Thái và sẽ trở nên một vị vua oai hùng, Ngài sẽ giải phóng cho dân Do Thái và sẽ trị vì cả thế giới. Vì thế, qua bao thế hệ, có biết bao phụ nữ mơ ước mình được diễm phúc làm mẹ Đấng Cứu Thế. Ôi, còn diễm phúc nào sánh bằng! Rất nhiều phụ nữ lấy chồng với niềm hy vọng được làm mẹ của một vị vua cao sang, để được hơn người, được hưởng vinh hoa phú quí cả đời.
Nhưng Maria lại là một thôn nữ bình dị, không mơ ước gì cao xa, không mộng tưởng trở nên bà này bà kia. Điều quan trọng đối với cô chính là làm sao sống đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, cô muốn hiến trọn cuộc đời để phụng sự Ngài, trở nên nữ tỳ của Ngài. Chính vì thế, khi nghe sứ thần cho biết Thiên Chúa đã chọn cô làm mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng được «Thiên Chúa ban ngai vàng của vua Đa-vít cho», cô đã không tỏ ra quá mừng rỡ như thể điều đó phù hợp với mong ước của mình bấy lâu nay. Trái lại, cô đã nghĩ ngay đến lựa chọn căn bản của mình là sống đồng trinh để tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Phản ứng tự phát của cô chứng tỏ điều ấy: cô thưa ngay với sứ thần: «Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!». Việc cô đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt người thế gian vốn quan niệm hẹp hòi rằng những phụ nữ không có chồng hoặc con con cái là vô phúc. Tuy nhiên, khi biết đó là thánh ý của Thiên Chúa, cô đã dẹp ngay ý riêng của mình để tuân hành: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói».
2. Tại sao Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế?
Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Thiên Chúa không chọn làm Mẹ đấng Cứu Thế bất kỳ ai trong số những người mong muốn điều ấy, mà lại chọn người không hề nghĩ đến điều ấy. Những người mong ước được làm mẹ Ngài, nghĩ cho cùng, chỉ là muốn làm lớn «cái tôi» của mình. Điều quan trọng đối với họ chính là bản thân họ, chứ không phải là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế chỉ là phương tiện để làm «cái tôi» của họ lớn lên. Còn Ma-ri-a, điều quan trọng đối với cô là Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài, chứ không phải là bản thân cô. Đối với cô, Thiên Chúa là tất cả, còn mình chỉ là số không: tất cả mọi tư tưởng, hành vi của cô đều qui hướng về Ngài.
Chính vì sự khiêm nhường, chỉ mong muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài muốn, mà cô là người xứng đáng nhất để Ngài chọn làm Mẹ cho Con của Ngài, cũng là Đấng Cứu Thế.
3. Suy tư về khiêm nhường và quên mình
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, toàn hảo, Ngài có thể làm được tất cả những gì Ngài muốn. Vì thế, khi cần chọn người cộng tác với Ngài, điều quan trọng đối với Ngài không phải là tài năng, đức độ, hay những giá trị mà loài người vẫn đề cao. Trước mặt Ngài, tất cả những nhân đức, tài năng, những việc phúc đức, những điều mà chúng ta thường lấy đó làm hãnh diện, đều chỉ là những con số 0. Hàng chục hay hàng trăm con số 0 đi với nhau vẫn chỉ bằng 0, vô giá trị. Trước mặt Ngài, chỉ có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy mới có giá trị và làm cho những ưu điểm hay việc tốt lành khác trở nên có giá trị. Chúng giống như con số 1 được đặt đằng trước dãy số 0 kia và làm cho những số 0 vô giá trị ấy trở nên đầy giá trị: mỗi số 0 ở đàng sau số 1 đều làm tăng lên gấp 10 giá trị của cả con số đứng trước nó.
Thử xét mà xem, trong tất cả các thụ tạo Thiên Chúa dựng nên, có ai thánh thiện, nhân đức, tốt lành, tài năng, đáng yêu đáng mến cho bằng Tổng Quản Thiên thần Lucifer? Ông là thiên thần sáng láng nhất, tốt đẹp nhất trong hàng ngũ thiên thần. Nhưng ông lại thiếu một điều rất căn bản và nền tảng, đó là tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy. Ông đã coi «cái tôi» của ông quá lớn, lớn hơn cả Thiên Chúa, coi ý riêng của ông hơn cả ý Thiên Chúa. Chính vì thế, tất cả những ưu việt ông có đều thành vô giá trị, chẳng đem lại một lợi ích nào cho ông.
Nếu tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy là con số 1, thì tính ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn người là con số –1 (trừ một), có khả năng biến tất cả những số 0 sau nó thành số âm, nghĩa là biến những ưu điểm mình có trở thành sự ác, thành tai họa cho mình và cho người.
3. Hãy tự xét chính mình: mình thuộc hạng người nào?
Nếu trong thế giới các con số có số âm và số dương, thì trong thế giới con người, có con cái thế gian và con cái sự sáng, có những con người lắm tình thương nhưng cũng có những con người đầy ích kỷ. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu nói lên sự phân loại này (xem Mt 5,45; 13,38; Lc 20,34; Ga 12,36; Rm 8,14; Ep 5,8; 5,11; 1Ga 3,10). Cả hai đều có thể có những đức tính và tài năng ưu việt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ:
• một đằng có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy, nên tất cả những gì họ có, dù là tinh thần hay vật chất, đều nhằm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, không nhằm phục vụ «cái tôi» và lợi ích riêng của họ.
• đằng kia thì ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn tất cả, nên tất cả những gì họ có họ làm, dù là tinh thần hay vật chất, dù là tốt hay xấu, đều nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ «cái tôi» và lợi ích riêng của họ.
Phân biệt được ai là hạng người nào không phải là chuyện đơn giản. Vả lại, đó không phải là việc của chúng ta, mà là việc chỉ dành cho Thiên Chúa. Đức Giê-su đã yêu cầu chúng ta «Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1), nhất là «đừng xét đoán theo bề ngoài» (Ga 7,24) hoặc «xét đoán theo kiểu người phàm» (Ga 8,15). Chúng ta rất dễ lầm, vì rất nhiều người có vẻ thuộc loại này, nhưng thật sự lại là loại kia.
Biết bao người bề ngoài rất tốt, có nhiều đức tính ưu việt hơn người, nhưng bề trong không phải như vậy. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đưa ra một điển hình cho hạng người này là các ngôn sứ giả: «Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi» (Mt 7,15). Qua câu ấy, Ngài cho biết có những người bề ngoài rất tốt lành, thánh thiện, nhưng bề trong lại ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi mình, và sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Thiên Chúa và tha nhân cho quyền lợi của mình. Sự phân biệt chỉ có thể căn cứ vào bên trong, trong tư tưởng và ý hướng thầm kín của họ, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể biết rõ. Về kỹ thuật và nghệ thuật làm ra vẻ tốt lành, ra vẻ khiêm nhường, yêu thương, thì «con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng» (Lc 16,8). Để che dấu cái xấu bên trong, người ta phải làm ra vẻ tốt bên ngoài.
Trong cuộc đời, chúng ta thấy nhan nhản những người xem ra rất sùng đạo, siêng năng các việc đạo, nhưng tâm hồn lại rất ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới mình, quyền lợi mình. Hoặc nhiều người có vẻ thánh thiện như thiên thần, nhưng trong lòng lại kiêu ngạo không kém gì ma quỉ. Họ có thể làm rất nhiều việc lành phúc đức, hay làm ân làm phúc, nhưng không phải vì yêu thương mà vì muốn mọi người khen thưởng. Trái lại, có những người xem ra khô khan nguội lạnh, ít khoe mẽ, nhưng khi đụng chuyện mới biết họ là người tốt, sẵn sàng hy sinh cho người khác, không nghĩ tới bản thân hay quyền lợi riêng.
Cần biết về hai hạng người này để mỗi người tự xét lấy mình, xem mình đang thuộc loại người nào: ích kỷ hay yêu thương, kiêu căng hay khiêm nhường, coi bản thân hay coi Thiên Chúa và tha nhân là quan trọng. Nếu không hiểu cho tường tận điều này, nhiều khi ta lầm tưởng về chính mình. Ta tự đánh giá mình quá cao vì những đức tính ta có được, vì những việc tốt lành ta đã làm mà ai cũng biết. Nhưng chính thái độ tự đánh giá mình quá cao, tự mãn và coi thường kẻ khác đã khiến những tài năng, nhân đức ta có được trở thành những con số không vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Giống như con số 1.000 hay 1.000.000 mà mất đi số 1 đằng trước. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nơi Mẹ Ma-ri-a sự khiêm tốn: đừng ham trèo cao, đừng tự đưa mình lên. Chính thái độ quên mình, khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân mới làm ta trở nên cao cả. Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con bắt chước Mẹ Ma-ri-a, không ham trèo cao hay ham được trở nên quan trọng hơn người, mà chỉ luôn mong muốn danh Cha cả sáng, mọi người chung quanh được hạnh phúc, đồng thời sẵn sàng xả thân làm điều ấy. Chỉ như thế, con mới thật sự có giá trị trước mặt Cha. Xin cho con biết qui hướng về Cha, lấy Cha làm mục đích, làm trung tâm chứ không phải lấy bản thân con. Xin cho con biết yêu thương để sống tinh thần tự hủy và khiêm nhượng. Nhờ đó con luôn làm đẹp lòng Cha.
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh: 07/10-3
• LỊCH SỬ
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh và sau đó Dòng Tên truyền bà từ thế kỷ XV. Lễ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân Thổ nhĩ Kỳ (Hồi giáo) ở Vịnh Lepanto ngày 7.10.1571.
Sau cuộc chiến thắng quân Thổ nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày 5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho phép mừng lễ này trong toàn Hội Thánh (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh sử Luca trình bày Đức Maria trong hai bức tranh khác hẳn nhau :
1. Maria tầm thường :
• Một thiếu nữ mang tên Maria, một tên bình dân nhiều người có. Trong Tân Ước có ít ra 4 phụ nữ mang tên này : Mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
• Sinh sống tại Nadarét, một thị trấn hầu như vô danh nên Cựu Ước không lần nào nhắc tới.
2. Maria cao sang :
• Thiên sứ gọi Maria bằng những tước hiệu cao sang : Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa.
• Con của Người là Cao cả, Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận...
3. Do đâu một thiếu nữ tầm thường bỗng trở nên cao sang như thế ?
Do sự khiêm tốn của Maria. Người đã thưa “Tôi là nữ tì của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”. Nghĩa là Maria ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi Người, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm theo ý riêng Người.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, “Đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
B. ... nẩy mầm.
1. Trong những người biết khiêm tốn để cho ơn Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ” : Ta đừng sợ những sứ mạng Chúa giao, miễn là ta chịu để cho quyền năng Chúa hoạt động nơi mình.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày trong suốt một năm.
4. “Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”)
5. Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng : nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi :
• Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy ? • Đó là sự ngã lòng. • Tại sao nó cao giá thế ?
• Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác : khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”. (Gospel Herald)
6. Về tiếng “xin vâng” của ĐM :
a/ Vì Thiên Chúa là chủ của vũ trụ và của lịch sử, nên mọi việc trên đời, không việc gì có thể đi ngoài ý Chúa và kế hoạch của Chúa mà êm xuôi được (“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” ; gương ngôn sứ Giôna). Cho nên biết “xin vâng” tức là biết lái con thuyền đời mình thuận theo dòng nước.
b/ Thực ra chữ “fiat” còn có thể dịch đúng hơn, là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Hiểu như vậy, phía chủ động là chính Thiên Chúa. Con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Nói cách khác, con người chỉ việc “buông theo ân sủng”
7. “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm choi tôi” (Lc 1,38)
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng :
• Chào Bà. Bà đã từng làm người. Vậy, theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì ?
- … Là sống cho Chúa.
• Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo Hội ?
- … Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ.
• Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu thì càng bị đối xử bất công. làm sao tìm được sự bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
- … Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét ộc đáo ấy.
• Vậy sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối ?
- … Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất, đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa…
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu, với bí quyết rất nữ tính : “Xin vâng”.
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ như thầm nhắn nhủ : Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tuỳ thuộc vào sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây của cuộc sống như Mẹ Maria (Hosanna)
Đức Ma-ri-a có mong muốn mình trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế không? Ngài: 07/10-4
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Ma-ri-a có mong muốn mình trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế không? Ngài muốn trở nên người thế nào? Hãy xét tính chất «vì Chúa, vì tha nhân, chứ không phải vì mình» trong sự lựa chọn của Đức Ma-ri-a.
2. Hãy tự xét xem thái độ và cách suy nghĩ của mình giống như những phụ nữ Do Thái (muốn được làm mẹ Đấng Cứu Thế) hay giống như Đức Ma-ri-a (chỉ muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng thực hiện những gì Ngài muốn)?
Suy niệm
1. Con người và lập trường phụng sự Thiên Chúa của Ma-ri-a
Thời của Ma-ri-a, người ta tin tưởng và mong chờ Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra là người Do Thái và sẽ trở nên một vị vua oai hùng, Ngài sẽ giải phóng cho dân Do Thái và sẽ trị vì cả thế giới. Vì thế, qua bao thế hệ, có biết bao phụ nữ mơ ước mình được diễm phúc làm mẹ Đấng Cứu Thế. Ôi, còn diễm phúc nào sánh bằng! Rất nhiều phụ nữ lấy chồng với niềm hy vọng được làm mẹ của một vị vua cao sang, để được hơn người, được hưởng vinh hoa phú quí cả đời.
Nhưng Maria lại là một thôn nữ bình dị, không mơ ước gì cao xa, không mộng tưởng trở nên bà này bà kia. Điều quan trọng đối với cô chính là làm sao sống đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, cô muốn hiến trọn cuộc đời để phụng sự Ngài, trở nên nữ tỳ của Ngài. Chính vì thế, khi nghe sứ thần cho biết Thiên Chúa đã chọn cô làm mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng được «Thiên Chúa ban ngai vàng của vua Đa-vít cho», cô đã không tỏ ra quá mừng rỡ như thể điều đó phù hợp với mong ước của mình bấy lâu nay. Trái lại, cô đã nghĩ ngay đến lựa chọn căn bản của mình là sống đồng trinh để tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Phản ứng tự phát của cô chứng tỏ điều ấy: cô thưa ngay với sứ thần: «Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!». Việc cô đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt người thế gian vốn quan niệm hẹp hòi rằng những phụ nữ không có chồng hoặc con con cái là vô phúc. Tuy nhiên, khi biết đó là thánh ý của Thiên Chúa, cô đã dẹp ngay ý riêng của mình để tuân hành: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói».
2. Tại sao Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế?
Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Thiên Chúa không chọn làm Mẹ đấng Cứu Thế bất kỳ ai trong số những người mong muốn điều ấy, mà lại chọn người không hề nghĩ đến điều ấy. Những người mong ước được làm mẹ Ngài, nghĩ cho cùng, chỉ là muốn làm lớn «cái tôi» của mình. Điều quan trọng đối với họ chính là bản thân họ, chứ không phải là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế chỉ là phương tiện để làm «cái tôi» của họ lớn lên. Còn Ma-ri-a, điều quan trọng đối với cô là Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài, chứ không phải là bản thân cô. Đối với cô, Thiên Chúa là tất cả, còn mình chỉ là số không: tất cả mọi tư tưởng, hành vi của cô đều qui hướng về Ngài.
Chính vì sự khiêm nhường, chỉ mong muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài muốn, mà cô là người xứng đáng nhất để Ngài chọn làm Mẹ cho Con của Ngài, cũng là Đấng Cứu Thế.
3. Suy tư về khiêm nhường và quên mình
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, toàn hảo, Ngài có thể làm được tất cả những gì Ngài muốn. Vì thế, khi cần chọn người cộng tác với Ngài, điều quan trọng đối với Ngài không phải là tài năng, đức độ, hay những giá trị mà loài người vẫn đề cao. Trước mặt Ngài, tất cả những nhân đức, tài năng, những việc phúc đức, những điều mà chúng ta thường lấy đó làm hãnh diện, đều chỉ là những con số 0. Hàng chục hay hàng trăm con số 0 đi với nhau vẫn chỉ bằng 0, vô giá trị. Trước mặt Ngài, chỉ có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy mới có giá trị và làm cho những ưu điểm hay việc tốt lành khác trở nên có giá trị. Chúng giống như con số 1 được đặt đằng trước dãy số 0 kia và làm cho những số 0 vô giá trị ấy trở nên đầy giá trị: mỗi số 0 ở đàng sau số 1 đều làm tăng lên gấp 10 giá trị của cả con số đứng trước nó.
Thử xét mà xem, trong tất cả các thụ tạo Thiên Chúa dựng nên, có ai thánh thiện, nhân đức, tốt lành, tài năng, đáng yêu đáng mến cho bằng Tổng Quản Thiên thần Lucifer? Ông là thiên thần sáng láng nhất, tốt đẹp nhất trong hàng ngũ thiên thần. Nhưng ông lại thiếu một điều rất căn bản và nền tảng, đó là tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy. Ông đã coi «cái tôi» của ông quá lớn, lớn hơn cả Thiên Chúa, coi ý riêng của ông hơn cả ý Thiên Chúa. Chính vì thế, tất cả những ưu việt ông có đều thành vô giá trị, chẳng đem lại một lợi ích nào cho ông.
Nếu tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy là con số 1, thì tính ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn người là con số –1 (trừ một), có khả năng biến tất cả những số 0 sau nó thành số âm, nghĩa là biến những ưu điểm mình có trở thành sự ác, thành tai họa cho mình và cho người.
3. Hãy tự xét chính mình: mình thuộc hạng người nào?
Nếu trong thế giới các con số có số âm và số dương, thì trong thế giới con người, có con cái thế gian và con cái sự sáng, có những con người lắm tình thương nhưng cũng có những con người đầy ích kỷ. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu nói lên sự phân loại này (xem Mt 5,45; 13,38; Lc 20,34; Ga 12,36; Rm 8,14; Ep 5,8; 5,11; 1Ga 3,10). Cả hai đều có thể có những đức tính và tài năng ưu việt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ:
– một đằng có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy, nên tất cả những gì họ có, dù là tinh thần hay vật chất, đều nhằm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, không nhằm phục vụ «cái tôi» và lợi ích riêng của họ.
– đằng kia thì ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn tất cả, nên tất cả những gì họ có họ làm, dù là tinh thần hay vật chất, dù là tốt hay xấu, đều nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ «cái tôi» và lợi ích riêng của họ.
Phân biệt được ai là hạng người nào không phải là chuyện đơn giản. Vả lại, đó không phải là việc của chúng ta, mà là việc chỉ dành cho Thiên Chúa. Đức Giê-su đã yêu cầu chúng ta «Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1), nhất là «đừng xét đoán theo bề ngoài» (Ga 7,24) hoặc «xét đoán theo kiểu người phàm» (Ga 8,15). Chúng ta rất dễ lầm, vì rất nhiều người có vẻ thuộc loại này, nhưng thật sự lại là loại kia.
Biết bao người bề ngoài rất tốt, có nhiều đức tính ưu việt hơn người, nhưng bề trong không phải như vậy. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đưa ra một điển hình cho hạng người này là các ngôn sứ giả: «Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi» (Mt 7,15). Qua câu ấy, Ngài cho biết có những người bề ngoài rất tốt lành, thánh thiện, nhưng bề trong lại ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi mình, và sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Thiên Chúa và tha nhân cho quyền lợi của mình. Sự phân biệt chỉ có thể căn cứ vào bên trong, trong tư tưởng và ý hướng thầm kín của họ, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể biết rõ. Về kỹ thuật và nghệ thuật làm ra vẻ tốt lành, ra vẻ khiêm nhường, yêu thương, thì «con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng» (Lc 16,8). Để che dấu cái xấu bên trong, người ta phải làm ra vẻ tốt bên ngoài.
Trong cuộc đời, chúng ta thấy nhan nhản những người xem ra rất sùng đạo, siêng năng các việc đạo, nhưng tâm hồn lại rất ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới mình, quyền lợi mình. Hoặc nhiều người có vẻ thánh thiện như thiên thần, nhưng trong lòng lại kiêu ngạo không kém gì ma quỉ. Họ có thể làm rất nhiều việc lành phúc đức, hay làm ân làm phúc, nhưng không phải vì yêu thương mà vì muốn mọi người khen thưởng. Trái lại, có những người xem ra khô khan nguội lạnh, ít khoe mẽ, nhưng khi đụng chuyện mới biết họ là người tốt, sẵn sàng hy sinh cho người khác, không nghĩ tới bản thân hay quyền lợi riêng.
Cần biết về hai hạng người này để mỗi người tự xét lấy mình, xem mình đang thuộc loại người nào: ích kỷ hay yêu thương, kiêu căng hay khiêm nhường, coi bản thân hay coi Thiên Chúa và tha nhân là quan trọng. Nếu không hiểu cho tường tận điều này, nhiều khi ta lầm tưởng về chính mình. Ta tự đánh giá mình quá cao vì những đức tính ta có được, vì những việc tốt lành ta đã làm mà ai cũng biết. Nhưng chính thái độ tự đánh giá mình quá cao, tự mãn và coi thường kẻ khác đã khiến những tài năng, nhân đức ta có được trở thành những con số không vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Giống như con số 1.000 hay 1.000.000 mà mất đi số 1 đằng trước. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nơi Mẹ Ma-ri-a sự khiêm tốn: đừng ham trèo cao, đừng tự đưa mình lên. Chính thái độ quên mình, khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân mới làm ta trở nên cao cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con bắt chước Mẹ Ma-ri-a, không ham trèo cao hay ham được trở nên quan trọng hơn người, mà chỉ luôn mong muốn danh Cha cả sáng, mọi người chung quanh được hạnh phúc, đồng thời sẵn sàng xả thân làm điều ấy. Chỉ như thế, con mới thật sự có giá trị trước mặt Cha. Xin cho con biết qui hướng về Cha, lấy Cha làm mục đích, làm trung tâm chứ không phải lấy bản thân con. Xin cho con biết yêu thương để sống tinh thần tự hủy và khiêm nhượng. Nhờ đó con luôn làm đẹp lòng Cha
Hoa hồng vốn là hoa của tình yêu. Vì thế mà nhà văn Quyên Di đã đặt: 07/10-5
Hoa hồng vốn là hoa của tình yêu. Vì thế mà nhà văn Quyên Di đã đặt tên cho tập truyện của mình là Hoa Hồng Nhà Kín, gồm mười hai truyện ngắn đầy ắp thương yêu.
Mỗi truyện đều kể về một loài hoa liên hệ tới một người hoa, như hoa huệ, hoa quỳnh, hoa cỏ huyên, hoa sao luân vũ, hoa sử quân, hoa hồng, hoa đào, hoa lan, hoa ngâu, hoa phượng, và ngay cả một loài hoa rất tầm thường nhỏ bé là hoa dừa... Mỗi loài hoa đều đẹp và trân quí khác nhau về màu sắc, mùi hương, dáng nét. Nhưng ngắm nhìn và thưởng thức mười hai bông hoa của Quyên Di tặng thì thấy hoa nào cũng là hoa tình yêu. Như mấy dòng cuối cùng của tập truyện kể về hoa phượng đỏ, “không phải là màu đỏ của máu lửa, đấu tranh, nhưng là màu đỏ của lòng son sắt tin vào điều thiện hảo, là màu đỏ của máu trái tim tuổi trẻ biết Yêu Thương nồng nàn. Màu đỏ hoa phượng, như thế, sẽ tô thắm cuộc sống chúng ta, cho dù cuộc sống ấy có trải qua nhiều gian truân, trôi nổi.”
MUỐN ĂN GẮP BỎ CHO NGƯỜI
Cấy hồng mà nở được hoa tình yêu hạnh phúc lại là cả một nghệ thuật, một bí quyết. Quyên Di đã diễn tả được nghệ thuật và bí quyết này qua một câu chuyện viết về Những Cánh Phượng:
“Có một vị thánh kia, vì quá tốt đẹp nên được Chúa ban ơn cho xem thiên đàng và hỏa ngục ngay khi còn sống. Thiên thần đưa vị thánh đi xem hỏa ngục trước. Đến nơi, ngài thấy hỏa ngục là một căn phòng rấr rộng rãi, trang thiết cực kì sang trọng, mọi người ở trong hỏa ngục đang ngồi vào bàn dự một bữa tiệc vô cùng linh đình. Mọi sự đều vui vẻ, ổn thỏa cả, trừ một việc là thực khách phải dùng đôi đũa dài tới ... một thước để gắp thức ăn. Thế mới phiền, vì cố gắng gắp thì cũng được, nhưng bỏ vào miệng thì khó quá. Có người đưa thức ăn gần tới miệng thì nó lại rớt xuống. Thực là thảm! Bởi vậy, cuối cùng mọi người nhìn nhau buồn chán, và bàn tiệc trở thành vô duyên, đáng ghét, thà không có còn hơn.”
“Thiên thần lại đưa vị thánh đi xem thiên đàng. Tưởng có gì đặc biệt hơn, ai ngờ thiên đàng cũng là một căn phòng có diện tích và cách trang hoàng y như hỏa ngục. Mọi người ở đấy cũng đang ngồi vào bàn tiệc, và họ cũng phải dùng những đôi đũa dài một thước như ở dưới hỏa ngục vậy. Chỉ có một điều khác: ở đây họ ăn uống vui vẻ. Ngạc nhiên, vị thánh nhìn kĩ mới biết nguyên nhân: trên thiên đàng, người ta dùng đôi đua dài một thước gắp thức ăn bỏ vào miệng... người đối diện. Ai cũng làm thế cả nên ai cũng ăn uống vui vẻ. Người ở hỏa ngục không ăn được, vì họ dùng đũa dài một thước cố gắng gắp thức ăn bỏ vào chính miệng mình.”
Câu truyện này thật đúng với kinh nghiệm của người Việt đã trở thành nghệ thuật sống qua bao thế hệ: muốn ăn gắp bỏ cho người. Mình thích miếng thịt bò lúc lắc kia quá phải không? Cách tốt nhất là trở đầu đũa gắp miếng thịt ấy cho người bên cạnh, và lạ lắm, ngay sau đó thế nào cũng có người gắp cho mình một miếng y như vậy. Đã quá chứ! Thì ra muốn dựng xây được tình yêu hạnh phúc thì bí quyết là phải biết cho đi. Ngược lại, chỉ lo vun quén vơ vét vào cho mình thì sẽ chẳng bao giờ thỏa, và tự tạo ra hỏa ngục đầy đọa chính mình và đầy đọa người khác.
THÁNG TRỒNG HỒNG
Tháng mười hàng năm vẫn được truyền thống Công Giáo gọi là tháng Mân Côi, tức là Tháng Hoa Hồng, tháng vun trồng tình yêu. Ngay ngày mồng một đầu tháng có lễ kính một vị thánh trẻ: Thánh Têrêsa, bông hồng nhỏ.
Truyện Hoa Hồng Nhà Kín của Quyên Di kể về mối tình giữa Nga là một người Công Giáo và Khanh là người chưa theo đạo. Nga nhận thánh Têrêsa làm bổn mạng nên rất thích hoa hồng và cũng ước mong trở thành một bông hồng nhỏ, mà phải là hoa hồng nhà kín cơ, nghĩa là phải đẹp một cách kín đáo và thanh thoát. Thảo nào “Khanh đã khám ra ở Nga một vẻ đẹp tuyệt vời khi nàng quì nghiêm trang cầu nguyện, một vẻ đẹp mà nàng không có trong những lúc khác” (trang 104). Chính Nga cũng đã từng dẫn Khanh đến nhà nguyện các sơ Dòng Kín để cầu nguyện, và đặc biệt trong tháng mười, để mua hoa hồng bằng vải các sơ làm rất nghệ thuật tặng những người thân yêu, nhất là Khanh: “Em muốn anh giữ hoa này, trân trọng, như chúng ta đã cùng trân trọng giữ tình yêu chúng ta dành cho nhau”.
Mối tình đẹp vậy mà bị cắt ngang vì một một viên đạn vô tình. Nga đã vĩnh viễn ra đi. Trái tim Khanh như muốn vỡ ra. Trong cơn náo loạn, Khanh đã tìm đến đám táng của Nga. Khi quan tài đã được đưa xuống huyệt, thay vì ném Bông Hồng Nhà Kín Nga tặng hôm nào xuống theo để tiễn biệt, Khanh bỗng ngừng tay lại và thì thầm nói với Nga: “Cho phép anh giữ lại bông hồng này như giữ lại hình ảnh người em Thánh Nữ Thérése. Hãy bắt chướng chị thánh Nga ạ, để làm mưa những bông hoa hồng ơn phúc Chúa xuống cho những người thân, ít là cho anh, người đã từng được em trao tặng bông Hoa Hồng Nhà Kín ngày em còn sống, và đã được em dạy phải trao những đóa hồng yêu thương cho cuộc sống, cho tha nhân. Anh sẽ làm điều đó, mãi mãi trong cuộc đời anh...” (trang 111-112).
TIN VUI THƠM THO CẢ CÕI LÒNG
Giữa đám mây đen u ám và cơn bão vần vũ xoáy đổ nhiều cuộc tình chưa kịp nở mà đọc được Hoa Hồng Nhà Kín, ai mà chả cảm thấy tia nắng mới đang lóe lên. Quyên Di đã nắm bắt được một nguyên tắc rất giản đơn: trong phòng tối hãi hùng, chỉ cần bật lên một đốm lửa nhỏ; trong một môi trường đầy uế khí, chỉ cần một bông hoa như bông huệ của truyện Bông Huệ Trắng của Người Nữ Tu: “mùi huệ thơm ngát tỏa lan, mùi thơm của lòng đạo đức, của những buổi cầu kinh trong nhà nguyện, của tâm hồn thanh khiết...” (trang 35).
Mà nguyên tắc trên thì phát khởi từ Hoa Kinh Thánh, với một sách lược tích cực và tất thắng: “Nếu lòng tin của các con bằng cỡ hạt cải thì các con có thể khiến cây dâu này: bốc rễ lên và trồng xuống giữa biển, cây dâu cũng sẽ vâng lời các con” (Luca 17:6)
Chỉ cần bắt đầu trồng một bông hoa, dù nhỏ bé và tầm thường như hoa dừa, thì sức lan của độ sóng sẽ khởi động một mùa xuân miên viễn. Đó là con mắt bật sáng long lanh trong truyện Hoa Dừa Tím Dưới Chân Đức Mẹ: “Những bông hoa vẫn còn. Đó là thứ hoa dừa tím, một loại hoa rất tầm thường, người ta trồng cho vui bồn bông. Hoa có hai loại: trắng và tím, đều là những màu đơn sơ, khiêm hạ. Hoa dừa mọc rất nhanh, khi bén rễ rồi, lớn lên và lan ra trông thấy. Hoa năm cánh, rất mỏng manh nhưng tươi tắn, nhìn kĩ thì đẹp dịu dàng... Hoa dừa cắm trong bình sành, nở tươi dưới chân Đức Mẹ. Đơn sơ, mộc mạc quá! Nhưng sao chàng thấy đẹp đẽ, lộng lẫy hơn cả ngàn bông hồng trước kia vẫn khoe sắc...” (trang 171-172).
Đọc đoạn trên tôi thấy xúc động, cái vui mọc cánh ở trong lòng. Có gì đâu, chỉ mấy bông hoa dừa nhỏ bé tầm thường, do một cô nữ sinh chưa theo đạo Công Giáo nhưng rất kính yêu Đức Mẹ mang đến. Giữa những hận thù, Quyên Di ngang nhiên nói về những bông hoa tình yêu, về lý tưởng, về sức mạnh nội tâm, về nét đẹp đạo Chúa. Có người nhận xét thế giới Quyên Di trình bày là một thế giới khuyết, chỉ có ánh sáng mà thiếu vắng cái màu đen của đêm tối vẫn luôn rình rập... Nhưng tôi lại thấy khác. Quyên Di đã chuyển được sứ điệp tất thắng của Tin Vui Tình Yêu: Chỉ cần một nút bật sáng, dù rất nhỏ, là phòng tối biến mất. Như thế đâu phải là khuyết mà là đầy tròn. Nút bật nhỏ đó là hoa tin yêu. Vì vậy mà bông hoa nào của Quyên Di cũng đều mang sức mạnh của một nút bật. Như Võ Phiến đã cảm được cái tâm của Doãn Quốc Sỹ trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan:”Trong tác phẩm của ông, nhân vật nào cũng tốt, việc gì cũng có khía cạnh hay. Ông bất lực không tạo nổi người xấu, kể nổi một việc xấu. Đọc sách ông, thơm tho cả tâm hồn”.
Và tôi cũng muốn nhìn Quyên Di như Võ Đình nhìn Doãn Quốc Sỹ: “Sống trong một thời đại mà ngôn ngữ lạm phát thê thảm, mà biết bao con người trở thành hời hợt, trâng tráo, ông nói chuyện ăn ở thanh bạch, tình yêu quê hương, gia đình, bằng hữu, về nhân đạo và danh dự v.v... mà không mảy may e dè, ngượng nghịu. Thiển nghĩ ông thật đáng yêu ở chỗ đó”. (Sao Có Tiếng Sóng...(trang 66).
PHÚT TỊNH TÂM
Đây cũng là “Truyện Mùa Xuân Bông Hoa Nhỏ” của thánh nữ Têrêsa khi kể lại truyện đời mình chỉ là một loài hoa xem ra tầm thường: “Nếu tất cả những hoa nhỏ xíu ấy lại muốn làm hoa hồng cả, thì cảnh thiên nhiên sẽ mất vẻ đẹp lý thú mùa xuân, các cánh đồng sẽ chẳng còn muôn hoa rực rỡ nở...”.
Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã bắt đầu bằng những bông hoa nhỏ qua những chuyện nhỏ bé như vậy, thế mà độ sóng tình đã lan ra cả thế giới: “Thánh nữ Bông Hoa Nhỏ là một mẫu gương lạ lùng nhất, làm những việc nhỏ với một tình yêu lớn, làm những việc bình thường với một tình yêu phi thường. Đó là lý do Ngài đã trở thành vị thánh lớn”.
Mình đang thấy tình yêu rã rời hụt hẫng sao? Mẹ Têrêsa đã chỉ cho cách trồng hoa hồng tình yêu thật đơn giản và thực hành ngay được: để một nụ cười tình thương nở trên môi ngay lúc này. Hãy tặng người bên cạnh nụ cười đó, như trao tặng Chúa Giêsu vậy. Hãy để một bông hồng tình yêu là kinh Mân Côi nở trên môi mỗi tối, nở trên mọi lối đi, bật sáng mọi ngõ tối tâm hồn.
Và xin mượn lời của nhà văn Quyên Di trong Hoa Hồng Nhà Kín mà nói với chính mình: “Hãy làm việc bằng tất cả khối óc, và hãy Yêu Thương bằng tất cả trái tim. Hãy trao những đóa hồng yêu thương cho cuộc sống, cho tha nhân. Như thế sẽ thấy Hạnh Phúc, điều mà biết bao người đi tìm nhưng mấy ai đã thấy”.
Năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha mỗi ngày 13 trong: 07/10-6
Năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha mỗi ngày 13 trong nhiều tháng liên tiếp với lời cảnh báo chúng ta về điều gì sẽ xảy ra nếu nhân loại không quay trở lại với Thiên Chúa.
Thông điệp của Đức Mẹ rất đơn giản: Hãy đưa Chúa Giêsu ngự giữa trung tâm đời ta. Hãy cầu xin lòng thương xót của ngài. Hãy hy sinh và đền tạ vì tội lỗi nhân loại xúc phạm đến Chúa. Và hãy lần chuỗi Mân Côi cho hòa bình.
Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lucia 13/10/1917.
Quan trọng nhất, Mẹ Đầy Ơn Phúc đã mang đến cho chúng ta một niềm hy vọng. Nếu chúng ta lắng nghe ngài, và thực hiện thì lòng thương xót của Chúa sẽ tuôn đổ trên ta.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh cho biết “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”
Cha Stefano Gobbi viết:” Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân.”
“Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
Câu chuyện Truyền Tin là một cuộc trao đổi kỳ diệu giữa sứ thần của Thiên: 07/10-7
Cuộc đối thoại kỳ diệu:
Câu chuyện Truyền Tin là một cuộc trao đổi kỳ diệu giữa sứ thần của Thiên Chúa tức giữa Thiên Chúa và Đức Ma-ri-a. Ta có thể gọi đó là một cuộc đối thoại mẫu mực trong lãnh vực tâm linh, trong chương trình cứu độ. Thiên sứ đến trao sứ điệp của Thiên Chúa cho một thiếu nữ tên Ma-ri-a. Thiên sứ chào mừng một cách rất đặc biệt khiến Ma-ri-a ngạc nhiên và bối rối. Ma-ri-a nói lên thắc mắc của mình với vị khách lạ. Thiên sứ giải đáp thắc mắc và đưa ra một ‘kiến nghị bất ngờ’. Ma-ri-a lại nêu một thắc mắc nữa vì thấy kế hoạch mà thiên sứ đưa ra không ‘ăn khớp’ với kế hoạch của mình. Thiên sứ lại giải thích một lần nữa và chờ đợi sự tán đồng của Ma-ri-a. Ma-ri-a khiêm tốn đón nhận ý muốn của Thiên Chúa để Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng mình: Một cuộc đối thoại kỳ diệu và tuyệt vời mà kết quả là Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su, Ngôi Lời thành xác phàm, thành con một người phụ nữ.
2. Lịch sử cứu độ là lịch sử đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người
Thật ra lịch sử cứu độ là lịch sử của đối thoại. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những biến cố trong Vườn Địa Đàng trước và sau khi nguyên tổ loài người phạm tội. Hoặc chúng ta nhớ lại từng câu chuyện của Áp-ra-ham, của Mô-sê, của các ngôn sứ, các vua thời Cựu Ước….Thiên Chúa không bao giờ áp đặt ý muốn của Ngài, dù ý muốn của Ngài luôn luôn là ý muốn tốt lành, thánh thiện, đem hạnh phúc đến cho con người. Trái lại Ngài luôn tôn trọng sự tự do và quyết định chọn lựa của con người.
Sau này trong cuộc sống công khai rao giảng Nước Chúa, Đức Giê-su cũng có những cuộc đối thoại rất độc đáo mà các Phúc Âm đã ghi lại, chẳng hạn cuộc trao đổi của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, với chị phụ nữ Sa-ma-ri, với chị em Mát-ta và Ma-ri-a. Ngoài ra chúng ta thấy Ngài luôn kính trọng đồ đệ và dân chúng khi Ngài mời gọi họ bước theo Ngài: “Nếu ai muốn theo tôi, thì…..”. Muốn hay không muốn là quyền của từng người trước lời mời gọi chí ái chí tình của Đức Giê-su. Ngài không áp đặt, không ép buộc, không khống chế ai bao giờ. Con đường Ngài chọn là con đường Thiên Chúa đã chọn: con đường đối thoại, trao đổi, bàn bạc với từng người cũng như cả cộng đoàn là dân riêng Ít-ra-en.
3. Con đường đối thoại là con đường hoàn hảo và hợp ý Chúa nhất
Chúng ta có thể nói: “Con đường đối thoại là con đường hoàn hảo và đẹp lòng Chúa nhất”. Hoàn hảo nhất vì trong cuộc đối thoại hai người coi nhau như bình đẳng, như ngang hàng, hai người đều có gía trị, đều đáng được tôn trọng, yêu mến. Không ai áp đặt ai; không ai dạy khôn ai; Cả hai cùng tìm Chân Thiện Mỹ là điều tốt đẹp nhất cho cả hai. Đẹp lòng Chúa nhất vì chính Chúa đã chọn con đường này để giao tiếp với loài người. Vì thế mà các Giáo hội châu Á, từ 30 năm nay và nhất là từ đầu thiên niên kỷ thứ ba này đã chọn con đường đối thoại khi thực hiện sứ mạng Truyền giáo của mình. Trong cụ thể là các Giáo hội Á châu tìm cách đối thoại với các truyền thống tôn giáo, các nền văn hóa và dân chúng Á châu, nhất là người nghèo chiếm đại đa số ở châu Á này ( xem Tông huấn ‘Giáo hội tại châu Á’ chương 5 ).
4. Chúng ta thực hiện đối thoại với ai và như thế nào ?
4.1 Trước hết là chúng ta đối thoại với Thiên Chúa, vì Ngài luôn ngỏ lời với chúng ta. Ngài ngỏ Lời trong Đức Giê-su Kitô, trong Hội Thánh, trong các Bí Tích, trong cộng đoàn, trong cõi thâm sâu của lòng ta và nhất là nơi người nghèo. Đối thoại với Thiên Chúa để chúng ta nghe tiếng Ngài, biết ý muốn của Ngài và để chúng ta đáp lại lời mời gọi của Ngài.
Kế đến là chúng ta đối thoại với những người gần gũi với chúng ta trong gia đình và trong giáo xứ, giáo phận, trong đó có các vị lãnh đạo và anh chị em giáo dân khác để thể hiện và xây dựng tình hiệp thông niềm Tin. Đặc biệt là chúng ta đối thoại với các thành viên Gia đình Khôi bình là những người mà chúng ta coi như anh chị em trong cùng một gia đình để giúp nhau hiểu và sống linh đạo đến nơi đến chốn.
Sau cùng chúng ta tìm cách đối thoại với các tín đồ Đạo Ông Bà, Phật giáo, Hòa hảo, Cao đài, Hồi giáo, với cán bộ cộng sản mà chúng ta có dịp gặp gỡ. Họ là những người có niềm tin hoặc ý thức hệ khác chúng ta; nhưng là đồng bào ruột thịt của chúng ta. Nhất là chúng ta tìm cách đối thoại với người nghèo sống chung quanh chúng ta. Đối thoại để chúng ta hiểu họ và họ hiểu chúng ta, để chúng ta khám phá ra những nét hay đẹp, độc đáo nơi họ và để chúng ta chia sẻ những nét hay đẹp của chúng ta cho họ.
4.2 Chúng ta đối thoại bằng cách lắng nghe, tiếp nhận, cân nhắc, suy nghĩ và trân trọng ý kiến của người đối thoại nhất là khi người đối thoại với chúng ta lại là chính Thiên Chúa. Chúng ta đối thoại bằng cách khiêm tốn, ôn hòa và cởi mở, giãi bày tâm tư, nguyện vọng, hiểu biết, suy nghĩ của mình. Đối thoại với tinh thần ấy sẽ đem lại bình an, hạnh phúc, yêu thương, kính trọng cho chúng ta và người khác. Xã hội này còn nghi kỵ, thành kiến, thế giới này còn chiến tranh bao lâu loài người chưa thực thi đối thoại trong các mối tương quan xã hội, quốc gia cũng như quốc tế!
CẦU NGUYỆN:
“Lạy Thiên Chúa là Đấng đã và còn đang ngỏ lời với loài người, với riêng con... Xin Chúa mở tai, mở lòng, mở trí, mở tay, mở miệng... con, để con nghe được tiếng Chúa nói với con và biết nói lời của riêng con với Chúa !
Xin Chúa giúp con biết đối thoại với những người sống bên cạnh con hoặc có liên hệ mật thiết với con. Để chúng con biết đâu là Ý Chúa mà thực thi, đâu là hạnh phúc thật của chúng con mà cùng nhau cầu xin và tìm kiếm.”
Người ta thường nói “mến Thánh Giá”, nhưng cần thấy rằng cuộc đời mỗi: 07/10-8
Người ta thường nói “mến Thánh Giá”, nhưng cần thấy rằng cuộc đời mỗi người, cách riêng đời kitô hữu thì đúng hơn là vác Thánh Giá mình mỗi ngày theo Chúa Giê-su. Như chính Ngài đã từng dạy các môn đệ: “Ai muốn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác Thánh Giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 ). Tháng Mai Khôi, xin cùng được suy niệm về con đường Thánh Giá Đức Mẹ đi, từ truyền tin đến đồi Gôn-gô-tha. Mong góp vào đây lời kinh dâng Mẹ.
Khởi đi từ Truyền tin Mẹ cưu mang Đấng cứu đời:
“Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” ( Lc 1, 28 ) lời chào của thiên sứ gây nên bối rối nơi lòng Mẹ, kèm theo lời truyền tin sẽ cưu mang và sinh hạ Đấng cứu đời. Một trinh nữ không biết đến chuyện vợ chồng lại mang thai. Lời “xin vâng” như kèm theo thập giá.
Thập giá của Mẹ ở đây, là phải giữ kín bí mật, và có lẽ phải chấp nhận tai tiếng: dư luận xần xì ồn ào mà không một lời giải thích. Rồi phải giữ kín nguồn ân sủng vô bờ Mẹ được Chúa thương ban, và chính Giê-su nguồn ân sủng mà Mẹ cưu mang. Tất cả mầu nhiệm lớn lao đó lại được chứa đựng trong một thụ tạo mõng manh, yếu đuối một người nữ, thuộc phái bị coi là lắm chuyện và không giữ kín được gì. Mẹ không một lời, trước tiếng xì xầm, hay khen ngợi của những người thân cận hay cả kẻ tò mò. Lời “xin vâng”, chứa tràn ân sủng nhưng mặc và mang lấy thập giá của chính Mẹ, từ bỏ mình để chương trình của Chúa thực hiện nơi mình. Và lời đáp trả của Mẹ khi được bà Ê-li-sa-bét ca mừng là lời kinh tạ ơn và dâng trả Thiên Chúa, Đấng nguồn mọi ơn sủng và cũng là lời kinh khiêm hạ – Mẹ chỉ là “là nữ tì, được Chúa đoái thương”, những gì Mẹ được là do Thiên Chúa ban. Trái với cái thường tình của con người mọi xã hội, mọi thời đại mọi công lao lập được là do mình cả, nên họ mãi bận tâm đi tìm mình, thay vì bỏ mình.
Tiếng “xin vâng” của Mẹ như đánh vọng mãi trong lòng ta lời “xin vâng” giao trọn đời mình cho Chúa để được cưu mang Ngài trong cuộc đời mình khi biết lắng nghe lời Chúa dạy và đem ra thực hành, trở nên đền thờ đón Chúa Giê-su mỗi ngày ngự vào lòng ta.
Tuổi thơ của con trẻ Giê-su:
Trong lễ dâng con: Mẹ chấp hành theo luật – khi biết rằng điều nhiệm lạ trong mình, đấng vượt trên lề luật, làm ra lề luật nhưng lại phải lệ thuộc vào luật – để mầu nhiệm nhập thể được nên trọn thì thực quá là tuyệt vời của từ bỏ. Chấp nhận lễ nghi, tập tục tôn giáo hiện thời.
Nhưng Mẹ chưa dừng ở đó, Thánh Giá lại thêm nữa cả gánh nặng và nỗi đau. Trong lời ca khen của Simêon về con trẻ có thêm cả nổi đau con trẻ rồi phải chịu, tê tái thật. Rồi nữa, ông già gần chết được diễn phúc thấy và ẳm ơn cứu độ, lại ghim một lời bén hơn cả gươm: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng - còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu tâm hồn bà – ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” ( Lc 2, 3 4 – 35 ). Mẹ làm gì ? Thưa Mẹ khắc ghi những lới đó và suy niệm trong lòng để hiểu thiên ý nhiệm mầu. Thập Giá, nỗi đau càng nặng hơn. Trước niềm vui và nỗi đau, mỗi người thường nói ra cho hả, cho nhẹ. Còn đàng này Mẹ lại phải từ bỏ và vác lấy Thánh Giá cho mầu nhiệm thập giá nên trọn nơi con Mẹ. Bài học nào cho ta ?
Tuổi niên thiếu:
Rồi 12 năm sau, con trẻ Giê-su lại làm thêm một điều bí nhiệm. Theo cha Mẹ lên đền thờ, rồi như ham chơi không chịu về theo cha Mẹ. 3 ngày hớt hải tìm kiếm đau đớn lòng Mẹ. Để rồi được gì ? Một cảnh tượng tự hào: Giê-su, con Mẹ đang ở giữa các kinh sư để đàm đạo và trả lời xuất sắc những câu hỏi khiến họ thán phục. Nhưng câu trả lời cha mẹ lại có thể nói dưới điểm trung bình: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” ( Lc 2, 49 ). Cha mẹ nào chịu thấu điều này, khi mà phải tìm con trong lo âu vất vả tới 3 ngày ? Có hạnh phúc đó, nhưng câu trả lời này thực sự gây khó chịu. Nhưng phản ứng của Mẹ, là gì ? Là hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng, Không phản ứng mà còn hằng ghi nhớ, đau càng đau thêm, bực càng dễ bực thêm. Nhưng ghi khắc ở đây là Mẹ ghi khắc ý nghĩa của những điều đó, hay là ghi khắc để hiểu nó qua từng ngày. Và điều đó thật là tuyệt vời, giúp Mẹ vượt qua những bực nhọc, đau đớn. Và nơi Mẹ, hình như phải giữ kín ý nghĩa những điều được mạc khải cho riêng Mẹ nơi cuộc đời của Giê-su con Mẹ càng là một Thánh Giá, mà Mẹ phải từ bỏ. Bài học nào cho ta ?
Ba năm cuối, Giê-su rong ruổi truyền rao tình yêu:
Sau khoảng 30 năm yên ổn, Giê-su lên đường, như là bỏ nhà đi để rồi rày đây mai đó, ngủ bờ ngủ bụi, lung tung. Rồi sao nữa: nhiều người theo, nhưng lắm người ghét mà toàn những người có quyền, có chức và nắm quyền sinh sát, Giê-su đang chọc tức giới chức đạo đời, Mẹ nào không lo. Nhưng đau hơn vẫn là dư luận nói con của Mẹ bị điên, bị mát, một kẻ phạm luật.
Chưa hết, Giê-su như có vẻ từ khước cả người thân khi trả lời: “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ? Đó là ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” ( x. Mt 12, 48 – 50 ); rồi rồ hơn khi nghe có người khen Mẹ mình là người có phúc, thì thay vì hảnh diện Giê-su lại nói quả phúc hơn thế nữa người nghe lời ta và đem ra thực hành ( x. Lc 11, 27 ). Nói cách khác, Mẹ như bị con của Mẹ coi không quan trọng bằng các thính giả đang nghe mình. Người Con đó, chỉ có dân đen theo, còn quyền thế thì bực nhọc, tìm cách bắt bẻ, gài bẫy, vu khống và hơn nữa bàn mưu tính kế sát hại.
Trong những ngày Giê-su, con của Mẹ rong ruổi đi rao giảng, Mẹ dõi theo xa xa, muốn lo, muốn can thiệp cũng không thể. May chi trong bữa tiệc cưới ở Ca-na, Mẹ con chuyện trò được vài câu, và có chút gì ảnh hưởng. Có vẻ như trong những vinh quang nhất của con thì Mẹ như lu mờ dần, và khoảng cách Mẹ con cũng xa dần.... Rồi, kết thúc những ngày miệt mài rao giảng tình thương, Giê-su bị bắt, bị đánh đòn màu me đầm đề, và những lời mắng chửi khích bác vang mãi suốt đoạn trường khổ đau. Mẹ cũng chỉ được dõi theo con trong âm thầm. Mẹ nhìn con lặng câm, vất vả vác cây gỗ để thành giá treo mình. Nặng nề, vất vả và đẩm máu. Con đau Mẹ khổ, con ngã làm lòng Mẹ tê tái, buốt đau.
Trên thập giá lưỡi đòng đâm thấu tim con tan nát tim Mẹ:
Cuối cùng, khi mà chỉ còn tiếng thì thào, Giê-su mới như chợt nhớ đến Mẹ đứng ôm Thánh Giá nhìn mình chết dần chết mòn, vội vàng giao trối lại cho Gio-an người môn đệ mình yêu. Con nuôi đổi con ruột, môn đệ đổi cho Thầy... đau ơi là đau ! Mẹ cũng chỉ lặng im không nói gì cả. Lời tiên tri ứng nghiệm. Con Mẹ trọn đường Thánh Giá có thăng có trầm, còn Mẹ chỉ có lặng câm, suy niệm. Một sự đồng công tuyệt vời: con Mẹ bị lưỡi đồng đâm thâu tỏ lộ, còn tim Mẹ tan nát vì tràn ngập nỗi đau không ai chia sớt và không thể chia sớt.
Và chỉ khi mọi sự hoàn tất, và tiếng hát Ha-lê-lui-a vang lên thì mới tỏ lộ ra tim Mẹ: Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Mẹ nên mẫu gương tuyệt với cho mỗi người trong việc từ bỏ mình bằng hai tiếng “xin vâng”. Con đường thập giá là con đường từ bỏ chính mình, vác lấy Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa:
Từ bỏ mình để vâng phục, từ bỏ trong vâng phục, từ bỏ để thuộc trọn và để Thánh Ý Chúa nên trọn nơi mỗi người. Xin cùng cất lên tiếng ca: “Mẹ ơi, xin dạy con hai tiếng xin vâng”.
Năm 1498, quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ chiếm Lepanto, một hải cảng: 07/10-9
Năm 1498, quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ chiếm Lepanto, một hải cảng quan trọng tại Hy-lạp ăn thông ra vịnh Cô-rin-tô. Suốt thời 11 Giáo Hoàng, từ Đức A-lê-xan-đrô VI ( 1492 – 1503 ), đến Pi-ô III ( 1503 ), Giu-li-ô II ( 1503 – 13 ), Lê-ô X ( 1513 – 21 ), A-đri-an VI ( 1522 – 23 ), Clê-men-tê VII ( 1523 – 34 ), Phao-lô III ( 1534 – 49 ), Giu-li-ô III ( 1550 – 55 ), Mac-xê-lô II ( 1555 ), Phao-lô IV ( 1555 – 59 ), Pi-ô IV ( 1559 – 65 ), đạo binh Thánh Giá ủng hộ Giáo Hội đều thất bại không làm sao thắng được quân Thổ.
Thời Đức Pi-ô V khởi sự từ 1566, các phong trào lần hạt Mai Khôi được phát động mạnh mẽ. Ngày Chúa Nhật thứ nhất Tháng 10.1571 tại Rô-ma, Hội Huynh Đệ Mai Khôi tổ chức cuộc rước kiệu trọng thể tôn vinh Đức Mẹ Ma-ri-a. Cùng một lúc, có tin đoàn tàu ủng hộ Đức Giáo Hoàng, gồm có quân Tây-ban-nha, Venise và Gênes, dưới quyền chỉ huy của tướng Don John, người Áo, đã chiến thắng quân Thổ-nhĩ-kỳ tại Lepanto. Ngày ấy là 7.10.1571. Tuy vào các năm sau đó, quân Hồi giáo Thổ cũng đánh trả quyết liệt, nhưng, chính yếu, họ không khôi phục được Lepanto. Và mãi đến 1827, quân Hy-lạp mới làm chủ tình thế. Ngày nay, giữa Hy-lạp và Thổ-nhĩ-kỳ vẫn thường xuyên có xích mích, khi thì chính trị, khi thì quân sự.
Đức Giáo Hoàng Pi-ô V ( 1566 – 72, sau khi qua đời được phong thánh ngày 22.5.1712 ) đã lập lễ kính nhớ thắng trận Lepanto mà ngài gọi là “chiến thắng của chuỗi Mai Khôi”, và đặt tên Ngày 7 Tháng Mười là Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Năm 1671, Đức GH. Clê-men-tê X ( 1670 – 76 ) cho phép cả nước Tây-ban-nha mừng Lễ Mai Khôi, và chính Đức Clê-men-tê XI ( 1700 – 21 ), ban hành Lễ Đức Mẹ Mai Khôi 7.10.1716 cho toàn Giáo Hội Công giáo khắp hoàn vũ. Sau đó, Đức GH. Lê-ô XIII đã ra thông điệp Quod Auctoritate ( 22.12.1885 ) công bố Năm Thánh, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chuỗi Mai Khôi. Ngày 20.9.1887, ngài nâng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi lên lễ nhớ bậc hai, và thêm câu “Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Môi Khôi” vào kinh cầu Đức Bà, gọi là Kinh Cầu Loreto ( Sách Mục Lục Sàigòn, tr. 84 ).
Nhiều giáo hữu vào Hội Đạo Binh Đức Mẹ – Legio Ma-ri-ae, đã biết danh: 07/10-10
Nhiều giáo hữu vào Hội Đạo Binh Đức Mẹ – Legio Ma-ri-ae, đã biết danh Thánh Lu-y Ma-ri-a Mông-pho – Louis Marie Grignion de Montfort ( Thủ Bản Legio Ma-ri-ae, 107, tr. 77 – 78 ). Thánh nhân là “hội viên tuyên truyền mạnh mẽ về Hội Mai Khôi, hội của người tín hữu mỗi tuần tối thiểu lần hột Mai Khôi 150 kinh” hay ba chuỗi Mai Khôi. Theo Thủ Bản Legio Ma-ri-ae ( số 605, tr. 372 ), đây là “một hội có nhiều ân xá nhất, ta cần vào để hưởng cho hết các ơn ích của chuỗi Môi Khôi.” Thánh Mông-pho đã tường thuật, theo tu sĩ Alan de la Roche, việc Đức Mẹ truyền cho Thánh Đô-mi-ni-cô rao giảng chuỗi Mai Khôi như sau:
“Khi thấy tội lỗi quá nặng nề của nhân dân và của quân rối An-bi-gen-xi-an ( Albigeois ), Thánh Đô-mi-ni-cô vào rừng gần Toulouse, Pháp, và cầu nguyện liên miên ba ngày, ba đêm, xin Chúa nguôi cơn giận. Người hãm mình, đánh tội cho đến ngất xỉu. Lúc đó, Đức Mẹ, có ba thiên thần chầu quanh, hiện ra, phán bảo: “Này Đô-mi-ni-cô, con có biết Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh muốn dùng vũ khí nào để cải thiện thế gian chăng ?”... “Thưa Mẹ, Mẹ biết ý Chúa muốn hơn con biết vì Mẹ ở kề bên Chúa Giê-su, Con Mẹ, và Mẹ đồng công chuộc tội loài người chúng con. Mẹ nói: “Phương cách chính là Lời Chào Mừng của Thiên sứ, đá tảng của Tân Ước. Nếu con muốn đạt đến tâm hồn cứng cỏi của người tội lỗi và vượt thắng họ, thì phải rao giảng Kinh Kính Mừng đó.”
Đô-mi-ni-cô trỗi dậy, sốt sắng tìm gặp những người tội lỗi, bằng cách đi thẳng tới nhà thờ chính tòa Toulouse. Bổng có những thiên thần bí mật rút chuông triệu tập dân chúng tề tựu. Khi Đô-mi-ni-cô bắt đầu giảng thì bão táp nổi lên, trái đất rung chuyển, mặt trời trở nên tối tăm, các tia chớp lòe sáng và sấm sét nổ vang khiến cho mọi người hoảng sợ. Nỗi lo sợ càng mãnh liệt khi dân chúng nhìn thấy Đức Bà hiện ra, giơ hai tay lên trời ba lần, xin Thiên Chúa trừng phạt họ, nếu họ không chịu trở lại, cải thiện đời sống, và chạy đến khẩn cầu Mẹ Thiên Chúa hộ phù. Thánh Đô-mi-ni-cô cầu nguyện và rao giảng chuỗi Mai Khôi, rồi cùng với nhịp hùng hồn của người, bão táp lặng dần. Nhân dân thành Toulouse nghe lời người, cùng nhau lần hạt Mai Khôi và thống hối, trở về với Chúa. Được Chúa Thánh Thần soi sáng và Đức Mẹ dạy bảo, Thánh Đô-mi-ni-cô rao giảng chuỗi Mai Khôi suốt đời ngài, vừa giảng vừa lần hạt Mai Khôi, làm gương sáng cho dân Chúa, cho kẻ tội lỗi cũng như cho người theo bè rối, từ thành nọ đến thành kia suốt miền Nam nước Pháp.
Chuỗi Mai Khôi ngày nay mở đầu có một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng tôn vinh Ba Ngôi Thiên Chúa với lòng Tin-Cậy-Mến và kinh Sáng Danh vinh quang Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Với 15 suy ngắm Mầu Nhiệm Vui-Thương-Mừng và lời nguyện Fatima ( Lạy Chúa Giê-su xin tha tội... ), chuỗi Mai Khôi, vừa đọc vừa ngắm là cách cầu nguyện hoàn hảo nhất của người Công giáo.
TRẦN VĂN TRÍ ( Theo The Secret of the Rosary ) tháng 10.2001
Vào thế kỷ mười ba, bèrối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo: 07/10-11
Vào thế kỷ mười ba, bèrối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt điêu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi ? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn ? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc ? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy ?
Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa. Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ : một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào ?
Cha Lacordaire nói :
- Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói : - Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau : Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.
Rồi anh ta kể tiếp :
- Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ . Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ: 07/10-12
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ. Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ. Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy ? Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng. Chữ ấy là: Ma-ri-a, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Ma-ri-a, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Một ngày nọ, thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn. Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói: “Chồng bà đã được cứu thoát !”
Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi: “Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy ?” Cha Vianney cắt nghĩa: “Có Chúa ở giữa chiếc cầu và giòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.” Bà vợ hỏi lại: “Nhưng làm sao có thể như vậy được ?” Thánh nhân bảo: “Đó là một ơn của Đức Mẹ.” Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp: “Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Đức Mẹ ở bên đường. Đức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao ?”
Bé Quang năm nay mới được 6 tuổi, gia đình khá giả, rất hiếu động và nghịch: 07/10-13
Bé Quang năm nay mới được 6 tuổi, gia đình khá giả, rất hiếu động và nghịch ngợm, đang còn học lớp Giáo Lý Khai Tâm ở Nhà Thờ Thái-hà. Một buổi chiều đi dạo với mẹ ở bờ Hồ Tây, Hà-nội, bé thấy một cậu bé trạc tuổi mình đang thích thú đạp chiếc xe đạp nhỏ xíu, đàng sau có gắn thêm hai chiếc bánh con con để giữ thăng bằng. Bé Quang vội níu lấy tay mẹ và nũng nịu xin: “Mẹ, mẹ ơi, mẹ mua cho con một chiếc xe đạp y như thế đi mẹ !” Bà mẹ chỉ muốn trả lời cho con cho xong chuyện nên bảo: “Con à, nếu con muốn quà gì, sao con không viết thư xin với Ông Già No-en, thế nào Ông Già No-en cũng cho con.” Bé Quang tỏ ý không chịu: “Nhưng bây giờ mới là tháng 5, còn lâu mới đến Lễ Giáng Sinh, con thì muốn có ngay chiếc xe đạp để chơi cơ !”
Bà mẹ một lần nữa muốn khất lần vì lo con chơi xe đạp có thể bị ngã, nguy hiểm... Bà sực nhớ có lần nghe giảng trong lễ thiếu nhi, cha xứ DCCT Thái Hà có khuyến khích các cháu viết thư cho Chúa Giê-su, bà liền bảo con: “À này, sao con không thử viết thư xin Chúa Giê-su nhỉ ?”
Bé Quang không nài nỉ gì thêm nữa. Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ, Quang loay hoay lấy giấy bút ra để viết thư cho Chúa Giê-su. Bé viết thật ngắn gọn như thế này: “Chúa Giê-su kính yêu, con là một đứa bé ngoan và con muốn Chúa thưởng cho con một chiếc xe đạp Chúa nhé. Con cưng của Chúa, Bé Quang”
Viết xong, bé Quang đọc đi đọc lại lá thư, gãi gãi đầu ngẫm nghĩ rồi quyết định xé đi, rồi bậm môi viết lá thư khác: “Chúa Giê-su kính yêu, thỉnh thoảng đôi lúc con là một đứa bé ngoan, con muốn xin Chúa khích lệ con bằng cách tặng cho con một chiếc xe đạp...”
Chưa kịp ký tên thì không biết nghĩ ngợi thế nào, bé Quang lại xé lá thư và vít một lá thư khác nữa: “Chúa Giê-su kính yêu, thú thật với Chúa là con cũng chưa ngoan lắm đâu, con chỉ hứa là sẽ ngoan hơn, Chúa có chịu tặng cho con một chiếc xe đạp, được không ạ ?”
Lần này bé Quang cũng vẫn thấy chưa ổn. Bé không biết phải viết làm sao để thuyết phục được Chúa ban cho mình món quà hấp dẫn ấy. Đang băn khoăn do dự thì bất giác, bé nhìn lên bàn thờ Chúa có đặt một pho tượng Đức Mẹ La-vang nho nhỏ. Bé mừng rỡ kê ghế trèo lên, đỡ lấy pho tượng Đức Mẹ, hôn cung kính rồi đem xuống, chạy về giường, giấu luôn Đức Mẹ dưới chiếc gối của mình.
Lần này, bé Quang hăm hở lấy một tờ giấy mới, nắn nót viết lá thư: “Chúa Giê-su kính yêu, nếu Chúa còn muốn trông thấy Mẹ, xin Chúa gửi ngay cho con một chiếc xe đạp để chuộc lại Mẹ. Đứa con nghịch ngợm của Chúa, Bé Quang !”
Bạn ơi, có một lúc nào đấy, bạn thưa với Chúa Giê-su rằng: “Chúa ơi, này đây con đem Mẹ về giấu tận đáy lòng con, trong trái tim con, vì con nhớ ngày xưa, khi sắp chịu chết trên Thánh Giá, Chúa đã trao phó Đức Mẹ cho người môn đệ Chúa yêu dấu đặc biệt rằng: “Đây là mẹ của con” Và kể từ đó, người môn đệ đã rước Mẹ về nhà mình...”
Thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày lễ này vào năm 1573. Mục đích: 07/10-14
Thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày lễ này vào năm 1573. Mục đích là để cảm tạ Thiên Chúa vì người Kitô chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ ở Lepanto - là một chiến thắng nhờ bởi việc lần chuỗi mai khôi. Vào năm 1716, Đức Clement XI đã nới rộng ngày lễ này cho toàn thể Giáo Hội.
Sự hình thành chuỗi mai khôi có một lịch sử lâu dài. Đầu tiên, người ta đọc 150 kinh Lạy Cha để phỏng theo 150 Thánh Vịnh. Sau đó người ta thêm vào tập tục đọc 150 kinh Kính Mừng. Và sau cùng các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu đã được thêm vào trước mỗi kinh Kính Mừng. Mặc dù sự kiện Đức Maria ban chuỗi mai khôi cho Thánh Đa Minh được coi là không có trong lịch sử, việc phát triển hình thức cầu nguyện này là nhờ những người theo Thánh Đa Minh. Một trong những người đó là Alan de la Roche, thường được gọi là "tông đồ mai khôi." Ngài thành lập hội Ái Hữu Mai Khôi đầu tiên trong thế kỷ 15. Vào thế kỷ 16, cách lần chuỗi mai khôi được phát triển như hình thức bây giờ - gồm 15 mầu nhiệm vui, thương và mừng.
Lời Bàn
Mục đích khi lần chuỗi mai khôi là để giúp chúng ta suy tư về các mầu nhiệm cứu chuộc. Đức Piô XII gọi đó là bản tóm lược phúc âm. Đích điểm nhắm đến là Chúa Giêsu - sự sinh hạ, cuộc đời, sự chết và sự sống lại của Người. Kinh Lạy Cha nhắc nhở chúng ta rằng Cha của Đức Giêsu là người khởi xướng sự cứu chuộc. Kinh Kính Mừng nhắc nhở chúng ta hãy cùng với Mẹ Maria suy niệm về những mầu nhiệm này. Các mầu nhiệm đó cũng giúp chúng ta ý thức rằng Mẹ Maria đã và đang kết hợp mật thiết với Con của ngài trong tất cả những mầu nhiệm khi Chúa Giêsu ở trần gian cũng như ở trên thiên đàng. Kinh Sáng Danh nhắc nhở chúng ta về mục đích của mọi sự sống là để vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chuỗi Mai Khôi được nhiều người ưa chuộng vì nó đơn giản. Việc lập đi lập lại những câu kinh quen thuộc tạo nên bầu khí thuận tiện cho việc suy niệm những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu và Mẹ Maria ở với chúng ta trong các niềm vui cũng như sự đau khổ của đời sống. Chúng ta hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta được chia sẻ sự vinh quang của Chúa Giêsu và Mẹ Maria nơi thiên đàng.
Lời Trích
"[Chuỗi mai khôi] đưa ra những mầu nhiệm của Đức Kitô trong một phương cách độc đáo mà Thánh Phaolô đã diễn tả trong Thư gửi tín hữu Philípphê -- tự hạ mình, chịu chết và được siêu tôn (2:6-11)' Tự bản chất, việc lần chuỗi mai khôi đòi hỏi sự nhịp nhàng và đều đặn, giúp người tín hữu suy niệm về những mầu nhiệm cuộc đời của Đức Kitô để gắn bó với Ngài như tâm hồn của Đức Maria, là người gần với Đức Kitô hơn ai hết" (Đức Phaolô VI, Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria, 45, 47).
(*) Theo linh mục Trần Văn Kiệm, chữ Rosary được dịch là Mai Khôi thì đúng nhất, vì chữ Mai có nghĩa hoa hồng và chữ Khôi có nghĩa ngọc đẹp. Những chữ Mân Côi và Văn Côi không được xác thực.
Lời kinh kính mừng của thiên sứ gửi tới Mẹ, cũng là lời kinh chào chúc: 07/10-15
Lời kinh kính mừng của thiên sứ gửi tới Mẹ, cũng là lời kinh chào chúc của toàn thể nhân loại dâng lên Mẹ và qua Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Mẹ là người diễm phúc, bởi vì tâm hồn Mẹ là Đền Thờ Con Thiên Chúa ngự trị. Sẽ không là lời hoa mỹ khi ca ngợi Mẹ, bởi vì chính mẹ đã là Lời tán tụng đẹp nhất nhân loại dâng lên Thiên Chúa. Ca ngợi Thiên Chúa, không là để làm vinh danh Thiên Chúa hơn nhưng lời ca tụng lại là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Con người biết ca tụng vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng biết ca tụng những tâm hồn thánh thiện, những lời ca tụng đó làm cho nhân loại không ngừng mến yêu những vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã dựng nên và ban cho loài người. Lời kinh kính mừng ấy cho nên quy hướng về Thiên Chúa, để cảm tạ, để tri ân. Lòng cảm tạ và niềm tri ân cũng đượm sắc, hương thơm của tâm hồn nhân loại, mang trong mình những dấu ấn của thân xác và tâm hồn mà Thiên Chúa đã tạo dựng. Trong nhân loại, có một con người hoàn toàn dâng lên Thiên Chúa để thuộc về Người và từ đây nhân loại cũng có nhiều tâm hồn muốn quy thuộc về Thiên Chúa.
Lời kinh rất đẹp, bởi lời kinh mang sự hoan hỷ của triều thần thiên quốc và cũng mang niềm hỷ hoan của nhân loại. Niềm mừng vui ấy minh chứng rằng, công trình tạo dựng của Thiên Chúa là một công trình đi lên, luôn hướng về phía trước, cho dù tội lỗi có ngút ngàn, cho dù tội lỗi có làm mờ lối, tình thương yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Nhân loại nhờ đó vẫn ngẩng cao đầu tiến về phía trước, nơi ngọn nguồn ánh sáng của Tình Yêu đưa dẫn. Nơi chốn của tội lỗi nảy sinh một màu hoa trắng diễm lệ, không mang tỳ ố, không mang nét nhơ, không có dấu vết trầy xước của tội lỗi, bởi vì tất cả những mãnh lực của tọi lỗi đều chào thua, khuất phục trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Công trình tạo dựng là công trình yêu thương, Thiên Chúa yêu thương nhân loại và trở thành niềm vui xác tín: “ Đấng toàn năng đã làm cho tôi, biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn”. Thiên Chúa đã yêu thương và từ ấy, giữa những hoang mạc vẫn nảy lên những chồi non xuân sắc : “Trong đầm gì đẹp bằng sen, lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng, nhị vàng bông trắng lá xanh, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”; được Thiên Chúa yêu thương, cuộc đời trở nên diễm phúc, được Thiên Chúa nâng niu giữ gìn, nên từ ấy có một đoá sen hồng nảy lên giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Kính mừng Maria, là lời kinh ca khen kỳ công của Thiên Chúa. Kỳ công mà Người đã thực hiện bằng yêu thương, vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện của trinh nữ Maria, Maria được nên tráng lệ như Đền Thờ của Người trong trần gian. Trong lời kinh ấy có, lời tán tụng của Mẹ, lời chào chúc của thiên sứ, niềm cảm mến tri ân của nhân loại, vẫn đang không ngừng trôi chảy trong suối nguồn ân phúc. Thiên Chúa yêu thương loài người.
Thiên Chúa ở cùng Mẹ, cũng là Thiên Chúa ở cùng trần thế muôn người chúng con. Đây là Tin Mừng cho người thế, đây cũng là Tin Mừng cho hoàn vũ. Các tạo vật được cứu thoát khỏi ách nặng nề tội lỗi, Thiên Chúa xưa kia là vô hình, nay đã hiện diện trong con người trần thế, có một danh gọi là Giêsu, Con lòng Mẹ. Sung sướng quá, ngập tràn quá lời kinh yêu thương! Lời kinh chất đượm những năm tháng mòn mỏi đợi trông, những năm tháng tủi buồn của một thân phận tội lỗi đè nặng. Thiên Chúa, Đấng vô tội đã trở thành tội nhân, để con người được tự do trong ân sủng chan chứa. Lời kinh tuyệt diệu quá, tuyệt diệu trở thành lời kinh tán tụng Thiên Chúa trong một con người mà Thiên Chúa dọn sẵn một lối về vô tỳ tích nơi Đức trinh nữ Maria. Càng xác tín hơn trong lời kinh tán tụng ấy: “Không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được”, từ “ phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.” Thiên Chúa đã ngỏ lời yêu thương, và bình minh của mùa xuân cứu rỗi đã xuất hiện như vầng đông chiếu toả trong miền tăm tối.
Thiên Chúa ở cùng là một Thiên Chúa đồng hành trong lịch sử, Người bước đi cùng với con người qua những lối mờ tăm tối, và thắp lên ánh sáng tin yêu. Maria, là lời kinh cuộc đời bước đi đồng hành với Thiên Chúa. Sẽ ngất ngây bởi ân sủng đầy ứ, từ trong cảm nghiệm sâu xa của Mẹ cũng như cảm nghiệm của hàng lớp người từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ thiên kỷ này sang thiên kỷ kia. Lời kinh cảm tạ đã và đang vẫn không ngừng đọng trên những đôi môi tựa những giọt sương mai vắn dài đọng lại trong buổi sớm. Thiên Chúa ở cùng là một Thiên Chúa trả lại tự do trong ân sủng của con người đã bị đánh mất bởi tọi lỗi. Một Eva cũ đi qua, xuất hiện một Eva mới. Kỷ nguyên của mùa ơn cứu rỗi đã bắt đầu và đã đi vào trong trần thế qua lời thưa “xin vâng” của Mẹ.
Thiên Chúa ở cùng, là một Thiên Chúa toàn năng, toàn năng trong cách thức thực hiện của Người, Người đã dùng một nữ tỳ của nhân loại để mở lối vào vườn hoa xuân. Anh bình minh đã bừng chiếu và vườn hoa cứu rỗi đã tràn ngập ánh sáng. Những cánh hoa của muôn lòng đang mừng vui vì Ngày của Thiên Chúa đã đoái thương.
Đầy ân phước, ngập tràn ân sủng yêu thương. Thiên Chúa đã chuẩn bị nơi Mẹ một công trình tuyệt diệu, công trình “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Không có gì có thể hoen úa được, không có một sức mạnh của tội lỗi nào có thể lấm vào được vì được Thiên Chúa yêu thương. Sức mạnh của yêu thương là vô biên, sự chinh phục của yêu thương là vô lường. Và một cách xác tín như Phaolô mà nói lên rằng “ Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo.” (Rm 8, 35). Thiên Chúa yêu thương và tình yêu của Người là vô song. Mẹ Maria đã đắm mình ở trong tình yêu thương ấy bằng việc “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc3, 51). Ghi nhớ và chiêm niệm ở trong lòng là cách thức đắm mình trong tình yêu của Thiên Chúa, và nhận biết lòng Thiên Chúa yêu thương.
Làm cho cuộc đời này thấm nhuần ơn trìu mến đó cũng một phần nội dung chứa đựng trong “kinh kính mừng”. Trong Lời kinh ấy có Lời của Thiên Chúa đã thành hiện thực, và có lời của nhân loại ước mong đã được thực hiện. Lời kinh ưu ái của lòng thương xót Chúa, đã và đang chạm vào trong cuộc đời này và mùa xuân vĩnh cửu đã từng ngày xuất hiện trong lời kinh trìu mến.
Sẽ là mất mát rất nhiều khi bỏ qua lời kinh diễm phúc này, sẽ là hoang mạc khi dưới mái gia đình thiếu lời kinh kính mừng được vang lên.
Tụng niệm lên lời kinh, lời kinh sẽ là lời chúc tụng lòng yêu thương của Thiên Chúa và là gắn bó suy niệm về những công trình Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đã thực hiện qua các chặng: Vui, Thương, Khó.
Tháng Mân Côi 2001
Mỗi năm Giáo Hội chẳng những cử hành 14 Lễ Kính Mẹ trong cả Giáo Hội: 07/10-16
Mỗi năm Giáo Hội chẳng những cử hành 14 Lễ Kính Mẹ trong cả Giáo Hội hoàn vũ mà còn dành riêng hai tháng để kính Mẹ nữa, đó là Tháng Năm thường được gọi là Tháng Hoa, và Tháng Mười vẫn được gọi là Tháng Mân Côi Đức Bà. Chúng ta cũng nên để ý là, không phải vô ý Mẹ Maria đã chọn Tháng Mười, Tháng Mân Côi, để tự xưng “Ta là Mẹ Mân Côi” đâu nhé. Chắc ai cũng biết, Mẹ Maria hiện ra ở Fatima tất cả là 6 lần, lần nào cũng vào ngày 13 trong tháng, trừ tháng Tám vào ngày 19, vì tháng này ba Thiếu Nhi Fatima bị chính quyền địa phương bắt nhốt điều tra vào chính ngày Mẹ ấn định hiện ra với các em. Thế nhưng Mẹ Maria đã không xưng mình “Ta là Mẹ Mân Côi” ngay từ đầu, ngay từ ngày 13/5, mà chỉ hứa hẹn “Sau này Ta sẽ nói cho các con biết Ta là ai và muốn gì?”. Tới lần hiện ra thứ ba, 13/7, trước khi tiết lộ Bí Mật Fatima, Đức Mẹ mới nói trắng ra cho ba Thiếu Nhi Fatima biết về thời điểm “sau này” là lúc nào, khi Mẹ nói: “Tới Tháng 10 Ta sẽ nói cho các con biết Ta là ai và muốn gì”. Phải chăng chỉ vì Tháng Mười này là Tháng Mân Côi nên Tháng Mười là thời điểm thích hợp để Mẹ tự xưng “Ta là Mẹ Mân Côi”? Tôi không nghĩ thế. Theo tôi, về hoàn cảnh thì đúng, nhưng về căn nguyên thì không. Về hoàn cảnh tức là, vì Tháng Mười là Tháng Mân Côi nên Đức Mẹ lợi dụng thời điểm tháng này để tự xưng mình “Ta là Mẹ Mân Côi” mà thôi. Còn về nguyên nhân sâu xa tại sao Mẹ tự xưng “Ta là Mẹ Mân Côi” trong Tháng Mười này, nếu để ý toàn bộ Biến Cố Fatima và Bí Mật Fatima, thì danh hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” này hoàn toàn liên quan đến vấn đề hòa bình thế giới.
Thật thế, trong Biến Cố Fatima, mỗi lần hiện ra hay trong cả sáu lần hiện ra với ba Thiếu Nhi Fatima, Mẹ Maria đều kêu gọi “các con hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày”. Thế nhưng, mục đích Mẹ muốn và xin ba Thiếu Nhi Fatima “các con hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày” như thế để làm gì? Nếu chú ý những lời Mẹ nói ở Fatima, chúng ta sẽ thấy, mục đích Mẹ Maria thúc giục ba Thiếu Nhi Fatima “các con hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày”, như Mẹ xác định với các em vào ngay lần hiện ra thứ nhất, đó là “để xin cho thế giới được hòa bình và chấm dứt chiến tranh”. Vào lần hiện ra thứ ba, lần hiện ra để tiết lộ Bí Mật Fatima, lần hiện ra quan trọng nhất, Mẹ Maria đã nói rõ hơn về mục đích của việc “các con hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày” thế này: “Ta muốn các con hãy tiếp tục cầu Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn kính Mẹ Mân Côi, mà cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ có một mình Người mới có thể cứu giúp các con mà thôi”. Đến đây, qua lời Mẹ Maria cho ba Thiếu Nhi Fatima biết vào lần hiện ra thứ ba này, chúng ta đã thấy rõ tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” quả thực có liên quan đến hòa bình thế giới. Phân tách lại câu nói rất quan trọng này, chúng ta thấy rõ điều ấy. Trước hết, “cầu kinh Mân Côi hằng ngày” để làm gì? Mẹ Maria cho biết: “để tôn kính Mẹ Mân Côi”. Sau nữa, lý do tại sao phải “cầu kinh Mân Côi hằng ngày để tôn kính Mẹ Mân Côi”, như Mẹ Maria đã nói tiếp: “mà cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh”. Sau hết, lý do tại sao phải “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn kính Mẹ Mân Côi, mà cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh”, như lời Mẹ kết luận: “vì chỉ có một mình Người mới có thể cứu giúp các con mà thôi”.
Đúng vậy, nói đến “Mẹ Mân Côi” là nói đến một quyền lực vô địch, cả về lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên. Về lãnh vực tự nhiên, chúng ta thấy, trong lần hiện ra cuối cùng ở Fatima vào Tháng Mười, tháng Mẹ cho biết “Ta là Mẹ Mân Côi”, Mẹ đã tỏ ra uy quyền của Mẹ trên cả thiên nhiên tạo vật, qua hiện tượng Mẹ đã làm cho mặt trời nhẩy múa trước cả trăm ngàn người chứng kiến, một sự kiện Mẹ báo trước vào lần hiện ra thứ tư, ngày 19/8, là “Ta sẽ làm một phép lạ để mọi người tin vào tháng cuối cùng”. Đó là về lãnh vực tự nhiên, còn về lãnh vực siêu nhiên, quyền năng vô địch của Đấng tự xưng “Ta là Mẹ Mân Côi” như thế nào, chúng ta hãy nghe ĐTC Leo XIII, trong Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883, đã tuyên nhận như sau:
“Thật vậy, được thần hứng và ân sủng hướng dẫn, thánh Đaminh đã thấy trước được rằng việc tôn sùng này (lần hạt Mân Côi) như là một khí giới chiến đấu vô địch sẽ đẩy lui địch thủ, (bè rối Albigensê), khống chế được lòng vô đạo điên cuồng và ngang tàng của họ. Thành quả xẩy ra đúng như vậy. Nhờ phương thức cầu nguyện mới mẻ này, phương thức chấp nhận thi hành theo như Thánh Đaminh sáng lập dòng đề xướng, lòng đạo đức, đức tin và sự hiệp nhất bắt đầu vãn hồi; những dự tính và sách lược của các kẻ lạc đạo tan như mây khói. Nhiều kẻ lạc bước quay trở về con đường cứu rỗi, và cơn phẫn nộ của những kẻ vô đạo bị kiềm tỏa bởi khí giới của những người Công giáo cương quyết chống lại cuộc tấn công của họ”.
Trong cùng đoạn Thông Điệp này, ĐTC Leo XIII còn nhắc lại quyền năng vô địch của “Mẹ Mân Côi” hay của Kinh Mân Côi đối với cả lực lượng võ bị trần gian nữa. Ngài viết:
“Công hiệu và quyền lực của việc tôn sùng này còn được thể hiện trong thế kỷ XVI, khi mà lực lượng hùng hậu của người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe dọa chụp cái gông hoang đường và man rợ lên gần hết cả Âu Châu, Đức Giáo Hoàng lúc ấy là Thánh Piô V, sau khi khơi động lòng nhiệt thành của các vua chúa trong việc cùng nhau tự vệ, đã hăng hái nỗ lực hơn hết trong việc cầu xin Mẹ Thiên Chúa toàn quyền năng thương đến thế giới Kitô giáo. Tấm gương hết sức cao quí này được dâng lên thiên đình, và tất cả hợp một lòng một ý với Ngài lúc bấy giờ. Thế là, sẵn sàng hy sinh mạng sống và máu đào để bảo vệ Đức Tin và quê hương đất nước của mình, các chiến sĩ tín hữu Chúa Kitô hiên ngang đối đầu với địch quân ở gần vịnh Côrintô; trong khi đó, những người không thể đi chiến đấu như họ thì hợp lại thành đạo quân sốt sắng nguyện cầu, hiệp nhất trong lời Kinh Mân Côi liên tục chúc tụng Mẹ Maria, kêu xin Người ban chiến thắng cho thành phần đang chiến đấu của mình. Đức Mẹ cao sang quả thật đã ban ơn trợ giúp. Trong trận thủy chiến gần đảo Echinades, hạm đội Kitô hữu đã đại thắng mà không bị thiệt hại nặng và địch quân hoàn toàn thảm bại. Để tưởng nhớ đặc ân này và để kỷ niệm một cuộc chiến đáng ghi nhớ như thế, vị Thánh Giáo Hoàng này đã muốn lập một lễ tôn kính Đức Mẹ Thắng Trận, một lễ được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII đã đặt cho danh xưng là ‘Rất Thánh Mân Côi’”.
Theo lịch sử, nếu Mẹ Maria, với danh hiệu “Mân Côi”, đã tỏ ra quyền năng vô địch của Mẹ như thế, thì còn thời điểm nào hơn thời điểm xuất hiện chế độ Cộng Sản tại Nga, một chế độ bắt đầu từ Cuộc Cách Mạng Tháng Mười của Đảng Bônsevích do Lênin lãnh đạo, tức từ Tháng Mân Côi, thời điểm Mẹ Maria tự xưng “Ta là Mẹ Mân Côi”. Như thế, sở dĩ Mẹ Maria tự xưng ở Fatima “Ta là Mẹ Mân Côi” vào Tháng Mười năm 1917, năm Cộng Sản Nga Sô chào đời, là vì, “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã chẳng thực sự thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới hay sao, chứ không phải nơi một quốc gia nào thôi, khi Ngài đã xin ĐTC hiệp với hàng giáo phẩm thế giới dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và sau khi ĐTC Gioan Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng quyết liệt này vào ngày 25/3/1984, Nước Nga đã thực sự từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản vào chính ngày Lễ Chúa Giáng Sinh năm 1991? Tuy nhiên, không phải Nước Nga trở lại rồi là hết chuyện, là Sứ Điệp Fatima hết hiệu lực, là việc “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới” đã hoàn tất. Trái lại, như tình hình thế giới cho thấy, sau biến cố Cộng sản Đông Âu đột nhiên sụp đổ một cách nhanh chóng và vô cùng lạ lùng trước mắt thế giới, nhất là sau biến cố Cộng Sản Liên Bang Sô Viết tự giải thể, thế giới tân tiến chúng ta đang sống đây, trong khi tiến đến tình trạng và mức độ toàn cầu hóa về kinh tế và truyền thông, lại bị phân hóa khủng khiếp vì nạn kỳ thị chủng tộc và tôn giáo khắp nơi. Kể từ sau Biến Cố Đông Âu cuối năm 1989, thế giới chúng ta không còn ở trong tình trạng Chiến Tranh Lạnh, tình trạng gầm gừ nhau giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản nữa, mà là ở trong một tình trạng biến động đầy những loạn lạc giữa hai khối Tư Bản và Hồi Giáo, điển hình nhất là những vụ thành phần Hồi Giáo cực đoan chẳng những sát hại Kitô hữu mà còn khủng bố Hoa Kỳ là quốc gia lãnh đạo thế giới tư bản nữa. Phải chăng (?) đây là thời điểm Mẹ Mân Côi sẽ tỏ ra và cần tỏ ra quyền năng của Mẹ hơn bao giờ hết, như những gì Thánh Louis Monfort từ đầu thế kỷ 18 đã viết trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria ở số 59 như sau:
“Theo lệnh của Đấng Tối Cao, Mẹ Maria chính là vị sẽ trang bị cho những người trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô, để vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng, cũng như vương quốc của Tín Đồ Mahomét. Thế nhưng, điều này sẽ xẩy ra khi nào và ra sao? Chỉ một mình Thiên Chúa biết”.
Nếu “vương quốc của người vô đạo” ở đây có thể áp dụng vào trường hợp chế độ Cộng Sản, thì dù chế độ này tuy vẫn còn tồn tại ở một số nơi cho tới đầu thiên niên kỷ thứ ba này, song cái đầu ngạo nghễ của nó là Cộng Sản Liên Bang Sô Viết cùng với bộ ngực tự phụ của nó là Khối Cộng Sản Đông Âu, như lịch sử hiện đại tỏ tường cho thấy, đã bị Trái Tim Mẹ toàn thắng từ cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, đúng như lời Mẹ tiên báo ngay từ ngày 13/7/1917, trước khi Cộng Sản Nga xuất đầu lộ diện, lời tiên báo ở cuối phần thứ hai của Bí Mật Fatima: “Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”. Như thế, nếu “vương quốc của người vô đạo” là khối Cộng Sản đây thực sự đã bị triệt hạ bởi quyền năng vô địch của Mẹ Mân Côi Fatima, thì hai vương quốc còn lại là “vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng” và “vương quốc của Tín Đồ Mahomét”, theo lời tiên đoán của Thánh Monfort trên đây, thứ tự (vương quốc ngẫu tượng trước, vương quốc Hồi Giáo sau) cũng sẽ bị “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm”. Mà “vương quốc của Đấng Tối Cao” đây là gì, nếu không phải được hiện thân nơi Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian, một Giáo Hội đã thực sự, qua ảnh hưởng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, “bao trùm” trên cuộc sụp đổ của chế độ Cộng Sản thuộc “vương quốc của người vô đạo” ở Đông Âu cuối năm 1989 và Liên Sô cuối năm 1991.
Nhưng, nếu lời tiên tri của Thánh Nhân về “vương quốc của người vô đạo” là Khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô đã thực sự ứng nghiệm, thì cũng đã đến thời điểm ứng nghiệm những gì còn lại về hai vương quốc kia. Hiện Tượng một số người thuộc Khối Ả Rập, thành phần thuộc “vương quốc của Tín Đồ Mahomét” ra tay Khủng Bố Hoa Kỳ là đầu não và là thần tượng thuộc “vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng” ngày 11/9/2001 vừa rồi không phải là một dấu chỉ thời đại cho thấy thời điểm ứng nghiệm những gì còn lại về hai vương quốc kia hay sao? Chúng ta hãy chờ xem thời điểm chúng ta đang sống đây, thời điểm hết sức biến động từ thời Hậu Chiến Tranh Lạnh vào đầu thập niên 1990 tới nay, thời điểm mở màn cho một tân thiên kỷ thứ ba Kitô giáo này có phải là thời điểm “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng, cũng như vương quốc của Tín Đồ Mahomét” hay chăng, một Vương Quốc Tối Cao sẽ trị đến qua quyền năng của Đấng tự xưng mình ở Fatima ngày 13/10/1917: “Ta là Mẹ Mân Côi”?
Trong khi chờ đợi những gì sẽ xẩy ra cho hai vương quốc còn lại này, những gì xẩy ra “chỉ một mình Thiên Chúa biết”, chúng ta hãy lắng nghe lời Vị Mục Tử Tối Cao của chúng ta nhắn nhủ chúng ta về mối liên hệ giữa Kinh Mân Côi và hòa bình thế giới trong Buổi Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật 30/9/2001 vừa qua, ngay sau Thánh Lễ Khai Mạc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới lần thứ 10, như sau:
“Tháng Mười là tháng tôn kính Đức Nữ Rất Thánh Maria, Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Tôi mời gọi tất cả mọi người, cá nhân, gia đình, cộng đồng, trong tình trạng quốc tế hiện nay, nếu có thể hằng ngày hãy cầu kinh nguyện Thánh Mẫu Maria này cho hòa bình, để thế giới có thể tránh khỏi cực hình khủng bố ác độc”.
Lễ Các Tổng Lãnh Thần, 29/9/2001
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Ngày 16 tháng 10 năm 2002, đúng vào ngày kỷ niệm năm thứ 25 triều đại Giáo hoàng, Đức: 07/10-17
Ngày 16 tháng 10 năm 2002, đúng vào ngày kỷ niệm năm thứ 25 triều đại Giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi và công bố Năm Mân Côi là thời gian kể từ tháng 10 năm 2002 đến tháng 10 năm 2003. Vì thế mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta phải có những tâm tình đặc biệt khi lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và sống Mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể và Cứu độ bằng con đường thập giá.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Vai trò của Đức Maria trong công trình Nhập thể và Cứu độ của Con Một Thiên Chúa.
Trong cả ba bài Thánh Kinh mà Giáo hội đọc hôm nay đều nói đến vai trò của Đức Maria trong công cuộc Nhập thể và Cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa.
Trong bài Công vụ Tông đồ, Thánh Luca chỉ đơn giản nhắc đến sự hiện diện của Đức Maria giữa các Tông đồ trước và sau biến cố Chúa Giêsu về Trời. Chúng ta có thể nghĩ mà không sợ sai rằng: Đức Maria cũng đã có mặt trên Núi Oliu với Chúa Giêsu và các Tông đồ và Mẹ cũng đã chứng kiến cảnh Con mình được rước lên trời như thế nào. Sau khi Chúa Giêsu biến khỏi tầm nhìn của mọi người thì Đức Maria cùng trở về nhà với các môn đệ yêu dấu của Con.
Trong thư viết cho tín hữu thành Galát, Thánh Phaolô nhắc đến việc Con Một Thiên Chúa sinh ra bởi một phụ nữ. Như vậy thì Đức Maria đóng vai người mẹ của Đức Giêsu. Nhờ có Đức Giêsu cả nhân loại được ơn làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Abba= Cha ơi, được làm kẻ thừa hưởng gia nghiệp của Chúa Kitô.
Trong bài Phúc Am, thánh Luca tường thuật lại sự kiện xẩy ra cho Đức Maria. Sứ thần Thiên Chúa được sai đến để nói cho Đức Maria biết kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa: Đó là việc Chúa Cha muốn Con Một Người sẽ thụ thai làm người trong lòng Đức Maria. Chúa Cha không ép buộc mà chờ đợi sự chấp thuận của Đức Maria trong sự việc quan trọng này. Sau khi đã được sứ thần giải tỏa những khúc mắc chính đáng, Maria nói lời xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
2. Gương sáng của Đức Trinh Nữ Maria đáng chúng ta noi theo.
Người giáo dân thường được khuyến khích noi gương bắt chước Đức Trinh Nữ Ma-ria trong việc thực hành các nhân đức của Người: tin, cậy, mến, trong sạch, khiêm nhường, khó nghèo v.v... Nhưng thiết nghĩ nhân đức lớn nhất của Đức Maria, nhân đức đáng chúng ta học cùng Mẹ nhất, chính là việc Người toàn trí toàn tâm chấp thuận chương trình hay kế hoạch của Thiên Chúa nơi Mẹ. Lời “xin vâng” là cao điểm của sự chấp thuận ấy. Lời “xin vâng” là bản tóm tất cả cuộc đời Mẹ. Với lời “xin vâng” Mẹ để cho Thiên Chúa hành động. Mẹ dâng cuộc đời Mẹ cho Thiên Chúa để Người thực hiện chương trình Cứu độ trần gian. Vì thế mà điều quan trọng nhất đối với mỗi người chúng ta là lắng nghe, khám phá ra ý định của Thiên Chúa về mình và chấp thuận thánh ý ấy và để cho Thiên Chúa hoạt động. Muốn được như thế thì chúng ta phải biết bỏ mình: ý riêng, kế hoạch, quan điểm v.v… của riêng mình và tán thành quan điểm, kế hoạch, thánh ý của Thiên Chúa. Sự thánh thiện Kitô giáo là thế!
3. Mừng kính Đức Mẹ Mân Côi bằng năng đọc, suy niệm và sống Mầu nhiệm Mân Côi.
Trong phần mở đầu Tông Thư Kinh Mân Côi, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Kinh Mân côi kính Đức Trinh Nữ Maria…. Là một lời kinh được vô vàn các vị thánh yêu thích và được huấn quyền khuyến khích. Đơn sơ nhưng sâu sắc, lời kinh này vẫn là lời kinh có ý nghĩa lớn lao vào buổi hừng đông của Ngàn năm thứ ba này, vì mang lại hoa quả thánh thiện. Nó dễ dàng hòa vào cuộc hành trình thiêng liêng của đời sống Kitô hữu, đời sống này sau hai ngàn năm vẫn không đánh mất sự tươi trẻ của buổi ban đầu và cảm thấy được Thánh Thần Thiên Chúa lôi kéo chèo ra chỗ nước sâu (duc in altum) để một lần nữa loan báo và cả đến hô to lên rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu độ, là Đường, Sự Thật và Sự Sống (Ga 14,6), mục tiêu của lịch sử nhân loại và đích điểm mà các khát vọng của lịch sử và văn minh hướng về” (Hiến chế Mục vụ, 45).
Kinh Mân côi, dầu rõ ràng gắn liền với Đức Maria, chủ yếu là một lời kinh lấy Đức Kitô làm trung tâm. Qua vẻ giản dị của các yếu tố, lời kinh có được chiều sâu của toàn bộ sứ điệp Tin Mừng mà ta có thể gọi là một bản tóm lược. Qua lời kinh ấy vang vọng lại lời kinh của Đức Maria, kinh Ma-gnificat ca ngợi việc nhập thể cứu chuộc đã khởi sự trong cung lòng trinh khiết của ngài. Với kinh Mân côi, dân Kitô giáo theo học tại ngôi trường của Đức Maria và được dẫn đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp trên khuôn mặt của Đức Kitô và kinh nghiệm chiều sâu thẳm tình yêu của Người. Qua kinh Mân côi các tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, hầu như qua chính đôi tay của Mẹ Đấng Cứu Thế” (số 1).
Chúng ta hãy thực hiện những lời giáo huấn trên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, để qua Kinh Mân Côi, chúng ta gặp chính Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Cứu độ và để khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, chúng ta ôn lại toàn bộ sứ điệp của Tin Mừng. Đời sống chúng ta sẽ được chan hòa ơn thiêng liêng và sự sống đời đời bên Chúa và Mẹ của chúng ta sẽ được bảo đảm.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha toàn năng và yêu thương, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã thực hiện kế hoạch Cứu độ của Cha khi Cha chọn Đức Maria làm mẹ sinh ra Đức Giêsu Con Cha. Cha đã trân trọng sự ưng thuận của Đức Maria cũng như Cha luôn trân trọng sự cộng tác của chúng con. Xin Cha cho chúng con ơn biết noi gương bắt chước Đức Maria mà nói lời “xin vâng” với mọi ý định, mọi chương trình của Cha.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã sinh ra bởi một người phụ nữ là Mẹ Ma ria. Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng Mẹ để Chúa nhập thể làm người. Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ơn phúc, mà ơn cao trọng nhất là ơn làm con Thiên Chúa và làm mẹ Đấng Cứu Thế. Xin Chúa Giêsu Kitô cũng ban cho chúng con ơn làm con Thiên Chúa, để cùng với Mẹ, suốt đời chúng con ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa và sống tình con thảo với Chúa Cha.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi Trinh Nữ Maria. Xin Chúa Thánh Thần hãy thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho chúng con và nơi chúng con. Lạy Mẹ Maria, lạy Mẹ Mân Côi, Mẹ là Đấng đã nói lời “xin vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Đấng Cứu Thế, xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng oon ơn biết từ bỏ mình mà sống theo tinh thần, đường lối và thánh ý của Thiên Chúa. Amen.
Lạy Mẹ Maria, đời người ai cũng có lúc đẫm một chút mưa rồi lại một chút nắng - tất cả còn: 07/10-18
Lạy Mẹ Maria, đời người ai cũng có lúc đẫm một chút mưa rồi lại một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương...
Con có thói quen đọc kinh Truyền Tin ngay sau khi dâng ngày sáng. Buổi sáng hôm nay cũng thế. Con tung chăn ngồi bật dậy dâng ngày sống cho Chúa và đọc kinh Truyền Tin. Ngoài sân những hạt mưa bụi lất phất bay. Mây đen chắc nhiều lắm, đã năm giờ, trời vẫn còn tối mịt. Mưa bụi trở nên nặng hạt rồi lớn dần. Gần một giờ đồng hồ sau, hạt mưa lại nhẹ nhàng, mong manh...
Cuộc sống của một ngày mới lại bắt đầu. Ngoài kia, chị bán hàng đã bày hàng ở chợ. Những em bé và những người bán dạo vẫn cất lên trong trẻo hoặc khàn đục tiếng rao. Cô công nhân và bác nông dân đã vội vã ra khỏi nhà Và con cảm nhận, vầng tráng họ có lẽ bây giờ đã lấm tấm những giọt nước trong, chắc hẳn không phải giọt nước mưa vô tình để lại...!
Lạy Mẹ dấu ái, mưa đó rồi lại nắng. Chín giờ rưởi ngọn nắng đã lên cao như bù lại buổi bình minh không có. Và dù nắng hay mưa, cuộc sống vẫn tấp nập, vẫn ồn ào. Nó vẫn mang trong mình bao nhiêu nhịp thở của nhân loại, có khi hạnh phúc, có khi buồn thương
Con vào nhà thờ dâng thánh lễ đầu ngày. Nâng cao dĩa thánh mà như thấy cả sự sống nhân loại oằn nặng trên tay mình. Bởi nhận ra sự oằn nặn ấy, mà từng ngày trong thánh lễ, con đã dâng, và sẽ dâng trong hy tế của Chúa Giêsu là niềm vui của người hạnh phúc, dâng những ưu tư về cuộc nhân sinh đang giăng mắc đầy những cảnh đời nghiệt ngã. Con đã và sẽ dâng những mảnh đời rất thực: đó là chính bản thân con, là anh chị em tín hữu và của biết bao nhiêu đồng loại chung quanh. Con đã làm và sẽ làm như thế đến nhịp thở sau cùng của mạng sống con.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời dẫu có mưa, có nắng - tất cả dệt trong con thành nỗi nhớ niềm thương dâng tiến Mẹ.
Nhưng con hiểu mưa nắng không chỉ là hiện tượng của thời tiết đổi thay, mà mưa nắng vẫn rơi trong lòng của cả một kiếp làm người nữa.
Kiếp sống con người có vui, có khổ, có khóc, có cười. Là Mẹ Thiên Chúa, định luật cuộc đời, Mẹ cũng không thoát khỏi. Đọc lại những trang Tin mừng, con cảm nhận sâu xa về niềm đau và nỗi vui của Mẹ. Vừa được báo tin Mẹ sẽ làm mẹ Thiên Chúa, thì sau đó lại bị thánh Giuse hiểu lầm bởi bào thai đang lớn dần. Vui chưa trọn với ngày Con Chúa sinh ra, đã phải khăn gói lên đường di tản vì bạo vương Hêrôđê tìm giết. Khi người con ấy lên mười hai tuổi, có lần lại phải tìm con thất lạc. Và hơn hết mọi đau khổ, biến cố Canvariô đã làm Mẹ tan nát cõi lòng. Nhưng niềm đau lớn thì nỗi vui cũng lớn. Chắc Mẹ đã vui nhiều trong niềm tin vào Con của Mẹ phục sinh. Là Mẹ Thiên Chúa, để đạt tới đỉnh vinh quang, Chúa cũng không để Mẹ đứng ngoài đau khổ. Con hiểu mầu nhiệm cuộc đời là như thế: Có nỗi vui và nỗi buồn làm tăng giá trị.
Mẹ đã xin vâng để rồi tiếp sau đó là cả một đời chấp nhận, không ồn ào, không than vãn. Niềm vui hay nỗi buồn Mẹ đều ghi sâu và suy niệm. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Mẹ không xem thường những biến cố rơi vào giữa đời người, nhưng Mẹ cũng không quan trọng hóa chúng. Mẹ đón nhận cách tự nhiên bằng lòng tin vào sự quan phòng của Chúa. Mẹ đã nội tâm hóa tất cả, đã suy niệm trong lòng tất cả, và Mẹ đã đọc trong mỗi biến cố sự nhiệm mầu mà Chúa muốn tỏ bày nơi Mẹ. Mẹ vĩ đại không nhờ vào sự vĩ đại, lớn lao nơi những công trình trần thế. Nhưng Mẹ vĩ đại chỉ có một điều duy nhất: lắng nghe tiếng lòng. Ở đó, trong im lặng, nơi hoan vu của sa mạc đời mình, Mẹ đã nhận ra ý Chúa. Tiếng nói tự cõi lòng không cất lên chỉ trong một thời, một buổi, mà âm vang cả cuộc đời của Mẹ, vì Mẹ đã giữ kỹ các điều ấy trong lòng1, và mỗi ngày tiếng ấy càng thôi thúc Mẹ khẳng định rõ lời xin vâng bằng chính đời sống của Mẹ.
Vâng! Mẹ là như thế: Tất cả vì tình yêu Thiên Chúa. Hôm nay trong đời sống hiện tại, có khi mưa có khi nắng, mỗi chúng con, dù sống ơn gọi tu trì hoặc sống ơn gọi giữa đời, đều có những ưu tư, khắc khoải trong mỗi trách nhiệm khác nhau của mình. Chúng con biết rằng khi cố gắng chu toàn trách vụ là chúng con cố tạo hạnh phúc cho đời mình. Vì niềm vui không đến tự nhiên nhưng nó phải đến sau vất vả phải không Mẹ. Mưa nắng cuộc đời Mẹ đã đi qua, Mẹ đã cảm nếm, và Mẹ nêu gương cho chúng con khi biết vâng lời chịu đựng. Ngày mỗi ngày dẫu có những lo toan, vất vả, những giọt mưa hay những sợi nắng đan chéo trong đời, chúng con sẽ ấm lòng khi ngước trông lên Mẹ, và học lấy gương của Mẹ.
Thưa Mẹ con muốn lắng nghe tiếng nói của lòng mình. Tiếng nói mà ngoài Chúa ra, chỉ có con là người thứ hai được hiểu. Mưa hay nắng của cuộc đời sẽ làm tiếng nói ấy có giá trị hơn. Vì nếu nhịp sống cứ bình lặng mỗi ngày như nhau có lẽ sẽ buồn chán lắm và con cũng chẳng đọc được giá trị đời mình. Tiếng nói đó sẽ giúp con hiểu ý nghĩa của từng cơn mưa, đợt nắng rơi vào hồn con. Con sẽ được biết và càng biết nhiều hơn nếu mưa trở thành vũ bão, và nắng trở thành nóng rát quay cuồng trong con. Chỉ có quay về với lòng mình, con mới có đủ sức đón nhận. Chúa sẽ nói cho con và nói nhiều lắm khi con biết xua đi những ồn ào của cõi lòng con. Chúa an ủi con. Ngài âu yếm nhìn con và hướng về Mẹ mà bảo: Này là con Bà. Chúa sẽ giải thích cho con hiểu về thánh ý của Ngài: Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta. Trên quảng đường đầy mưa, đầy nắng đó, có Chúa cùng con song hành. Ngài không đánh con đau khi con sai trái, nhưng Ngài nâng con dậy mỗi khi con quỵ ngã. Ngài luôn ở bên con vì Ngài đã hứa rất nhiều lần: Ta sẽ ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế!. Mẹ ơi, con nhớ ngày xưa thiên thần cũng đã từng nói với mẹ: Chúa Trời ở cùng Bà. Vâng! Giống như Mẹ, mỗi người chúng con hôm nay đang mang Chúa trong cuộc đời mình. Nhận ra mình đang mang Chúa - một Giêsu đi qua thập giá để đến vinh quang mới là điều hệ trọng. Mẹ ơi, con hiểu ý nghĩa cuộc đời là khi con chấp nhận ý Chúa dù thương đau hay hạnh phúc.
Lạy Mẹ Maria, đời người ai lại không có lúc đẫm một chút mưa rồi một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương. Xin dâng lên Mẹ tất cả. Xin bàu cử cho chúng con trước mặt người Con yêu dấu của Mẹ. Amen.
Bài Tin mừng Chúa nhật lễ Mân Côi hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình: 07/10-19
Bài Tin mừng Chúa nhật lễ Mân Côi hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đức Ma-ri-a trong bối cảnh của ngày Truyền Tin, khởi đầu cho mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa hiện diện trong cung lòng Đức Nữ trinh, thực hiện chương trình Cứu chuộc nhân loại.
Khác với việc truyền tin cho Da-ca-ri-a, diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giê-ru-sa-lem, xảy ra trong phiên dâng hương Đền thờ của Tư tế Da-ca-ri-a để rồi chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trước hết qua việc “Vị Tiên tri của Đấng Tối Cao” xuất hiện, loan báo Đấng Cứu thế sẽ đến; Sứ thần Gab-ri-el truyền tin cho Đức Ma-ri-a ở một nơi thật khiêm tốn trong “một thành xứ Ga-li-lê” trong gian nhà đơn sơ tại Na-za-rét. Đây là một khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất.
Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Ma-ri-a được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh Lu-ca đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ. Từ Trinh nữ ở đây phải hiểu như thế nào?
Trinh nữ tiếng Hy-lạp là Par-the-nos: chỉ mọi thiếu nữ mặc nhiên được coi là đồng trinh. Điều này càng được khẳng định cách vững chắc trước câu nói của Đức Me với sự thần: “Việc ấy xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”
“Đấng đẩy ân sủng” được coi là danh hiệu của Đức Mẹ, vì được Thiên Chúa đặt tên. Chúng ta thấy kiểu nói này chỉ gặp hai lần trong Kinh thánh (x. Hc 18,17; Ep 1,16) để chỉ đặc sủng của nhà vua và lòng sủng ái của người yêu. Đây chính là ân sủng và lòng ưu ái nhưng không mà Thiên Chúa đã dành cho mẹ Như vậy là, tôn danh cao quý mà Đức mẹ nhận được từ nơi Thiên Chúa một lần nữa cho thấy vai trò hết sức quan trọng của mẹ trong sức điệp Truyền tin cũng như trong suốt chiều dài lịch sử Cứu độ xuất phát từ thánh ý Thiên Chúa.
Trước sứ điệp của sứ thần, chúng ta thấy là Đức Mẹ chỉ bối rối chứ không sợ hãi như trường hợp Da-ca-ri-a. Sự sợ hãi và nghi ngờ pha chút giễu cợt của Da-ca-ri-a đã làm cho ông trờ nên người câm trong suốt thời kỳ vợ ông mang thai. Trái lại, nơi Đức Ma-ri-a, chút bối rối thoáng quạ để rồi Mẹ ra sức để tìm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm mà Mẹ vừa được Thiên sứ mạc khải một cách bất ngờ.
Cũng như Da-ca-ri-a, Đức Mẹ cũng đặt vấn đề với Sứ thần nhưng khác với Da-ca-ri-a, Đức Mẹ không hoài nghi mà xuất phát từ lòng tin đi tìm ánh sáng. Câu hỏi của Đức Mẹ không gì khác hơn là nhằm đưa đến một mạc khải rõ ràng về Chúa Giê-su- Người mà Mẹ phải lãnh trách nhiệm cưu mang và sinh thành dưỡng dục.
Tước hiệu “Con Thiên Chúa” là một tước hiệu mà Kinh thánh Cựu ước và thánh sử Lu-ca dùng để chỉ Đấng Mê-si-a, tức Chúa Giê-su. Điều này cho chúng ta thấy ngay từ đầu của việc truyền tin, Thiên Chúa - qua lời sứ thần- đã mạc khải nguồn gốc Thần linh cũng như mối quan hệ Phụ - Tử từ đời đời của Chúa Giêsu
Qua tiếng thưa “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a cho chúng ta thấy đó chính là thái độ tin kính và mến yêu hơn là thái độ khiêm tốn, vì trong Kinh thánh, được làm tôi tớ Thiên Chúa là một vinh dự. Bằng niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa, Mẹ đã để cho Lời đó được thực hiện qua việc để Con thiên Chúa được trở nên Người giữa muôn muôn người.
Sứ thần Gab-ri-el loan báo việc Chúa Giê-su sinh ra nhằm thực hiện hai lời tiên tri quan trọng đã được loan báo trong Cựu ước:
- Lời thứ nhất của Isaia 7, 14 “Này đây một Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Em-ma-nu-el”
- Lời thứ hai là sấm ngôn của Na-than, Thiên Chúa tuyên bố cùng Đa-vid :”Đối với Ta, nó sẽ là Con… ngai vàng nó sẽ tồn tại mãi mãi. (x. 2 Sm 7,14tt) Mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Đức ma-ri-a như mẫu guơng để noi gương Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa. Cũng như Mẹ và nhờ mẹ, chúng ta phó thác đường đời đầy gian lao vất vả cho Chúa, xin Người hướng dẫn và nâng đờ chúng ta trong mọi sự ngõ hầu danh Chúa được tôn vinh.
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi: 07/10-20
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
Mai Khôi, hay còn được nhiều nơi gọi là Mân Côi, Mai Côi, Môi Khôi, Văn: 07/10-21
Mai Khôi, hay còn được nhiều nơi gọi là Mân Côi, Mai Côi, Môi Khôi, Văn Côi... đều xuất xứ từ tiếng La-tinh là Rosarium có từ thời Trung Cổ, tiếng Ý là Rosario, tiếng Pháp là Rosaire, tiếng Anh là Rosary, có 3 nghĩa như sau: một tràng, một chuỗi, một xâu Hoa Hồng ( Rosa, Rose = Hoa Hồng ); một xâu chuỗi hạt trai, hạt đá quý để đeo quanh cổ người phụ nữ; một vườn Hoa Hồng.
Ngày xưa, tràng chuỗi Hoa Hồng là một hình thức của lễ dâng lên các vị thần linh, hay một vòng hoa quàng vào thân mình người được thiên hạ ngưỡng mộ tôn vinh.
Sang đến Việt Nam, chuỗi Rosarium được người miền Bắc gọi là “Chuỗi Mân Côi”, hoặc “Chuỗi Văn Côi”; riêng người miền Nam và miền Trung lại gọi là “Chuỗi Môi Khôi”. Ngoài mấy cách gọi thông thường của từng địa phương nêu trên, các cha Dòng Đa-minh chi Lyon Pháp, còn có cách gọi là “Chuỗi Mai Khôi”. Cách gọi này hiện nay được khá nhiều người dùng, nhất là các tu sĩ và giới trẻ, đặt thành nhiều bài hát hay viết các bài suy niệm.
Vậy, phải dùng cách gọi nào cho thật đúng trên bình diện ngôn ngữ học và việc đạo đức thiêng liêng của người Công Giáo chúng ta ? Học giả Đào Duy Anh dịch chữ Rosaire của tiếng Pháp trong ba từ gọn lỏn là: “Tràng hạt dài”. Từ Điển Pháp-Việt của nhà xuất bản Thanh Hóa in năm 1994 dịch ra hai nghĩa là: 1. Chuỗi hạt lớn có khoảng 150 hạt, tràng hạt. 2. Kinh lần tràng hạt.
Tổng hợp các từ điển Việt-Nam, Hán-Việt và Trung-Hoa, chúng ta không tìm được từ ngữ nào là “Mân Côi”. Vậy từ đâu mà có tên gọi này, cũng như đã có những cách đọc trại ra, na ná giống nhau ? Thật ra, “Mân” là tên một thứ đá rất đẹp, bên ngoài có vân như ngọc nhưng lại không có giá trị bằng ngọc. Có nơi lại gọi loại đá này là “Văn” có nghĩa là có vân, một thứ đá có vân đẹp. Còn “Môi” hay đọc đúng chính âm là “Mai” lại là tên một thứ ngọc quý màu đỏ. “Côi”, hay còn đọc là “Khôi” chính là tên một thứ đá kém giá trị hơn ngọc ( danh từ ). Ngoài ra, còn một nghĩa khác nữa là hiếm, quý, lạ ( tính từ ). Nếu ghép thành “Mai Côi”, chúng ta còn có thêm ý nghĩa là: một loài hoa rất thơm, sắc đỏ hoặc trắng, nhánh có gai, ngày nay người ta dùng hoa này chưng cất lấy hơi tẩm ướp vào rượu để sản xuất ra một thứ rượu quý nổi tiếng của Trung Hoa, gọi là “Mai Côi Lộ Tửu”, thường được gọi trại ra là “Mai Quế Lộ”. Riêng ông Nguyễn Văn Khôn và ông Đào Duy Anh đều viết đúng chữ “Mai Khôi Hoa” và giải thích đúng là Hoa Hồng. Vậy, chúng ta có thể khẳng định các cách gọi “Mai Côi”, “Mai Khôi” hay “Môi Khôi” đều là những âm Hán tự có nghĩa đích xác là Hoa Hồng, trong khi cách gọi “Mân Côi” lại không bao giờ có nghĩa là Hoa Hồng, mà chỉ là nói đến một thứ đá !
Trong việc đạo đức sùng kính Đức Ma-ri-a, mỗi lời nguyện, mỗi lời kinh là một của lễ xứng đáng, là một đóa Hồng xinh tươi, là một chuỗi Hoa Hồng, là cả một vườn Hồng tuyệt vời mà chúng ta kính cẩn dâng lên Mẹ. Quả là chúng ta không thể dùng từ “Mân” với nghĩa không được cao quý trong “Mân Côi” để tìm lấy một mùi hương ngát thơm lâng lâng bay lên tòa Thiên Chúa được.
Người quân tử quý ngọc, nhưng lại coi thường đá Mân. Thế tại sao chúng ta lại giữ lấy đá Mân thiếu giá trị làm một của lễ cho Mẹ Thiên Chúa ? Chúng tôi chủ trương dùng “Mai Khôi”, hay “Mai Côi”, thậm chí “Môi Khôi” là để thay thế cho từ ngữ “Mân Côi” mà có thể vì chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa, chúng ta đã vô tình quen dùng một cách không xứng đáng với Mẹ Ma-ri-a. Rất mong được các bậc học giả uyên thâm đóng góp thêm nhiều ý kiến chính đáng hầu trang hoàng cho tòa Hoa Thơm của Mẹ.
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình: 07/10-22
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện, Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính: 07/10-23
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không? Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người: 07/10-24
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh mân côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức: 07/10-25
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ . Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho: 07/10-26
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ : Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh : Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
Qua hai sự kiện trên, chúng ta nhận thấy Mẹ Maria rất yêu thương trẻ thơ và đã chọn các em làm sứ giả để chuyển đạt cho thế giới những sứ điệp của Mẹ. Mẹ đã dùng các em để làm nên những việc trọng đại.
Bởi vì kể từ đó cho đến ngày hôm nay, Lộ Đức và Phatima đã trở nên những nơi hành hương sầm uất nhất của Giáo hội và cũng tại hai nơi này, Mẹ đã ban xuống biết bao nhiêu ơn lành hồn xác.
Với kết luận trên, chúng ta liên tưởng tới lời kinh Magnificat của Mẹ ngày xưa, trong đó Mẹ đã xác quyết :
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Thực vậy, nếu ngày xưa Chúa đã chọn Mẹ từ một nữ tì nhỏ bé tầm thường để trở nên Mẹ của Đấng Cứu thế, Mẹ của Thiên Chúa, thì giờ đây Mẹ cũng chọn những em bé đơn sơ để làm nên những việc trọng đại.
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo :
- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và Phanxicô đã thưa lên :
- Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời :
- Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má :
- Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ bảo :
- Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo :
- Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
Chúng ta cũng vậy, như các em nhỏ, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời kêu mời của Mẹ bằng cách siêng năng đọc kinh Mân Côi và cố gắng thực thi tinh thần kinh Mân Côi trong cuộc sống, để chúng ta xứng đáng với tình yêu thương của Mẹ.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng sâu, đến dưới một gốc cây ni-câu. Dưới cây có một: 07/10-27
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng sâu, đến dưới một gốc cây ni-câu. Dưới cây có một cái giếng, nước trong giếng phản chiếu lại mặt trăng, con khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền gấp gáp nói với đồng bạn : "Mặt trăng bị rơi xuống giếng rồi kia, chúng ta nên cùng nhau kéo nó ra khỏi giếng. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người, từng người một bám vào đuôi nhau trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng". Bầy khỉ mặt đỏ từng con, từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì xuống mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt qúa lực chịu của cành cây, chỉ nghe "rắc" một tiếng, cành cây gãy, bầy khỉ mặt đỏ rớt xuống trong giếng giãy giụa mãi không thôi, mặt trăng trong giếng cũng "mất tích" luôn.
Khỉ là loài được gọi là thông minh trong các loài vật, nhưng cũng có những lúc ngu đần hết chổ nói, nhưng cái ngu của loài khỉ không đáng trách, vì nó là...khỉ. Mặt trăng rơi xuống giếng thì không có, nhưng linh hồn đắm trong tội và sẽ rơi vào trong hỏa ngục thì có thật, chuổi Mân Côi là sợi dây liên kết tâm tình của người Kitô hữu với Mẹ Maria, bám vào sợi dây này để cứu linh hồn mình và linh hồn của anh chị em, chính là việc làm thông minh và hiệu qủa hơn là bám vào ô dù của những kẻ quyền qúy ở thế gian. Bầy khỉ mặt đỏ đã chết oan uổng vì đã làm chuyện không có -cứu mặt trăng rơi xuống giếng- nên bị coi là ngu. Cũng vậy, chúng ta cũng sẽ bị coi là ngu, nếu chúng ta không dùng chuỗi Mân Côi như một phương thế đơn sơ mà hữu hiệu để cứu linh hồn mình. Mẹ Maria -Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại- đã rất "thông minh" khi nghĩ đến phương thế nhẹ nhàng mà hiệu qủa này cho con cái của Mẹ, để không một đứa con nào phải hư mất đời đời khi suy tư, chia sẻ mầu nhiệm xuống thế làm người và cứu chuộc của Con Mẹ -Đức Giêsu Kitô- trong chuổi Mân Côi.
Khắp mọi nơi và mọi lúc (trừ đang khi dâng thánh lễ) chúng ta đều có thể lần hạt Mân Côi, kết hợp với Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria, để chúng ta ngày càng trở nên hoàn hảo hơn trong đời sống thiêng liêng, và tốt đẹp hơn trong cuộc sống đời thường.
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống: 07/10-28
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu tron g mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao: 07/10-29
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: " Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng" . Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất , khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC CON ĐỪNG SỢ , THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN"( Ga 16,33 )
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: " Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: " Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng". Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư , La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ:" phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời . Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…"
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ mân côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào ? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa ? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa ? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: " Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con".
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi mân côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu .
"Lạy Chúa,…xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh" ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những: 07/10-30
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương : quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.
Nguồn gốc lễ Mai khôi
Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi
Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào ? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay ! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
Đaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong 07/10-31
Đaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Đaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Đaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.
Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Đaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Đức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Đaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Đaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.
Vào năm 1216, Đức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Đaminh sámg lập mang tên “Dòng anh em giảng thuyết” thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Đaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Đaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.
Trong suốt cuộc sống, Đaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Đức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha Đaminh qua đời tại Bologna bên Italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Đức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Đaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Đức Maria. Đức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Đaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Đaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Đaminh và nói: “Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta”. Nhìn kỹ, Đaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.
Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Đaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý tưởng mà dòng Đaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Đó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đã thuật lại một sự kiện trọng đại trong lịch sử: 07/10-32
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đã thuật lại một sự kiện trọng đại trong lịch sử Cứu độ. Đó là việc Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài xuống loan báo cho một phụ nữ thành Nagiarét biết rằng cô sẽ được diễm phúc làm mẹ Đấng Thiên Sai toàn dân mong đợi. Lời thiên sứ chào người phụ nữ ấy đã được tín hữu công giáo nhắc đi nhắc lại hàng triệu triệu lần hằng ngày. "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà!".
Được tin vui ấy, lẽ ra Đức Mẹ phải vui mừng phấn khởi, nhưng Mẹ lại lo lắng băn khoăn nhiều. Thứ nhất, làm Mẹ Đấng Thiên Sai là một điều quá lớn lao, làm sao một "nữ tì" của Chúa có thể đảm đương nổi? Vả lại, làm Mẹ Đấng Thiên Sai sẽ là chuốc vào mình muôn vàn đớn đau khổ nhục, bởi vì, cũng như các đấng tiên tri đời trước, Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu những chống đối, những bách hại không sao kể xiết, như ngôn sứ Isaia đã loan báo. Nhưng sau khi nghe thiên sứ giải thích một số thắc mắc, sau khi suy nghĩ đắn đo, Đức Mẹ đã chấp nhận lời đề nghị của Sứ thần, cũng chính là lời đề nghị của Thiên Chúa: "Tôi xin vâng như lời thiên sứ dạy". Lời thưa "xin vâng" (Fiat) này phải được hiểu như một câu trả lời tích cực và dũng cảm. Đức Mẹ bằng lòng gánh lấy trọng trách trước toàn dân, mặc dầu Mẹ rất băn khoăn lo lắng. Nỗi niềm lo lắng ấy đã được diễn tả thành lời qua miệng ngôn sứ Simêon, ngày Mẹ dâng tiến con trong Đền thờ: (Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi) "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu để người đời chống báng, còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà..." (Lc 2,34-35).
Phần đông các nhà thần học và chú giải Thánh Kinh đều giải thích tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ như một sự cúi đầu vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhưng một số nhà thần học bênh vực nữ quyền lại chú ý đến việc Thiên Chúa sai sứ giả của Ngài đến tham khảo ý kiến của Đức Mẹ, làm như toàn bộ kế hoạch cứu chuộc nhân loại lệ thuộc vào việc Đức Mẹ có nhận lời làm Mẹ Đấng Thiên Sai hay là không. Và như vậy, Thiên Chúa đã làm gương về việc tôn trọng lẫn nhau trong các mối tương giao. Trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người còn có sự tôn trọng ý kiến, huống hồ trong mối quan hệ giữa những con người với nhau.
Hôm nay là ngày Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Ý Hội Thánh: 07/10-33
Hôm nay là ngày Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Ý Hội Thánh mừng lễ được gợi lên trong ba bài đọc. Lướt qua một lần đọc, ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh Chúa Giê-su.
Bài đọc 1 viết về hoàn cảnh khai sinh Hội Thánh: Chúa Giê-su về trời, dặn dò kỹ lưỡng các Tông Đồ và Môn Đệ phải ở lại Giê-ru-sa-lem đợi chờ Thánh Thần được ban xuống. Cộng đoàn tiên khởi đang sốt sắng cầu nguyện cùng với Đức Ma-ri-a. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”. ( Cv 1, 14 )
Qua bài đọc 2, Thánh Phao-lô kể về Ơn Cứu Độ được ban xuống, ơn làm con cái Chúa được xác định qua việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ sinh hạ Đấng Cứu Độ, cách nào đó ta có thể hiểu Thiên Chúa mở cửa Trời bước xuống cứu độ trần gian. Cửa đó là Đức Ma-ri-a. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” ( Gl 4, 4 – 5 ).
Bài Tin Mừng lộ rõ thái độ Thiên Chúa chúc phúc cho người Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng cứu độ, một cách quá đại độ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Chúa ở cùng Bà” ( Lc 1, 28 ); “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà...” ( Lc 1, 35 ), nhưng cũng rất tôn trọng. Và cuối cùng, người phụ nữ ấy là Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn vâng phục ý Chúa, không phải vì bị bắt buộc mà Mẹ tự do ưng thuận, vì Mẹ quá kính trọng Chúa, buông mình trong tay Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói ( Lc 1, 38 ).
Như vậy ta có thể đi đến ý tưởng này là Phụng Vụ hôm nay mừng Đấng Cứu độ chúng ta, trong chương trình yêu thương của Chúa Cha hiệp với Chúa Thánh Thần, đã tuyển chọn Đức Ma-ri-a để làm mẹ Người. Vì thế Hội Thánh hướng lòng chúng ta ngưỡng mộ Đức Ma-ri-a, để cám ơn Thiên Chúa, và nhắc nhở cho chúng ta con đường đón nhận ơn Cứu độ hữu hiệu.
2. Lễ Đức Mẹ Mai Khôi.
Giữa muôn loài hoa khoe sắc của Vườn Hoa Thiên Chúa, nổi bật Hoa Hồng Mai Khôi chính là Mẹ Ma-ri-a. Bước vào vườn hoa, khách tham quan cứ xúm xít tắc lưỡi trầm trồ bên hoa khôi, Chủ Vườn chúm chím cười ! Trong lịch sử Hội Thánh, việc lần chuỗi Mai Khôi cũng tương tợ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Chúa đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn !”
Điệp khúc vui mừng kính chào Mẹ của tín hữu là tràng chuỗi Mai Khôi. Suốt dòng truyền thống, lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét đã được kéo dài và lặp đi lặp lại nơi miệng tín hữu, như lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Rồi từ đó chuỗi Mai Khôi hình thành, được cổ võ và truyền bá, từ thế kỷ 15. Khi Ki-tô giáo bị lâm nguy, Lòng Tin bình dân gán cho Kinh Mai Khôi sức mạnh giải thoát nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Nên trong lúc có xung đột giữa Hồi Giáo và Ki-tô giáo, thì việc lần chuỗi Mai Khôi càng được thực hành sốt sắng để xin Mẹ Ma-ri-a cầu bầu cho chấm dứt chiến tranh. Và để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Thánh Giá trên quân Thổ-nhĩ-kỳ ở vịnh Lepanto ngày 7.10.1971, lễ Đức Mẹ Mai Khôi được thiết lập do Đức Giáo Hoàng Pi-ô 5 năm 1572 bởi Sắc Chỉ Salvatoris Domini. Lễ này sau Công Đồng vẫn còn giữ cho đến nay.
3. Kinh Mai Khôi, bản toát yếu sách Tin Mừng
Kinh Mai Khôi dẫn đưa chúng ta đến việc chiêm niệm Mầu Nhiệm Cứu Độ trong đó Mẹ Ma-ri-a đã gắn bó chặt chẽ với công trình của Chúa. Như ta biết, trung tâm chiêm ngắm của Chuỗi Mai Khôi là Chúa Giê-su, dầu chúng ta lặp đi lặp lại những lời nói cùng Mẹ... thì cũng như Mẹ, những kỷ niệm về Con Mẹ làm thành chuỗi suy niệm liên tục trong đời Mẹ. Nhưng việc nhắc đến Danh Giê-su cũng liên tục trong lời kinh trở thành trọng tâm cho việc chiêm niệm. Khẩn cầu với danh thánh Giê-su là đường lối cầu nguyện đơn sơ nhất và phổ biến nhất có thể xử dụng ở mọi nơi mọi lúc.
Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương xuyên suốt lịch sử hằng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi”. Tên gọi ấy chứa đựng cả Thiên Chúa, cùng với tất cả chương trình tạo dựng, cứu độ của Thiên Chúa. “Kinh Mai Khôi thuộc về truyền thống tốt đẹp và đáng ca ngợi nhất của chiêm ngưỡng Ki-tô giáo. Được phát triển bên Tây Phương, đó là một hình thức cầu nguyện suy tư điển hình, tương ứng cách nào đó với lời kinh của con tim hay lời kinh kêu tên Chúa Giê-su của tín hữu. Đức Phao-lô 6 trong Tông Huấn Recurrens Mensis October đã viết: “Chuỗi Mai Khôi hầu như là một bản tóm lược Phúc Âm và là hình thức đạo đức của Hội Thánh”.
4. Thông hiệp với Đức Ma-ri-a chiêm ngắm Đấng Cứu Độ
Mẹ Ma-ri-a không ngừng đặt chúng ta trước các Mầu Nhiệm của Con Mẹ và dạy chúng ta chiêm ngưỡng bằng tâm trí của Mẹ. Không ai biết Đức Ki-tô bằng Mẹ Ma-ri-a. Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong sự thông hiệp với Mẹ là cách thế học hỏi từ Ngài để hiểu Đức Ki-tô. Khi chiêm ngưỡng mỗi mầu nhiệm, Mẹ mời gọi chúng ta hành động như Mẹ: “Xin vâng” ( Fiat ). Lý do ta cần suy niệm ơn cứu độ hiệp thông với Mẹ, là vì mục đích đời sống theo Chúa là muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
Việc này đòi hỏi ta phải luôn chiêm ngắm Chúa Giê-su, mà tốt hơn hết là ta chiêm ngắm Chúa Giê-su, như Mẹ Ma-ri-a suốt đời chiêm ngắm Con mình. Những lời nói việc làm của Chúa đã làm cho Mẹ giữ lấy và suy đi gẫm lại trong một tiến trình của Đức Tin, nên ta không lấy đâu làm mẫu mực đời sống Đức Tin cho bằng chọn Mẹ Ma-ri-a. Trong đời sống chiêm ngắm việc Cứu Độ, Mẹ cũng luôn vui mừng khiêm tốn mà chúc tụng ngợi khen Chúa vì những kỳ công người đã làm cho Mẹ và qua Mẹ, cho nhân loại. Có tâm tình nào bằng tâm tình Magnificat và Fiat của Mẹ.
Ngày qua ngày trong cuộc đời tại thế này, ta chiêm ngắm Chúa cùng với Mẹ, nhìn Chúa bằng con tim của Mẹ, và nhìn Mẹ, yêu mến Mẹ để ngày càng trở nên giống Mẹ. Giống Mẹ về đời sống vâng phục Đức Tin, giống Mẹ về tinh sạch trong lòng, giống Mẹ về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su, giống Mẹ hằng là con thảo của Chúa Cha, giống Mẹ luôn ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần.
Nói tắt một lời, đến cùng Mẹ chiêm ngắm Mẹ là ta được ngâp lặn trong sự hiệp thông với Chúa Ba ngôi, là bước chân vào Thiên Đàng; vì thế cho nên ai đọc và suy niệm kinh Mai Khôi thường cảm thấy sự an vui của tâm hồn, vì từ đó Đức Tin mình luôn đuợc toi luyện nhờ hình ảnh của Chúa mình chiêm ngắm. Có Chúa ở cùng như Mẹ thật là có phúc, có Chúa là có quyền năng của Chúa, làm gì ta còn sợ hãi bị bắt nạt bởi quyền lực sự dữ, từ bây giờ và cho đến sinh thì.
Lần chuỗi Mai Khôi, ta đi từ hột này sang hột khác thành một tràng. Trường đời là cả một tràng chuỗi biến cố và sự việc tiếp nối liên tục, cần có Mẹ cùng đi, cần có Mẹ nâng đỡ tiếp sức. Đối với ơn cứu độ Chúa đã thương ban dư tràn nơi Đức Giê-su Ki-tô, cũng từng bước từng bước suốt cuộc đời ta theo gương Mẹ mà đón nhận.
5. Thực hành trong Năm Mai Khôi
Việc đọc kinh Mai Khôi được Đức Giáo Hoàng đương kim xác nhận là việc đạo đức xuyên suốt cuộc đời của ngài. Và cho tới giờ này, trong địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn là Totus tuus: Tất cả cho Mẹ. Trong dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, ngài đã ra một Tông Thư nói về Kinh Mai Khôi, trình bày một cách chi li, và đầy xác tín về công việc đạo đức này và Ngài kêu gọi toàn thể Giáo Hội hãy yêu thích đọc kinh Mai Khôi, ngài còn đề nghị cả một năm từ 7.10.2202 đến 7.10.2003 là một Năm Mai Khôi, để cám ơn Chúa với Ngài và Ngài lưu ý chúng ta quan tâm hai ý cầu nguyện xét thấy là cần thiết hàng đầu, đó là cầu nguyện cho thế giới hòa bình và cầu nguyện cho các gia đình. Quả vậy, bước sang thiên niên kỷ thứ 3, đã xảy ra nhiều cuộc chiến đe dọa toàn cầu. Cũng thế, hiện nay gia đình bị xói mòn bởi khủng hoảng của xã hội, làm cho căn bản gia đình đang bị lung lay.
Còn ít ngày nữa thôi là hết Năm Mai Khôi mà Đức Thánh Cha mời gọi. Không biết suốt 11 tháng qua chúng ta có rục rịch gì cho lời mời gọi này không. Vậy hôm nay mừng Lễ Mẹ Mai Khôi, tôi gợi lại ý thức của mọi ngưỡi về hiệp thông Hội Thánh và vâng phục ý Cha chung, để toàn thể tín hữu rập một tiếng đồng thanh kêu khấn trước tòa Chúa cùng với Mẹ và nhờ Me, cho hòa bình thế giới, cho gia đình sống theo ý định Thiên Chúa từ đầu tạo dựng, mà Đức Giê-su đã dùng ân sủng Cứu Độ của Người để phục hồi.
Gia đình ngày nay coi như qúa bận rộn với nhiều công việc, cha mẹ con cái khó có thời gian đoàn tụ. Có lẻ chỉ có giờ đoàn tụ được là chiều tối ngồi trước Tivi. Và lúc đó mọi người trong gia đình như chỉ đối thoại hay tiếp xúc với những gì xuất hiện trên màn hình. Chớ gì trong thời gian ấy, gia đình tắt Tivi khoảnh khắc, ngồi chung trước bàn thờ, lần hạt chung với nhau y như coi Tivi, nhưng ở đây mọi người sẽ nhìn xem thấy Chúa, với những kỳ công của Người đối với Mẹ và đối với nhân loại.
Và tôi xin kết thúc bằng lời của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2: “Gia đình mà đọc chung Kinh Mai Khôi tạo nên được điều gì đó của bầu khí gia đình Na-da-rét: các thành viên gia đình đặt Đức Giê-su ở trung tâm, họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, họ đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, họ kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.
Hôm nay, Hội Thánh mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Kinh Mân Côi là một sáng kiến đạo đức do: 07/10-34
Hôm nay, Hội Thánh mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Kinh Mân Côi là một sáng kiến đạo đức do Đức Mẹ truyền dạy cho Thánh Đaminh vào cuối thế kỷ 13, để chiến thắng được bè rối Abigeois. Bước sang thế kỷ 16, giữa lúc đoàn quân Công giáo chỉ có một lực lượng yếu kém sông ra chiến trường tại vịnh Lapante, Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tín hữu siêng năng lần hạt Mân Côi để xin Đức Mẹ nâng đỡ phù trì. Và Đức Mẹ đã nhận lời, đoàn quân ô hợp Công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Chúa qua lời bầu cử của Đức Mẹ, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 hằng năm, kỷ niệm ngày chiến thắng.
Ngày nay, nhiều người Công giáo rất thờ ơ với việc đọc kinh Mân Côi. Họ xem đó như là một việc đơn điệu và nhàm chán vì cứ phải lăp đi lặp lại lời kinh Kính Mừng. Thật ra suy nghĩ như vậy là một điều sai lầm. Bời cuộc sống con người vẫn thường có những điều lăp đi lặp lại. Đó còn là một định luật của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta phải hít thở khí trời để sống, phải ngủ nghỉ, phải tắm giặt v.v& Chúng ta cũng thường thì thầm bên tai người mình yêu những lời nói thân quen biểu lộ tình yêu của mình.
Cũng vậy lời kinh Mân Côi rất thân quen với mỗi người Kitô hữu. Đó là những lời kinh dễ đọc, dễ nhớ và phổ biến với mọi người. Đọc kinh Mân Côi là một nhu cầu thiết thực trong đời sống đức tin của chúng ta. Dấu hiệu cho biết đời sống đức tin của chúng ta có phát triển là việc chúng ta có đọc kinh Mân Côi hay không. Hằng ngày qua lời kinh Mân Côi chúng ta thân thưa với Đức Mẹ những lời yêu thương ngọt ngào của một người con. Đồng thời chúng ta xin Mẹ trợ giúp cho chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn. Cứ thế kinh Mân Côi là hành trang không thể thiếu trên hành trình về quê trời của người Kitô hữu. Như lời kinh Kính Mừng như chúng ta thường cầu xin “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
Như thế chúng ta tin rằng Mẹ Maria luôn ở bên cạnh mỗi người để lắng nghe nhũng lời chúng ta cầu xin, Mẹ đồng hành với chúng ta suốt cuộc đời. Hay nói theo Cha Lacorciare : “Con đường đảm bảo nhất tiến về quê hương nước Trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà già luôn có cỗ tràng hạt trong tay”.Thế nhưng cỗ tràng hạt không phải là một đặc ân được dành riêng cho các bà già, trái lại mỗi người Công giáo chúng ta, không phân biệt già hay trẻ, nam hay nữ, linh mục tu sĩ hay giáo dân hãy đọc, suy gẫm và sống mầu nhiệm Mân Côi.
Qua lời kinh Mân Côi chúng ta học sống theo gương Đức Maria, để mặc lấy hành động và tâm tình tín thác của Đức Maria vào nơi Thiên Chúa. Kinh Mân Côi đưa chúng ta đến những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời của Đức Mẹ năm xưa. Chúng ta vui mừng khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Chúng ta khổ đau cùng Chúa khi bước tới đỉnh đồi Canvê. Chúng ta hân hoan trong ngày Chúa Phục Sinh. Sống theo gương Đức Mẹ chúng ta chắc chắn sẽ là những người con thảo của Cha trên Trời. Học theo gương Đức Mẹ chúng ta xin vâng theo Thánh Ý của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều Ngài hứa ban. Lời kinh Mân Côi có một sức mạnh Chúa ban để chúng ta đương đầu với mọi thế lực của mọi sự giữ, để chúng ta phấn đấu sống tốt hơn. Bởi thế mà, từ xưa tới nay có biết bao nhiêu người mẹ già sớm tối lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho con đang chinh chiến ở chiến trường máu lửa. Các bà được an ủi phần nào trong tình cảnh không biết con mình sống chết ra sao.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta biết siêng năng lần chuỗi Mân Côi để được Mẹ Maria gìn giữ chở che trong mọi khó khăn của cuộc sống lòng tin.
Nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi, cũng là những ngày đầu tháng Mân Côi, tôi muốn điểm qua những: 07/10-35
Nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi, cũng là những ngày đầu tháng Mân Côi, tôi muốn điểm qua những giáo huấn của Giáo Hội trong hai năm gần cận nhất có liên quan đến kinh Mân Côi đi liền với lòng sùng kính Đức Maria của Huấn quyền và của cả Giáo Hội. Qua đó giúp chúng ta cảm nhận tầm quan trọng của kinh Mân Côi.
Giữa thảm trạng của nền hòa bình thế giới bị đe dọa, là người yêu chuộng sự hiếu hòa, Đức Thánh Cha tìm đủ mọi cách mong cứu vãn những bất ổn liên tục xảy ra trên thế giới. Một trong những phương thế mà Đức Thánh Cha thực hiện, đó là cầu nguyện với Kinh Mân Côi và kêu gọi mọi thành phần con cái Giáo Hội hãy siêng năng cầu nguyện cho hòa bình bằng lời kinh hiệu nghiệm và thánh thiện này.
Chẳng hạn, trưa ngày 29.9.2002, trong giờ đọc kinh Truyền Tin trước đông đảo khách hành hương đang hiện diện, Đức Thánh Cha ngỏ lời với họ về tầm quan trọng và chiều sâu của kinh Mân Côi để khuyến khích: Mỗi người hãy đọc kinh Mân Côi, mỗi gia đình và các cộng đoàn Công giáo đọc chung với nhau mỗi lần nhóm họp. “Tôi tin tưởng hòa bình sẽ tái lập khi kinh Mân Côi được đọc và suy gẫm. Chúng ta đang đứng trước một thế giới đầy nguy cơ về nhiều phương diện… Nhưng ai có thể đem lại hòa bình? Chỉ một mình Chúa mà thôi! Hãy cầu nguyện liên lỉ cho hòa bình thế giới nhờ Chúa Giêsu Kitô. Trên phương diện này, kinh Mân Côi đáp ứng rất hữu hiệu. Khi đọc kinh Mân Côi là kêu cầu Chúa ban ân sủng, là gieo rắc mầm mống sự tốt, mà kết quả là công bình và đoàn kết giữa cá nhân và tập thể như chúng ta mong muốn… Hòa bình sẽ đến trong gia đình, khi gia đình đó đọc chung Kinh Rất Thánh Mân Côi”.
Trong những ngày vui mừng kỷ niệm tròn 24 năm phục vụ Giáo Hội trên tòa thánh Phêrô của mình, tháng 10.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II long trọng tuyên bố một năm kinh Mân Côi (10.2002-10.2003), để tạ ơn Thiên Chúa và tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Đức Thánh Cha sung sướng reo lên: “Lạy Mẹ rất thánh, con tin cậy Mẹ và con tuyên bố với Mẹ: Tất cả con là của Mẹ! Tất cả con là của Mẹ! Amen” (lời cầu nguyện nhân dịp về thăm quê hương Balan tháng 10.2002).
Nhân dịp năm Thánh Mẫu Mân Côi, ngày 16.10.2002, Đức Thánh Cha ban hành Tông thư về kinh Mân Côi. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tông thư, Đức Thánh Cha chỉ xoay quanh một trục chính là Chúa Kitô. Từ đó cho thấy kinh Mân Côi có tầm quan trọng trong đời sống người tín hữu, trong thế giới và trong Giáo Hội:
- Giữa thế giới đầy hận thù và khủng bố, kinh mân Côi là vũ khí đem lại hòa bình.- Giữa cả một não trạng tẩy chay đời sống cầu nguyện, coi thường việc lần chuỗi, kinh Mân Côi là cách thế hữu hiệu để nên thánh.- Giữa những trào lưu chống đối Thiên Chúa, đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, kinh Mân Côi là cách thế hữu hiệu chiêm ngắm các mầu nhiệm Kitô giáo, đặc biệt là mầu nhiệm Chúa Kitô.
- Giữa những đổ vỡ, những rạn nứt của biết bao gia đình, kinh Mân Côi là vũ khí để các gia đình tìm lại sự bình an cho mình.Lần khác, tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha nhắn nhủ: “Kinh Mân Côi là một sự chiêm ngưỡng gương mặt Chúa Kitô hiện thực, qua con mắt Đức Maria. Do đó đây là một kinh nằm trong chính trung tâm Tin Mừng… Bởi vậy, để bắt đầu đi vào chiều sâu của ngàn năm mới, Giáo Hội hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa Kitô nhờ lời kinh thuộc về trung tâm Tin Mừng này”.
Ngoài ra, từ hàng trăm năm, cả đến ngàn năm, Giáo Hội vẫn không ngừng mời gọi con cái mình hãy siêng năng lần chuỗi. Vì đó là lời kinh thấm đẫm tinh thần Tin Mừng. Đó cũng là lời kinh huyền nhiệm mà tất cả những ai yêu mến và sống với nó, nó sẽ làm cho người đó càng yêu mến Chúa nồng nàn và cũng sẽ dễ dàng nhận lãnh tình yêu vô cùng của Người.Đó là giáo huấn thuộc về Giáo Hội hoàn vũ. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đề cao việc sống chuỗi Mân Côi cùng với lòng yêu mến Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, vì thế đã cho phép cử hành lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày Chúa nhật (mặc dù chỉ ở bậc lễ nhớ).
Các vị thánh trong Giáo Hội đã để lại cho chúng ta những tấm gương tuyệt vời về đời sống gắn liền với chuỗi Mân Côi và sống các mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Ta không thể hiểu được khi nói đến một vị thánh nào đó, không bao giờ lần chuỗi mà lại gọi là thánh. Nói như thế để thấy rằng, các vị thánh luôn luôn gắn liền đời mình với chuỗi Mân Côi.Dĩ nhiên, không phải chỉ có chuỗi Mân Côi mới là phương tiện giúp ta nên thánh.
Cùng với nhiều phương tiện khác nhau như: chuyên chăm suy niệm và học hỏi Lời Chúa, sốt sắng tham dự Phụng vụ, siêng năng lãnh Bí tích, bố thí, hy sinh, chay tịnh, học giáo lý…, chuỗi Mân Côi góp phần đưa ta đến đời sống thánh thiện như Chúa đã mời gọi: “Các con hãy thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 6, 48).Chuỗi Mân Côi giúp ta chiêm ngắm và học tập các nhân đức của Đức Mẹ: khiêm nhường, yêu thương, suy tư, vâng phục, sống nội tâm, bác ái, chấp nhận nghịt cảnh, tin tưởng, phó thác… Đó là những nhân đức Mẹ đã thể hiện qua từng giai đoạn của cuộc đời Chúa Cứu Thế mà các mầu nhiệm: Vui, Sáng, Thương, Mừng gợi lên trong ta khi suy niệm. Chuỗi Mân Côi còn là con đường dẫn ta đến cái nhìn nội tâm chiêm ngưỡng Chúa Giêsu nhờ kết hợp cùng Đức Maria.
Cùng Mẹ, ta chiêm ngắm Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Chúa. Bởi đã không ai chiêm ngưỡng Người cách say sưa như Mẹ. Mẹ là một gương mẫu lớn lao về việc trung thành chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Giêsu. Mẹ hướng về Người ngay từ lúc truyền tin, khi cưu mang Người nhờ Chúa Thánh Thần, hạ sinh Người tại Bêlem, hoang mang khi tìm Người thất lạc có đến ba ngày liền. Mẹ như xuyên thấu tâm tư của Người khi cầu nguyện tại tiệc cưới Cana. Trong đau khổ đến quay quắt và quặn thắt nỗi lòng, Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết tan thương của Người trên thánh giá. Mẹ cũng đã tỏ rạng niềm vui phục sinh khi Người từ cõi chết sống lại. Sự chiêm ngưỡng ấy càng trở nên rực cháy vì được tràn đầy Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống.
Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng Hội Thánh để làm cho Người lớn lên trong lòng thế giới. Học lấy cái nhìn chiêm ngắm của Mẹ nơi các mầu nhiệm Mân Côi, ta sẽ thêm lòng yêu mến Chúa Giêsu và yêu Chúa như Mẹ.Được diễm phúc sống cùng Chúa Con, sinh dưỡng, bồng bế, dõi theo Người suốt cả đời, do đó chỉ có Mẹ mới là người hiểu Chúa hơn ai hết. Vì thế qua chuỗi Mân Côi, ta đến với Mẹ, nhờ Mẹ đưa ta đến cùng Người Con Một yêu quý ấy là điều quý giá và khôn ngoan. Chắc chắn đó cũng là cách làm đẹp lòng Chúa, vì Chúa rất mực yêu quý Đức Mẹ.
Hơn thế, Chúa đã ban tặng Mẹ của Người cho ta, đặt Mẹ trên địa vị cao trọng là vì ta, nhằm mang lại lợi ích cho ta. Chúng ta hãy gởi gắm mọi nỗi sướng vui, buồn phiền, cả vận mạng đời đời của mình cho Mẹ qua việc sống kinh Mân Côi. Giữa một thế giới vẫn còn những loạn lạc. Đây đó còn khủng bố, chiến tranh, chém giết, bắt cóc làm con tin, nổ bom tự sát…, người tín hữu càng được mời gọi dấn thân hơn nữa trong đời sống cầu nguyện. Và lời kinh Mân Côi vẫn là lời kinh thích hợp nhất để người tín hữu kêu cầu Mẹ nhân từ của mình, Đức Nữ Vương ban sự bình an, tuôn đổ ơn hòa bình cho thế giới, giúp nhân loại sống trong trật tự mới của lòng yêu thương và xóa bỏ hận thù, nâng đỡ mọi người trong an vui hạnh phúc.
Cũng vậy, hòa bình trong lòng mỗi cá nhân vẫn thường xuyên bị đe dọa do mang nhiều nỗi sợ hãi khác nhau, do vắng bóng tình yêu, nghèo đói, bất ổn trong cuộc sống, chia rẻ và ly táng trong gia đình, hoặc ngay cả do giàu có, do tham vọng, tham lam, hưởng thụ đến mức đánh mất ý nghĩa của đời sống, hụt hẩng và chao đảo vì mải miết chạy theo thói đời… Vì thế mỗi cá nhân hãy nhờ đến kinh Mân Côi mà trút bớt gánh nặng và bao nhiêu nỗi khốn khó của riêng mình. Hãy tìm về ơn bình an nơi lời kinh Mân Côi, vì lời kinh ấy chất chứa niềm an ủi vô biên, sâu lắng cả một tình yêu vời vợi mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể trao ban.
Sau cùng để kết thúc những gì muốn chia sẻ, tôi muốn nói với bạn về một hình tượng. Mỗi lần có dịp đi ngang hoa viên nhà thờ Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn, không biết bạn thế nào, riêng tôi, khẽ cúi đầu trước tượng đài Nữ Vương Hòa Bình, mà nghe lòng mình ấm áp đến lạ kỳ. Gương mặt của tượng Đức Mẹ hiền từ và nhân từ quá. Đăm đăm nhìn về trời cao mà lòng bàn tay vẫn ôm trọn cả địa cầu. Đôi mắt của tượng Đức Mẹ như nói lên tất cả niềm phó thác đoàn con mến thương mà Mẹ hằng che chở trong cánh tay mình, để đoàn con mãi mãi sống trong chiếc nôi tình yêu của Chúa.
Hướng về trời cao, Mẹ không sống cho riêng mình, nhưng lưu chuyển nguồn bình an của tình trời đến người trần thế. Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình là thế!Nghĩ như thế mà thấy dạ cứ vui. Cảm nhận như thế mà càng yêu hơn tràn chuỗi Mân Côi. Xin được tiến dâng Đức Nữ Vương Hòa Bình những lời kinh thắm đượm tình yêu. Ước mong lòng luôn mãi bình an.
Người VN chúng ta được tiếng là kính mến Đức Mẹ, nhất là kính mến Mẹ qua việc lần chuỗi Môi: 07/10-36
Người VN chúng ta được tiếng là kính mến Đức Mẹ, nhất là kính mến Mẹ qua việc lần chuỗi Môi khôi. Điều này rất tốt và rất đúng đắn, vì việc lần chuỗi tôn kính Mẹ Maria là một lối cầu nguyện đơn giản và hiệu quả, một lối cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa, một con đường dẫn đến với Chúa. Lối cầu nguyện này không chỉ dành cho người bình dân ít học, mà cho cả các bậc thông thái thánh nhân, cả nam lẫn nữ. Lời kinh này đã có nguồn gốc lâu đời trong kinh nguyện của Hội Thánh, ngay cả trước thời thánh Đaminh … Ước gì tháng Môi khôi hàng năm, nhất là năm nay, là một dịp cho chúng ta hiểu cặn kẻ hơn, nhất là không coi thường giá trị của lời kinh đang phổ biến trong Hội thánh. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Nguồn gốc: như trên đã nói, kinh Môi Khôi đã được phổ biến lâu đời trong Hội Thánh; dù vậy phải chờ đến thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra dạy cho cách thức lần chuỗi và ngắm 15 Sự mầu nhiệm như ngày hôm nay.
Ngày lễ Đức Mẹ Môi Khôi khởi đầu có nguồn gốc là ngày lễ Đức Mẹ chiến thắng, do biến cố Đức Mẹ phù trợ Hội thánh vượt qua cuộc xâm lăng của quân Hồi giáo thời Đức Piô V, Người đã kêu gọi tín hữu toàn cầu lần chuỗi cầu nguyện cho Hội thánh thoát khỏi cuộc xăm lăng này; vì thế đạo binh thánh giá đã chiến thắng quân Hồi giáo đông gấp hai lần tại vịnh Lepante năm 1571.
b/. Ý nghĩa và hiệu quả: Danh từ Môi khôi, Mai khôi, Mân côi, nguyên ngữ chữ Hán là hoa hồng. Hoa hồng là nữ hoàng của muôn hoa, lại còn chỉ Tình yêu nữa. Gọi Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Môi khôi, là Hội thánh có ý ca tụng Mẹ là Người Phụ Nữ vừa cao đẹp, vừa tôn quí. Mẹ chính là là Hoa Hồng tuyệt mỹ, bất diệt đầy tình yêu, đã và đang chia sẻ thân phận con người chúng ta trong cuộc hành trình về quê hương thật là Nước Trời.
Lịch sử Hội thánh cho thấy việc lần chỗi Môi khôi đem lại nhiều kết quả tốt đẹp lớn lao. Nhiều vị thánh và tín hữu nhờ kinh Môi Khôi mà nên thánh hay đạt được ý nguyện. Thánh Đaminh đã kêu gọi mọi tín hữu trong Hội thánh lần chuổi, nhờ đó đánh tan được bè rối Albigeois bên nước Pháp. Theo lời kêu gọi của ĐGH, các tín hữu đã lần chuỗi mà chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lepante như nói ở trên. Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (1858), hiện ra ở Fatima , Bồ Đào Nha (1917), trên tay Mẹ luôn cầm tràng chuỗi Môi Khôi. Các Đức Giáo Hoàng đã ra nhiều thông điệp ca tụng khuyến khích việc lần hạt Môi Khôi. Các ngài dù hết sức bận rộn công việc hàng ngày, vẫn năng đọc kinh Môi Khôi như vị Giáo hoàng thân yêu vừa mới qua đời của chúng ta, Đức Gioan Phaolô 2. Ai gặp ngài, luôn thấy ngài cầm tràng hạt trên tay.
c/. Kinh Môi Khôi là lối cầu nguyện đơn giản, hiệu quả và phong phú, dành cho hết mọi người: đơn giản vì vừa dễ nhớ và dễ thực hành; phong phú vì khi ngắm 15 Sự là ta suy niệm đủ các mầu nhiệm Thiên Chúa, để khi ta vừa đọc, ta vừa tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng, yêu mến Thiên Chúa qua Người Mẹ thần thánh, Đức Trinh Nữ Maria. Suy ngắm 15 Sự Môi Khôi cũng được gọi là suy ngắm Tin Mừng rút ngắn. Kinh Môi Khôi còn là lời kinh của mọi người, vì nó không chỉ dành cho giới bình dân, mà ngay cả giáo sư tiến sĩ. Louis Pasteur, nhà bác học lừng danh và là vị cứu tinh của nhân loại trong thế kỷ 20, vậy mà ông vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Chúng ta nghỉ làm sao?
d/. Suy niệm : Có người cho rằng lần chuỗi Môi Khôi là kinh nguyện của đàn bà, con trẻ, của mấy ông thầy tu … . Điều này đi ngược lại truyền thống của Hội Thánh, vì đây là lời kinh phổ biến từ lâu, nhất là lời kinh do chính Đức Mẹ dạy nữa. Nếu ta vẫn chưa tin, hãy cầm chuỗi lên, cùng lần với Đức Mẹ.
Đức Mẹ Mễ Du dạy: chúng con hãy lần chuỗi bằng trái tim. Điều này có nghĩa: Mẹ dạy hãy lần chuỗi bằng cả lòng tin yêu mến của mình. Bao lâu nay ta đã lần chuỗi như thế nào? Ta vẫn chưa thấy hiệu quả của việc lần chuỗi phải không? Đó có phải vì chúng ta chưa lần chuỗi bằng trái tim, phải không
Có một ông trùm đã nói với cha sở như sau : - Chỉ tại cái TV mà gia đình con không còn lần hạt: 07/10-37
Có một ông trùm đã nói với cha sở như sau :
- Chỉ tại cái TV mà gia đình con không còn lần hạt vào buổi tối nữa. Người ta thích quây quần bên nhau để giải trí, hơn là để cầu nguyện.
Cũng chính ông trùm ấy đã nói về cậu con trai của mình, khi được nhắc nhở là hãy vào nhà thờ sớm, trước thánh lễ, để cùng với mọi người đọc kinh, thì cậu ấy đã trì hoãn và trả lời :
- Nhà thờ chưa lần hạt xong.
Và ông trùm ấy đã phát biểu với nhiều tiếc xót :
- Vào thời chúng con, người ta chờ nhà thờ đông đủ rồi mới lần hạt, còn bây giờ thì khác, người ta lần hạt để chờ mọi người tới đông đủ.
Lời than thở đầy tiếc xót trên đây của ông trùm phản ảnh được phần nào thái độ hiện nay đối với việc đọc kinh Mân côi tại gia đình cũng như tại nhiều xứ đạo.
Để phục hồi lòng tôn sùng kính mến Mẹ qua việc đọc kinh Mân côi, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại những hậu quả to lớn mà kinh Mân côi đã đem lại cho chúng ta.
Trước hết, với kinh Mân côi chúng ta cùng Mẹ sống lại những chặng đường quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và đi sâu vào những mầu nhiệm chính yếu của lịch sử ơn cứu độ. Từ đó chúng ta sẽ nhận ra những tín hiệu Phúc âm cho những chặng đường của niềm tin hôm nay trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội cũng như Giáo hội.
Trong sinh hoạt của Giáo hội, kinh Mân côi luôn được cổ võ bởi vì lời kinh này đã đem lại cho chúng ta hình ảnh về Mẹ Maria, hình ảnh một người mẹ luôn gần gũi, gắn bó và mật thiết với chúng ta. Vậy chúng ta có đọc kinh Mân côi trong ý hướng ấy hay không ?
Tiếp đến, với kinh Mân côi chúng ta sẽ được nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa, Đấng Cứu độ của chúng ta. Tất nhiên, có nhiều con đường để đến cùng Chúa, nhưng con đường được Mẹ chỉ dạy sẽ là con đường chắc chắn nhất, bảo đảm nhất và an toàn nhất, bởi vì Mẹ là người gần gũi với Chúa hơn bất cứ tạo vật nào.
Vì thế, các nhà đạo đức vốn thường đưa ra một kinh nghiệm quí giá, đó là :
- Per Mariam, ad Jesum, nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa.
Vậy chúng ta có lần hạt với cảm nghiệm đó không ?
Và sau cùng, với kinh Mân côi chúng ta còn được Mẹ bầu cử trước mặt Chúa. Nhờ lời bầu cử của Mẹ, chúng ta sẽ lãnh nhận được những ơn lành hồn xác, như lòng mong ước.
Lời van xin của kinh Kính mừng : Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử…Đã gói ghém tất cả nỗi lòng của chúng ta qua mong ước được thánh hóa hôm nay và được cứu rỗi ngày mai.
Chiến thánh tại vịnh Lépante năm 1571 gắn liền với kinh Mân côi mà ngày lễ hôm nay là một nhắc nhở, cũng đã ghi sâu trong tâm trí chúng ta một hình ảnh khác nữa về Mẹ Maria, đó là Mẹ luôn che chở và cầu bầu cho chúng ta. Vậy chúng ta có lần hạt trong tâm tình này hay không ?
Tạp chí “Kiến thức ngày nay” có một bài viết về những người phụ nữ giàu nhất thế giới,trong đó có nữ hoàng Elisabeth nước Anh. Tài sản của nữ hoàng trị giá hàng tỷ đô la. Thế nhưng, khi đọc bài báo ấy, chúng ta cảm thấy nó lạnh lùng, nó xa vắng bởi vì nó chẳng liên quan gì tới chúng ta.
Thế nhưng, khi thoáng nghe những bài hát về Mẹ, chúng ta bỗng cảm thấy nao nao con tim và ngọt ngào cả tâm hồn, bởi vì chúng ta thấy trước mặt mình tấm lòng của một người mẹ giàu tình thương và nhân ái. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là bản thân chúng ta có biết tìm đến với Mẹ và nhất là tìm đến với Mẹ qua lời kinh Mân côi, như Mẹ đã truyền dạy hay không?
Lời “Kính chào” của Thiên Thần Gabrien mang một mệnh lệnh từ trời cao xuống cho “trinh nữ đầy: 07/10-38
Lời “Kính chào” của Thiên Thần Gabrien mang một mệnh lệnh từ trời cao xuống cho “trinh nữ đầy ơn phúc”. Thiên thần là đấng thiêng liêng luôn vâng phục Chúa đã phải “kính chào” trinh nữ thành Nagiarét. Trinh nữ ở một thành nhỏ bé không ai biết đến, nhưng nơi vô danh đó đã kéo sự chú ý của Thiên Chúa. Ôi lời “kính chào” thật cao cả mà không một thụ tạo nào được Đấng Tạo Hóa nghiêng mình “kính chào”.
Ngày lễ Đức Mẹ Mân côi là kỷ niệm chiến thắng của con cái mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Việc lần chuỗi Mân côi thật đơn giản qua việc nhắc lại nhiều lần “Kính chào Maria đầy ơn phúc”. Chuỗi Mân côi là việc đạo đức thật đơn giản mà tóm lược tất cả các mầu nhiệm trong Tin Mừng. Các vị Giáo Hoàng qua nhiều thời đại đều khuyến khích con cái mình năng lần chuỗi Mân Côi, như mệnh lệnh Mẹ Fatima yêu cầu. Qua chuỗi kinh Mân Côi mà giáo hội đã chiến thắng được kẻ thù. Nhưng nhất là Mẹ Mân Côi đã giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù nội tâm.
Lời Nguyện:
Hợp cùng Thiên Thần Grabien con chúc tụng Mẹ Mân Côi: “kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ. Mẹ có phúc lạ hơn mọi phụ nữ. Và Giêsu con lòng mẹ gồm phúc lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”. Lm Lêô Vũ Huyến, CMC
Hôm nay, mồng 7 tháng 10, Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi, và dành trọn tháng 10 để kính Đức: 07/10-39
Hôm nay, mồng 7 tháng 10, Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi, và dành trọn tháng 10 để kính Đức Mẹ. Xin được chia sẻ với anh chị em đôi hàng về Kinh Mai Khôi (*).
Từ xa xưa người Ấn Độ đã dùng tràng chuỗi để tay vừa lần hạt, miệng hay trí vừa lập đi lập lại một lời kinh theo kiểu “mantra”, và lòng, trí, tim, hồn thì suy niệm về những thực tại thiêng liêng, siêu nhiên, v.v.
Phương thức cầu nguyện, suy niệm này của vùng Nam Á được truyền lan sang Trung Đông, Âu Châu và Trung Quốc, và đã được nhiều tín hữu các tôn giáo khác xử dụng.
Anh chị em Phật Giáo dùng xâu chuỗi “Bồ Đề”. Một số anh chị em Hồi Giáo cũng lần hạt. Và dĩ nhiên, người Công Giáo chúng ta mến mộ tràng hạt Mai Khôi.
Thoạt đầu chúng ta chỉ có 33 hạt hồng, kính nhớ 33 năm của Chúa Giê-su sống trên trần gian, 33 hoa hồng dâng lên Thiên Chúa, 33 hoa hồng tỏa ngát mùi hương giữa trần thế, 33 năm chịu đau khổ để cứu độ, mà theo văn hóa của các dân tộc vùng Nam Á, được tượng trưng bằng hoa hồng (Rose, Rosa, từ đấy nẩy sinh từ ngữ Rosario, Rosary - mà người Việt mình chuyển dịch thành Mai Khôi, Mân Côi).
Đến thời Trung Cổ, khi Kinh Nhật Tụng (ngày nay gọi là Các Giờ Kinh Phụng Vụ) ảnh hưởng mạnh trên cách đọc Tràng Chuỗi “Hoa Hồng”, thì con số 30 biến thành 50, nhưng 3 hạt hồng còn lại vẫn được lưu giữ trong các tràng chuỗi cho đến ngày nay.
Con số 30 biến thành 50, và không những 50 mà là 150, vì mỗi tuần các tu sĩ phải đọc cho hết 150 thánh vịnh. (Vì thế có khi người ta còn gọi “Rosary” là “Marian Psalter” - Kinh Mai Khôi là Tập Thánh Vịnh Ma-ri-a).
Trong khi các tu sĩ có sách Thánh Vịnh chép tay, vì thời ấy chưa có sách in, để đọc Kinh Nhật Tụng, thì phần đông dân chúng chỉ biết đọc thuộc lòng một số kinh mà thôi, vả lại rất ít người biết đọc biết viết.
Thời ấy, mỗi ngày các tu sĩ đọc trong giờ kinh sáng - Kinh Ngợi (Laudes) 5 thánh vịnh, trong giờ kinh chiều (Vespers) 5 thánh vịnh, và trong giờ kinh sách - Kinh Rạng (Matines) 5 thánh vịnh. (Sau Vatican II, Giáo Hội giảm xuống còn 3 thánh vịnh mỗi giờ kinh, có lẽ vì tu sĩ thế kỷ XX không cầm trí lâu được!!!)
Dân chúng, thay vì đọc 5 thánh vịnh, sẽ thay bằng 50 hạt. Tu sĩ đọc 3 lần, mỗi lần 5 thánh vịnh, thì dân chúng cũng lần hạt 3 lần, mỗi lần 50 hạt. Trước mỗi thánh vịnh, tu sĩ đọc điệp ca, mang tư tưởng chính gợi ý suy niệm cho thánh vịnh sắp đọc, thì dân chúng cũng đọc một câu kinh gợi ý suy niệm một mầu nhiệm quan trọng của đời Chúa Giê-su trước mỗi chục hạt. Sau mỗi thánh vịnh, tu sĩ đọc kinh Sáng Danh, thì dân chúng cũng đọc kinh Sáng Danh sau mười hạt.
Có lẽ vì sự ướt át của lòng dân chúng mến mộ Đức Mẹ, nên các tu sĩ thời ấy đã dạy cho dân chúng thay vì vừa lần 10 hạt vừa đọc 10 Kinh Lạy Cha, lại chỉ đọc 1 Kinh Lạy Cha và 10 Kinh Kính Mừng, vừa suy niệm những mầu nhiệm chính trong Đạo. Kể từ đó, Tràng Hạt “Hoa Hồng” Mai Khôi trở thành lối suy niệm bình dân, lối ôn học những mầu nhiệm chính của Đạo một cách bình dân để chống lại các lạc giáo, và là phương thức bình dân hóa Kinh Nhật Tụng.
Tràng Hạt Mai Khôi giúp ta suy niệm hầu hết những mầu nhiệm chính của Đạo, những chuyện chính yếu trong lịch sử cứu độ của Chúa Giê-su, nhưng vì đọc nhiều Kinh Kính Mừng nên Tràng Hạt Hoa Hồng đã dần dần trở nên một phương thức mến mộ tôn sùng Đức Mẹ một cách đặc biệt.
Ngày nay, với nghệ thuật in ấn, với việc chuyển dịch Kinh Thánh, Thánh Vịnh, với khả năng biết đọc biết viết của dân chúng, Giáo Hội kêu mời giáo dân đọc Các Giờ Kinh Phụng Vụ như các tu sĩ, vì Các Giờ Kinh Phụng Vụ là kinh của toàn Giáo Hội, chứ không riêng gì của tu sĩ, giáo sĩ.
Cũng may mà Tràng Hạt Mai Khôi đã trở thành phương thức mến mộ Đức Mẹ, nên giáo dân công giáo chúng ta ngày nay đã không bỏ, và cầu mong không nên bao giờ bỏ, “lần hạt Mai Khôi”, tuy dầu đã đọc Các Giờ Kinh Phụng Vụ như Giáo Hội kêu mời.
Tu sĩ lắng nghe Lời Chúa trong “Lectio Divina”, và mượn Lời Chúa qua các thánh vịnh để đáp trả. Phương thức này rất rõ nét trong Thánh Lễ. Sau Bài Đọc 1, chúng ta dùng Thánh Vịnh để đáp trả trong phần Đáp Ca. Kinh Mai Khôi cũng theo mô thức ấy.
Kinh Kính Mừng, tuy không phải hoàn toàn rút ra từ Kinh Thánh như các Thánh Vịnh, nhưng hầu hết đều do Lời Kinh Thánh kết thành.
- Kính mừng Ma-ri-a, đầy ơn phước
“Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng’” (Lu-ca 1:28)
“Ma-ri-a” là chuyển dịch từ “Myriam”, tên Do Thái của Đức Mẹ. “Myriam” có thể hiểu là kẻ “được Thiên Chúa yêu”.
- Đức Chúa Trời ở cùng Bà (Lu-ca 1:28)
Đức Mẹ là hình ảnh rõ nét nhất của mầu nhiệm Em-ma-nu-en “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mát-thêu 1: 23)
-Bà có phước lạ hơn mọi người nữ
-Và Giê-su con lòng Bà gồm phước lạ
-Thánh Ma-ri-a, Đức Mẹ Chúa Trời
“Được đầy tràn Thần Khí, bà Ê-li-sa-bét nói rằng : Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy” (Lu-ca 1:41-43).
-Cầu cho chúng con là kẻ có tội
Hình ảnh của người thu thuế khiêm nhu, quỳ cuối đền thờ kêu xin : “Xin thương xót con là kẻ có tội”
(Lu-ca 18:13).
-Khi này và trong giờ lâm tử.
Duy chỉ có đoạn này là không được trích dẫn từ Kinh Thánh.
Chiêm ngưỡng Thiên Chúa Cứu Độ, và hoa quả đầu tiên của ơn Cứu Độ là Đức Mẹ, chúng ta mượn Lời Kinh Thánh, và tràng hạt Mân Côi để đáp trả, cùng van nài:
Xin Mẹ dìu chúng con đến cùng Chúa Giê-su, là Con Đường duy nhất dẫn chúng con càng ngày càng vào trong sâu thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa.
- Cầu nguyện
- Quyết tâm
- Dấn thân
(*) Theo linh mục học giả Trần Văn Kiệm, chữ Rosary được dịch là Mai Khôi thì đúng nhất, vì chữ Mai có nghĩa hoa hồng và chữ Khôi có nghĩa ngọc đẹp. Những chữ Mân Côi và Văn Côi không được xác thực. (Chú thích của NTH)
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời: 07/10-40
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
Chúng ta đang sống trong tháng 10, tháng mà Giáo hội mời gọi các tín hữu dành kính Đức Mẹ: 07/10-41
Chúng ta đang sống trong tháng 10, tháng mà Giáo hội mời gọi các tín hữu dành kính Đức Mẹ. Tháng mà Giáo hội gọi là Tháng Mân côi và ngày hôm nay Giáo hội lại mời gọi chúng ta dành kính đặc biệt Đức Mẹ Mân Côi.
Đoạn Tin mừng vừa nghe có lẽ rất quen thuộc với chúng ta. Đoạn Tin mừng nói về biến cố thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến mời gọi Đức Mẹ cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu chuộc con người. Cộng tác bằng cách cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế.
Có thể, chúng ta sẽ nói được làm Mẹ Đấng Cứu Thế thì còn gì bằng nữa, vinh dự biết bao. Nếu Thiên Chúa kêu thì tôi cũng sẽ sẵn sàng. Quả thật, rất vinh dự nhưng không phải lời thưa: “ Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền ” , Đức Mẹ đã thưa cách bộp chộp. Chúng ta thấy Mẹ đã thưa với cả tấm lòng và đã suy nghĩ cẩn thận. Lời thưa ấy cho thấy Mẹ đã hết sức khiêm tốn.
Mẹ ý thức rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Mẹ hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng mình. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa đã thực hiện được trọn vẹn chương trình cứu chuộc loài người.
Mỗi người chúng ta đã đón nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa qua sự khiêm tốn của Mẹ. Cho nên trước mặt Chúa, Mẹ là người đẹp lòng Chúa nhất. Việc làm mà chúng ta thường làm để tỏ lòng tôn kính và nhờ Mẹ cầu nguyện cùng Chúa cho mình là lần chuỗi. Ngày nay có nhiều người nhất là giới trẻ cho việc lần chuỗi là lỗi thời nên ít quan tâm đến. Nếu là lỗi thời chắc Giáo hội đã không khuyến khích chúng ta lần chuỗi đâu. Và hầu như bất cứ khi nào hiện ra Mẹ luôn luôn kêu mời chúng ta lần chuỗi. Chính Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã khuyến khích các tín hữu tôn kính Mẹ bằng việc lần chuỗi. Chúng ta nhớ trước khi chết không bao lâu, Ngài đã thêm vào 5 Sự Sáng để chúng ta suy gẫm và cầu nguyện.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhìn vào mẫu gương khiêm tốn của Mẹ để bắt chước. Mỗi người dù lớn hay nhỏ, dù bậc sống nào cũng Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Người. Cộng tác để trước hết đem lại phần rỗi cho chính mình và sau đó đem chia sẻ cho nhiều người xung quanh. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi tôn kính Đức Mẹ bằng việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Chúng ta hãy tin là nếu thật lòng tôn kính Mẹ thì chắc chắn Mẹ sẽ không bỏ chúng ta trước mặt Chúa đâu.
Hằng năm ,Giáo hội dành đặc biệt ngày 07.10 để mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo hội muốn con: 07/10-42
Hằng năm ,Giáo hội dành đặc biệt ngày 07.10 để mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo hội muốn con cái mình cùng suy ngắm Mẹ qua chuỗi Môi khôi. Cùng với Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên chúa, và noi gương Mẹ sống đức tin.
Mừng lễ Đức mẹ Mân Côi, Giáo Hội giúp chúng ta nhìn ra vai trò lớn lao của Đức Mẹ. Vai trò mà từ buổi đầu của Giáo hội sơ khai đã được các tông đồ nhìn nhận sự hiện diện của Đức Maria cần thiết không thể thiếu (Cv 1,12-14).
Thật vậy, lúc đó, các tông đồ bị hụt hẫng, hoang mang,.. vì Thầy mình đã bị giết chết. Và rồi niềm vui của việc sống lại chưa kịp thấm dậy nơi lòng các ông thì Đức Giêsu lại rời các ông mà lên trời. Chán nản, thất vọng pha lẫn những sợ hãi lo âu, các ông không biết phải làm gì. Chính giờ phút hoang mang tột cùng đó, Mẹ maria đã có mặt. Sự hiện diện của Mẹ, trong vai trò thân mẫu của Chúa Giêsu đã đem lại niềm an ủi, khích lệ, sự hợp nhất và nhất là không làm mất đi sự tin tưởng và phó thác vào chúa.
Phải, Chính Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, nên Mẹ cũng là mẹ của các Tông Đồ, của Giáo Hội, của mỗi ngưới Kitô hữu chúng ta. Và với tấm lòng của người Mẹ, làm sao Mẹ lại bỏ con cái mình, nhất là trong những lúc hoang mang lo sợ này.
Mẹ Maria đã thưa xin vâng, Mẹ đã sinh và giáo dục Chúa Giêsu, Mẹ cực khổ đem con đi trốn, Mẹ đau khổ khi đứng dưới chân thập giá nhìn con chết đau thương. Lòng mẹ tan nát. Nhưng Mẹ vẫn tin và phó thác cho Thiên Chúa.
Trong đời sống đạo của người Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta cũng gặp hoang mang, lo sợ. Nghèo đói, cơm - gạo - áo - tiền, sự dữ,... rình rập, theo đuổi, dòm ngó, tấn công, lôi kéo, dụ dỗ, mời mọc chúng ta. Những lúc đó, chúng ta cảm thấy khó khăn, cô đơn, chúng ta sống như muốn buông xuôi, bỏ cuộc,để cho số phận mình trôi dạt đến đâu thì đến. Chúng ta sống mất niềm tin, hết cậy trông. Sống như người thiếu đức tin, chúng ta nhìn và hành động theo cái nhìn thiển cận, tiêu cực, nguội lạnh. Những lúc đó, ta tưởng chừng như sống một mình, phải đối diện với sự dữ. Không! Người Kitô hữu có Mẹ Maria. Mẹ Maria luôn thương con cái, luôn có cách để chăm sóc, sẳn sàng giúp đỡ chúng ta, hổ trợ chúng ta.
” Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời chúa phán sẽ được thực hiện”( Lc1,45 ). Mẹ đã tin và thực hiện theo ý Chúa thì hôm nay, Mẹ đã truyền lại cho chúng ta: suy gẫm các mầu nhiệm và lần chuỗi Mân Côi. Mẹ đã truyền cho thánh Đaminh cổ võ, loan truyền, Mẹ muốn con cái Mẹ thông phần vào hạnh phúc của Mẹ. Qua Kinh Mân Côi, ta không chỉ dạt dào tình mến khi lặp lại lời chúc mừng của sứ thần, làm vẻ vang và hiển danh Mẹ, nhưng còn được mời gọi noi gương Mẹ - suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu trong tương quan với Mẹ và Giáo hội.
Một vị thánh đã từng nói: Khi đọc kinh Kính Mừng, tôi thấy hết lo buồn, khô khan, thêm lòng mến Chúa.
Phúc thay ai nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Qua chuỗi kinh Mân Côi, Mẹ giúp chúng ta sống thực tế, sống gắn bó với Mẹ hơn và nên giống Chúa Giêsu Con Mẹ, Sống có niềm tin, đầy lòng trông cậy và dạt dào tình mến.
Xin cho chúng ta biết nhận ra giá trị cao quý của chuỗi kinh Mân Côi, để luôn biết siêng năng lần chuỗi và cổ võ mọi người cùng biết đến với Mẹ qua chuỗi kinh Mân Côi. Ước gì trong mỗi hoàn cảnh cuộc sống, chúng ta gắn kết cuộc đời mình trong sự che chở của Me Maria, để ta thấy được ý nghĩa và giá trị cuộc sống mà Chúa thương gởi đến mà can đảm sống đức tin.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Mẹ Maria, người Mẹ đầy ơn phúc, bởi Mẹ không chỉ để lại cho chúng ta mẫu gương vâng phục ý Chúa mà còn chỉ cho chúng ta một linh đạo, một con đường dẫn đến hạnh phúc thật: đó là suy niệm và lần chuỗi Mân Côi.
Xin cho mọi ngừoi Kitô hữu chúng ta biết quý trọng kinh Mân Côi, siêng năng và sốt sắng lần chuỗi mỗi ngày, để cùng với việc ngợi khen Mẹ, chúc tụng Chúa, chúng ta còn được Lời Chúa soi sáng thúc giục, từng ngày tránh xa tội lỗi, biến đổi đời sống, không ngừng tìm kiếm và thực hiện ý Chúa trong mọi hòan cảnh. Xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng con trên hành trình lần chuỗi Mân Côi.
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình: 07/10-43 FB
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ. 2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không? 3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ - ĐGM. Vũ duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo: 07/10-44
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đìn: 07/10-45
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ - ĐGM. Vũ duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi: 07/10-46
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau : 07/10-47
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gì bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến, Louis Pasteur là một nhà b ác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin MỪng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây: 07/10-48
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
ĐỨC MARIA, NGƯỜI PHỤ NỮ MỚI CỦA TIN MỪNG Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Mân Côi. Đây là thánh lễ được thiết lập để tưởng nhớ : 07/10-49
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Mân Côi. Đây là thánh lễ được thiết lập để tưởng nhớ tới cuộc chiến thắng người Hồi Giáo tại Lépante vào năm 1571 nhờ lần hạt Mân Côi và qua đó Đức Mẹ đã can thiệp để dân Chúa làm vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thời nay, đọc kinh Mân Côi không để tìm sự chiến thắng người đời nhờ bàn tay của Đức Mẹ, nhưng kinh Mân côi là để nhân loại cùng Mẹ đi vào mầu nhiệm cứu thế của Chúa Giêsu. Tràng hạt Mân Côi giúp nhân loại qui chiếu về Chúa Giêsu. Bởi vì, sứ mạng của Đức Mẹ luôn hướng về mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu, đồng thời đưa nhân loại, đưa con người vào cuộc sống cụ thể của mình.
MẸ MARIA, NGƯỜI PHỤ NỮ MỚI CỦA TIN MỪNG:
Đối với xã hội Do Thái thời xưa, người phụ nữ bị khinh rẻ, bị gạt ra khỏi đền thờ và xã hội. Họ không được coi là người đáng kể trong xã hội. Nói cách khác, người phụ nữ lúc đó chỉ được coi là người cóbổn phận sinh con mà thôi và không được xã hội coi trọng. Đọc đoạn sách công vụ 1, 12-14, trích đọc hôm nay chúng ta sẽ nhận thấy: Chúa Giêsu sau khi lên trời không còn có mặt hữu hình với các tông đồ nữa. Tuy nhiên, Mẹ Maria thân mẫu của Chúa Giêsu luôn có mặt cùng với nhóm phụ nữ đạo đức để cùng các tông đồ cầu nguyện và sống tình hiệp nhất. Mẹ là người nữ nhưng Mẹ đã trở nên nguồn ơn cho những ai cậy trông vào Mẹ và là trung tâm hiệp nhất những người tin vào Chúa Giêsu. Do đó, Mẹ trở nên gương mẫu của người nữ tử Sion mới trong Tin Mừng và chính Chúa Giêsu đã đến để phục hồi lại phẩm giá của người phụ nữ bị gạt ra khỏi lề xã hội do quan niệm trọng nam khinh nữ của người Do Thái. Mẹ Maria là mẫu gương của người phụ nữ khiêm nhượng, hiền lành, thông minh và khôn ngoan. Mẹ Maria ngay từ đầu đã nắm giữ vai trò rất quan trọng trong cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi và trong Giáo Hội muôn thời. Mẹ Maria đã trở nên trung tâm điểm của sự hài hòa, hiệp nhất giữa mọi người theo Chúa. Còn bài đọc II của thánh Phaolô gửi tín hữu Galat 4, 4-7, nêu bật vai trò của người phụ nữ trong lịch sử cứu rỗi nhân loại. Mẹ Maria làm nổi bật thiên chức làm mẹ của mình: Mẹ cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu. Thánh Augustinô đã không ngần ngại thốt lên khi nói về Mẹ:” Lạy Chúa Kitô, Vua vinh hiển, để giải phóng con người, Chúa đã không nề quản ở trong lòng Đức Trinh Nữ”. Mẹ Maria đã chấp nhận cưu mang Chúa Giêsu bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, trở nên Mẹ Thiên Chúa và làm cho nhân loại được trở nên con Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bài Tin Mừng càng làm nổi bật vai trò có một không hai trong lịch sử cứu rỗi nhân loại của Đức Trinh Nữ Maria. Công trình cứu thế là sáng kiến của Thiên Chúa Cha, được hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Đấng được sứ thần Gabrien gọi là Đấng Thánh, Con Đấng tối cao. Để thực hiện công trình cứu rỗi của Chúa ở trần gian này, Thiên Chúa đã chọn những cộng tác viên như bà Eâlisabét, như thiên thần Gabrien, như thánh Giuse, thợ mộc. Tuy nhiên, Mẹ Maria là người cộng tác chính yếu và bất khả thay thế của Thiên Chúa. Mẹ đã góp phần khiêm nhượng nhưng cần thiết nhất trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ Maria thực sự là mẫu người mới của Tin Mừng, người nhỏ của Thiên Chúa.
THIÊN CHÚA CHỌN LỰA NHỮNG CON NGƯỜI NHỎ BÉ:
Những Anawim của Thiên Chúa là những con người nhỏ bé, khiêm nhu, khó nghèo. Tâm hồn họ luôn qui hướng về Chúa và để Chúa thực hiện nơi họ những gì là tốt đẹp là cao quí nhất. Sở dĩ, Thiên Chúa tuyển chọn những người nhỏ bé là vì họ không có gì để kiêu căng, tự phụ, để làm trung gian thực hiện ý định yêu thương của Ngài. Mẹ Maria tiêu biểu nhất cho những con người nhỏ bé theo mẫu của Thiên Chúa, Mẹ hoàn toàn sẵn sàng đi vào công trình cứu độ của Chúa Giêsu:” Này tôi là tôi tớ Chúa, xin cứ thực hiện cho tôi như lời Thiên Thần truyền”( Lc 1, 38 ). Mẹ Maria đã nói lời xin vâng với tất cả lòng tin sâu xa nhất của mình. Thiên Chúa đã chấp nhận lời xin vâng của Mẹ. Do đó, lễ Mân Côi giúp nhân loại chiêm ngưỡng một người Mẹ hết sức tuyệt hảo của mọi người. Vì qua Mẹ, Mẹ đưa nhân loại tới Thiên Chúa. Mừng lễ Mân Côi nhân loại không chỉ nhớ tới biến cố người Kitô hữu đã chiến thắng người Hồi Giáo ở Lépante xưa, nhưng là để nhân loại, con người học đòi bắt chước Mẹ Maria vì Mẹ là mẫu gương tuyệt vời cho nhân loại noi theo. Mẹ đã lắng nghe lời Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng để thực thi lời Chúa trong cuộc sống. Mẹ đã sống hoàn toàn bác ái và phục vụ khi đi thăm bà chị họ Isave. Mẹ đã trung thành luôn với sứ mạng cao cả Thiên Chúa trao phó cho Mẹ để cộng tác với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con luôn biết siêng năng lần chuỗi Mân Côi để suy niệm các mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Bạn hiểu gì về Kinh Mân Côi ? - Vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc cứu rỗi ? - Bạn cảm nghiệm thế nào về lời xin vâng của Mẹ Maria ?
Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu và với anh em của Đức Giêsu.
* Bài đọc 2: Gl 4,4-7
Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu: "Ápba, Cha ơi!" Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con, thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
* Bài Tin Mừng: Lc 1,26-38: Truyền tin cho Đức Maria
Bà Eâlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì.
Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Elisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
NGẪM:
* Câu hỏi gợi ý:
Câu chuyện Truyền Tin có phải là cuộc đối thoại kỳ diệu không? 2. Lịch sử cứu độ là lịch sử đối: 07/10-50
1. Câu chuyện Truyền Tin có phải là cuộc đối thoại kỳ diệu không? 2. Lịch sử cứu độ là lịch sử đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. 3. Con đường đối thoại là con đường hoàn hảo và hợp ý Chúa nhất. 4. Chúng ta thực hiện đối thoại với ai và như thế nào?
* Suy tư gợi ý:
1. Câu chuyện Truyền Tin là cuộc đối thoại kỳ diệu:
Câu chuyện Truyền Tin là một cuộc trao đổi kỳ diệu giữa sứ thần của Thiên Chúa tức giữa Thiên Chúa và Đức Maria. Ta có thể gọi đó là một cuộc đối thoại mẫu mực trong lãnh vực tâm linh, trong chương trình cứu độ. Thiên sứ đến trao sứ điệp của Thiên Chúa cho một thiếu nữ tên Maria. Thiên sứ chào mừng một cách rất đặc biệt khiến Maria ngạc nhiên và bối rối. Maria nói lên thắc mắc của mình với vị khách lạ. Thiên sứ giải đáp thắc mắc và đưa ra một kiến nghị bất ngờ. Maria lại nêu một thắc mắc nữa vì thấy kế hoạch mà thiên sứ đưa ra không ăn khớp với kế hoạch của mình. Thiên sứ lại giải thích một lần nữa và chờ đợi sự tán đồng của Maria. Maria khiêm tốn đón nhận ý muốn của Thiên Chúa để Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng mình: Một cuộc đối thoại kỳ diệu và tuyệt vời mà kết quả là Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời thành xác phàm, thành con một người phụ nữ.
2.Lịch sử cứu độ là lịch sử đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người.
Thật ra lịch sử cứu độ là lịch sử của đối thoại. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những biến cố trong Vườn Địa Đàng trước và sau khi nguyên tổ loài người phạm tội. Hoặc chúng ta nhớ lại từng câu chuyện của Abraham, của Môsê, của các ngôn sứ, các vua thời Cựu Ước..Thiên Chúa không bao giờ áp đặt ý muốn của Ngài, dù ý muốn của Ngài luôn luôn là ý muốn tốt lành, thánh thiện, đem hạnh phúc đến cho con người. Trái lại Ngài luôn tôn trọng sự tự do và quyết định chọn lựa của con người.
Sau này trong cuộc sống công khai rao giảng Nước Chúa Đức Giêsu cũng có những cuộc đối thoại rất độc đáo mà các Phúc Aâm đã ghi lại, chẳng hạn cuộc trao đổi của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô, với chị phụ nữ Samari, với chị em Matta & Maria. Ngoài ra chúng ta thấy Ngài luôn kính trọng đồ đệ và dân chúng khi Ngài mời gọi họ bước theo Ngài: "Nếu ai muốn theo tôi, thì...". Muốn hay không muốn là quyền của từng người trước lời mời gọi chí ái chí tình của Đức Giêsu. Ngài không áp đặt, không ép buộc, không khống chế ai bao giờ. Con đường Ngài chọn là con đường Thiên Chúa đã chọn: con đường đối thoại, trao đổi, bàn bạc với từng người cũng như cả cộng đoàn là dân riêng Ítraen.
3. Con đường đối thoại là con đường hoàn hảo và hợp ý Chúa nhất.
Chúng ta có thể nói: "con đường đối thoại là con đường hoàn hảo và đẹp lòng Chúa nhất". Hoàn hảo nhất vì trong cuộc đối thoại hai người coi nhau như bình đẳng, như ngang hàng, hai người đều có gía trị, đều đáng được tôn trọng, yêu mến. Không ai áp đặt ai; không ai dạy khôn ai; Cả hai cùng tìm Chân Thiện Mỹ là điều tốt đẹp nhất cho cả hai. Đẹp lòng Chúa nhất vì chính Chúa đã chọn con đường này để giao tiếp với loài người. Vì thế mà các Giáo hội châu Á, từ 30 năm nay và nhất là từ đầu thiên niên kỷ thứ ba này đã chọn con đường đối thoại khi thực hiện sứ mạng Truyền giáo của mình. Trong cuụ thể là các Giáo hội Á châu tìm cách đối thoại với các truyền thống tôn giáo, các nền văn hóa và dân chúng Á châu, nhất là người nghèo chiếm đại đa số ở châu Á này (xem Tông huấn Giáo hội tại châu Á chương 5).
4. Chúng ta thực hiện đối thoại với ai và như thế nào?
4.1 Trước hết là chúng ta đối thoại với Thiên Chúa, vì Ngài luôn ngỏ lời với chúng ta. Ngài ngỏ Lời trong Đức Giêsu Kitô, trong Hội Thánh, trong các Bí tích, trong cộng đoàn, trong cõi thâm sâu của lòng ta và nhất là nơi người nghèo. Đối thoại với Thiên Chúa để chúng ta nghe tiếng Ngài, biết ý muốn của Ngài và để chúng ta đáp lại lời mời gọi của Ngài.
Kế đến là chúng ta đối thoại với những người gần gũi với chúng ta trong gia đình và trong giáo xứ, giáo phận, trong đó có các vị lãnh đạo và anh chị em giáo dân khác để thể hiện và xây dựng tình hiệp thông niềm Tin. Đặc biệt là chúng ta đối thoại với các thành viên Gia đình Khôi bình là những người mà chúng ta coi như anh chị em trong cùng một gia đình để giúp nhau hiểu và sống linh đạo đến nơi đến chốn.
Sau cùng chúng ta tìm cách đối thoại với các tín đồ Đạo Oâng Bà, Phật giáo, Hòa hảo, Cao đài, Hồi giáo, với cán bộ cộng sản mà chúng ta có dịp gặp gỡ. Họ là những người có niềm tin hoặc ý thức hệ khác chúng ta; nhưng là đồng bào ruột thịt của chúng ta. Nhất là chúng ta tìm cách đối thoại với người nghèo sống chung quanh chúng ta. Đối thoại để chúng ta hiểu họ và họ hiểu chúng ta, để chúng ta khám phá ra những nét hay đẹp, độc đáo nơi họ và để chúng ta chia sẻ những nét hay đẹp của chúng ta cho họ.
4.2 Chúng ta đối thoại bằng cách lắng nghe, tiếp nhận, cân nhắc, suy nghĩ và trân trọng ý kiến của người đối thoại nhất là khi người đối thoại với chúng ta lại là chính Thiên Chúa. Chúng ta đối thoại bằng cách khiêm tốn, ôn hòa và cởi mở, giãi bày tâm tư, nguyện vọng, hiểu biết, suy nghĩ của mình. Đối thoại với tinh thần ấy sẽ đem lại bình an, hạnh phúc, yêu thương, kính trọng cho chúng ta và người khác. Xã hội này còn nghi k#, thành kiến, thế giới này còn chiến tranh bao lâu loài người chưa thực thi đối thoại trong các mối tương quan xã hội, quốc gia cũng như quốc tế!
NGUYỆN:
"Lạy Thiên Chúa là Đấng đã và còn đang ngỏ lời với loài người, với riêng con. Xin Chúa mở tai, mở lòng, mở trí, mở tay, mở miệng... con, để con nghe được tiếng Chúa nói với con và biết nói lời của riêng con với Chúa! Xin Chúa giúp con biết đối thoại với những người sống bên cạnh con hoặc có liên hệ mật thiết với con. Để chúng con biết đâu là Ý Chúa mà thực thi, đâu là hạnh phúc thật của chúng con mà cùng nhau cầu xin và tìm kiếm.