Ngày xưa còn bé, trong thời gian tiểu học, mài đũng quần trên ghế nhà trường, thế nào cũng có GãSiêu 1
Ngày xưa còn bé, trong thời gian tiểu học, mài đũng quần trên ghế nhà trường, thế nào cũng có lần thày cô bắt làm một bài luận với đề tài: Lớn lên em sẽ làm gì? Thế là bọn nhóc chúng tôi cắm cúi viết. Đứa thì mơ làm bác sĩ, đứa thì mơ làm kỹ sư, đứa thì mơ làm thương gia…Và thậm chí, có đứa cả gan dám mơ làm ông tổng thống nữa. Ôi ! những giấc mơ chưa bị ô nhiễm mới đẹp làm sao! Còn bây giờ, gặp nhau sau bao nhiêu năm dài xa cách và nhìn lại quãng đường mình đã đi qua với những vật lộn và bươn chải, nhất là sau những bầm giập của cuộc sống, hay nói cách khác, sau những lần bị đời đá lên đá xuống như một trái bóng, đứa thì cười ha hả với những thành công rực rỡ, đứa thì ngậm ngùi với những thất bại đắng cay. Có nhiều yếu tố tạo nên thành công hay thất bại trên đường đời. Thứ nhất là cơ may, gặp thời gặp vận. Có những đứa chỉ với chút tiền còm, đầu tư vào lãnh vực nhà đất, thậm chí có đứa chẳng bỏ ra đồng bạc nào, chỉ cần làm cò, làm môi giới mua đi bán lại, nhưng trúng phóc vào lúc nhà đất đang lên cơn sốt. Và thế là chỉ trong một thời gian ngắn, phất lên trông thấy. Đúng là: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Làm bởi ngươi, nhưng ban bởi Ta. Thứ hai là cố gắng và chắt bóp, vừa chí thú làm ăn lại vừa tiết kiệm trong chi tiêu, theo kiểu “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, để rồi cuối cùng cũng khấm khớ, như thiên hạ đã diễn tả: Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì cũng chẳng ai bằng mình. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải có một nghề trong tay. Thực vậy, sống trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, người ta lại càng cần phải có một nghề chuyên môn, bằng không thì chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp. Mà đã thất nghiệp, thì chỉ còn cách nằm ở nhà, ăn lương vợ và làm….báo đời. Chính vì thế, người xưa đã bảo: Không có tiền bạc chưa phải là nghèo, nhưng không có nghề nghiệp mới thực sự là nghèo. Tiền bạc như núi, nhưng tiêu mãi tiêu hoài, có ngày cũng sẽ hết. Và khi hết tiền, hết bạc, chắc chắn chúng ta sẽ lâm cảnh túng thiếu. Chàng trai phung phá ôm cả một gia tài đi ăn chơi vung vít, phá gia chi tử. Miết rồi cũng rơi vào tình trạng đói khổ, phải đi chăn heo. Trong cảnh cơ cực ấy, chàng muốn tọng cám heo cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho. Trong khi đó, nghề nghiệp sẽ đẻ ra tiền, thì còn lo gì túng thiếu. Bởi đó, tục ngữ Việt Nam đã bảo: Trâu ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay. Còn người Tàu cũng đã nói: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Hay như một câu danh ngôn đã xác quyết: Ruộng đất thẳng băng, chẳng bằng một nghề trong tay. Vì thế, điều quan trọng là phải chọn cho mình một nghề, rồi ra sức trau dồi, học hỏi nghề mình đã chọn để có được một chất lượng cao, cũng như để có được một tay nghề vững. Vì thế, người ta cũng thường diễn tả: Toàn bộ cuộc đời chúng ta tùy thuộc vào một vài quyết định trong tuổi thanh xuân.Đúng thế, vào lúc đầu còn xanh và sức sống còn đang phơi phới, có những quyết định làm xoay chuyển hẳn hướng đi và ảnh hưởng mãi cho đến khi về già. Quyết định thứ nhất, đó là chọn cho mình một bậc sống: Lập gia đình hay ở độc thân. Nếu lập gia đình thì chọn cho mình một người bạn trăm năm khả dĩ cùng đi với mình cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày. Còn ở độc thân, thì độc thân giữa đời hay vào nấp bóng trong một dòng tu… Quyết định thứ hai, đó là chọn cho mình một nghề, để rồi đầu tư công sức vào đó. Nghề đã chọn sẽ theo mình trong suốt cả cuộc đời. Nếu có đổi thay chăng nữa thì cũng thật long đong, vất cả mà nhiều lúc cũng chẳng nên cơm cháo gì. Chuyện rằng: Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời hạn hán, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa mãi không ai dùng đến gầu. Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc bình khí thì đã già quách mất rồi. Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng: Than ôi ! Bác chẳng đã già đời rồi ư ! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời hay không gặp dịp, cũng chẳng nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều thất vì lụt cả. Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại, chẳng những hòa mấy năm mất mùa trước, mà còn trở nên giàu có. Cho nên thiên hạ mới bảo rằng: Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền. Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông. Đó là một câu thiên hạ nói rất phải. Tuy nhiên, có một nghề trong tay không quan trọng cho bằng cách chúng ta hành nghề. Bởi vì có những cách hành nghề nhằm bóc lột người khác, làm nghèo quê hương và phá hoại đất nước. Nhưng cũng có những cách hành nghề giúp ích cho người khác, làm giàu cho quê hương và góp phần xây dựng đất nước, như một câu danh ngôn đã bảo: Giá trị của một nghề không bằng giá trị của cách hành nghề. Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể để minh chứng cho điều vừa mới trình bày. Chẳng hạn những người sản xuất thuốc, giúp cho bàn dân thiên hạ trị bệnh, thế nhưng vì lòng tham đã chế biến những thứ thuốc dổm, làm cho người đau yếu tiền mất tật mang, bệnh vẫn hoàn bệnh và không chừng vì để lâu, còn mỗi ngày một trở nên trầm trọng hơn. Chẳng hạn những người bán hàng, giúp cho bàn dân thiên hạ giải quyết được những nhu cầu cần thiết cho bản thân và gia đình, thế nhưng vì lòng tham, đã chế tạo ra những chiếc thước thiếu, những chiếc cân non, để móc túi người mua mà người mua chẳng hề hay biết. Mới đây tại Việt Nam, có một anh chàng đi mua lúa tại tỉnh Kiên Giang, đã mày mò chế tạo ra một chiếc cân với bộ phận điều khiển từ xa. Anh ta chỉ cần đứng ở đâu đó và nhấn nút một phát là chiếc cân tăng giảm theo ý muốn của mình. Quả là quỉ khóc thần sầu. Chẳng hạn những người thầu khoán, giúp cho bàn dân thiên hạ xây dựng nhà cửa để có một nơi cư trú vừa ấm cúng lại vừa khang trang đẹp mắt, thế nhưng cũng vì lòng tham, nên đã bớt cừ trong lúc đóng móng, đã bớt sắt trong lúc đổ đà…khiến cho ngôi nhà chưa hoàn tất đã bị nghiêng đổ, hay mới sử dụng được ít ngày, đã bị sụp lún và nứt nẻ tùm lum khiến cho khổ chủ mặt mũi buồn xo! Hầu như trong bất cứ ngành nghề nào, người ta cũng đều có thể lươn lẹo và luồn lách, gian dối và xảo trá để vơ vét về cho đầy lòng tham của mình. Nhưng khốn nỗi, lòng tham của người ta lại thường vô đáy, nên biết thế nào mà lấp cho đầy. Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc, lại vừa bán giáo. Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe: Mộc này thật chắc, không gì đâm thủng. Còn ai hỏi mua giáo, thì anh ta to miệng quảng cáo: Giáo này thật sắc, đâm cái gì cũng thủng. Nghe vậy, người ta bèn hỏi: Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của bác thì sao? Và thế là anh ta tịt ngòi. Tác giả sách Cổ Học Tinh Hoa bèn góp lời bàn như sau: “Chẳng qua vì mối lợi mà thành ra nói dối. Thế nhưng khi bị người ta hỏi đến lẽ, thì liền không đối đáp được nữa. Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán và khoe rằng: Ai mua tượng về nhà thì được giàu sang. Đến lúc có người bắt bẻ: Sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, mà lại mang ra chợ bán làm gì? Lập tức tắt khẩu, mà đành vác tượng ra về”. Vắt tay lên trán mà suy gẫm chuyện đời, lắm người đã phải dài hơi than thở cả tiếng: Có những nghề thấp đã nuôi dưỡng những nhân cách lớn và ngược lại nhiều nhân cách tồi lại ngự trị trong những nghề cao. Nghe xong lời phát biểu trên, gã bèn vỗ đùi đánh đét một cái và nói: Thật là tuyệt vời, tuyệt vời! Rất nhiều lần khi đọc những bài phóng sự về những phu hốt rác, những phu quét đường, hay những người thông ống cống thành phố…gã đã phải khẩu phục tâm phục những người phu, những người thợ này. Nghề của họ thật khiêm tốn, nhưng nhân cách của họ lại thật cao. Họ chẳng gian tham, chẳng mánh mung, nhưng âm thầm làm việc khi mọi người đang ngủ yên, hay chui rúc dưới những đường cống tăm tối và hôi thối, cốt để phục vụ dân phố và đem lại những thoải mái cho mọi người. Trái lại, thực là vô phúc và đại họa khi những kẻ có nhân cách tồi lại chễm chệ ngự trị trong những nghề cao. Chẳng hạn như những ông tổng thống, những ông bộ trưởng, những ông giám đốc…Nhãn hiệu trình tòa của họ thật là đẹp, nhưng nhân cách của họ lại tồi vì bị lòng tham lôi kéo và thúc đẩy, khiến họ đã nuốt trửng hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng mà vẫn cứ phây phây, làm cho đất nước đã nghèo lại càng nghèo hơn. Vì thế, yếu tố con người bao giờ cũng vẫn là yếu tố căn bản và đi hàng đầu. Nếu con người mà đã hỏng, thì mọi lãnh vực khác cũng sẽ bị sụm bà chè. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy: Chẳng có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn. Ở Hàng Châu có người bán các thứ trái cây, khéo để dành cam, lâu mà không ủng, vỏ vẫn đỏ hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc đem ra chợ bán giá đắt, mà người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về bóc ra, hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi người bán cam: Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm. Người bán cam cười và nói: Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân, Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi…Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẩn, Ngô Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, nhưng kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của quí, oai vệ, hách dịch vô cùng ! Đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc, mà bề trong chẳng như bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả cam của tôi! Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng? Qua truyện trên, tác giả muốn lấy quả cam đẹp vỏ, thối ruột mà châm chích cái hách dịch, cái oai vệ bề ngoài của những bậc quan lớn một đời suy đốn, để phơi bày cái thực chất bất tài, bất trí, bất dũng ở bên trong. Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói: Cái thùng không, bông lúa lép, hay những câu ca dao:
– Trông em, anh ngỡ sao mai, Biết rằng trong có như ngoài hay không ?
– Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, Nhìn ra mới biết chẩu chàng ngày mưa. Không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn. Chính kẻ hèn đã bôi tro trát trấu vào nghề nghiệp và làm cho nghề nghiệp cũng trở nên hèn, như một câu danh ngôn đã bảo: Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp. Viết tới đây, gã xin mượn lại một lần nữa mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy mang tựa đề là “Người bán thịt dê”: Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua. Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa. Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người bán thịt dê từ chối và nói: Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng. Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng: Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước, không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng. Vua bảo: Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy. Người bán thịt dê nói: Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng. Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng: Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta. Người bán thịt dê nghe thế bèn nói: Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê. Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay. Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời bàn như sau: “Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán gì. Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắm ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để lòe đời vậy.” Theo thiển ý của gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ nạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ lâu. Như vậy, chính lòng liêm khiết và tự trọng của người chủ quán đã mang lại vinh quang cho nghề bán thịt dê, một nghề xem ra rất tầm thường trong bất cứ xã hội nào. Phải chăng câu chuyện này đã củng cố phần nào cho ý tưởng gã đã trình bày ở trên, đó là không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn. Một câu chuyện khác cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là câu chuyện về Alfred Nobel. Vào một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát mình ra chất nổ và đang hái ra tiền như nước, đã thức giấc trong sự bàng hoàng và sửng sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của ông vua chất nổ. Thực ra, đây chỉ là sự lầm lẫn của một ký giả nào đó, bởi vì không phải Alfred Nobel qua đời, mà là người anh của ông. Thế nhưng, dù sao đây cũng là dịp để ông đọc được cảm nghĩ của người khác đang có đối với ông. Trên môi miệng mọi người, ông chỉ là ông vua chất nổ, là người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng. Người ta không hề nhắc tới những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không một ai đã nhắc đến những kiến tạo hòa bình của ông cả. Alfred Nobel buồn vô cùng vì hình ảnh của một nhà kinh doanh trên sự chết chóc mà thiên hạ đang nghĩ về mình. Ông quyết định làm cho cả thế giới biết lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc và viết tờ chúc thư, trong đó ông đã dành tất cả tài sản của mình để thiết lập nên một trong những giải thưởng có giá trị nhất thế giới, đó là giải Nobel hòa bình, nhằm tưởng thưởng cho tất cả những ai có công góp phần vào việc xây dựng hòa bình trên thế giới. Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua chất nổ nữa, mà là vua hòa bình. Và như vậy, không phải nghề nghiệp đã làm danh giá cho con người, mà chính con người đã làm danh giá cho nghề nghiệp. Vì thế, chúng ta cần phải trao cho con cái một nghề để nó có thể tự mình kiếm sống, bởi vì: Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Có làm thời mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho. Tuy nhiên, việc quan trọng hơn vẫn là phải đào luyện chính con người của chúng, vì yếu tố con người là yếu tố quyết định trong mọi lãnh vực. Chẳng thế mà người xưa đã từng xác quyết: Nhất niên chi kế, thụ cốc. thập niên chi kế, thụ mộc. bách niên chi kế, thụ nhân. Có nghĩa là: Kế trăm năm không gì bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây. kế trăm năm không gì bằng trồng người. Bởi vì: Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng. Vậy thử hỏi chúng ta đã đầu tư thế nào cho sứ mạng trồng người này ? Trong phạm vi xã hội, ngân sách nhà nước dành bao nhiêu phần trăm cho chi phí quốc phòng và bao nhiêu phần trăm cho công việc giáo dục? Khi con người đã rệu rạo thì chắc chắn xã hội sẽ tuột dốc, bất ổn sẽ xảy ra và người ta sẽ lại đổ tiền nhiều hơn nữa để ổn định trật tự, cũng như tái lập hòa bình. Quả là một cái vòng luẩn quẩn chết người, vì đã không chịu “chữa tận căn”. Con người là gốc rễ. Gốc rễ đã thối, thì dù có bón bao nhiêu phân, xịt bao nhiêu thuốc dưỡng, cũng chỉ là vô ích mà thôi. Trong phạm vi gia đình, chúng ta đã thực sự quan tâm và bắt tay vào việc giáo dục con cái chưa? Hay là chúng ta lại chủ trương trao phó cho ông trời, như tục ngữ đã nói: Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Và cứ để mặc con cái lớn lên như một loài cỏ dại. Để kết thúc, gã xin chia sẻ như thế này: Đối với con cái, để lại tiền của không bằng để lại kiến thức. để lại kiến thức không bằng để lại nghề nghiệp. để lại nghề nghiệp không bằng để lại đức độ. Gã Siêu
Lời Quán Ven Đường: Bài "Vì tôi là linh mục" đã được đăng từ vài năm trước trong mục Chuyện GãSiêu 2
Lời Quán Ven Đường: Bài "Vì tôi là linh mục" đã được đăng từ vài năm trước trong mục Chuyện Phiếm Gã Siêu. Tuy nhiên, chúng tôi xin đăng lại gởi đến bà con gần xa nhân kỷ niệm 40 năm linh mục (1975-2015) của Gã Siêu, tức Cha Hòang Đình Mai, giáo phận Long Xuyên. Đối với người Việt nam, đề tài linh mục cho đến bây giờ vẫn còn là một đề tài lạ lẫm, bởi đó thỉnh thoảng nó lại được lôi lên sân khấu và phim ảnh hay được những ngòi bút đá động tới, mỗi lần như thế thì thường gây nên nhiều ấn tượng, nhiều chú ý và nhiều ồn ào.
Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước năm 1975, Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà Vĩnh Duy, một linh mục nhạc sĩ. Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc bấy giờ thiên hạ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Vào thời điểm ấy, gã đang dạy Việt văn tại một trường trung học hẻo lánh vùng Thất sơn khỉ ho cò gáy. Các em nhỏ học sinh, nhất là phe kẹp tóc, đa số là người Phật giáo, thậm chí còn có cả đôi ba cậu sư Miên, đến tuổi thì vào ở chùa theo tục lệ, rồi sau đó mới được thả về nhà lấy vợ…thế mà cũng nhao nhao đòi thuyết trình và hội thảo về tác phẩm này.
Hình như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng được trình làng. Bài hát này đã gây được một âm vang khá lớn, thậm chí những lúc buồn tình, các cô gái ngây thơ cũng chu mỏ và ngay cả các “ma xơ” cũng mở miệng nghêu ngao: Vì tôi là linh mục, không mặc chiếc áo dòng, nên chi đời đau khổ, nên trót đời lang thang…Hẳn đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại trót yêu một tín đồ duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc áo chùng thâm mà đi bụi đời?
Sau năm 1975, hễ nghe có cuốn truyện nào viết về linh mục, gã cũng vội vã đi mua hay đi mượn mang về coi cọp, chẳng hạn như: Bão biển của Chu văn, Người mục tử trong sương mù… Lúc đầu thì đọc ngấu đọc nghiến vì tò mò, nhưng chỉ được dăm bảy trang thì bèn giở quẻ ngáp dài ngáp vắn, ngáp lên ngáp xuống, ngán đến tận cần cổ, đành phải cố nhướng mắt mà nuốt cho hết thế mà nó vẫn chẳng chịu trôi. Bởi vì, ngay từ những trang đầu gã đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác và đã nhận ra ý đồ đen tối của những tác giả trong luồng, đó là chụp lên đầu những vị linh mục tội nghiệp ấy cái mũ phản động hay cái mũ đồi trụy. Chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy, nên những cuốn truyện này đã mau chóng bị chìm vào quên lãng, chẳng cuốn hút được người đọc, thậm chí còn phản tác dụng, khiến thiên hạ lại càng thương cho…mấy ông cha hơn.
Xét về nguyên do của việc tu trì, thiên hạ xấu bụng thường bảo:
- Trốn việc quan đi ở nhà chùa…Chán đời, hay thất tình thì mới đi…tu, bởi vì tu là cõi phúc, tình là giây…thun. Và người ta đã khai thác chủ đề này, viết thành những tác phẩm nổi tiếng, chẳng hạn như “Hồn bướm mơ tiên”, hay dàn dựng thành những vở kịch ăn khách, chẳng hạn như “Chuyện tình Lan và Điệp”.
Gã chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này thương một cô nàng, nhưng đây chỉ là một tình yêu đơn phương, có nghĩa rằng thì là anh chàng thì thương da thương diếc, còn cô nàng thì lại lạnh lùng, ngoảnh mặt làm ngơ, khiến cho anh chàng cứ héo hắt và quay quắt. Thế rồi, cô nàng bỗng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên với một thằng bạn cùng học “mí nhau” từ thuở còn mặc quần thủng đũng. Và thế là trái tim anh chàng cũng tan nát theo kiểu: - Ngày nhà em pháo nổ, Anh cuộn mình trong chăn, Như con sâu làm tổ, Trong trái vải cô đơn. Anh chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn, lang thang như người cõi trên và miệng thì lảm nhảm theo giai điệu của bài “Love story”:
- Ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn. Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá. Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn. Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá… Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn bị vỡ tung, anh chàng lặng lẽ khăn gói quả mướp, lê từng bước chân âm thầm vào một nhà dòng và tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau, anh chàng được thụ phong linh mục. Trong ngày mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và nói:
- Con ạ cha đi con.
Cha mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng đãng nhìn về chốn xa xôi. Bây giờ mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, vị linh mục này thường hay mỉm cười nói với bè bạn:
- Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc đầu xẻ mũi, thì có lẽ mình đã làm bố cụ, chứ đâu có thèm làm cụ như anh em thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn một cây tầm thường. Thánh ý Ngài nhiệm mầu hết xảy. Bên đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng phải là không có, nhưng xem ra rất họa hiếm, vì chú nhóc thường vào tiểu chủng viện hay nhà dòng từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm. Thế nhưng, ở cái thuở “thò lò mũi xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu được ơn gọi là gì ? Đơn giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy “cụ” được đi giày tây, ăn bánh tây và ở nhà tây. Ra ngoài đường được cả và thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào:
- Con xin phép lạy cha ạ.
Đôi khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để sau này chúng được nhàn hạ và hạnh phúc, như lời phát biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu nọ với cha phó kia trong một cuộc hội họp hàng tháng:
- Đi tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ đèo bồng ở ngoài đời như chúng con khổ lắm cha ạ.
Có chú nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm mong được mọi người gọi mình là “ông cố”, “bà cố”. Bởi cái giấc mộng vàng ấy, khi thấy chú nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu, một ông “chuẩn cố” đã thẳng thừng nói với “chú nhà tràng” như sau:
- Thà rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn là làm vương làm tướng ngoài thế gian, con ạ.
Những lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với năm tháng dần dần được đẽo gọt, được mài dũa, để rồi kết tinh và cô đọng lại thành cái lý tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến xùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp tuyệt vời của thiên chức linh mục, ít ai cả gan dám đề cập tới những thập giá của tước vị này, khiến cho cha mới chỉ nhìn thấy bông hồng mà quên đi những gai nhọn của nó. Với những lời ca ngợi và chúc tụng ấy, ngày mở tay được coi như là đỉnh vinh quang Taborê của cha mới, không khéo thì cha mới cũng thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa:
- Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì thích lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia.
Thế nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì qua mau, vinh quang Taborê chỉ kéo dài trong thoáng chốc, để rồi tới lúc phải xuống núi và đối đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì nhiêu khê, lắm nỗi truân chuyên và nhiều phen lao đao, xất bất xang bang. Các bậc lão thành thường đề cập tới ảnh hưởng của linh mục đối với giáo dân như sau:
- Linh mục thánh thiện thì giáo dân đạo đức. Linh mục đạo đức thì giáo dân loàng xoàng. Linh mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh. Linh mục nguội lạnh thì giáo dân xấu xa. Linh mục xấu xa thì giáo dân biến thành quỉ dữ.
Như thế, giáo dân bị đánh tụt một bậc so với linh mục. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi vì linh mục là sư phụ, còn giáo dân là đệ tử về đàng thiêng liêng. Đệ tử làm sao hơn sư phụ. Linh mục là người hướng dẫn. Nếu người hướng dẫn mà mù, thì như lời Chúa đã dạy: Mù dẫn mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.
Cùng với những ý tưởng trên, gã nhớ tới một bài giảng nhân ngày mở tay của một cha mới. Đại khái như thế này:
“Hãy cột một chiếc nút để xe kết hai đầu giây, đó là linh mục, bởi vì linh mục xe kết con người với Thiên Chúa. Hãy xây một cây cầu nối liền hai bờ bến xa cách, đó là linh mục bởi vì linh mục nối liền đất với trời. Nói cách khác, linh mục là trung gian giữa nhân loại và Đấng Tối Cao. Vì vậy, một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, còn một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay con người, để rồi đặt bàn tay con người vào lòng bàn tay của Thiên Chúa, cho tình yêu được đâm bông kết trái và ơn tha thứ được trao ban. Chính cái thế tay trong tay này là điều chúng ta mong mỏi nơi các linh mục. Cái thế tay trong tay ấy đòi hỏi linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa đã đành mà con phải gần gũi với con người. Nếu linh mục rời bỏ một trong hai bàn tay, không nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa hay không nắm chặt lấy bàn tay con người, lúc bấy giờ linh mục sẽ không chu toàn chức vụ của mình.
Phải gắn bó với Thiên Chúa, đó là bổn phận thứ nhất của linh mục. Thực vậy, nhiệm vụ của linh mục là không ngừng đem Chúa đến cho mọi người. Và muốn đem Chúa đến cho mọi người thì chính bản thân linh mục phải là người có Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn và có Chúa trong cuộc đời vì linh mục không thể cho người khác cái mình không có. Đức Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh mục, phải là thần tượng của linh mục, phải là điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc đời linh mục, phải là trọng tâm cho mọi hoạt động của linh mục. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời của linh mục cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi linh mục có thể hãnh diện nói lên như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Tiếp đến linh mục còn phải gần gũi với con người. Gần gũi với con người bằng cách chia sẻ những lo lắng, cảm thông những khó khăn và tận tình giúp đỡ những cần thiết, để rồi từ đó linh mục sẽ chỉ cho con người nhận ra bàn tay dịu hiền và trái tim nhân hậu của Thiên Chúa.
Phải gắn bó với Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa cũng như phải nắm chặt lấy bàn tay con người để tạo cho được cái thế yêu thương tay trong tay. Tội lớn nhất của linh mục không phải là đã trót sa ngã, đã trót vấp phạn, bởi vì Thiên Chúa không chọn các thiên thần, nhưng đã chọn những con người tầm thường và yếu đuối làm linh mục của Ngài. Tội lớn nhất của linh mục, đó là đã rời bỏ một trong hai bàn tay ấy. Hoặc là đã quay lưng chống lại Thiên Chúa, hoặc là đã thờ ơ lạnh nhạt với anh em đồng loại. Lúc bấy giờ, linh mục chỉ còn là một nhịp cầu đã gẫy, một nút giây đã đứt hay một người lính đã đào ngũ. Trong chiến tranh, mục tiêu kẻ thù thường nhắm tới trước hết để triệt hạ, để phá hủy, chính là những cây cầu”.
Từ đó, gã không ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, bởi vì đó là mưu thâm chước độc của …”địch”. Tuy nhiên, không phải chỉ phe địch mới bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, nhiều khi chính con cái trong nhà cũng đã bạo phổi và mạnh miệng chỉ trích các linh mục một cách đầy ác ý. Họ luôn hỏi rằng: Linh mục đã làm gì cho tôi? Nhưng lại chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào lương tâm để kiểm điểm xem: Tôi đã làm gì cho linh mục? Hễ thấy linh mục có chút gì sai lỗi thì lập tức liền xì xầm bàn tán, rồi mím môi mím lợi thổi phồng bong bóng. Họ đâu có ngờ rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư linh mục.
Sau đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ, trong đó giáo dân đã xô linh mục vào chân tường, đã đẩy linh mục tới chỗ bất ổn hay đã làm hư linh mục.
Trường hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng kính đến độ khúm núm, coi linh mục như là một người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ” mí nhau, nhưng một khi đã thụ phong linh mục, từ hòn đất được cất nên ông bụt, thì lập tức được gọi là cha, là cụ, là cố, khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất, cũng phải “kính nhi viễn chi”. Trọng kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá trọng kính đến độ khúm núm thì lại là điều nguy hiểm vì nó dễ làm cho linh mục quên đi mình xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Thiên Chúa, đồng thời luôn mang ảo tưởng mình là ông bụt, mình là cái rốn của vũ trụ, rồi từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán và mất dạy.
Đọc tới đây, hẳn có người sẽ nghĩ rằng: Tên này thật lếu láo, dám cả gan bạo phổi nói mấy ông cố mất dạy, thì đúng là hết thuốc chữa. Bởi đó, gã xin lớn tiếng thanh minh thanh nga rằng: Mất dạy ở đây không có nghĩa là vô phép, hỗn hào mà đơn giản chỉ là không còn được dạy bảo nữa mà thôi.
Nếu hiểu như thế, cộng thêm với một chút suy nghĩ, chúng ta sẽ nhận ra phần nào sự thật. Đây cũng là lời khuyên của một bà cố nói với người con của mình vừa mới đỗ cụ:
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ, thì con sẽ trở nên một người mất dạy, bởi vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, xuất phát từ quan niệm cho rằng linh mục là người thông suốt mọi sự, nên trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, linh mục thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Từ một người rao giảng lời Chúa và cử hành các Bí tích cho đến một người đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp và kiện tụng, làm cố vấn cho các đôi hôn nhân và các gia đình, làm kỹ sư kiêm đốc công cho các dự án xây dựng, làm quân sư quạt mo hướng dẫn bà con về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói tới những linh mục còn phải lãnh nhận cả những chức vụ phần đời, như thành viên của tổ chức này, phần tử của tổ chức nọ, đứng đầu hợp tác xã hay làm chủ máy cày, máy xay. Với những công việc vừa đa dạng, vừa bận rộn như thế, linh mục rất dễ sao lãng việc sống gắn bó với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Từ việc sao lãng ấy, linh mục không còn nhận ra sự soi dẫn và chỉ bảo của Chúa nữa, để rồi trở nên mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa.
Tiếp đến, do những thành công gặt hái được và nhất là do những trọng kính thái quá người ta dành cho mình, linh mục cứ ngỡ rằng mình là một bậc thày lỗi lạc, trổi vượt lên trên mọi người, ý kiến của mình phải luôn luôn đúng, nên dễ dàng gạt “phăng xi lô” những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng khi những ý kiến đóng góp và những đề nghị xây dựng ấy khác với đường lối chủ trương của mình. Từ đó, như đã trình bày, linh mục dễ rơi vào tình trạng độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe và đón nhận. Như vậy, phải chăng linh mục cũng đã làm cho mình dần dần trở nên mất dạy?
Ấy là chưa nói đến những trường hợp vì đa đoan công việc, linh mục sao lãng chuyện tìm hiểu và trau dồi thêm kiến thức đạo đức, khoa học, xã hội qua sách vở, báo chí và những phương tiện truyền thông khác, để rồi trình độ mỗi ngày một xuống cấp và không sớm thì muộn cũng sẽ bị “tụt hậu”.
Trong ngôn ngữ thường ngày, người giáo dân được gọi là con chiên. Quan niệm này xuất phát từ Kinh thánh. Chiên ngoan thì phải biết lắng nghe và vâng phục chủ chăn. Điều đó rất đúng, nhưng phải làm thế nào để xóa bỏ tính thụ động của nó, bởi vì người giáo dân hôm nay tương đối đã trưởng thành, nên cần phải biết chia sẻ trách nhiệm và góp phần xây dựng tích cực của mình vào cộng đoàn dân Chúa.
Trường hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm khắc và thiếu cảm thông của giáo dân đôi khi đã làm cho linh mục buồn đau đến rơi cả nước mắt. Một trong những nguyên tắc cư xử thông thường, đó là hãy nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ lại hành động ngược với nguyên tắc thông thường ấy, bằng cách tỏ ra nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan điểm này cũng được giáo dân áp dụng vào mối liên hệ với linh mục.
Thiên hạ thường nói: nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình, kể cả linh mục vì linh mục cũng mang thân phận mỏng dòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người mười ý, bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn. Hay như tục ngữ cũng đã bảo:
- Ở sao cho vừa lòng người. Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn. Béo chê béo trục béo tròn. Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Linh mục được sánh ví như người làm dâu trăm họ, nên khó có thể làm vừa lòng mọi người và nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng làm vừa lòng một ai. Giáo dân hay quên mất những công ơn linh mục đã làm, mà chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của linh mục để lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao, rồi dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp đơn cho Đức cha hay cho nhà nước mà kiện tụng linh tinh.
Thưở ban đầu, vùng Cái sắn chỉ là một cánh đồng hoang với cỏ dại mọc um tùm. Một cha sở dẫn đoàn chiên của mình tới cắn dùi. Cha sở ấy bỏ công sức, tiền bạc ra xây dựng, từ nhà thờ, nhà xứ đến trường học. Cùng với thời gian, cha sở mỗi ngày một già. Và đã già thì cũng hay có những sự lẩm cẩm. Trước những sự lẩm cẩm ấy, người ta đã xì xào bàn tán, viết thư nặc danh ném vào phòng, hay tố cáo chỗ này chỗ nọ, chỉ vì cha sở đã già. Tòa giám mục hay biết liền đổi cha sở đi một nơi khác. Nhận được tin ấy, người ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn cử đại diện lên gặp Đức giám mục để xin cho cha sở được ở lại với dáng bộ rất thiểu não. Thế nhưng, khi được hỏi:
- Bộ các ông đã chẳng muốn cho cha đi hay sao?
Một trong những vị đại diện đã trả lời:
- Cha đi mà mình chẳng níu kéo thì coi sao được. Ôi dào, đời mà!
Nghe câu trả lời này, đến như gã chỉ là một kẻ hậu sinh mà cũng còn cảm thấy tê tái cõi lòng, đúng như người xưa đã bảo: Bạc như dân, bất nhân như lính.
Bao lâu linh mục còn khỏe mạnh để phục vụ giáo xứ, thì vẫn là một người cha đáng mến đáng trọng, nhưng một khi đã đau yếu, đã già nua và đã là một gánh nặng, thì liền trở nên một cái gai cần phải nhổ đi. Nói vậy xem ra khí quá, nhưng trong thực tế, có những sự việc xảy ra khiến cho gã phải suy nghĩ.
Một cha sở trẻ chẳng may bị ung thư và qua đời. Việc chạy chữa và mai táng tốn kém khá nhiều. Tốn kém ấy được chi trả bằng tiền riêng của cha sở. Vì không đủ nên còn tồn đọng lại một món nợ. Sau khi cha sở được “mồ yên mả dài”, người ta đã cãi nhau chí chóe về món nợ này. Giáo xứ cũng như dòng họ không ai muốn trả. Cuối cùng, Tòa giám mục đành phải nhận vậy.
Một cha sở trẻ khác vừa mới khánh thành ngôi nhà thờ cho giáo xứ thì lâm bệnh nặng. Bệnh nặng chữa không khỏi mà tiền bạc thì lại hao tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi cứ vài tuần lại phải đi tái khám và mua thuốc uống tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu chưa có chuyện gì, nhưng sau một thời gian, những tiếng eo xèo bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn, cộng thêm với chuyện này chuyện nọ, rồi cuối cùng cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi hưu non, như “con chim ẩn mình chờ chết”.
Có lẽ thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục. Gã nhớ không rõ một tác giả nào đó đã diễn tả: Chiều Chúa nhật, mọi người ra về, cửa nhà thờ khóa lại. Một mình tôi đơn độc trong khu nhà xứ rộng mênh mông. Thưa chuyện với Chúa, thì hình như Chúa cũng xa vời. Cuối cùng thì cũng chỉ vò võ một mình, tôi nhìn tôi trên vách. Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau yếu. Một cha phó đã bật mí cho gã biết như sau: Ngày nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm người cạo gió. Nhờ bà này hay cô kia thì không ổn, bởi vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là chước mốc ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng đôi khi cũng dữ như sư tử Hà đông. Khi đoàn “nữ binh mùa thu” này mà đã loan tin bằng chiến thuật rỉ tai thì còn nhanh hơn cả những máy móc điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú nhỏ giúp lễ kêu về một ông hàng xóm đang trong tình trạng say không ra say, xỉn không ra xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà như dân ghiền thường bảo: một xị thì mở mang trí hóa, hai xị thì giải bớt cơn sầu, ba xị thì mũi chảy đầy râu, bốn xị thì ngồi đâu khóc đó…Vì được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình đang nóng bừng bừng, thì bỗng dưng cảm thấy lạnh toát ở xương sống, hóa ra nước mũi của ông hàng xóm cứ vô tư rơi thánh thót trên tấm lưng của mình. Lần khác khi giác hơi, ông ấy đã đổ ụp cả một ống dầu hôi lên người. Nhiều khi đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên trần mà xem những con thằn lằn đuổi nhau.
Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục về già. Nhà hưu thì nơi có nơi không. Mà có thì cũng khá thiếu thốn. Còn về ở với gia đình, không phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm giắt cạp quần, thì con cháu xem ra hăm hở nhiệt thành. Nhưng khi tiền đã hết, thì tình cũng chấp cánh bay cao và sự chăm sóc bèn trở thành một gánh nặng. Có khi chưa chết, chúng đã vội chia chác, hay chôm chỉa được cái nào hay cái ấy. Chuyện còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện nhim nhím.
Chuyện thứ nhất: Đức giáo hoàng Piô X, ngay sau khi vừa được tấn phong làm Giám mục Montova, đã về thăm gia đình và khoe với mẹ chiếc nhẫn giám mục của mình:
- Này bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp hay không?
Người mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay và bảo:
- Nếu không có cái này thì làm sao có cái kia.
Chuyệnthứ hai: Nghỉ hè, mấy thầy rủ nhau đi Lái Thiêu. Ban trưa ghé vào một gia đình mượn con dao để bổ trái cây. Chủ nhà là một sư huynh Lasan đã xuất và lập gia đình, bèn nói với các thầy như sau:
- Hãy cố mà tu cho đắc đạo để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Còn không tu được thì cũng chẳng sao, về đây qua sẽ liệu cho. Bởi vì lũ con của qua toàn là…”vịt giời” không à. Bậc sống nào cũng tốt. Tu là cõi phúc mà tình cũng là cõi phúc, miễn là mình đi đúng con đường của Chúa.
Từ khi đi tiểu chủng viện cho tiến tới chức linh mục. Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi rụng dọc đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải là chuyện dễ và đời tu cũng không phải là vắng bóng thập giá. Có ở trong chăm mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Đã cố gắng mà chẳng được làm cha cố, thì làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố, làm sao có cha cố!!! Gã Siêu
Có những đêm không ngủ, lồm cồm bò dậy, gã bèn thầm thĩ cám ơn Thượng đế vì đã thương cho GãSiêu 3
Có những đêm không ngủ, lồm cồm bò dậy, gã bèn thầm thĩ cám ơn Thượng đế vì đã thương cho gã được sinh ra đời dưới một ngôi sao sáng. Ngôi sao sáng ấy chính là thân con giai, chính là kiếp của anh đờn ông. Thực vậy, nếu so sánh đờn ông với đờn bà, gã liền nghiệm ra rằng: Đờn bà sao mà lắm chuyện nhiêu khê rắc rối quá vậy. Chẳng hạn về cơ thể. Cơ thể chị đờn bà phức tạp hơn anh đờn ông một trời một vực. Nhất là tháng nào đờn bà cũng phải trải qua những ngày xiểng liểng và xính vính, chẳng muốn thò mặt ra ngoài đường, chẳng muốn động móng tay lay thử bất kỳ một việc nào cả. Thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng buồn xua. Thế nhưng, nếu không có những ngày xiểng liểng và xính vính ấy thì đâu còn phải là đờn bà con gái nữa. Chuyện rằng: Một hãng phim nổi tiếng tại “Hồ ly vọng” bên Mỹ, kinh đô điện ảnh của cả và thế giới, người ta đành phải cho nghỉ việc trong những ngày xiểng liểng và xính vính của cô đào chính. Thế là cả một bầu đoàn thê tử, từ ông đạo diễn tới các tay chuyên viên đều được ngồi chơi xơi nước và ngáp vặt. Kẹt lắm thì mới phải làm. Và nếu có làm thì cũng phải hết sức tế nhị và vô cùng dịu dàng, kẻo cô đào chính ấy mà nổi máu tam bành lục tặc lên, thì quả là rách việc. Nói thế là để cho phe đờn ông con giai, nhất là mấy anh chồng thông cảm và hiểu cho thân phận đờn bà. Chớ nên táy máy, gây ồn ào hay bắt chị vợ phải lao động cật lực, như làm đồ nhậu, đãi đằng bè bạn trong những ngày… đèn đỏ bật sáng. Chẳng hạn về áo quần. Áo quần của chị đờn bà lủng củng hơn anh đờn ông rất nhiều. Mỗi lần có công việc mà phải đi chung cùng với cô em gái. Áo quần của gã thì chỉ cần một cái túi nhỏ cũng chưa đầy. Còn của cô nường hử? Một va li to đùng cũng vẫn còn thiếu. Ấy là chưa kể đến những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa như: Gương và lược, son và phấn… lại phải một cái bóp nhỏ cho cái dịch vụ làm đẹp này. Tuy nhiên, cái lý do chính khiến gã phải thầm cám Thượng đế trong suốt cả cuộc đời, đó là đờn ông con giai được cưng hơn đờn bà con gái. Thực vậy, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, ngoại trừ một vài trường hợp rất ư là họa hiếm, trong đó đờn bà làm tới chức nữ hoàng, tổng thống, thủ tướng hay bộ trưởng, còn phần đông đờn bà con gái đều bị coi rẻ và không có lấy được một địa vị đáng kể nào trong xã hội, chính vì vậy, các cụ ta ngày xưa đã bảo: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Một cậu con giai đã là có, mười cô con cái vưỡn kể là không. Sở dĩ các cụ ta ngày xưa quan niệm như thế vì do ảnh hưởng của Khổng giáo. Bởi vì theo Khổng giáo: Một trong ba điều đại bất hiếu, đó là không có con giai để nối dõi tông đường. Chuyện rằng: Hai vợ chồng nhà kia đẻ một ruỗi được năm cô con gái. Người tốt thì khen hai vợ chồng ấy thật may mắn vì có được “ngũ long công chúa”, còn kẻ thối mồm thì nói cạnh nói khóe, nói xỏ nói xiên mỗi khi gặp anh chồng: Thế nào lũ vịt giời nhà ông đã có con nào toi chưa? Anh chồng rất lấy làm đau khổ. Thấy anh chồng mỗi ngày một héo hắt và quay quắt, khiến chị vợ vô cùng xót xa, như chính mình bị héo hắt và quay quắt vậy. Ngày nọ chị vợ bàn với anh chồng: Hay là mình mướn người đẻ giùm? Anh chồng lúc đầu chối bai bải, viện cả tục ngữ ra mà bênh vực cho thái độ chung thủy, cũng như phớt tỉnh Ăng lê của mình: Gái mà chi, trai mà chi, sinh ra có nghĩa, có nghì là hơn. Thế nhưng, tự thâm tâm anh chồng cũng cảm thấy bất ổn với lũ vịt giời nhà mình, nên sau một thôi một hồi năn nỉ ỉ ôi của chị vợ, anh chồng cũng đành miễn cưỡng đồng ý. Và thế là chị vợ bèn đi tìm một cô gái khỏe mạnh, thảo một hợp đồng rõ ràng rành mạch như một hợp đồng kinh tế để mang bầu thay cho mình: Sinh xong thì trả con lại và được hưởng một số tiền, rồi ai về nhà nấy. Chấm hết. May thay cô gái sinh được một mụn con giai. Thế nhưng, liền sau đó thì hợp đồng bị bể cái rụp. Sở dĩ như vậy là vì cô gái không muốn trả lại đứa con. Còn anh chồng, vì qua lại thăm con nhiều lần, nên lửa tình nhen nhúm, rồi cuối cùng đã bỏ chị vợ để mà cắm dùi bên nhà cô gái. Đến lúc này, chị vợ mới sáng mắt ra thì đã quá… muộn. Bên Trung đông và nhất là những người theo đạo Hồi, đờn bà con gái mỗi khi ra đường còn phải che mặt, để khỏi bị thiên hạ nhìn thấy, bởi vì dung nhan mỹ miều ấy chỉ được dành cho một mình đức ông chồng thưởng thức mà thôi. Riêng trong lãnh vực gia đình, nền luân lý Khổng mạnh còn đưa ra những qui luật thật chặt chẽ và nghiệt ngã cho số kiếp của đờn bà, đó là tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Nghĩa là người con gái khi còn ở nhà thì phục tùng cha, khi đi lấy chồng thì phục tùng chồng, còn khi chồng chết thì phục tùng con. Trong khi đó, nền luân lý này lại nới lỏng và nhẹ tay đối với đờn ông con giai khi cho phép: Trai năm thê bảy thiếp. Còn: Gái chính chuyên chỉ có một chồng. Bên Ấn độ, quê hương anh bảy Chà và, có nơi người ta còn tuân theo một tập tục được liệt vào hàng dã man, đó là khi anh chồng mà ngỏm, thì chị vợ và các thê thiếp của anh ta cũng phải “đi ngủ với giun” để theo hầu anh ta nơi chín suối. Không phải chỉ xã hội, mà hình như chính Thượng đế cũng thiên tư và cố tình cưng phe đờn ông con giai hơn. Thực vậy, các cụ ta ngày xưa cũng bảo: Gái tham tài, trai tham sắc. Mà tài thì càng phát triển theo thời gian, còn sắc thì ngược lại, bị thời gian làm cho tàn phai, như tục ngữ đã dạy: Giai ba mươi tuổi đương xoan, Gái ba mươi tuổi đã toan về già. Chỉ có những kẻ cù nhầy theo kiểu “nhất lý nhì lỳ tam ì tứ ẩu” như gã mới dám mở mồm mở miệng ra mà phét lác: Giai ba mươi tuổi đã già, gái bốn mươi tám đang ra má hồng. Sinh ra đã thiệt thòi, lớn lên đờn bà con gái lại càng thiệt thòi hơn, bởi vì bản thân đã trở nên một nỗi lo âu ám ảnh cho cả bố lẫn mẹ: Cha chết không lo bằng gái to trong nhà. Gái lớn trong nhà như ma chửa cất. Gái chậm chồng, cha mẹ khắc khoải. Kẻ sính vũ khí đạn dược thì bảo: Có con gái lớn như chứa một trái bom trong nhà, không biết nó sẽ phát nổ lúc nào. Rồi đến khi đi lấy chồng, tương lai của đờn bà con gái như một canh bạc, phó mặc cho may rủi, chứ ít khi được làm chủ quyết định cũng như cuộc đời của mình: Phận gái mười hai bến nước. May thì vào bến trong, còn chẳng may thì vào bến đục. Phận gái như giọt mưa sa, may thì rơi xuống chỗ tốt, còn chẳng may thì rơi xuống đống bùn: Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Thân em như giếng giữa đường, người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.Và nhiều khi đã xảy ra những chuyện tréo cẳng ngỗng khá đau lòng: Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo. Tiếc thay cái chậu nước trong, để cho bèo tấm, bèo ong dạt vào. Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục, lại vần than rơm. Tuy nhiên, nhiều khi đã yên bề gia thất, thế mà đờn bà con gái vẫn phải cắn răng chịu đựng những thiệt thòi chỉ vì những thói hư tật xấu của anh chồng. Thực vậy, chân tướng của anh chồng nào cũng đều có những nét dễ ghét và không thương nổi. Hôm nay, gã xin nói tới một nét dễ ghét và không thương nổi ấy, đó là cái thói độc tài và độc đoán. Vậy độc tài và độc đoán là gì? Theo gã nghĩ: Độc đoán là quyết định hoàn toàn theo ý riêng của mình, phe lờ mọi góp ý của người khác. Còn độc tài thì bao trùm một lãnh vực rộng lớn hơn: Dành hết mọi quyền hành cũng như quyền lợi cho bản thân hay phe cánh của mình. Đây cũng chính là cái thói hư mà nhiều anh chồng đã mắc phải hay đang thích mắc phải. Thực vậy, vào cái thưở ban đầu lưu luyến ấy, anh chàng đã tỏ ra vô cùng ga lăng và hào hoa phong nhã. Đối với cô nường, thì anh chàng “cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa”. Cô nường muốn gì thì anh chàng cũng hết sức chiều theo, cho dù lắm lúc chẳng có được một đồng xu dính túi. Hay nói theo kiểu vua Hêrôđê: Ái khanh muốn gì thì cứ xin. Cho dù một nửa nước, trẫm cũng vưỡn sẵn lòng. Thế nhưng, khi ván đã đóng thuyền, cô nường đã trở thành chị vợ thì bất nhóc nhách. Và thế là “a lê hấp”, anh chồng bèn quay phắt một trăm tám mươi độ, tính tình bỗng trở nên bẳn gắt, mồm miệng thì luôn chửi bới. Quả thực anh chồng đã để lộ chân tướng “vũ phu chi cục mịch” của mình, như tục ngữ diễn tả: Khi chưa, cầu lụy trăm đàng. được rồi, thì lại phũ phàng làm ngơ.Cộng thêm vào đó là lời khuyên răn: Dạy con từ thưở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Và như thế, anh chồng được đà, mặc sức thao túng chiến trường, tha hồ mà biểu lộ sự độc tài độc đoán của mình dưới mọi hình thức. Trước hết là trong tư tưởng. Anh chồng thường cho rằng cái gì mình nghĩ đều là đúng, là phải, còn cái gì chị vợ tưởng đều là sai, là trái. Bởi vậy, hễ chị vợ mở miệng nói lên sự gì thì liền bị kê tủ đứng: Đờn bà con gái biết cái chi mà nói. Sở dĩ như vậy, vì những tư tưởng của tiền nhân đã in sâu vào đầu óc vốn ưa “hách xì xằng” của anh chồng: Khôn ngoan cũng thể đờn bà, dù là vụng dại cũng là đờn ông. Và anh chồng đã nhìn chị vợ bằng nửa con mắt: Đờn ông nông cạn giếng khơi, đờn ba sâu sắc như cơi đựng trầu. Cơi đựng trầu thì có được là bao, nên chi anh chồng thường chép miệng thở dài với một thoáng khinh khi: Ôi giào, đờn bà con gái ấy mà. Anh chồng đang sống trong thời buổi văn minh tin học, thế mà lại rất sính nền luân lý Khổng mạnh, vì nền luân lý này vốn bênh vực quyền lợi của đờn ông con giai, nên ngu gì mà không chuộng. Ngoài chuyện áp đặt tam tòng, tức là ba sự cần phải phục tùng, như đã trình bày ở trên, nền luân lý này lại còn tròng vào cổ đờn bà con gái cái ách “phu xướng phụ tùy”, anh chồng phán điều chi thì chị vợ phải răm rắp làm theo, không được ý kiến, ý cò chi cả. Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc chẳng đơn giản tí nào, hơn thế nữa: Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.Thành thử mới cần phải đón nhận những ý kiến xây dựng của người khác để mở rộng đường dư luận. Bởi vì những ý kiến này thường khách quan hơn, nên dễ tìm ra được những giải quyết vừa hợp tình lại vừa hợp lý. Trong khi đó, đầu óc của anh chồng vốn nghiêng về suy luận và tổng hợp, còn đầu óc của chị vợ lại thường nghiêng về trực giác và chi tiết. Vì thế, thiên hạ đã bảo: Cái nhìn đúng, không phải là cái nhìn của chàng hay của nàng, mà là cái nhìn của cả hai đứa chúng mình. Đồng thời, như các cụ ta cũng thường nói: Thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Điều lý tưởng nhất đó là sau khi đã bàn bạc, lắng nghe và trao đổi, vợ chồng đi tới một sự nhất trí, rồi cùng cộng tác với nhau để thực hiện điều đã nhất trí ấy, thì theo gã nghĩ: Khó khăn nào cũng sẽ được vượt qua. Tiếp đến là trong lời nói. Ngày xưa thì: Anh anh, em em. Hay: Mình ơi. Chí ít thì cũng: Mẹ thằng cu… Má cái đĩ. Còn bây giờ, nhất là khi cơn giận nổi lên bừng bừng, rồi tẩu hỏa nhập ma, phát ngôn bừa bãi theo kiểu mày tao chi tớ: Cái con mẹ mày… cái con mụ nọ. Lời lẽ thì thô tục cộc cằn, như dùi đục chấm mắm tôm. Rồi lại còn cho nhau ăn đủ thứ cao lương mỹ vị đến quỉ thần cũng không lường nổi. Anh chồng cứ gân cổ mà nói thật lớn, cứ y như rằng càng nói lớn bao nhiêu thì sự thật sẽ nằm trên phần đất của mình bấy nhiêu. Tới nước này, lắm chị vợ không còn kìm nổi sự chịu đựng và nhường nhịn của mình nữa, nên cũng đốp chát, thành thử làm điếc lỗ nhĩ hàng xóm, như một câu danh ngôn đã bảo: Trước khi cưới, anh nói thì chị nghe, còn chị nói thì anh nghe. Liền sau khi cưới, anh nói thì anh nghe, chị nói thì chị nghe. Còn lâu sau khi cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm phải nghe. Anh chồng thường áp dụng chiến thuật: Cả vú lấp miệng em. Việc đầu tiên là phải chửi cái đã, chửi phủ đầu vì chửi chậm sẽ… chết. Giống như mấy ông tài xế, chẳng may gây tai nạn giao thông, thì chẳng cần biết nạn nhân bị thương nặng hay nhẹ, sống hay chết… cứ việc vô tư hoa chân múa tay, mở to mồm mà chửi, vì nếu không chửi thì sợ rằng người khác sẽ chớp mất lẽ phải, hay lẽ phải sẽ bị bay hơi. Lý luận của anh chồng trong nhiều hoàn cảnh thật ngang còn hơn cả cua, thế mà vưỡn vỗ ngực cho mình là đúng, là phải, nhất là lý luận trong cơn say, cơn xỉn, thì quả là hết nước nói: Tao đã bảo cái con mẹ mày hai với hai là năm đấy. Giỏi thì cãi lại coi. Anh chồng nói để mà nói, nói để mà áp đảo đối phương, chứ nào còn nhớ tới lời khuyên: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Sau cùng là trong việc làm. Đức Kitô đã dạy: Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Và chúng ta cũng bảo: Tư tưởng thì hướng dẫn hành động. Một khi đã cho mình là đúng, là phải, thì anh chồng thường biểu lộ sự độc tài độc đoán của mình ra bên ngoài qua những lời nói đao to búa lớn, coi trời bằng vung, huống chi là chị vợ. Hơn thế nữa, còn được biểu lộ qua những hành động chuyên chế và áp đặt đối với vợ con trong nhà. Thực vậy, cung cách cư xử của anh chồng là cung cách “chồng chúa vợ tôi”, có nghĩa là chồng làm chủ, còn vợ làm tôi đòi phục vụ từ A đến Z, từ đầu chí cuối. Mặc dù thời buổi bây giờ là thời buổi nam nữ bình quyền, thế mà gã vẫn thấy trong một vài gia đình, tới bữa cơm ông bố hay anh chồng ngồi chễm chệ một mình một cỗ riêng biệt. Bao nhiêu thịt thà cá mú phải được dành ưu tiên cho “lão chủ phải gió” này. Sau khi lão ta đã xơi no đủ phủ phê, thì mới tới lượt vợ con. Thật tội nghiệp cho chị vợ mỗi khi anh chồng tổ chức ăn nhậu đãi đằng bè bạn. Vừa vất vả mua sắm và nấu nướng, mồi hôi mồ kê chảy xuống đầy mặt ròng ròng, vừa phải dọn dẹp rửa ráy, ấy là chưa kể tới việc các đấng mày râu quá chén đến nỗi cho chó ăn chè, phải thu dọn chiến trường đã bị ô nhiễm một cách nồng nặc này. Gã đã được tham dự bữa tiệc mừng thượng thọ của một anh chồng. Người ngoài khi nghe bốn tiếng “tiệc mừng thượng thọ”, cứ ngỡ anh chồng này chí ít cũng phải ngót nghét bảy mươi, như cổ nhân đã bảo: Thất thập cổ lai hy. Ai dè anh chồng mới vừa tròn bốn mươi, nên mừng tứ tuần để sớm được hưu non, cũng như để sớm được lên lão mà cà kê dê ngỗng với “các cụ trong rân”, theo kiểu Tú xương: Việc nhà phó mặc cho bu nó, quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Thái độ độc tài và độc đoán còn được biểu lộ một cách rõ ràng hơn cả qua công tác dạy vợ. Thường thì những anh chồng này dạy bằng bạo lực, bởi vì vũ phu chi cục mịch vốn là nghề của chàng. Trước hết, là quẳng nồi niêu xoong chảo, bát đĩa…ra ngoài sân mỗi khi bực bội tức tối trong lòng. Tiếp đến, là thượng cẳng chân hạ cẳng tay cho chị vợ ăn đòn. Sau đây gã xin ghi lại một vài quái chiêu mà những anh chồng vũ phu đã sử dụng để dạy cho chị vợ một bài học. Những quái chiêu này đã được báo Công an đăng tải. Quái chiêu thứ nhất, đó là dạy vợ bằng dao: Với cung cách sinh hoạt “chồng chúa, vợ tôi” đã quen, nên Lê Ngọc Ân, ngụ tại Gò Vấp, rất dễ nổi cơn thịnh nộ mỗi khi vợ làm trái ý mình. Ngày 12.5.1999, Ân bảo vợ đi mua xe nước mía về bán, nhưng chị Nguyễn Thị Như Hoa, vợ của y, chưa mua được. Thế là Ân nổi giận đùng đùng, ra tay… cạo đầu vợ để lấy uy tín. Tàn nhẫn hơn, y lại cạo bằng…dao Thái Lan, khiến chị Hoa bị rách cả mảng da đầu, máu ra nhiều đến nỗi bất tỉnh phải dưa vào bệnh viện cấp cứu. Hiện gã chồng vũ phu đã bị bắt giữ về tội dùng dao hành hạ vợ. Quái chiêu thứ hai, đó là dạy vợ bằng lửa: Vì tức giận, nên Nguyễn Văn Son 30 tuổi, ngụ tại Kiên giang, vào ngày 5.6.1999 sau khi đi uống rượu về, hắn đã trói vợ là chị Lý Thị Oanh và đổ dầu vào chị rồi châm lửa đốt. Phát hiện vụ “nướng vợ” này, bà con lối xóm vội đến cứu chữa, nhưng chị Oanh đã bị phỏng nặng. Nguyễn Văn Son đã bỏ trốn và hiện đang bị truy nã. Hẳn là còn nhiều quái chiêu khác nữa, nhưng bằng đó cũng đã đủ để cho thấy việc dùng bạo lực để dạy vợ là điều không thể chấp nhận được. Nồi niêu xoong chảo bị đập bể, thì rồi chính anh chồng lại phải nai lưng ra kiếm tiền mua sắm lại. Chị vợ mang thương tích thì chính anh chồng lại mất công, mất của mà thuốc thang chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ chết luôn thì bản thân anh chồng sẽ vào tù để đền tội, bàn dân thiên hạ sẽ coi anh ta là hạng vũ phu, còn gia đình chắc chắn sẽ lâm vào cảnh nheo nhóc và tan nát. Để kết luận, gã xin ghi lại nơi đây một kiểu dạy vợ khác, theo chiến thuật “bất bạo động” của ngài Gandhi, vị anh hùng của dân tộc Ấn độ. Kiểu dạy này đã được đăng trên báo Phụ nữ qua tâm sự của một anh chồng: Tôi và vợ tôi lấy nhau vì tình yêu. Chúng tôi là bạn trước khi là người tình. Chúng tôi rất hiểu nhau, vậy mà khi đã sống chung, chúng tôi đã có không ít những mâu thuẫn, kình cãi. Từ những lần xung đột như vậy, tôi mới bắt đều nhận ra tính cách của chúng tôi mới khác nhau biết bao. Tôi điềm đạm, còn cô ấy nóng nảy. Tôi hiền, còn cô ấy dữ. Tôi vốn tiết kiệm lời, còn cô ấy lại hay nói. Tôi dễ bỏ qua, còn cô ấy luôn chấp nhất… Ngán ngẩm thật và gay go thật để tìm ra một giải pháp cho vấn đề của vợ chồng tôi. Thế là… Khi cô ấy làm rùm beng lên về một chuyện gì đó. Tôi chẳng dại gì mà hé môi. Cô ấy thắc mắc, tôi vẫn đủ khôn ngoan để mà không mở miệng. Cô ấy to tiếng, tôi vẫn đủ bình tĩnh để mà làm thinh. Cô ấy càm ràm mãi, tôi vẫn đủ sáng suốt để mà yên lặng. Tôi còn nhớ kỷ niệm này. Lần đó, khi vợ tôi nổi cơn tam bành, tôi im lặng. Cô ấy không chịu. Tôi đọc báo. Cô ấy giật tờ báo. Tôi im lặng. Cô ấy hùng hổ: Thà anh đánh em. Tôi im lặng. Cô ấy lao vào tôi: Thà anh đuổi em. Tôi im lặng. Tôi mở nhạc, cô ấy tắt. Tôi im lặng. Tôi lên giường nằm khép mắt, cô ấy vạch mắt tôi ra. Tôi im lặng. Thế là cô ấy ngồi phịch xuống và khóc. Tôi vẫn cứ im lặng. Khóc chán, cô ấy đưa mắt lên… kiếm tìm. Bắt gặp. Tôi không đành im lặng nên… cười. Thế là… Vợ tôi bây giờ ư? Tất nhiên là rất tuyệt. Bạn hãy nghe lời xúi dại của gã, cứ thử làm như thế một lần xem sao? Kết quả thế nào nhớ báo cho gã được hay. Gã Siêu
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết giá trị của đồng tiền: - Tiền là tiên là phật, Là sức bật GãSiêu 4
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết giá trị của đồng tiền:
- Tiền là tiên là phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khỏe của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân. Một khi đã biết được giá trị của nó là như thế, nên mọi người, bất luận nam phụ lão ấu, đều thích tiền. Từ chỗ thích tiền tới chỗ tham tiền chỉ cách nhau có tí xíu.
Tại một nước Hồi giáo, người đàn ông nọ bị kết án tử hình vì đã lấy trộm thức ăn của kẻ khác.Trước khi bị treo cổ, theo thông lệ, anh ta được phép xin nhà vua ban cho một ân huệ. Và anh ta đã kêu lên:
- Xin bệ hạ cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm mà thôi, hạt giống sẽ nảy mần, đâm bông và kết trái ngay lập tức, vì đó là bí quyết gia truyền.
Nhà vua chấp thuận. Đúng giờ đã định, trước mặt nhà vua và bá quan văn võ, anh ta đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ người nào chưa hề ăn trộm, mới có thể gieo hạt giống này được. Vì đã từng lấy cắp, nên tôi không thể.
Nhà vua tin lời anh ta, bèn quay sang nhìn quan tể tướng. Sau một lúc do dự,, quan tể tướng bèn thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu cũng có lần lấy cắp của người khác, nên thần không thể.
Nhà vua thầm nghĩ: Ta sẽ nhờ viên thủ kho vốn nổi tiếng thanh liêm, không tham nhũng hối lộ. Nhưng viên thủ kho cũng khiêm tốn từ chối vì đã có lần thụt két và gian lận trong tiền bạc.
Không tìm được người nào, nhà vua bèn đứng dậy cầm hạt táo đến bỏ vào chiếc lỗ, nhưng bỗng sực nhớ ra rằng mình đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha. Lúc bấy giờ tên tử tội mới chua xót thốt lên:
- Các ngài là những kẻ giàu sang, quyền cao chức trọng, chẳng hề thiếu thốn điều chi, thế mà cũng đã hơn một lần ăn cắp. Còn tôi, một kẻ khốn khổ, chỉ vì mượn đỡ thức ăn trong cơn đói thì lại bị kết án treo cổ. Chẳng công bằng chút nào.
Thậm chí, ngay cả quí vị con nít cũng rất thích và rất tham tiền.
Ngày nọ, một chú nhóc bị kẹt cả bàn tay trong chiếc bình cổ. Trước khi đập bể chiếc bình quí giá ấy, ông bố nói với chú nhóc:
- Con hãy thử lần cuối bằng cách duỗi thẳng các ngón tay ra và rút lên.
Nhưng chú nhóc trả lời:
- Nếu duỗi thẳng các ngón tay ra thì đồng tiền con đang cầm sẽ rơi mất sao ?
Điều oái oăm thay, đó là lòng tham của con người thì dường như không có đáy, chẳng bao giờ được no thỏa. Tên đầy tớ được ông chủ thương cho ở trong một ngôi nhà đẹp đẽ, có vườn hoa bao quanh. Sau một tháng đi vắng, khi trở về ông thầm nghĩ người đầy tớ sẽ sung sướng và biết ơn ông. Thế nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược. Tên đầy tớ lúc nào cũng nhăn nhó như bực bội điều chi. Ngạc nhiên, ông chủ bèn hỏi:
- Anh không cảm thấy sung sướng khi có đủ mọi sự hay sao?
Tên đầy tớ trả lời:
- Làm sao tôi sung sướng cho được? Ông bảo là tôi có đủ mọi sự ư? Không đâu. Nhà bên cạnh có một con chim hoàng yến. Tôi muốn mà chẳng được. Tiếng hót của nó ngày càng làm cho tôi khổ tâm.
Thật đúng như tục ngữ đã diễn tả: Đứng núi này trông núi nọ. Được voi đòi tiên. Đã thích tiền và tham tiền thì phải làm thế nào cho có và có nhiều tiền. Muốn được như vậy, người ta phải nai lưng ra mà kiếm tiền. Có người kiếm tiền một cách chân chính bằng sức lao động cật lực của mình. Những người này thường nghèo và chẳng có được mấy tí. Thế nhưng, lắm kẻ lại kiếm tiền một cách bất chính bằng mọi thủ đoạn như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn hối lộ... Những kẻ này thường giàu và phất lên trông thấy.
Một khi đã có tiền,thì phải biết dùng tiền. Trong phạm vi tiêu tiền, gã xin ghi nhận hai thái cực. Thái cực thứ nhất đó là tiêu tiền một cách hoang phí, theo kiểu: Vung tay quá trán. Bóc ngắn cắn dài. Con nhà lính, tính nhà quan. Nếu thái cực này cứ liên tục phát triển thì chẳng mấy chốc mà đi đoong sự nghiệp và trở thành dân khố rách áo ôm.
Thái cực thứ hai đó là tiêu tiền một cách keo kiệt, bủn xỉn, vốn được người đời gọi là hà tiện. Và đây chính là điều gã xin bàn đến. Vậy chân dung những kẻ hà tiện là như thế nào? Cũng như bao người khác, họ là những kẻ thích tiền và tham tiền, nhưng lại không dám xài tiền và tiêu tiền, nếu có thì cũng rất bủn xỉn và nhỏ giọt nhưng trong lòng lại tiếc hùi hụi. Tục ngữ Việt Nam đã diễn tả họ là những kẻ: Rán sành ra mỡ. Vắt cù chày ra nước. Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà mót hạt tấm. Keo cút người đâu như cứt sắt, tham lam chuyên thở những hơi đồng.
Họ tưởng rằng mình làm chủ tiền bạc, nhưng trái lại, chính tiền bạc đã làm chủ họ. Một ông chủ thật hà khắc. Họ là những kẻ chỉ có đầu vô mà không có đầu ra. Cố gắng tích lũy mà không dám tiêu xài, dù cho những nhu cầu chính đáng và cần thiết. Cái khoái duy nhất của họ là được ngồi đếm tiền và thấy túi tiền của mình mỗi ngày một căng phồng.
Có một ông nhà giàu nhưng rất keo kiệt. Ông đã xây cho mình một căn phòng bí mật để cất giấu tiền. Hằng đêm một mình ông lẻn xuống, mắt sáng rực khi ngồi đếm những xấp tiền mới tinh. Ông đưa lên mũi, hít hà và đê mê thích thú, như say thuốc lào hay “phê” sì ke vậy. Rủi thay hôm ấy, ông vội vã đóng sập cửa nhưng lại để quên chìa khóa ở ngoài. Ông gào thét song chẳng ai nghe thấy. Cuối cùng, ông đã chết thối giữa những đồng tiền của mình. Hình ảnh hằng đêm ông ngồi lặng lẽ đếm tiền đã nói lên một sự thật: Mũi kẻ hà tiện có tài chịu đựng nổi mùi hôi tanh của tiền bạc, giống như mũi của người nghèo khổ có tài chịu đựng nổi mùi hôi thối của rác rưởi.
Thói hà tiện và keo kiệt này lại thường gia tăng theo tuổi tác, như một câu danh ngôn đã bảo: Khi các tật xấu khác xem ra đã già, thì thói hà tiện và keo kiệt vẫn cứ trẻ mãi. Và càng già, thì lại càng có những sức bật mới. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì người già thường nhìn thấy một tương lai bấp bênh đang chờ đón mình, nên phải gom góp thật nhiều hầu tạo cho mình một cảm giác an toàn. Và như vậy, kẻ hà tiện sống rất khổ cực.
Một bà lão ăn mày, quanh năm vất vả rảo qua các ngõ lối để xin bố thí. Dù mùa đông băng giá, bà cũng chỉ mặc một manh áo rách. Bà van lơn thảm thiết, kể lể cảnh túng cực. Người thương tình thì cho tí chút, kẻ quen mặt thì xua đuổi bà như kẻ trộm, nhưng bà vẫn kiên tâm. Tối đến, bà trở về túp lều xiêu vẹo. Bà chỉ ăn những mẩu bánh thừa người ta cho, đau ốm không dám mua thuốc vì tiếc tiền. Do sống quá kham khổ, bà đã ngã bệnh và chết, tay vẫn chỉ vào góc nhà. Người ta đào bới và tìm thấy một cái hộp trong đó đựng gần hai trăm ngàn đô la!
Không phải họ chỉ sống rất khổ cực, mà chết cũng rất khổ cực. Một ông già hấp hối, vị linh mục tới xức dầu, nhưng ông nhất định không chịu mở bàn tay ra. Sau khi ông chết, người ta thấy bàn tay ấy vào giây phút cuối cùng vẫn nắm chặt chìa khóa “két” tiền. Một ông hà tiện khác, làm lụng vất vả suốt năm, ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Ông sắm được nhiều vàng. Lúc sắp chết, ông xin người ta đặt những thỏi vàng trên tay. Người ta bỏ vàng đầy cả hai bàn tay. Nhưng khi vừa chết, vàng liền rơi ra vì hai bàn tay đã cứng đơ. Thật đúng như ca dao đã nói:
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Kẻ hà tiện chẳng dám tiêu tiền và xài tiền cho bản thân mình, mặc dù có những nhu cầu thật chính đáng và cần thiết. Như vậy người khác đừng có hòng tơ tưởng và xơ múi gì vào đồng tiền của họ, đừng hòng trông mong họ giúp đỡ và bố thí. Nếu có người tới hỏi vay, họ sẽ trả lời:
- Lúc này tôi cũng túng bấn và kẹt lắm, không thể giúp được.
Nếu người đó có năn nỉ ỉ ôi đến gẫy lưỡi thì họa may họ mới cho vay nhưng với mức lời cắt cổ. Nếu có người vì trách nhiệm phải tới lạc quyên, xin họ giúp đỡ cho những công trình phúc lợi chung hay cứu trợ cho những nạn nhân của thiên tai bão lụt, họ sẽ trốn để khỏi lôi thôi và phức tạp. Còn nếu không trốn được, họ sẽ miễn cưỡng trả lời:
- Thèm lòng chứ ai lại thèm thịt. Lòng tôi thì muốn rất nhiều, nhưng cái khó bó cái khôn, hoàn cảnh lúc này thật là...
Rồi họ sẽ cà kê dê ngỗng, vòng vo tam quốc, tả oán một chặp. Cuối cùng mới bủn xỉn ló ra được vài đồng bạc lẻ đã nhàu nát. Thành thử đồng tiền của kẻ hà tiện chẳng đem lại lợi ích gì cho đời và cho người như một câu danh ngôn đã bảo: Kẻ hà tiện giống như một mỏ vàng, trên đó cây cối chẳng thể nào đâm bông kết trái. Họa chăng chỉ khi nào họ đã chết thì may ra tiền bạc ấy mới đem lại tí ti lợi ích nào chăng: Con lợn chỉ tốt và có ích khi nó hết sống. Kẻ hà tiện cũng vậy, chỉ có ích cho người khác khi họ đã chết mà thôi. Hay khi họ biết mở mắt ra nhìn cảnh khốn cùng của những người chung quanh mà “cải tà qui chánh”.
Một ông tỷ phú có thói quen lên sân thượng dùng ống nhòm nhìn lén các cô thiếu nữ. Ông thản nhiên trước nếp sống lầm than của đám dân nghèo khổ chung quanh. Ngày kia, ông nhìn thấy một phụ nữ tay cầm một sợi dây với dáng đi thiểu não. Ông vội chạy xuống tìm gặp người phụ nữ ấy thì được biết vì quá túng cực nàng muốn treo cổ lên cây mà chết. Ông liền hỏi:
- Sao cô không chạy tới những người giàu có ?
- Những người càng giàu thì lại càng hay keo kiệt.
- Còn các cơ quan từ thiện ?
- Họ đòi hỏi nhiều thứ giấy tờ, thủ tục hành chánh quá phức tạp.
- Thế chồng cô đâu ?
- Anh ấy bị thất nghiệp.
Vừa lúc đó cảnh sát bắt được một tên trộm và dẫn đến. Tên trộm ấy chính là chồng của người thiếu phụ. Lúc bấy giờ ông tỷ phú mới mở mắt ra và nói:
- Sự việc hôm nay đã giúp tôi thức tỉnh sau một đêm dài ích kỷ và keo kiệt. Mặc dù giàu có, nhưng vì không quan tâm tới những người chung quanh nghèo đói, nên mới ra nông nỗi này.
Vì thế, cần phải biết tiêu tiền cho hợp tình và hợp lý, không hoang phí theo kiểu “phá gia chi tử”, nhưng cũng không keo kiệt bủn xỉn theo kiểu “rán sành ra mỡ”. Tiền bạc trước hết phải được tiêu dùng cho bản thân và gia đình, hầu bảo đảm một cuộc sống vật chất ấm no. Gã còn nhớ lời khuyên của một thầy giáo già trường làng như sau: Đối với những sự cần thiết và chính đáng thì bao nhiêu cũng sẵn sàng chi ra, nhưng đối với những sự thừa thãi và hoang phí, thì một đồng, một cắc cũng không.
Ngày kia, người ta đến lạc quyên một gia đình nọ. Vừa tới cổng thì đã nghe thấy tiếng bà mẹ la mắng cậu con trai:
- Con lại đốt phí một que diêm rồi đấy.
Nghe thấy thế, người ta thầm nghĩ: Xem chừng bà chủ keo kiệt, chắc chẳng ăn thua gì. Tuy vậy, vì bổn phận, người ta cũng bấm chuông. Cánh cửa mở ra và bà chủ tươi cười nói:
- Hẳn quí vị đã nghe tôi mắng đứa con trai. Nhưng nếu tôi chẳng tiết kiệm từng que diêm thì hôm nay làm gì có 500 đô mà giúp hội từ thiện.
Thế nhưng, tiền bạc không phải chỉ được tiêu dùng cho bản thân và gia đình, mà hơn thế nữa nó còn phải được tiêu dùng cho người khác, nhất là những người nghèo túng, cực khổ đang cần được quan tâm giúp đỡ. Khi giúp đỡ người khác, không phải chúng ta chỉ cố gắng “xóa đói giảm nghèo” hay làm vơi bớt nỗi khổ đau của họ, mà thực ra là chúng ta giúp đỡ và làm lợi cho chính bản thân mình. Sách Cổ học tinh hoa đã ghi lại câu chuyện “mua nghĩa” như sau:
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?
Mạnh Thường quân nói:
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại và bảo:
- Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều tha cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường quân:
- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy phòng, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh Thường quân bị bãi quan, trở về đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
- Trước kia tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy nay tôi mới trông thấy.
Câu chuyện trên làm cho gã nhớ tới Lời Chúa trong Tin Mừng: Hãy dùng của cải chóng qua mà mua lấy bạn hữu. Chính những hành động bác ái yêu thương mới là người bạn đích thực, theo chúng ta và bênh vực cho chúng ta. Chính những hành động bác ái yêu thương mới là tấm giấy thông hành cho chúng ta bước vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Một ông nhà giàu nhưng tính lại keo kiệt, sau khi chết, được dẫn đi tham quan thiên đàng. Phong cảnh thiên đàng thật là tuyệt vời, đi mãi không biết chán. Trưa đến, đói bụng ông ghé vào một quán ăn ven đường. Ông lên tiếng hỏi:
- Đĩa cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Một đồng.
- Còn đĩa cơm lớn?
- Cũng một đồng.
- Vậy hãy cho tôi một đĩa cơm lớn.
- Nhưng ông có tiền không đã?
- Có chứ.
Nói rồi, ông nhà giàu lấy ra trong chiếc ví dày cộm một đồng tiền còn mới. Thế nhưng người chủ quán lắc đầu và nói:
- Không được, ở thiên đàng không xài thứ tiền “thu tích” mà chỉ tiêu thứ tiền “cho đi” mà thôi. Tất cả tiền trong ví của ông đều là loại tiền thu tích, ông chẳng hề có lấy được một xu cho đi, bởi vì trong cuộc sống ông có giúp đỡ ai bao giờ.
Nghe nói thế, ông nhà giàu tái mặt bỏ đi. Bước chân tuyệt vọng lặng lẽ rời khỏi thiên đàng. Chả biết những gì đang chờ đón ông.
Tiền bạc sẽ thối mục nếu chỉ biết thu tích, nhưng trái lại sẽ kết trái nếu biết cho đi. Gã Siêu
Đờn bà và đờn ông, chuyện dài của muôn đời, có lẽ viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết GãSiêu 5
Đờn bà và đờn ông, chuyện dài của muôn đời, có lẽ viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết. Đờn bà và đờn ông có những khác biệt ngay từ lúc Thượng Đế cho ra lò tác phẩm đầu tay của mình, thành thử nếu không khéo hòa hợp, những khác biệt ấy sẽ trở thành những đối kháng làm cho tê liệt mọi sinh hoạt, thì quả thật là thậm chí nguy. Phải, chị đờn bà thì chu mỏ chê bai anh đờn ông, như tục ngữ ca dao đã diễn tả:
– Đờn ông ba bảy đờn ông, Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha. Hay như:
Ba đồng một chục đờn ông, Ta bỏ vào lồng, ta xách ta chơi. Ai ngờ dây đứt, lồng rơi. Nó bò lổm ngổm mỗi thằng một nơi. Trong khi đó anh đờn ông thì lại ngán ngẩm, dài cổ ra mà ca với cẩm:
– Kiếp sau chẳng dám làm chồng, Làm cây cọc cắm bên sông cũng đành. Còn hơn có vợ bị hành, Bầm lên dập xuống như chanh cuối mùa. Lương chưa kịp giấu sơ cua, Đã moi sạch nhách chẳng chừa một xu. Giữ chồng còn hơn giữ tù, Đi đâu bà cũng lù lù theo sau. Bạn bè vừa mới gặp nhau, Chai chưa kịp cạn, “về mau, tối rồi”. Điểm tâm sáng chỉ gói xôi, Cà phê, thuốc lá xa rời từ lâu. Tan sở chẳng dám đi đâu, Đón con, ghé chợ mua rau, mua hành. Về nhà kho cá, nấu canh. Lau chùi giặt giũ, dỗ dành… bày heo. Mười năm khổ vẫn còn đeo, Trời ơi, cứu kiếp bọt bèo của con. (PNCN số 45). Mặc dầu sự đời vốn dĩ là như thế, đờn bà và đờn ông tuy lườm nguýt nhau, nhưng vẫn cứ lôi cuốn, hấp dẫn lẫn nhau, cho tình yêu được nở rộ, cho nòi giống được tồn tại. Anh đờn ông thì: – Trai thấy gái lạ, Như quạ thấy gà con. Còn chị đờn bà thì: – Đi đâu mà chẳng lấy chồng, Người ta lấy hết chổng mông mà gào. Đây quả thực là ý muốn vừa thâm sâu, lại vừa nhiệm màu của Đấng Tạo Hóa. Vì thế các cụ ta từ ngày xửa ngày xưa vốn đã từng xác quyết: Nhất âm, nhất dương chi vi đạo. Âm dương, qui luật của muôn đời, không phải chỉ là đạo người mà còn là đạo chung của tất cả vạn vật. Thực vậy, muôn loài trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật âm dương. Hơn thế nữa, âm và dương luôn thu hút lẫn nhau mà lưu truyền trong dòng thời gian. Vì thế, anh đờn ông có liếc mắt đưa tình chị đờn bà, hay chị đờn bà có liếc mắt đưa tình anh đờn ông, âu cũng là chuyện thường ngày ở huyện: – Có âm dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa, cũng vòng phu thê. Và như vậy, gã thấy trong vũ trụ vật chất thì âm cũng cần, mà dương cũng cần. Còn trong cõi nhân sinh, thì đờn bà cũng quí, mà đờn ông cũng trọng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý đó là phải biết điều hòa, chứ đừng nhất bên trọng, nhất bên khinh. Các cụ ta ngày xưa đã từng dạy: Thái quá bất cập. Nhân đức bao giờ cũng đứng giữa, ở vào cái thế trung dung, chứ không nghiêng bên này, hay ngả bên kia. Âm dương phải hòa hợp, nam nữ phải đề huề, thì mới liên tục phát triển: Gái có chồng như rồng có vây. Bằng không thì rất khó mà tiến tới: Gái không chồng như cối xay chết ngỏng. Có biết tôn trọng lẫn nhau, thì mới tạo được sự bình an và hạnh phúc. Còn gì êm đẹp cho bằng hình ảnh vợ chồng đồng lao cộng khổ với nhau như ca dao tục ngữ đã diễn tả: – Đôi ta là nghĩa tào khang, Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau. – Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. – Râu tôm nấu với ruột bàu, Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon. Còn nếu như bị “lệch pha”, chẳng hạn như “âm thịnh dương suy” ắt sẽ tạo nên những bất ổn, như danh ngôn đông tây vốn đã đề cập đến: Đờn bà không có đờn ông như vườn không có rào. Trong khi đó: Đờn ông không có đờn bà như đàn đứt dây. Nhà không đờn bà như thân xác thiếu mất linh hồn. Thành thử sau hai bài viết: thế giới không đờn bà và nhân loại chẳng đờn ông, gã mới “ngộ” ra rằng, đó là hai thái cực không thể nào chấp nhận được. Phải có đờn bà cũng như phải có đờn ông. Đồng thời cả hai phải biết tựa vào nhau để mà sống.
Đọc lại những trang đầu của sách Sáng thế ký, gã thấy được một quan niệm rất đặc sắc về hôn nhân, cũng như về đờn bà và đờn ông của Kitô giáo. Thực vậy, sau khi dựng nên Adong, Thiên Chúa đặt ông đứng đầu để trông coi cá biển chim trời và muôn vật sống trên mặt đất. Thấy ông sống cô độc, lẻ loi và cu ki, Thiên Chúa thầm nghĩ: Người đờn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó. Đợi lúc ông ngủ say, Thiên Chúa bèn lấy một nửa chiếc xương sườn của ông mà tạo thành người đờn bà. Rồi Ngài dẫn bà ra mắt ông. Thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã mừng rỡ, hớn hở kêu lên: Này đây mới thật xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ vì bởi người nam mà ra. Như thế, Adong đã đồng hóa Eva với chính thân xác của mình. Để diễn tả ý tưởng “một xương một thịt”, theo gã nghĩ, trong tiếng Việt Nam của chúng ta có một danh từ thật dễ thương, thật tuyệt vời, đó là chữ “mình”. Bởi vì mình vừa là anh và cũng lại vừa là em, vừa là chàng và cũng lại vừa là nàng. Vừa là ngôi thứ nhất: – Mình làm ra chẳng ma nào giúp. Và cũng lại vừa là ngôi thứ hai: – Biển sâu sóng vỗ rập rình, Biển bao nhiêu sóng thương mình bấy nhiêu. Mình còn là cả chúng ta. Ngoài ra, mình vừa là thân xác: – Mình lính, tính quan. Và cũng lại là cả con người nữa. Nếu thế thì khi thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã hớn hở gọi: – Mình ơi! Hai chữ “mình ơi” quả thật đã ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn và trên cả tuyệt vời nữa. Từ hai chữ “mình ơi” gã bỗng nhớ tới hai chữ “ai ơi”. Số là cách đây mấy chục năm tại Việt Nam người ta vẫn còn e thẹn, dù đã là vợ chồng “mí nhau” nhưng rất ít khi người ta gọi nhau một cách thẳng thừng: Anh anh, em em. Có hai vợ chồng trẻ mới cưới. Chị vợ nấu cơm trong bếp. Anh chồng làm cỏ ngoài vườn. Khi nồi cơm đã chín, từ trong bếp chị vợ bèn gọi vọng ra: – Ai ơi về ăn cơm. Anh chồng bèn hỏi: – Cơm ai nấu. Chị vợ liền trả lời: – Ai nấu chứ ai. Ôi chu choa, tiếng Việt mình quả là dễ thương và hết xảy!!! Cũng từ một nửa chiếc xương sườn, gã liên tưởng đến hình ảnh một nửa trái tim. Có một câu chuyện thần thoại kể về việc tạo dựng trái tim đờn bà và đờn ông được tóm lược như sau: Thưở ban đầu, Thượng đế chỉ dựng nên có một trái tim duy nhất. Sau đó, Ngài bổ trái tim ấy thành hai mảnh đều nhau. Một mảnh thì Ngài đặt trong thân xác người đờn ông. Còn mảnh kia, thì Ngài đặt trong thân xác người đờn bà. Hai mảnh trái tim ấy luôn khắc khoải tìm kiếm nhau. Cho dù hai người có sống cách xa nhau hàng ngàn cây số, thì vẫn có những cuộc tình xuyên lục địa. Cho dù hai người có sống ở hai bên bờ biển ngàn trùng, thì vẫn có những cuộc tình xuyên đại dương. Cho dù hai người có sống ở những đất nước khác nhau, thì vẫn có những cuộc tình xuyên quốc gia. Vì thế, người Pháp mới gọi người vợ hay người chồng thân thương của mình là: Ma moitié! Có nghĩa là “Nửa của anh ơi!” “Nửa của em ơi!” Qua hình ảnh một nửa chiếc xương sườn và hai nửa trái tim, gã nhận thấy đờn bà và đờn ông đều đáng quí đáng trọng và phải được bình đẳng với nhau. Nói tới hai chữ bình đẳng, hẳn chúng ta lại nghĩ tới những phong trào đòi nam nữ bình quyền, phụ nữ đòi quyền sống. Những phong trào này một thời đã gây ồn ào và làm cho quần chúng chú ý đến. Thế nhưng rất nhiều người lại thích hiểu lầm về hai chữ “bình đẳng”. Thực vậy, họ cho rằng người đờn bà mặc gì, thì người đờn ông cũng có thể bắt chước mà mặc như vậy. Vì thế ngày nay, chúng ta mới thấy anh đờn ông để tóc dài, đeo bông tai. Chỉ còn việc mặc váy là chưa được phổ biến sâu rộng, ngoại trừ đờn ông xứ Tô Cách Lan! Họ cho rằng người đờn ông làm gì thì người đờn bà cũng có thể bắt chước mà làm như vậy. Vì thế, ngày nay chúng ta mới thấy nhiều chị đờn bà cũng để đầu trọc, đấu võ Sumô, hút thuốc và uống rượu như điên. Báo “Công an Thành phố” có đăng tải về đời sống của “Bà Tư xả láng”. Đây là một chuyện buồn, buồn nẫu cả gan và thối cả ruột. Chuyện buồn ấy như thế này: Ông bà ngày xưa thường nói: Phúc đức mới sinh được nhiều con. Nếu cứ theo cách nghĩ của người xưa, thì bà Trần Kim Nga thật có phước. Bà có tới tám đứa con, lớn nhất ba mươi, nhỏ nhất lên mười và các con bà thuộc loại chăm chỉ. Bốn con trai lớn đã về quê vợ làm ăn, hai con trai kế tiếp đi làm phụ hồ và xúc cát mướn. Cô con gái xinh đẹp tên là Nghi chỉ học đến lớp chín, rồi ở nhà may quần áo đem bán để phụ mẹ và nuôi đứa em út mới lên mười tuổi. Thế nhưng, bà Nga không biết giữ gìn hạnh phúc trời cho ấy. Bà sinh tật uống rượu vì buồn chồng mèo mỡ. Năm 1955 khi bà và người chồng chính thức chia tay, bà bán căn nhà, nơi cả gia đình sinh sống những ngày tháng đầm ấn nhất, được mười hai lượng vàng. Bà chia cho chồng năm cây để chồng đi với vợ mới, còn bà thì bắt đầu đến với rượu nhiều hơn để “hóa giải” cơn sầu! Bà uống hết hiệp này sang hiệp khác và say bí tỉ, vì vậy dân nhậu đặt cho bà biệt danh “Tư xả láng”. Từ tháng 6 năm 2001, Tư xả láng có quan hệ thân thiết như vợ chồng với anh Nguyễn Văn Tuấn, ngụ cùng phường và cũng là bạn nhậu của Tư xả láng.Tuấn thua bà Nga, tức Tư xả láng, mười bốn tuổi, hai người thường bỏ nhà đi chơi tới ba, bốn giờ sáng mới về. Mỗi lần say về, bà ói mửa, rên hừ hử, bắt các con bóp tay chân và chửi mắng thô lỗ. Mọi chuyện trong gia đình bà phó mặc cho Nghi, để chị em Nghi bữa đói bữa no. Thỉnh thoảng bà mới tỉnh rượu, gặp lúc lối xóm kêu đi chùi xoong nồi, bà làm và lấy tiền đi nhậu với Tuấn.Nghe lối xóm đồn ầm ĩ về chuyện hai người, Nghi hỏi mẹ: Mẹ và chú Tuấn yêu nhau à? Ừ, chú ấy yêu mẹ. Không được đâu, mẹ đã lớn tuổi vả lại chú ấy kém tuổi mẹ nhiều! Mẹ yêu là để trả thù ba vì ba có vợ nhỏ, bỏ mẹ. Khuyên nhủ mẹ không được, nhiều lần Nghi gặp Tuấn để can ngăn hãy buông tha mẹ để mẹ lo cho em của Nghi. Nhưng mặc lời can ngăn, mối quan hệ vẫn tiếp diễn. Bà Nga bỏ mặc các con ngay cả lúc con trai út sốt xuất huyết nặng, Nghi phải chạy vạy vay tiền đưa em vào bệnh viện cấp cứu. Mười lăm giờ ngày 01.4.2001, bà Nga và Tuấn đi chơi ở Châu Đốc về. Bà lên giường nằm một lúc rồi lại vùng dậy đi nhậu tiếp. Tới 18g30 không thấy mẹ về, Nghi lo mẹ uống nhiều sẽ bệnh, nên vội đi tìm. Gặp những người cùng nhậu với mẹ, Nghi hỏi: Mẹ con đâu? Mọi người trả lời: Bà ấy với thằng Tuấn đi rồi. Nghi nháo nhào đi tìm khắp nơi không thấy, nên chạy đến nhà Tuấn. Gõ cửa phòng mười lăm phút không thấy ai trả lời, nghi lén leo lên vách nhà nhìn vào thì thấy mẹ đang nằm trên giường của Tuấn. Gõ thật mạnh một lúc nữa mới thấy Tuấn mở cửa. Nghi đề nghị: Chú Tuấn để cho mẹ tôi về. Nghi đưa mẹ về nhà và nói: Mẹ nghỉ cho đỡ mệt. Rồi nhìn cảnh nhà bữa đói bữa no, đứa em lên mười ngơ ngác tội nghiệp, người mẹ chỉ nhậu về là rên la, không lo gì cho con, trong lòng Nghi nổi lên ý định giết Tuấn để “giành lại mẹ”. Lúc hai mươi giờ, Nghi lấy dao Thái Lan dắt vào bụng và tới nhà Tuấn, mời Tuấn ra quán cà phê nói chuyện. Ra quán, Nghi năn nỉ Tuấn hãy buông tha mẹ để mẹ chăm lo cho gia đình, chăm lo cho chị em Nghi và nhờ Tuấn khuyên mẹ không nên uống rượu vì mẹ lớn tuổi. Tuấn nói: Tôi thương rồi, bỏ không được. Vào lúc ấy, bà Nga lại đi tìm Tuấn. Thấy Tuấn đang ngồi với Nghi, bà định bỏ đi, nhưng Nghi kéo mẹ lại ngồi giữa Nghi và Tuấn: Đây có mẹ, ba mặt một lời, mẹ nói mẹ có thương chú Tuấn không? Bà Nga nói: Mẹ không thể lấy Tuấn vì tuổi tác, nên xem nhau như bạn thôi. Vậy chú Tuấn thì sao? Tôi thương bả, không thể cưới được, nhưng cũng không thể bỏ được. Quá uất ức, Nghi đập chai nước ngọt vào đầu Tuấn và đâm Tuấn. Sau đó, Nghi mang dao đến công an phường tự thú. Chính vì sự hiểu lệch lạc hai chữ “bình đẳng” mà phát sinh ra những hành động đáng tiếc theo kiểu “ông ăn chả, bà ăn nem” làm cho gia đình bị tan vỡ. Vậy bình đẳng là như thế nào ? Dĩ nhiên, gã không phủ nhận những khác biệt giữa đờn bà và đờn ông. Chẳng hạn đàn bà thì yếu, còn đờn ông thì mạnh. Đàn bà thiên về tình cảm, còn đờn ông thiên về suy luận. Đờn bà có óc phân tích, còn đờn ông có óc tổng hợp. Tuy nhiên, những khác biệt ấy không phải là để đối chọi và triệt tiêu lẫn nhau, như ánh sáng và bóng tối, như lửa và nước, nhưng là để bổ túc và nâng đỡ cho nhau. Vì thế, người ta thường bảo: Cái nhìn đúng không phải là cái nhìn của anh hay của em, nhưng là cái nhìn của cả hai đứa chúng mình. Tiếp đến, gã cũng phải công nhận rằng trong thân thể có nhiều chi thể và mỗi chi thể có một nhiệm vụ, nhưng tất cả đều hướng tới một mục đích, đó là làm cho thân thể được liên tục phát triển. Ngày nọ, hai chân lên tiếng phản đối cái miệng. Chúng nói: Suốt ngày tôi phải đi rạc cả cẳng, còn ngươi thì chỉ việc ngồi nhà mát ăn bát vàng. Hai tay cũng lên tiếng: Tôi phải làm lụng quần quật suốt ngày, còn ngươi thì chỉ việc xơi hết những thành quả do tôi làm ra. Thế là đôi tay và đôi chân đình công, không đi và cũng không làm nữa, thành thử cái miệng chẳng có gì để ăn. Nhưng chỉ một ngày, toàn thân ủ rũ như sắp chết đến nơi. Nhờ sự can thiệp của bộ óc, các chi thể mới hiểu được vai trò cần thiết của mình và tiếp tục hoạt động lại, làm cho toàn thân được sống và sống dồi dào. Ngoài xã hội cũng vậy, mỗi người có một nghề để sinh sống và đóng góp cho đất nước. Nếu mọi người đều cấy lúa thì lấy ai dệt vải. Nếu mọi người đều dệt vải thì lấy ai xây nhà…Đêm kia, một thi sĩ nằm mơ. Anh chàng thấy người giúp việc đến và nói: Tôi xin nghỉ việc. Từ nay, anh phải nấu lấy mà ăn, giặt lấy mà mặc. Người giết heo cũng đến và bảo: Tôi xin giải nghệ. Từ nay anh tự nuôi lợn, mổ lấy mà ăn. Rồi người trồng cà phê, người trồng thuốc lá, người cấy lúa… Tất cả đều xin nghỉ việc, khiến anh chàng lo toát cả mồ hôi, đập mạnh chân xuống giường, thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Thế nhưng, từ giấc mơ này anh chàng nhận ra rằng mình cần đến người khác và mình mắc nợ người khác nhiều lắm. Nơi gia đình luật phân công ấy cũng đã được áp dụng: Người thì kiếm tiến, kẻ thì nấu bếp. Tuy nhiên, tất cả đều có chung một nỗi băn khoăn lo lắng, đó là góp phần xây dựng cho cuộc sống được tốt đẹp hơn. Như thế, mỗi người đều có một công việc một bổn phận và không có công việc nào là thấp hèn, đáng khinh đáng ghét. Trái lại, công việc nào cũng tốt và cũng cần như nhau. Giống như khi nói về nghề nghiệp: Nghề nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có nghề xấu mà chỉ có người xấu mà thôi. Sau khi đã khẳng định như vậy, gã nhận ra rằng bình đẳng có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về nhân vị và phải được tôn trọng như nhau. Đờn bà cũng là một con người, cũng có một phẩm giá và cũng phải được quí mến như đờn ông. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” chuộng nam chê nữ, hay “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” một cậu con giai là đã có, chứ còn mười cô con gái cũng chỉ là số không, quả là đã xưa rồi Diễm ơi! Tiếp đến, bình đẳng còn có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều bằng nhau về quyền lợi cũng như về trách nhiệm. Cả hai đều phải kề vai sát cánh cộng tác với nhau trong việc xây dựng một cuộc đời chung, một mái ấm chung. Người chồng ngoài giờ đi làm, cũng phải giúp đỡ người vợ trong việc “tề gia nội trợ” cũng như giáo dục con cái, Người vợ ngoài việc bếp múc, cũng phải phụ với người chồng một tay trong việc bươm chải, tìm tiền kiếm bạc cho gia đình có được một cuộc sống vật chất ấm no. Nhất là khi người chồng bị sao quả tạ chiếu tướng, rơi vào tình trạng thất nghiệp, ở nhà đuổi gà cho vợ và ngồi chơi xơi nước, không còn kiếm ra một đồng xu nào sốt, thì người vợ cũng đừng vì thế mà lên tiếng chì chiết người chồng là hạng vô tài bất tướng, ăn hại đái nát. Rồi thay lòng đổi dạ. Lệnh Nữ là con gái của quan thái thú Hạ Hầu Văn Ninh, được gả cho Tào Văn Thúc, cháu nội của Tào Tháo. Văn Thúc chẳng may chết sớm, Lệnh Nữ góa chồng. Nàng sợ cha mẹ bắt phải tái giá, nên cắt cụt tóc, ý muốn ở vậy thờ chồng. Nhưng cha mẹ không nghe, ép phải lấy chồng. Lệnh Nữ bèn dùng dao cắt đứt hai tai, rồi sang ở với người anh họ của chồng là Tào Sảng. Khi Tư mã Ý diệt nước Ngụy, giết cả dòng họ Tào, chú của Lệnh Nữ bắt nàng về Lương Châu định ép gả. Nàng lại tự xẻo mũi, cương quyết ở vậy cho trọn đạo vợ hiền. Bà con thấy vậy liền bảo: Tất cả họ hàng nhà chồng đều bị tru diệt, nàng thủ tiết với ai mà phải đày đọa thân xác đến thế? Lệnh Nữ đáp: Tôi thường nghe người nhân chẳng lấy lẽ thịnh suy mà đổi tiết. Xưa kia họ Tào còn thế lực, mọi người thảy đều khuất phục để thụ hưởng giàu sang, nay chẳng may bị tru diệt, tôi há lại hùa theo thiên hạ mà làm điều bất nghĩa hay sao? Hẳn rằng khi bước vào cuộc sống hôn nhân, chúng ta đã lớn tiếng đọc lên lời thề hứa rằng: Sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc khỏe mạnh, để yêu thương và tôn trọng nhau trong suốt cả cuộc đời. Viết đến đây, gã xin khép lại chuyện đờn bà và đờn ông. GÃ SIÊU
Hôm nay, gã xin bàn đến chuyện ghen và ghét. Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt ganh đua GãSiêu 6
Hôm nay, gã xin bàn đến chuyện ghen và ghét. Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt ganh đua với ghen ghét. Thực vậy, ganh đua là cố gắng để được bằng người hay hơn người. Đây là một đức tính thúc đẩy người ta liên tục phát triển và tiến lên không ngừng. Nếu ai cũng bằng lòng với số phận của mình, thì làm gì có được những sáng kiến và cả “tối kiến” điểm tô cho cuộc đời như cành đào đầu xuân với trăm hoa đua nở. Trong khi đó ghen là bực bội tức tối khi thấy người khác hơn mình. Nó xuất phát từ tính ích kỷ, háo thắng, hẹp hòi và thiển cận. Như vậy, giữa ghen ghét và ganh đua có một sự cách biệt, như sự cách biệt giữa tật xấu và nhân đức. Nếu đưa mắt nhìn chung quanh, hẳn chúng ta sẽ thấy sự ghen ghét đã len lỏi và có mặt trong mọi lãnh vực, trong mọi phạm vi.
Là con nhà có đạo, đọc lại Cựu ước, gã thấy cái ghen xuất hiện rất sớm. Trước hết là cái ghen của ma quỉ. Thấy loài người được Thiên Chúa sủng ái, được hạnh phúc trong tình yêu thương của Ngài nơi vườn địa đàng, ma quỉ đã đem lòng ghen và ghét, nên mới bày mưu thâm chước độc cám dỗ để rồi ông bà nguyên tổ đã sa ngã và phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tiếp đến là cái ghen của Cain. Thấy lễ vật của Abel được Thiên Chúa chấp nhận, Cain đã bực bội để rồi cuối cùng đã rắp tâm thực hiện ý đồ đen tối, giết em mình ngoài đồng vắng…
Rời bỏ Kinh thánh để bước vào đời thường, gã thấy cái ghen đã có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như trong mọi lãnh vực.
Trước hết là trong lãnh vực gia đình. Không ít thì nhiều con cái đều kêu trách cha mẹ ăn ở thiên vị, không công bằng, con yêu con ghét. Đứa được nhiều, đứa được ít. Rồi từ đó sinh ra ngang bướng, giận hờn và thù oán. Không giận được cha mẹ, thì trút nỗi giận lên đầu đứa em. Mà đứa em thì có tội tình gì để phải lãnh nhận hậu qủa của sự ghen ghét ấy. Thực ra, không nên trách móc cha mẹ mà nên trách móc chính bản thân. Bởi vì chắc hẳn cha mẹ sẽ yêu thương đứa con siêng năng hơn đứa con lười biếng, đứa con đau yếu hơn đứa con khỏe mạnh, đứa con ngoan ngoãn hơn đứa con xấc láo…
Đặc biệt hơn cả là trong lãnh vực tình yêu vợ chồng. Thực vậy, trong lãnh vực này, cái ghen thường được định nghĩa là như thái độ bực bội khi thấy tình yêu của mình bị đánh cắp, hay nói cách khác, đó là thái độ tức tối khi thấy kẻ khác phỗng tay trên tình yêu của mình. Người ta thường bảo: Có yêu thì mới ghen. Và như vậy, cái ghen đều luồn lách vào trong máu huyết của những người đang yêu, bất kể đờn ông hay đờn bà, con giai hay con gái. Tuy nhiên, nơi đờn bà con gái, cái ghen thường mang một sắc thái đặc biệt hơn, chẳng thế mà ca dao đã từng nói:
- Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Vôi nào là vôi chẳng nồng, Gái nào là gái có chồng chẳng ghen. Trong ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều danh từ để chỉ những mức độ khác nhau của cái ghen. Chẳng hạn như: Ghen bóng ghen gió, đó là một cái ghen vu vơ, một cái ghen không có bằng cớ rõ rệt, một cái ghen có tính cách phủ đầu như muốn răn đe người mình thương rằng: Chớ có lạng quạng, xớ rớ vô là….chết với bà. Còn ghen hờn, ghen tủi, đó là là một cái ghen chất chứa trong lòng mà chẳng dám nói ra, cũng như chẳng có một hành động nào bên ngoài, cứ âm thần gậm nhấm nỗi giận hờn và tủi phận, khiến cho tê tái cả tâm hồn, tan nát cả con tim, héo hắt cả cuộc đời và quay quắt cả con người. Trong khi đó ghen thầm là một cái ghen để ở trong bụng, nhưng bên ngoài thì vẫn vui vẻ, coi như “nơ pa”, chẳng có sự gì xảy ra cả, để rồi lẳng lặng theo dõi và đưa ra những biện pháp vừa sâu lại vừa cay. Đây là cái ghen của những bậc cao thủ võ lâm, với bản lãnh đĩnh đạc, đáng cho thiên hạ phải kiêng nể.
Gã có thể nhận ra cái ghen ấy nơi Hoạn Thư trong truyện Kiều. Hoạn Thư là vợ của Thúc Sinh và là người đàn bà có cái ghen độc đáo. Nàng ghen nhưng biết giữ thể diện cho chồng, tìm mưu hại tình địch là Thúy Kiều. Hoạn Thư bắt Kiều phải gảy đàn và hầu rượu cho nàng và chồng dự tiệc, khiến Thúc sinh dở khóc dở cười, muốn độn thổ biến đi mà cũng chẳng được. Dù biết chồng có vợ lẽ, nàng vẫn làm ra vẻ thản nhiên cười nói như không, mà trong bụng máu ghen sôi lên sùng sục. Dù biết chồng giấu mình về việc cưới vợ lẽ, nàng vẫn rắp tâm thi hành độc kế, vừa không để thiên hạ gán cho mình là ghen xằng ghen bậy, vừa đày đọa Thúy Kiều và Thúc Sinh chẳng nhìn được nhau và cũng chẳng cất đầu lên nổi, bấy giờ nàng mới hả dạ. Một cái ghen vừa khoa học lại vừa tế nhị. Chính nàng sau này đã thú nhận:
- Rằng tôi chút phận đàn bà, Ghen tương thì cũng người ta thường tình. Và sau cùng, ghen lồng ghen lộn, đó là cái ghen của người có dòng máu nóng, khi đã máu ghen đã bốc lên thì đứng ngồi không yên, phải tìm cách bộc lộ ra bên ngoài bằng những hành động và thường là những hành động khốc liệt và tàn bạo như cuồng phong vũ bão, nào là chặn đường đánh cho một trận te tua, nào là dùng dao lam rạch mặt cảnh cáo, nào là tạt acid cho đi đoong cả con người…cốt ý sát hại tình địch hầu lưu lại cho tình địch một dấu ấn và một bài học để đời.
Gã rất lấy làm tâm phục và khẩu phục cha ông chúng ta trong việc ghép và dùng chữ. Chẳng hạn như học hành, đã học thì phải đem ra mà thi hành. Chẳng hạn như nhịn nhục, đã nhịn người ta thì phải cúi đầu chấp nhận bị nhục nhã. Cũng vậy, người ta thường nói ghen ghét, một khi đã ghen với người nào, thì chắc chắn cũng sẽ ghét người ấy, nghĩa là có ác cảm với người ấy. Giống như cái ghen, cái ghét cũng có những mức độ đậm đặc khác nhau.
Trước hết là ghét ngọt ghét bùi, bên trong thì ghét nhưng bên ngoài vẫn làm bộ vui vẻ, dịu ngọt. Đây là cái ghét của người có bản lãnh sâu sắc và hiểm độc. Tiếp đến là ghét bỏ, nghĩa là vừa có ác cảm lại vừa muốn ruồng bỏ. Và sau cùng là ghét cay ghét đắng, thậm chí còn ghét vào tận tim, cho dù tới chết vẫn không thèm nhìn mặt nhau.
Từ ghen tới ghét, khoảng cách không bao xa. Rồi từ ghét tới những hành động tàn ác với chủ đích hãm hại người khác, khoảng cách cũng gần lắm, như chúng ta đã thấy ở trên. Thực vậy, người ta thường bảo: Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Ngày trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Phép nước Vệ là ai đi trộm xe của vua thì bị tội phải chặt chân. Mẹ Di Tử Hà ốm nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe của vua ra đi. Vua nghe thấy liền khen rằng: Có hiếu thật, vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân.
Ngày kia, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa bèn đưa cho vua. Vua khen: Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta.
Về sau, vua không còn yêu Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: Di Tử Hà trước dám liều lấy xe của ta mà đi, lại còn cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đã lâu ngày. Nói xong đem Di Tử Hà ra trị tội. Câu chuyện trên như muốn chứng minh rằng: Một khi đã ghét thì thế nào cũng có những hành động hãm hại kẻ mình không ưa không thích.
Nếu phân tích về thái độ ghen ghét, chúng ta thấy nó chẳng mang lại lợi lộc gì, mà hơn thế nữa, chỉ đem lại những hậu quả tai hại mà thôi. Thực vậy, sự ghen ghét của chúng ta không thể nào vo tròn và bóp méo, thay trắng và đổi đen. Người ta giàu thì đã giàu. Người ta thi đỗ thì đã đỗ. Lời nói gièm pha của chúng ta không thể thay đổi được sự thật. Đồng thời sự ghen ghét còn đem lại những hậu quả tai hại cho chính bản thân, bởi vì người ghen ghét từ đày đọa, tự làm khổ mình. Cái hơn của người khác làm cho mình bực bội đến mất ăn mất ngủ. Và như vậy, cuộc đời cứ mỗi lúc một thêm héo hắt và quay quắt. Còn nếu cứ để cho sự ghen ghét mặc sức bành trướng, chắc chắn nó sẽ thúc đẩy chúng ta đi tới chỗ liều lĩnh bỏ vạ cáo gian, nói hành nói xấu và những hành động dã man khác nữa để hả lòng, hả dạ.
Vậy sự ghen ghét xuất phát bởi đâu ?
Trước hết sự ghen ghét xuất phát từ tính kiêu căng của mình. Thực vậy, kẻ kiêu căng bao giờ cũng muốn mình phải là nhất, phải là trung tâm của thế giới, phải là cái rốn của vũ trụ. Thấy ai phê bình chỉ trích, liền nổi giận đùng đùng. Thấy ai hơn mình thì hậm hực và tìm cách gièm pha, hạ nhục cho bõ ghét. Thái độ này hoàn toàn trái ngược với lời Chúa dạy trong Tin mừng: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Hay như một câu danh ngôn đã bả: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta. Còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thày ta.
Tiếp đến, sự ghen ghét xuất phát từ bụng dạ hẹp hòi của mình. Thực vậy, thấy người khác tài giỏi hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn, chúng ta phải mừng thì mới đáng mặt quân tử, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Hãy vui cùng người vui và hãy khóc cùng kẻ khóc. Một xã hội cần phải có những phần tử ưu tú, thì mới hòng tiến triển được, chứ nếu tất cả chỉ xoàng xĩnh, hay thường thường bậc trung, thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ chen vai sát cánh được với bàn dân thiên hạ.
Sau cùng, sự ghen ghét còn xuất phát từ sự thiếu sáng suốt của mình. Thực vậy, đứng trước những thành công của người khác, chúng ta cần phải tự vấn lương tâm, cần phải xét mình và đặt ra những câu hỏi để rút tỉa lấy những bài học cụ thể, nhờ đó mà làm đẹp cho bản thân, cũng như làm giàu cho cuộc sống. Tại sao người ta lại giàu có? Vì người ta đã chí thú trong việc làm ăn, cần kiệm trong việc chi tiêu, chứ không vung tay qúa trán. Còn chúng ta thì luôn ươn lười và trễ nải, có làm thì cũng chỉ là làm biếng, hay làm ít mà xài nhiều theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, thậm chí lại còn xài sang nữa, theo kiểu “con nhà lính tính nhà quan”, thì làm sao có thể khấm khớ và phất lên cho được. Tại sao người ta tài giỏi? Vì người ta chăm chỉ học tập, siêng năng tìm hiểu. Còn chúng ta thì chơi bời lêu lồng. Đi thi thì dựa vào nghệ thuật “quay cóp”. Nếu không quay cóp được, thì nắm chắc phần rớt trong tay.
Tóm lại, đứng trước những thành công của người khác, chúng ta đừng vội phê bình chỉ trích. Trái lại, hãy bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân để rút tỉa được những kinh nghiệm quí giá. Còn đứng trước những thất bại của bản thân, chúng ta đừng vội chạy tội mà đổ lỗi cho người khác, nhưng hãy tìm hiểu lý do tại sao mình lại thất bại, để rồi ra sức uốn nắn sửa đổi lại những khuyết điểm ấy. Điều cần thiết là phải đấm ngực mình mà rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng: Lỗi tại anh, lỗi tại chị, lỗi tại hoành cảnh mọi đàng. Nguyên tắc trong mọi hành động, đó là: Đừng nghiêm khắc với người khác mà khoan dung cho bản thân mình. Trái lại, hãy khoan dung cho người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.
Để kết luân, gã xin ghi lại mẩu chuyện sau đây: Ngày nọ, Cú mèo gặp chim gáy. Chim gáy bèn hỏi: Bác sắp đi đâu đấy? Cú mèo trả lời: Tôi sắp sang ở bên phương đông. Tại sao lại đi như thế? Vì ở đây, nghe tôi kêu, người ta ghét, cho nên tôi phải dời đi chỗ khác. Chim gáy góp ý: Bác phải đổi tiếng kêu mới được, chứ nếu không đổi tiếng kêu, thì dù sang tới phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chẳng thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời, đừng kêu nữa là hơn.
Đừng ghen và cũng đừng ghét người khác. Trái lại, hãy sửa đổi những sai lỗi, những khuyết điểm nơi con người mình, bởi vì tiêu chuẩn cần phải thực hiện, đó là: Muốn được thương, thì bản thân phải là người thương được. Gã Siêu
Kinh nghiệm đời thường cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo GãSiêu 7
Kinh nghiệm đời thường cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại chúng ta sống là sống với người khác. Hồi còn bé, gã đã được một câu chuyện ngụ ngôn, đại khái như thế này: Ngày kia, anh chàng thi sĩ nọ thấy người giúp việc đến và nói: Từ nay anh hãy thổi nấu lấy mà ăn, giặt giũ lấy mà mặc. Tôi nghỉ để về quê ở với bố mẹ. Lát sau, anh ta thấy bác nông phu đến và nói: Tôi chán cái nghề này lắm rồi. Từ nay anh hãy trồng lúa, tự sản xuất ra lương thực mà nuôi thân. Lát sau, bà bán thịt cũng đến và nói: Thịt thà kỳ này lúc lên lúc xuống, hễ cứ nghe thấy lở mồm long móng hay H5N1 là heo gà tụt giá cho cá mú lên ngôi, chẳng biết đàng nào mà mò. Tôi xin bỏ nghề, anh liệu mà xoay xở lấy thịt lấy cá mà nhậu. Sau cùng, cô thợ may cũng đến và nói: Ngồi may mờ cả mắt thật chán. Thôi anh hãy kiếm lấy mớ quần áo ở đâu đó mà mặc, tôi không thèm may cho anh nữa đâu. Câu chuyện còn dài, nhưng bằng đó mà thôi cũng đủ cho anh chàng thi sĩ nọ lo toát cả mồ hôi hột. Như một cầu thủ nhà nghề, anh ta giơ chân và sút. Cả chân lẫn cẳng đập mạnh cái rầm xuống giường, kéo anh ta ra khỏi giấc ngủ nặng nề và anh ta bèn lẩm bẩm: À thì ra đó chỉ là một cơn mơ! Thế nhưng, cũng từ cơn mơ ấy, anh ta cảm thấy mình mắc nợ mọi người nhiều lắm. Đúng thế, ngay từ khi lọt lòng mẹ và cho tới ngày hôm nay, con người và cuộc đời chúng ta đã mang dấu ấn của biết bao nhiêu người trợ giúp. Mà nếu không có những sự trợ giúp ấy, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào tồn tại được. Này nhé: Gã không trồng cà phê, những sáng nào gã cũng nhâm nhi một ly cà phê đen như thằng quỉ, nóng như hỏa ngục và lịm như tình yêu. Cà phê ấy là do người khác cung cấp cho gã. Gã không nuôi chó, nhưng thỉnh thoảng vẫn cùng với mấy tên bạn kéo nhau tới quán cờ tây để thưởng thức cái món “sống trên đời” cho khoái khẩu, bởi vì mai mốt xuống âm phủ biết có hay không? Cái món dồi chó ấy là do người khác cung cấp cho gã. Và còn nhiều, rất nhiều những nhu cầu khác nữa mà bàn dân thiên hạ mang đến cho gã, thậm chí có khi còn cho không và biếu không. Vậy thì bây giờ tới lượt gã, gã cũng phải vui lòng chấp nhận đổ mồ hôi sôi nước mắt trên ruộng đồng để đem lại hạt gạo nuôi sống người khác. Chẳng biết khi bưng bát cơm đầy thơm phức, có ai đã nghĩ tới “đắng cay muôn phần” hay không? Và như vậy, cái triết lý “bánh ú đi bánh qui lại” hay “ông có chân giò, bà thò chai rượu” vẫn là cái triết lý thực tiễn nhất trên đời. Điều đó có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, hễ có hai người sống với nhau là có sự trao đổi. Ngày xửa ngày xưa, khi còn ăn hang ở lỗ, cha ông chúng ta đã trao đổi với nhau bằng hiện vật, chẳng hạn năm con gà đổi lấy một con chó, hay ba trái sầu riêng đổi lấy một thúng gạo. Thế nhưng, hiện vật do lao công con người làm ra, nhiều khi nặng nề, cồng kềnh và khó mang, nên người ta đã dùng quí kim như vàng bạc đổi lấy hiện vật. Rồi ông nhà nước đã nhúng tay vào, bởi vì ai nắm được tài chánh là nắm được quyền lực. Trong giòng thời gian, ông nhà nước đã cho phát hành tiền kim loại, được đúc bằng vàng, bạc hay đồng. Sau dó, cho phát hành tiền giấy. Và ngày nay cùng với việc giao thương được mở rộng, một loại tiền dựa trên sự tin cậy vào nhau, như thẻ tín dụng, chi phiếu, ngân phiếu, trái phiếu…do các ngân hàng lưu hành đang được sử dụng khắp nơi. Hiện nay, từ đứa con nít mới chập chững biết đi, cho tới ông cụ già tóc bạc răng long, gần đất xa trời, ai ai cũng đều biết được giá trị vạn năng của đồng tiền, như giới trẻ bây giờ thường rỉ tai: Tiền,
Là tiên là Phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khỏe của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân, Là cán cân của công lý. Chính vì thế, người ta ra sức bươm chải, tất tưởi chạy ngược chạy xuôi…cũng chỉ để tìm tiền kiếm bạc mà thôi. Trong mối liên hệ với người khác, nhất là trong những cuộc trao đổi mang nặng tính cách thương mại, thì tùy theo túi tiền, gã có thể phân chia thành ba loại chính, đó là mượn, mua và mướn.
TRƯỚC HẾT LÀ MƯỢN Khi ta không có tiền mà lại muốn xài sang, thì ta đành phải đi mượn của thiên hạ, bởi vì mượn là nhờ tạm của người khác vật gì trong một thời hạn nào đó, rồi sau sẽ trả lại với sự thỏa thuận của chủ mà không phải trả tiền: Tới đây mượn chén ăn cơm, mượn ly uống rượu, mượn đàn kéo chơi. Đó là một sự việc rất bình thường trong cuộc sống bởi vì nào có ai hoàn toàn đầy đủ mà không phải cậy nhờ người khác. Lúc thì thiếu cái nọ, lúc thì thiếu cái kia. Theo nguyên tắc, đã mượn thì phải trả. Thế nhưng, đôi khi vì lòng tham người ta lại muốn mượn luôn, hoặc vì quên sót hoặc vì cố ý lờ tít mà không trả nữa. Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường mượn của nhau những thứ sau đây: Thứ nhất là mượn vật dụng hay đồ dùng để xài đỡ. Đây là thứ mà người ta hay mượn của nhau nhiều nhất. Chẳng hạn bỗng dưng bị cúp điện, mà diêm quẹt thì lại không có. Thế là phải vội chạy qua chị hàng xóm mượn tạm chiếc bật lửa mang về đốt vào cái đèn hay cây nến cho căn nhà được chiếu sáng. Thứ hai là mượn tiền để làm ăn. Gia đình lâm vào cảnh túng quẫn vì vợ yếu, con đau mà lại chẳng có phương tiện để sinh sống, bèn phải gõ cửa anh bạn thân, mượn đỡ ít tiền để làm ăn và người ta gọi cái mượn này là mượn vốn. Trong việc mượn vốn, thường hay xảy ra cái cảnh “mượn đầu heo nấu cháo”. Có nghĩa là mượn vốn của thiên hạ để mua bán lấy lời, rồi dùng tiền ấy mà kinh doanh chuyện nọ chuyện kia. Rất lâu sau mới hoàn trả số vốn ban đầu cho khổ chủ. Giống như mượn cái đầu heo của thiên hạ nấu cháo cho ra nước ngọt, mà cái đầu heo thì vẫn còn nguyên để trả lại cho chủ của nó. Tiền bạc vốn là chuyện rất tế nhị và khó nói. Khi vay thì dễ nhưng khi trả thì lại khó, ấy là chưa nói tới những kẻ mang ý đồ đen tối muốn quịt luôn. Vì vậy, cần phải khôn ngoan, bằng không thì sẽ mất cả chì lẫn chài, sẽ mất cả tình lẫn tiền. Chuyện rằng: Scrible cho bạn vay năm trăm đồng quan. Đến kỳ hạn, bạn không thể trả được, nên cố ý tránh mặt. Rồi một hôm tình cờ hai người gặp nhau trên phố, thấy bạn ngượng ngùng định chạy trốn, Scrible vui vẻ tiến đến, vỗ vai bạn và nói: Hãy bỏ qua số tiền ấy đi. Đừng vì nó mà tôi mất một người bạn quí. Thứ ba là mượn tên của người khác để làm ẩu. Có nghĩa là mình mượn tạm cái danh nghĩa, cái uy tín của thiên hạ để ra oai trong những mối liên hệ xã hội theo kiểu “cáo mượn oai hùm”. Cáo là loại chồn lớn, rất độc ác và khôn ranh, vì thế người ta cũng thường dùng hai chữ cáo già để chỉ những kẻ gian xảo. Chuyện rằng: Vua nước Sở trong một buổi đại triều đã hỏi quần thần: Phương Bắc sợ Chiêu Hồ Tuất như thế nào? Giang Ất tâu: Con hùm bắt được con cáo. Thế nhưng, con cáo liền bảo con hùm rằng: Chớ ăn thịt ta, bởi vì Trời đã sai ta xuống để làm chúa tể các loài thú, không tin thì ngươi cứ đi trước để ta theo sau, thì sẽ rõ. Cả hai con cùng đi. Các thú vật thấy con hùm đều bỏ chạy trốn cả. Con hùm không biết là chúng sợ oai mình, tưởng lầm là chúng sợ oai con cáo thật. Phương Bắc ngày nay thần phục nước Sở là vì sợ quân của nhà vua, chứ đâu phải vì sợ Chiêu Hồ Tuất. Câu chuyện trên có ý nói tới những kẻ lợi dụng danh nghĩa cũng như uy tín của người khác để dọa nạt mà lấy oai. Thế nhưng, lấy oai mà thôi chưa đủ, nhiều khi còn lợi dụng để lường gạt mà kiếm lời. Có những kẻ mượn danh nghĩa viện mồ côi này, trường khuyết tật nọ để xin giúp đỡ, nhưng rốt cục tiền bạc chui tọt vào túi của họ mà chẳng hề biết tới những em bé mồ côi hay tật nguyền. Có những kẻ mượn uy tín của Đức Giám Mục giáo phận cũng như linh mục chính xứ với đủ mọi thứ giấy tờ lỉnh kỉnh như bùa hộ mạng, để đi quyên góp xây nhà thờ. Nhưng khi đã nắm được tiền trong tay thì bèn lặn mất tăm mất tích.
TIẾP ĐẾN LÀ MUA Trái với trường hợp trên, đó là khi có nhiều tiền rủng rỉnh trong túi, ta không thèm mượn nữa, mà sẽ mua cho mình, bởi vì mua chính là dùng tiền bạc để đổi lấy đồ vật với sự ưng thuận của người bán. Trong lãnh vực mua, gã nhận thấy một vài hiện tượng đáng cho chúng ta phải lưu ý và suy nghĩ. Thứ nhất, đó là có những cái không cần thiết thế mà chúng ta vẫn cứ mua. Thực vậy, hiện nay chúng ta đang sống trong một nền văn minh tiêu dùng. Hàng hóa được sản xuất ra một cách ào ạt với những mẫu mã biến đổi đến quỷ thần cũng không lường nổi. Hàng hóa ấy lại được các phương tiện truyền thông quảng cáo một cách hấp dẫn, nên nhiều người cảm thấy ngứa ngáy, cần phải mua, cần phải sắm ngay mới được. Thế nhưng, những cái chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai đã trở nên lỗi thời, bị xếp vào xó mà có khi chưa một lần sử dụng. Và để cho hợp thời, chúng ta lại cắm đầu cắm cổ mua sắm những mẫu mã khác. Một số người trong chúng ta dường như đã mắc phải cái “hội chức shopping”, ngày nào không đi siêu thị, không đi mua sắm thì liền cảm thấy bức rức khó chịu. Đôi khi khuân về cả một đống những thứ lỉnh kỉnh. Có cái thì mới vì nghe theo quảng cáo. Có cái thì cũ vì nghe theo khuyến mãi, hay bán…đại hạ giá. Mua về rồi bỏ đó, chẳng hề đụng tới. Thật là phí của trời, mười đời chẳng có mà ăn. Thứ hai, đó là có những cái không được mua thế mà chúng ta vẫn cứ mua. Hẳn chúng ta đã rõ, tình trạng đạo đức hiện nay đang xuống cấp một cách trầm trọng với những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Ai trong chúng ta cũng biết xì ke ma túy làm băng hoại cả thể xác lẫn tinh thần của người nghiện, với những căn bệnh hiểm nghèo nhất. Mặc dù quốc gia nào cũng ngăn cấm một cách triệt để, thế mà nhiều người vẫn cứ vui vẻ bỏ tiền ra mua cho mình cái chết trắng ấy. Ai trong chúng ta cũng biết mãi dâm là một tệ nạn đem lại những hậu quả khắc nghiệt cho người bán cũng như kẻ mua. Người bán thì sau một thời gian sẽ trở nên thân tàn ma dại, nếu chẳng may mắc phải chứng bệnh thế kỷ HIV. Còn những người mua thì cũng vậy. Ấy là chưa nói tới những hậu quả mà việc mua thứ hàng độc này mang lại cho vợ con, cho gia đình của mình. Thế mà nhiều người vẫn cứ vui vẻ vung tiền mà đi mua…dâm. Thứ ba, đó là có những cái cần phải mua, thế mà chúng ta lại không mua. Sống trên đời, thì danh thơm tiếng tốt cũng như tình nghĩa là những thứ thật cần thiết. Thế nhưng, rất ít người chịu khó đầu tư vào đó, rất ít người chịu khó noi theo mẫu gương Mạnh Thường Quân ngày xưa mà mua sắm cho mình. Chuyện rằng: Mạnh Thường Quân là tướng quốc nước Tề, ngày kia sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ và căn dặn: Ngươi xem trong nhà còn thiếu món chi, thì cứ lấy tiền đòi được mà mua sắm đem về dùng. Huyên tới nơi, tập họp dân chúng lại và nói: Tướng quốc thương dân nghèo, nên đã hủy hết công nợ. Nói đọan, ông đem giấy nợ ra đốt. Khi về nhà, ông đã thưa với Mạnh Thường Quân như sau: Nhà ta châu báu đầy kho, trâu ngựa đầy chuồng, gái đẹp không thiếu, chỉ thiếu có một món nghĩa đối với dân nước, nên tôi trộm lệnh tướng công bỏ tiền ra mua nghĩa. Mạnh Thường Quân cười rồi bỏ qua. Một thời gian sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan về ở đất Tiết, được dân chúng đón rước linh đình.
SAU CÙNG LÀ MƯỚN Đứng giữa hai trường hợp kể trên là mướn. Khi có tiền, nhưng không được dồi dào cho lắm, ta bèn phải đi thuê, đi mướn, nghĩa là ta phải trả một số tiền để đồ vật ấy thuộc về ta trong một khoảng thời gian tùy theo sự thỏa thuận. Như vậy, nếu so sánh gã thấy: mượn thi không phải mất tiền, còn mướn thì phải mất tiền. Mua thì đồ vật thuộc về chúng ta mãi mãi, còn mướn thì chỉ thuộc về chúng ta trong một thời hạn nào đó. Về chuyện thuê mướn này, gã tạm chia ra làm hai lãnh vực: Lãnh vực thứ nhất, đó là thuê mướn đồ vật. Hiện nay, tại Việt Nam các cửa hàng cho thuê cho mướn dường như đang ăn nên làm ra, do đó không ngừng gia tăng và liên tục phát triển. Đầu đường cuối phố, chỗ nào cũng thấy. Nhớ lại ngày xưa mỗi khi đâu phải xếp hàng mua vé, thì hôm nay, chỉ cần một cú điện thoại là sẽ có ngay một chiếc xe đời mới tới tận cửa nhà. Tùy theo nhu cầu, có thể mướn xe bốn chỗ, bảy chỗ, mười lăm chỗ hay nhiều hơn thế nữa. Tại các cửa hàng dịch vụ loại này, chúng ta có thể thuê mướn đủ thứ lỉnh kỉnh, từ chiếc đồng hồ Rolex đến chiếc điện thoại di động Nokia đời mới, từ cái áo thung Bebe đến chiếc quần jeans C.K, từ đồ trang sức bằng đá quí đến đôi giày Gucci hàng hiệu. Tiền nào của nấy. Càng xịn thì càng mắc. Sau đây là ghi nhận tại một cửa hàng cho thuê điện thoại di động: Ở đây có đủ mọi loại “dế” (điện thoại di động) được cho thuê với giá thật rẻ. Tôi hỏi mướn một chiếc Nokia 8800 rồi bấm tắt nguồn máy của mình để lấy sim ra gắn vào máy mới, lập tức tín hiệu hiện lên ngon lành. Quá bất ngờ với kiểu làm ăn đầy rủi ro này, tôi quay sang hỏi một tay chơi đi cùng: Cho mướn như thế không sợ người thuê quịt máy hay thay đổi phụ kiện à? Anh ta trả lời: Khó mà qua mặt được ông chủ. Ai đến đây cũng có “thành tích” cả. Với lại khi cậu giao máy, thì ông ta có cách kiểm tra rất nhà nghề của mình. Nhận thấy dấu hiệu lạ, thì bắt bồi thường ngay lập tức…(Báo CATPHCM số 1426, ngày 16.3.2006). Thế nhưng, mặt hàng thông dụng hơn cả chính là áo quần. Ở đây gã không bàn đến những tiệm cho thuê đồ cưới, bởi vì đa số các cô dâu chú rể, nhất là tại vùng nông thôn, đều đi thuê áo quần để mặc trong ngày cưới. Đồ cưới chỉ mặc một lần trong đời, mà may sắm thì lại quá mắc, thật uổng phí tiền bạc..nên thuê mướn là thượng sách. Sau đây là kinh nghiệm của một người trong nghề: Trang phục thuê phần lớn là đồ có thiết kế riêng. Trước đây giới văn nghệ sĩ thường đi thuê trang phục để diện trong những buổi chiêu đãi, tiệc tùng quan trọng. Một bộ đồ lộng lẫy, quá ấn tượng nhưng chỉ mặc một lần rồi thôi, phải bỏ ra số tiền lớn để mua thì cũng tiếc. Hiện nay khách thuê thuộc nhiều đối tượng nghề nghiệp khác nhau. Giá cho thuê trang phục khá cao và cũng tùy theo sự nổi tiếng của nhà thiết kế, khoảng từ 20% đến 30% giá trị bộ đồ cho một lần thuê với thời hạn hai ngày. Do trang phục không thể tái sinh, nên người cho thuê có những qui định rất khắt khe: Không được làm xước mặt vải, phải giữ trang phục sạh sẽ và phải trả đúng hẹn. Cách thuê mướn này cũng rất có lợi cho những người thích chưng diện mà không muốn tốn nhiều tiền. (PNCN số 44, ngày 13.11.2005). Vì thế, khi ra đường nhìn thấy một cô nàng mặc toàn hàng hiệu, dùng toàn đồ xịn, thì cũng nên đề cao cảnh giác, biết đâu cô nàng đã đi thuê đi mướn từ A đến Z. Lãnh vực thứ hai, đó là con người. Mướn người làm việc cho mình rồi trả lương, vốn là chuyện bình thường. Ở đây gã muốn bàn tới hai loại thuê mướn rất đặc biệt. Thứ nhất đó là nghề cho thuê tử cung, hay nói trắng ra là nghề đẻ mướn. Tại Ấn Độ, nghề này đang được lan rộng. Có một bài báo đã mô tả như sau: Chỉ với sức khỏe bình thường, một phụ nữ Ấn Độ có thể kiếm được 5000 đô Mỹ sau chín tháng cưu mang. Một viên chức y tế đã phát biểu: Nó hoàn toàn mang tính kinh doanh, chẳng có gì là phi đạo đức. Tuy nhiên nhiều người khác lại tỏ ra lo ngại về sự lợi dụng phụ nữ cũng như nhiều hiểm họa xảy ra do việc sinh đẻ. Trong khi đó, “du lịch sinh sản” của người nước ngoài tại Ấn Độ tiếp tục bùng nổ và có thể trở thành một công nghiệp đem lại gần sáu tỷ đô mỗi năm…(PNCN số 18, ngày 7.5.2006). Tại Việt Nam, luật pháp chưa chấp nhận chuyện thuê người đẻ mướn, nhưng trong thực tế cũng đã có nhưng người dùng cách thức này để giải quyết những hoàn cảnh riêng tư của mình. Một là những cặp vợ chồng son sẻ. Hai là những cặp vợ chồng chỉ sinh toàn con gái, bây giờ muốn kiếm thêm một mụn con giai để nối dõi tông đường. Ba là những cô không muốn lấy chồng, mà lại khao khát có con và đứa con ấy không phải là con nuôi, nhưng là con của mình, bèn phải nhờ người khác mang thai giùm bằng chính cái trứng của mình…(PNCN số 20, ngày 21.5.2006). Thứ hai đó là dịch vụ thuê mướn “cây cảnh”. Cây cảnh ở đây không phải là một loại hoa kiểng, mà là những cô gái đẹp để làm cảnh cho những công ty hay những buổi chiêu đãi. Dịch vụ này được mô tả như sau: Tôi không ngờ cậu bạn của tôi là giám đốc một công ty, lại có một cô thư ký đẹp tuyệt vời, khiến tôi và đám bạn phải lướt khướt trong bữa tiệc hôm đó. Vừa gặp lại cậu ta, tôi đã vồ vập hỏi: Anh kiếm đâu ra cô thư ký xinh đến thế? Cậu bạn tôi trả lời tỉnh bơ: Ôi chao, quan tâm làm gì bọn “cây cảnh” văn phòng ấy. Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, cậu bạn bèn thương tình cắt nghĩa: Chẳng cần phải nhọc công tốn sức tìm kiếm cho mình một cô thư ký, chỉ cần có tiền là có thể sở hữu bên mình một người đẹp. Tùy theo hợp đồng và nhu cầu, có thể một tháng, hai tháng hay đơn giản chỉ cần mấy tiếng đồng hồ, xong việc là “a-lê-hấp”, anh đi đường anh, em đi đường em, chẳng vướng bận gì cả. Các em làm nghề này nhan nhản ra ấy mà. “Cây cảnh” văn phong nôm na là như vậy. Hiểu chưa ? Họ là những cô gái trẻ đẹp, được liệt vào hàng “top ten”. Dáng người cao ráo, ăn nói có duyên, đặc biệt nhất là đôi mắt, cô nào cô nấy đều lúng la lúng liếng, khiến đám đàn ông khi mới giao tiếp phải chết đứ đừ. Do nhu cầu làm ăn, các công ty tư nhân đã thuê những “cô gái chân dài” này về làm cây cảnh, trang điểm cho bộ mặt của mình. Công việc chủ yếu của những cây cảnh văn phòng là diện những bộ áo quần thật mốt, khi đóng vai thư ký phải giả nai, mắt liếc đưa tìnnh, làm sao hút hồn các sếp, để các sếp ưu ái đặt bút ký những hợp đồng làm ăn. Xong việc, nếu sếp thích, các “thư ký” sẽ sẵn sàng được điều động tới để chiều chuộng…(Gia Đình, số 12 năm 2006). Tóm lại, các cụ ta ngày xưa đã bảo có tiền mua tiên cũng được. Nếu vậy việc thuê tiên, hay mướn tiên, thì chỉ là chuyện nhỏ mà thôi !!! GÃ SIÊU
Người ta thường nói: - Tình yêu không biên giới. Điều này có nghĩa là: - Tình yêu chẳng bao giờ GãSiêu 8
Người ta thường nói: - Tình yêu không biên giới. Điều này có nghĩa là: - Tình yêu chẳng bao giờ loại trừ một ai cả. Tiếng sét của nó có thể giáng xuống tối tăm mặt mũi trên người già cũng như người trẻ, đờn ông cũng như đờn bà, không phân biệt tuổi tác, màu da, tiếng nói và trình độ văn hóa. Chẳng thế mà Nguyễn công Trứ, dù đã bảy mươi mí” tuổi rồi, vẫn cứ chịu khó cưới thêm một nàng hầu trẻ măng. Tổng cộng ông có tới mười bốn bà vợ. Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi, ông không ngần ngại trả lời tỉnh bơ: - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam. Có nghĩa là năm mươi năm trước, anh mới có hai mươi ba tuổi hà. Hay như ca dao cũng đã diễn tả: - Bà già đã tám mươi tư, Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng. Tương tự như thế, gã cũng có thể nói: - Ghen không biên giới. Điều đó có nghĩa là: - Phàm đã là người thì trong huyết quản ai nấy đều mang tí máu ghen. Thực vậy, tình yêu luôn dính liền với cái ghen, bởi vì: - Có yêu thì mới ghen, chứ chẳng ai vô công rồi nghề, rỗi hơi đâu mà đi ghen cho tốn sức lao động, cho héo hắt và quay quắt con tim, cho mau xuống sắc người ngợm và già đi lúc nào cũng chẳng hay. Như vậy, một khi tình yêu đã không biên giới thì hậu quả tất nhiên cái ghen cũng phải không biên giới. Gã xin lượm lặt những mẩu tin trên báo “Công an Thành phố” để đưa ra những chứng tích cụ thể. Trước hết, cái ghen không phân biệt tuổi tác. Có những cụ ông cụ bà gần đất xa trời thế mà cũng ghen lồng ghen lộn. Tại Mỹ tho, cách đây không lâu, người ta phát hiện một xác phụ nữ trôi sông. Qua điều tra khám nghiệm, thì được biết nạn nhân là bà Trần thị Ngân, 56 tuổi và thủ phạm không ai khác chính là chồng bà, ông Ngô văn Lộc, 66 tuổi. Nguyên nhân chỉ vì ông cụ nghi bà cụ có “bạn trai”, nên sau khi đã cãi nhau một trận chí chóe, máu ghen bốc lên, ông cụ dùng cây phang bà cụ tới tấp cho đến chết, rồi quăng xác xuống sông hầu phi tang. Tiếp đến, cái ghen không phân biệt giới tính, có nghĩa là đờn ông cũng ghen ra phết. Anh Hoàng Quế là một người chồng hiền lành, rất yêu thương vợ, nhưng cuối cùng chỉ vì ghen đã phạm tội giết vợ. Câu chuyện xảy ra như sau: Nguyễn thị Diễm là cô gái xinh đẹp. Hầu như cả đám trai làng đều săn đón cô, trong đó có Hoàng Quế. Quế thầm yêu nhớ trộm Diễm đến mức quên ăn quên ngủ, thân hình cứ rạc hẳn đi. Bởi tình yêu của anh ta là tự trái tim, lại nữa anh ta ghen với tất cả đám trai làng. Diễm đối với anh nào cũng vậy. Mắt cô lúng liếng đung đưa. Cô cười nói, đùa vui với mọi chàng. Thế nhưng, cái đẹp ấy, cái duyên ấy cùng với sự cởi mở của Diễm càng khiến Quế phát sốt phát rét lên. Anh ta chỉ muốn Diễm là của riêng mình. Thế rồi hai người lấy nhau. Tuy đã có chồng với một dứa con, nhưng Diễm vẫn như ngày xưa. Đôi mắt vẫn lúng liếng đung đưa. Chính vì thế, sau một thời gian dài tính toán, anh ta đã bỏ quê nhà ở Nghệ an, đưa vợ con vào Đắc lắc sinh sống. Anh ta muốn tách Diễm ra khỏi đám trai làng. Sự ghen tuông bóng gió đã khiến anh ta liều lĩnh chấp nhận cuộc đời phiêu bạt. Ở quê mới, do cật lực lao động, anh ta đã tạo lập được một cơ ngơi tạm gọi là ổn định với nhà cửa và vườn cà phê xanh tốt. Thế nhưng, đôi mắt của người vợ anh yêu thì chẳng thay đổi, vẫn lúng liếng đung đưa. Vì thế, anh ta ghen, rồi hình như những cơn ghen ấy trở thành một căn bệnh. Anh đánh vợ và cuối cùng đã giết vợ, khi không còn làm chủ được cơn ghen của mình nữa. Sau cùng, cái ghen không phân biệt lý do. Nếu vẻ đẹp được diễn tả như là con cóc cái dưới mắt con cóc đực, là bởi vì tình yêu có những lý lẽ chủ quan của nó, khiến thiên hạ nhiều lúc phải bưng miệng cười:
- Lỗ mũi em mười tám gánh lông, Chồng yêu chồng bảo: râu rồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o, Chồng yêu chồng bảo: ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu chồng bảo: về nhà đỡ cơm. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu chồng bảo: hoa thơm rắc đầu. Cũng vậy, cái ghen có những lý do riêng của nó mà nhiều khi đến quỷ thần cũng không lường nổi. Chuyện rằng: chị vợ kia chạy Honda tới gần ngã tư Bảy Hiền, bất ngờ bị tên cướp giật mất sợi dây chuyền. Về nhà chị kể lại cho anh chồng nghe diễn biến của vụ cướp với lời đe dọa: - Lần sau nó mà còn cướp kiểu đó, em sẽ đuổi theo giết chết. Thương vợ, anh chồng kiểm tra quanh cổ thấy nhiều vết thương như bị cào, bèn hỏi: - Hình như nó để tay ở cổ em hơi lâu ? Chị vợ bẽn lẽn trả lời: - Đầu tiên nó sờ nhẹ vào cổ, em tưởng nó chọc ghẹo nên...để yên, không ngờ nó lại cào giật... Nghe vậy, anh chồng bèn nổi ghen đùng đùng, giáng cho chị vợ một cái bạt tai nổ đom đóm, khiến chị vợ khóc hết nước mắt. Chuyện khác kể lại: Anh chồng nọ đi lính. Chị vợ là giáo viên. Thế nhưng, từ khi cậu quí tử thứ hai ra đời, anh chồng chẳng quan tâm tới mà con nghi ngờ vợ mình không chung thủy với hai lý do: - Một là thằng bé sinh thiếu tháng là điều không thể chấp nhận. Hai là hình như thằng bé giống một ai đó trong xóm. Vì thế, anh chồng luôn cau có với chị vợ cũng như không hề bồng bế và chăm sóc thằng bé. Dù chị vợ hết lời phân trần, anh ta vẫn cứ khăng khăng: - Nếu nó là con tui thì tại sao lại sinh sớm hơn một tháng ? Vậy là cô đã có bầu trong lúc tôi vắng nhà. Mới đây, trong khi hai vợ chồng cự lộn to tiếng, thì bà chị chồng, sau khi hiểu rõ nguyên nhân, bèn cười lên như nắc nẻ và giải thích: - Mọi việc đều do tôi cả. Ngày cô ấy sinh, tôi đi làm giấy cho cháu. Chỉ vì quen nhớ ngày theo âm lịch, nên đã khai như vậy. Thay vì ngày 8.1.1988 theo dương lịch mới đúng, thì tôi lại ghi ngày 1.12.1987 theo âm lịch, nên mới ra nông nỗi này. Mặc dù ghen không biên giới, nhưng xem ra nó lại là cái nghề của quí bà quí cô. Bởi vì, người ta thường bảo: - Nơi đờn bà con gái, thì lái tim to hơn cái đầu. Có nghĩa là đờn bà con gái sống bằng tình yêu nhiều hơn sống bằng suy luận và như vậy tình yêu chi phối toàn bộ cuộc đời. Với họ, tình yêu là tất cả. Một khi đã yêu nhiều, thì ắt hẵn cũng sẽ ghen nhiều, đó là lẽ đương nhiên. Chả thế mà khi bị tra hỏi, Hoạn Thư đã trả lời:
- Rằng tôi chút phận đờn bà, Ghen tương thì cũng người ta thường tình. Hay như ca dao cũng đã nói:
Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Vôi nào là vôi chẳng nồng. Gái nào là gái có chồng chẳng ghen. Khi anh chồng lem nhem trong vấn đề tình cảm, có máu băm nhăm, nay tán cô này, mai tán cô kia, hay có tí bồ nhí để hú hí một mình, thì chị vợ ghen là điều dễ hiểu. Đằng này nhiều bà nhiều cô có tật ghen bóng ghen gió, theo kiểu đánh phủ đầu, bắt nhầm còn hơn thả nhầm. Cứ việc ghen cái đã để dằn mặt anh chồng. Phòng bệnh còn hơn chữa bệnh kia mà.Vì thế, họ hay ghen lung tung. Lãnh vực đầu tiên thường gặp phải, đó là ghen với dĩ vãng. Hình như có lần gã đã kể lại mẩu chuyện anh chàng kia, sau tuần trăng mật, chẳng may bị chị vợ khám phá ra mấy bức thư tình kẹt trong góc tủ từ đời ông bành tổ, mà anh chàng đã quên béng đi mất, không chịu thu dọn sạch sẽ trước khi rước cô nàng về nhà làm vợ. Chị ta đã đọc tất cả không sót một chữ và sau này cứ mỗi lần có dịp lại lôi ra, không để “dằn vặt” thì cũng để “dằn mặt” cho bõ ghét. Chẳng hạn đi ngoài phố, anh chồng lỡ dại ngoái nhìn một người nào đó trông quen quen thì liền bị chị vợ nhỏ nhẹ kê tủ đứng: - Giống chị ấy quá hở anh. Khi anh chồng khen chị vợ cao và trắng, thì liền bị chị vợ trề môi, chu mỏ hờn dỗi: - May mà tôi giống chị ấy ở chỗ cao và trắng, nên chi anh mới lấy, chứ không thì... dễ gì. Một anh chồng khác còn lâm vào tình trạng giở mếu giở khóc, đáng thương hơn rất nhiều. Câu chuyện đại khái như thế này: Với bản tính hiền lành và trung thực, anh chồng, trong những phút giây thân mật, quyết định kể lại dĩ vãng cho vợ nghe vì nghĩ rằng với người mình đã yêu thương, đầu ấp tay gối thì không nên giấu diếm điều gì. Hơn thế nữa, nếu biết được, hẳn chị vợ sẽ càng quí mến anh hơn bởi tấm lòng chân thật của mình. Nào ngờ, khác với những gì đã nghĩ, câu chuyện ngày xưa của anh chồng đã gây một cú sốc cho chị vợ. Chị cho rằng anh ta giả dối, sống bên nhau cứ tưởng anh ta chung thủy, thế mà chuyện “tày trời” ấy bây giờ mới công khai tiết lộ, thì ra trong lòng anh ta vẫn còn bóng dáng của người đàn bà đó. Điều này làm cho chị vợ không thể nào chịu nổi. Chị muốn trong trái tim anh chồng chỉ có một mình chị mà thôi. Chị kết án anh ta là đã nhiều lần ngoại tình trong tư tưởng với người tình đầu mà chẳng chăm sóc gì đến chị và các con. Tóm lại, từ lâu chị đã sai lầm khi lấy phải một anh chồng không chung thủy. Để cho anh chồng không còn thời giờ nghĩ đến bất kỳ ai, chị vợ nghĩ ra cách quản lý anh chồng thật chặt chẽ. Anh chồng ở công sở, thì chị vợ gọi điện thoại đến để kiểm tra. Đi làm về trễ năm mười phút, liền bị chị ghen tuông cằn nhằn. Anh chồng mất dần những mối quan hệ bạn bè, bởi đi đâu thì chị vợ cũng kè kè một bên, khiến anh chồng cảm thấy cuộc sống ngột ngạt như địa ngục. Ngày nọ, sau nhiều lần lén lút theo dõi, chị vợ thấy chồng đang đi cùng một cô nhân viên trẻ, không còn đủ bình tĩnh, thế là a lê hấp, chị vợ lao đến chặn xe cô gái lại rồi gào thét: - Thì ra là mày. Tưởng mày ở đâu không ngờ lại ở cạnh chồng bà. Cô gái cảm thấy mình bị xúc phạm đã bật khóc, mặc cho anh chồng giải thích, chị vợ cũng chẳng nghe. May mà chị vợ chưa có những hành động dại dột. Thậm chí, có chị vợ còn ghen với cả người...điên. Chuyện rằng: Kim Thanh là một cô gái mắc chứng hoang tưởng và đang được điều trị tại gia. Suốt ngày Kim Thanh ngồi và tưởng tượng ra những chuyện động trời động đất. Và lần này, Kim Thanh hướng tới Thu Cúc, một người hàng xóm. Đầu tiên Kim Thanh nói rằng mình được báo mộng cho hay vị hôn phu tương lai của cô chính là anh Tuấn, chồng của Thu Cúc. Sau đó, Kim Thanh rình rập, hễ Thu Cúc bước ra khỏi nhà, lập tức liền bị Kim Thanh theo sau bén gót và tuôn ra những lời nói dễ làm cho các bà vợ nóng đầu, chẳng hạn: - Hôm nay, em mới gặp chồng chị. Anh ấy khen em đẹp... Ban đầu Thu Cúc làm ngơ và tự nhủ: - Chấp nhất với kẻ điên kẻ khùng làm gì cho mệt, Thế nhưng, ngày này qua ngày khác cứ phải nghe những lời khó nghe của Kim Thanh, khiến Thu Cúc không sao giữ được sự bình tĩnh. Chị trở nên nóng nảy, dễ nổi cáu và cảm thấy buồn bã không chịu nổi. Cuộc sống gia đình như bị xào xáo hẳn lên. Đã vậy, Thu Cúc còn nghe xì xào những lời bàn tán của nhiều kẻ lắm chuyện: - Con Thanh nó điên mà khôn lắm. Mấy bữa nay tao thấy nó cứ níu thằng Tuấn hoài, coi bộ tình tứ lắm. Coi chừng mất chồng như chơi đó em... Cuối cùng, vào ngày 5.12.1998, Thu Cúc rủ Kim Thanh tới nhà và đãi một ly đậu đỏ có bỏ...thuốc độc, khiến Kim Thanh phải chết. Đã yêu thì phải ghen. Tuy nhiên “ghen tương thì cũng dăm bảy đường”. Có thứ ghen sáng suốt thì cũng có thứ ghen mù quáng. Có thứ ghen lành mạnh, thì cũng có thứ ghen bệnh hoạn. Có thứ ghen chỉ để dành quyền sở hữu chứ không phải để biểu lộ yêu thương. Có thứ ghen không xuất phát từ sự thật mà lại xuất phát từ tính đa nghi như Tào Tháo, để rồi chuốc lấy những hậu quả tai hại, đó là gia đình bị tan tác và bản thân bị pháp luật hỏi thăm. Điều cần thiết là phải ghen cho đúng người, đúng nơi và đúng cách, biết lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường, bằng không thì ghen quá chỉ hóa dại mà thôi. Từ ngày mới quen nhau, chị nàng rắp tâm chiếm đoạt cho bằng được trái tim anh chàng. Chị nàng không cho anh chàng giao thiệp với bất cứ với cô gái nào. Vì quá thương, anh chàng phải cúi đầu tuân theo vô điều kiện. Thế rồi họ lấy nhau. Máu Hoạn Thư trong chị nàng ngày càng sôi sục quá quắt. Chị không cho anh mời bất cứ ai là phái nữ đến dự tiệc cưới. Vài anh bạn trai dắt theo người yêu đã làm cho chị hờn ghen, khó chịu. Mỗi khi chú rể lại gần bàn tiệc có nhiều bóng hồng xinh đẹp, chị lại trừng mắt lên rồi dùng thân mình che lấp anh đi. Những ngày làm chồng của anh trôi qua lạt lẽo với “luật lệ nghiệt ngã” của cô vợ trẻ. Bất cứ anh đi đâu, chị cũng đòi theo cho bằng được. Chị lại còn muốn anh phải tuyệt giao với tất cả bè bạn, nam cũng như nữ. Lúc đầu anh chồng còn chấp nhận, nhưng rồi anh “ngộ” ra rằng “lấy vợ như rợ buộc chân” nên bắt đầu phản ứng. Thế là chị vợ chanh chua giẫy lên đành đạch, kêu khóc rầm trời cho rằng anh đã...bội bạc. Cuối cùng vở bi hài kịch theo dõi chồng đã xảy ra. Vào một buổi sáng, chị vợ bắt gặp anh chồng của mình chở cô tài vụ đi thanh toán tiền cho hãng. Lập tức chị nhào ra cản đừờng, la lối, tìm cách hành hung người con gái mà chị cho là tình địch. Anh chồng mất mặt, cảm thấy nhục nhã. Do không kiềm chế được, đã đánh vợ giữa phố đông người qua. Chị vợ gào thét rồi viết đơn đòi...ly dị. Người viết mẫu tin này đã bình luận như sau: Khi đã là của nhau rồi, thì người ta có thể chiếm hữu nhau như một thứ tài sản mà quên mất rằng mỗi người còn có một cách sống, và một tự do riêng. Chính vì suy nghĩ sai lạc như vậy, nên một số người đã ra sức “nô lệ hóa” đối tượng, biến cuộc sống gia đình thành một thứ tù ngục ngột ngạt, lầm tưởng đó là sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Ghen quá hóa dại. Thứ ghen bệnh hoạn và mù quáng này trước hết được biểu lộ qua việc rình rập và theo dõi chồng. Thậm chí có bà vợ còn ngửi áo chồng trước khi giặt để phát hiện xem có mùi gì khác lạ hay không, theo đúng bài bổn và kinh nghiệm của các cụ ta ngày xưa:
- Chim khuyên ăn trái nhãn lồng, Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. Tiếp đến là ban hành “luật bế môn tỏa cảng”. Cấm tiệt chồng không được liên hệ với bất kỳ ai, kể cả bạn trai và nhất là bạn gái. Một người cháu đã kể lại nỗi khổ tâm của ông chú như sau: “...Trong các mối quan hệ, chú tôi luôn giữ một khoảng cách nhất định. Chú rất thương vợ thương con. Vậy mà thím nào có hiểu, luôn mặt nặng mày nhẹ mỗi khi có cô gái nào điện thoại tìm chú. Có hôm rõ ràng chú ở nhà nhưng thím không gọi và nếu có ai để lại lời nhắn thì thím cũng thường hay quên. Quá đáng hơn, mỗi lần chú tôi có chuyện phải đi thì y như rằng thím cũng tìm cách gác lại công việc để theo dõi chồng. Bạn bè chú tôi thấy thế bất mãn thay cho chú...” Sau cùng, cái ghen được bùng nổ bằng những hành động kinh thiên động địa và đáng sợ, chẳng hạn như đánh đấm, rạch mặt, xé quần xé áo, bỏ thuốc độc, tạt a-xít...để tiêu diệt tình địch. Những hành động dã man này khó mà qua mặt pháp luật và thường được kết thúc bằng những tháng ngày tù tội, khiến cho con cái phải nheo nhóc. Trong một bài viết, linh mục Piô Ngô Phúc Hậu đã phân tích về nguyên nhân dẫn tới cái ghen nơi đờn bà và đờn ông như sau: “Trời sinh ra con gái để làm mẹ, muốn làm mẹ thì phải có chồng. Muốn chu toàn bổn phận làm mẹ để có con ngoan con giỏi, thì phải có người chồng biết yêu thương và đùm bọc vợ con. Người chồng là bóng mát để người mẹ đùm bọc đứa con. Người chồng phải chung thủy để người vợ trở thành người mẹ lý tưởng. Khi người chồng không còn chung thủy nũa, thì sự nghiệp của người phụ nữ bị tuyên bố phá sản và định mệnh của đứa con bị đe dọa. Vì thế, sau khi trao cho phụ nữ sứ mạng làm mẹ, thì Thượng Đế lại trao cho họ một vũ khí để tự vệ. Họ bảo vệ bản thân và nhất là bảo vệ hạnh phúc của đứa con. Vũ khí ấy là ghen. Ghen để giữ lấy chồng cho mình và giữ lấy cha cho đứa con. Đàn ông cũng ghen, nhưng cái ghen của đàn ông chỉ là nỗi giận để bảo vệ danh dự. Bị cắm sừng đối với đàn ông là một sự xúc phạm. Bởi thế, khi tình địch của đàn ông là một đấng nam nhi cao cường, thì cơn ghen chỉ nổ lép bép như một tép pháo tiểu. Nếu tình địch chỉ là một tên tép riu, thì cơn ghen nổ đùng như một quả pháo đại. Đàn ông ghen nhiều ít tùy thuộc danh dự bị xúc phạm nhiều hay ít. Còn đàn bà ghen thì không bao giờ có liều lượng, vì khi đàn bà bị phản bội thì số phận của họ và con cái họ đổ vỡ tan tành. Hãy ghen và hãy đánh ghen để dành lại những gì đã mất, để xây dựng những gì đã đổ nát. Nhưng phải đánh ghen cách nào để chiến thắng và chiến thắng giòn giã, nghĩa là đưa chồng trở về nguyên vẹn, lại biết thương vợ và lại biết lo cho con cái. Người chồng trở về nguyên vẹn là người không bị mất mặt đối với láng giềng, không mặc cảm tội lỗi đối với gia đình. Đối với đàn ông thì danh dự là lớn. Ghen mà chửi thô tục như thế là phản chiến thuật, là làm hổ ngươi chồng. Nếu chồng biết hối hận trở về, hoặc người kia vì xấu hổ quá mà nhả chồng ra, thì ngày trở về chỉ là ngày sắp sửa ra đi nữa thôi... Người đàn ông không thể chịu nhục.” Sau đó Linh mục đã kể lại một chuyện đánh ghen như sau: “Hắn làm lớn, có địa vị, có tiền và có uy tín. Vợ hiền, con ngoan. Thế là sướng quá rồi. Bỗng dưng sinh tật... Bạn của vợ hớt hải báo tin: - Chồng mày cặp với con nhỏ nào đó, mày biết không - Không có đâu. Anh ấy đàng hoàng lắm. - Mày ngu quá à ! Đàn ông mà không kềm thì... sớm muộn cũng có vợ bé, vợ mọn. Mày không tin thì chiều thứ bảy đến nhà tao, tao chỉ điểm cho. Chiều thứ bảy kế đó hai bà bạn ngồi uống nước trà bên ban công của một biệt thự sang trọng, ngó xuống một ngã tư sầm uất. Bỗng một bà chỉ trỏ: - Chồng mày kìa... Nó đó. Bà khách lẳng lặng đi xuống cầu thang, vừa đi vừa lâm râm cầu nguyện. Bà băng qua đường, tiến thẳng đến trước mặt ông chồng đang vuốt ve cô bồ. - Con chào ông ạ! Con chào bà ạ! Lúc nào ông bà rảnh, xin mời đến nhà con chơi... Sau đó bà lên taxi biến mất vào dòng người, để lại đôi tình nhân sượng sùng đến tội nghiệp. Đêm hôm ấy, ông công chức cao quí thức trắng. Sáng thứ hai đi làm, thú tội với ông bạn nối khố: - Bà xã tao chơi nước cờ cao quá. Đêm hôm ấy, tao quì bên giường xin lỗi bà. Tao quì lâu còn hơn chầu Thánh Thể. Tao thề với mày là từ nay xin chừa. Để kết luận, gã xin trở lại với câu ca dao:
- Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Tuy nhiên, chuyện đời không êm ru bà rù, trái lại luôn có những sự tréo cẳng ngỗng, bởi vì trong thực tế, gã đã ghi nhận được hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất đó là tuy ớt vẫn cay, nhưng có những người, chẳng hạn như quí vị gốc gác ở Huế, lại ăn ớt ngọt như ăn chuối. Cũng vậy, có những anh chồng cố đấm ăn xôi, hay áp dụng chiến thuật “nhất lý nhì lì tam ì tứ ẩu”, cứ phớt tỉnh Ăng lê, thành thử cái ghen của chị vợ không còn “xi nhê” và không mấy “ép phê”, tương tự uống hoài một thứ thuốc thành thử hóa lờn. Trường hợp thứ hai đó là có những loại ớt chẳng cay tí nào. Cũng vậy, có những chị vợ mang dòng máu lạnh, chẳng hề ghen tương một ly ông cụ nào sốt, mặc cho anh chồng ba hoa chích chòe, vùng vẫy mãi cũng chán, để rồi cuối cùng đành phải tung cánh chim tìm về tổ ấm. Gã xin ghi lại tâm sự buồn của một anh chồng có chị vợ hổng biết ghen, được đăng trên báo Phụ nữ Chủ nhật: “Khi chưa có mảnh tình vắt vai, nhìn những cặp tình nhân nũng nịu, giận giận hờn hờn, ghen bóng ghen gió, tôi thấy... ôi hương vị tình yêu giống như mắm muối, gia vị làm tăng chất đậm đà cho tô phở Hà Nội, mới nghĩ thôi đã phát thèm. Tôi hy vọng, mơ mộng sau này gặp “người ấy” cũng sẽ được... ghen như có câu hát rằng:
- Có yêu mới khổ vì ghen, Có ghen con mắt mới đổ ghèn. Chứ cuộc sống cứ phẳng lặng như gió mùa thu thì chán chết, miễn đừng ghen kiểu Hoạn Thư có mà...tắt thở. Nhưng ông Trời đúng chỉ trao những gì con người...ghét, còn thích thì ổng sức mấy mà trao, thành ra tôi đã lấy phải bà vợ hổng biết ghen. Ấm ức mãi, tôi phải kiếm chuyện cho nàng ghen mới được, để vui cửa vui nhà í mà và “hãnh diện” vì được vợ ghen chứ, phải không quí vị đờn ông ? Một hôm tôi cố tình đi nhậu với bạn bè đến tận khuya, chuyện động trời tôi chưa từng thể hiện bao giờ. Chắc mẩm phen này mò về sẽ “được” nàng làm mình làm mẩy, ngắt véo om sòm. Tôi rón rén bước nhẹ vào nhà. Nhưng sao không thấy nàng đâu cả ? À chắc nàng đang nằm trong phòng...khóc nức nở. Đúng rồi, nàng nằm trên giường quay vào vách, nhưng nàng không khóc mà đang ngáy...khò khò. Công lao tôi diễn kịch, giờ chẳng ai xem cả. Sáng ra, nàng còn hỏi: - Về hồi nào vậy? Tức muốn chết đi được. Không chịu bỏ cuộc, lần sau tôi cũng đi nhậu nhưng về sớm hơn, trước đó tôi nhờ cô bạn cùng phòng ấn nguyên dấu son trên vai áo. Về nhà, tôi giả nai chìa dấu son cho nàng thấy. Không chút lay động, nàng còn phán một câu xanh rờn: - Anh giặt đồ, chứ đâu phải em mà sợ. Trời ơi, quả là hết thuốc chữa. Nhưng càng tức tối, tôi càng nghĩ ra cách độc chiêu hơn. Thế là tôi viết về mối tình của thằng bạn, rất thơ mộng, lãng mạn rằng: trước khi lấy vợ, ngày xưa đã yêu một người say đắm, nhưng gặp nhiều trở ngại nên phải chia tay, giờ tuy có vợ, nhưng tình yêu vẫn dành trọn vẹn cho người tình cũ, vợ không là...cái đinh gì hết. Và tôi ký tên mình. Xong xuôi, gửi cho báo.
Nhờ ăn ngay ở lành, hay văn chương cũng có tầm cỡ, bài viết của tôi hiện diện chình ình trên trang báo. Tôi vội vàng trình cho nàng xem. Nàng đọc, tôi chờ đợi từng thay đổi trên nét mặt nàng: không thấy gì hết. Bỗng nàng buông tờ báo xuống. Rồi, lần này “chăm phần chăm” đã kích thích được bản năng ghen của nàng. Nhưng nàng không bù lu bù loa như tôi nghĩ, mà nàng cười và hỏi tôi: - Anh viết bài này có nhuận bút không ? Có thì lĩnh về đưa cho em hết nghen... cấm bỏ túi riêng. Đến nước này, tôi muốn kêu trời mà kêu chẳng được tiếng nào. Vợ tôi không hề biết ghen hay tôi tuyệt vời quá nên nàng... thèm vào ghen ? Hổng dám đâu. Tôi hỏi: - Đọc xong lời thú tội động trời đó, sao em không ghen ? Nàng trừng mắt một cái khiến tôi điếng hồn, may mà nàng chưa tru tréo, nhưng đã làm cho tôi một tăng: - Anh làm như em là...rôbô không bằng, cái bài anh viết mới đọc em biết ngay là của bạn anh, hồi đó anh đã kể cho em nghe rồi, hổng nhớ hả. Ghen quá thì chết, mà không ghen thì cũng buồn. Vậy phải ghen tí ti, nhưng ghen một cách lành mạnh và sáng suốt, để tình yêu thêm đậm đà khó quên vì đã được nêm mắm muối, hành tỏi... Gã Siêu
Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì khỉ là một loài động vật có vú, bốn chân có bàn GãSiêu 9
Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì khỉ là một loài động vật có vú, bốn chân có bàn trũng và ngón dài khả dĩ nắm được, trèo giỏi, sống bằng trái cây và ngũ cốc.
Gã quen một anh bạn tên là Bảy. Anh Bảy là người rất tốt bụng, nhưng chẳng may bị trời phú cho một khuôn mặt hơi bị giống với khỉ. Vì thế, thiên hạ thường gọi anh ta là anh Bảy Khỉ. Tuy nhiên, thiên hạ cũng chỉ dám gọi lén sau lưng mà thôi, chứ đường đường mặt đối mặt mà gọi như thế, chắc chắn sẽ bị anh ta đấm cho vỡ mỏ, khi tự ái nổi lên đùng đùng. Và cũng thật trùng hợp, anh Bảy lại có tài leo trèo. Ngọn tháp nhà thờ thật cao, mà anh ta cứ phom phom bò lên, chẳng cần dây đai an toàn chi cả, hai tay và hai chân cứ dính chặt vào tường vách như con thạch sùng. Gã đứng dưới đất ngước nhìn mà còn chóng cả mặt. Thấy vậy, thiên hạ bèn ưu ái phong cho anh ta một tên gọi đậm đà khác nữa, đó là anh Bảy Tổ Tông.
Bốn chữ “Anh Bảy Tổ Tông” làm cho gã nhớ lại gần ba mươi năm về trước, hồi đất nước mình mới được giải phóng, bất kể giai hay gái, già hay trẻ, tất cả nam phụ lão ấu, từ thành thị cho đến thôn quê, đều được học tập về thuyết tiến hóa.
Dựa vào những mẩu xương được tìm thấy, cũng như dựa vào những di tích của ngành khảo cổ, một số nhà khoa học đã đưa ra cái giả thuyết: Người bởi khỉ mà ra và loài khỉ chính là tổ tiên của con người. Mục đích của việc phổ biến thuyết tiến hóa nhằm đả phá tôn giáo, để rồi đi tới kết luận: Vật chất đẻ ra vật chất, chẳng có Thiên Chúa hay thần thánh nào cả. Thế nhưng, theo gã nghĩ: Cho dù vật chất có đẻ ra vật chất và con người có bởi khỉ mà ra chăng nữa, thì bàn dân thiên hạ vẫn phải công nhận: Cái vật chất đầu tiên ấy do đâu mà có nếu không phải là đã được dựng nên bởi một Đấng Tạo Hóa, hơn thế nữa giữa người và khỉ luôn luôn có một sự khác biệt, để người luôn luôn là người và khỉ vẫn luôn luôn là khỉ.
Cũng trong chiều hướng ấy, Teilhard de Chadin đã đưa ra ý niệm về một cú nhảy vọt. Trong cú nhảy vọt ngoạn mục và tuyệt vời này phải có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, để trao ban cho con người một linh hồn, nhờ vậy người mãi mãi là người và khỉ vẫn mãi mãi là khỉ. Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ, cấu trúc AND của người và khỉ giống nhau đến 99,4%, thế nhưng giữa người và khỉ lại khác nhau một trời một vực. Và trong một bài viết trên báo “Kiến thức ngày nay”, thiên hạ đã liệt kê một số những khác biệt căn bản như sau:
Thứ nhất, đó là loài khỉ không biết nói. Rất có thể loài khỉ cũng đưa ra những yêu cầu đơn giản nhưng không có khả năng gợi lên những gì tai không nghe, mắt không thấy hay những gì sắp xảy ra và càng không thể nào trao đổi tư tưởng như con người. Vì vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là một đặc điểm của người và chúng ta có thể xác quyết: Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói nhờ đó mà xích lại gần nhau và cảm thông với nhau hơn.
Thứ hai, đó là loài khỉ không biết cười. Rất có thể khi gặp điều gì vui thú, loài khỉ cũng khúc khích. Thế nhưng, tiếng cười của loài khỉ khác hẳn tiếng cười của con người. Thực vậy, loài khỉ chỉ biết khúc khích khi vui chơi, nhưng lại chẳng biết sử dụng tiếng cười để nổi giận, để châm biếm, để bỡn cợt. Và như vậy chúng ta cũng có thể xác quyết: Người là một con vật duy nhất biết cười.
Thứ ba, đó là loài khỉ không biết cái chết là cái chi chi. Rất có thể khỉ mẹ vẫn tiếp tục chăm sóc cho những chú khỉ con chết yểu, nhưng chưa bao giờ người ta thấy loài khỉ chôn cất đồng loại hay làm nghi lễ an táng cho kẻ đã khuất.
Thứ tư, đó là loài khỉ chẳng có khái niệm về luân lý và đạo đức. Rất có thể loài khỉ cũng biết chia ngọt sẻ bùi, bảo vệ những kẻ yếu thế trong những cuộc xung đột, giúp đỡ kẻ tàn tật và tránh chuyện loạn luân! Tuy nhiên chúng ta cũng đừng vội kết luận là loài khỉ cũng có luân lý và đạo đức riêng của mình. Thực ra, chúng chẳng phải là những con vật hiền lành. Để bảo vệ lãnh thổ, chúng sẵn sàng tấn công, thậm chí giết chết thành viên của bầy đàn bên cạnh, kể cả những chú khỉ con chúng cũng không tha.
Thứ năm, đó là loài khỉ không biết chế tạo dụng cụ. Rất có thể loài khỉ cũng dùng được một vài dụng cụ đơn giản như cành cây, búa, đe, nhưng chúng không có khả năng thực hiện những công việc khó khăn, cũng như không có khả năng học thêm những điều mới.
Sau cùng, đó là loài khỉ không biết nói dối. Rất có thể loài khỉ cũng dấu giếm thức ăn vừa kiếm được để xơi một mình, nhưng chẳng qua chỉ là một cách che dấu mà thôi, chứ còn nói dối, tức là đưa ra những thông tin sai nhằm đánh lạc hướng và lừa gạt đối phương, thì loài khỉ hoàn toàn không thể thực hiện nổi.
Khỉ có nhiều loại và có những loại được kê tên trong sách đỏ, được liệt vào hàng quí hiếm, cần phải bảo vệ cho khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng. Bình thường gã thấy có khỉ đột là loại khỉ to. Còn khỉ giả nhân hay đười ươi cũng là loại khỉ to, đi bằng hai chân giống như người, vì thế Cao Bá Quát đã có câu đối:
- Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái.
Trong khi đó vượn lại là một loại khỉ có đuôi và chân rất dài. Chuyện rằng: Ngày xưa vua nước Sở có một con vượn rất đẹp, chẳng may nó bị xổng chuồng và chạy vào rừng. Nhà vua bèn truyền cho quan quân vô rừng tìm, nhưng tìm mãi tìm hoài cũng chẳng thấy. Cuối cùng nhà vua ra lệnh đốt rừng, để con vượn phải chạy ra. Và thế là chỉ vì một con vượn mà cả cánh rừng rộng lớn bị thiêu rụi.
Bây giờ, gã xin điểm qua một vài đặc tính của khỉ.
Trước hết khỉ là một loài vật tương đối có chỉ số thông minh khá cao. Vì thế, chúng ta đã thấy, khỉ có thể sử dụng một vài đồ dùng thô thiển như cành cây để tự vệ cũng như để tìm mồi. Nếu gã không lầm thì vào năm 1959, phi thuyền Jupiter đã đưa hai con khỉ gốc Á Châu, thuộc nòi “Macaca”, tên là “Aybơn” và “Baikơ” lên không gian, bay chung quanh trái đất với độ cao 450 ki lô mét. Sau khi trở về được hai ngày thì con “Aybơn” lăn đùng ra chết, còn con “Baikơ” sống thêm được một thời gian nữa. Tuy nhiên sự thông minh của khỉ chỉ là một sự thông minh “vốn sẵn tính trời”, được di truyền từ đời khỉ ông tổ xì hơi cho đến đời khỉ con cháu chút chít, có bao nhiêu xài bấy nhiêu, chứ chẳng được cập nhật hóa và phát triển thêm chút nào. Thành thử họ hàng nhà khỉ hôm nay vẫn cứ ngu như tổ tông chúng hàng ngàn năm về trước.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng, đến dưới một gốc cây cổ thụ. Bên cạnh gốc cây cổ thụ lại có một cái giếng. Nước trong giếng phản chiếu ánh trăng vàng. Chú khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền vội vã nói với đồng bạn: Mặt trăng đã bị rơi xuống giếng rồi kìa, chúng ta hãy cùng nhau kéo nó lên. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người một bám vào đuôi nhau mà trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng. Bầy khỉ mặt đỏ từng con và từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì đụng mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt quá sức chịu đựng của cành cây. Một tiếng “rắc” vang lên, cành cây bị gẫy và bầy khỉ mặt đỏ rơi xuống giếng, giẫy giụa mãi không thôi. Còn mặt trăng trong giếng cũng “mất tích” luôn.
Một câu chuyện khác chứng tỏ khỉ cũng ngu, chứ chẳng khôn ngoan gì cho lắm. Ở nước Tống có người khéo nuôi khỉ, sống bằng nghề dạy khỉ làm trò. Thầy dạy khỉ hiểu tâm lý loài khỉ và những con khỉ được ông nuôi dạy cũng hiểu được tiếng nói và cử chỉ của ông. Thầy dạy khỉ vẫn nuôi khỉ bằng hạt giẻ. Hạt giẻ bên Tàu rất lớn, có hạt lớn bằng cái chén uống nước chứ không nhỏ như hạt dẻ bên ta. Mỗi bữa ông phát cho mỗi chú khỉ bốn hạt giẻ. Ngày hai bữa như thế. Gặp hồi thầy dạy hết tiền mà giá hạt giẻ lại leo thang, nên ông thầy thấy cần phải giảm bớt số hạt giẻ cấp phát mỗi bữa cho lũ khỉ, ông liền nói với chúng: Từ nay ta phát cho chúng mày mỗi con bữa sáng ba hạt giẻ, bữa tối bốn hạt giẻ. Lũ khỉ trước đó vẫn quen được phát mỗi bữa bốn hạt, nay bớt đi một hạt, đều phản đối, kêu la chí chóe, nhất định không chịu. Ông thầy dạy khỉ bèn sửa lại: Nếu vậy, từ nay ta phát cho mỗi con bữa sáng bốn hạt, bữa chiều ba hạt. Chịu không? Lũ khỉ nghe nói bữa sáng đổi thành bốn hạt như cũ đều hài lòng, không còn la ó phản đối nữa.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống như khỉ, nghĩa là họ tham cái lợi nhỏ trước mắt, mà quên mất tiêu cái hại lớn sau lưng: Khỉ thật!
Tiếp đến, khỉ là một loài vật có tính tò mò và hay bắt chước. Thấy người ta làm gì, thì khỉ cũng bắt chước mà làm theo. Người ta nhăn mặt thì khỉ cũng nhăn mặt. Người ta gãi sườn, thì khỉ cũng gãi sườn. Người ta toét miệng cười, thì khỉ cũng toét miệng cười.
Biết tính khỉ là như thế, bọn thợ săn bèn bày mưu rượu uống, rồi cùng nhau đi guốc. Sau đó bỏ rượu và guốc dưới gốc cây rồi nấp vào một chỗ mà rình. Lũ khỉ kéo nhau ra, thấy guốc và rượu. Con đầu đàn tinh khôn, cho rằng người ta gài bẫy, nên giục những con khác hãy mau mau đi khỏi. Cả bầy cất bước, nhưng vẫn cứ ngoảnh lại. Cuối cùng chúng bảo nhau: Ta hãy nếm thử xem sao? Và thế là chúng tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, cho tới khi say tít thò lò, quên cả lời nhắc bảo của con đầu đàn. Chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói cười cười, chân đưa vào guốc và bước đi cà lơ thất thểu. Bọn thợ săn bấy giờ mới xông tới. Bầy khỉ lảo đảo chạy, con ngã nghiêng, con ngã ngửa, bị bắt sạch, không sót một con nào.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống khỉ, nghĩa là họ nhắm mắt bắt chước thiên hạ, không phân biệt cái tốt hay cái xấu, cái đúng hay cái sai. Thậm chí cái tốt và cái đúng thì không theo mà chỉ theo cái xấu và cái sai. Thấy cầu thủ bóng đá David Beckham húi trọc, thế là a-lê-hấp, để trở nên giống thần tượng của mình, họ cũng phó thác cái đầu bù xù của mình cho bác phó cạo trọc lóc. Thấy các ca sĩ nữ khi trình diễn mặc áo váy thiếu trước hở sau, thế là “a-la-mốt” mỗi khi ra đường họ cũng khoác vào mình những bộ váy áo mát mẻ và nghèo nàn, rất ư là chướng tai gai mắt, chỉ còn nước lẩm bẩm: Khỉ thật!
Ngoài ra, khỉ còn là một loài vật có tính láu cá và hay quậy phá. Thực vậy, biết bao nhiêu phen người nông dân trồng rẫy ven rừng đã phải khốn đốn vì lũ khỉ. Trồng được mấy trăm gốc bắp, sắp sửa đến ngày thu hoạch, thì chỉ một đêm bị lũ khỉ kéo đến phá cho một trận te tua, thành thử phải ca bài: Xôi hỏng bỏng không, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Vì thế, người ta cũng hay la mắng những kẻ phá phách: Khỉ thật!
Ngày kia, con hổ tát chết hai con trâu và xé tan xác một con lạc đà. Hổ lấy làm kiêu hãnh rằng mình dũng cảm, bèn lên một mỏm đá nằm lăn ra, khoái chí và lớn tiếng khoe khoang: Không có con vật nào có thể đọ sức cùng ta được. Ngay cả đến voi cũng phải cúp đuôi chạy mất, nếu gặp ta và bị ta tát cho vài tát. Trời đã sinh ta như vậy. Chẳng thèm cầu cạnh nhờ vả ai. Bỗng nhiên, một phiến đá nhọn lở ra rơi từ đỉnh núi xuống, trúng lưng hổ làm hổ bị thương. Nhưng hổ vẫn không tỉnh ngộ. Lát sau, hổ trở dậy, đi ra suối uống nước và nằm trên bờ ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cạnh đấy có một tổ kiến lửa. Kiến bò ra, leo lên, chui vào vết thương của hổ và ra sức đốt. Hổ đau quá, chồm dậy, lồng lộn và gầm vang chuyển cả đồi núi. Cạnh đấy có một chú khỉ ngồi trên cây. Chú khỉ thấy hổ quay cuồng bèn phá lên cười và nói: Ê chàng dũng sĩ kia! Lòng can đảm và sức lực của ngươi bỏ đâu mất rồi? Ngươi vừa mới khoe khoang là chẳng có con vật nào địch nổi sức mạnh của ngươi cơ mà. Tại sao bây giờ ngươi lại hoảng hốt giãy giụa lên như thế. Rõ thật là bêu chưa? Hổ nghe nói rất lấy làm xấu hổ, liền năn nỉ: Tôi lạy anh, xin anh làm phúc phủi kiến ra khỏi vết thương hộ tôi. Ơn này suốt đời tôi thề sẽ chẳng bao giờ quên.
Một câu chuyện nữa chứng minh cho tính láu cá của khỉ. Ngày nọ, khỉ đang lang thang thì gặp bác bò đang cày ruộng. Khỉ nói: Tôi rất thích cày ruộng, bác để tôi giúp cho nhé. Cày được mấy luống, khỉ nói:
Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Đi được một quãng, khỉ gặp thím chim ưng đang làm tổ. Khỉ vội nói: Làm tổ là nghề của tôi, thím để tôi giúp cho nhé. Nhặt được mấy cọng cỏ khô, khỉ nói: Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Đi được một quãng, khỉ gặp chú thỏ đang đào hang. Khỉ nói: Tôi rất rành nghề đào hang, chú để tôi giúp cho nhé. Gãi đất được mấy cái, khỉ nói: Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Thời gian trôi qua, khỉ trở về vào mùa lúa chín. Thấy mọi người ca tụng bác bò vì thửa ruộng bác cày thật trúng, khỉ vội nói: Ấy ấy, tôi cày ruộng đấy chứ. Thấy mọi người khen ngợi thím chim ưng vì chiếc tổ thím làm thật bền chắc, khỉ vội nói: Ấy ấy, tôi làm đấy chứ. Thấy mọi người chúc mùng chú thỏ vì chiếc hang chú đào thật ấm áp, khỉ vội nói: Ấy ấy, tôi đào đấy chứ. Nghe thấy vậy, nhiều người ấm ức trong bụng và đã phát ngôn thành lời: Có cái khỉ mốc gì đâu.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống như khỉ, nghĩa là họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, họ nói thì hay mà làm lại chẳng hay chút nào. Họ thích làm giám đốc, giám xúi, chứ chẳng muốn giơ ngón tay lay thử một ly ông cụ nào sốt. Khỉ thật!
Tuy nhiên, có một nét nổi bật của loài khỉ thường các cụ ta ngày xưa nhắc đến qua văn chương chữ nghĩa, đó là một tình thương chan hòa và lai láng. Hẳn rằng khi học truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng ta đều thuộc lòng câu thơ bất hủ: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Hai chữ “đoạn trường” ở đây có nghĩa là đứt ruột, để chỉ những sự việc thảm thương đến cùng độ, khiến cho người ta nghe qua cảm thấy như đứt từng đoạn ruột, tan nát cả cõi lòng.
Theo sách “Sưu Thần Hậu Ký” thì có một người thợ săn bắt được một con khỉ con, đem về làm thịt. Khỉ mẹ trông thấy, cứ ở trên cây kêu la thảm thiết mãi, rồi buông tay té xuống đất mà chết. Đến khi mổ bụng ra, người thợ săn thấy ruột của khỉ mẹ đứt ra từng khúc.
Tương truyền rằng: Ở đất Vũ Bình có giống vượn, lông đỏ như vang, nõn như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Hai mẹ con nhà vượn, mẹ thì khôn ngoan và tai quái, còn con thì ngây ngô và nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên mẹ. Người thợ săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý, thì bắn ngay. Vượn mẹ bị bắn, biết mình không thể sống được, vắt sữa xuống cỏ cho con uống, xong rồi lăn ra mà chết. Người thợ săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy thế, kêu gào thương xót, chạy ngay lại gần và người thợ săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm vượn con nằm phục bên xác mẹ, thì mới yên. Một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã rất thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng chết. Than ôi! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư ?
Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại hành động thua kém cả loài khỉ. Cha mẹ thì đay nghiến và đánh đập con cái, còn con cái thì hất hủi và bạc bẽo với cha mẹ. Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003 thì tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng. Vụ án đau lòng này rất đáng cho chúng ta dừng lại và suy gẫm.
Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người mẫu Võ Thị Thu Trâm, trước ngày cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô cũng mặc cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và nhất là đã đối xử tệ bạc. Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển hình khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một phụ nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với chồng, đã bị chồng đạp vỡ lá lách phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa tuyên án tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ vàng và bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong những cơn say triền miên thường hay quậy phá, gây sự với cha mẹ già và đã ra tay giết người cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao. Đọc những mẩu tin trên, ai mà chẳng phải lắc đầu ngao ngán cho “cái tình đời lạnh lẽo và cái tình người bạc bẽo”: Khỉ thật!
Để kết thúc những chuyện lỉnh kỉnh về khỉ, gã xin giới thiệu một món đặc sản cho dân bợm nhậu trong những ngày đầu xuân, đó là món óc khỉ. Tương truyền rằng khi bà Từ Hi Thái Hậu bên Tàu mở tiệc thết đãi các quan chức chính gốc Ăng Lê, thì trong thực đơn có món tuyệt chiêu này. Tuy là tuyệt chiêu, nhưng lại thật đơn giản. Phía dưới bàn ăn, người ta đóng những chiếc hộc nhỏ. Trong mỗi chiếc hộc nhỏ, người ta nhốt một con khỉ. Phía trên bàn ăn, người ta khoét lỗ để cái chỏm đầu của con khỉ được nhô lên. Tới lúc các quan chức dùng, thì người hầu bàn mang dao tới, rồi phụt một cú, cái chỏm đầu của con khỉ bị cắt ngang, để lộ ra bộ óc còn nguyên vẹn và đỏ hỏn. Bấy giờ các quan chức chỉ cần vắt chanh, nêm muối tiêu, rồi lấy thìa xúc mà ăn. Ăn vào, thập phần bổ béo, còn đầu óc thì trở nên minh mẫn và thông suốt.
Không hiểu các quan chức lúc bấy giờ cảm nhận như thế nào, chứ riêng gã khi nhìn thấy người ta làm thịt khỉ thì đã rùng mình khiếp sợ. Con khỉ bị cạo lông trông giống y chang một đứa con nít, làm sao mà nuốt cho nổi. Riêng những ai mình mẩy đau nhức, mắt mũi kèm nhèm thì trong năm mới này, hãy tìm mua cho được một lạng cao khỉ, đem về ngâm với rượu mà uống. Uống vào, mình mẩy sẽ khỏe khoắn. Ngoài ra, cao khỉ còn có tác dụng tuyệt vời, đó là làm sáng mắt mình mà tối mắt thiên hạ. Khỉ thật! Gã Siêu
Trong thời gian gần đây, thi hoa hậu được mệnh danh là một hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao GãSiêu 10
Trong thời gian gần đây, thi hoa hậu được mệnh danh là một hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao cái “gu” thẩm mỹ của quảng đại quần chúng. Vì thế, từ hoa hậu của báo Tiền Phong, gã ghi nhận rất nhiều thứ hoa hậu khác nữa, chẳng hạn như hoa hậu các tỉnh lẻ, hoa hậu áo tắm, hoa hậu áo dài, rồi nữ sinh duyên dáng, bà mẹ thanh lịch… Vậy thế nào là hoa hậu và người ta đi tìm sự gì qua những cuộc thi hoa hậu ?
Trong một cuộc trình diễn văn nghệ tại viện Đại học Công giáo ở Đàlạt hồi trước năm 1975, có màn chọn hoa hậu. Một số nữ sinh viên bước lên sân khấu. Người dẫn chương trình bèn hỏi ý kiến cha viện trưởng: Theo ý kiến riêng thì cha bàu ai làm hoa hậu? Bị chộp bất ngờ, cha viện trưởng đỏ mặt tía tai, thế nhưng sau cơn bối rối trong giây lát, cha viện trưởng đã ung dung tuyên bố: Tôi chọn cô này. Tại sao? Theo tôi nghĩ thì hoa là bông, hậu là sau. Cô này đúng là hoa hậu, vì có một bông hồng được thêu vào vạt sau áo dài của mình. Cả hội trưởng đều nhiệt liệt vỗ tay không phải để tán thương câu định nghĩa “chày cối” của cha viện trưởng, nhưng để khen ngợi sự nhanh trí của cha trong một tình huống tế nhị và rất khó nói.
Theo sách vở, hoa hậu là người con gái được về nhất trong cuộc thi sắc đẹp, chẳng hạn: hoa hậu thế giới, hoa hậu Châu Á, hoa hậu Việt Nam. Trong những cuộc thi này, người ta đi tìm một cái đẹp khách quan. Vì thế, người ta phải công bố số đo vòng một, vòng hai, vòng ba, chiều cao và trọng lượng. Còn thí sinh thì ít ra cũng phải một lần lên sân khấu trong bộ áo tắm để cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Người ta còn treo những giải thưởng khuyết khích cho những “miss” nào có nụ cười duyên, có mái tóc đẹp, có cặp giò thon và có tấm ảnh bắt mắt.
Để sửa sang và chỉnh đốn cho cái hình dong bên ngoài này, người ta đã tốn không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc. Đây quả là một nghệ thuật xứng đáng với đồng tiền bát gạo. Trước hết, giới thày thuốc đã nhảy vào vòng chiến. Với lưỡi dao giải phẫu, các vị đã cắt chỗ này xẻ chỗ kia và bơm chỗ nọ theo nhu cầu thẩm mỹ và theo sự đòi hỏi của khách hàng. Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc oái ăm, những người muốn làm đẹp chẳng may gặp phải những ông lang băm, những vị thày thuốc dổm, thì chẳng những tiền mất tật mang, mà hơn thế nữa cái sắc đẹp ít ỏi của mình lại sớm tàn phai, ấy là chưa kể tới những bệnh tật và đau đớn như hậu quả tất nhiên của sự trục trặc này. Chẳng hạn như bị rò rỉ chất silicom, được dùng để độn cho bộ ngực thêm phần gồ ghề và nhức nhối hay vì tác dụng của kem mà làm cho khuôn mặt bị nám đen.
Người ta thường bảo: Nhân sao vật vậy. Thế nhưng, trong lãnh vực làm đẹp thì lại không phải vậy. Nơi loài vật, con đực thường hay làm đẹp để lấy điểm với con cái. Vì thế trong tiếng Pháp, danh từ ‘’Coquetterie’’ có nghĩa là sự làm dáng, bắt nguồn từ chữ ‘’coq’’ có nghĩa là anh gà trống! Nơi loài người thì khác, đờn bà con gái vốn được coi là phái đẹp, và nghệ thuật làm đẹp vốn là nghề của các cô nàng. Thậm chí có kẻ đã tuyên bố một cách hung hăng con bọ xít như sau: Là đờn bà con gái, mà nêu không biết làm đỏm mí lại ăn quà vặt thì hỏng còn là đờn bà con gái nữa.
Xét về những nơi những chốn được làm đẹp, gã nhận thấy rằng: Hễ hở ra chỗ nào thì các cô nàng liền vội trang điểm chỗ ấy liền tù tì. Từ cái răng cái tóc là góc con người, đến cái môi cái miệng để mà mần duyên thậm chí đến cả cái móng chân móng tay đều được quí nường trau chuốt một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Chỉ có các nhà chế tạo mỹ phẩm là hốt bạc. Nguyên dầu gội đầu mà thôi thi cũng đã có biết bao nhiêu thứ, đến quỉ thần cũng không nhớ nổi.
Chỉ tội nghiệp cho cánh đờn ông con giai như gã có khi phải ngồi chờ cả giờ cho cô em gái bé bỏng trang điểm, hay anh chàng gà tồ bị người yêu nhõng nhẽo cho trễ hẹn vài tiếng đồng hồ chỉ vì những việc lỉnh kỉnh ấy, thì cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện. Chớ có dại mồm dại miệng mà thở dài thở vắn, mặt xệ xuống như bánh bao chiều, hay đùng đùng tức tối như “tặc dăng” nổi giận. Hãy tự an ủi lấy mình: Đây là một dịp thuận tiện để ta tập đức kiên nhẫn, luyện nội công cho mạnh. Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được cứu thoát.
Thế nhưng, cái đẹp khách quan, cái đẹp có cân đo đong điếm này thì lại rất hiếm và kéo dài chẳng được bao lâu, vì có tuổi trẻ nào mà lại không già, có sắc đẹp nào mà không bị tàn phai. Hay như dân Đức vốn thường bảo: Phàm trên cõi đời này có ba thứ phù du hơn hết, đó là tiếng dội, mống trời và nữ sắc. Vì thế, khi nói đến cái đẹp, chúng ta thường hiểu là cái đẹp chủ quan, cái đẹp ‘’hợp nhãn’’ với mình. Đúng vậy, Voltaire đã tự hỏi: Thế nào là đẹp? Và ông đã mày mò đưa ra một câu trả lời bất hủ và hóm hỉnh. Ông thẳng thừng tuyên bố với bàn dân thiên hạ: Đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực.
Thực vậy, một khi tình yêu đã thấm và hai bên đã “chịu đèn’ mí nhau”, thì cái nhìn chủ quan sẽ tô hồng mọi sự: Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Thậm chí ngay cả đến những chỗ khuyết điểm, người ta vưỡn cứ thấy tuyệt vời: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, trái bồ hòn cũng ngọt. Ngay cả đến những chỗ xấu, người ta vưỡn cứ thấy đẹp tuốt luốt:
- Mũi nàng những tám gánh lông Chồng thương, chồng bảo râu rồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o Chồng thương, chồng bảo gáy cho vui nhà. Đi chợ mất tám tiền quà Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm. Vì thế, có những cô nường xét về ngoại hình, với cái nhìn khách quan, thì sẽ bị xếp vào hàng thị Nở trong Chí phèo của Nam Cao, hay Chung vô Diện trong kiếm hiệp của Kim Dung, nghĩa là dưới điểm trung bình xa lắc xa lơ, thế mà vẫn đắt giá, vớ được những ông chồng ngon lành cả về thể xác xác lẫn tinh thần, cả về tiền bạc lẫn địa vị, khiến cho thiên hạ phát thèm, có nằm mơ cũng chẳng thấy, chỉ vì những cô nường này có được những nét duyên thầm. Còn khi tình yêu đã vỗ cánh bay đi, thì cô nường xinh đẹp thưở ban đầu liền trở thành “cái con mụ nọ”, “cái con mẹ kia”, để rồi anh chồng đi lang thang tìm kiếm của lạ, theo kiểu: Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Khi không còn say men tình yêu nữa, thì cái ngày xưa người ta bảo là “cho vui nhà”, thì bây giờ lại trở thành nguyên nhân gây nên đổ vỡ. Người ta lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ly dị chỉ vì ông chồng hay bà vợ có tật…”kéo gỗ” mỗi khi nằm ngủ. Hay như tục ngữ đã diễn tả: Còn duyên anh cưới ba heo, hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.
Xem như vậy, cái đẹp khách quan cũng như chủ quan đều khó lòng đứng vững với thời gian. Vì thế, đờn ông con giai và nhất là đờn bà con gái cần phải tìm kiếm cho mình một cái đẹp vượt thời gian, một cái đẹp tự bên trong, xuất phát bởi những nhân đức, chứ không phải là cái đẹp hời hợt bên ngoài, dù có mặn mòi đến đâu chăng nữa cũng không thể đi xa hơn làn da! Chính những nhân đức mới tạo nên cho chúng ta một cái đẹp vượt thời gian, một nét duyên thầm làm cho người khác phải cảm phục và say đắm. Các cụ ta ngày xưa đã sớm nhận ra nét duyên ngầm vượt thời gian này, nên đã bảo: Cái nết đánh cái đẹp. Chứ không như bây giờ: Cái đẹp đè bẹp cái nết.
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu chuyện như thế này: Dương Chu sang nước Tống, đến trọ ở một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người đẹp và một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu bèn dò hỏi một đứa nhỏ trong nhà trọ. Nó trả lời: Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp nên mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết là xấu, nên quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của nàng nữa. Bấy giờ Dương Chu gọi đám học trò lại và bảo: Các con hãy nhớ lấy câu ấy. Kẻ giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đến đâu cũng được mọi người tôn trọng và yêu mến.
Kể lại câu chuyện này, tác giả sách “Cổ học tinh hoa” đã góp thêm lời bàn của mình như sau: Đờn bà đẹp mà tự cao tự đắc, người ngoài chỉ thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét, chứ không còn thấy vẻ đẹp đáng yêu nữa. Trái lại, đờn bà xấu, tự thẹn mình là xấu, thì người ngoài chỉ thấy cái nét dịu dàng đáng thương, chứ không còn thấy cái xấu xí đáng ghét của nàng nữa. Người đẹp mà bị khinh, còn kẻ xấu mà được quí là như thế đó.
Viết tới đây, thì hình ảnh mẹ Têrêxa thành Calcutta bỗng tỏa sáng trước mặt gã. Mẹ Têrêxa đứng bên vương phi Diana, quả là hai thái cực trái ngược nhau. Vương phi Diana là một cô gái cao ráo, đẹp đẽ. Gã chỉ nói đến cái “hình dong bên ngoài”, chứ chả dám đá động tới những khía cạnh khác, chẳng hạn như địa vị xã hội, tình cảm cá nhân. Trong khi đó, mẹ Têrêxa chỉ là một bà lão không hơn không kém. Thân hình thì thấp bé, họa chăng có cao hơn ông Giakêu được một tí xíu. Còn mặt mũi thì nhăn nheo, mang nặng dấu ấn của thời gian. Áo quần thì thùng tha thùng thình. Thế mà lúc còn sống, mẹ đã được biết bao nhiêu người quí mến và khi nằm xuống, mẹ đã được biết bao nhiêu người thương tiếc. Sở dĩ như vậy cũng chỉ vì cái đức của mẹ. Phải, cái đức của mẹ chính là nét duyên thầm thu hút mọi người và làm cho cả và thế giới phải khẩu phục tâm phục mẹ hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Hình như có một câu danh ngôn, đại khái khuyên chúng ta như thế này: Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều vui mừng hớn hở, còn con lại cất tiếng khóc. Con hãy sống thế nào, để khi con nhắm mắt buông tay, mọi người sẽ khóc thương, còn con sẽ vui mừng hớn hở. Nét duyên thầm vượt thời gian này ai cũng có thể thực hiện được mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc để chạy ra cửa tiệm, lôi về đủ thứ mỹ phẩm lỉnh kỉnh. Đúng thế, ai cũng có thể và phải làm được miễn là biết kiên nhẫn và cố gắng.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện về một người vợ xấu: Nguyễn Thị là vợ của Hứa doãn, nhan sắc thuộc loại ma chê quỉ hờn. Khi cưới về, thấy nàng xấu quá, Hứa doãn muốn bỏ đi bèn nói: Đờn bà có tứ đức công, dung, ngôn, hạnh. Nàng được mấy? Nguyễn Thị liền thưa: Thiếp chỉ kém có dung mà thôi. Rồi nàng hỏi lại: Kẻ sĩ có bách hạnh, chàng được mấy ? Hứa doãn đáp: Ta có đủ cả. Nguyễn Thị nói: Trong bách hạnh thì đức là đầu. Chàng là kẻ hiếu sắc chứ không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ cả bách hạnh được? Nghe vậy, Hứa Doãn lấy làm xấu hổ và từ đó luôn yêu thương kính trọng vợ mình.
Thái độ của Hứa Doãn có lẽ chưa đủ để đánh thức những kẻ háo sắc hôm nay. Bởi vì rất nhiều người vẫn cắm đầu cắm cổ chạy theo cái đẹp bên ngoài mà quên cái đẹp bên trong. Và mỗi lần đọc trên báo thấy những mẫu quảng cáo tìm người: Cần tuyển nữ nhân viên có ngoại hình đẹp. Gã lại ngậm ngùi cho thói đời bạc bẽo và xót xa cho những cô “em-gái-trời-bắt-xấu”. Thế rồi, gã bèn thở dài thườn thượt cứ y như mặt ngựa vậy. Gã Siêu
Trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, ai nấy đều hy vọng sẽ được sống những năm tháng an bình GãSiêu 11
Trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, ai nấy đều hy vọng sẽ được sống những năm tháng an bình và thịnh vượng. Tuy nhiên, mơ ước thì rất nhiều mà lại chẳng được bao nhiêu. Ngàn năm thứ ba được khởi đầu bằng sự việc bọn khủng bố cướp máy bay, rồi đâm thẳng vào Trung tâm Thương mại Thế giới, khiến cho mọi người đều bàng hoàng khiếp hãi.
Rồi từ đó cho đến nay, nạn khủng bố vẫn liên tục được phát triển từ bắc xuống nam, từ đông sang tây và bọn khủng bố dường như có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không ngày nào mà báo chí không đề cập tới nạn khủng bố. Nào là ôm bom tự sát. Nào là đặt bom ở xe để cho nổ tung, thậm chí còn cài bom cả vào đế giày…Và trong thánh bảy vừa qua, những vụ đánh bom ở Luân Đôn, một lần nữa lại làm cho cả thế giới bị rúng động, bị co giật như lên cơn kinh phong.
Vậy thế nào là khủng bố? Gã xin trả lời một cách vắn tắt: Khủng bố là làm cho người khác sợ hãi. Còn phương thế tạo nên sự sợ hãi thường là những hành động tàn bạo và dã man. Người ta có thể khủng bố lẫn nhau về phương diện thể xác như bắt bớ, đánh đập và tạo nên những cái chết thương đau. Nhưng người ta cũng có thể khủng bố lẫn nhau về phương diện tinh thần như tạo nên những căng thẳng, những buồn tủi, những tuyệt vọng.
Gã không phải là một chuyên viên về chính chị chính em, nên chả dám xớ rớ bàn tới những chuyện liên quan đến nền an ninh thế giới hay đến sự hòa bình của nhân loại. Những vấn đề này quá ư là to lớn, nên bị coi như ở ngoài vòng…phủ sóng. Gã chỉ xin nói tới một phạm vi rất nhỏ bé, rất hạn hẹp, đó là phạm vi gia đình và giới hạn sự khủng bố trong mối liên hệ giữa vợ chồng với nhau mà thôi.
Ngày xưa khi học về sự cháy, tên khoa học gọi là hiện tượng “oxy-hóa”, gã thấy người ta phân biệt hai sự cháy, đó là sự cháy bùng và sự cháy ngầm. Cháy bùng là cháy có phát ra ngọn lửa như chúng ta thường thấy ở trong bếp. Còn cháy ngầm là cháy không phát ra ngọn lửa, như chúng ta thường thấy nơi sự rỉ sét của các thứ kim loại. Cũng vậy, trong mối tương quan giữa vợ chồng với nhau, gã xin tạm chia sự khủng bố thành hai loại, đó là sự khủng bố tàn bạo và sự khủng bố êm dịu.
Tác giả Mai Thắng trong một bài báo đã đưa ra nhận xét như thế này: Thông thường khi yêu nhau, người ta vẫn làm những điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu. Thế nhưng, một số người lại cho rằng yêu có nghĩa là chiếm hữu một cách ích kỷ. Sự khủng bố êm ái này diễn ra mà đôi khi ngay cả người trong cuộc cũng không hay biết. Trước hết, anh chồng khủng bố chị vợ như thế nào? Như chúng ta đã biết người chồng vốn được gọi là phái mạnh, phái khỏe. Vì thế, sự khủng bố của họ thường nghiêng về tàn bạo hơn là êm dịu. Thực vậy, vào cái thuở ban đầu khi mới quen nhau, mới thương nhau, anh ta lịch sự, ga lăng và hào hoa bao nhiêu, thì bây giờ lại khó khăn, bẳn gắt bấy nhiêu. Mở miệng ra là chửi bới cộc cằn. Hơi một chút là hành động cách hùng hổ. Xét về sự đấm đá thì không ai bằng. Thiết tưởng những sự khủng bố như thế đều xuất phát từ cái đầu óc gia trưởng, độc tài và độc đoán.
Thứ nhất là trong việc làm.
Ngày xưa, anh ta chiều chuộng nâng niu theo kiểu: Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Còn bây giờ thì thường xuyên cho nồi niêu xoong chảo bay ra ngoài sân, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Đáng lẽ ra anh ta phải dùng bàn tay để xây dựng, thì nay lại dùng để phá đổ. Có những anh chồng đã hành động một cách hết sức tàn bạo và dã man, đánh đập chị vợ không biết nương tay, bắt chị vợ phải hầu hạ cung phụng mình như một ông hoàng theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”, chẳng thèm đụng ngón tay lay thử bất cứ công việc gì trong gia đình. Một cô giáo đã tâm sự như sau: Thực là mệt mỏi. Mỗi khi đi làm về còn phải ghé qua chợ mua thức ăn, ghé qua truờng đón thằng nhỏ. Thế mà về đến nhà, ông chồng lúc thì đang vểnh râu ngồi xem tivi, lúc thì đang lướt như múa trên bàn phím. Ông ấy có đến ba bằng đại học, uyên bác lắm chứ có phải thường đâu. Đông tây kim cổ cái gì cũng biết, chỉ mỗi chuyện vợ con sống chết ra sao là không biết mà thôi. Có lần tôi bận, gọi điện nhờ đón con, thì ông ấy hỏi con học ở trường nào, làm tôi cười ra nước mắt…(Gia Đình 32)
Thứ hai là trong lời nói.
Ngày xưa, lời nói của anh ta sao nó ngọt như đường cát mát như đường phèn, sao nó êm dịu và nhẹ nhàng đến thế. Còn bây giờ mới chua chát, gắt gỏng làm sao. Trước kia thì: Anh anh, em em. Còn bây giờ thì: Mày mày, tao tao. Thậm chí còn: Cái con mẹ mày, cái con mụ nọ, cái con chết bầm kia… Rồi anh ta lại dành cho chị vợ tất cả những món cao lương mỹ vị bằng những tiếng chửi bới tục tĩu, lôi cả bố mẹ, ông bà và tổ tiên không biết bao nhiêu đời ra mà riếc móc. Anh ta cứ nghĩ rằng: Càng nói to, càng gắt gỏng thì chân lý và phần thắng sẽ thuộc về mình. Rất nhiều khi anh ta đã dùng chiến thuật “cả vú lấp miệng em”. Gã thấy có những anh chồng rất sai, rất trái và rất ngang, còn hơn cả cua bò, thế mà mỗi khi phát ngôn đều la mắng, gắt gỏng để phủ đầu và lấp liếm những sai lỗi của mình.
Trong đời sống vợ chồng, về phương diện lời nói người ta đã diễn tả bằng một kinh nghiệm chua chát như sau: Những ngày trước hôn nhân thì chị nói anh nghe. Liền sau hôn nhân thì anh nói chị nghe. Còn sau đó cả hai người cùng nói và hàng xóm phải nghe. Gã cũng thấy có những anh chồng luôn kê tủ đứng, chê bai chị vợ truớc mặt bàn dân thiên hạ.
Bữa tiệc mừng tân gia chưa kết thúc, thì anh đã vào bếp gọi chị ra nói lớn tiếng: Anh đã nhắc em không biết bao nhiêu lần, khi nấu ăn em phải hết sức chú ý trong việc gia giảm và mắm muối. Món nào em nấu cũng mặn chát như thế thì ai mà nuốt cho nổi. Hôm nay anh mời sếp và các đồng nghiệp trong công ty đến mà em nấu nướng kiểu này thì mất hết cả thể diện của anh. Không biết bao nhiêu lần anh chê bai chị truớc mặt người khác như thế. Anh không quan tâm tới việc người khác nghĩ gì về vợ mình, cứ không vừa ý là anh giận sôi lên, rồi không tiếc lời quát tháo. Nếu có ai góp ý “vợ chồng đóng cửa bảo nhau” thì anh gạt phắt đi: Tôi có nói oan, nói sai cho cô ấy đâu mà phải giữ ý giữ tứ, tôi cứ nói trước mặt mọi người cho cô ấy cảm thấy xấu hổ để lần sau còn nhớ mà sửa đổi. Vợ với chả con, vụng về hết chỗ nói, đã thế lại còn ngang ngạnh không chịu sửa đổi, hễ tôi nói là gân cổ lên cãi. (Gia Đình 29).
Thứ ba là trong tư tưởng.
Anh ta cho ý kiến của mình luôn là đúng, là phải, còn ý kiến của chị vợ luôn là sai, là trái. Nhiều khi anh ta lên tiếng khinh bỉ và coi thường chị vợ: Ôi giời, đàn bà con gái biết chi mà nói. Bao giờ anh ta cũng lấy cái “lý đoán” của mình mà áp đảo chị vợ và buộc chị vợ phải nhắm mắt vâng theo răm rắp, đúng với cốt cách “phong kiến” ngày xưa: Phu xướng, phụ tùy. Chồng đã phán, thì vợ phải chấp hành nghiêm chỉnh. Sự khủng bố về mặt tư tưởng thường diễn một cách từ từ và âm thầm theo kiểu mưa dầm thấm đất. Phải chăng đây cũng là kiểu khủng bố êm dịu duy nhất của người chồng?
Bất ngờ gặp lại chị, tôi thấy chị thay đổi hẳn từ cách ăn mặc, tóc tai đến tính tình. Những bộ quần áo sinh động được thay thế bằng quần tây, áo sơ mi đóng khuôn. Biệt danh “tóc ngắn nhí nhảnh” mà lớp yêu mến đặt cho chị dường như không còn thích hợp bởi mái tóc dài duỗi thẳng đuốt. Chị thở dài phân bua: Ông xã của mình bắt buộc như thế, cảm thấy không thoải mái nhưng biết làm sao bây giờ. Qua trò chuyện, tôi thấy chị thay đổi cả thói quen chủ động trong mọi vấn đề, chẳng hạn như việc gọi thức ăn cho mình khi vào quán hay việc mặc đồ gì khi đi chơi…tất cả đều do anh ấy. Chị cuời gượng: Quen rồi, anh ấy quyết định mọi thứ, mình chỉ việc làm theo. Và có lẽ chị không phải là trường hợp cá biệt “đánh mất bản sắc” của mình. Vì người yêu, sẵn sàng làm mọi sự, kể cả thay đổi bản thân không đúng với cá tính của mình, miễn là vừa lòng người mình yêu. Nếu như có người đã viết hai câu thơ: Đừng nhìn em như thế, cháy lòng em còn gì. Thì qua những kiểu khủng bố như trên, tác giả Đình Bôn đã có lý khi thốt lên: Đừng hành nhau như thế, chết đời em còn gì. (Gia Đình 29). Tiếp đến, chị vợ khủng bố anh chồng như thế nào ? Như chúng ta cũng đã biết, người vợ vốn được coi là phái đẹp, phái yếu. Vì thế sự khủng bố của họ thường nghiêng về êm dịu hơn là tàn bạo. Nói thế, không phải là không có những bà vợ mang khuynh hướng bạo lực đâu nhé, tuy rằng rất ít và rất hiếm.
Anh hàng xóm của tôi đã tốt nghiệp đại học và là truởng ban biên tập thời sự của một tờ báo lớn. Tôi đã từng chứng kiến tận mắt nhiều lần vợ anh mắng anh là đồ ngu, đồ đần độn và khiếp quá có lần vợ anh cầm cả cán chổi vụt thật mạnh xuống giường. Nhát vụt ấy là lời cảnh cáo anh, chả khác gì cách dạy con của các cụ ngày xưa. Anh vẫn ngồi như tượng, mặt tím vì giận vợ và xấu hổ với hàng xóm, vì họ đều là đồng nghiệp…(Gia Đình 29).
Do chân yếu tay mềm, nên vũ khí người vợ dùng để khủng bố ông chồng thường là lời nói. Thực vậy, tìm được một bà, một cô vừa niềm nở và tươi tắn, lại vừa kín miệng và thận trọng trong lời nói là một điều rất khó, bởi vì phần đông các bà các cô đều mắc phải cái tật thích nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt và lắm khi còn nói xiên , nói xỏ.
Có những chị vợ thường xuyên cạu cọ với chồng với con. Chúng ta thử tưởng tượng ra một anh chồng làm công chức. Ở sở thì bị bề trên đè nén, bề ngang ganh tị và bề dưới bướng bỉnh. Về nhà chỉ thầm mong tìm thấy một khuôn mặt tươi tắn và một lời nói dịu dàng của chị vợ, cùng với những nụ cười vô tư của con cái để quên đi hết nỗi sầu buồn chất chứa trong lòng mà hăng hái tiếp tục cuộc chiến đấu vì cơm áo gạo tiền. Thế nhưng, bất cứ lúc nào hễ thấy mặt anh chồng, chị vợ lại cằn nhằn: Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua người ta thế nọ…Người ta thì kiếm tiền như nước, đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất tướng quá vậy. Ngay cả những lúc thân mật, chị vợ cũng luôn rót vào tai chồng những lời chua như chanh và cay như ớt. Ngồi vào bàn ăn, thì mặt mày làm thành một đống. Như vậy, làm sao người chồng có thể chịu đựng cho nổi. Nhất là mỗi khi có chuyện xích mích, bất đồng trong gia đình hay chẳng may anh chồng lỡ sai lỗi điều chi, thi chị vợ xả ga nói cho bằng thích: nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt, nói xỏ, nói xiên…xoáy vào tận lục phủ ngũ tạng, xoáy vào tận tâm can tì phế của anh chồng. Lải nhải ngày cũng như đêm.
Bị khủng bố tới nước này, anh chồng thường có hai cách giải quyết. Một là lẳng lặng bỏ nhà ra đi dăm bảy tiếng đồng hồ hay vài ba ngày để xả…”stress”. Hai là tức nước vỡ bờ, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, nện cho chị ta một trận để mà câm cái miệng lại. Cả hai cách giải quyết đều bất ổn cho cá nhân cũng như cho gia đình. Đúng vậy, những lời nói theo kiểu “dài-dẻo-dai-day-dứt” như trên thường không đem lại kết quả như lòng mong ước, trái lại lắm lúc còn như đổ thêm dầu vào lửa làm cho bùng nổ…chiến tranh giữa các vì sao. Bởi đó, rút ra từ những kinh nghiệm quí giá, phần lớn các chị vợ đã tâm niệm rằng: Mật ngọt chết ruồi. Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng dấm chua.
Và thế là các chị ấy bèn thay đổi chiến thuật, dùng những lời nói ngọt ngào như đường như mật mà rót vào tai các anh chồng. Một khi đã khoái cái lỗ nhĩ, các anh chồng chỉ còn biết gật đầu vâng theo mà thôi. Đây chính là một sự khủng bố êm dịu mà kết quả được diễn tả là trên cả tuyệt vời.
Gã xin đưa ra một vài chứng từ được góp nhặt trên tuần báo “Gia Đình”, qua đó cho thấy với chiến thuật khủng bố êm dịu, các chị vợ đã chiến thắng một cách khốc liệt, còn những anh chồng đã phải ngậm đắng nuốt cay, chịu thua một cách te tua thảm hại.
Chứng từ thứ nhất là của hai người đang…cặp bồ với nhau. Trong tiệc cưới ở nhà hàng nọ, chúng tôi cảm thấy thương và buồn cười cho anh bạn trẻ ngồi chung bàn. Cô bạn gái của anh ta cứ luôn miệng nững nịu, bắt anh ta phải làm việc này việc nọ để phục vụ cho cô. Từ việc lấy đôi đũa ra khỏi bao giấy, đến việc lột tôm cho vào đĩa thức ăn, ngay cả cầm chiếc khăn lên lau mặt cô cũng nhờ người yêu xé hộ. Chứng kiến từ đầu đến cuối cảnh tượng ấy, một anh chàng độc thân bèn chép miệng thở dài ngán ngẩm: Hết ham có người yêu.
Chứng từ thứ hai là của một cặp vợ chồng cưới nhau hơi bị…mới. Họ vừa mới kết hôn và cũng vừa mới qua tuần trăng mật tại Đà Lạt. Chi tiết nhỏ này cũng nói lên khá nhiều về tình trạng “kinh tế rủng rỉnh” của họ. Ấy thế mà có một cuộc chiến ngầm đang diễn ra mà kẻ bại trận lại chính là…“anh yêu”. Nàng mới tậu được một chiếc váy lửng đồ hiệu, nhưng vòng cạp hơi bị chặt vì cái eo của nàng dạo này hơi bị phát triển. Và thế là: Anh ơi, anh đưa em đi sửa lại cái cạp váy nhé? Anh miễn cưỡng: Ừ, thôi nào đi.
Chuyện vặt này thế là cho qua. Lại đến việc khác. Một ngày đẹp trời, nàng bảo anh đưa nàng đến cái “shop” chuyên về đồ lót phụ nữ. Anh ngần ngừ. Đàn ông đến đó ngượng chết đi được. La liệt những “quang treo” và “lá nho”. Khiếp. Nhưng chẳng để cho anh trình bày lý do ngại ngùng, “em yêu” liền đưa ngay giải pháp: Thì anh dựng xe bên đường và đứng đợi em. Cuộc chờ ấy dài bằng cả thế kỷ.
Nàng biết anh có tài rán trứng. Và thế là hôm hai vợ chồng về quê ngoại, nàng bèn khoe với mẹ rằng con rể của mẹ làm bếp rất giỏi. Tiến thoái lưỡng nan, anh đành phải ngoan ngoãn hì hục dưới bếp, chiến đấu với lửa rơm. Ngoài ra, anh còn bị quật ngã bởi một độc chiêu khác nữa, đó là nàng luôn đóng vai hải quan, khám túi áo, khám túi quần, khám ví da. Có nghĩa là anh bị quản lý một cách chặt chẽ, không còn có một quĩ đen quĩ đỏ nào cả. Thậm chí trên điện thoại di động, anh cũng phải luôn xóa sạch những tin nhắn lạc lõng à ơi. Nếu không thì chết. Bạn bè chê anh là hèn, nhưng anh bèn lớn tiếng thanh minh thanh nga: Tớ nể vợ chứ đâu có sợ vợ. Nể vợ khác với sợ khác chứ. Tớ không phải là loại đàn ông mềm yếu.
Chứng từ thứ ba là của đôi vợ chồng cưới nhau hơi bị…cũ. Từ trên lầu đi xuống, chị õng ẹo: Alô, anh đến đón em và đi mua sắm một tí nhé…Bận hả…Vậy em đi xe ôm. Khổ ghê. Có chuyện mới nhờ. Vậy mà…Chỉ cần nghe cái điệp khúc “khổ ghê” bằng giọng giận dỗi của chị là anh lại phải “đau khổ” thi hành mệnh lệnh của chị, dù đang bận bịu đến mấy đi nữa. Anh than thở: Nếu không, cô ấy sẽ đưa ra những biện pháp làm cho mình đứng ngồi không yên. Công việc tại văn phòng khiến anh khó có thể rời khỏi nơi làm việc trong giờ hành chánh, nhưng anh phải năn nỉ sếp, hoặc tranh thủ lúc giải lao để đáp ứng nhu cầu của chị. Mà những việc đột xuất của chị lại rất thường xuyên và hay rơi vào giờ hành chánh. Thế mới khổ cho anh. Có lẽ vì lý do trên, mặc dù gắn bó với công ty đã ba năm, mà chưa bao giờ anh được khen thưởng. Thậm chí đôi lúc anh còn bị khiển trách, không phải vì khả năng làm việc, mà vì hay vắng mặt trong giờ hành chánh ở cơ quan. Sự việc trên làm gã nhớ tới một bài thơ của Bắc Tiếu với tựa đề là “Khéo”:
- Vợ tui là khéo nhất nhà, Rất hay sai vặt, nhưng mà sai hay. Anh ơi, giúp em cái này, Mang giùm cái đấy vào đây anh à…. Từ kinh nghiệm xương máu, nằm gai nếm mật, những anh chồng thâm niên phục vụ cho chị vợ đã phải cúi đầu tự thú…trước bình minh: Khi một người đàn bà yêu thương chúng tôi, thì tình yêu của người ấy đã quật ngã chúng tôi, khiến chúng tôi như bị tước đoạt hết tất cả và như bị đánh bại một cách thê thảm. Trước sự khủng bố êm dịu của các bà vợ, gã xin mượn tạm bài thơ “Chồng ngoan” của Minh Thu thay cho lời kết: Hầu con từ thuở còn thơ, Hầu vợ đến thuở bạc phơ mái đầu. Muốn cho vợ khỏi càu nhàu, Bếp dọn sạch bếp, nhà lau sạch nhà. Sinh nhật phải nhớ tặng quà, Nấu ăn ngày tám tháng ba khỏi bàn…. Gã Siêu
Hình như ai trong chúng ta, từ đờn ông đến đờn bà, từ cụ già đến đứa con nít, ai ai cũng đều hiểu GãSiêu 12
Hình như ai trong chúng ta, từ đờn ông đến đờn bà, từ cụ già đến đứa con nít, ai ai cũng đều hiểu được giá trị của đồng tiền, chả thế mà hiện nay, người ta thường hay rêu rao:
Tiền là tiên là phật, Là sức bật của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân, Là cán cân của công lý. Và khi ra ngõ, dằn trong túi tí tiền còm, cũng cảm thấy bảo đảm như có được một lá bùa hộ mệnh. Đồng tiền, đúng là tiên là phật, có sức mầu biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài, cả hình dong lẫn cõi lòng, như người xưa đã từng phát ngôn: Xu hào rủng rỉnh thì…. thằng mán cũng ngồi xe. Cô nọ đen thủi đen thui, nhưng tiền nhiều thì cũng vưỡn …lượt là như ai.
Và trong thời buổi hiện nay, đồng tiền, nhất là đồng tiền đô la của Mỹ lại càng được thiên hạ chiếu cố tận tình. Cũng vì đồng đô la có giá mà nhiều Việt kiều, mỗi khi trở về thăm quê hương, thỏa sức tiêu dùng và mua sắm, kể cả ăn chơi xả láng mà vẫn dư khả năng giúp đỡ những người thân và gia đình, cũng như góp phần vực cái nền kinh tế còn èo uột của đất nước lên.
Tuy nhiên, cái gì thì cũng có mặt phải và mặt trái. Có những đồng đô la nhân nghĩa, như gã đã bàn đến trong số trước, thì cũng có những đồng đô la bất hạnh, là điều gã xin “phô bày” trong số này. Có lần gã hỏi một thằng bạn từ Mỹ về chơi: Không hiểu ở bên Mỹ cái tên ấy làm nghề ngỗng chi mà khi về Việt Nam, hắn tiêu tiền như đốt pháo ngày tết hồi xưa vậy. Nghe hỏi thế, thằng bạn bèn bật mí: Có làm cái quái gì đâu, thất nghiệp dài dài, thường xuyên ăn lương trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, trước khi về, hắn đã phải chạy đôn chạy đáo, vay tiền của ngân hàng, vay tiền của người nọ người kia để ăn xài theo kiểu đế vương mà làm oai và lấy le với thiên hạ. Cứ cái kiểu ấy thì khi trở lại đất Mỹ sẽ làm thân trâu ngựa, kéo cày trả nợ cho tới mãn đời cũng chưa chắc đã hết.
Hình như dân Việt Nam ta có máu sính cái “mác ngoại”. Họ ngoại thì dễ chịu hơn họ nội. Hàng ngoại thì xịn hơn hàng nội và tiền ngoại thì quí hơn tiền nội. Vì thế, Việt kiều thì có “thớ” đối với nhưng người trong nước. Chính vì vậy, có kẻ đã lợi dụng cái “mác Việt kiều” để làm những chuyện lừa gạt thất đức. Trước hết là lợi dụng cái mác Việt kiều để gạt tình Gã xin ghi lại nơi đây những chuyện có thật, đã từng được báo chí đăng tải. Đầu năm 1999, với danh nghĩa là nhân viên của một công ty Mỹ muốn mở đại lý ở Saigon, LVM về Việt Nam đề thăm dò thị trường, đồng thời tìm người để lấy làm vợ. Đúng là một công đôi ba chuyện. M. làm quen với cô TTL ngụ tại Bình Thạnh và hai người bắt đầu tìm hiểu nhau để đi tới hôn nhân. Lấy lý do tiết kiệm tiền để lo làm ăn, M. ngỏ ý muốn về ở chung với L. cho đỡ tốn tiền khách sạn. Thấy M. thật thà lại chí thú làm ăn, L. không khỏi cảm động, chăm sóc cho người chồng tương lai thật chu đáo và tin tưởng trao thân gửi phận cho M. Kẹt một nỗi trong nhà L. còn có cô em gái tên là H. Và thế là mổi khi L. đi làm, M. hay chở H. dong chơi và giữa họ có mối quan hệ khắng khít và thân mật trên mức bình thường. M. cũng không dám từ chối bèn…xơi luôn cô em gái này. Khi bị phát giác, hai chị em đã họp “đại hội”và đã đi đến chỗ đồng ý và nhất trí đòi buộc M. phải chọn một trong hai người làm vợ. M. cũng ậm ờ cho qua chuyện và bắt đầu tính bài…chuồn bằng cách viện cớ lu bu công việc nên không thể ghé nhà sống chung với hai chị em được nữa. Qua tìm hiều thì ngoài hai chị em kể trên, M. còn lạm dụng mác Việt kiều để gạt tình nhiều cô gái khác và với cô gái nào M. cũng hứa sẽ cưới làm vợ. Sau khi đã gạt được tình, M. liền tìm cách…cao chạy xa bay.
Cũng thế, ông bố kia ở quận Tân bình có ba cô con gái, đang độ mơn mởn đào tơ. Cách đó không xa, lại có một chàng Việt kiều. Với tình nghĩa lối xóm qua lại, chàng Việt kiều đã chấm ngay cô út xinh xỉnh là xinh. Hai người bèn tốc hành ăn ở với nhau như vợ chồng, chàng Việt kiều hứa sẽ cưới cô út làm vợ, còn cô út cũng muốn vì thế mà cột chân chàng việt kiều. Xem ra hành động như vậy thì cả đôi bên đều có lợi. Nhưng cô út quên béng mất lời cảnh cáo của người xưa: Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn. Mà đúng thế, sau đó không lâu, chàng Việt kiều bỗng dưng… mất tích. Thì ra chàng Việt kiều đã tếch vể Mỹ lúc nào không hay, để lại mối hận tình cho cô út xinh xỉnh là xinh và bốn cô gái khác cũng tương tự như thế. Bởi vậy, hỡi các cô nàng đang ươm mơ đi Mỹ bằng cách lấy chồng Việt kiều thì hãy đề cao cảnh giác, mở to đôi mắt viên bi ra mà nhìn.
Ngày xưa mấy chàng việt kiều họ…sở thường dùng mánh vung tiền như nước, làm lóe mắt những kẻ cả tin lại nhẹ dạ, nhưng xem ra cái mánh này vừa hao địa lại vừa xưa rồi…diễm ơi, nên mấy chàng việt kiều họ sở này bèn chuyển qua mánh “giả nai”. Họ giả bộ chí thú làm ăn, tiêu xài tiết kiệm với vẻ bên ngoài thật thà đứng đắn, khiến cho nhiều cô nàng bị sập bẫy. Bên ngoài họ là “con nai vàng ngơ ngác”, nhưng bên trong họ đích thực là một loại “dê xồm” đấy. Không những chỉ những chàng Việt kiều mới gạt tình, mà ngay cả những nàng Việt kiều cũng thực hiện bài bổn kể trên để kiếm chồng.
Báo Công an Thành phố kể lại rằng: Anh tài xế hai mươi bốn tuổi vừa đẹp trai lại vừa khỏe mạnh được công ty du lịch phân công chở một bà Việt kiều lên tham quan Đalạt. Bà Việt kiều già đã năm mươi mấy tuổi rồi mà vẫn ăn mặc diêm dúa, nước hoa nước hoét thơm phưng phức. Trên suốt đoạn đường dài ba trăm cây số này, bà Việt kiều già cho biết mình đang là giám đốc điều hành một công ty lớn bên Mỹ, phải đi đây đi đó, rất cần một tài xế thân tín, rồi lại khen anh tài xế lái xe bay bướm như nghệ sĩ và cuối cùng bà Việt kiều già tỏ ý muốn bảo lãnh anh tài xế sang Mỹ. Anh tài xế mừng rỡ như mở cờ trong bụng vì được quái nhân phò trợ, nên cung phụng bà Việt kiều già này còn hơn cung phụng mẹ ruột của mình. Tới Đalạt, tại khách sạn bà Việt kiều già đòi anh tài xế phải xoa bóp, phải “massage” cho mình, rồi nũng nịu gọi anh tài xế là “cưng ơi” và xưng “em” ngọt xớt, khiến cho anh tài xế cứ rối tinh trong bụng, vừa lo lại vừa mừng, vừa mừng lại vừa lo. Trên đường về bà Việt kiều già bảo anh tài xế tạm ứng cho mình 1500 đô để lo thủ tục xuất cảnh, sang tới bên đó thì sẽ bù lại gấp mười. Với mộng ước được xuất cảnh sang Hoa kỳ, anh tài xế bèn bàn bạc với người yêu của mình đang làm nghề thợ may. Tưởng người yêu phản đối, ai dè cô ấy đồng ý liền tù tì, lại còn khích lệ và dự phóng cho tương lai: Anh đi trước rồi bảo lãnh cho em qua sau. Và thế là hai người vét hào bao, gom góp đủ số tiền nộp cho bà Việt kiều già. Câu chuyện còn dài, nhưng rốt cuộc chỉ vì giấc mơ đi Mỹ mà anh tài xế và cô nhân tình bé bỏng mất toi số tiền trên, bởi vì bà Việt kiều già chỉ là một chuyên gia lừa gạt cả tình lẫn tiền. Thực chất bà vừa khát tình lại vừa khát tiền và cũng chẳng có một công ty nào bên Mỹ cho bà làm giám đốc cả. Với cái mác Việt kiều, họ còn gạt cả tiền nữa Cách đây không lâu, báo chí đã um xùm đăng tải trường hợp của Juan Ming vì nó liên hệ tới một cô diễn viên điện ảnh nổi tiếng của thành phố tên là Diễm Hương. Ngày 29.4.1975 hắn và hai người em ruột được bà chị bảo lãnh vào tòa đại sứ để di tản sang Mỹ. Tại Mỹ, hắn học về thể dục thể thao. Sau khi bị cảnh sát Mỹ lùng bắt khẩn cấp về tội giết người, hắn trốn sang Đài loan và dạy tennis, rồi từ đó về Việt Nam nuôi ngựa hòng trốn tránh sự truy nã của FBI. Trong một buổi tiệc mừng sinh nhật, hắn đã mời cả diễn viên Diễm Hương và thuổng luôn hai viên kim cương của bà Cẩm Huỳnh, người má nuôi của hắn, rồi trốn sang Campuchia. Nhưng lưới trời lồng lộng. Cuối cùng, hắn cũng đã bị tóm cổ và bị dẫn độ về Việt Nam.
Không những lừa tình và gạt tiền, mà nhiều khi thiên hạ còn lạm dụng cái mác việt kiều và những đồng đô la bất hạnh để có những hành động làm nhơ bẩn quê hương, chẳng hạn như mở động mãi dâm, mở đường giây xuất khẩu gái qua nước ngoài, hay những hành động làm nghèo đất nước, chẳng hạn như những hình thức kinh doanh không đúng vơi luật pháp qui định. Trước hết là những hành động làm nhơ bẩn quê hương Gã xin kể ra nơi đây một trường hợp điển hình, đó là trường hợp của Đỗ vinh Sang. Hắn sinh năm 1969. Vượt biên qua Mỹ năm 1983. Tại đây hắn sống bằng tiền…thất nghiệp. Vì cuộc sống khó khăn, nên hắn đã làm giả… “người cõi trên”. Suốt hai năm trời ăn bám dưới hình thức tu tịnh khẩu, không nói một tiếng, mặc xà rông, ở trần, đầu quấn kín, chỉ chừa mắt, mũi, miệng. Ai hỏi hay nói gì, hắn chỉ lắc hoặc gật đầu. Vào tháng giêng năm 1997, hắn về nước. Thấy cô em gái làm ăn khấm khớ và giá sinh hoạt tại Việt Nam lại quá rẻ so với bên Mỹ, nên hắn đã quyết định cắm dùi, nằm lỳ tại thành phố, lên phương án cộng tác với vợ chồng cô em gái mần ăn tầm bậy tầm bạ. Thế là cuối năm 1998, hắn cùng vợ chồng cô em gái bắt đầu tổ chức những điểm chứa gái để kiếm tiền và thực hiện việc nuôi gái lầu xanh, “đưa người cửa trước, rước người cửa sau” để mau phất lên. Chúng thuê hoặc mua nhà làm tiệm hớt tóc, lam shop thời trang như bình phong che dấu những hành động đốn mạt. Đồng thời có lý do chính đáng để tuyển dụng gái. Bị đẩy vào đây còn có những cô gái nhẹ dạ tin lời hứa của hắn, chẳng hạn như trường hợp của T.
T. là một cô gái quê tại Sa đéc, gặp Sang ở một cửa hàng nơi T. đang giúp việc. Chỉ vài lần lui tới, Sang đã đặt vấn đề yêu thương tha thiết và muốn cưới T. làm vợ. Một cô gái nghèo phải bỏ quê lên thành phố tìm việc với ý nguyện đổi đời, choáng ngợp trước tình yêu của một chàng Việt kiều thứ thiệc, nên T. xiêu lòng…để rồi cuối cùng đã phải làm việc tại ổ chứa của hắn. Sau cùng là những hành động làm nghèo đất nước
Điển hình là trường hợp của Trịnh vĩnh Bình. Trịnh vĩnh Bình là một Việt kiều Hà lan, đã mang về nước 2,3 triệu USD và 96 ký vàng để kinh doanh tại Vũng Tàu. Từ tháng 7 năm 1991 đến tháng 7 năm 1995, mượn danh nghĩa của những người thân bên mình và bên vợ, Bình đã mua gom được 284ha đất, 2 cơ sở sản xuất, 11 căn nhà rải rắc từ thành phố Hồ chí Minh, chạy dọc quốc lộ 51 cho tới Vũng Tàu. Cùng với phương thức trên, Bình còn nhận 542ha đất trồng rừng. Rồi sau đó, Bình sang đi bán lại để kiếm lời. Cụ thể là Bình đã bán 2,8ha đất, thu về được 480 lượng vàng và 1,005 triệu USD, chuyển nhượng 14ha đất trồng rừng, thu về 6,2 tỷ đồng. Ngoài ra, Bình còn hối lộ để lo giấy tờ nhập khẩu giả cho những người thân ở địa phương khác để dễ dàng mua bán nhà cửa, thành lập công ty, nhận đất rừng, hợp thức hóa chủ quyền.
Mang đô la và vàng về nước để đầu tư và kinh doanh là điều tốt, thế nhưng thật đáng tiếc là Bình đã đầu tư và kinh doanh sai trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về việc quản lý, bảo vệ đất đai của nhà nước. Hành vi sai trái của Bình đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, đó là hàng nghìn mét vuông đất bị sử dụng sai mục đích, thất thu tiền thuê đất và tiền thuế đất lên tới hàng chục tỷ đồng. Với sự tiếp tay của một số cán bộ, hành vi của Bình đã vô hiệu hóa sự quản lý của nhà nước về đất đai, gây ra những tác động xấu và những hậu quả tiêu cực.
Để kết luận, gã xin kêu gọi như sau:
- Hỡi tất cả những ai thích bản nhạc chỉ có hai nốt đô và la, xin hãy coi chừng, hãy đề cao cảnh giác, nhất là những người đang nuôi nhiều tham vọng và những cô gái đang dệt nhiều mộng mơ, hãy mở to cặp mắt mà nhìn, kẻo một khi đã sập bẫy, thì sẽ phải ân hận suốt cả một đời. Gã Siêu
Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, không phải chỉ là một biến cố làm rụng rời tay chân trên toàn GãSiêu 13
Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, không phải chỉ là một biến cố làm rụng rời tay chân trên toàn nước Mỹ, mà còn là một biến cố làm cho kinh hồn khiếp vía cho cả và nhân loại đang sống trên mặt đất này. Nhìn những chiếc máy bay dân sự chở đầy hành khách đâm sầm vào Trung tâm Thương mại quốc tế tại Nữu Ước, bổ nhào xuống Lầu Năm góc của bộ quốc phòng, hay rơi trên sa mạc bang Pensylvania, ai mà chẳng cảm thấy khiếp đảm. Nhìn những đống đổ nát của tòa tháp đôi, quả thật là không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, ai mà chẳng thở dài ngao ngán: - Ngày tận thế cũng đến vậy là cùng. Nhìn những nạn nhân bị thiệt mạng trong ngày kinh hoàng ấy, ai mà chẳng xót xa và muốn chia sẻ bằng những giọt nước mắt bồi hồi xúc động của mình. Sáng hôm ấy, khi nhìn và nghe tin tức trên truyền hình, gã cũng đã bàng hoàng sửng sốt. Trước một cú đánh bất ngờ, chẳng ai lường trước được, gã đã phải băn khoăn tự hỏi: - Tại sao người ta lại có thể hành động một cách dã man đến như thế. Thời gian vẫn cứ tiến tới bằng những bước chân âm thầm. Một năm đã trôi qua. Một năm nhiều xáo trộn. Một năm nhiều bạo lực. Nào những căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan. Nào là bầu khí ngột ngạt tại Trung Đông giữa Do Thái và Palestine, với những “trái bom sống”, hay nói cách khác với những “người bom”, nghĩa là những người ôm bom sẵn sàng để chết hầu mong giết được nhiều kẻ thù của mình. Chính trong bối cảnh ấy mà hai chữ “khủng bố” được bàn dân thiên hạ nói đến nhiều nhất. Vậy khủng bố là như thế nào? Theo tự điển thì: - Khủng là làm cho người ta sợ hãi. Bố là kinh hoàng sợ hãi, ngoài ra còn có nghĩa là tra xét, bắt bớ, đánh đập, cướp bóc… chẳng hạn như nói: đi bố ráp. Và như vậy: Khủng bố là dùng những hành động tàn bạo làm cho người ta sợ hãi. Một đôi khi khủng bố cũng còn có nghĩa là chửi mắng để làm cho người ta lo sợ. Trên lý thuyết, hễ dùng bạo lực để làm cho người ta sợ hãi, thì được phong làm khủng bố, nhưng trong thực tế, sự việc lại không đơn giản như vậy. Hồi đệ nhị thế chiến, nếu gã nhớ không lầm, thì những anh chàng phi công gan dạ của Nhật Bản, lái máy bay đâm thẳng xuống những chiến hạm Mỹ và đã tạo được một chiến thắng lừng lẫy tại Trân Châu Cảng, khiến Mỹ phải kinh hoàng… nhưng chẳng ai dám gọi họ là quân khủng bố cả. Hiện thời, khó mà phân định về những hành động khủng bố, bởi vì nó còn tùy thuộc vào cái nhìn chủ quan, vào cái lập trường chính chị chính em của mình. Chẳng hạn việc đâm máy bay dân sự vào tòa tháp đôi, hầu như mọi người đều coi đó là hành động khủng bố, nhưng dưới mắt ông Bin Laden, thì đó lại là một hành động tử đạo, chắc chắn sẽ được đấng Allah ân thưởng bội hậu. Chẳng hạn việc ôm bom tự sát để giết cho được nhiều người Do Thái, chúng ta cho đó là hành động khủng bố, nhưng dưới mắt dân Palestine, thì đó lại là hành động can đảm và anh hùng, một hành động yêu nước và cứu dân. Thật đúng như mấy ông tây đã bảo: Chân lý thì ở bên kia dãy núi Pyrénées! Nhưng dù sao chăng nữa thì hầu như mọi người đều phải công nhận rằng thế giới hôm nay đã bị in đậm dấu ấn của bạo lực. Thực vậy, bạo lực xuất hiện trên báo chí với những câu chuyện về vụ án cướp của giết người. Bạo lực xuất hiện trên phim ảnh, người ta giết nhau dễ dàng như trở bàn tay với những lý do chẳng đâu vào đâu. Bạo lực xuất hiện trong những trò chơi điện tử làm cho những em nhỏ còn hoi mùi sữa đã làm quen và rành rẽ việc bắn giết nhau.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn đó là bạo lực đã có mặt khắp nơi trong cuộc sống thường ngày dưới nhiều hình thức khác nhau. Và nếu cần phải dán nhãn hiệu trình tòa cho thế giới hôm nay, có lẽ gã sẽ phải ghi một chữ “bạo” thật to, bởi vì người ta đã tỏ ra táo tợn và hung dữ trong nhiều lãnh vực. Vì thế, chữ bạo này cũng được thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi. Gã chỉ xin kê đơn hoàn tán một số kiểu “bạo” vốn hay gặp thấy mà thôi. Thứ nhất là bạo nghĩ. Con người thời nay nghĩ rất táo tợn, nhất là nghĩ xấu cho người khác. Thấy một hành động bất ổn là vội vàng phê bình, chỉ trích và kết án, rồi lại còn thêm mắm thêm muối, vẽ râu vẽ ria cho thêm phần lâm ly bi đát. Thứ hai là bạo ăn. Con người thời nay rất phàm ăn. Ăn tuốt luốt từ con tép cho đến con voi. Hầu như tất cả mọi thứ trên đời này đều phục vụ cho cái lỗ miệng của con người. Người ta ăn cho khoái khẩu, nhằm thỏa mãn mọi vui thú cho sướng cái thân mình. Thậm chí ngay cả những thứ không ăn được, thế mà thiên hạ vẫn cứ thích xơi, thích đớp như thường, chẳng hạn như ăn tiền, ăn cướp, ăn hối lộ…Họa may chỉ có ăn đòn là “em chả dám đâu”. Thứ ba là bạo nói. Con người thời nay hay nói vung thiên địa, thích những ngôn từ đao to búa lớn của nghề quảng cáo, cứ nói và nhất là nói hành nói xấu, sẵn sàng chụp mũ và đổ lên đầu người khác đủ mọi giống tội, mà chẳng thèm để ý tới những hậu quả gây nên cho nạn nhân. Thứ bốn là bạo làm. Con người thời nay thực hiện rất nhiều hành động hung dữ dựa trên sức mạnh, nên rất khoái những hình thức bạo động. Hiền lành và khiêm nhường là hèn nhát. Đấu tranh bất bạo động quả là “xưa rồi Diễm ơi”. Họ đánh mình một, thì lập tức mình phải đánh trả mười. Cũng vì vậy, mặc dù tự do và nhân quyền được nói đến hoài hoài mỏi cả miệng, thế mà xã hội vẫn đẻ ra những tên bạo chúa và những chế độ bạo quyền. Sau cùng, thứ năm là bạo tàn. Con người thời nay thích tàn phá danh dự và hạnh phúc của kẻ khác. Đã vùi dập ai thì phải vùi dập cho tới tận bùn đen khiến họ không thể ngóc đầu lên nổi, khiến họ phải thân bại danh liệt và khiến cuộc đời họ kể như đi đoong luôn… Như thế mới hả lòng hả dạ. Bây giờ, gã xin trở lại với chuyện khủng bố. Khi nói tới khủng bố là gã nghĩ ngay tới những phần tử đối lập quá khích, dùng bạo lực làm cho người ta khiếp sợ, để rồi từ đó đưa ra những đòi hỏi, những yêu sách của mình. Khi nói tới khủng bố là gã hình dung ra những tên không tặc, mặt đằng đằng sát khí, súng kè kè bên hông, tay cầm trái lựu đạn đã mở chốt nhằm uy hiếp hành khách cũng như phi hành đoàn… Đây là thứ khủng bố có bài bổn và mang tầm mức quốc tế, hay ít nữa cũng mang tầm mức quốc gia. Tuy nhiên, trong một phạm vi nhỏ hẹp hơn, gã cũng thấy khủng bố có mặt trong mối liên hệ giữa những cá nhân với nhau. Thực vậy, nếu hiểu khủng bố là làm cho người khác khiếp sợ, tinh thần trở thành bạc nhược để rồi cuối cùng phải cúi đầu tuân theo những yêu cầu, những đòi hỏi được đưa ra, thì gã thấy rất nhiều lần chúng ta cũng đã khủng bố lẫn nhau. Phương tiện dùng để khủng bố, có thể bằng lời nói và cũng có thể bằng việc làm. Trước hết là bằng lời nói. Gã thấy có những ông bố mở miệng ra là chửi bới và cấm đoán, khiến cho con cái khiếp sợ. Hình như họ muốn dùng phương thế khủng bố để giáo dục con cái mình, nghĩa là làm cho con cái phải sợ mà vâng lời. Thế nhưng, biện pháp khủng bố này thường không đem lại những kết quả mong muốn. Có hai ông bố thường răn đe con cái của mình như sau: - Kỳ thi này, mày phải đỗ, bằng không thì đừng vác mặt về nhà. Con cái của họ học lấy học để, học ngày không đủ tranh thủ học đêm, nhưng bị sao quả tạ chiếu tướng, học tài thi phận, cuối cùng đều rớt. Vì không dám vác mặt về nhà, anh con giai thì bỏ đi bụi đời, còn chị con gái thì nhảy xuống cầu Bình Lợi mà tự tử. Gã quen một vị gia trưởng. Vị này rất là oai phong lẫm liệt, nhưng chỉ vì cái thói độc tài và độc đoán, bất cứ lời nào phán ra, đều chắc như đinh đóng cột, vợ con phải răm rắp tuân theo, bằng không thì e rằng khó sống với vị ấy…Mặc dù chưa dùng tới bạo lực và bạo hành, nguyên cái chuyện bạo ngôn mà thôi cũng đủ khiến vợ con căng thẳng, bạc nhược để rồi đứa thì đi với mẹ, đứa thì kiếm cớ công việc làm ăn giã từ vị gia trưởng đáng kính ấy, tìm nơi khác sinh sống. Bây giờ, tuổi đời đã xế chiều, vị gia trưởng ấy chỉ sống cu ki một mình trong căn nhà rộng. Vợ con vẫn chưa hết sợ để tìm đường đoàn tụ, “tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Khi mới quen và yêu nhau, anh tỏ ra là một chàng trai ga lăng, mềm mỏng. Nhưng khi cá đã mắc câu rồi, thì anh không còn giữ gìn ý tứ với chị nữa. Anh luôn quát nạt, chửi mắng và dùng lời lẽ thô tục với chị, khiến chị phải cắn răng chịu đựng…(PNCN số 25). Tiếp đến là bằng việc làm, tức là dùng bạo lực với những hành động vũ phu, tàn ác theo kiểu bạo hành, bạo động…để trấn áp khiến đối phương phải hồn xiêu phách lạc. Chẳng hạn cha mẹ thì đánh đập con cái, chồng thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ. Gã xin ghi lại một số những sự kiện được đăng tải trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, để thấy rằng tình trạng khủng bố về tinh thần cũng như về thể xác đã, đang và sẽ còn liên tục phát triển dù rằng mọi người đều công nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ. Theo thống kê trên toàn thế giới, cứ mười lăm giây lại có một phụ nữ bị bạo hành trong giai đoạn yêu đương. Riêng tại Việt Nam, đến 70% phụ nữ bị bạo hành trong gia đình và 85% trường hợp ly hôn là do bạo hành. (PNCN số 25). Có một bà vợ trót dại yêu thương một người bạn đồng nghiệp. Thấy nguy cơ gia đình tan vỡ, bà bèn dừng lại và thú nhận, mong được chồng tha thứ. Ông chồng chỉ yêu cầu bà vợ viết tờ kiểm điểm. Rồi hàng ngày trước giờ ăn, ông bắt bà đọc tờ kiểm điểm trước mặt chồng con. Từ khi thằng cu Bi năm tuổi bây giờ nó đã thi đại học, bà vẫn phải đọc. Xấu hổ với con, bà xin ông được chấm dứt hình phạt đó, nhưng ông bảo ông vẫn còn nhục lắm. Chuyên viên tư vấn kiên nhẫn giải thích, ông vẫn phớt lờ. Chuyện gia đình ông không muốn người ngoài chen vào. Vậy là lúc vợ ngoại tình gia đình không tan vỡ, nhưng đến khi ròng rã năm này qua năm nọ phải đọc kiểm điểm, bà hết chịu nổi, nên đòi được ly hôn… Phải chăng đó chính là một sự khủng bố về tinh thần. (PNCN số 26). Ngắm nhìn bà xã trong chiếc áo thung bó sát người, chiếc váy mềm mại, một ông chồng khác đã ngẩn người say đắm, nhưng cũng chính vì thế mà ông không chịu nổi ánh mắt của những gã khác nhìn vợ mình. Và thế là…bao nhiêu cái áo, váy đẹp của vợ, ông cắt, xé cho bằng hết. Có thể vợ ông không tơ tưởng đến ai, cũng có thể chẳng gã nào cố tình tán tỉnh, nhưng nếu vợ ông cứ “khoe hàng” trước mặt bọn đàn ông, thì sẽ dễ nảy sinh tội lỗi. (PNCN số 26). Bạo hành và khủng bố không phải chỉ có mặt trong gia đình, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ với con cái, nhưng còn có mặt ở nhiều lãnh vực khác nữa. Chẳng hạn giữa chủ và thợ: báo chí đã đăng tải nhiều tin tức liên quan tới các công nhân Việt Nam làm việc trong các công ty hay xí nghiệp của Đại Hàn. Họ đã bị những ông chủ “Sâm Cao Ly” đánh đập một cách tàn nhẫn. Chẳng hạn giữa thày cô và học trò. Báo Công An Thành Phố mới đăng một mẩu tin như sau: Sau khi ra chơi tập thể dục giữa giờ, em Bằng và em Phúc, con cô giáo, chạy xô vào nhau và cùng ngã. Bằng đã xin lỗi Phúc. Cùng lúc ấy, một em khác nói với Bằng: Xin lỗi không được đâu, tí nữa cô giáo đánh bạn đấy. Câu nói ấy đã là lời cảnh báo. Khi trống vào lớp được 5-10 phút, Bằng từ khu văn phòng nhà trường về, xin vào lớp, cô giáo đang giảng bài, sa sầm nét mặt, tay cầm thước tiến đến gần Bằng vụt mạnh vào tay phải em và giật giọng nói: Vào lớp đi. Bằng bị đứng ở cuối lớp, sau đó cô giáo nói: Cái thằng kia không biết đau đâu, cả lớp xuống đấm cho nó thối phổi, cho nó chết đi. Ngay sau lời nói của cô, những đứa trẻ chưa đầy 10 tuổi đã biến thành công cụ trả thù của cô giáo. Bị đau và lo sợ trước lời dọa nạt, Bằng về không dám nói với gia đình. Hôm ấy Bằng không ăn cơm tối, không học bài, đêm đến lại sốt cao. Mẹ gặng hỏi mãi, Bằng mới ghé sát tai mẹ và nói: Con nói với mẹ nhưng mẹ đừng nói với ai, cô giáo xui các bạn đánh vào bụng con. Mẹ vạch áo con thấy nhiều chỗ thâm tím đã òa khóc. Bắt đầu từ hôm ấy, Bằng luôn sống trong tình trạng hoảng loạn: cơm không ăn, bài không học, đêm chạy loạn xạ khắp nhà, đặt lưng xuống là nói sảng và giật mình thon thót. (CATPHCM số 1065).
Bình thường thì những người có chức có quyền, hay nói cách khác, những kẻ được coi là bề trên mới khủng bố những người bề dưới, chẳng hạn: chồng đối với vợ, chủ đối với thợ, cha mẹ đối với con cái, thày cô đối với học trò…Thế nhưng, sự việc đâu có thẳng ruột ngựa như vậy, mà luôn có những chuyện tréo chẳng ngỗng và ngược đời. Chẳng hạn con cái khủng bố cha mẹ. Một cậu quí tử đã nói với cha mẹ rằng: Nếu không cho tiền sắm chiếc xe đời mới thì sẽ đi chích choác mang cái bệnh Sida về nhà. Một cô gái rượu đã nói với đấng sinh thành của mình như sau: Nếu không cho đi chơi, thì sẽ tìm cách mang bầu để nằm ở nhà chờ…đẻ. Những lời phát ngôn trên khiến cho cha mẹ phải phát kinh phát khiếp. Chẳng hạn học trò khủng bố thày cô. Từ lâu rồi không hiếm những chuyện học trò hành hung thày cô, khiến cho thiên hạ phải than rằng: bọn trẻ bây giờ không còn tiên học lễ hậu học văn nữa, nhưng là tiên học…võ hậu học văn, để bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng chơi cái ngón bạo lực. Và nhất là đờn bà khủng bố đờn ông. Chẳng hạn vợ khủng bố chồng. Ai trong chúng ta cũng biết Socrates. Ông là một triết gia lừng danh thời cổ xưa của Hy lạp. Triết lý của ông ngày nay vẫn còn giá trị. Nhưng ác hại thay, đang khi ông là một bậc thày đáng kính của đông đảo môn đệ và sau này muôn thế hệ vẫn coi ông như một bậc tôn sư, thì ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà đã chanh chua, khinh rẻ ông là hạng trói gà không chặt. Lần kia sau khi đã chửi bới ông một trận kịch liệt, bà đã tặng cho ông nguyên cả một chậu nước dơ lên người, nhưng ông vẫn thản nhiên và nói: Tôi biết mà, sau khi đã có sấm chớp thì tất nhiên trời sẽ đổ mưa. Chẳng hạn bạn gái khủng bố bạn trai. Nàng đặt ra một cái lệ bắt chàng nhất nhất phải tuân theo: mỗi lần hẹn cứ đến trễ năm phút là bị một cái nhéo đau điếng vào bụng. Chàng là một người tham công tiếc việc nên cũng thường xài giờ dây thung với bạn mình, thế là suốt một tuần, chàng không dám ở trần trong nhà vì sợ mẹ nhìn thấy những vết bầm. Nhéo bụng chán, nàng chuyển sang ngắt vào cánh tay, có lần vết ngắt nung mủ làm chàng phải đi sát trùng rồi băng lại. Mấy bữa chàng bụng bầm, tay nhức nhưng nàng không hề nao núng, thực hiện tiếp chiêu cắn lên bả vai. Đi làm cả ngày mình mẩy ê ẩm, tưởng gặp người yêu thì được chăm sóc, thư giãn, nào dè lại còn bị hành hạ thêm, đó là chưa kể những màn đay nghiến xỉ vả…(PNCN số 27). Một trường hợp khác cũng không kém phần quái đản. Anh là một người hiền lành ít nói, còn chị lúc nào cũng ào ào và thẳng thắn, chính vì vậy mà chị luôn lấn lướt anh. Vào dịp sinh nhật một nhỏ bạn trong nhóm. Nhỏ bạn mời cả nhóm đến quán ăn, ai có bạn trai cũng được mời theo. Hôm ấy có anh và một vài người nam khác. Đang ăn uống vui vẻ thì một bạn nam đề nghị: bốn người nam uống một chai chúc mừng sinh nhật chủ nhân, còn các bạn nữ thì uống nước ngọt. Anh tán thành: Ừ được đó. Chị trừng mắt nhìn: Anh đừng uống, tối còn đưa em về nữa. Cả nhóm đồng thanh: Không sao đâu, uống một chai cho vui. Rồi như sợ mất mặt bạn bè, anh gọi lớn: Cho một chai bia Saigon. Không còn êm dịu nữa, chị chồm dậy túm lấy cổ áo của anh: Tôi đã bảo anh thôi mà, sao anh lì quá vậy. Mọi người sửng sốt . Ai cũng can: Thôi, không uống thì thôi, làm gì mà nóng vậy. Chẳng nói chẳng rằng, anh đứng lên và bỏ đi…Lần khác, chị dặn anh đón chị đi sinh nhật một người bạn. Anh đến trễ, rồi trên đường đi anh quẹt xe trúng người ta, may mà không có chuyện gì. Chị tức giận với anh và vung tay tát anh một cái vì tội đi ẩu. Sau hai năm quen nhau với những giận hờn, cuối cùng họ đã chia tay nhau thật sự. Bây giờ thì chị sống ở ngoại quốc. Trong một bức thư đã khuyên bạn mình như sau: Mày phải nhẹ nhàng với ông xã của mày! Đàn ông ai cũng thích ngọt, ai cũng thích phụ nữ tụi mình dịu dàng. Mỗi lần nghĩ đến chuyện ngày xưa, tao lại thấy mình có lỗi và nông nổi quá chừng….(PNCN số 29). Gã Siêu
Qua những tin tức về sinh hoạt của các cộng đồng người Việt, gã rất mừng vì những thành công GãSiêu 14
Qua những tin tức về sinh hoạt của các cộng đồng người Việt, gã rất mừng vì những thành công mà người mình đã gặt hái được nơi đất lạ quê người.
Thứ nhất là những thành công trên con đường học vấn.
Gã rất mừng vì có những bà già trầu, nếu như ở Việt Nam, thì chỉ biết cái xó bếp nhà mình, cả đời chẳng hiểu có được một lần ra thành phố hay không, thế mà giờ đây cũng ti toe dăm ba câu tiếng Mỹ, tiếng Ăng lê, nào là con cá này nặng mấy “pao”, nào là chiếc đò này dài mấy “phít”, rồi cũng “hai” giơ tay bắt khi gặp nhau và “bai” vẫy tay chào khi rời nhau, khiến cho gã vô cùng cảm phục.
Gã rất mừng vì có những thằng bạn, nếu như ở Việt Nam, thì cũng chỉ là dân “cu trâu” suốt ngày chỉ biết đến thửa ruộng và ca bản “con trâu đi trước cái cày theo sau”, có bửa đầu ra cũng chẳng thấy được một nửa tiếng OK hay Yes. Nếu ông trời có đãi ngộ và số phận có mỉm cười, chui lên được thành phố, thì cũng chỉ là dân cu li cu leo. Thế mà bây giờ chúng nghiễm nhiên trở thành kỹ sư điện tử, chuyên viên máy móc. Thận chí có anh, khi công ti giảm biên chế, rút bớt nhân viên, thì anh không những chẳng bị loại trừ để ăn lương thất nghiệp, mà còn được tăng lương, tăng cổ phần vì công ti sợ anh đi làm chỗ khác.
Gã rất mừng vì có những sinh viên học sinh Việt Nam ở nước ngoài đạt thành tích cao trong những cuộc thi quốc tế, thậm chí có những sinh viên học sinh được chính tổng thống nước Mỹ khen tặng. Phải chăng đây cũng là một niềm vinh hạnh cho đất nước.
Biết đâu trong một thời gian gần đây, những sinh viên học sinh này sẽ trở về để phục vụ cho quê hương. Biết đâu mấy chục năm nữa, những sinh viên học sinh này sẽ trở thành dân biểu, nghị sĩ và cũng biết đâu chừng là tổng thống của một đất nước hùng mạnh, như Kennedy, tổng thống Hoa kỳ, vốn là dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan… Phải, biết đâu cũng sẽ có một tổng thống Hoa kỳ, là dân Mỹ gốc Việt. Nghĩ tới đây, gã cảm thấy vô cùng hồ hởi và niềm kiêu hãnh của dân tộc nổi lên đùng đùng.
Tuy nhiên cho đến bây giờ gã vẫn còn nhớ lời phát biểu của một ông giáo sư ngoại quốc về những sinh viên Việt Nam ở Saigon trước năm 1975. Lời phát biểu ấy như thế này: Sinh viên Việt Nam rất thông minh. Nếu một sinh viên Việt Nam chọi với một sinh viên ngoại quốc, dù là nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức hay nước Pháp… thì sinh viên Việt Nam cũng chẳng hề phải kiêng nể. Những nếu một nhóm sinh viên Việt Nam chọi với một nhóm sinh viên ngoại quốc thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy vì họ không biết cộng tác, không biết làm việc chung với nhau. Phải chăng sự chia rẽ là một căn bệnh trầm trọng trong những cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài.
Những chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài. Quả thực đây là một kho tàng “chất xám” vô giá, nếu như nhà nước ta biết lợi dụng, thì sẽ đem lại cho quê hương một tương lai tươi sáng. Gã thử làm một phép tính: Gửi một thanh niên du học, từ lúc bước chân ra đi cho đến lúc thành tài, nhà nước và gia đình phải tốn biết bao nhiêu công sức và tiền của, thế mà cái “kho tàng chất xám” này như một quà tặng từ trên trời rơi xuống, có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Bỏ qua, không tạo điều kiện cho họ trở về phục vụ thì quả là một lãng phí to lớn.
Thứ hai là những thành công trong công việc làm ăn.
Gã rất mừng vì đa số người Việt Nam đã ăn nên làm ra ở nước ngoài. Khởi đầu từ một con số không khi đặt chân tới miền đất lạ, thế mà giờ đây họ đã có được một cơ ngơi bề thế. Nào là con cái được học hành đến nơi đến chốn, nào là nhà riêng, nào là xe riêng… sở dĩ như vậy vì họ là những người cần cù siêng năng lại lắm sáng kiến. Nhiều người sẵn sàng “kéo cày” ngoài giờ lao động để được hưởng tiền lương cao. Cộng thêm vào đó là tính tiết kiệm trong chi tiêu, nên họ phất lên trông thấy và mỗi ngày một thêm khấm khớ khiến cho thiên hạ phát thèm rỏ dãi.
Gã cũng rất mừng vì những người ngoài nước đã không quên mà còn nghĩ tới những người trong nước bằng cách gửi quà hay tiền về để giúp đỡ, như cha ông chúng ta ngày trước đã dạy:
- Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Thực vậy, cho đến bây giờ người ta vẫn không thể làm được một thống kê đầy đủ cho biết mỗi năm đã có bao nhiêu triệu đồng đô la được các Việt kiều gửi hay đem về giúp đỡ cho thân nhân tại quê nhà, bởi vì có rất nhiều cách thức gửi: gửi qua ngân hàng, gửi qua những cơ quan chính thức được nhà nước cho phép, gửi qua những Việt kiều về nước, gửi chui qua những tổ chức tư nhân…Những cách thức sau này thì làm sao nhà nước có thể nắm vững được mà lên bản thống kê.
Thế nhưng, dù gửi bằng cách nào chăng nữa, thì những đồng đô la ấy vẫn có thể được gọi là những đồng đô la nhân nghĩa, vì chúng đã được rót vào đất nước Việt Nam, giúp đỡ những gia đình Việt Nam và được chính những người Việt Nam tiêu dùng để cải thiện và nâng cao đời sống. Đây cũng lại là một thứ quà tặng từ trên trời rơi xuống, chẳng phải lao động mệt mỏi, chẳng phải vật vả đầu tư mà cũng có được một số vốn bằng ngoại tệ kha khá để làm giàu và làm đẹp cho xứ sở.
Thời gian đầu, thiên hạ thường gửi về những thùng hàng. Thế nhưng, gửi hàng về vừa cồng kềnh, lại vừa phức tạp, nên dần dần thiên hạ bắt đầu chuyển hệ, gửi tiền về vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo lại vừa có thể xử dụng được ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, nhiều lần mấy thằng bạn đã viết thư cho gã và bảo: Mi cần gì thì cho biết, ta sẽ gửi về cho. Và gã đã phải mỉm cười, rủa thầm trong bụng, chứ không dám viết thành chữ hay nói thành lời thành tiếng mà rằng: Ngu chi ngu lạ, đô la ai mà chẳng cần. Mi cứ thử gửi cho ta mấy chục bạc lẻ xem ta có nỡ lòng nào mà từ chối hay không ? Lại nữa, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi trên thế giới, đi tới đâu chúng ta cũng đều nghe thấy vang vọng một điệp khúc: Em chỉ thích bản nhạc có hai nốt đô và la mà thôi.
Bàn về chuyện nhận đô la của những người thân gửi về, gã đã ky cóp tích lũy được những mẩu chuyện vui vui. Thỉnh thoảng vào những buổi trưa hè oi ả, đang mơ màng với giấc ngủ nặng nề, mồ hôi mồ kê vãi ra nhễ nhại, thì bỗng một kẻ lạ hoắc bước chân vào nhà. Kẻ lạ ấy có thề là đờn ông mà cũng có thể là đờn bà, có thể là thanh niên mà cũng có thể là thiếu nữ. Kẻ lạ ấy mắt trước mắt sau, vội vã hỏi một vài câu vắn gọn: Ông có ai quen ở bên Mỹ hay không ? Tên gì ? Bang nào ? Vui lòng cho mượn chứng minh nhân dân. Rồi kẻ lạ đưa một mẩu giấy chỉ to bằng hai đầu ngón tay và nói: Phiền ông hãy ghi là mình đã nhận đủ số tiền bằng này. Rồi ký tên. Nếu có nhắn gửi gì cho người bên đó thì cứ việc ghi thêm vào. Sau đó, kẻ lạ mặt trao tiền, rồi vội vã ra đi như khi đã đến, không dám uống cả một ly nước, hay một ly cà phê…vì sợ bị bỏ thuốc mê và bị trấn lột.
Thuở bấy giờ, ở những nơi khỉ ho cò gáy như nơi gã cắm dùi, thì làm gì được ông bưu điện ghé mắt nhìn tới. Để liên hệ, gã đành phải mượn địa chỉ của một người ở trên tỉnh. Ngày kia gã được người ấy nhắn lên để lĩnh tiền. Người ấy bảo: Số tiền này từ bên Úc gửi về, mà mình chẳng có ai thân ở bên đó cả, nên chắc là của chú mày đấy. Thôi, cứ cầm về xài đỡ. Nhận xấp tiền mà cứ băn khoăn thắc thỏm: Sao mấy đứa bên Úc gửi mà chẳng báo. Thôi, kệ bà nó, tới đâu hay tới đó. Tiền đến tay ta, ta cứ việc…thoải mái. Và thế là mùa xuân năm ấy, gã đã có được một cái tết tưng bừng khói lửa. Tiền lì xì cho bọn nhóc cũng được tăng lên gấp đôi, gấp ba… Nhưng rồi ngày vui qua mau, sau tết, người ấy bèn triệu gã lên mà phán: Xin lỗi chú mày nhé, số tiền hôm trước chẳng phải của chú mày đâu mà là của thiên hạ. Bây giờ mình mới nhận được thư báo. Vậy cảm phiền chú mày hãy mau mau hoàn trả lại số tiền ấy để rồi mình còn trao cho họ nhé.
Ké nhờ địa chỉ của người khác cũng lắm cái nhiêu khê và phức tạp. Vì thế, khi bầu không khí đã thoáng đãng, không còn ngột ngạt nữa, gã bèn đăng ký một hộp thư ngoài huyện. Có hộp thư riêng, gã liền được thiên hạ chiếu cố nhờ vả. Và khi cho mượn địa chỉ đôi lúc cũng xảy ra những chuyện hơi bị phiền. Có lần vào ngày hai mươi chín tết, gã nhận được điện tín với nội dụng: Mời ông lên địa chỉ số…. để lãnh tiền. Nhận được bức điện này, gã vội vã khăn gói quả mướp đi ngày đi đêm để lên thành phố vì đã cận tết lắm rồi. Thế nhưng lúc nhận tiền thì mới vỡ lẽ tiền không phải là của mình, nhưng là của người này người nọ mà thiên hạ nhờ mình chuyển hộ. Và như thế, khi đi thì vui mừng hồ hởi vẽ ra trong đầu óc một cái tết huy hoàng, còn khi về thì tiu nghỉu, ai hỏi cũng chẳng buồn thưa. Tới nhà thì mệt phờ râu cá chốt. Tắm rửa qua quít rồi giao hàng. Chủ nhân có lẽ vì bận rộn với những công việc dọn dẹp nhà cửa vào chiều ba mươi tết, nên rất vui vẻ cám ơn mà quên béng mất những sự rất… đời thường còn lại. Và thế là gã cũng phải tự an ủi: Việc đâu còn đó, cứ để cho thiên hạ vui vẻ cái đã. Sau tết mình sẽ tính toán lại cũng chưa muộn cơ mà.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn mà công nhận rằng: Nhờ những đồng đô la được rót về, nhiều gia đình đã thoát khỏi cảnh nghèo túng khố rách áo ôm. Thực vậy, nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, nhà cửa được xây dựng lại cho mới. Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cha mẹ già được chăm sóc hẳn hoi, những người thân yêu được ăn mặc tươm tất và xấp nhỏ được học hành đến nơi đến chốn. Nhờ những đồng đô la nhân nghĩa này, cuộc sống được cải thiện.
Có mấy cán bộ gặp một linh mục và hỏi: Tại sao xứ của linh mục không được phát triển như những xứ khác vì con số nhà xây lại còn ít. Và linh mục này đã thẳng thừng trả lời: Hiện nay tại Việt Nam, xứ nào có nhiều Việt kiều, thì xứ ấy giàu và liên tục phát triển. Hồi năm 1978, tôi đã nghe các ông, không ngừng khuyên nhủ giáo dân hãy ở lại để xây dựng quê hương đất nước. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mình đã dại. Giá như hồi đó, tôi cứ nhắm mắt làm ngơ cho họ vượt biên, thì bây giờ xứ tôi đâu có còn những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo.
Gã xin khẩu phục tâm phục vị linh mục đã bạo mồm bạo miệng dám nói thẳng và nói thực. Gã cũng xin khẩu phục tâm phục khi đọc thấy trên những tờ báo Công giáo ở nước ngoài như Mục vụ, Dân Chúa, Đức Mẹ hằng cứu giúp… có khoản kêu gọi yểm trợ cho những giáo xứ nghèo, hay những tổ chức từ thiện tại quê nhà. Và gã càng xin khẩu phục tâm phục hơn nữa khi thấy có những Việt kiều lúc về nước, mặc dầu thời gian ít ỏi, cũng đã cất công lặn lội đến những trại cùi để trao tận tay số tiền của mình hay của một số người chắt chiu dành dụm mà giúp đỡ. Xin đa tạ và bái phục.
Đồng đô la hiện thời rất có giá, nên khi cầm đô la về nước, những Việt kiều không phải chỉ giúp đỡ cho thân nhân của mình, mà hơn thế nữa, chính bản thân họ cũng được nhiều lợi ích. Thực vậy, giá cả sinh hoạt ở Việt Nam tương đối rẻ, nên tha hồ tiêu xài rủng rỉnh. Có những Việt kiều đã về nước để sửa lại sắc đẹp, để may sắm áo quần…Có những Việt kiều đã về nước để cưới vợ, để hưu dưỡng và không chừng để chết trên vùng đất thân yêu. Vì tất cả đều rẻ hơn so với bên đó.
Đồng tiền nếu biết sử dụng họp tình và hợp lý, thì sẽ trở thành một người bạn, giúp chúng ta làm được nhiều việc tốt lành, nhưng nếu qua đam mê chạy theo nó, thì nó sẽ trở thành một ông chủ hà khắc, khả dĩ giết chết những tình cảm tốt đẹp nhất của chúng ta. Gã Siêu
Mặc dù biết rất rõ mình chẳng có hoa tay và tài khéo, nhưng lại “mê” vẽ, thành thử hồi còn ở trung GãSiêu 15
Mặc dù biết rất rõ mình chẳng có hoa tay và tài khéo, nhưng lại “mê” vẽ, thành thử hồi còn ở trung học nội trú, cứ chiều thứ năm được đi dạo phố, gã và mấy đứa bạn cùng sở thích thường hay la cà ở đường Tự Do, từ bến Bạch Đằng đến nhà thờ Đức Bà, hễ thấy có phòng triển lãm nào là chui vào ngắm nghía. Rồi về nhà cùng nhau đọc sách và “ngâm kíu” thêm về hội hoạ, cho nên gã cũng hiểu lõm bõm được thế nào là luật phối cảnh, thế nào là cách thức pha màu và những tỷ lệ cần phải giữ khi vẽ chân dung…Ngoài ra, gã cũng nhận thấy có những bức tranh đẹp vì tác giả đã diễn tả được cái vẻ cân đối hài hoà, nhưng cũng có những bức tranh đẹp vì ông hoạ sĩ đã sử dụng một cách tài tình những đường nét tương phản.
Cuộc đời mỗi người cũng chính là một bức tranh. Chẳng thế mà trong “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết: - Lò cừ nung nấu sự đời, Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương. Vân là mây, cẩu là chó. Mây đó, rồi lại chó đó. Xuất phát từ câu “bạch vân biến vi thương cẩu” của thi hào Đỗ Phủ, nghĩa là đám mây trắng bỗng biến thành con chó xanh, để nói lên những đổi thay của đời người, nay còn mai mất.
Đời sống và nhất là đời sống hôn nhân cũng thế. Có những cuộc tình đẹp do vẻ hài hoà cân đối. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa, khi dựng vợ gả chồng cho con cái, thường tuân thủ định luật về “môn đương hộ đối”, nhà cửa phải ngang bằng với nhau, có ý nói đến sự tương đương về tiền bạc, về địa vị xã hội giữa nhà trai và nhà gái đang lăm le kết tình xui gia.
Thế nhưng, cũng có những cuộc tình đẹp do nét tương phản: So với chị vợ, anh chồng thường phải cao hơn một tí, già hơn một tí và giỏi hơn một tí….Mặc dù không nói ra, nhưng xem ra ai cũng công nhận và coi đó là một định lý thuận, một qui luật chung, chuyện đời phải vậy mà thôi.
Tuy nhiên, nếu tình thế bị lật ngược, có nghĩa là so với anh chồng, chị vợ cao hơn một tí, già hơn một tí và giỏi hơn một tí, lúc đó trời đất sẽ quay cuồng, mọi người sẽ không ngớt bàn ra tán vào, bàn vào tán ra. Thật là rách việc! Cũng chính vì thế, mà hôm nay gã xin trình bày đôi ba nét về cái “định lý đảo” này. Thứ nhất, đó là khi chị vợ…cao hơn anh chồng Chồng cao hơn vợ một cái đầu, đó chỉ chuyện thường ngày ở huyện. Bên cạnh nhà gã có một cô bé, hình dong bên ngoài hơi bị khiêm tốn, nếu không muốn nói là bị thiếu hụt thước tấc một cách trầm trọng. Bù lại, ông trời đã hào phóng ban tặng cho cô bé cái năng khiếu bên trong về ngoại ngữ thật tuyệt vời. Cô bé trở thành giáo viên dạy tiếng Anh tại một trường đại học.
Thế rồi cô bé và một vài người khác được chọn, thay mặt cho nhà trường, đi trao đổi văn hoá tại Ấn Độ với bạn bè quốc tế của khối nói tiếng Anh. Và trong cuộc giao lưu này, một anh chàng Ăng Lê chính hiệu mắt xanh, tóc vàng hoe đã làm quen với cô bé.
Sau đó, khi trở về nước, tình yêu của họ bắt đầu đâm chồi nảy lộc qua những cái “meo” được trao đổi, cũng như qua những lần nói chuyện đường dài, “nấu cháo điện thoại”.
Cuối cùng, anh chàng Ăng Lê đã chịu đèn, say mê cô bé như điếu đổ, đích thân qua Việt Nam thăm cô bé, rồi lại đưa cả bà mẹ sang xin cưới hỏi đàng hoàng theo đúng thủ tục và nghi lễ của dân tộc ta. Thế nhưng, cô bé chỉ đứng tới ngực anh chàng Ăng Lê mà thôi. Có một lần trong chỗ riêng tư, gã đã hỏi cô bé:
- Khi hai người muốn hôn nhau một phát, thì phải làm sao nhỉ?
Cô bé vô tư trả lời:
- Thì mình kiễng chân lên một tí, còn anh ta thì cúi đầu xuống một tí. Và thế là có ngay một nụ hôn nồng thắm! Bà con lối xóm chỉ lắc đầu ngao ngán cho cái thói to gan bạo phổi của cô bé. Nhưng dầu sao cho tới lúc này cô bé vẫn luôn hạnh phúc mãi tận xứ sở của sương mù, bên cạnh anh chồng cao khều của mình.
Tuy nhiên, điều không được bình thường cho lắm khi áp dụng định lý đảo này vào chị vợ, nghĩa là chị ta lại cao hơn anh chồng một tí. Có lẽ chính chị vợ cũng đã ngán ngẩm khi nhận ra sự trực trặc ấy, như ca dao đã từng diễn tả:
- Mẹ em tham thúng xôi rền, Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng, Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào. Bây giờ chồng thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch so sao cho vừa. Còn bàn dân thiên hạ thì lại nhìn anh chàng bằng cặp mắt soi mói, cộng thêm một chút thương hại:
- Chồng thấp mà lấy vợ cao, Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa. Viết tới đây, gã bỗng cảm thấy ngao ngán thay cho những cô hoa hậu Việt Nam, bởi vì trong những năm gần đây, người ta thường hay bình chọn những cô cao khoảng một mét bảy đổ lên, để được bằng chị bằng em, lỡ có phải ra nước ngoài thi thố. Nhưng người ta đâu có nghĩ tới tình trạng “lệch pha” của những người đẹp chân dài khi bước vào đời sống vợ chồng.
Thứ hai, đó là khi chị vợ…già hơn anh chồng Anh chồng nhiều hơn chị vợ một vài tuổi, đó là chuyện bình thường. Có khi còn hơn cả một hai con giáp, thì cũng chẳng ai nhòm ngó. Thậm chí ngày nay nhiều cô gái trẻ lại thích lấy anh chồng già, vì anh chồng già xem ra chững chạc hơn, và nhất là biết chiều chuộng hơn: Chồng già vợ trẻ là tiên!
Chứ còn lấy anh chồng trẻ, tuổi tác xấp xỉ ngang nhau, cả hai tính khí vẫn như con nít, xoay như chong chóng, chẳng biết đường nào mà mò. Vợ chồng trẻ con, thích đấy rồi lại chán đấy.
Thế nhưng, nếu chị vợ chẳng may già hơn anh chồng một tí, thì lập tức liền bị bàn dân thiên hạ dí mũi, chõ miệng vào mà chê bai và phê phán: Vợ già chồng trẻ là duyên…con bò! Hay như ca dao cũng đã tốn nhiều lời bình luận:
- Chồng lớn vợ bé thì xinh, Chồng bé vợ lớn ra tình chị em!
- Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ như tiền vứt đi.
- Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ là con điên lấy thằng khùng. Bạn bè thì khuyên nhủ: - Bây giờ cậu còn trẻ, giỏi giang, hắn mê cậu thật, nhưng sau mười năm nữa, cậu sẽ trở thành một bà già và hắn sẽ bỏ cậu để chạy theo những đứa con gái trẻ đẹp cho mà xem.
Bản thân chị vợ nhiều lúc cũng bực bội tức tối không ít, như câu chuyện dưới đây:
Vừa về đến nhà, bà M vứt phịch cái túi xuống rồi ngồi thừ trên ghế. Đứa con gái vừa mon men lại gần, bà liền quát um lên. Ông chồng dựng xe xong đi vào. Con gái cười cười hỏi bố:
- Bố lại vừa phạm tội gì à?
- Tao trẻ hơn mẹ mày là tao có tội hử?
Chỉ chờ có thế, bà M liền nổi trận lôi đình. Thì ra hai vợ chồng bà vừa đi ăn cưới về, tiện thể rẽ vào nhà đứa con gái lớn chơi. Mấy người họ hàng nhà thông gia bên ấy không hiểu mắt mũi thế nào mà lại đồng thanh chào:
- Cháu chào bà, cháu chào chú!
Bực nhất là có đứa còn hỏi ông chồng ra vẻ quan tâm:
- Chú đưa mẹ vợ đi chơi đấy à?
Hai vợ chồng bà M mặt…ngắn tũn, sượng sùng! (Diên Vỹ).
Tình trạng “lệch pha” này, được cánh báo chí hiện nay diễn tả một cách cụ thể và chính xác bằng cụm từ “phi công trẻ lái máy bay bà già”!
Thứ ba, đó là khi chị vợ… giỏi hơn anh chồng Chị vợ là giảng viên đại học. Anh chồng là tài xế taxi. Những ngày mới cưới, họ còn ngồi xem TV và trò chuyện với nhau. Nhưng rồi công việc của chị vợ mỗi ngày một nhiều. Trong lúc chị vợ bận rộn đọc tài liệu, soạn bài giảng, dịch sách, thì anh chồng lại ngồi đánh bài hay tán dóc với bè bạn. Nhất là khi đứa con trai của họ khôn lớn và bước chân vào ngưỡng cửa đại học, có việc gì nó cũng hỏi mẹ. Thành thử cứ mỗi lần hai mẹ con trao đổi với nhau về chuyện học hành, thì anh chồng lại bỏ ra quán cà phê hay tức tối gây sự. Anh cảm thấy mình chỉ là một kẻ thừa thãi trong căn nhà đầy đủ tiện nghi.
Theo các chuyên gia tâm lý, thì sự chênh lệch về học thức rất dễ tạo nên những mâu thuẫn trong nhiều lãnh vực, chẳng hạn như giáo dục con cái, kế hoạch chi tiêu, quan hệ xã hội và thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục. Những anh chồng học vấn thấp thường cảm thấy ấm ức trước những ý kiến của chị vợ, nhất là khi chị vợ lại tỏ ra áp đặt. Rồi từ đó, anh chồng mang một thái độ tiêu cực và bất cần, không chịu chia sẻ công việc gia đình với chị vợ, và nhiều khi còn tìm cách bạo hành vợ để “bù đắp” những khuyết điểm của mình. (Minh Long).
Tác giả Lâm Thanh trên báo Phụ Nữ, khi phân tích về tình trạng “vợ giỏi”, cũng đã ghi nhận như sau:
Do quan niệm Á Đông đề cao nam giới, nên người vợ giỏi sẽ rất dễ làm nảy sinh mặc cảm và những suy nghĩ tiêu cực nơi anh chồng. Chị vợ thành đạt không còn có nhiều thời gian như trước đây, chị bận bịu hơn, nên thời gian dành cho gia đình cũng ít hơn, khiến anh chồng lại càng mặc cảm. Anh ngộ ra rằng vợ không còn đoái hoài gì đến mình, và mình cũng chẳng còn giá trị gì nữa.
Từ đó, anh chồng thường tỏ ra bất hợp tác với mọi việc làm của vợ, thậm chí còn quát mắng, đánh đập để thể hiện uy quyền của mình… Không thiếu những anh chồng nghĩ rằng: Là phụ nữ, dù có giỏi giang, thành đạt đến đâu chăng nữa, thì cũng vẫn là phụ nữ, nghĩa là vẫn phải nấu cơm, vẫn phải giặt quần áo cho chồng”.
Đúng như ca dao đã diễn tả:
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà, Dù rằng vụng dại cũng là đờn ông! Có anh chồng đã quan niệm: - Phụ nữ sinh ra không được quyền tài giỏi hơn chồng. Thậm chí có anh chồng còn hung hăng phát biểu: - Làm đàn ông có thể chịu khổ, chứ không thể chịu nhục được. Sau cùng thứ tư, đó là chị vợ…giàu hơn anh chồng Chữ giàu ở đây được hiểu theo hai nghĩa, đó là gia đình thuộc vào hàng khá giả và bản thân lại kiếm được nhiều tiền.
Người con gái trước khi lấy chồng được sánh ví như một tấm lụa: - Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? Nếu lấy được anh chồng giàu, thì mọi người đều trầm trồ khen ngợi, cho đó là một sự may mắn và số phận dường như mỉm cười với chị ta. Trong khi đó, người con trai chẳng may lấy được cô giàu, thì lại bị miệng lưỡi thế gian xỉa xói:
- Đũa mốc mà lại chòi mâm son: nghĩa là con nhà nghèo, học dốt, xấu trai mà lại đòi lấy vợ đẹp, con nhà giàu!
- Chuột sa chĩnh gạo: mỉa mai sự may mắn được làm rể nhà giàu. Thậm chí còn được phong làm kỹ sư…đào mỏ, như ngôn ngữ thời nay người ta vốn thường dùng.
Một khi đã bước vào cuộc sống lứa đôi, để xây dựng mái ấm gia đình, thì anh chồng và chị vợ phải biết cộng tác với nhau: Chồng như đó vợ như hom, của chồng công vợ. Tiền của ai cũng được, miễn là thu nhập một cách chính đáng.
Tuy nhiên, sự đời lại không đơn giản, nhất là khi chị vợ có thu nhập cao hơn chồng. Đây chính là một con dao hai lưỡi, luôn đe doạ cắt đứt những sợi chỉ mỏng manh dệt nên tấm vải hạnh phúc. Hệ luỵ của nó, nhẹ thì ở mức vợ chồng lục đục, còn nặng thì đổ vỡ hay con cái hư hỏng.
Sở dĩ như vậy là vì trong tư tưởng của người Việt Nam, anh chồng vốn là cột trụ gia đình, có nhiệm vụ kiếm tiền để bảo đảm một cuộc sống ấm no cho mọi người. Chính vì thế, khi chị vợ có thu nhập cao hơn, thì lúc bấy giờ tiền sẽ trở thành nguyên nhân gây nên những xáo trộn và bất ổn. Nhiều anh chồng ngán ngẩm trước chị vợ giỏi kiếm tiền, đã rút ra được những kinh nghiệm quí giá như sau:
1- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh chồng dễ dàng bị sai khiến, không còn nở mày nở mặt và khoác lác được với bạn bè nữa.
2- Với chị vợ có thu nhập cao, về đến nhà chị ta sẽ nằm dài trên ghế sofa và truyền: Anh chỉ kiếm được vài đồng thì mệt mỏi cái nỗi gì, mau đi nấu cơn cơm cho em ăn! Mất toi những yêu thương và chăm sóc của bà xã.
3- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh chồng không còn là trụ cột của gia đình nữa, mà chỉ là một hạng ký sinh ăn bám mà thôi, thậm chí có khi còn bị đuổi ra khỏi nhà, vất vưởng, bơ vơ. Bằng không thì cũng phải bất đắc dĩ đóng trọn vai trò vừa làm bố, vừa làm mẹ, vừa làm “người chồng mẫu mực”.
4- Với chị vợ có thu nhập cao, anh chồng phải thường xuyên tháp tùng đi mua sắm và làm phu khuân vác đến toát cả mồ hôi hột, mệt nhừ cả người và chân tay bải hoải.
5- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, khi đi lại thì ngồi trên xe con có máy lạnh, ít hoạt động, nên dễ sinh bệnh tật. Khi ăn uống thì dùng những của ngon vật lạ, nếu huyết áp không cao, thì lượng mỡ trong máu cũng sẽ tăng vọt.
6- Với chị vợ có thu nhập cao, tiền bạc của anh chồng chỉ là chuyện nhỏ, không cần quản lý chặt chẽ, nên anh ta khó tránh khỏi những thói hư tật xấu, như rượu chè, cờ bạc và bồ nhí!
Chị vợ kiếm tiền giỏi hơn chồng không có nghĩa là “lên mặt”, trái lại cần phải mềm mỏng và nhẹ nhàng xử lý các tình huống, đồng thời dành quyền quyết định cho anh chồng. Chị vợ nên khéo léo gợi ý, rồi vận dụng khả năng thuyết phục một cách hợp lý, để nhận được sự đồng thuận của anh chồng.
Chị HM là một người phụ nữ xinh đẹp, tháo vát và khéo nuôi con, nhưng lại mắc phải một tật xấu duy nhất là kiếm tiền giỏi hơn chồng. Bản thân chị không bao giờ chê chồng kém, nhưng ngặt một nỗi, cứ bàn đến chuyện gì trong gia có liên quan tới tiền, thì anh chồng lại nói dỗi:
- Tôi làm sao được bằng cô, cô giỏi mà!!!
Thế nhưng, chị vẫn tôn trọng anh và cho biết:
- Một tháng tôi có thể làm thêm được hai ba chục triệu, nhưng nhìn một triệu anh đưa, tôi vẫn cảm thấy sung sướng, vì tôi biết mình đang cầm những đồng tiền do mồ hôi của chồng đổ xuống.
Còn anh chồng, trong những lúc sa cơ thất thế, hay bị sao quả tạ chiếu tướng, thay vì có thái độ tiêu cực, mặc cảm và bất hợp tác hãy khẳng định mình bằng những hành vi giúp đỡ cho chị vợ.
Để kết luận, gã xin ghi lại một hình ảnh đã được đăng tải trên báo Phụ Nữ như sau:
Trong đợt tập huấn về bạo hành gia đình được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, không ít người đã tròn mắt ngạc nhiên trước cảnh sống của một cặp vợ chồng Singapore. Họ sang Việt Nam để thuyết giảng về tâm lý. Người được mời là bà vợ, còn ông chồng đi theo để…bế con và lo cơm nước. Hàng ngày, sau khi đưa vợ đến hội trường, ông lái xe đưa bọn trẻ đi chơi và lo chăm sóc chúng. Ông chăm sóc một cách tự nhiên và thuần thục. Cuối ngày, ông đi đón vợ, mang cả con cái theo. Gặp vợ, ông lo lắng hỏi han về công việc, không có chút mặc cảm nào, khi phải thực hiện vai trò “nội tướng” của mình. (Lâm Thanh).
Tình cờ đọc một tờ báo, gã thấy một bài thơ hay hay của một tác giả tên là Hà Hà, bèn ghi lại GãSiêu 16
Tình cờ đọc một tờ báo, gã thấy một bài thơ hay hay của một tác giả tên là Hà Hà, bèn ghi lại để bàn dân thiên hạ cùng đọc cho vui. Bài thơ ấy mang tựa đề “Phụ nam…ngâm khúc”:
- Trăm năm trong cõi người ta, Ai không cưới vợ thật là đại…khôn. Chiều về ghé quán dùng cơm, Tối rà quán nhậu thảo thơm bạn hiền. Khuya về lăn ngủ…như tiên, Một mình xài hết trọn tiền kiếm ra. Chẳng cần phải nộp cho bà, Chẳng cần lấm lét vào ra hỏi trình. Khi nào quần áo hôi rình, Nước hoa xịt…xịt, thì mình lại thơm. Khi nhà đầy những rác rơm, Mở cho quạt thổi…tinh tươm tức thì! Alô! Em út vu vi, Chờ mong đến hẹn đến thì lại lên! Lỡ mà trong túi hết tiền, Mạnh tay ký nợ căng-tin sáng chiều. Một mình sung suớng bao nhiêu. Có lẽ tác giả đã nghiền ngẫm thân phận nghiệt ngã của kẻ làm chồng, để rồi viết ra cái “ngâm khúc” trên, mà tán tụng kiếp sống “phòng không”, trăm năm cô đơn của mình. Cạch cho đến già cũng chẳng dám hó hé hay tơ tưởng đến “cái ghế” làm chồng của mình nữa:
- Kiếp sau xin chớ làm chồng, Thà làm một gốc cây thông trong rừng!!!
Gã còn nhớ có lần gã đã bàn rộng tán dài về sự hẩm hiu của cánh đờn ông con giai. Bây giờ chỉ xin tóm tắt lại trong một vài điểm chính yếu. Trước hết, xã hội đã cư xử tệ bạc với anh ta, coi anh ta chẳng có một gờ ram nào trong bậc thang giá trị, bởi vì: Thứ nhất con nít, thứ hai đờn bà và thứ ba là con chó. Cũng giống như ông bố đã tuyên bố thật hách xì xằng trước mặt cậu con giai: Thà rằng làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn làm vương làm tướng ngoài thế gian!
Tiếp đến, xã hội đã cư xử bất công đối với hắn. Trong khi phe đờn bà con gái được dành cho biết bao nhiêu lễ hội để mà tôn vinh cũng như tưởng nhớ công ơn, nào là ngày tình yêu, ngày mẹ hiền, ngày quốc tế phụ nữ, ngày phụ nữ Việt Nam…thì anh ta lại chẳng có một lễ hội nào cả. Trong những ngày thê lương và ảm đạm ấy, anh ta chỉ biết móc cái ví vốn dĩ đã xẹp lép, mà mua quà cáp. Anh ta mà lỡ quên, thì chắc chắn chiến tranh lạnh sẽ xảy ra và không chừng cục diện thế giới sẽ bị lật nhào. Ngay tại Việt Nam, chỉ thấy ông nhà nước ra rả ca tụng những bà mẹ anh hùng, mà chẳng thấy dành được một lời cỏn con nào để tán dương những ông bố anh hùng cả.
Vì thế, thời gian đã chín mùi. Đây là lúc phe đờn ông con giai phải vùng lên mà đòi quyền sống, phải giải phóng mình khỏi gánh nặng cuộc đời cũng như khỏi cơn ác mộng về công danh sự nghiệp, phải đấu tranh để đòi quyền được đối xử bình đẳng ít nữa cũng phải ngang với đờn bà con gái. Bàn về sự đấu tranh, cũng như về sự giải phóng cho phe đờn ông con giai, gã thấy có rất nhiều lãnh vực cần phải điều chỉnh lại cho hợp tình và hợp lý. Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của mục chuyện phiếm, gã chỉ xin đưa ra hai lãnh vực nho nhỏ mà thôi. Thứ nhất, đờn ông con giai phải được giải phóng khỏi gánh nặng của công danh và sự nghiệp Thực vậy, từ ngàn xưa và ngay cả cho tới ngày hôm nay, phe đờn ông con giai vốn được coi là phái khỏe, phái mạnh, cho nên phải xốc vác, phải cáng đáng những công việc ngoài xã hội. Sống trong cuộc đời, anh đờn ông con trai đầu phải đội trời và chân phải đạp đất. Muốn xứng đáng với cái bản mặt của một đấng mày râu hay của một bậc tu mi nam tử, thì cần phải có công danh và sự nghiệp. Quan niệm này, gã thấy nổi bật trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ, mà hồi xưa gã đã từng phải học thuộc lòng. Thực vậy, đã là anh đờn ông con giai, thì phải ươm mơ giấc mộng lớn và phải quyết tâm thực hiện giấc mộng lớn ấy trong cuộc đời mình, chứ không thể sống tầm thường, chịu mục nát như cỏ cây:
- Trót sinh ra thì phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu!
Đối với anh đờn ông con giai, sự nghiệp và công danh là như một món nợ cần phải dứt khóat thanh toán:
- Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông.
Vì thế anh ta phải dồn mọi thời giờ, mọi công sức cho vấn đề công danh và sự nghiệp. Đây là vấn đề “số một” đối với anh ta. Chuyện công danh sự nghiệp phải đi trước, rồi chuyện gia đình, vợ con mới bước theo sau. Ngoài ra, trong bất kỳ xã hội nào cũng đều có một sự phân công. Chẳng hạn như trong gia đình, đã bế em thì khỏi phải rửa bát. Hay nói cách khác đã rửa bát thì khỏi phải bế em.
Cũng vậy, một khi anh đờn ông con giai đã lăn xả vào những công việc bên ngoài, đã kề vai gánh lấy trách nhiệm về phương diện xã hội, thì đương nhiên, mọi công việc trong gia đình, từ chuyện nuôi dưỡng và dạy bảo con cái, đến chuyện bếp núc và nồi niêu soong chảo, nghĩa là toàn bộ công việc tề gia nội trợ đều được anh ta đá sang phần đất phía đờn bà con gái. Chẳng thế mà bàn dân thiên hạ đã ưu ái phong tặng cho người vợ danh hiệu là…nội tướng!
Tuy nhiên, cùng với những năm tháng dài, thế gian đã ra khác và quan niệm trên cũng đã bị đổi thay. Phong trào giải phóng đờn bà con gái hay cũng nói cách khác, phong trào đờn bà con gái vùng lên đòi quyền sống đã khuyến khích chị em lăn xả vào những hoạt động xã hội, bên ngoài ngưỡng cửa gia đình. Và các chị em cũng đã gặt hái được những thành quả to lớn, không thiếu gì những người đã làm tới tổng thống và thủ tướng, dân biểu và nghị sĩ, bộ trưởng và giám đốc này kia kia nọ. Vậy thì chuyện gia đình sẽ phải đá sang phần đất của ai? Chẳng lẽ lại như chim tu hú hay sao? Thực vậy, tu hú là một loại chim lông hơi vàng, và không biết làm tổ nên phải đẻ nhờ trong tổ quạ: Tu hú sẵn tổ mà đẻ. Sau đó, lại còn phó mặc cho quạ mẹ ấp trứng và nuôi dạy đàn con tu hú. Thành thử việc nuôi dạy này không thể nào đạt được chất lượng cao, khiến bàn dân thiên hạ đã phải phê bình: Nuôi như quạ nuôi tu hú. Con nhà có đạo thì nhận ra bàn tay quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa qua sự việc này. Số là tu hú được trao cho trọng trách canh giữ các khu rừng, để khỏi bị sâu bọ tàn phá. Nếu tu hú cũng làm tổ và ấp trứng như những loài chim khác, thì rất có thể chỉ trong một thời gian ngắn sâu bọ sẽ làm cho những cánh rừng trở nên xơ xác. Vì thế, tu hú phải nhờ tới loài quạ giúp đỡ.
Cũng vậy, một khi chị đờn bà con gái đã đội mũ bước ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, thì đương nhiên anh đờn ông con giai phải chui đầu vào bếp, nếu muốn giữ lấy cái thế cân bằng cho gia đình khỏi sụp đổ. Mà đã chui đầu vào bếp thì cũng đương nhiên phải giảm bớt những công việc và trách nhiệm ngoài xã hội. Chứ nếu phải đảm đương cả hai lãnh vực, thì e rằng ép người quá đáng, ngoài cả sức tưởng tượng, anh đờn ông con giai chắc chắn sẽ không chịu đựng nổi, chỉ còn nước thở hắt ra mà chết.
Tuy nhiên, có rất nhiều chị đờn bà hơi bị tham lam, muốn anh chồng của mình phải được cả danh lẫn lợi, nghĩa là vừa có địa vị cao ngoài xã hội, được mọi người nể trọng, lại vừa kiếm được lắm của nhiều tiền, mang về nuôi sống vợ con:
- Chàng đi cho thiếp đi cùng, Ấm no thiếp ở, cơ hàn thiếp…lui.
Thế nhưng, một khi anh ta đã “tung cánh chim tìm về tổ ấm”, nghĩa là đã bước vào ngưỡng cửa nhà mình và trở về với vợ con, thì anh ta phải để cho chị vợ toàn quyền xử dụng và sai bảo theo kiểu một bài thơ của Bắc Tiếu:
- Vợ tui là khéo nhất nhà, Rất hay sai vặt, nhưng mà sai hay. Anh ơi giúp em tí này, Mang hộ cái đấy vào đây anh à!
Cách đây khoảng 15 năm, một tờ báo bên Nước Anh mở một cuộc thi tuyển có tên là “Người chồng gương mẫu nhất nước”. Kết quả là ông John Lavangham đã dành được cái tước hiệu này. Không ai phàn nàn về sự tuyển lựa này vì mỗi sáng ông đều mang cà phê vào tận giường cho vợ. Giúp vợ rửa chén bát, đi chợ giùm vợ và nếu có chuyện gì vợ lên tiếng mắng chửi thì ông không bao giờ hé môi nói lại nửa lời. Chỉ có thế cũng đủ khiến ông hạ đo ván 569 đối thủ khác ngon lành. Ngoài tước hiệu “Người chồng gương mẫu nhất nước” ông còn được một giải thưởng bằng Anh kim tương đương 570,000 đô la Mỹ. Thế nhưng oái oăm thay, vừa lãnh tiền xong thì ông đã điện thoại cho một vị luật sư giỏi để làm một lá đơn ly dị vợ. Sở dĩ như vậy vì ông ta đã sống 16 năm trời trong áp bức, khổ sở mà hôm nay ông mới hy vọng thoát ra khỏi đó.
Thành thử theo gã nghĩ, cái thế trung dung vẫn là cái thế cần phải được áp dụng. Nghĩa là cả vợ lẫn chồng, cả đờn bà lẫn đờn ông đều phải chia sẻ trách nhiệm chăm lo cho gia đình, cũng như phải tham gia những hoạt động ngoài xã hội. Điều cần thiết là đừng quá chú trọng bên này và coi thường bên kia, hay dành cho bên này trọn vẹn thời giờ để rồi chểnh mảng và nhếch nhác đối với bên kia, bởi vì: Phàm cái gì thái quá cũng đều bất cập. Chính trong chiều hướng ấy, tác giả Trịnh Trung Hòa, trong một bài đăng trên báo “Kiến Thức Ngày Nay”, đã viết như sau: “Có thể nói, với đàn ông hiện đại, sự nghiệp và gia đình quan trọng như nhau. Thành công trong sự nghiệp mà gia đình không ấm êm hạnh phúc, thậm chí tan vỡ mỗi người một nơi, con cái ly tán thì như thế cùng lắm mới chỉ thành công một nửa. Vì thế, theo quan niệm mới, gia đình hạnh phúc là một trong hai mục tiêu chính của đời người đàn ông, là thành công quan trọng không kém gì sự nghiệp. Chỉ như thế, đàn ông mới dành thời gian công sức cho gia đình, tạo điều kiện cho vợ tham gia công việc xã hội. Không những thế nỗ lực xây dựng một gia đình hạnh phúc và phấn đấu để có một sự nghiệp phải được coi như hai quá trình tương hỗ, được tiến hành song song, cái nọ thúc đẩy cái kia, chứ không đối nghịch nhau, triệt tiêu nhau như nhiều người lầm tưởng”. Thứ hai, đờn ông con giai phải kiên quyết đấu tranh đòi cho mình quyền được đối xử bình đẳng, ngang hàng với đờn bà con gái
Không phải chỉ trong lãnh vực lễ hội, mà hầu như trong mọi lãnh vực phe đờn bà con gái luôn được ca tụng. Nào văn chương, nào hội họa, nào điện ảnh. Làm sao kể ra cho hết những tác phẩm nghệ thuật đề cao hình ảnh người mẹ, người vợ, người chị, người em gái. Còn những tác phẩm đề cao hình ảnh người cha, người chồng, người anh thì thật là họa hiếm, lơ thơ như tơ liễu buông mành. Gã rất lấy làm tâm đắc với một vài nhận xét của tác giả Trịnh Trung Hòa trên báo Kiến Thức Ngày Nay, và xin mượn tạm để rồi dựa vào đó mà bàn rộng bàn dài cho thỏa chí toại lòng.
Hình như bàn dân thiên hạ không tiếc lời ngợi khen đối với phe đờn bà con gái, nhưng lại rất hà tiện đến độ sẻn so đối với cánh đờn ông con giai. Quả là bất công hết chỗ nói. Và đau hơn nữa, những kẻ to miệng hơn cả lại thuộc cánh đờn ông con giai. Đúng là đâm sau lưng chiến sĩ.
Dĩ nhiên gã cũng rất ủng hộ việc ca tụng và ngợi khen những người mẹ và những người vợ đã giãi nắng dầm mưa, một sương hai nắng vì chồng vì con. Thậm chí cả những người chị đã cam chịu số kiếp cô đơn để nuôi dạy đàn em nên người, khi cha mẹ chẳng may mất sớm. Thế nhưng, bàn dân thiên hạ cũng cần phải mở to đôi mắt để nhìn nhận, rồi lên tiếng ca tụng và ngợi khen những gian khổ và mệt mỏi, những đắng cay và chua xót của người cha và người chồng. Không thiếu gì những người cha đã can đảm chấp nhận cảnh gà trống nuôi con, theo đúng bài bổn “hy sinh đời bố, để củng cố đời con”. Và những hy sinh to lớn này cũng đáng đồng tiền bát gạo lắm chứ.
Không thể chỉ nói tới nỗi khổ của đờn bà con gái, mà quên béng nỗi khổ của đờn ông con giai, bởi rất nhiều khi họ cũng xất bất xang bang vì vợ vì con. Nếu chị vợ bực bội trước thói rượu chè và đèo bòng bồ nhí của anh chồng, thì anh chồng cũng bực bội không kém trước tật ghen bóng ghen gió và tiêu xài vung vít theo kiểu con nhà lính tính nhà quan của chị vợ. Không thể chỉ nói tới những khó khăn của đờn bà con gái mà lờ tít những khó khăn của đờn ông con giai, bởi rất nhiều lần họ cũng ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh vì vợ vì con. Gã cảm thấy Thiên Chúa thật công bằng trong lãnh vực này.
Thực vậy, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: Sau khi hai ông bà nguyên tổ là Adong Eva phản bội cùng Thiên Chúa bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, thì Ngài đã hiện ra và công bố án phạt. Với Eva, Ngài phán: Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi. Với Adong, Ngài phán: Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng ngươi đừng ăn nó, nên đất đai sẽ bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. Gã rất lấy làm tâm phục khẩu phục sự phân minh của Thiên Chúa. Nếu chị vợ phải mang nặng đẻ đau, thì anh chồng cũng phải đầu tắt mặt tối mới tìm được chén cơm manh áo. Thật đúng với một câu nói đã được xếp vào hàng “ranh ngôn”: Phía sau hình ảnh của một chị đờn bà chưng diện là bóng dáng của một anh đờn ông đang…kéo cày, nhễ nhãi đổ mồ hôi sôi nước mắt.
Một trong những vấn đề nổi cộm đang được mọi người chú trọng tới trên thế giới cũng như tại Việt Nam, đó là vấn đề bạo lực trong gia đình. Có những anh chồng nổi tiếng là vũ phu, đã thượng cẳng chân hạ cẳng tay, sút gọn chị vợ vào góc tủ như đá trái banh lọt tỏm vào cầu môn, hay đánh đập chị vợ đến thâm tím cả mặt mày. Những trường hợp trên cần được xử lý nghiêm khắc.
Thấy hai anh chồng cũng thuộc vào hàng cục mịch, suốt ngày chỉ tìm cách gây sự để mà đánh vợ. Ông hàng xóm bèn tìm cách khuyên nhủ. Với anh chồng thứ nhất, ông ta nói: Đờn bà con gái là phái yếu, ta không nên đánh đập họ. Và nếu cần phải đánh thì hãy dùng cành hoa mà đánh. Và anh chồng thứ nhất đã trả lời: Chẳng cần phải hoa với hoét, tôi cứ dùng ngay cái búa tạ mà phang là xong tuốt. Với anh chồng thứ hai, ông ta nói: Đờn bà con gái là những bông hồng, ta không nên vùi dập họ. Và anh chồng thứ hai đã trả lời: Tôi đâu có vùi dập họ, mà chỉ bẻ bớt những gai nhọn của bông hồng nhà tôi mà thôi.
Thế nhưng, dường như bàn dân thiên hạ chỉ nhìn thấy những vết bầm tím, nghĩa là chỉ nhìn thấy sự bạo hành ngoài thân xác mà anh chồng đã ưu ái ghi lại cho chị vợ, mà lại chẳng bao giờ nhìn thấy những “vết thương lòng đang rỉ máu”, nghĩa là chẳng bao giờ nhìn thấy sự bạo hành trong tinh thần mà chị vợ đã tức tối mang đến cho anh chồng. Chị vợ có thể thực hiện sự bạo hành trong tinh thần đối với anh chồng bằng những lời lẽ từ cay nghiệt đến độc ác, bằng những thái độ cư xử từ lạnh lùng đến tàn tệ. Mỗi lời nói và mỗi thái độ cư xử như thế chẳng khác gì một lưỡi lam khía vào trái tim anh chồng. Những vết thương rỉ máu trong cõi lòng cũng đau đớn không kém, và thậm chí nhiều khi còn đau đớn hơn cả những bầm tím ngoài thân xác. Gã xin kể lại một trường hợp điển hình đã được tăng tải trên tuần báo “Gia Đình” như sau:
“Phát hiện ra anh chồng có bồ nhí, chị vợ đã rình bắt quả tang, rồi đánh ghen ầm ĩ và tìm mọi cách để giành lại chồng. Thế nhưng khi anh chồng quay về, thì cũng chị vợ là người đẩy anh chồng xa lìa tổ ấm một cách bất đắc dĩ. Chị vợ quá cố chấp và luôn soi mói, nghi ngờ anh chồng. Chị vợ yêu cầu anh chồng không được giao du với bạn bè khác giới “kẻo ngựa lại quen đường cũ, sa ngã lúc nào không hay”. Chị vợ còn kiểm soát chặt chẽ tiền lương và thời gian làm việc của anh chồng. Anh ta đi đâu mà về muộn là lập tức bị lục vấn, tra khảo căn kẽ và chưa kịp nghe lời giải thích, chị vợ đã gán luôn cho anh ta cái tội “hú hí với con nào”. Mỗi lần vợ chồng giận nhau, thì chị vợ bèn nhắc lại chuyện phản bội này ngay cả trước mặt con cái và nguyền rủa anh chồng là “thằng chồng thiếu chung thủy, là đồ tồi, là tên ba lăng nhăng…”Anh chồng chán đời vì muốn đem tất cả thiện chí của mình để chuộc lỗi lầm mà cũng không xong. Tuyệt vọng, anh la cà quán xá với bè bạn, không muốn trở về ngôi nhà lúc nào cũng bao phủ không khí ngột ngạt, não nề”. Rồi sự gì phải đến ắt sẽ đến. Và họ đã chia lìa nhau.
Ngoài ra lại còn một sự bất công khác nữa, đó là khi đờn bà con gái và nhất là chị vợ chẳng may bị bạo hành, chẳng may bị ngược đãi, thì họ có thể báo cảnh sát và lập tức mấy “thầy phú lít” đến can thiệp liền tù tì. Họ cũng có thể vác đơn trình ba tòa quan lớn mà kiện. Và những vị quan tòa “chí tư vô công” này dường như lúc nào cũng sẵn sàng bênh vực, và ủng hộ cho họ. Nếu tình huống xấu nhất xảy ra như chuyện tan đàn xẻ nghé, thì họ cũng được thừa hưởng chí ít là 50% tài sản. Ngược lại, khi đờn ông con giai và nhất là anh chồng chẳng may bị bạo hành, chẳng may bị ngược đãi thì biết làm sao bây giờ. Nói ra thì chẳng ai thèm tin. Muốn báo thì báo ở đâu? Muốn kiện thì kiện ở đâu? Người ta chẳng cười vào mũi cho ấy. Mà nếu có kiện thì cũng mất cả chì lẫn chài, không chừng còn bị thân bại danh liệt nữa là đàng khác.
Thôi thì hãy mau mắn lắng nghe theo lời xúi dại sau đây của gã: Hỡi tất cả đờn ông con giai, hãy đoàn kết lại. Ta phải đấu tranh. Ta phải giải phóng mình khỏi gông cùm xiềng xích. Cho dù đó chỉ là những gông cùm êm ái và những xiềng xích nhẹ nhàng. Gã Siêu
Vào năm 1984, bỗng dưng gã được công an kêu đi “làm việc”. Họ thân ái hạch hỏi gã về cái-tội-không GãSiêu 17
Vào năm 1984, bỗng dưng gã được công an kêu đi “làm việc”. Họ thân ái hạch hỏi gã về cái-tội-không-phải-là-tội. Thế rồi quen mui thấy mùi ăn mãi, cứ ba tuần một lần, họ lại trìu mến bắt gã phải trình diện, để coi tướng coi tá, coi giò coi cẳng, xem có sứt mẻ bề gì chăng. Suốt mấy năm trời, gã luôn để bên cạnh giường một cái bị, trong đó có mấy bộ đồ và một chai dầu cù là, lỡ được ưu ái mời, thì mình đã sẵn sàng để… đi luôn.
Cũng trong thời gian ấy, vì muốn quên chuyện đời, gã bèn đóng cửa “ngâm kíu” về việc…bếp núc. Gã lôi một đống sách dạy nữ công gia chánh, đọc ngấu nghiến, ghi chép hẳn hoi và phân loại cẩn thận. Cuối cùng gã đã tổng hợp và nghiệm thấy rằng:
- Tất cả các món ăn từ cổ chí kim, từ đông sang tây, đều được chế biến bằng bốn cách. Một là luộc qua nước. Hai là chiên qua mỡ. Ba là nướng qua lửa. Bốn là ăn sống nuốt tươi. Rồi tùy theo thể thức nêm mắm muối hành tỏi và các đồ gia vị cũng như tùy theo thể thức trình bày mà làm ra món nọ món kia.
Riêng về cà phê, thiên hạ đã chỉ cho gã một bí quyết gia truyền như sau: Ly cà phê tuyệt vời phải là ly cà phê đen như thằng quỷ, nóng như hỏa ngục và lịm như tình yêu. Thế nhưng gần đây trên báo Phụ nữ Chủ nhật, có kẻ ghiền cà phê đã cả gan cho rằng cà phê còn tuyệt vời hơn cả đờn bà. Và rồi kẻ bạo phổi ấy đã đưa ra những lý lo để biện minh cho chủ trương, đường lối của mình như sau: Bạn không cần thêm kem, cà phê vẫn cứ ngon. Vào lúc sáng sớm, ly cà phê trông thật tuyệt cú mèo. Bạn không buồn ngủ sau khi xơi xong một ly cà phê. Cà phê sẽ chẳng bao giờ làm cho bạn phải nhức đầu. Bạn muốn cà phê ngọt hay đắng là tùy ở bạn. Bạn có thể hút thuốc trong khi uống cà phê. Cà phê lạnh cũng êm mà cà phê nóng cũng khoái. Còn cà phê Buôn Ma Thuột ấy hở? Chắc chắn sẽ mang lại cho bạn “nguồn cảm hứng sáng tạo mới”.
Trở lại với câu chuyện “Gulliver phiêu lưu ký” mà gã đã mê tít thò lò từ hồi còn nhỏ. Sau khi thoát khỏi lãnh địa của những người tí hon, Gulliver bị lạc bước vào đất nước của những anh chàng khổng lồ. Dưới mắt những anh chàng khổng lồ này, Gulliver chỉ là một nhóc tì, bé tí bé tẹo, khả dĩ có thể đứng được nơi đầu ngón tay của họ. Và thế là chú nhóc tì, bé tí bé tẹo này tha hồ nhảy nhót trên vành tai, nghí ngoáy trong lỗ mũi của những anh chàng khổng lồ. Còn đầu tóc của họ ư ? Quả là một cánh rừng bạt ngàn đối với chú nhóc. Ngặt một nỗi, nếu chẳng may anh chàng khổng lồ hắt xì hơi một phát, thì cái phát hắt xì hơi ấy có thể thổi văng chú nhóc tì, bé tí bé tẹo ấy, đi cả mấy ki lô mét lận.
Cà kê dê ngỗng một tí cho vui, bây giờ thì gã xin đi vào đề tài hôm nay, đó là nhân loại chẳng đờn ông, để đối với đề tài tháng trước, đó là thế giới không đờn bà.
Vào một đêm trăng sáng vằng vặc, có một tốp các bà các chị quyết đi vào rừng trúc, tìm cho được nguyệt lão, hầu trình bày nỗi khổ của mình. Để tăng thêm nhuệ khí, vị chủ tịch của các bà các cô đã hô hào:
- Hỡi chị em ơi có biết không? Trời phú cho ta một tấm chồng. Có phước gặp được người tử tế, Vô duyên dính gã “tứ đổ tường”. Sáng xỉn, chiều say, khuya…tỉnh giấc. Nay cờ, mai bạc, mốt lông bông. Chồng con, cái nợ là như thế, Hỡi chị em ơi có biết không? Nhìn thấy các bà các chị hùng hổ tiến đến, xem chừng nguyệt lão cũng run. Để giữ bình tĩnh, nguyệt lão bèn vuốt chòm râu bạc, rồi hắng giọng nói: - Các ngươi muốn xin gì?
Tất cả đều nhất tề thưa lên:
- Chúng tôi muốn dứt bỏ cái sợi chỉ đỏ mà ngày xưa ngài đã buộc chân chúng tôi với chân những…lão ấy, để trở thành vợ thành chồng với nhau.
Nguyệt lão xua tay hỏi:
- Tại sao các ngươi lại muốn dứt bỏ sợi chỉ đỏ của ta?
Một bà đáp:
- Khổ lắm ngài ơi, kể từ khi có chồng, tôi như đeo gông vào cổ.
Một chị khác, xem chừng như một cô đào cải lương, đã vội ngâm mấy câu thơ sau đây:
- Lấy chồng, lấy phải chồng ghen, Như đeo trên mắt cục ghen hổ ngươi. Lấy chồng, lấy phải chồng lười, Một mình gánh cục nợ đời nặng vai. Lấy chồng, lấy phải chồng say, Lành nguyên….cục súc thẳng tay bạo hành. Nguyệt lão bèn trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
- Vậy ý các ngươi như thế nào?
Một lần nữa, tất cả đều nhất trí và đồng ý:
- Xin ngài hãy làm cho bọn đờn ông biến khỏi mặt đất này, để chúng tôi thực sự được giải phóng và hạnh phúc.
Một chị bèn thỏ thẻ:
- Ước chi không có đờn ông, Thì em đâu phải tay bồng nách mang. Anh như cái ách giữa đàng, Em ngu quá xá nên quàng vô thân. Xưa kia bụi chẳng lấm chân, Tự do ngang dọc chẳng cần tới ai. Tiền mẹ tha hồ tiêu xài, Sáng siêu thị, tối mệt nhoài đăng xinh. Chẳng cần đi bẩm về trình, Dạ vâng nhỏ nhẹ: “thưa mình, em đây”. Một chị khác cũng ấm ức than thở: - Ước chi không có đờn ông, Thì đâu có cảnh chờ chồng đêm khuya. Mê nhậu, mê gái, mê bia, Ngất nga ngất ngưỡng đi hia một giò. Về nhà là ngáy kho kho, Quên bài…không trả, học trò lưu ban. Nguyệt lão gật đầu: - Được rồi, ta sẽ cho các ngươi được phỉ chí toại lòng. Nói rồi, nguyệt lão giơ cây gậy trúc và hô: - Đờn ông con giai…biến. Và thế là kể từ giây phút trọng đại ấy, chẳng còn một mống đờn ông con giai, chẳng còn một vị nam nhi đại trượng phu, chẳng còn một dân húi cua tóc ba phân đều nào trên mặt đất này cả. Và lịch sử bắt đầu một kỷ nguyên mới. Một tác giả tên là Kim Hương đã ghi nhận buổi bình minh của kỷ nguyên mới ấy như thế này:
Sáng hôm đó, tôi thức dậy hơi bị sớm, bỗng phát hiện ra một việc là ông chồng mập nằm kế bên mình bị…”mất tích”. Chà, không biết ổng đi đâu sớm thế, chứ bình thường cũng phải hơn bảy giờ mới ra khỏi giường. Tôi lo lắng chạy bay ra đường nghe ngóng coi có tin tức gì của chồng mình không. Ai ngờ, vừa ra tới ngoài đường, tôi thấy rất nhiều bộ dạng của những người phụ nữ: già có, trẻ có mà sồn sồn cũng có. Quần áo tươm tất có và cả đồ ngủ cũng “xuống đường”. Hỏi ra mới biết, tất cả các ông chồng đều biến mất. Đầu tiên ai cũng tỏ ra lo lắng, không biết chồng mình đi đâu hay bị “bắt cóc”? Nhưng nhìn qua nhìn lại, thấy bà nào cũng bị mất chồng, nên mọi người đều nghĩ “ chừng nào chồng họ xuất hiện, thì tất chồng mình cũng thế, chẳng sợ”. Và cứ vậy mà yên chí lớn, ai về nhà nấy.
Thật sung sướng không sao kể xiết khi bắt đầu một ngày mới không có…đờn ông. Tôi lên kế hoạch đàng hoàng, chẳng phải lo đồ ăn sáng cho “ổng”, đỡ tốn thêm cái khoản cà phê, thuốc lá. Lại nữa, đi chợ thích gì ăn nấy, không phải đắn đo suy nghĩ coi ổng thích ăn món chi? Và không gì bằng đi siêu thị mà không sợ ai to mồm rằng “mua gì lắm thế”. Đã thế lại còn tiết kiệm được khá nhiều tiền khi không cần đến mỹ viện để làm gầy, lại còn được tha hồ ăn, chả sợ béo phì, chả sợ ai chê là mập như… Và không phải giả bộ…cười khi thấy bản mặt “dễ ghét” của ổng. Nhất là…Ôi thật tuyệt vời, cánh đờn bà chúng mình có thể nằm ngủ thẳng giấc.
Mới tính toán sơ sơ thôi, mà tôi đã cảm thấy lâng lâng, dễ chịu và thoải mái vô cùng. Tôi sẽ trở lại thời con gái, thời mà tôi chưa bị đờn ông đem nhốt vô lồng với bao nhiêu công việc không tên bù đầu bù cổ. Nhưng từ đây, tôi và các chị sẽ đổi thay hoàn toàn, tự do hoàn toàn. Tôi đã chuẩn bị “tư thế mới” để bắt đầu lăn vào cuộc sống không đờn ông. Hầu như tất cả quí bà quí cô đều hăm hở lên chương trình cho cuộc sống riêng, cũng như cho khoảng trời riêng của mình. Trong cuộc sống và khoảng trời riêng ấy, dứt khoát là không có bóng dáng đờn ông con giai. Chương trình đại khái mang những nét giống nhau.
Ban sáng ta có thể nằm ngủ nướng mặc sức, chả phải dậy sớm mà chui vào bếp. Cứ việc thoải mái cho tới khi mặt trời xỏ lỗ mũi cũng chẳng hề hấn gì. Nếu muốn thì đánh răng rửa mặt, còn không thì cứ việc đầu bù tóc rối, có ai để ý đâu mà sợ. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Nếu thích trang điểm, thì ta cứ việc ngồi vào bàn, tô son trét phấn mặc sức. Cứ việc vô tư biến khuôn mặt mình trở thành khuôn mặt của một cô đào cải lương, hay của dân phường chèo cũng vẫn là hết ý. Rồi sau đó ướm thử hết bộ này đến bộ kia, bộ nào ưng ý nhất thì khoác vào thân, cho dù bộ ấy có hở “một phần da ba phần thịt”, cũng chẳng sợ ông xã nhăn mặt. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Còn nếu mắc chứng bệnh “lươi huyền mãn tính”, thì ta cứ việc để nguyên bộ đồ ngủ mà đi lại trong nhà, hay xuống phố mà chẳng cần đeo vào mình những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Thế mới thật là nhẹ nhõm. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao !
Không phải chui đầu vào bếp nấu nướng cho ông xã đã đành, mà ta còn tha hồ xơi theo sở thích của mình. Muốn gì xơi nấy. Thậm chí có thể anh dũng ngồi ngồi bên vỉa hè, húp chùn chụt một lúc vài tô bún riêu, hay vài tô bún ốc cho đã thèm, cho khoái khẩu mà chả sợ ma nào cười, ma nào chê. Ta cũng có thể rít một hơi thuốc lá, rồi thả hồn mơ theo làn khói. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Thời giờ còn lại của một ngày ấy hả?
Ta có thể ngồi hát karaoke hết bài này sang bài khác, từ những bài tình cảm ướt át cho đến những khúc “quân hành ca” thật oai phong lẫm liệt. Ta không sợ giọng hát vượt thời gian của ta hành hạ, làm rúng động con tim và làm điếc lỗ nhĩ của hàng xóm, Bởi vì hàng xóm gần gũi nhất của ta, hắn đã biến mất tiêu rồi, đâu còn nữa. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Ta có thể bật đầu máy coi hết những bộ phim tình cảm lâm ly bi đát nhiều tập của Hồng Công hay của Hàn Quốc mà chẳng sợ bị một ai phá đám. Xem từ sáng đến tối cho thỏa cơn ghiền, khi nào mắt mờ và tai lùng bùng mới thôi. Quả là đã điếu. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Ta có thể mải mê đọc những tờ báo lá cải, “ngâm kíu” từng vụ án cướp bóc, nhất là từng chuyện tình éo le, từng cuộc đánh ghen, ngay cả những tin xe cán chó, ta cũng chẳng bỏ qua, để rút tỉa những kinh nghiệm quí giá, làm giàu cho đầu óc và làm đẹp cho bản thân. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Ta có thể kéo nhau sang nhà bà hàng xóm, tụm năm tụm ba đấu hót vung vít. Tha hồ cà kê dê ngỗng, kể tội bọn đờn ông, từ lão này sang lão khác. Hết chuyện phe địch thì lại bắt quàng sang chuyện phe ta. Nào là nhỏ này dễ ghét, nào là nhỏ kia chả ra cái thể thống gì. Ngôn ngữ tuôn trào rông rổng, chẳng khác bà phát ngôn viên của bộ ngoại giao Việt Nam là mấy. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Ta còn có thể lôi nhau đi “shop”, ngắm hết gian hàng này đến gian hàng kia. Tha hồ mua sắm mà chẳng phải dè chừng cặp mắt cú vọ của lão chồng keo kiệt, hay những tiếng thở dài của tên bồ mắc chứng bệnh than trầm trọng kể từ ngày mười một tháng chín năm hai ngàn linh một. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao!
Rồi khi màn đêm buông xuống, ta cứ việc nhảy phóc lên giường đánh một giấc cho đẫy con mắt, mà chẳng sợ bị ai khều, ai gọi. Rồi sáng hôm sau, một ngày tuyệt vời vắng bóng đờn ông con giai lại được bắt đầu. Và cứ thế, cứ thế. Ngày nọ nối tiếp ngày kia như hồi nọ nối tiếp hồi kia trong truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa bên Tàu, bản dịch của Tử Vi Lang và lời bàn của Kim thánh Thán. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao! Tất cả những cái ấy đã được đúc kết thành một bài thơ mang nhiều tính cách hồ hởi như sau:
- Không chồng không phải không chồng, Không chồng vì bởi chồng không có nhà. Ú là khỏe quá thân ta, Tha hồ ngủ, vất gối bừa lên chăn. Sáng buồn thì khỏi đánh răng, Cơm ăn khỏi phải lo mần cho ngon. Hễ vui cứ việc cười giòn, Mặc cho ai ngó, ai dòm kệ ai. Nhạc thì cứ mở đã tai, Tha hồ nhún nhảy gầm gừ mình ta. Rồi sang hàng xóm lân la, Ngồi lê đôi mách chuyện gà chuyện dê. Chuyện trời, chuyện nước, chuyện non. Chẳng chừa cả chuyện chồng con của mình. Một ngày thật quá phỉ tình, Ước chi chồng biến luôn mình mừng thay. Thế nhưng, sau thời gian quá độ đầy phấn chấn này, thời gian như chùng xuống rồi ngừng đọng, không gian như đi vào một mùa đông ảm đạm, và lạnh lẽo. Người ta bỗng thấy quí bà quí cô trầm hẳn xuống. Ít cười và ít nói. Hình như ai cũng anh ách một bầu tâm sự riêng tư mà chẳng biết tỏ cũng ai, bởi vì lỡ dại mồm dại miệng nói ra, không chừng lại bị thiên hạ cười cho thối mũi, nên đành phải canh cánh bên lòng, như một ung nhọt đang nung mủ chưa chịu vỡ.
Thò chân xuống khỏi giường, nhìn thấy xấp nhỏ ngây ngô và ngơ ngác, bởi vì toàn là “vịt giời”, toàn là dân “thị mẹt”. Ta bỗng dưng tiếc nhớ những cái nghịch ngợm của mấy thằng nhóc, phá phách như quỉ sứ. Bực bội đấy nhưng mà lại vui. Còn xấp nhỏ hôm nay ngơ ngác là do không có cha. Con mà không cha thì như nhà “không có nóc”. Tự thâm tâm ta nghiệm ra rằng đờn ông là như cây tùng, cây bách phủ bóng mát xuống cuộc đời và là chỗ dựa tốt cho con cái cũng như cho bản thân ta nữa, nếu như “hắn” không quá xệ. Thực vậy, không có đờn ông con giai trong nhà, bóng đèn tắt không ai thay, cầu chì hư không ai sửa, bàn ghế gẫy chẳng ai thèm lấy đinh ra đóng lại. Ta mà cầm cái búa, thì cứ lóng nga lóng ngóng. Đầu đinh không đóng, chỉ chực đóng xuống ngón tay. Ta cũng giống mấy anh học trò ngày xưa, là dân trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Hồi trước ấy hả? Bao nhiêu việc nặng nhọc, ta khoán trắng cho bọn đờn ông con giai. Chỉ cần cười ruồi một phát, hay cho bọn họ uống nước đường bằng một lời khen là xong tuốt luốt. Nặng nhọc đến mấy, họ cũng vẫn làm hùng hục, lại còn cảm thấy thích thú và khoái chí nữa. Thế mới chết. Sao mà họ mà ngu quá đỗi vậy! Ngoài ra do ăn uống thả dàn, không cần kiêng khem. Hễ cái gì khoái khẩu là xơi liền tù tì. Ổi, xoài và cóc thì cứ phải hàng ký lô. Chè cháo thì cứ phải dăm ba ly. Vì thế, thân thể ta cứ liên tục phát triển bề ngang. Lúc này eo ếch mà làm chi. Không còn đờn ông con giai thì ta cần chi mà phải làm đẹp. Bởi vì có làm đẹp thì cũng chẳng ma nào ngắm và xuýt xoa khen tặng. Thôi thì hãy vứt quách nó đi áo quần thời trang, giày dép “mô đen”, son phấn đủ kiểu. Bị ăn theo vào đó, các thẩm mỹ viện cũng như các tiệm uốn tóc, sửa móng tay móng chân đều dự động “phẹc mê bu tích”, có nghĩa là đóng cửa, giải nghệ, kiếm việc khác làm mà kiếm sống.
Từ hồi đó cho đến bây giờ, chẳng còn có một cuộc thi hoa hậu hay sắc đẹp nào cả. Bởi vì ta với ta, mình với mình, thì cần chi mà phải thi với thố. Ai cũng là “miss” cả. Ai cũng đẹp cả, nếu không mười phân vẹn mười, thì cũng chí ít kẻ tám lạng người nửa cân. Hơn thế nữa, cuộc thi không có khán giả chiêm ngưỡng và vỗ tay, sẽ nhạt phèo như nước ốc, ai mà ham. Ngày quốc tế phụ nữ mồng tám tháng ba mất đi ý nghĩa của nó. Ta với ta, thì còn đấu tranh đòi bình đẳng với ai. Và như vậy, các bà mất đi một dịp may hiếm có để làm làm tình làm tội, đày đọa đức ông chồng của mình cho bõ ghét. Rồi ngày Valentine mười bốn tháng hai cũng vậy, sẽ trở thành trống rỗng, bởi vì mình với mình thì còn tình nhân, tình nhiếc mà làm chi. Và như vậy các cô mất toi niềm vui được nhận quà. Chả còn một bông hồng đỏ thắm cũng như chả còn một lời tỏ tình tha thiết nào cả. Sao cuộc đời lại vô duyên đến thế.
Đi “shop” mãi, mua sắm mãi thì đồng tiền đồng bạc cứ âm thầm đội nón ra đi, cho tới lúc chả còn một xu teng dính túi. Đầu tháng rồi, mà chẳng ai thèm cống nộp tiền lương cho mình. Và thế là ta rơi vào một thế cờ bí. Đầu ra thì có mà đầu vào lại không, khiến ta lo toát cả mồ hôi hột. Cái khó bó cái khôn. Ta chả còn mặt mũi nào để mỉm cười với đời. Coi phim Hồng công miết cũng như đọc báo hoài chỉ tổ mờ mắt. Cà kê dê ngỗng đủ mọi chuyện trên trời dưới đất với mấy bà hàng xóm cũng như hát karaoke mãi chỉ tổ mỏi mồm mỏi miệng mà thôi. Rồi khi trở về với lòng mình, ta trừng trừng nhìn ta trên tấm gương trong “toa lét” và bỗng thấy trái tim ta cô đơn, cuộc đời ta cô độc và bản thân ta cô quạnh quá đi thôi.
Lúc bấy giờ ta thầm ước có một mái ấm để mà chắt chiu chiều chuộng. Mái ấm ấy có những tiếng bi bô và những trò ngịch ngợm của mấy thằng nhóc. Tuy vất vả cực nhọc, nhưng ta lại cảm thấy vui vui, vì thiên chức của ta là làm mẹ chúng nó kia mà. Lúc bấy giờ ta thầm ước có một gia đình để mà ra công chăm sóc. Gia đình ấy có một bờ vai vững chắc để tựa vào, hầu tìm lấy một sự chở che, một sự cảm thông và một sự chia sẻ. Ta lấy làm tiếc xót, chỉ vì sự nghiệp giải phóng mà ta đã nỡ bẻ gẫy cái gông đeo cổ. Ta lấy làm đớn đau, chỉ vì muốn đòi quyền sống cũng như muốn được bình đẳng với bọn đờn ông con giai mà ta đã lỡ phá hủy cái chương trình muôn thuở muôn kiếp của đất trời. Ta lấy làm hối hận, chỉ vì nghĩ rằng không gì quí hơn độc lập tự do mà ta đã dại dột xin nguyệt lão hô biến đi tất cả bọn đờn ông con giai trên mặt đất này. Ôi, giá mà ta được làm lại từ đầu.
Trong những năm gần đây, nhiều người đã lớn tiếng than ngắn thở dài về tình trạng đạo đức bị GãSiêu 18
Trong những năm gần đây, nhiều người đã lớn tiếng than ngắn thở dài về tình trạng đạo đức bị xuống cấp một cách trầm trọng, không phải chỉ ở Việt Nam mà thôi, mà còn ở nhiều nơi trên khắp thế giới.
Đối với những người đã có tí tuổi, thì cứ việc lấy nhau, rồi lôi nhau ra tòa ly dị, bỏ nhau cái một. Người ta thay đổi vợ chồng như thay đổi áo quần, khiến cho gia đình bị lung lay tận gốc rễ, không còn là một tổ ấm, mà chỉ còn là một nơi đày đọa và đay nghiến lẫn nhau. Vì thế, anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, sớm ngày nào hay ngày ấy, mặc cho con cái sất bất xang bang, long đong vất vưởng.
Không phải chỉ bỏ nhau một cách thoải mái, mà còn bỏ cả con cái một cách vô tư. Người ta loan truyền những cách thức ngừa thai và phá thai, người ta vẽ ra một tương lai ảm đạm cho những gia đình đông con, khiến cho các đôi vợ chồng cảm thấy con cái là như một gánh nặng, chứ không còn là một hồng ân. Đã là gánh nặng thì cứ việc tìm cách để loại trừ, hơi đâu mà quàng vào cổ cho thêm phần cực nhọc, lo âu suốt bao nhiêu ngày tháng.
Ấy là trong gia đình, còn ngoài xã hội thì hỡi ôi, hễ có tí chức tí quyền thì vội vã lợi dụng mà vơ vét về cho đầy túi tham của mình, mặc cho đất nước tan hoang, quê hương xiêu đổ…Lớn thì xơi miếng to, nhỏ thì đớp miếng bé. Có tiền thì phải tiêu tiền. Vì thế, bèn tung tiền vào những vụ ăn chơi vung vít, đèo bòng bồ nhí…cho đến lúc khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt, mới mở con mắt dậy bỗng thấy mình tay không, nằm trong nhà tù mà đếm lịch từng ngày.
Còn đối với xấp nhỏ, lắm khi miệng còn hoi mùi sữa, đã thích chơi trò bạo lực, xách súng đến trường bắn xối xả vào bè bạn, cũng như thượng cẳng chân hạ cẳng tay mà hỏi thăm sức khỏe thày cô, còn đâu nữa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người xưa.
Lớn hơn một chút thì đã vội vã nếm mùi đời bằng cách chơi xì ke ma túy, hay vướng vào cái vòng tình ái cong cong. Chẳng thế mà con số những “đấng” vị thành niên tìm cách phá thai, giải quyết sốt sột cái “bầu tâm sự” của riêng mình vì đã trót lỡ dại, mỗi ngày một gia tăng…
Còn nhiều nữa, nhưng nếu viết ra, thì gã sẽ bị kê tủ đứng là một kẻ “cả tiếng lại dài hơi” mà than van oán trách. Trong khi đó, việc cần làm ngay, là phải tìm ra một giải pháp tích cực để cứu vãn tình thế. Suy nghĩ về vấn đề này, gã bèn nhớ tới một câu danh ngôn, đại khái như sau:
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Một nhà hùng biện được mời tới sân vận động để nói chuyện với bàn dân thiên hạ. Ông đã bắt đầu bài thuyết trình của mình bằng cách tắt hết mọi đèn đóm, khiến sân vận động tối thui, thậm chí ngồi bên cạnh mà cũng chẳng nhìn thấy khuôn mặt của nhau.
Sau đó, ông bật một que diêm, giơ lên cao và hỏi:
- Quí vị có nhìn thấy không?
Mọi người đều trả lời:
- Thấy…Thấy.
Khi mọi người đã yên lặng, ông liền yêu cầu:
- Bây giờ, ai mang theo diêm hay quẹt, thì vui lòng bật lên.
Chỉ trong giây lát, sân vận động như bừng sáng với ánh lửa của những que diêm và những chiếc quẹt, khiến mọi người nhìn rõ khuôn mặt của nhau. Rồi ông bắt đầu “Giô…đề”:
- Quí vị thấy đấy, nếu mỗi người chúng ta cố gắng làm những công việc tốt, cho dù là nhỏ bé và tầm thường, thì những công việc tốt ấy cũng sẽ dư sức đẩy lui bóng tối.
Mẩu chuyện và câu danh ngôn trên khiến gã phải giật mình, bởi vì rất có thể bản thân đã chẳng thắp nổi một ngọn nến, đã chẳng đánh nổi một que diêm hay đã chẳng bật nổi một hộp quẹt, nên đêm vốn dĩ đã tối lại càng tối hơn.
Đang miên man suy nghĩ, bỗng tình cờ gã đọc được mấy hàng chữ sau đây trong một bài viết:
“Có biết bao nhiêu người rất trung thành với những biểu dương tôn giáo, nhưng lại hoàn toàn sống xa lạ với những đòi hỏi của tôn giáo. Có biết bao nhiêu người có đạo mà không có đức…”
Lời nhận xét này lại càng làm cho gã thêm bối rối đến toát cả mồ hôi hột khi tự hỏi:
- Mình là dân có đạo, nếu xét kỹ lý lịch, không chừng còn là dân đạo dòng, đạo gốc…thế nhưng, liệu mình đã thực sự có đức hay chưa?
Như có lần đã thú nhận với bàn dân thiên hạ rằng gã rất lấy làm tâm phục khẩu phục cha ông thuở trước vì cách chơi chữ và ghép chữ, hầu như chẳng một dân tộc nào trên trái đất này sánh nổi. Chẳng hạn: đã nhường thì phải nhịn, đã nhịn thì phải nhục, đã khôn thì phải ngoan, đã học thì phải hành…Và hôm nay, đã có đạo thì cũng phải có đức.
Và thế là gã bắt đầu tìm hiểu thế nào là đạo và thế nào là đức. Đâu là mối liên hệ giữa đạo và đức?
Đạo có nghĩa là đường. Đường được mở ra với mục đích dẫn tới một địa điểm nào đó. Tuy nhiên, muốn đến nơi định đến, chúng ta phải biết chọn đúng con đường và phải cố gắng bước đi trên con đường ấy. Bằng không, thà rằng ngồi chơi xơi nước ở nhà cho khỏe vẫn hơn.
Từ đó, người ta đã đưa ra những định nghĩa khác nữa về đạo, tùy theo phạm vi của nó rộng hay hẹp. Trước hết, theo nghĩa rộng, đạo là lề lối phải theo, là lẽ phải mọi người đều tuân giữ.
Nếu trong thực tế, chúng ta thấy có nhiều loại đường khác nhau: Đường bộ, đường thủy, đường hàng không. Nguyên đường bộ mà thôi cũng đã có biết bao nhiêu thứ: đường mòn, đường hẻm, đường đất, đường đá, đường bê tông, đường trải nhựa, đường cao tốc…thì đối với đạo cũng vậy. Đạo theo nghĩa rộng cũng có nhiều thứ, nhiều loại khác nhau.
Chẳng hạn đạo làm quan là phải biết thương dân và hành sử theo sự liêm chính.
Dương Chấn được bổ làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương Ấp. Quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được ông đề bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo:
- Trước tôi biết ông là người khá mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng đến cho tôi ư?
Vương Mật cố nài, thưa rằng:
- Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết.
Dương Chấn nói:
- Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết?
Vương Mật nghe nói, xấu hổ lui ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ biết chăm lo việc dân việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho mình. Ông thường nói:
- Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quí hơn là để lại tiền của, ruộng nương cho chúng ư?
Chẳng hạn đạo làm con là phải hiếu thảo, vâng lời cha mẹ.
Thày Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng:
- Đội nặng đi đường xa, thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi khi có quyền cao chức trọng mới chịu làm. Ngày trước Lộ này, lúc song thân còn, cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo nuôi các ngài như trước, thì không sao được nữa. Cha mẹ tuổi già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Con muốn nuôi mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói:
- Nhà ngươi cư xử với song thân như thế là rất phải. Lúc các ngài còn, thì hết lòng phụng dưỡng. Lúc các ngài mất thì hết lòng thương tiếc.
Chẳng hạn đạo làm vợ, làm chồng thì phải trung thành cùng nhau trong suốt cả cuộc đời, bất kể trẻ hay già, đẹp hay xấu, lên voi hay xuống chó.
Vua Cảnh Công có cô con gái yêu muốn gả cho Án Tử. Một hôm đến ăn tiệc tại nhà Án Tử, thấy vợ của Án Tử, vua bèn hỏi:
- Phu nhân đấy phải không?
Án Tử thưa:
- Vâng, phải đấy.
Vua nói:
- Ôi! Phu nhân người trông sao vừa già lại vừa xấu ! Trẫm có đứa con gái đẹp muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
Án Tử đứng dậy thưa rằng:
- Vợ tôi thật vừa già lại vừa xấu, nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy cốt để cậy nhờ lúc xấu. Vợ tôi thường nhờ cậy tôi, mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua, tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều vợ tôi đã nhờ cậy bấy lâu nay.
Nói đoạn, Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.
Mỗi đấng, mỗi bậc đều có cái đạo của mình, đều có cái lề lối phải tuân giữ, cho ra môn ra khoai, cho ra trên ra dưới, cho tôn ti trật tự hẳn hoi, chứ không hầm bà lằng, cá mè một lứa.
Thế nhưng, suy cho cùng cái đạo quan trọng nhất, theo gã nghĩ, đó là cái đạo làm người. Đây chính là cái gốc, gốc có mạnh thì cành lá mới phát triển sum xuê. Đây chính là cái nền, cái móng, nền móng có vững thì mới xây được tòa nhà cao cao.
Phải làm người trước đã, rồi sau đó mới thêm vào những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh như: người cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người con, người thày, người thợ…
Cái đạo làm người hệ tại việc biết sống với mình bằng cách tự lập và biết sống với người khác bằng yêu thương hòa thuận.
Thày Nhan Uyên hỏi đức Khổng Tử:
- Hồi này nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe là có oai, chơi với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy có nên không ?
Đức Khổng Tử nói:
- Ngươi hỏi thế phải lắm. Nghèo mà cũng muốn được như giàu, thế là biết bằng lòng với số phận, không ham mê gì. Hèn mà cũng muốn được như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe mà cũng muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính, không lầm lỗi gì. Chơi với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói.
Tác giả “Cổ học tinh hoa” đã thêm lời bàn như sau: Không cần công danh phú quí, thế là biết giữ thiên tước hơn nhân tước. Không để ai khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình. Không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy ai. Ở đời mà giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, thiết tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng vậy.
Theo nghĩa thông thường, đạo được đồng hóa với tôn giáo, là con đường tu dưỡng dựa theo một thần quyền, có một giáo lý rõ rệt để tin theo, cũng như có một tổ chức chặt chẽ, luôn khuyên nhủ làm lành tránh dữ để đạt tới cõi phúc mai sau.
Hiểu theo nghĩa này, thì từ đông sang tây, từ cổ chí kim đã xuất hiện trên mặt đất này nhiều đạo khác nhau, chẳng hạn như đạo Phật, đạo Bà La Môn, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, Đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành…Mục đích của các đạo là thúc đẩy con người ăn ngay ở lành, xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp, để rồi nhờ đó được siêu thoát, được bước vào cõi phúc trường sinh.
Tuy nhiên, có một điều làm gã ngạc nhiên không ít, đó là trong một nghĩa hẹp, không biết từ đời thưở nhà nào, người bình dân Việt Nam vốn đã dùng chữ đạo để ám chỉ Công giáo. Vì thế, người ta thường nói:
Bên lương bên giáo. Bên lương là người thờ cúng ông bà, còn bên giáo là người theo Công giáo. Người có đạo chính là người theo Công giáo. Cố đạo là linh mục. Làm phép đạo là cử hành theo nghi thức Công giáo. Đạo dòng là theo đạo Công giáo từ đời ông bà.
Sau khi đã bàn về chuyện đạo, bây giờ gã xin bàn đến chuyện đức.
Ngày nay, tại Việt Nam mọi đồng tiền lớn nhỏ người ta đều in hình bác Hồ. Vì thế, bàn dân thiên hạ thường bảo:
- Có bác là có tất cả. Với bác thì chỗ nào cháu chui cũng lọt.
Câu nói này có nghĩa là:
- Có tiền là có mọi sự, từ chức tước uy quyền cho đến những tiện nghi vật chất như nhà lầu xe hơi. Có tiền thì việc khó mấy cũng xong.
Nhưng trước năm 1975, gã còn nhớ mang máng đồng tiền 500 hay 1000 chi đó được in hình đức thánh Trần Hưng Đạo, Vì thế, bàn dân thiên hạ cũng hay nói:
- Vấn đề đầu tiên là phải có đức.
Câu nói này được diễn giải như sau:
- Vấn đề đầu tiên, có nghĩa là vấn đề tiền đâu ? Phải có đức, hiểu ngầm đức thánh Trần, có nghĩa là phải có tiền.
Tuy nhiên, đây không phải cái nghĩa gã muốn bàn tới. Gã cũng không đề cập đến đức như là cái quả về sau của những công việc từ thiện đã làm, như tục ngữ ca dao đã khuyên nhủ:
- Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
- Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta tu lấy đức để đời cho con.
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho nhiều người vay mượn. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?
Mạnh Thường Quân nói:
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng:
- Các ngươi công nợ bao nhiêu. Thường Quân đều cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân:
- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “đức”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng:
- Trước tiên sinh vì tôi mua “đức”, đức ấy hôm nay tôi mới trông thấy.
Gã cũng không muốn nói tới đức như danh xưng dành cho các bậc đáng tôn kính, như khi chúng ta nói:
- Đức Chúa, Đức Mẹ, Đức Bà, Đức Trinh Nữ, Đức Thánh Cha, Đức Giám mục, Đức Ông…
Theo gã, đức là toàn bộ cách ăn ở hiền lành, hợp với đạo lý, hay nói cách khác, đức là tất cả những điều tốt đẹp mìnnh đạt được nhờ sự tu dưỡng tính tình.
Hiểu như vậy, thì giữa đạo và đức có một mối liên hệ chặt chẽ và gắn bó cùng nhau: cái đạo sẽ giúp thực hiện cái đức, còn cái đức sẽ làm sáng cái đạo.
Trước hết, cái đạo sẽ giúp thực hiện cái đức.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Niềm tin thắp sáng cuộc đời.
Trong những hoàn cảnh đen tối, hay trong những lúc gặp phải gian nan thử thách, nhiều khi chúng ta chán nản, muốn buông xuôi, mặc cho “con tạo xoay vần đến đâu”, thì niềm tin tôn giáo sẽ thổi vào tâm hồn tuyệt vọng của chúng ta một nguồn sinh lực mới, khiến chúng ta có đủ can đảm vượt qua mọi khó khăn chồng chất.
Hơn thế nữa, tôn giáo nào cũng dạy chúng ta ăn ngay ở lành, khuyên nhủ chúng ta làm lành tránh dữ. Tất cả những điều ấy có ý nghĩa gì, nếu không phải là thôi thúc chúng ta tập luyện các nhân đức.
Đồng thời tôn giáo còn cung cấp cho chúng ta những phương tiện để thực hiện mục đích tốt đẹp ấy, chẳng hạn như giảng dạy, khích lệ, nhắc bảo…Ấy là gã chưa nói tới những phương tiện siêu nhiên, những nâng đỡ của ơn thánh, khiến chúng ta dễ dàng cất bước trên con đường trọn lành.
Vì thế, đã có đạo thì cũng phải có đức, hay ít nữa đã có đạo thì cũng phải cố gắng tập luyện cho mình những nhân đức để trở thành một người tốt lành, trước khi trở thành người con cái Chúa, như niềm tin hằng mong mỏi.
Đồng thời trong khi tập luyện các nhân đức, chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho niềm tin. Và như vậy, cái đức sẽ làm sáng cho cái đạo.
Trên một chuyến xe đò, gã đang thiu thiu ngủ, thì bỗng nghe thấy mấy bà ngồi phía sau tranh luận một cách sôi nổi.
Bà thì nói:
- Thật chán chết chồng với con, hở một tí là bồ nhí với bia ôm.
Bà thì bảo:
- Thật tức đến hộc cả máu, mà đành phải cắn răng chịu vậy, bởi vì nói ra thì tan hoang cửa nhà.
Bà thì phê bình:
- Mà cái con gà móng đỏ ấy có hơn gì mình đâu?
Cuối cùng một bà lên tiếng:
- Chỉ có mấy bà bên đạo là sướng. Đạo của họ chỉ cho phép một vợ một chồng và phải trung thành với nhau cho đến chết, nên mấy ông bên đạo hết dám tơ tưởng, léng phéng gì ráo trọi. Tôi ấy à, hễ có con gái là tôi cứ nhè mấy anh bên đạo mà gả phứt đi cho rồi.
Tôi bỗng mỉm cười. Thì ra cái đức chung thủy của mấy ông chồng đã làm cho đạo Công giáo thêm phần sáng giá.
Tư tưởng thì trừu tượng khó mà kiểm chứng. Lời nói thì lắm lúc trở thành bôi bác giả hình, theo kiểu:
- Khẩu Phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Chỉ những hành động cụ thể mới có sức hấp dẫn, làm sáng tỏ cho niềm tin. Chẳng thế mà, đức thánh “Pha Pha” đã có lần phát biểu:
- Thế giới ngày nay rất cần đến những chứng tá, hơn là cần đến những thày dạy.
Hay như tục ngữ cũng bảo:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Hãy biến xác tín thành hành động. Hãy biến niềm tin thành việc làm. Bởi vì niềm tin không có việc làm thì chỉ là một niềm tin đã chết. Chính hành động, chính việc làm, chính cuộc sống gương mẫu mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn người khác. Biết bao nhiêu người đã trở lại chỉ vì đã thực sự xúc động trước một hành động bác ái yêu thương nào đó của một người có đạo.
Như trên gã đã nói:
- Đã có đạo thì cũng cần phải có đức. Và cái đức sẽ làm sáng cho cái đạo.
Thế nhưng, thực tế lại không đơn giản chút nào, bởi vì rất nhiều người có đạo mà lại chẳng có đức. Họ nói về đạo rất hay. Họ thuộc lòng mọi kinh sách. Nhưng cuộc sống của họ lại ngập tràn những bê bối. Họ chỉ sống đạo trong nhà thờ, chứ không hề sống đạo giữa lòng cuộc đời.
Phải, trong nhà thờ, họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời, họ liền hóa kiếp thành một loài lang sói. Trong nhà thờ, họ ăn năn sụt sùi đến vãi cả nước mắt, nhưng bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã gian tham, vội vã thù oán, vội vã ghen tị…
Người ngoài nhìn vào họ đã phải lắc đầu ngao ngán:
- Có đạo mà cũng như vậy à ?
Và rồi những người ấy đã kết luận một cách chua chát:
- Tin đạo, nhưng đừng tin kẻ có đạo.
Bổn phận của chúng ta, những người có đạo, là phải đảo ngược lại câu kết luận ấy, đó là:
- Chúng ta phải sống cho có đức, để rồi qua bản thân chúng ta, những kẻ có đạo, người ngoài sẽ tin vào đạo. Gã Siêu
Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả GãSiêu 19
Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả Hải Âu đã sưu tầm được một mẩu ngăn ngắn, mà gã xin mượn tạm để trình làng:
“Thử nghĩ mà xem, Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:
- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.
- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.
- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.
- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.
Để thực hiện đúng với đề mục “suy ngẫm” mà người sưu tầm đã mong muốn, gã sẽ ngẫm suy về ba cơ quan trên khuôn mặt của mỗi người, đó là mắt, tai và miệng, còn bộ óc và trái tim, xin khất tới một lần khác. TRƯỚC HẾT LÀ HAI CON MẮT Đây là một bộ phận thường được phe đờn bà con gái tận tình chiếu cố và ra sức làm đẹp.
Về lông mày, người ta nắn nót tỉa bớt những cọng mọc vô tổ chức, để có được hàng lông mày xinh xinh như chiếc lá liễu. Có kẻ còn chịu khó nhổ phắt đi, rồi xâm vô đó, để có được hàng lông mày vừa đẹp như ý muốn, lại vừa bền vững với thời gian. Về lông mi, người ta cũng chịu khó đeo thêm hàng mi giả, để mỗi khi chớp mắt, thì ra dáng con nai vàng ngơ ngác. Về màu sắc, người ta tô quầng cho thêm phần âm u huyền bí, người ta nhỏ thuốc cho thêm phần ngây thơ mơ mộng. Ngoài ra, để bảo vệ cũng như để làm đẹp cho cặp mắt, người ta còn tròng thêm cho chúng những cặp kính, đủ mọi kích cỡ, đủ mọi màu sắc. Xanh, xám, hồng…Giống như những thiên kiến, những màu sắc này phần nào ngăn trở, khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ sự thật.
Tuy nhiên điều quan trọng là công dụng của cặp mắt. Dĩ nhiên, mắt là để nhìn. Nhưng nhìn cái gì mới là vấn đề. Thiên hạ thường bảo: Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng hồng cho căn phòng bớt tăm tối và những luồng gió mát cho căn phòng thêm phần thông thoáng và dễ chịu. Cũng vậy, cặp mắt được mở ra để đón nhận những hình ảnh đẹp, thâu lượm những kiến thức làm giàu cho bản thân và cuộc sống.
Tuy nhiên, như khung cửa sổ phải lập tức đóng lại khi cuồng phong nổi lên và cơn mưa trút xuống, chúng ta cũng phải nhắm mắt lại trước những hình ảnh xấu xa, làm vẩn đục tâm hồn và làm nhơ nhớp cuộc sống. Chính vì thế, một tác giả đã viết: Cặp mắt là mai mối của tội lỗi. Từ đó gã hiểu được rằng tại sao Đức Kitô lại có một thái độ thật nghiêm khắc: Nếu mắt phải của ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (Mt 5,29).
Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu truyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”, đại khái như thế này:
Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh. Khi còn trẻ, ông hàn vi lắm. Lúc lâm bệnh nặng tưởng chừng như đã sắp chết, ông gọi Lư thị đến mà bảo:
- Tôi bị bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.
Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng quyết chí không lấy ai nữa.
Chẳng bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh. Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy một tì thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen. Chính vua Đường Thái Tôn cũng muốn thử lòng Lư phu nhân. Một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo:
- Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân.
Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận, mắng rằng:
- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết.
Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng:
- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này.
Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén, uống hết ngay. Vua thấy thế, bèn nói:
- Ta cũng phải sợ, huống nữa là Huyền Linh.
Trở lại với sự an bài của Thượng Đế. Ngài đã đặt cặp mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
Kinh nghiệm vốn cho chúng ta thấy: Người già thường sống bằng quá khứ, nên thích ngoái cổ nhìn lại phía sau. Thực vậy, trong khi ngồi nói chuyện với những người đã mang nặng tí tuổi đời, gã thấy các cụ ta luôn nhắc tới một thời oanh liệt, một dĩ vãng oai hùng và một ngày xưa hoàng thị của mình. Hồi ấy ông thế này, bà thế nọ, chứ đâu như bọn nhãi ranh bây giờ. Khi nhìn lại những sự việc ở phía sau như thế, người ta thường có hai thái độ:
Thái dộ thứ nhất, đó là huênh hoang và tự đắc với những thành công mà mình đã thâu lượm được, để rồi ngủ quên trên chiến thắng của mình lúc nào cũng không hay. Thái độ thứ hai, đó là bực bội và cay cú với những thất bại mà mình đã gặp phải, để rồi khơi dậy mối hận thù tưởng chừng như đã bị xóa nhòa với thời gian. Dĩ nhiên, gã không phủ nhận vai trò của dĩ vãng, như người xưa đã nói: Vô cổ bất thành kim. Không có cũ thì làm sao có mới. Nhìn lại dĩ vãng, để rồi chắt lọc ra những bài học, những kinh nghiệm quí giá cho bản thân, là đều đáng trân trọng. Nhưng nhìn lại dĩ vãng, để rồi thỏa mãn với những chiến thắng, hay hậm hực với những thất bại, mà quên mất hiện tại, thì đó lại là điều bất ổn cần phải được xem xét lại.
Trong khi đó, người trẻ thường sống bằng tương lai, nên luôn hướng nhìn về phía trước, để rồi đưa ra những sáng kiến, góp phần xây dựng một ngày mai tươi sáng hơn. Dĩ vãng thì đã qua đi. Có lấy làm vinh dự và hãnh diện hay đắng cay và chua xót, thì cũng không thể nào níu kéo lại được. Hiện tại mới thực sự cần thiết, bởi vì tương lai được bắt đầu từ trong hiện tại và ngày mai đang bắt đầu từ hôm nay. TIẾP ĐẾN LÀ HAI LỖ TAI Làm đẹp cho vành tai của mình không còn là phạm vị độc quyền của phe đờn bà con gái, mà cánh đờn ông con giai cũng nhảy vô ăn có. Qua phim ảnh và sách báo, cũng như khi đi ra ngoài đường, gã đã thấy nhiều anh con giai cũng xỏ lỗ tai, đeo vào đó một chiếc khoen. Người ta không phải chỉ xỏ một lỗ, mà đôi khi còn xỏ hai ba lỗ trên vành tai của mình, rồi quặc vào đó những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Một đôi bông, một chiếc vòng, thậm chí có cả những cây thập giá được treo lủng lẳng, tòng teng và đong đưa. Mục đích của đôi tai là để nghe. Thế nhưng, trong phạm vi này, gã ghi nhận được ít nữa là hai điều bất ổn.
Điều bất ổn thứ nhất, đó là chúng ta chỉ thích nghe những lời khen ngợi và ca tụng, hay những lời có lợi cho chúng ta, thậm chí cả những lời nịnh bợ và tâng bốc. Những lời nói kiểu này được coi như là…khoái lỗ nhĩ, nên dễ dàng được chấp nhận. Các linh mục Âu Châu ngày xưa làm việc tại Việt Nam thường được gọi là các Cố Tây. Và một vị cố Tây, khi được nghe những lời ca tụng và nịnh bợ như vậy, đã phát biểu như sau: Mặc dù thầy biết nó “pĩnh” thầy, nhưng thầy vẫn…thích.
Điều bất ổn thứ hai, đó là chúng ta dễ nghe theo những người mà chúng ta có cảm tình. Lời của những người chúng ta thương mến xem ra dễ thủng lỗ nhĩ của chúng ta hơn bất cứ ai. Thực vậy, khi muốn xin xỏ một vị quan ông giúp đỡ việc nọ việc kia, hay ban cho một ơn huệ nào đó. Nếu ngại gặp gỡ trực tiếp. Người ta bèn chạy vòng vòng và đi qua cửa hậu, bằng cách đưa phong bì hay biếu xén quà cáp cho quan bà và nhờ quan bà nói tiếp. Một lời của quan bà phán ra sẽ có giá trị gấp ngàn vạn lần lời của dân vai nặng chân trơn. Cũng theo thể thức ấy, khi có việc phải nhờ cậy cha sở hay một đấng bậc nào đó, chúng ta thường nhờ một vị trung gian bàu cử, chẳng hạn như ông chánh, ông trùm. Những lời của ông chánh hay ông trùm thường được các ngài dễ dàng lắng nghe hơn những lời đường đột của chúng ta.
Thế nhưng, sự an bài của Thương Đế đối với đôi tai thì lại hoàn toàn khác hẳn. Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.
Trước hết, Ngài không phải chỉ muốn chúng ta đón nhận những lời ngợi khen, mà còn phải lắng nghe cả những lời phê bình, chỉ trích, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: Ai khen ta mà khen phải, thì đó là bạn ta. Còn ai chê ta mà chê phải, thì đó là thầy ta.
Vũ hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc nước. Việc gì vua nói cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng. Lúc lui chầu, Ngụy hầu ra dáng hớn hở lắm. Ngô Khởi bèn tiến lên và nói:
- Cận thần ai đã đem chuyện Sở Trang vương nói cho nhà vua nghe chưa?
Vũ hầu hỏi:
- Chuyện Sở Trang vương là như thế nào?
Ngô Khởi thưa:
- Khi Sở Trang vương mà bàn việc, phải hơn quần thần, thi cho lui chầu. Có người hỏi: Sao vua lại lo? Sở Trang vương nói: Ta bàn việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lại lo. Cổ nhân có câu: Các vua chư hầu, ai có thầy giỏi thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì là được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực thì còn nước, ai bàn việc không còn ai bằng mình thì mất nước. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần cũng không ai bằng, thì nước ta có lẽ sẽ mất thôi. Bởi thế ta lo…Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang vương thì lo mà nhà vua thì lại mừng.
Vũ hầu nghe vậy, thì áy náy vái tạ và nói:
- Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.
Riêng đối với những lời mời mọc, khả dĩ làm hoen ố cõi lòng và làm vẩn đục tâm can tì phế, chúng ta cần phải can đảm gạt bỏ và dứt khoát nói không.
Đời thượng cổ có ông Hứa Do, là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái trạch. Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy. Sau vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra là Tổng trưởng cả chín châu. Hứa Do thấy vậy, không muốn nghe nữa, bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do và hỏi:
- Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?
Hứa Do thuật chuyện. Sào Phủ bèn gò cổ trâu lại mà nói rằng:
- Ta toan cho trâu uống nước nơi đây, nhưng lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên mà cho uống nước.
Ngoài ra, trong những cuộc xích mích hay bất đồng, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, nghĩa là lắng nghe cả hai phe, phe ta cũng như phe địch, để có thể nắm vững sự thật, rồi đi tới một sự hòa giải tốt đẹp.
Gã quen một anh bạn chẳng may bị điếc lỗ tai bên trái, thành thử mỗi khi muốn nói với anh ta điều gì, thì phải kề miệng vào lỗ tai bên phải của anh ta mà nói, chứ còn nói vào lỗ tai bên trái, thì anh ta sẽ chẳng hiểu gì cả. Cũng vậy, mỗi khi muốn nghe điều gì cho thấu đáo, anh ta phải chìa cái lỗ tai bên phải về phía người nói, giống như cái đài ra đa hướng tới nơi phát tín hiệu…
Trong cách cư xử thường ngày, chúng ta luôn bị tình cảm chi phối, làm cho những phán đoán trở nên lệch lạc, bởi vì chúng ta dễ dàng nghe theo phe ta, là những người họ hàng hay bè bạn thân cận, những người mà chúng ta yêu mến.
Đứa bé nghịch ngọm trong giờ giáo lý, bị ông thầy giúp xứ đét cho vài roi. Đứa bé vừa mếu vừa khóc, chạy thẳng về nhà méc với ông bố. Chẳng cần phải suy nghĩ hỏi han, ông bố liền nổi giận đùng đùng, chạy khắp xóm và chửi đổng ông thầy một chặp:
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con nhà người ta như thế à.
SAU CÙNG LÀ CÁI MIỆNG Nơi cái miệng, bên ngoài là vành môi, bên trong là cái lưỡi. Vành môi cũng là điểm được các bà các cô chăm sóc một cách kỹ lưỡng. Người ta có thể giải phẫu cho vành môi nhỏ lại. Người ta cũng có thể xâm cho vành môi to ra.
Hơn thế nữa, người ta còn chế tạo biết bao nhiêu thứ son, đủ màu đủ sắc để trang điểm cho vành môi. Có màu đỏ chói như tiết canh gà. Có màu xám ngắt như thịt trâu ươn…Ai thích chọn màu nào, thì xin tùy hỉ.
Cái miệng có nhiều công dụng khác nhau. Đối với những người đang ở trong quĩ đạo của tình yêu, thì cái miệng được dùng để hôn. Đối với những người đang bị kiến bò bụng, thì cái miệng được dùng để ăn. Và đối với bàn dân thiên hạ, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cái miệng được dùng để nói.
Kinh nghiệm cho thấy: lời nói, mặc dù là phương tiện chính Chúa đã trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng và ý muốn cho người khác, hầu tạo được một bầu khí hòa thuận và bắc được một nhịp cầu cảm thông, thế nhưng sai lỗi do lời nói lại là một thứ sai lỗi chúng ta thường vấp phạm hơn cả. Vì với lời nói, chúng ta có thể sai lỗi bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, bất kỳ với ai và bất kỳ qua đề tài nào. Tuy nhiên có hai thứ sai lỗi mà chúng ta thường vấp phạm hơn cả.
Sai lỗi thứ nhất, đó là nói dài, nói dẻo, nói dai. Thực vậy, trong những câu chuyện hằng ngày, gã thấy có những người luôn dành cho mình cái quyền được nói. Họ nói từ đầu đến cuối, không để cho ai chen vào. Họ nói không kịp thở và chỉ nói về mình bằng cách đề cao về những việc mình đã làm, những gì mình đã có, khiến người nghe nhiều lúc vừa khiếp lại vừa sợ.
Nhất là đối với các chị vợ. Họ thường ca cẩm về tình trạng vật giá leo thang và những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền. Họ thường chì chiết anh chồng, nếu chẳng may mắc phải một sai lỗi nào đó. Tất cả là như những điệp khúc buồn được ca đi ca lại suốt ngày, ban sáng cũng như ban chiều, ban tối cũng như ban đêm. Những người nói dài, nói dẻo, nói dai hình như đã quên mất lời người xưa căn dặn:
- Đa ngôn thì đa quá.
- Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Sai lỗi thứ hai, đó là nói gian và nói dối, có nghĩa là nói hành nói xấu người khác.Nhiều lúc gặp nhau, chúng ta đã phát ngôn thật bừa bãi, chúng ta xả láng chỉ trích người khác, mà chẳng biết thực hư như thế nào. Chúng ta nói cho khoái cái lỗ miệng. Ai mất danh dự, ai bị vùi xuống bùn đen cũng mặc. Chính vì thế, Thánh Kinh đã bảo: Số người chết vì cái lưỡi lại nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo nơi chiến trường. Và tục ngữ dân Ăng Lê cũng nói: Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.
Trong khi đó, ý muốn của Thượng Đế không phải là như vậy: Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những điều khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác. Chắc hẳn có lần chúng ta đã cảm thấy bực bội và tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc của người đời. Vì dư luận vốn thường luận dư. Lời đồn thổi bao giờ cũng phóng đại, tô màu, không biết đâu mà lường, bởi vì: Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.
Một lời nói vô ý thức có thể ví như lon dầu đổ thêm vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thù oán, thiêu rụi hết tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm. Một lời nói vu oan có thể làm cho người khác mất hết tiền bạc, địa vị, thân bại danh liệt và đi vào chốn lao tù. Bởi đó, người xưa đã dạy: Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Esope là một tên nô lệ da đen, nhưng rất được chủ là ông Santô yêu mến và kính trọng. Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Esope ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo phải mua những gì. Esope mua toàn các thứ lưỡi: nào lưỡi heo, nào lưỡi bò, nào lưỡi ngựa…đem về nấu nướng. Lạ miệng nên ăn ngon, ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài nấu nướng của Esope.
Lần sau có khách, ông chủ cũng sai Esope đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì. Esope lại mua về toàn những lưỡi, chỉ khác ở chỗ là cách nấu nướng và thêm bớt gia vị. Thấy vậy, ông chủ ngạc nhiên thì Esope bèn kính cẩn làm một màn lý luận về cái lưỡi. Ông nói: Ở đời, tốt hay xấu, lợi hay hại đều do việc sử dụng cái lưỡi một cách khéo léo hay vụng về. Chính nhờ vậy, Esope được chủ quí yêu và giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Để kết luận, gã xin ghi lại một tư tưởng như sau: Lưỡi người khôn ngoan tạo thành danh giá, mồm kẻ ngu dại gây nên đổ vỡ tan hoang. Gã Siêu
Vào mùa truyền chức, bàn dân thiên hạ thường được nghe trình bày về linh mục. Các vị giảng GãSiêu 20
Vào mùa truyền chức, bàn dân thiên hạ thường được nghe trình bày về linh mục. Các vị giảng thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng vẻ cao đẹp tuyệt vời của thiên chức ấy. Chẳng hạn linh mục là trung gian giữa trời và đất, là gạch nối giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nghe cứ như rót vào tai.
Có vị trích dẫn mẩu đối thoại hình, hình như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để biện minh cho những lời ca tụng của mình. Thánh nhân phát biểu như sau: Nếu một ngày nào đó, tôi gặp một thiên thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi sẽ cúi đầu chào linh mục trước, bởi vì linh mục đã đem Chúa đến cho tôi, còn thiên thần thì…không.
Có vị còn xác quyết mạnh mẽ hơn thế nữa, khi nói: Mẹ Maria chỉ sinh Chúa có một lần, còn linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi ngày!
Chỉ sợ rằng các cha mới cứ được nghe miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim dim ngủ trên những hào quang của mình. Cứ ngỡ mình là ông Bụt cao sang, mà quên mất thân phận hòn đất thấp kém, bởi vì từ hòn đất, các ngài đã được cất nên ông Bụt.
Có một anh bạn là linh mục, ngày kia đã tâm sự với gã như thế này: Hồi còn bé, mình thích đi tu lắm, ông có biết tại sao không? Này nhé, đi tu làm cha thì được ở nhà tây, được mang giày tây, được ăn bánh tây. Ra ngoài đường, bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu đều khoanh tay cúi đầu chào: Con xin phép lạy cha ạ. Lạy cha mà còn cần phải xin phép nữa, thì quả là hết ý. Hồi ấy, mình cũng giống như anh em ông Giacôbê và Gioan, mang nặng đầu óc xôi thịt, theo Chúa với mục đích vinh thân phì gia, mong được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, có nghĩa là tìm lấy cho mình ghế nọ ghế kia, chức này chức khác. Tóm lại là được làm lớn trong vương quốc của Ngài. Thế rồi những tháng năm dài ở chủng viện đã dần dần thanh luyện cái ý hướng của mình, nhờ đó mình không còn mang ảo tưởng nữa. Chức linh mục là để phục vụ Chúa và người khác, chứ không phải là để phục vụ cho bản thân. Và đời linh mục chẳng phải là một xa lộ an toàn, nhưng cũng chất đầy những chông gai và sỏi đá.
Cũng vị linh mục này, trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền mẫu góp ý nhẹ nhàng như sau: Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm cha ơi. Có bà còn mạnh miệng phán một cách rất quyết liệt và quá khích: Khi gặp gỡ và trao đổi với những đôi hôn nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy nhau nữa, khổ lắm cha ơi. Nghe vậy, gã bèn hỏi: Vậy cha đã giải tỏa cho họ như thế nào? Ngài trả lời: Mình cũng chỉ biết nhún vai, nhếch mép…mần duyên mà nói với họ rằng: Có ở trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom đóm mắt và toát mồ hôi hột ra không ?
Đúng thế, bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục và tu sĩ. Vì thế, hôm nay gã xin hầu chuyện về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các linh mục, đặc biệt các cụ xứ, các cha sở bên ta, tức là bên Việt Nam. Hy vọng có người nào đó sẽ viết tiếp về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha sở bên tây.
Nhìn thoáng qua con người và cuộc đời, gã thấy linh mục được phủ đầy hào quang, thậm chí có kẻ xấu bụng còn liệt các ngài vào hàng ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng, muốn nói ngoa, thì làm cha mà nói. Hằng ngày chẳng phải bon chen, bươn chải hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo tiền. Rồi lại còn được bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy vậy ai mà chẳng ham.
Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn một chút, thì con người và cuộc đời linh mục cũng không thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên tấm bi kịch của thân phận linh mục, theo gã nghĩ, đó chính là những mâu thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh do bản chất, do căn tính của linh mục.
Trước hết là những mâu thuẫn từ bên ngoài.
Ngày xưa việc huấn luyện và đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất ở tiểu chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các chú còn được học một chương trình giống như các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc mãn tràng, hết lớp đệ nhất hay lớp mười hai. Giai đoạn thứ hai ở đại chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu trên trời. Sau khi lãnh nhận chức linh mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm và bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với những việc cụ thể dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo đức được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít, cũng đã thấm được phần nào vào con người linh mục. Nhưng rồi những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm cho cái chất đạo đức ấy bị phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ được học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng dạy lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu trên trời, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời thường, để rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra cái chất sống ấy?
Là người luôn đứng trên bục mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại trở thành kẻ mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là không còn được dạy bảo, như lời một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa mới được thụ phong linh mục như sau: Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa. Đúng thế, nếu không kết hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ xứ không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ không còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những thành công gặt hái được và những trọng kính người ta dành cho mình, cụ xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt bỏ thẳng thừng những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực đoan, độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho mình dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được, hay nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà việc nào xem ra cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ, bởi vì ngài là thầy cả cơ mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà. Thế nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình: Cha xây, rồi cha lại cất. Xây nhiều thì cất cũng nhiều. Trái lại, nếu không xây, thiên hạ bảo cha cù lần: Bao nhiêu năm cha ở với chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha chẳng lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi. Rất lơ mơ về nghề xây dựng, nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến độ quỷ thần cũng không lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay đào ao thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào những ngành nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang nặng tính cách khoa học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao đời sống. Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì cha sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách khác: Đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày mà thôi.
Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao để dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập. Qua những cuộc tiếp xúc, gã cũng nhận thấy tương tự như vậy: Một cha sở, nếu vui tính thì bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh và ít đi lại thì bị khép vào hạng người kiêu kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả. Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói
- Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, Béo chê béo trục béo tròn, Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ xứ phải là người khôn ngoan như Salômon, bằng không thì sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salômon chăng nữa, biết đâu lại chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và rắc rối quá đi thôi!
Sau khi đã rảo qua một vài mâu thuẫn từ bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh bởi bản chất hay căn tính của linh mục.
Thứ nhất, con người linh mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Thế nhưng, kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Vừa nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải nắm chặt lấy bàn tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của con người. Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ dàng chút nào. Vì thế, trong khi thi hành bổn phận, cụ xứ càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng phải siêu thoát đối với đời bấy nhiêu, chứ không được quyến luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc đời chỉ là quán trọ trong hành trình tiến về Nước Trời vì chỉ Nước Trời mới là quê hương đích thực mà thôi. Hay như người ta thường bảo: Thân xác là bụi tro, danh vọng là mây khói và tiền bạc là phân bón.
Ý thức mình chỉ là một con người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện chính trị, những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự, thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức mạnh của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết: Chính lúc tôi yếu lại là lúc tôi mạnh. Những kẻ muốn tẩy trừ Giáo hội ra khỏi thế giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với biết bao nhiêu quyền lực và sức mạnh, họ cũng vẫn không thể nào đè bẹp nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị sụp đổ.
Linh mục không phải chỉ là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con người vừa được yêu lại vừa bị ghét. Như trên, chúng ta đã thấy người giáo dân Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu thương và trọng kính. Trong khi đó, linh mục cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức Kitô, cụ xứ trở nên bia cho người ta chống đối. Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý khi thốt lên: Phải bị ghét bỏ mới chính là linh mục đích thực của Đức Kitô. Linh mục bị những kẻ thù của Giáo hội hạ nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là chuyện thường ngày ở huyện. Thế nhưng, linh mục còn bị chính con cái mình, những kẻ được ngài dẫn dắt, quay lưng chống lại và phản bội. Bằng chứng là những đơn kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng và nổi cộm. Thậm chí, có linh mục đã phải ngậm đắng nuốt cay mà than thở cả tiếng, khi đời mình đã ngả bóng về chiều: Bạc như dân, bất nhân như lính.
Sau cùng, trong khi thi hành chức vụ, linh mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một loại mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi. Đúng thế, đôi khi cụ xứ cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là của riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những công việc đem lại lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách: có cũng như không.
Đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, cụ xứ cũng như linh mục phải có một trái tim rộng mở để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách đến những người nghèo túng khố rách áo ôm. Tình yêu của ngài phải là một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách. Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng lại không được phép đóng lại trên ai cả. Ngài chẳng phải là của riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.
Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình: Buổi chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui làm sao. Tiếp nối là giờ sinh hoạt của giới thiếu nhi: Những tiếng hát hồn nhiên và những nụ cười ngây thơ của lứa tuổi thiên thần mới rộn rã làm sao…Nhưng rồi sau đó, mọi người ra về và cánh cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi và âm thầm bước vào căn phòng nhỏ hẹp của mình. Có nói thì cũng chỉ nói với chính mình. Có nhìn thì cũng chỉ nhìn hình bóng mình in trên tường vách. May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã cứu ngài một bàn thua trông thấy, bằng không thì chỉ còn nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!
Để kết luận, gã xin ghi lại ý kiến sau đây của cha Chevrier. Ngài nói: Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới. Người ta ngạc nhiên bèn hỏi: Ngôi thánh đường nào vậy? Ngài nói tiếp: Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Sở dĩ như vậy vì đời sống đạo đức của người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh thiện của các linh mục và nhất là các…cụ xứ! Gã Siêu
Nếu gã nhớ không lầm, thì hình như Nguyễn Văn Vĩnh có viết trên “Đông Dương Tạp Chí” như GãSiêu 21
Nếu gã nhớ không lầm, thì hình như Nguyễn Văn Vĩnh có viết trên “Đông Dương Tạp Chí” như sau: - Dân An Nam ta cái gì cũng cuời. Vui cũng cuời, mà buồn cũng cuời. Ăn theo chiều hướng ấy, gã bèn suy ra rằng: - Dân An Nam ta cái gì cũng cười. Động một tí là vén môi cuời tồ tồ. Đây cũng có thể là một điểm khác biệt giữa ta và tây. Ngày nọ, có một linh mục người Canada trịnh trọng thông báo cho đám học trò của mình như sau:
- Tôi rất lấy làm đau buồn báo tin cho các anh hay, cha Bolumburu của chúng ta mới qua đời… Vừa nghe tới đây đám học trò bèn cười ồ lên, khiến cho vị linh mục người Canada ấy giận tới mức đỏ mặt tía tai, bỏ cái một về phòng của mình: - Tôi không hiểu được tại sao các anh lại vô duyên đến thế. Trong khi tôi báo một tin buồn thì các anh lại cười ồ. Đám học trò bèn phải cả tiếng lại dài hơi cắt nghĩa cho vị linh mục người Canada ấy hiểu rằng: - Chúng con cười, không phải vì tin buồn được cha loan báo, nhưng chúng con cười chỉ vì tên gọi Bolumburu nghe kỳ quá… Miết rồi vị linh mục người Canada ấy mới hiểu và cảm thông cho cái cười của người An Nam mình. Mở tự điển tra cứu, gã ghi nhận được hai nghĩa chính của động từ cuời: Nghĩa thứ nhất theo “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, thì cười là động tác nhích môi, hé miệng, nhe răng, phát ra tiếng hay không phát ra tiếng, để bày tỏ sự vui mừng hay một một ý tứ gì đó. Tuy nhiên, hai chữ “nhe răng” ở đây xem ra bất ổn vì còn đâu nữa vẻ đẹp của những nụ cười mỉm chi, chẳng hạn như cái mỉm cười đầy vẻ bí ẩn đã được Léonard de Vinci diễn tả qua tác phẩm “La Joconde”. Gã thấy nàng Monna Lisa đâu có…nhe răng. Còn theo tự điển “Larousse” của Pháp, thì cười là hành vi biểu lộ niềm vui bằng cách chuyển động môi miệng và thường phát ra tiếng.
Tiếng Việt Nam của chúng ta rất phong phú, để diễn tả ý nghĩa thứ nhất này, gã đếm được cả thảy 80 kiểu cuời khác nhau, như cười duyên, cười giòn, cười khúc khích, cười chúm chím, cười ruồi, cười toe toét, cười tủm tỉm, cười xòa…
Nghĩa thứ hai cũng theo “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, thì cười là chê bai, chế nhạo, khinh khi, đe dọa, thái độ có khi tỏ ra bên ngoài bằng tiếng cười và vẻ mặt, có khi lại dấu kín trong lòng:
- Cười người chớ có cười lâu, Cười người hôm trước, hôm sau người cười.
Cũng trong ý nghĩa thứ hai này, gã đếm được gần hai mươi kiểu cười khác nhau, như cười gằn, cười khảy, cười mỉa, cười nhạo, cười thầm…
Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, gã chỉ xin bàn tới hành động cười với ý nghĩa thứ nhất mà thôi.
Trong một bài viết mang tựa đề “Chuyện lạ về cười” được đăng trên báo “Kiến thức ngày nay”, tác giả cho biết:
Vào ngày 03 tháng 01 năm 1962, một dịch cười kỳ lạ đã bộc phát trong một trường học do các nhà truyền giáo phụ trách tại một ngôi làng gần Bukoba, thuộc nước Tanzanie, gần hồ Victoria.
Những triệu chứng đầu tiên là cười và khóc xuất hiện ở những học sinh nam và nữ trong độ tuổi thiếu niên. Bệnh phát ra đột ngột với những tràng cười dài từ vài phút đến nhiều giờ, thậm chí kéo dài đến 16 ngày, bị ngắt quãng bởi những đợt lắng dịu tạm thời. Ngay cả khi không cười, các bệnh nhân cũng tỏ ra kích động, không thể tập trung ý chí. Những tiếng cười cuồng loạn gây xáo trộn đến độ trường học phải đóng cửa vào cuối tháng sáu.
Khi trở về làng, các bệnh nhân nữ lây truyền bệnh cười cho bạn bè và người thân. Chỉ những người đàn ông trưởng thành và dân làng có học vấn cao mới chống lại được sự lây nhiễm này. Dù không làm chết người, căn bệnh cười ấy lan tràn khắp vùng trong khoảng hai năm rưỡi.
Do không tìm ra một triệu chứng nào thuộc về thể xác, những viên chức thuộc cơ quan y tế công cộng loại bỏ nguyên nhân nhiễm trùng và đầu độc qua thực phẩm. Họ kết luận cơn bệnh mang nguồn gốc tâm lý: có thể đây là trường hợp cuồng loạn tập thể.
Những bệnh dịch tương tự từng bộc phát vào thời trung cổ ở châu Âu. Liệu chúng ta có được miễn dịch chống lại sự lây nhiễm của tiếng cười ? Hầu như không ai có thể nín cười trước một màn trình diễn hài hước hay một vở kịch vui trên truyền hình. Cái cười tước đi lớp vỏ bọc xã hội và văn hóa, khiến chúng ta để lộ ra nền tảng sinh học đầu tiên trong những họat động xã hội.
Những “dịch cười” như trên thật là họa hiếm và rất ít khi xảy ra. Trong đời thường, hằng ngày chúng ta vẫn cười và vẫn chiêm ngắm những nụ cười của bàn dân thiên hạ. Vậy nụ cười đem lại những hậu quả nào và chúng ta phải cười ra làm sao ? Đó là những vấn đề gã xin đề cập đến.
Trước hết, gã có thể xác quyết được rằng:
- Người là một con vật biết cười.
Hay như Rebelais đã nói:
- Cười là đặc tính của con người.
Thực vậy, để biểu lộ những tình cảm, con vật thường sủa, thường hót, thường gầm gừ, thường vẫy đuôi hay thường…nhảy cẫng lên. Chỉ con người mới biết biểu lộ tình cảm của mình qua tiếng cười mà thôi.
Cũng trên báo “Kiến thức ngày nay”, thì cách đây không lâu, Jaak Pansepp và Jeffrey Burdorf, hai nhà tâm lý tại trường đại học Bowling Green State, bang Ohio bên Mỹ, đã dành phần lớn thời giờ để làm một công việc khá ngộ nghĩnh, đó là gãi nhẹ lông các chú chuột ở phòng thí nghiệm để làm cho chúng…cười.
Họ đã sử dụng một máy khả dĩ ghi lại được những âm thanh có tần số cao như của loài dơi và họ sửng sốt khi thấy con chuột được “cù léc” thoạt đầu phát ra một tiếng kêu la như khi bị kích thích tình dục. Nhưng sau khi cù hàng trăm lần và ghi lại thì họ lại cho rằng đó là tiếng cuời khúc khích vì khoái trá và vui thích. Sở dĩ như vậy vì họ muốn chứng minh cho bàn dân thiên hạ thấy rằng loài chuột cũng biết cười rúc rích.
Thế nhưng, báo chí và mọi người thì lại cho đó là một trò đùa để cười cợt. Vì thế cho tới bây giờ, nụ cười và tiếng cười vẫn là một nét đặc sắc của con người, bởi vì chỉ con người mới biết cười mà thôi.
Tiếp đến là giá trị của nụ cuời. Người xưa đã bảo:
- Nhất tiếu thiên kim. Một nụ cuời đáng giá ngàn vàng.
Câu nói này bắt nguồn từ một điển tích cũ như sau:
U Vương đời nhà Châu là một ông vua hoang dâm vô độ, lại rất say mê nhan sắc của Bao Tự. Thế nhưng, Bao Tự suốt ngày buồn bã, chẳng bao giờ cười lên được một tiếng. Vì thế, ông rất băn khoăn lo lắng, sẵn sàng làm đủ mọi trò và mọi cách cốt sao đem lại cho Bao Tự một nụ cười.
Nghe nói Bao Tự thích nghe tiếng lụa xé. Thế là ông liền truyền cho nội thị mở kho và mỗi ngày lấy ra hàng trăm tấm lụa mà xé cho Bao Tự nghe, nhưng Bao Tự vẫn chẳng cười.
Thất bại nhưng không tuyệt vọng, ông truyền cho bá quan văn võ trong triều, ai có cao kiến chi làm cho Bao Tự cười, dù chỉ một lần mà thôi, cũng sẽ được trọng thưởng ngàn vàng. Quách Công bèn hiến kế: đốt lửa ở Ly Sơn và nổi trống dối gạt các chư hầu, thế nào Bao Tự cũng cười.
Số là để phòng ngừa giặc Hung nô và rợ Khương Nhung ở phía bắc tràn xuống kinh thành quấy nhiễu, các đời vua trước đã cho xây những phong hỏa đài ở Ly Sơn và đặt những cỗ trống lớn. Mỗi khi thấy lửa ở phong hỏa đài đốt lên và nghe tiếng trống nổi dậy, các chư hầu biết đó là hiệu lệnh báo động ở kinh đô có loạn, phải đến tiếp cứu.
Nghe theo lời Quách Công, U Vương đã phế bỏ cả luật lệ của cha ông ngày trước, làm nhục chư hầu, để cốt được tiếng cười của Bao Tự, lại còn đem ngàn vàng thưởng ban cho Quách Công, kẻ đã bày kế giúp cho Bao Tự cười. Nhưng rồi sau này, khi bị rợ Khương Nhung tấn công, U Vương truyền đốt lửa và nổi trống ở Ly Sơn, nhưng chẳng chư hầu nào chịu đến tiếp cứu. U Vương bị giết, còn Bao Tự thì bị bắt.
Có lẽ rút ra từ chuyện trên mà người xưa còn bảo:
- Nhất tiếu khuynh thành, tái khuynh quốc.
Có nghĩa là cười…một phát thì nghiêng thành, cười thêm…một phát nữa thì nghiêng nước, để nói lên rằng đờn bà đẹp thường làm cho hư nhà hại nước là thế !!!
Nói như vậy thì chắc chắn sẽ bị coi là tiêu cực và bôi bác, nếu không muốn nói là sẽ bị kết án là báng bổ phe đờn bà con gái.
Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho thấy nụ cười có khi còn đáng giá hơn cả ngàn vàng. Vì thế, người ta đã mở những trường lớp để dạy…mỉm cười, để dạy…mần duyên. Một thiếu nữ dự thi hoa hậu, nếu không có được một nụ cuời tươi như nụ hồng thì khó mà được lọt vào những cặp mắt cú vọ của ban giám khảo. Một cô gái phục vụ tại siêu thị, mặt mũi lúc nào cũng nhăn nhó, không biết chiêu đãi “các thượng đế” bằng những nự cuời của mình, thì làm sao bán được hàng. Một trong những lý do khiến Thái Lan hấp dẫn được du khách vì người Thái nào cũng sẵn sàng mỉm cười trước những người ngoại quốc và đất nước họ thường được tuyên truyền và quảng cáo là “Xứ sở của những nụ cười”.
Một kinh nghiệm khác cụ thể hơn đã được cha ông chúng ta phát biểu như sau:
- Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
Kinh nghiệm này đã được giới y khoa từ cổ chí kim, từ đông sang tây xác nhận. Thực vậy từ thời cổ đại, nụ cười đã được coi như là một liệu pháp, một phương pháp trị liệu. Hippocrate, ông tổ của ngành tây y, đã dùng nụ cười để chữa trị cho những cái đau của thể xác và tinh thần.
Vào thế kỷ thứ hai, danh y Galien đã nhận xét:
- Những phụ nữ vui tính lành bệnh nhanh hơn những phu nữ u sầu.
Vào thời trung cổ Henri de Mandeville cũng dùng nụ cười để chữa bệnh. Ông đánh giá nụ cười làm tăng thêm sức khỏe cho cơ thể, trong khi sự buồn phiền làm cho sức khỏe bị suy yếu.
Hiện nay, những nhà sinh lý học thừa nhận một số tác dụng tích cực của tiếng cười như thư giãn, xoa bóp nội tạng…Vì vậy, “liệu pháp cười” có thể giúp các bệnh nhân tìm lại sức khỏe thể chất và tinh thần.
Bác sĩ người Pháp Pierre Vachet dùng nụ cười làm phương pháp chữa bệnh cho các thân chủ của mình và ông nhận thấy họ mau khỏi hơn những bệnh nhân khác. Thời xưa, những anh hề thường chiếm một vị trí quan trọng bên cạnh các vị vua. Vai trò của họ là mua vui cho triều đình.
Gần đây, nhà báo Mỹ Norman Cousins, tổng biên tập tờ Saturday Riview, khẳng định nhờ những màn hài hước. ông được chữa khỏi bệnh viêm khớp đốt sống, một chứng bệnh được coi như không chữa được. Ông nhận thấy rằng 10 phút cười giòn mang lại cho ông 2 giờ ngủ ngon không đau đớn và ông đã kết luận:
- Nụ cười là một liều thuốc mạnh tác động tích cực đến tinh thần, thể xác và cảm xúc của chúng ta.
Người ta cũng thừa nhận một cách khoa học rằng nụ cười kích thích các endorphine, một thứ morphine tự nhiên sinh ra từ hệ thần kinh của chúng ta và có tác dụng chống đau nhờ vào hậu quả gây tê…Ngoài ra, nụ cười còn ảnh hưởng tới việc hô hấp, làm giãn nở phế nang, kích thích sự tiêu hóa, trừ tiệt chứng táo bón. Nụ cười làm phát sinh adrénaline, giúp chúng ta nhanh nhẹn và nhạy cảm, chống lại chứng trầm uất và mất ngủ…
Ngày no, gã đi khám bệnh và phát hiện mỗi trái thận đều có một cục sạn nhỏ. Gã bèn hỏi:
- Liệu có phải mổ để lấy ra hay không ?
Bác sĩ trả lời:
- Vì nó nhỏ, nên không cần phải mổ.
Gã hỏi thêm:
- Vậy tôi phải làm gì ?
Bác sĩ trả lời:
- Có ba việc cần phải làm ngay: Thứ nhất là uống thuốc theo toa, thứ hai là uống nhiều nước vì nước chảy đá mòn, thứ ba là đừng lo nghĩ nhưng hãy…cười nhiều.
Chính vì thế có người đã nói:
- Một ngày không cười là một ngày vô ích nhất.
Và:
- Người hay vui cười mới thực sự là người hiền lành.
Gã xin kể ra những lợi ích của nụ cười bằng một sưu tầm như sau: 1- Cười là một thần dược trị được cả bệnh thể xác lẫn bệnh tâm hồn. 2- Cười làm cho ta cởi mở bao dung và có một tinh thần lạc quan yêu đời. 3- Cười làm tăng hồng huyết cầu và lá lách hoạt động tích cực hơn. 4- Cười làm tăng sinh lực, khiến ta vui vẻ lanh lợi và thêm lòng yêu thương. 5- Cười làm cánh cửa cảm thông rộng mở thật dễ dàng với mọi người. 6- Cười mím, cười nụ, cười ra tiếng làm khuôn mặt chúng ta dễ mến hơn. 7- Cười làm thư giãn các bắp thịt trên mặt, tan biến những căng thẳng. 8- Cười làm toàn thân được nhẹ nhàng thanh tịnh, thư thái và an lạc. 9- Cười giúp ta tránh được tâm trạng cay đắng khổ đau, phản ứng kịp thời. 10- Cười giúp cho tâm hồn lành mạnh và thêm khả năng sáng tạo mọi việc. 11- Cười nhiều giúp ta biết tự kỷ có trách nhiệm và thực tế hơn. 12- Cười nhiều tránh được buồn nản, dễ thành công vì tiếng cười là trí tuệ. 13- Cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn, là biết nghệ thuật sống. 14- Cười dễ vui theo cái vui của người khác, hoan hỉ như mình thành đạt vậy. 15- Cười có thể làm tan di nỗi bực mình, buồn phiền của người đối diện. 16- Cười giúp ta vui sống hiện tại, quên hết quá khứ và lo lắng về tương lai. 17- Cười giúp ta trở về với chính mình, tức là thực sự trở về đời sống mới. 18- Cười có nhiều lợi ích cho ta về sức khỏe, tinh thần và cảm xúc tâm linh. 19- Cười giúp hồn nhiên tươi sáng,có nhiều khả năng chống lại bệnh tật. 20- Cười giúp các tế bào loại T trong máu tăng lên, có sức đề kháng mạnh. 21- Cười làm giảm phong thấp, các khớp xương đỡ bị sưng và chống sưng. 22- Cười làm giảm các chất hóc môn (Cortisone) trong thận, sẽ sống khỏe hơn. 23- Cười tránh được nhức đầu, đau tim, cao huyết áp và mỡ trong máu. 24- Cười giúp tống khứ các khí dơ, thêm nhiều dưỡng khí cho bộ não thông minh. 25- Cười làm tăng máu, chống viêm khớp, làm con người luôn tỉnh táo. 26- Cười tạo điều kiện cho ánh sáng nội tâm thể hiện, thấu suốt mọi sự vật. 27- Cười giúp những nét phiền muộn tan biến, gương mặt trở nên tươi trẻ ra. Cũng trong chiều hướng ấy mà rải rắc khắp nơi trên thế giới, người ta đã bắt đầu tổ chức những “festival cười”.
Tại Đan Mạch, cứ đến Chúa nhật thứ hai của tháng giêng là mọi người lại tụ tập về quảng trường Town Hall của thành phố Copenhagen để…cười sảng khóai.
Câu lạc bộ cười lần đầu tiên được sáng lập ở Bombay năm năm trước đây bởi bác sĩ tâm lý Ấn Độ Madan Kataria. Tiếng tốt về câu lạc bộ này đã nảy sinh ra một ý tưởng tương tự ở anh công nhân quảng cáo thất nghiệp Đan Mạch, Jan Thygesen Poulsen. Và anh ta đã trở thành người khởi xướng câu lạc bộ cười ở đất nước này.
Tại Québec bên Canada, từ nhiều năm nay đã xuất hiện “festival chỉ để cười”. Tại festival này, mọi người đều có đủ thời giờ để lập cho mình một kiểu cười chẳng giống ai. Tại Pháp cũng rộ lên “Festival hóm hỉnh” ở Seine-et-Marne. Và mới đây hồi cuối tháng 6 năm 2005 tại Hồng Kông, người ta cũng đã tổ chức đại hội…cười.
Tuy nhiên, có một điều khác cũng không kém phần quan trọng, đó là hãy đem lại cho người khác những nụ cười lành mạnh, bởi vì chính những nụ cười này sẽ đem lại cho họ niềm an ủi trong những khi đau khổ và niềm khích lệ trong những lúc tuyệt vọng.
Trong một trại phong nọ, các bệnh nhân hầu như bị quên lãng. Họ sống lầm lũi trong đau khổ cả thân xác lẫn tâm hồn. Những tháng ngày còn lại trên trần gian chỉ là khoảng thời gian vô vọng, buồn tẻ và cô đơn. Duy chỉ có một người đàn ông luôn mỉm cười vui tươi.
Vị nữ tu chăm sóc bệnh nhân hết sức ngạc nhiên và cố tìm hiểu nguyên nhân. Cuối cùng vị nữ tu này cũng khám phá ra được lý do, đó là mỗi ngày đều có một phụ nữ thập thò ngoài hàng rào chờ người đàn ông đến và bà nở một nụ cười thân ái, trìu mến, đầy yêu thương dành cho ông. Người đàn ông ngày ngày ra gần đó để đón nhận nụ cười ban sức mạnh và tạo niềm hy vọng như hoa xuân đón ánh mặt trời, như cây cỏ hứng giọt sưong mai. Khi vị nữ tu đến gần, người đàn ông nói: - Vợ tôi đấy.
Sau một lúc yên lặng, ông ta nói tiếp: - Trước khi vào đây, cô ấy đã cố chạy chữa cho tôi. Một thầy lang đã cho tôi một loại dầu và mỗi ngày cô ấy thoa lên mặt tôi. Cô ấy cũng không quên chừa lại một khoảng nhỏ để đặt vào đó một nụ hôn. Nhưng rồi tất cả đều vô hiệu, người ta đã đưa tôi vào đây. Cô ấy đã không bỏ tôi đơn độc, trái lại mỗi ngày cô ấy đều đến để mỉm cười với tôi, mang lại cho tôi sinh khí để sống. Nhờ thấy cô ấy mỗi ngày mà tôi còn ham sống và như sơ đã thấy đấy, tôi đã sống rất vui tươi.
Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Có một anh hề chết đi và được đưa lên trước tòa Chúa để chịu phán xét. Chúa hỏi:
- Anh đã làm được những gì trong cuộc sống ở trần gian.
Anh ta lo toát cả mồ hôi hột vì thấy mình chẳng làm nên trò trống chi cả. Anh ta bèn thưa lên:
- Lạy Chúa, con chỉ làm cho người ta cười mà thôi.
Chúa liền phán:
- Này con, hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho con, vì khi con làm cho người ta cuời và vui sướng, thì đó là con đã làm cho chính Ta cười và vui sương rồi đó.
Như vậy, muốn được hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau, chúng ta hãy cười…và cười luôn mãi, đồng thời cũng đừng cố gắng đem lại cho người khác những nụ cười trong sáng. Gã Siêu
Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ nhất GãSiêu 22
Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm. Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này. Trước hết, danh có nghĩa là tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên hạ có thể phân biệt chúng ta với người này người nọ. Phép đặt tên của người Việt Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những điểm chính đã được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con người Việt Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà hơn một tí. Theo tác giả, ngày xưa nước ta không có hộ tịch hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt chào đời không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo nó là con giai hay con gái. Riêng với những gia đình hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như thằng Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông “ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ thế, cứ thế cho đến lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho. Còn ngày nay thì khác, vợ vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai hay là gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con. Và khi đặt tên cho con, cha mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú bác, ông cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng không thì rắc rối to. Gã đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà, liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp: - Bộ hết tên rồi sao mà đặt tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh ra ông ngoại của thím tao. Và thế là trong giấy tờ đứa bé có một tên, còn trong đời thường thì nó lại được gọi bằng một tên khác. Tuy nhiên, nhiều người khi oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của mình và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy! Hầu như dân tộc nào cũng thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi ít ra cũng phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với con cái. Chẳng hạn trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là Adong và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa là con người. Sau đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã chớp chớp đôi mắt khi gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng là Eva, có nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn Đức Kitô đã cải tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng. Người Việt Nam cũng thế, cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình vào tên gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi vì đời nhà Chu bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý Quỳ và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên những bậc hiền sĩ. Một tên đầy đủ thường gồm có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên. Trước hết là họ. Họ từ tổ tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con lấy họ của bố, nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một trong những người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con ra mà không có bố. Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường dùng mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích chữ Thị, vì xem ra có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm phần mộng mơ, lãng mạn và âm vang leng keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy… Viết tới đây, gã rất lấy làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái mình, chẳng hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy và trên cả tuyệt vời nữa! Sau cùng là tên. Đây là phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên được chọn để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó. Đối với con gái, người ta ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên…hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với con giai, người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh, nói lên bổn tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để đặt cho con, như Tý, Sửu, Dần, Mão… Cũng giống như dân Do Thái, người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì người ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo. Người ta gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo gái. Chính vì sự kiêng tên, mà nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành Luông… Khi có tí chức, tí quyền hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng hạn như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi người ta dùng chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông Huyện Đặng, cụ Cử Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên Đổ. Bình thường, chỉ những kẻ bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế tại các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm để mua cho mình tí chức như chân nhiêu, chân xã hầu được bàn dân thiên hạ gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của mình. Đặc biệt khi vác lều chõng đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí sinh không được dùng những chữ dính dáng đến tên của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm húy, thì dù bài văn có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn mang lấy vạ vào thân. Tuy nhiên, đã có danh thì cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được nhiều người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa lá cành. Trần xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít, như ông giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với đời. Vì thế, chữ danh, ngoài cái ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng tăm. Đứng trước cái danh này, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe: tiêu cực và tích cực. Phe thứ nhất mang tính cách tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một thứ phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như tục ngữ đã bảo: - Công danh bánh vẽ, giàu sang chiêm bao. Hay như Tản Đà cũng đã viết:
- Vèo trông lá rụng đầy sân, Công danh phù thế có ngần ấy thôi. Bởi đó, người ta rất e dè và ngần ngại: - Cây cao thì gió càng lay, Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.
- Làm trai quyết chí tu thân, Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo. Điều quan trọng là phải chí thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới, mà lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm niệm” đã khuyên giới trẻ: - Cần sự nghiệp, chứ không cần công danh. Hay như ca dao cũng đã nhắc nhở: - Công danh đeo đuổi mà chi, Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông. Thậm chí có người còn phớt lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa cuộc đời mình:
- Chen chúc lợi danh đà chán ngắt, Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao. Phe thứ hai mang tính cách tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông luôn hô hào: - Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ lần. Đường đường là một kẻ trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh thì thà chết quách đi cho rồi:
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt cũng như cho đời biết tên:
- Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông. Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói chung là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với nhau. Người ta thường hay lợi dụng cái danh của mình để vơ vét về cho thật nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm cho người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao, lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách, hay phải cúi gập người xuống. Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con nít cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều thấu triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca dao hôm nay đã sánh ví:
- Tiền là tiên là phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khỏe của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân, Là cán cân của công lý. Tự bổn chất, có danh có tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại rất thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông chính trị gia nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi của mình. Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng ngăn ngắn. Tuy nhiên, vấn đề trở nên nhiêu khê và rắc rối ở chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng cách nào ? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi sông” ? Trước hết, gã thấy có những kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo lên. Chẳng hạn như một anh chàng sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ ngay được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên như diều gặp gió. Đường công danh mở toang, anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô tô con phom phom đi vào. Đúng là: - Có người nhờ vợ nên ông, Lắm người vì vợ mất không cơ đồ. Tiếp đến, gã thấy có những kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo kiểu “phe ta thổi phồng phe mình”. Chẳng hạn như một anh thợ hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải ngẩn tò te, lò mò muốn biết. Sau cùng, gã thấy có những kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ tu kia cũng có dăm bảy đường: - Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ hai tu chợ, Thứ ba tu…nhà dòng. Đúng thế, có những kẻ ra công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh. Chẳng hạn mấy cô cậu học trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài và cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi. Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam, không ít thì nhiều, cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra lò”, không hiểu họ sẽ dẫn đất nước này đi về đâu ? Quay cóp mà thôi chưa đủ, mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ, văn bằng kia. Bởi đó, thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình, mấy ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung đùi, rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được cái ghế mình đang ngồi. Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải kêu trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về những ông tiến sĩ giấy:
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ, Cái giá khoa danh ấy mới hời. Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe, Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi. Gã biết một tên nọ, học mãi học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về phương diện mánh khóe và xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả. Lúc nào trong chiếc “cạc táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và chức vụ khác nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để hạ gục nhanh con mồi. Chẳng khi hạn đến với mấy ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự yên lặng của hắn, bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông quan kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho hắn. Tuy nhiên, trong cái xã hội đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã đứng lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh vọng đính kèm, thì danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của bản thân. Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật có kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau: Ở Cần Thơ, có ba chị em gái sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã theo mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là “chị em xe hốt rác”, nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai của mình trên giảng đường đại học. Cô chị tích cóp tiền thu gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học phí bảng A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000 đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội nghiệp bà mẹ quá lo lắng không biết còn bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không? Nêu sự kiện trên, tác giả đã chua thêm vào đó chút suy tư vụn vặt của mình như sau: Thiết nghĩ, các bằng cấp mà ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua danh phận của mình một cách danh dự và chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở để đạt được bằng thực học. Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác sĩ chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái “đạo học” ngày nay. Có danh một cách đường đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái danh ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu công sức mới có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều đi đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân thì bại, danh thì liệt, như người xưa đã bảo: - Kiếm củi ba năm thiêu một giờ. - Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Đêm nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là tình và tiền. Có kẻ vì tình, hay nói toạc móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá nhiều bằng chứng về vần đề này: Ngày xưa vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị vua Thành Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến cho sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở thôn Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến cống, đã phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy, Câu Tiễn liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị rơi vào tay Việt Vương Câu Tiễn. Còn ngày nay cũng không thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập niên sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên là Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller, khiến cho toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ như vậy vì cô gái điếm này là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức tối mật. Và mới đây, tổng thống Bill Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky. Ngoài ra, cũng có kẻ vì tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham, chẳng thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì chẳng nói làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn bán, tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức vụ, bỏ nhầm công quĩ vào túi để xài riêng…Thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng không lường nổi. Đây cũng chính là một con đường ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù tội, còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh vụn. Có người đã leo lên tới tột đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng vì cái túi tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những khoản tiền “bồi dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy. Quả là chua xót và đắng cay như lời Kinh Thánh: - Phù hoa trên mọi phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Để kết luận, gã xin mượn lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật. Dân Trung quốc có câu: Người biết đạo, tất không khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất không thích tiếng tăm lừng lẫy. Hay như: Người đi không cầu cho có bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng dội mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử chỉ cần làm nên công, rồi danh ắt sẽ đến. Gã Siêu
Muốn phát triển, phải cần kiệm, đó là qui luật của muôn đời. Nhìn ra thế giới, gã nhận thấy thiên GãSiêu 23
Muốn phát triển, phải cần kiệm, đó là qui luật của muôn đời. Nhìn ra thế giới, gã nhận thấy thiên hạ đã sống qui luật này một cách rất y là nghiêm ngặt và chặt chẽ. Thực vậy, ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu, còn muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Thảo nào mà nước Mỹ luôn đứng đầu sổ trong lãnh vực phát triển kinh tế. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy. Đồng thời: Ăn đâu hết nấy. Chứ không để thừa mứa, cho heo và cho chó vét cù, hay xơi tới xơi lui mà vẫn cứ còn tồn…kho. Người ta chẳng bao giờ chiều theo ý thích của con nít, đòi gì được nấy, vì đó chỉ là một cách thương hại, nghĩa là thương trẻ, nhưng lại làm hại trẻ nhiều hơn. Thảo nào mà dân Phù tang, con cháu Thiên hoàng, đã trở thành một cường quốc giàu mạnh nhất tại Á châu, làm cho nhiều nước phương Tây cứ đứng nhìn mà phát…thèm. Ở bên Israel cũng rứa. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu đại khái: Hãy tiết kiệm điện. Hãy tiết kiệm nước…Còn tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ phắt vào lương cho những ai đến làm việc chậm trễ. Thảo nào mà dân Do thái, mới lục đục kéo nhau về lập quốc từ năm 1945, sau thế giới đại chiến lần thứ hai, thế mà ngày nay đất nước này đã trở nên giàu có và phát triển, thậm chí thu nhập bình quân đầu người lên tới 17.000 mỹ kim một năm, khiến những người Việt nam, khố rách áo ôm như gã, sông trên quê hương yêu dấu và thân thương này, có nằm mơ cũng chẳng thấy được như vậy. Đã nói chuyện bên Tây, thì cũng phải nói chuyện bên Tàu, một anh hàng xóm khổng lồ nằm sát cạnh chúng ta. Hoàn cảnh kinh tế không khá hơn chúng ta bao nhiêu. Thế nhưng, trong những năm tháng gần đây, đã vươn mình để trở thành giàu mạnh. Hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường, dù không bền lắm, nhưng được cái giá rẻ bèo, hợp với túi tiền của bàn dân thiên hạ. Tại đây, người ta đang ra sức tiết kiệm, chống lãng phí và tham nhũng. Tác giả Nguyễn văn Hùng, trong một chuyến đi công tác, đã “mục kích sở thị” thái độ và những việc làm tiết kiệm của người Tàu, đã kể lại như sau: “Trong thời gian làm việc tại thành phố Nam ninh, thủ phủ của tỉnh Quảng tây, chúng tôi được ông Trương Sinh, tổng giám đốc một công ty lớn của tỉnh này, hai lần mời cơm tại nhà hàng. Tôi đặc biệt để ý đến những cử chỉ khá là lạ của vị chủ nhà. Đó là sau mỗi bữa tiệc, ông tổng giám đốc này đều trút toàn bộ thức ăn thừa vào các bao ny lông để mang về trước những con mắt ngỡ ngàng của quí khách. Nhận thấy những ánh nắt khang khác ấy, ông Sinh vui vẻ giải thích: Cũng như Việt nam, Trung quốc còn nghèo, nên đặc biệt coi trọng yêu cầu tiết kiệm, ngay từ việc nhỏ nhất. Ở Trung quốc, tiết kiệm thực sự là quốc sách. Đất nước Trung quốc rộng lớn nên xây dựng và phát triển được là nhờ biết tiết kiệm, và tôi để ý thấy trong cái nhà hàng sang trọng này, chẳng riêng gì ông Sinh, mà còn có rất nhiều thực khách cũng làm như thế…” Thấy người mà nhớ tới ta. Nhìn người mà gẫm đến thân. Té ra quí vị Tây Tàu Nhật trên đây cũng chả làm được điều gì mới mẻ và khác lạ với những điều cha ông chúng ta đã từng dạy bảo. Thực vậy, từ ngàn xưa cần kiệm vốn là một nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, bởi vì các cụ ta đã phán: Tiểu phú do cần, đại phú do mưu. Có nghĩa là giàu nhỏ thì phải cần kiệm, còn giàu lớn thì phải mưu trí. Đồng thời, các cụ ta còn căn dặn con cháu: Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát, lấy ai bạn cùng. Ngoài ra, các cụ luôn chú trọng và hô hào mọi người: Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn. Có nghĩa là hãy tích lũy lúa thóc phòng khi đói kém, hãy tích lũy áo quần phòng khi lạnh giá. Viết đến câu này, gã bỗng nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên về nàng ve và chị kiến, đã được Nguyễn văn Vĩnh dịch thành thơ, mà gã chỉ còn nhớ lõm bõ, đại khái như thế này:
- Ve sầu kê ve ve. Ca hát suốt mùa hè, Đến khi gió bấc thổi, Nguồn cơn thật bối rối. Đang khi đó, chị kiến cần cù tích lũy lương thực trong kho, nên chẳng sợ gì mưa to và gió lớn. Thế nhưng, ngày nay lớp hậu sinh chúng ta, thay vì khả úy, thì nhiều lúc lại khả ố, nghĩa là đáng lẽ lớp đàn em đến sau phải tốt hơn thì lại xấu hơn lớp đàn anh đi trước. Sở dĩ như vậy vì nhiều người trong chúng ta đang sống theo khẩu hiệu: Bóc ngắn cắn dài. Chúng ta làm ra được một đồng nhưng lại tiêu xài những hai đồng, nên công nợ cứ chồng chất và liên tục phát triển, khiến chúng ta không tài nào ngóc đầu lên nổi. Chúng ta thích chơi trội theo kiểu: Vung tay quá trán. Hay: Con nhà lính, tính nhà quan. Chúng ta đã xài thì phải xài cho sộp, xài cho xịn, xài cho sang. Mà sộp xịn sang chính là con đường ngắn nhất để rơi tõm vào cảnh lãng phí. Và lãng phí cũng chính là con đường ngắn nhất làm nghèo gia đình và đất nước. Dĩ nhiên ở đây, gã không hể cổ võ cho tính hà tiện keo kiệt, theo kiểu: Vắt cù chày ra nước. Hay: Đãi cứt sáo lấy hạt đa. Bởi vì từ lâu lắm rồi, gã vẫn nhớ lời khuyên chí lý của một bậc đáng kính: Con ơi, đối với những chuyện cần thiết và hữu ích thì tiền vạn, tiền triệu con cũng đừng tiếc xót. Còn đối với với những chuyện lãng phí, thì một đồng một cắc cũng không, con nhé. Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình. Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: Thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó. Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít. Chắc chắn lúc đó ít ai nghĩ đến một điều sơ đẳng sau đây: Mỗi lon bia bình quân trị giá 5 ký thóc. Ấy thế mà người nông dân “một nắng hai sương “ ở đồng bằng sông Hồng, giỏi lắm một ngày cũng chỉ làm ra được số thóc tương đương trị giá của một lon bia! Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy. Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời. Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “Hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký. Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con. (Dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!! Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70. Tôi đã qua cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước? Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không? Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”. Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian. Người Tây thì bảo: Le temps, c’ est l’ argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng. Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt. Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên. Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó. Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. Gã có một người bạn. Tên người bạn ấy là Văn. Vì có tí tuổi, nên gã thường gọi người bạn ấy là ‘’cụ Văn’’. Cụ Văn của gã là người rất năng nổ, rất bận rộn. Công việc hàng trăm thứ bà giằng đè xuống trên đôi vai ọp ẹp của cụ ấy, đến nỗi có lần cụ ấy đã phải tâm sự ‘’mí’’ gã: Giá như Đức Chúa Trời cho phép mình đi xin thời giờ của những kẻ nhàn rỗi, cất vào tủ lạnh để rồi lúc nào cần thì lôi ra xài chơi. Nhưng Đức Chúa Trời cũng công bằng vô cùng mỗi ngày chỉ có 24 tiếng đồng hồ, muốn kéo dài thêm cũng chẳng được. Trước nỗi búc xúc của cụ ấy, gã chỉ biết cười ruồi mà an ủi: Ôi dào, đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày là cái chắc và việc nhà Đức Chúa Trời thì có bao giờ mà thiếu. Nhưng Đức Chúa Trời lại rất lòng lành. Ngài đâu có đòi chúng ta phải làm ông ba bị, sáu tay mười hai con mắt để ôm mọi thứ vào mình. Thôi mà, thư giãn đi một tí cho đời còn thấy màu hồng. Chả biết lời phát biểu của gã có bị kết án là lãng phí thời gian hay không và nhất là có xúc phạm đến nhiệt tình hăng say của cụ ấy hay không thì để gã hỏi lại cụ ấy cái đã. Vậy xin hạ hồi phân giải. Riêng bản thân thì một ngày gã đã tiêu xài biết bao nhiêu phút giây cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí… Còn thời giờ làm việc một cách nghiêm văn chỉnh thì chỉ được tẻo tẹo mà thôi. Không hiểu mai này khi tính sổ cuộc đời với Đức Chúa Trời thì sẽ phải nói sao đây? Ai có kế gì hay thì làm ơn làm phước ‘’méc’’ giùm cho gã biết với nhé. Bảo đảm sẽ hậu tạ. Còn bây giờ, gã sẽ đưa ra bản thống kê rất khoa học của một kẻ thích đùa tại Đại học Tổng hợp Milan để tất cả cùng cười… mí nhau. Bản thống kê về các thành phần dân số nước Ý, trong đó có một kết luận rất độc đáo về số người thực sự lao động ở nước này. Dưới đây là nguyên văn bản thống kê: Tổng số dân trên toàn nước Ý là 52.000.000 người. Trừ đi số người trên 65 tuổi là 11.750.000 người, còn lại số người có thể lao động là 40.250.000 người. Trừ đi số người dưới 18 tuổi là 14.120.000 người, còn lại số người có thể lao động là 26.130.000 người. Trừ đi số phụ nữ không đi làm là 17.315.000 người, còn lại số người có thể lao động là 8.815.000 người. Trừ đi số sinh viên phải nuôi học là 275.000 người, còn lại số người có thể lao động là 8.540.000 người. Trừ đi số người làm ở các cơ quan không sản xuất là 3.830.000 người, còn lại số người có thể sản xuất là 4.710.000 người. Trừ đi số người thất nghiệp, cùng với số người hoạt động đảng phái chính trị là1.380.000 người, còn lại số người có thể lao động là 3.330.000 người. Trừ đi số quân nhân tại ngũ là 780.000 người, còn lại số người có thể lao động là 2.550.000 người. Trừ đi số người đau ốm, tâm thần, lưu manh, chào hàng, vô công rồi nghề là 1.310.000 người, còn lại số người có thể lao động là 1.240.000 người. Trừ đi số người mù chữ, nghệ sĩ, tòa án… là 880.000 người, còn lại số người có thể lao động là 360.000 người. Trừ đi số tu sĩ, triết gia, thày bói là 240.000 người. Trừ đi số nghệ sĩ, tù nhân là 119.000 người. Vậy số người thực sự lao động còn lại tại nước Ý là 1 người. Khẩu phục tâm phục, g ã xin chào thua và tôn tác giả bản thống kê này lên hàng sư phụ. Còn bạn, bạn nghĩ sao ? Liệu có lãng phí lắm không? Gã Siêu
Hôm nay gã xin nói về những thứ được dùng để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu. Thực vậy, tất GãSiêu 24
Hôm nay gã xin nói về những thứ được dùng để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu. Thực vậy, tất cả những thứ được đội để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu đều được gọi là mũ hay nón. Tuy nhiên, đâu là điểm phân biệt giữa mũ và nón, thì gã xin chịu, chưa thể đưa ra lời giải đáp thỏa đáng. Rất có thể vì thói quen, người ta gọi cái này là mũ, còn cái kia là nón. Hay do thiết kế mẫu mã của nó, chẳng hạn nón thì thường to hơn mũ. Người Việt Nam chúng ta có một loại nón đặc biệt, đó là chiếc nón lá. Chiếc nón lá được trang điểm thêm thành chiếc nón bài thơ cho các cô gái Huế và chiếc nón quai thao cho các cô gái Bắc Ninh hát hò quan họ. Chiếc nón lá được các cô gái Việt Nam đội trên đầu, đi theo với chiếc áo dài hay áo bà ba thì quả là tuyệt vời. Những lúc cần tỏ ra e ấp thẹn thùng thì chỉ cần lấy chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt là ăn tiền. - Trời mưa thì mặc trời mưa, Tôi không có nón, trời chừa tôi ra. Tuy nhiên, có một loại nón gã rất thích, đó là chiếc nón sắt của mấy anh lính. Chiếc nón này thật đa dụng. Có thể dùng làm ghế để ngồi, có thể dùng làm thùng để múc nước, có thể dùng làm nồi để nấu cơm và nhất là có thể dùng làm cối để giã cua, vừa nhẹ lại vừa gọn. Đứa con nít bị mẹ bảo giã cua, giã xong lại còn phải mang cối đi cọ rửa. Sức con nít làm sao có thể bưng nổi cái cối đá, không khéo nó rớt vào chân thì thật…rách việc. Trở lại với chủ đề chiếc mũ. Trải qua dòng thời gian chiếc mũ cũng được biến đổi tùy theo vật liệu, tùy theo hình dáng và tùy theo chức vụ. Chẳng hạn về vật liệu, chúng ta thấy mũ dạ là loại mũ làm bằng len để đội cho ấm khi mùa đông trở về, mũ rơm là cái vòng bện bằng rơm có quấn vải trắng để con trai và cháu nội người chết đội mà chịu tang, như ca dao đã diễn tả:
- Một mai bóng xế cội tùng, Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang. Chẳng hạn về hình dáng, chúng ta thấy mũ nồi hay mũ bê rê là loại mũ tròn giống như cái nồi úp lên đầu, mũ trái bí là loại mũ có khía giống như trái bí, mũ lưỡi trai là loại mũ có vành giống như con sò, con hến, con trai để che mắt cho bớt nắng, mũ chào mào là loại mũ giống như đầu con chim chào mào. Chẳng hạn về chức vụ, chúng ta thấy mũ cử nhân hay mũ tiến sĩ là loại mũ hình vuông, có tua phủ xuống, mà những người thi đỗ thường đội khi lãnh nhận văn bằng. Trong ngày tốt nghiệp, những cô cậu hay ông bà cử nhân và tiến sĩ đều đi thuê áo mão để chụp cho mình những bức hình làm kỷ niệm lúc ra trường với bè bạn và những người thân yêu. Đây quả thực là một dịp tốt để các bác phó nhòm…hốt bạc. Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta thấy bên Phật giáo có mũ ni là loại mũ dành cho các vị sư sãi:
- Nào mũ ni, nào áo thâm, Đi đâu chẳng đội, để ong châm. Bên Công giáo có mũ gàu hay mũ cà cuống là loại mũ dành cho các giám mục khi cử hành thánh lễ “đại trào”. Ngoài ra, ngày xưa còn có thêm mũ ba khía là loại mũ vuông, phía trên có ba cái khía, chẳng biết có phải là để kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi hay không ? Mũ này vốn được các linh mục đội khi cử hành thánh lễ. Trong những năm gần đây tại Việt Nam, nhà nước đã qui định đòi buộc tất cả những người cưỡi xe máy, phóng phom phom trên đường, phải đội mũ an toàn. Đây cũng là một dịp hốt bạc cho những tay chế tạo mũ giả cũng như cho các tay lái buôn. Có những lúc chiếc mũ an toàn lên cơn sốt vì giá cả tăng vùn vụt. Nhưng rồi ba bảy hai mươi mốt ngày, qui định trên lại chìm vào quên lãng, như hòn đá chìm xuống đáy hồ. Ai đội thì cứ đội, ai không đội thì vẫn không đội. Công an cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ, mặc dù dọc theo bên đường, không thiếu những tấm bảng ghi: - Đoạn đường buộc phải đội mũ an toàn. Vô phúc cho những ai không đội mũ an toàn vào những ngày nhà nước phát động chiến dịch, hay vào những ngày anh công an cảnh sát buồn tình và ngứa tay muốn biên phạt mà chớ. Trong ngôn ngữ thường ngày, đôi khi người ta cũng dùng chữ mão và chữ miện để chỉ về mũ. Chẳng hạn mão bình thiên là loại mũ phía trên thẳng được nhà vua đội khi cúng tế, mão cánh chuồn là loại mũ có hai tai dài như cánh con chuồn chuồn được các quan văn đội, mão tì lư là loại mũ dành cho các vị hòa thượng. Còn miện được dùng để chỉ chung các loại mũ được đội trong những lúc hành lễ, như gia miện, quan miện, triều miện…Riêng hai chữ vương miện, gã không biết có phải là loại mũ của nhà vua hay không, nhưng ngày nay nó là một món đồ trang sức được cài lên đầu cô hoa hậu trong những cuộc thi sắc đẹp. Thực vậy, để đoạt được cái vương miện, các cô gái đã phải trải qua nhiều phen sất bất xang bang, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trong những cuộc thi sắc đẹp ngày nay trên cả và thế giới, người ta không phải chỉ chú trọng đến ngoại hình, mà còn chú trọng cả đến kiến thức và cách ứng xử nữa. Thành thử, mặc dù có điểm cao với trang phục áo tắm, hay có những vòng số một, số hai và số ba thật lý tưởng, thì cũng chưa ăn chắc cho lắm, bởi vì còn phải trả lời những câu hỏi ấm ớ hội tề của ban giam khảo, để trắc nghiệm về kiến thức và cách ứng xử. Cũng trong phần thi trắc nghiệm này mà nhiều chuyện vừa buồn lại vừa cười khiến vãi cả nước mắt đã xảy ra trong các cuộc thi sắc đẹp tại Việt Nam, bởi vì có những câu trả lời thật ngây ngô ngốc nghếc không thể chấp nhận được của những người vốn đã đẹp. Chẳng hạn ban giám khảo hỏi: - Trưng Trắc, Trưng Nhị là ai ? Thí sinh đã trả lời: - Đó là hai tài tử ăn khách của Hồng Kông !!! Chẳng hạn ban giám khảo hỏi: - Nếu đạt danh hiệu hoa hậu, em sẽ làm gì ? Đây là một câu hỏi mà hầu như các “lò luyện thi hoa hậu” nào cũng đều cài đặt sẵn cho những con gà của mình. Vì thế, khi được hỏi, thì hầu như các thí sinh đều có một câu trả lời giống hệt nhau: Em sẽ dành một số tiền để giúp đỡ những nạn nhân chất độc màu da cam. Rồi sau đó, em sẽ hiến đời mình để phục vụ những con người bất hạnh… Và thực tế đã cho thấy nói vậy mà không phải vậy đâu, hay nói để mà nói, còn làm lại là chuyện khác. Ta cứ nói vung nói vít để ăn điểm của ban giám khảo cái đã, rồi mọi sự sau đó sẽ… hạ hồi phân giải. Bởi vì trong đời thường không thiếu gì những cô hoa hậu, những cô người mẫu lợi dụng sắc đẹp và tên tuổi của mình để làm những việc não lòng như đi buôn lậu, hay đi làm…gái gọi !!! Xét về lợi ích, như đã trình bày ở trên, chiếc mũ được dùng để bảo vệ cho cái đầu, nó giúp chúng ta che nắng che mưa. Đồng thời còn được dùng để làm đẹp nữa, vì thế đã có biết bao nhiêu kiểu cọ và mẫu mã xuất hiện, nhất là những thứ mũ được dành cho đờn bà con gái. Có chiếc mũ được hình thành như một một bông hoa, có chiếc mũ được hình thành như một tổ quạ, có chiếc mũ được hình thành như một cái đuôi con công. Thôi thì thiên hình vạn trạng làm sao kể ra cho xiết !!! Ngoài ra, chúng ta còn có thể ghi nhận được những lợi ích khác nữa của chiếc mũ, tùy theo quan niệm của từng dân tộc. Chẳng hạn người Việt Nam chúng ta thường bảo: Mũ ni che tai. Chiếc mũ ni dành cho các vị sư sãi, thường được đan bằng len, nếu kéo xuống có thể phủ kín cả đôi tai, để rồi chẳng còn nghe thấy gì nữa. Cử chỉ này muốn nói lên thái độ “phớt tỉnh ăng lê”, an phận thủ thừa trước những đổi thay và thăng trầm của cuộc sống. Ta chui vào cái vỏ ốc của ta. Ta ngủ yên trong tháp ngà của ta: Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời lên xuống anh hỏi làm chi cho mệt. Sau khi đã xét về lợi ích của chiếc mũ, bây giờ gã xin nói đến việc người ta đã dùng chiếc mũ như thế nào ? Vì chiếc mũ là một đồ dùng để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu, nên mỗi khi ra đường người ta vốn thường đội mũ. Đây là một hành động tự ý. Do đó, người ta cũng có nhiều cách đội mũ. Có người thích đội mũ thật ngay thật thẳng. Có người thích đội mũ lệch sang một bên. Và thậm chí có người thích đội mũ ngược, đằng trước lộn ra đằng sau. Chẳng hạn như chiếc mũ lưỡi trai, bình thường cái lưỡi trai ở phía trước để che bớt cho cặp mắt, nhưng bây giờ người ta lại thích đội ngược, nghĩa là cho cái lưỡi trai về phía đằng sau để bảo vệ cái ót, cái gáy của mình. Đội ngược như vậy đôi khi cũng lợi, nhất là khi cần phải cầm máy để chụp hình… Vì chiếc mũ có liên quan tới địa vị và chức tước, nên người ta rất lấy làm vinh dự khi lãnh nhận nó cùng với những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa. Chẳng hạn khi được bổ nhiệm làm quan, hẳn đương sự sẽ vô cùng hãnh diện khi lãnh nhận “áo mão” vua ban. Chẳng hạn khi được tấn phong làm “vít vồ” tức là làm giám mục, bậc đáng kính nom cũng oai phong lẫm liệt ra phết khi tiến lên lãnh nhận…”mũ gậy”. Tuy nhiên có một hành động xem ra chẳng mấy ai ưa thích, đó là bị thiên hạ…chụp mũ. Vậy chụp mũ là gì ? Theo gã nghĩ, bị chụp mũ là bị bó buộc đội phải một chiếc mũ trên đầu, từ đó suy ra là bị gán cho một nhãn hiệu, một tội trạng nào đó trước mặt bàn dân thiên hạ. Còn theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì chụp mũ là tròng mũ lên đầu người ta, từ đó suy ra là vu khống, gán ghép cho người ta một việc làm phi pháp tưởng tượng, với dụng ý làm hại người ta, khiến người ta, nếu không thân bại danh liệt, thì cũng mất toi cái danh dự và uy tín vốn dĩ là những thí quí hiếm trên đời. Nếu chịu khó “ngâm kíu” một tí, chúng ta sẽ thấy thói chụp mũ đã được thịnh hành từ một thời rất xa xưa. Chẳng hạn như tổ phụ Giuse của dân Do Thái, sau khi bị bán sang Ai Cập, đã phải đi ở đợ cho nhà quan Putiphar. Nhân lúc quan ông đi vắng, quan bà bèn dụ dỗ tổ phụ ăn ở với mình, nhưng tổ phụ đã thẳng thừng từ chối. Bực bội và tức tối, quan bà bèn chụp cho tổ phụ chiếc mũ cưỡng bức và tổ phụ liền bị tống ngục. Chẳng hạn như bà Suzana bị hai lão già giở trò hãm hiếp, nhưng bà một mực cự tuyệt. Thấy ý đồ đen tối của mình không thành, hai lão già bèn chụp cho bà chiếc mũ ngoại tình để rồi kết án ném đá bà cho chết. Nhưng may thay, bà đã được cậu bé Daniel cứu thoát. Và nhất là Đức Kitô, có lẽ Ngài là người đã bị chụp mũ nhiều nhất. Nào là chiếc mũ lộng ngôn phạm thượng dám xưng mình bằng Thiên Chúa. Nào là chiếc mũ phá hoại lề thói tổ tiên vì không tuân giữ ngày nghỉ lễ. Nào là chiếc mũ phản loạn vì tự xưng là vua và xúi dân đừng nộp thuế…Cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá như một tử tội. Chụp mũ cho cá nhân đã đành, nhiều khi người ta còn chụp mũ cho cả một tập thể, cả một tổ chức. Và Giáo hội Công giáo đã trở thành nạn nhân số một trong lãnh vực này. Thực vậy, suốt ba thế kỷ đầu, Giáo hội đã bị chụp cho chiếc mũ là nguyên nhân gây ra những tai ương hoạn nạn để rồi các vua chúa giáng xuống những chiếu chỉ bắt bớ và cấm cách. Bạo vương Nêrôn, chẳng hiểu vì muốn chỉnh trang lại thành phố Rôma hay vì muốn lấy hứng làm thơ, bèn ngầm sai người phóng hỏa đốt cháy kinh thành, rồi chụp cho người công giáo chiếc mũ là thủ phạm rồi ra tay tàn sát đẫm máu. Tại Việt Nam cũng thế, các ông vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã chụp cho người công giáo chiếc mũ theo tây, chiếc mũ phản quốc, chiếc mũ phá hoại truyền thống…rồi ra lệnh truy nã. Trong phạm vi cá nhân, hằng ngày chúng ta cũng đã được nghe biết hay chứng kiến bao nhiêu trường hợp đau buồn đã xảy ra. Cách đây không lâu, một nữ sinh trẻ đẹp đã nhảy xuống sông tự tử, làm xôn xao dư luận trong nước. Lý do thật đơn giản. Số là có một chàng thanh niên hàng xóm thầm yêu trộm nhớ cô ta, nhưng đã bị cô ta lờ tít và chối từ. Giận cá chém thớt. Không được ăn thì đạp đổ. Anh chàng này đã tung tin, phao đồn rằng cô ta là đã từng ăn cơm trước kẻng, đã từng quan hệ trên mức tình cảm cho phép với anh ta. Và thế là cô nữ sinh trẻ đẹp liền bị mọi người nhìn bằng cặp mắt khinh bỉ. Chịu không nổi sự khinh bỉ ấy, cô ta đã mượn dòng nước để minh chứng cho cõi lòng trong trắng của mình.
Xem ra nạn chụp mũ ngày càng gia tăng với cấp số nhân. Gã còn nhớ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hình như nhà nước Việt Nam rất khoái dùng biện pháp chụp mũ để thực hiện những mưu toan của mình. Thực vậy, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của chế độ cũ đều bị chụp cho một trong hai chiếc mũ, nếu không đồi trụy thì cũng phản động, để rồi cấm tiệt việc lưu hành các tác phẩm cũng như cấm tiệt mọi hoạt động của giới này. Muốn tịch thu một cơ sở nào đó, thì chỉ cần nhờ kẻ lạ dấu vào đó một vài khẩu súng, rồi ra lệnh lục soát và thế là cơ sở ấy lập tức bị đi đoong. Muốt bắt một người nào đó, thì chỉ cần ném vào nhà người ấy một vài tờ truyền đơn rồi chụp cho chiếc mũ phản động, thế là người ấy bèn tiêu tùng, đi đời nhà ma. Có một hồi, người ta bảo Giáo Hoàng Học Viện tại Đalat do các cha dòng Tên điều khiển là cơ sở đào tạo nhân viên CIA, còn cất giấu nhiều vũ khí, làm cho những người sống trong đó cứ phập phồng lo âu. Bản thân gã cũng vậy. Vì cắm dùi tại một vùng sâu vùng xa, thư từ thường bị thất lạc, nên gã đã phải mượn địa chỉ của một người bạn trên tỉnh. Chẳng hiểu sao mấy ông công an biết được, bèn mời gã tới làm việc. Họ nói: - Chúng tôi biết anh là xịa được gài lại để quấy phá. - Thưa cán bộ, tôi chẳng hiểu xịa là gì thì sao làm xịa được. - Nếu anh không phải là xịa thì tại sao anh lại có một hòm thư bí mật trên tỉnh để liên hệ với những người nước ngoài. - Thưa cán bộ, nếu tôi là xịa, thì ngu gì tôi liên hệ với người nước ngoài bằng thư từ qua bưu điện, vì chắc chắn thế nào cũng bị kiểm soát. Như vậy chẳng khác chi thưa ông tôi ở bụi này. Hơn nữa, bọn xịa chẳng nhẽ lại không trang bị cho nhân viên của mình những phương tiện hiện đại để liên hệ một cách mau chóng, chứ ngồi đó mà chờ bưu điện chuyển theo vận tốc rùa bò thì tới bao giờ mới nhận được và còn đâu tính cách nóng sốt của nó nữa. Thế là tịt ngòi. Và hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin qua việc nối mạng “internet”, người ta lại càng chịu khó chụp mũ cho nhau một cách ồn ào. Thực vậy, nếu nói theo ngôn ngữ của Phúc Âm, thì bây giờ không còn là thời buổi người ta lấm lét xì xầm với nhau dưới gậm giường nữa, mà là thời buổi người ta công bố trên mái nhà. Không những chỉ công bố trên mái nhà mà còn người ta loan truyền cho cả và thiên hạ cùng biết. Chỉ cần ngồi nhà, bấm“con-néc” một phát, tức khắc người ta có thể xem mọi hình ảnh và đọc mọi thứ, từ tin tức đến những chuyện giải buồn…Nhiều khi lượng thông tin ào ạt đổ xuống, đến tối tăm mắt mũi, không kịp thở để mà coi nữa. Đôi lúc, gã cũng lang thang trên mạng, hay nhận được những cái “meo”, trong đó người ta chửi nhau búa xua và chụp cho nhau đủ các thứ mũ. Qua những tài liệu ê hề ấy, gã ghi nhận một vài điều như sau: Điều thứ nhất, những kẻ thích chửi bới thường thường tự phong cho mình là thông minh uyên bác vào bậc nhất trong thiên hạ. Thế nhưng, sự thông minh uyên bác của họ cũng chỉ là sự thông minh uyên bác của một con ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung mà thôi. Điều thứ hai, một khi tự cảm thấy mình thông minh uyên bác, họ liền cho rằng mọi ý nghĩ của mình đều là “sáng kiến” còn những ý nghĩ của người khác chỉ là “tối kiến”. Mình luôn luôn đúng, còn người khác luôn luôn sai. Vì thế, mặc sức mà chửi bới vung vít, như vung gươm giữa cảnh nhà hoang vườn trống. Điều thứ ba, đối với những kẻ cùng một lập trường, họ không ngần ngại bốc thơm và nâng lên tới tận trời xanh, còn đối với những người không cùng một đường lối, họ sẵn sàng bốc thối và dìm xuống tận đất đen, bằng cách chụp mũ, nào là thân cộng, nào là phản bội quê hương, vân vân và vân vân… Điều thứ bốn, người ta thường dùng đao to búa lớn mà phang nhau. Ngày xưa, gã thường rất dị ứng khi nghe đài Hà Nội gọi thằng Ngụy, thằng Mỹ, thằng Thiệu, thằng Nixon, thằng nọ và thằng kia…Bây giờ, họ cũng dùng thứ ngôn ngữ hàng cá hàng thịt, lái trâu lái bò mà chửi nhau như vậy. Theo gã nghĩ, dù chửi nhau thì cũng phải chửi cho có…văn hóa, bởi vì người Việt Nam mình vốn thường tự hào là có những bốn ngàn văn hiến kia mờ.
Sau cùng điều thứ năm, một khi đã không ưa nhau, họ sẵn sàng vạch áo cho người xem lưng, bới móc nhau từ chuyện chính chị chính em đến chuyện đời tư, chẳng kiêng nể gì sốt. Mà chuyện đời tư với những mảnh tình lem nhem mới câu khách và hấp dẫn người đọc. Nếu không có, người ta cũng dư sức tưởng tượng mà phệu ra…cho thêm phần giật gân và lâm ly bi đát. Thậm chí, gã có anh bạn tính làm sui với người kia, nhưng chuyện không thành. Thế là anh bạn ấy bèn nhảy vào trang “web” mà hạch sách, mắng mỏ cho người kia một trận te tua. Cái gì, chứ bắn lên mạng, tung lên “net”…bây giờ quả là việc dễ dàng như trở bàn tay, mà hậu quả lại to lớn khôn lường vì bàn dân thiên hạ đều biết đến. Viết tới đây bỗng gã thở dài thườn thượt. Nếu là kẻ bi quan, gã liền sắm cho mình một chiếc mũ ni che khuất hai lỗ tai và hai con mắt, để trở thành người không không thấy và không không nghe, như điệp viên không không bảy vậy. Còn nếu là người yêu đời, gã sẽ tặc lưỡi mà lẩm bẩm: - Kệ bà nó. Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chửi ta mà chửi phải ấy là thày ta. Chiếc mũ đâu có làm nên ông cử hay ông tú. Gã Siêu
Có thể nói được rằng: chúng ta đang sống trong một thời buổi lạm phát những khẩu hiệu. Này nhé, GãSiêu 25
Có thể nói được rằng: chúng ta đang sống trong một thời buổi lạm phát những khẩu hiệu. Này nhé, bước ra ngoài đường ngước mắt nhìn lên trời, liền thấy ngay những tấm biểu ngữ giăng ngang với những khẩu hiệu hô hào cho chính sách của nhà nước. Bước vô trường học là thấy ngay trên tường vách những khẩu hiệu khuyến khích đám học trò siêng năng và chăm chỉ, lễ phép và lịch sự. Chẳng hạn trước tình trạng xuống cấp về phương diện đạo đức, trò dám thượng cẳng chân hạ cẳng tay với thầy, người ta liền viết câu tục ngữ của người xưa:
- Tiên học lễ, hậu học văn.
Riêng với các thầy cô, nhiều người thầm nghĩ trong bụng rằng: - Tiên học võ, hậu dạy văn.
Chẳng hạn trước tình trạng chất lượng giáo dục ngày một kém, người ta lo cải cách lên, cải cách xuống, đồng thời để đám học trò giảm bớt đi sự sa sút, người ta luôn nhắc nhở:
- Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời. Chẳng hạn để mọi người ý thức tầm mức quan trọng của việc giáo dục, người ta bèn “anh dũng” trích lời bác Hồ:
- Kế trăm năm trồng người. Sự thực thì bác Hồ cũng đã mượn đỡ tư tưởng trên của Quản Trọng mà phát biểu cho oai. Quản Trọng cũng gọi là Quản Tử, tên là Di Ngô, sống đời Xuân Thu, làm đến chức Tể tướng giúp Tề Hoàn Công lập nên nghiệp bá. Vì thế, được vua Tề tôn lên bậc Trượng phụ, coi như cha. Quản Trọng đã từng bảo:
- Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc. Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc. Chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.
Có nghĩa là:
- Kế một năm, không gì bằng trồng lúa. Kế mười năm, không gì bằng trồng cây. Kế trọn đời, không gì bằng trồng người.
Chính vì vậy, trước năm 1975, Viện Đại Học Công Giáo Đalat đã chọn cho mình cái tên là “Thụ Nhân”, “Trồng người”. Về đến nhà, bật truyền hình lên xem, thi ôi thôi đầy rẫy những khẩu hiệu. Thượng vàng hạ cám, lãnh vực nào cũng có. Vậy khẩu hiệu là cái chi chi ? Trước hết, khẩu hiệu là lời hô to của đám đông. Chẳng hạn mỗi khi xuống đường đi biểu tình, người ta không ngần ngại gân cổ lên mà hô vang những khẩu hiệu, đại khái như:
- Hoan hô. - Đả đảo.
Tiếp đến, khẩu hiệu là những câu viết ngắn hay những lời nói gọn, nhưng hàm xúc, được dùng để nhắc nhở và kích thích lòng người. Như trên gã đã nói: khẩu hiệu dường như đang bị lạm phát và có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, đặc biệt về phương diện nhà nước và quảng cáo. Thực vậy, nhà nước thường hay dùng những khẩu hiệu để tuyên truyền cho đường lối và chính sách của mình. Chẳng hạn để dân chúng hiểu biết về chính sách dân số mà…cai đẻ, người ta bèn viết:
- Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ.
Tuy nhiên, nếu người ta triệt để áp dụng khẩu hiệu này vào cuộc sống, thì đôi khi lại xảy ra những tình huống…cười ra nước mắt. Thí dụ như một số nước bên phương tây, số người già mỗi ngày một nhiều, còn số người trẻ mỗi ngày một ít và như vậy xã hội đang gặp phải nguy cơ bị…”lão hóa”. Thí dự như Trung quốc, số con trai thì nhiều mà số con gái thì ít, nên không thiếu gì những chú ba tàu, chịu khó lặn lội sang tận Việt Nam để tìm…vợ, hay mua…vợ. Chẳng hạn để dân chúng hiểu biết và phòng ngừa về sự lây lan của cơn bệnh thế kỷ HIV-AID, người ta cổ động:
- Hãy nói không với ma tuy và mãi dâm. Và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hình như đi tới đâu gã cũng thấy xuất hiện một khẩu hiệu khuyến khích cho việc sản xuất:
- Lao động là vinh quang. Mấy tên bợm nhậu đóng chốt ở mấy quán cóc bên vỉa hè, nhân lúc trà dư tửu hậu bèn ngứa miệng mà bồi thêm vào cho đậm đà ý vị:
- Lang thang thì chết đói, Hay nói thì ở tù, Lù khù thì sống lâu.
Còn trong lãnh vực quảng cáo, khẩu hiệu như gặp được một vùng đất màu mỡ và phì nhiêu cho trăm hoa đua nở. Khi lên những mẫu quảng cáo, bao giờ người ta cũng muốn đánh mau, đánh mạnh vào đầu óc của kẻ tiêu dùng, nên đã đưa ra những khẩu hiệu ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ.
Nếu gã không lầm, thì hồi trước năm 1975, nói tới thuốc bổ, người ta nghĩ ngay tới Activit, thuốc bổ gan bò tươi Hòa Lan. Nói tới xe gắn máy, người ta nghĩ ngay tới Suzuky an toan trên xa lộ, thanh lịch trên đường phố. Nói tới kem đánh răng, người ta nghĩ ngay tới anh bảy chà Hynos… Bây giờ cũng thế, mỗi sản phẩm đều được gán cho một khẩu hiệu để dễ dàng đi vào lòng người. Gã chỉ xin đưa ra một vài khẩu hiệu điển hình mà thôi:
- Nước giải khát 7 Up với khẩu hiệu: Mở lối đi riêng. - Sữa Milo với khẩu hiệu: Cả ngày tràn đầy năng lực. - Cà phê Trung Nguyên với khẩu hiệu: Khơi nguồn sáng tạo. - Dầu gội đầu Sunsilk với khẩu hiệu: Nuôi tóc chắc khỏe.
Và có cả những khẩu hiệu đọc lên như muốn nổi da gà và toát cả mồ hôi hột, như những khẩu hiệu quảng cáo cho băng vệ sinh phụ nữ!!!
Trong cuộc sống thường này, gã cũng ghi nhận được rất nhiêu những khẩu hiệu, đúc kết từ biết bao nhiêu kinh nghiệm quí giá, được đưa ra làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, hay làm kim chỉ nam xác định đường đi nước bước trong cuộc đời. Chẳng hạn:
- Sống là tranh đấu.
Đúng thế, sống trong cuộc đời chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi, thì chắc chắn sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Không tiến tức là lùi. Trong khi người khác đang hăm hở tiến lên, còn mình cứ giậm chân tại chỗ, thì chắc chắn sẽ bị kể là bị thụt lùi, bị tụt hậu, bị đẩy về phía sau mất rồi. Ăn theo những mẫu quảng cáo trên, hôm nay gã xin bàn đến một khẩu hiệu rất đơn giản, nhưng lại có một tầm mức khá quan trọng đối với mỗi người chúng ta. Khẩu hiệu ấy như thế này:
- Sống là chọn lựa.
Kể từ khi rời ghế nhà trường, để bước chân xuống cuộc đời, những kiến thức thu lượm được qua sách vở suốt những năm dài học tập, cứ dần dần bị rơi rụng tả tơi. Nay một tí và mai một tí, thành thử cho đến bây giờ chẳng còn đọng lại được bao nhiêu. Thậm chí có những thứ ngày xưa đã in đậm vào trong đầu óc, thế mà bây giờ cũng đã bị quên béng đi mất từ hồi nào cũng chẳng hay. Hình như có một ông triết gia nào đó đã trình làng một định đề của mình như sau:
- Tôi suy tư, tức là tôi hiện hữu. Cùng một thể thức ấy, gã cũng có thể nói được rằng:
- Tôi chọn lựa, tức là tôi hiện hữu. Thực vậy, con người được Thượng đế trao ban cho sự tự do. Chính nhờ sự tự do mà con người có thể chọn lựa. Và sự chọn lựa luôn theo sát chúng ta từng giây từng phút, để rồi làm nên nét đặc thù của con người. Có một con trâu, sau một buổi lao động cật lực trên đồng ruộng, về tới nhà thì mệt nhoài. Vừa đói lại vừa khát. Ông chủ liền thưởng công, ưu ái đem tới một bó cỏ non và một thau nước mát. Con trâu định ăn miếng cỏ, nhưng rồi lại đưa mắt nhìn thau nước. Định uống ngụm nước nhưng rồi lại đưa mắt nhìn bó cỏ. Phân vân không dám chọn lựa, đành phải chịu đói và chịu khát, khi cỏ non và nước mát ở ngay trước miệng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, tự thẳm sâu cõi lòng luôn vọng lên một tiếng nói tuy âm thầm nhưng quyết liệt, thôi thúc chúng ta làm việc tốt và tránh việc xấu. Vì thế, trước mỗi hành động, chúng ta đều phải chọn lựa: làm hay không làm. Rồi nếu đã chọn làm, thì làm điều lành hay điều dữ. Như vậy, cuộc đời chúng ta được dệt nên bởi những chọn lựa không ngừng.
Tuy nhiên, có những chọn lựa không phải chỉ ảnh hưởng tới một khoảng khắc nào đó, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống chúng ta bởi vì đã vạch ra cho chúng ta một con đường phải đi suốt dọc cuộc đời.
Chẳng thế mà một ông người Pháp đã xác quyết một cách rất chí lý như sau:
- L’avenir d’un homme dépend de quelque “oui” ou de quelque “non” prononcés de 16 à 20 ans. Có nghĩa là:
- Tương lai mỗi người tùy thuộc vào một vài câu “có” hay một vài câu “không”, được thốt lên ở lứa tuổi từ 16 đến 20. Nói cách khác:
- Tương lai mỗi người tùy thuộc vào một vài chọn lựa được thực hiện từ thời niên thiếu.
Gã chỉ xin nêu lên hai chọn lựa điển hình, có tính cách định hướng, làm nên một lối đi cho cuộc đời.
Chọn lựa thứ nhất, đó là chọn lựa cho mình một bậc sống.
Đúng thế, trước ngưỡng cửa cuộc đời chúng ta có hai ngã rẽ. Một là dấn thân vào nếp sống tu trì, theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Hai là dấn thân vào nếp sống lứa đôi, xây dựng một mái ấm gia đình.
Nếu chọn nếp sống tu trì, thì cũng phải lựa cho mình một hướng đi, đó là tu triều hay tu dòng.
Nếu chọn tu dòng, thì cũng phải lựa cho mình một linh đạo, hay nói một cách cụ thể hơn, phải lựa cho mình một dòng tu để mà đầu tư công sức vào đó.
Bởi vì trong lòng Giáo hội, có rất nhiều dòng tu và mỗi dòng tu lại theo đuổi một lý tưởng khác nhau, như một thửa vườn với muôn hoa khoe sắc. Tuy cùng phục vụ Chúa và người khác, nhưng mấy sư huynh Lasan lại chuyên về dạy học, mấy thầy Gioan Thiên Chúa lại chuyên về bệnh nhân, mấy cha Don Bosco lại chuyên về giới trẻ…Và nhất là các dòng nữ.
Hỏi rằng trên thế gian này có bao nhiêu dòng nữ ? Một người có óc khôi hài và cũng được liệt vào hạng thích đùa, đã trả lời như sau:
- Đức Chúa Trời là Đấng thông minh sáng suốt vô cùng, thế mà Ngài cũng đành phải bó tay, không biết đích xác được hiện nay trên thế gian có bao nhiêu dòng nữ!!!
Còn nếu chọn nếp sống lứa đôi, thì cũng phải lựa cho mình một anh chàng hay một chị nàng nào đó, để mà yêu thương, kết tóc xe tơ, thành vợ thành chồng và gắn chặt đời mình lại với nhau.
Thực vậy, trong quá trình giao tiếp, một anh chàng có lẽ đã gặp gỡ và làm quen với cô này cô khác, chẳng hạn như cô Cam, cô Quít, cô Mít, cô Bưởi… Đây là lúc phải nhìn cho rõ chiếc xương sườn cụt của mình. Đây là lúc phải nhận ra cái “nửa kia của mình”.
Một khi đã chọn cô Mít, thì cũng phải có can đảm khước từ cô Quít, cô Cam, cô Bưởi…chứ không được bắt cá hai tay, vơ đũa cả nắm, hay đứng núi này trông núi nọ.
Chọn lựa thứ hai, đó là chọn lựa cho mình một nghề nghiệp.
Thực vậy, nghề nghiệp sẽ theo mình trong suốt cả cuộc sống, vì đó là một chiếc cần câu cơm, đem lại ấm no cho bản thân và gia đình, cũng như đóng góp cho xã hội.
Vì thế, phải lựa cho mình một nghề nghiệp phù hợp với sở thích và khả năng. Chẳng có nghề nghiệp nào xấu cả, mà chỉ có những con người xấu, lạm dụng nghề nghiệp của mình để làm những điều xằng bậy mà thôi.
Một khi đã có được sự chọn lựa, chúng ta cần phải cố gắng thực hiện cho bằng được sự chọn lựa ấy, có nghĩa là phải đầu tư công sức của mình vào con đường đã chọn và đã lựa.
Đúng thế, nếu chọn nếp sống tu trì, thì cần phải ra sức tu học, chấp nhận mọi kỷ luật, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời, mỗi ngày một trở nên đạo đức và thánh thiện hơn, nhờ đó việc phục vụ sau này sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Nếu chọn nếp sống lứa đôi, thì cần phải ra sức làm cho tình yêu được phát triển mỗi ngày một trở nên đằm thắm, bằng cách dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau, nhờ đó gia đình sẽ trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc. Nếu chọn một nghề nào đó, thì cần phải ra sức trau dồi để tay nghề được vững, bởi vì như người xưa đã bảo:
- Trăm hay không bằng tay quen. - Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Có nghĩa là chuyên sâu một nghề cho giỏi, thì chắc chắn bản thân sẽ được vinh quang và sung sướng.
Còn nếu nghề nào cũng biết tí ti, cũng biết chút đỉnh, cũng biết qua quít…thì rồi sẽ chẳng biết được một nghề nào cả. Nhất là thời buổi hiện nay, một thời buổi đòi hỏi phải chuyên môn trong mọi lãnh vực. Kiến thức lơ mơ, tay nghề xoàng xĩnh, không sớm thì muộn cũng sẽ bị đào thải.
Và cuối cùng, một điều không thể bỏ qua, đó là phải trung thành với sự chọn lựa của mình.
Thực vậy, nếu chọn đời sống tu trì thì phải trung thành với ơn gọi của mình. Dĩ nhiên, trong phạm vi ơn gọi, Thiên Chúa đóng vai trò chủ động, bởi vì như lời Ngài đã nói ngày xưa:
- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải cộng tác với ơn Chúa, bằng cách quảng đại đáp trả và trung thành với ơn gọi Chúa đã dành cho mình.
Vốn biết rằng thân phận con người thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Vì thế, cần phải cậy dựa vào sự nâng đỡ và trợ giúp của Chúa. Đồng thời cũng phải làm hết sức mình để gắn bó với Ngài. Chúa cũng đành bó tay chịu vậy khi chúng ta quay lưng phản bội Ngài.
Đây cũng là một hiện tượng đáng buồn vì nhiều linh mục và tu sĩ giữa đường đứt gánh, cởi bỏ chiếc áo nhà dòng và thiên chức của mình, để trở về thế gian, làm một phó…giáo dân, bằng không thì cũng kéo lê cuộc sống, bố đạo chẳng ra bố đạo, mà bố đời cũng chẳng ra bố đời, láo nháo như cháo với cơm.
Còn nếu chọn đời sống lứa đôi, thì phải trung thành với người bạn đường của mình. Thực vậy, một khi đã tiến đến hôn nhân, chúng ta chính thức công bố sự chọn lựa của mình. Mà chọn lựa vừa có nghĩa là chấp nhận, lại vừa có nghĩa là từ bỏ. Phải chấp nhận người mình yêu với tất cả sở trường và sở đoản, với tất cả ưu điểm và khuyết điểm. Khuyết điểm thì giúp nhau khắc phục. Ưu điểm thì giúp nhau phát triển. Đồng thời phải từ bỏ tất cả những gì khả dĩ làm cho tình yêu bị sứt mẻ và rạn vỡ.
Rất nhiều người đã lên tiếng về cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay. Số các cặp vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị mỗi ngày một gia tăng đến chóng cả mặt, làm cho gia đình bị đổ vỡ, vô phương cứu chữa. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bi đát này, đó là người ta đã không trung thành với nhau. Người ta đã chia sớt tình yêu của mình một cách thầm lén và vụng trộm với một kẻ thứ ba. Người ta đã sống theo kiểu: Ông ăn chả, thì bà cũng ăn nem. Chỉ khổ đau và tội nghiệp cho những đứa con còn nhỏ bé và thơ ngây mà thôi.
Sau cùng, nếu đã chọn cho mình một nghề để sinh sống, thì cũng cần phải kiên nhẫn và trung thành với nghề nghiệp ấy. Dù gặp phải khó khăn hay gian nan thử thách cũng vẫn kiên nhẫn, bởi vì lắm khi:
- Thất bại là mẹ thành công.
Nhờ thất bại mà chúng ta tích lũy được những kinh nghiệm quí giá, hứa hẹn những kết quả to lớn hơn:
- Chớ thấy sóng cả mà lo, Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.
Hầu hết những người thành công trên đường đời đều là những người đã từng gặp phải những thất bại đắng cay, nhưng họ biết trung thành và kiên nhẫn, vươn lên từ những thất bại và đắng cay ấy. Vì thế người xưa đã từng khuyên nhủ:
- Hữu chí sự cánh thành. Nghĩa là có chí thì sự nghiệp được thành. Sách “Cổ học tinh hoa” kể lại một mẩu chuyện như sau:
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước.
Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa luôn mãi, không ai dùng đến gầu. Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước.
Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù. Anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình mà nói rằng:
- Than ôi ! Bác chẳng đã già mất rồi ư ! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả. Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hòa cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng:
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền, Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông. Đó là một câu thiên hạ nói rất phải.
Tác giả sách “Cổ học tinh hoa” cũng đã góp thêm một lời bàn như sau:
Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt, thịnh vượng. Song gặp thời thì hay, lỡ thời hóa dở. Như thế thì cái thời cũng quan hệ với nghề của mình lắm.
Khốn nỗi cái thời là tự ở đâu đâu, chớ không tự mình gây lấy được, cho nên có lắm người làm nghề, không thành nghề, thường nói rằng:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Nghĩa là người chỉ mưu tính công việc, còn công việc nên hay không nên, là do tại trời. Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít.
Cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mãi không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua gì cả.
Cho tới lúc này, gã cảm thấy mỗi người cũng cần phải kiểm điểm lại xem đã thực hiện sự chọn lựa cho đời mình như thế nào ? Gã Siêu
Mỗi khi có dịp ngồi lại với nhau, thế nào các bà vợ cũng bàn tán về những thói hư của các “lão GãSiêu 26
Mỗi khi có dịp ngồi lại với nhau, thế nào các bà vợ cũng bàn tán về những thói hư của các “lão chồng”. Mỗi khi có dịp thỏ thẻ tâm sự, thế nào các chị vợ cũng than thở về những tật xấu của các anh chồng. Về những thói hư tật xấu này, gã xin “kê đơn hoàn tán”: Nào là cờ bạc, nào là bợm nhậu, nào là bồ nhí, nào là bạo lực, nào là biếng nhác. Dưới một góc độ nào đó, thì những thói hư tật xấu này là như những “mối tội đầu”, vì từ đó sẽ phát sinh ra những xáo trộn và đổ vỡ trong cuộc sống gia đình. Hôm nay, gã xin trình bày về tật biếng nhác việc nhà của các đức ông chồng. Mặc dù không được ghi thành văn bản, nhưng sự phân chia giữa xã hội và gia đình đã ăn sâu vào tận tâm can tì phế của mỗi người, đó là đờn ông thì lo việc ngoài xã hội, còn đờn bà thi lo việc trong gia đình. Sự phân chia này ngày nay đang có phần đảo lộn, khiến nhiều chị đờn bà đã nhảy phóc ra ngoài xã hội và cũng đã gặt hái được những thành quả đáng kể, trong khi đó nhiều anh đờn ông bèn rút vào trong gia đình bằng những bước chân âm thầm:
- Làm trai rửa bát quét nhà. Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây. Tuy nhiên, phần lớn vẫn còn giữ vững quan niệm: Việc nhà là bổn phận của đờn bà, của những chị vợ. Trong phạm vi việc nhà, anh chồng thường có hai thái độ:
Thái độ thứ nhất là biếng nhác Anh chồng không thèm đụng tay vào bất cứ công việc nào ở nhà cả, theo tác phong Tú Xương:
- Việc nhà phó mặc cho bu nó. Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Thử tưởng tượng công việc ban chiều của một chị vợ tại thành phố: Vừa tan sở, vội phóng xe đi đón thằng nhỏ, rồi xẹt qua chợ “chồm hổm”, chân thấp chân cao mua bó rau, con cá. Về nhà bật nồi cơm điện, quay sang tắm cho thằng bé. Xong xuôi, lại đèo con đi đón thằng lớn. Quay về nhà, vừa lau dọn, vừa nấu nướng, vừa canh thằng bé nghịch phá. Tả đột hữu xung hơn nửa tiếng đồng hồ, chị bới tô cơm cho thằng anh, đút cơm cho thằng em. Sau khi giặt giũ, phơi quần áo, ủi đồ, rửa chén, tưới cây, chị ngáp dài khi ngồi vào bàn dạy con học. Những ngày con học thêm, chị càng đuối. Trong khi chị quay cuồng với vai trò nội tướng, thì anh chồng lại đang làm “ngoại tướng” giương oai trong quán nhậu. Nếu không ở quán nhậu, thì khi về đến nhà, anh chồng cũng chỉ biết tắm rửa, rồi ngồi đọc báo hay xem tivi và chờ vợ mời vô xơi cơm. Thậm chí, trong bữa ăn thiếu trái ớt hay thiếu cây tăm, anh ta cũng chẳng thèm đứng lên đi lấy. Còn khi leo lên giường, anh ta chẳng bao giờ mắc mùng. Thiếu chăn, thiếu gối anh ta cũng mặc kệ, vô tư nằm lăn ra ngủ, chứ không biết tiếp tay chuẩn bị. Đôi vớ anh ta mang, nếu chị vợ quên thay là bốc mùi, thế mà anh ta vẫn cứ hồn nhiên xỏ chân vào. Thậm chí có anh chồng không ngần ngại khoe: - Vào bữa ăn, tớ chỉ có việc ngồi và đưa bát cho vợ bới cơm. Vợ còn đưa bằng cả hai tay nữa. Đi công tác ở đâu, tớ chỉ cần báo trước, vợ chuẩn bị mọi đồ dùng cần thiết và tớ chỉ việc xách túi lên đường. Viết đến đây, gã bèn nhớ tới câu ca dao mô tả về tác phong của một anh chồng lười:
- Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Thái độ thứ hai là đụng đâu hỏng đó Những anh chồng thuộc loại này cũng có được tí chút thiện chí, muốn chia sẻ việc nhà với chị vợ, nhưng vì không quen, không tập, không học nên đụng đâu hỏng đó, khiến chị vợ lại càng vất vả mệt mỏi hơn, phải tốn công gấp đôi để giải quyết hậu quả thảm khốc. Một chị vợ đã kể lại những chuyện xảy ra khi mình vắng nhà như sau: Ngày đầu tiên khi đi công tác xa, lòng chị như lửa đốt, chỉ muốn gọi về nhà ngay, nhưng cố chờ đến tối, xem “lão chồng” ở nhà chống đỡ thế nào. Tám giờ tối, không thể chờ thêm nữa, chị gọi về. Cu Tí con chị bốc máy, nhanh nhẩu báo cáo: - Mẹ ơi, bố làm nổ cái phích nước với hỏng cái bếp ga rồi. - Thế bố đâu? - Dạ, bố đang coi tivi. - Vậy hai bố con không ăn cơm tối à? - Bố bảo bố không đói. Con có đói thì ra ngoài tìm đại thứ gì mà ăn. Con cũng chẳng biết tìm gì, nên thôi. Hoá ra anh chồng chị cũng đói, cũng vô bếp tìm cách pha mì tôm cho hai bố con. Anh ta hí hoáy bật bếp mãi không lên lửa, bèn phán với con trai: - Bếp hỏng rồi. Anh ta không biết chị vợ đã cẩn thận khoá bình ga sau mỗi lần dùng. Anh ta chuyển phương án, dùng bình siêu tốc đun nước. Đun xong, đổ luôn vào phích, dù trong phích vẫn còn nước nguội. Vậy là phích nổ. Anh ta mất hứng, bỏ ra xem tivi cho qua bữa, và vì lười, nên cũng không muốn ra ngoài ăn. Nghe con trai kể tỉ mỉ cảnh khổ sở của chồng, chị vừa thương vừa giận, không hiểu sao một cán bộ quản lý giỏi giang ngoài xã hội như anh ta, mà ở nhà lại quá kém cỏi như thế. Một anh chồng khác có chị vợ đau, nằm ở bệnh viện. Chị vợ nhờ đi mua phở. Anh ta chạy một vòng, rồi quay về bảo: - Ban trưa chẳng ai bán cả. Vợ bực: - Thế sao thường ngày, có lần buổi trưa, anh thèm ăn phở mà em vẫn mua được? Đi công tác gấp ở tỉnh xa, đến nơi anh gọi điện thoại báo: - Em ơi, anh quên mang đồ lót, làm sao bây giờ? Vợ cáu: - Thì anh mua mà dùng tạm, chuyện đó cũng phải hỏi là sao? - Nhưng mua cái món đó ở đâu? - Trời ơi là trời. Ngoài chợ chứ ở đâu. - Nhưng anh không quen mua mấy thứ đó. Đến đây thì chị vợ chịu hết nổi: - Anh muốn mua thế nào cũng được. Nói xong, liền cúp máy. Có lần được vợ nhờ lau nhà. Lau được một nửa, thì nghe tiếng vợ hét ầm lên: - Anh phải quét nhà xong rồi mới lau chứ. Vậy là anh phải lau lại bằng giẻ khô, rồi quét, rồi lau lại. Cọ toa lét, anh cũng lớ ngớ, hí hoáy mãi mà không xong. Biết chồng làm không được, nhưng chị nghĩ: - Cứ để “lão” làm một lần cho biết mùi đời. Bình thường, nhà nhám chân một chút là kêu ca, toa lét có một vết bẩn cũng cằn nhằn. Có lần gặp trời mưa, “lão” lấy áo mưa ra mặc, mới phát hiện mùi thối. Hoá ra lần trước, sau khi sử dụng, chiếc áo vẫn còn đầy nước, mà “lão” vẫn cứ vô tư tống vô thùng xe, bây giờ mở ra mặc, thì trời ơi, đất hỡi! Phen đó “lão” phải chạy ngược về nhà, thay bộ quần áo khác, vì đồng nghiệp trong phòng không chịu nổi mùi hôi. (Phụ Nữ Thứ Tư, số 103, ngày 20.10.2010). Vậy đâu là nguyên nhân làm phát sinh tình trạng biếng nhác kể trên? Theo gã nghĩ: Nguyên nhân thứ nhất, đó là tại nền văn hoá Đông Phương Thực vậy, nền văn hoá Đông Phương vốn mang nhiều ảnh hưởng học thuyết của Khổng Mạnh. Học thuyết này vốn chủ trương trọng nam khinh nữ. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Sinh được một cậu con giai, thì đã được coi như là có; chứ sinh được mười cô con gái, thì vẫn kể như là không. Đồng thời, người vợ phải phục tùng người chồng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con. Ba chữ “tòng” nay, bất cứ người con gái nào cũng phải thuộc lòng và tuân giữ. Hơn thế nữa, sự phân chia công việc cũng thật rõ ràng; “Gái trong khung cửi, trai ngoài chân mây”. Đờn ông thì lo công danh sự nghiệp ngoài xã hội, như Nguyễn Công Trứ đã viết: - Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. Còn đờn bà thì lo việc “tề gia nội trợ” và phải ra sức tập luyện tứ đức, tức là công, dung, ngôn, hạnh, như Nguyễn Trãi đã viết: - Hãy xem xưa, những bậc dâu hiền,Kiêm tứ đức, dung công ngôn hạnh. Trong tứ đức thì công là đủ mùi xôi thức bánh, giỏi dang từ đường chỉ mũi kim. Tóm lại là phải đảm đang những việc trong nhà, trong gia đình của mình. Nguyên nhân thứ hai là tại nền giáo dục trong gia đình Thực vậy, thạc sĩ Vũ Thị Thanh nhận định: “Nhiều người quan niệm công việc nội trợ và chăm sóc con cái là trách nhiệm và bổn phận của chị vợ. Họ không coi đó là bất bình đẳng, mà la một lẽ đương nhiên trong đời sống”. Một khảo sát cho thấy, khi mới kết hôn, chị vợ là người đảm nhiệm chính các công việc nội trợ, trong khi “việc” của các anh chồng thì hết sức khiêm tốn: Mua thức ăn, dọn nhà (3%), nấu cơm (2,4%) rửa bát (1,1%), giặt giũ (1,6%). Sở dĩ người đờn ông ít chịu nhúng tay vào việc nhà là vì không được giáo dục ngay từ nhỏ rằng: Đây cũng là việc của mình. Thậm chí có anh chồng còn kết luận: - Đờn ông mà vào bếp, thì chẳng còn ra dáng đờn ông nữa. Người ta nhìn vào cười chết. Tuy nhiên, muốn giúp đỡ vợ những công việc nhà, đôi lúc cũng không phải dễ, nhất là khi còn đang sống chung với bố mẹ. Báo Phụ Nữ Thứ Tư, đã đưa ra một trường hợp điển hình như sau: Anh rất muốn vào bếp để nấu ăn cho vợ, nhưng lại phải lén mẹ. Anh muốn đối xứ tốt với vợ, thì mẹ anh lại phản đối, cho là anh làm “tôi mọi” vợ. Anh càng đỡ đần vợ nhiều, thì vợ anh càng khổ tâm, vì mẹ chồng xót con, cứ nói xa nói gần: - Có vợ còn cực hơn đi đày. Cả khi vợ anh mới sinh con, bà cũng càu nhàu: - Đống đồ dơ dáy như thế mà lại để chồng xả. Thời xưa, tôi sinh con phải tự lo chứ đâu có đày đọa chồng. Mấy chuyện đó đàn bà phải làm. Người ngoài nhìn vào, họ cười thúi đầu.
Vì thế, anh vừa làm việc nhà cho vợ, vừa phải tìm cách đối phó với mẹ. Cho nên làm việc nhẹ, mà hoá ra chẳng nhẹ tí nào. Sau cùng nguyên nhân thứ ba là tại…chị vợ Theo tâm lý, thì cánh đờn ông thường thích làm những công việc nặng nhọc, to tát và có tính cách sáng tạo, nên ít để ý tới những công việc lặt vặt, tỉ mỉ, thành thử như trên đã trình bày: Đụng đâu hỏng đó. Một anh chồng đã chia sẻ như sau: - Tôi muốn tham gia vào các việc trong nhà, nhưng cũng không phải là chuyện dễ, vì không đáp ứng nổi những yêu cầu của vợ. Tôi lau nhà, vợ chê dơ; tôi nấu cơm, vợ chê nhão; tôi nấu canh, vợ chê mặn; tôi tắm cho con, vợ chê còn nhớt xà bông. Sự thiếu tế nhị của vợ khiến tôi mất tự tin, mất hứng thú và chán nản chẳng muốn làm. Không ai làm cực nhọc chỉ để nhận lại tiếng chê. Đó là chưa kể cách sai việc của vợ nhiều phen làm tôi bẽ mặt với khách khứa. Riết rồi tôi phó mặc vợ, đi chơi cho khoẻ. Trong khi đó, một chị vợ cũng đã thú nhận: - Hồi mới cưới, tôi cứ xung phong làm hết việc nội trợ. Riêng việc nấu ăn, tôi càng không cho chồng đụng tay vào vì sợ không ngon. Chồng tôi thời sinh viên cũng biết nấu ăn sơ sơ. Nhưng gặp được cô vợ nấu ăn giỏi, nên mặc nhiên xếp mình vào hạng “không biết” và không cần làm nữa. Sau một thời gian, tôi nhận ra sai lầm, bắt đầu kéo chồng tham gia việc bếp núc, lúc thì nhặt rau, khi thì canh chảo cá chiên, bắc nồi cơm. Từ việc nhỏ tiến lên việc lớn, từ dễ đến khó. Tôi thấy đờn ông chỉ lười việc lặt vặt thôi chứ thông minh, nhanh nhạy lắm, ba cái chuyện bếp núc, họ làm vài lần là chuẩn hết. Và như vậy, để anh chồng bớt đi sự biếng nhác của mình và cùng làm những công việc nhà, nhờ đó mà gắn bó với nhau hơn, thì các chị vợ cần phải tập luyện cho anh chồng. Một chị vợ đã tâm sự như sau: - Muốn một đứa trẻ cứng cáp, tự lập sớm, người mẹ cần bớt úm, cứ thả cho trẻ tự vật lộn với cuộc sống, sẽ tiến bộ lên ngay. Với chồng cũng thế. Đôi khi cũng cần viện lý do bận rộn gì đó, để mặc đống quần áo bẩn của chồng. Hết đồ sạch để mặc, lại không chờ vợ được, ông ấy mới nghĩ đến chuyện tư đi giặt. Buồn cười lắm, chồng em là cử nhân ngành tự động hoá, nhưng đến lúc giặt đồ mới hỏi vợ: Muốn giặt thì bầm nút nào trước, nút nào sau.
Có nhiều cách tập luyện cho anh chồng, nhưng chủ yếu vẫn là phải biết nhẹ nhàng nhờ vả và ngọt ngào khen thương. Dù là việc chung, nhưng chị vợ nên nhún nhường để “nhờ anh, anh làm giúp em”, chứ không nên khẳng định “anh là chồng, là cha, anh phải làm, phải có trách nhiệm…”. Tình yêu dành cho chị vợ sẽ khiến anh chồng cảm thấy xót xa khi chị vợ vất vả nặng gánh. Không có sự phân công lao động nào hoàn hảo cho bằng sự phân công từ tình yêu thương. Riêng đối với anh chồng, thì như cha ông ngày xưa đã bảo: - Học ăn, học nói, học gói, học mở. Bất kỳ việc gì, cũng đều phải học, ngay cả những việc đơn sơ và tầm thường nhất. Vì vậy, anh chồng cần phải vượt qua cái sĩ diện đờn ông, cũng như mặc cảm đuểnh đoảng và vụng về, lưu tâm học hỏi bằng cách quan sát, hỏi han chị vợ để được cầm tay chỉ việc. Nếu kiên nhẫn học tập, nghề mới này chắc chắn sẽ đem lại cho anh chồng những niềm vui thật bất ngờ. Gã Siêu
Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai cũng phải “tâm phục khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là tuyệt vời GãSiêu 27
Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai cũng phải “tâm phục khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là tuyệt vời, bởi vì vạn vật do Ngài dựng nên rất giản đơn, nhưng lại vô cùng phong phú. Thực vậy, theo quan niệm của đông phương, thì thuở ban đầu chỉ có âm và dương. Hai thái cực này hoàn toàn khác biệt và trái ngược nhau, nhưng lại luôn thu hút lẫn nhau để nảy sinh vạn vật: - Nhất âm, nhất dương chi vi đạo. Cũng thế, theo quan niệm của Cựu ước, Đấng Tạo hóa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Cả hai kết hiệp thành vợ chồng mà sinh ra con đàn cháu đống, kéo dài dòng giống con người trên mặt đất này cho đến tận cùng thời gian. Còn nói theo kiểu tân cổ giao duyên, đông tây hòa hợp, thì người nam mang tính dương, còn người nữ mang tính âm. Nam nữ tuy khác biệt nhưng lại hấp dẫn lẫn nhau, để tạo thành một mái ấm gia đình. Trong mái ấm này, cần phải có sự hài hòa cân đối bởi vì nếu âm mà thịnh thì ắt dương phải suy. Và ngược lại, nếu dương mà thịnh thì ắt âm phải suy. Chồng mà hiền thì vợ thường….dữ. Chồng mà gầy thì vợ thường…mập!!! - Thế gian được vợ hỏng chồng, Có đâu mà được tiên rồng cả đôi. Tự bản chất, đờn ông với đờn bà vốn đã khác biệt. Thế nhưng, những khác biệt này không phải để đối kháng và hủy diệt lẫn nhau, như nước với lửa, như bóng tối với ánh sáng, nhưng là để bổ túc lẫn cho nhau. Chẳng hạn người đờn bà vốn yếu đuối thì đã có cái sức mạnh của người đờn ông bổ túc. Người đờn ông vốn nóng nảy thì đã có sự dịu hiền của người đờn bà dập tắt. Ngay cả giữa đờn ông với đờn ông và giữa đờn bà với đờn bà cũng đã có những khác biệt, bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Mỗi người là một mầu nhiệm, chẳng ai giống ai. Hơn thế nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Cái rắc rối, đó là con người không thể sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, nhất là với những người thân yêu. Ngay từ ban đầu, Đấng Tạo hóa cũng đã tỏ rõ điều ấy: - Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta hãy dựng nên cho nó một người trợ giúp…Hai thực thể khác biệt từ bên trong đến bên ngoài, hai con người chẳng giống nhau từ tâm hồn đến thân xác, thế mà bây giờ lại được nhốt chung trong cùng một mái nhà để làm nên một gia đình, thì chắc hẳn sẽ không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những hiểu lầm, chả thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã bảo: - Chén bát trong rổ còn có lúc xô xát huống lọ là vợ chồng với nhau. Hay như bọn con nít ngoài đường vốn thường nghêu ngao: - Anh như con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau… Vì thế, hôm nay gã thử phân tích xem khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ? Tuy nhiên trước khi mổ xẻ vấn đề, chúng ta cùng nhau chiêm ngưỡng dung nhan anh chồng cái đã. Vậy bàn dân thiên hạ đã nhìn anh chồng ra sao ? Và đã thế nào là một anh chồng ? Thiên hạ vốn cho rằng anh chồng là người đờn ông chung sống với người đờn bà sau khi đã cưới hỏi theo phong tục và làm giá thú theo luật định, hoặc có khi lờ tít, cứ việc ăn ở với nhau mà chẳng cần cưới hỏi, hay giá thú giá thiếc nào sốt. Đó là cái định nghĩa chung chung về anh chồng. Tuy nhiên, nếu đi vào lãnh vực chuyên môn, gã nhận thấy những bậc chuyên gia mỗi vị lại hiểu anh chồng một cách khác nhau theo sự méo mó nghề nghiệp của mình. Đối với nhà khảo cổ, thì anh chồng là một thứ đồ cổ ít có giá trị đối với chị vợ, nhưng biết đâu lại vô giá đối với kẻ khác. Chính vì thế mà sơ hở một tí là có thể mất chồng như chơi. Người ta cho rằng trên đời này có ba thứ càng cũ lại càng quí, đó là rượu cũ, sách cũ và bạn cũ. Nhưng mà anh chồng, dưới mắt chị vợ sau nhiều năm chung sống, không chừng lại bị ngán tới cần cổ, như ngán cơm nếp nát vậy. Thế nhưng, khi thò chân bước ra ngoài xã hội, anh chồng ấy, nếu được trang bị bằng một tí tiền và một tí quyền, thị lại trở thành vô giá, thiên hạ sẵn sàng nhào tới ăn có, như mèo mù vớ cá rán, ngủ gật gặp được chiếu manh. Đối với ông bác sĩ, thì anh chồng là một thứ vi khuẩn đã nhờn thuốc nên rất khó trị. Đúng thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì chị vợ nói gì anh chồng cũng phải nghe, chỉ cần một liều thuốc nhẹ cũng chữa chạy được. Đúng là: - Lệnh ông không bằng cồng bà. - Vợ muốn là trời muốn. Thậm chí có anh chồng còn cảm thấy lương tâm áy náy và cắn rứt khi cãi lời vợ, vì thế đã vào tòa giải tội mà xưng thú: - Thưa cha, con đã trót dại không vâng lời vợ con phỏng là mười lần. Còn lâu ngày sau khi cưới, loại vi khuẩn này đã quen với thuốc nên không còn phương thức trị liệu. Nói năng cứ như dùi đục chấm nước mắn, rồi lại còn chủ trương: nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu nữa mới đáng ghét không cơ chứ. Đối với nhân viên ngân hàng, thì anh chồng là kẻ chuyên môn vay nóng, nhưng lại không có khả năng chi trả. Đúng thế, khi cần tiền thì cái miệng anh ta dẻo quẹo, nhưng khi đòi lại thì cứ khất lần khất lượt, từ từ cái đã, chẳng hiểu đến đời ông Bành Tổ nào mới trả cho xong. Đối với nhà ngôn ngữ thì trước khi cưới, anh chồng là người rất “chịu khó” nhưng sau khi cưới anh ta trở thành một người rất…”khó chịu”. Thực vậy, trước khi cưới anh chồng rất ư là ga lăng, từ lời ăn tiếng nói đến cung cách chiều chuộng…tất tật đều dễ thương chi lạ. Tuy nhiên hãy đợi đấy, sau ngày cưới anh ta mới để lộ chân tướng vũ phu chi cục mịch của mình. Có những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, hiền lành như con gái, rượu chẳng biết uống, thuốc chẳng biết hút…Thế mà sau khi cưới anh ta hóa kiếp thành dân bợm nhậu, uống rượu như hũ chìm. Có những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, việc gì cũng lăn xả vào làm, còn sau khi cưới ấy hở, lười chảy thây, chẳng muốn động ngón tay lay thử một ly, một tí nào sốt. Quả thực trước khi cưới anh ta rất chịu khó, còn sau khi cưới anh ta lại là người rất khó chịu. Đối với bác nông dân, thì anh chồng là loại thóc giống, nếu không tranh thủ “xạ” gấp, thì có nguy cơ bị hàng xóm vay mất. Dĩ nhiên còn rất nhiều định nghĩa khác nữa, tùy theo góc độ của từng người. Tuy nhiên, bằng đó mà thôi cũng đủ để cho thấy anh chồng là một thực thể rất ư phức tạp. Nhưng xét cho cùng, đôi khi anh ta cũng là kẻ đáng thương và tội nghiệp lắm lắm. Cái đáng thương và tội nghiệp thứ nhất, đó là anh ta phải lo lắng cho ngày mai, như một câu danh ngôn đã bảo: - Người đờn bà chỉ lo lắng về tương lai cho đến khi chị ta lấy được anh chồng. Còn người đờn ông thì ngược lại, anh ta chẳng bao giờ lo lắng về tương lai cho đến khi anh ta lấy được chị vợ. Điều đó có nghĩa là một khi đã lấy vợ, anh chồng phải chí thú làm ăn, nai lưng ra mà xây đắp tương lai. Đối với những anh thanh niên choai choai, hay phá làng phá xóm, các cụ già thường khuyên cha mẹ chúng như sau: - Cứ cưới vợ cho nó là xong tuốt luốt.. Vợ nó sẽ dạy nó. Và nó chẳng còn quậy phá nữa. Lo lắng về tương lai, thì cũng có nghĩa anh chồng phải lao động đầu tắt mặt tối, đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm cho được nhiều tiền. Hay nói cách khác: cơm áo gạo tiền chính là cái đáng thương và tội nghiệp thứ hai cho các anh chồng. Với tiêu chuẩn tiền bạc, anh chồng bị đánh giá như sau: - Anh chồng thành công là anh chồng kiếm được số tiền lớn hơn số tiền chị vợ tiêu xài. Cũng vì luôn bị tương lai ám ảnh và tiền bạc xâu xé, nên anh chồng thường có những cơn giận chẳng đâu vào với đâu, hay chẳng có lấy một lý do chính đáng nào sốt. Cũng giống như cơn giận của anh chàng voi đực đối với chị voi cái trong câu chuyện sau đây. Có hai vợ chồng nhà voi đang sống yên ổn và hạnh phúc trong một sở thú tại Nữu Ước. Thế rồi một buổi sáng đẹp trời nọ, chú chuột nhắt bỗng xuất hiện. Nhìn thấy chú chuột nhắt, chị voi cái bèn hoảng sợ, chạy tới chạy lui và rống lên từng hồi. Anh voi đực tức giận trước cảnh tượng ấy, nên đưa mắt nhìn trừng trừng. Cuối cùng, như không cầm nổi cơn bực bội của mình, anh voi đực đã xông thẳng vào chị voi cái và dùng cặp ngà của mình mà hất tung chị voi cái xuống một cái hố bên cạnh đó, khiến cho mấy chục người phải vất vả, dùng ván và xe mới trục được chị voi cái lên khỏi miệng hố. Lúc bấy giờ, anh voi đực có vẻ hối hận, đứng nhìn mà cặp mắt lại ươn ướt. Chỉ vì một chú chuột nhắt mà gia đình nhà voi suýt đi tới chỗ tan vỡ. Cũng vậy trong đời sống vợ chồng, lắm khi chỉ vì những mâu thuẫn, những bất đồng nho nhỏ, mà nếu không biết cư xử một cách khôn khéo, sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Vậy mỗi khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ?
Phản ứng thứ nhất:
Chồng giận thì vợ làm lơ, Mặc cho bực bội, phe lờ như không. Có thể nói được rằng đây là phản ứng của những chị vợ vừa ngây thơ lại vừa vô tư, hay nói một cách khác, đây là phản ứng của những chị vợ “trẻ con”, chưa muốn làm người lớn. Anh chồng bực bội tức tối cũng mặc kệ, chị vợ vẫn cứ tỉnh bơ, vô tư cười nói, vô tư ca hát, vô tư ăn hàng, làm như chẳng có gì xảy ra dưới mái nhà thân yêu. Lúc nào chị vợ cũng tỏ ra ngây thơ như con nai vàng ngơ ngác. Cho dù nhà hàng xóm có cháy, thì chị vợ vẫn cứ bình chân như vại. Những chứng từ trong bài này, gã trích dẫn ở báo “Phụ nữ Chủ nhật” để làm cho rõ những phản ứng sẽ được trình bày. “Anh H, một công chức, vốn là người trầm tính, thường khi gặp phải điều gì phật ý, anh ít nói ra. Không nói ra, nhưng vẻ bực dọc lại lộ rõ trên khuôn mặt và cử chỉ của anh. Ngặt nỗi, cô vợ anh lại chẳng hề để ý cũng chẳng nói chẳng rằng, cứ kiểu chồng giận thì vợ…làm lơ. Vậy là mặc chồng, chồng giận, mặc vợ, vợ…cứ tỉnh bơ. Chồng không thố lộ, vợ chẳng chịu hỏi han, khiến gia đình như có chiến tranh lạnh, không khí nặng nề kéo dài dăm bữa, nửa tháng là thường, cho đến khi cả hai chịu hết xiết mới nhân một cớ nào đó mà lẳng lặng…giảng hòa. Qua những lần giận nhau như thế, cả hai vẫn chưa xác định được ai là người phải xuống nước…trước ai. Đôi khi anh H lẩn thẩn nghĩ: - Quái ! Bực dọc điều gì, sao mình không chịu nói phứt ra cho nhẹ gánh ? Cô vợ của H đôi lúc cũng bần thần: - Ừ, phải chi bữa đó mình chịu quan tâm hỏi ảnh giận gì, thì đâu phải chịu cảnh lạnh lùng, rồi trách ảnh…giận dai !”
Phản ứng thứ hai:
Chồng giận thì vợ lầm lì, Chẳng cần lý sự, cứ ì là xong. Có thể nói được rằng đây là phản ứng của hàng cao thủ võ lâm, hay của những chị vợ dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Nó không còn vô tư đơn sơ và vô tư ngây thơ nữa, nhưng là cả một chiến lược rất tinh vi, rất nặng đô khiến cho phe địch bị sập bẫy, phải tự ý cầu hòa. Ấy là chưa nói tới nhiều khi còn phải năn nỉ ỉ ôi tới gẫy cả lưỡi nữa là đàng khác. Anh chồng mà giận ấy hở, chị vợ bèn lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, sa sầm nét mặt và ủ dột như chiếc bánh bao chiều, hay sưng thành, một cục, một đống. Cậy miệng cũng chẳng nói được một chữ. Bất bạo động, nhưng cũng bất hợp tác. Có một chị vợ kia đã thẳng thừng nói với anh chồng đang khoa chân múa tay, la hét om xòm, như sau: - Để xem mèo nào thắng mèo nào. Liệu có chịu nổi sự được lạnh lùng của tôi thì hãy giận, bằng không thì….biến đi cho rồi. “Người ta thường được nghe chị X kể lại một cách đầy kiêu hãnh là anh chồng chị lúc nào cũng phải chịu lép vế trước sự “kiên cường” của vợ. Dù đúng dù sai, mà sai thường nhiều hơn đúng, hễ chồng “lỡ giận”, là chị…đổ lì, đổ bê tông bằng khuôn mặt lạnh dưới 0oC và thái độ dấm dẳng chua lè, bất hợp tác trong mọi lãnh vực của đời sống vợ chồng. Và để phục hồi cái không khí đầm ấm cho gia đình, anh X thường phải xuống nước trước một cách thành khẩn, mới được vợ tha cho. Chị X luôn tự hào về loại vũ khí hiệu nghiệm của mình, đâu biết rằng anh X chồng chị lâu dần như người bị dồn vào bước đường cùng, có lần thẩn thờ tâm sự: - Không thể nào và hình như không còn cách nào góp ý vớ bả được, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tình trạng này cứ kéo dài, không biết rồi…sẽ dẫn tới đâu.”
Phản ứng thứ ba: Chồng giận thì vợ nổi xung,Đổ dầu vào lửa, đùng đùng…uỵch nhau. Nếu hai phản ứng trên được gọi là phản ứng ngầm và lạnh, thì phản ứng thứ ba này phải được coi là phản ứng nổ và nóng. Chồng cũng ghê mà vợ cũng gớm. Quả là xứng đôi vừa lứa. Nếu chồng nóng như Trương Phi, thì vợ cũng dữ chẳng kém gì sư tử Hà Đông. Nếu chồng nói một, thì lập tức vợ cũng trả đũa, phản pháo lại gấp hai. Nếu chồng quẳng nồi niêu, thì lập tức vợ cũng ném bát đĩa. Nếu chồng mày với tao, thì lập tức vợ cũng tao với mày. Nếu chồng đấm với đá, thì lập tức vợ cũng cào với cấu. Nếu chồng thượng cẳng chân, thì lập tức vợ cũng hạ cẳng tay. Nếu chồng hét, thì lập tức vợ cũng gào và hậu quả đương nhiên sẽ xảy ra, đó là láng giềng phải nghe. Cả hai đều hành động theo đúng cung cách mà ngày xưa các cụ đã diễn tả: - Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng. “Chuyện của vợ chồng anh Bảy thợ hồ là một điển hình về chiến tranh nóng, chiến tranh…tóe lửa giữa các vì sao, trong những gia đình mà hễ chồng giận thì vợ cũng…nổi xung. Anh Bảy tính vốn nóng như lửa, ngặt nỗi chị Bảy, vợ anh, cũng chẳng vừa, nên nhà họ thường xuyên nổ ra chiến sự, khiến mấy đứa con bị văng miểng, mà hàng xóm cũng bị vạ lây. Chuyện đĩa bay, chén bể, nồi móp giữa họ là chuyện bình thường, xảy ra như cơm bữa. Chồng một tiếng, thì vợ…ba tiếng. Chồng văng tục, thì vợ…tục văng, đốp chát trả theo không kém cạnh. Công bằng mà nói thì lắm lúc nội vụ chỉ do anh Bảy vô cớ mắng chửi lãng òm, thế là chị Bảy bụp lại ngay, đáp trả dữ dội bằng những lời lẽ nặng nề. Cả hai đã phải mấy lần vác đơn ra tòa xin ly dị, rồi được hòa giải, rồi lại… Anh Bảy khi được hỏi thường tìm cớ lảng tránh, còn chị Bảy thì thở ra: - Tánh tui nó vậy, nhiều lúc nghĩ cũng bậy, nhưng…sửa hổng đặng, biết sao bây giờ. Có người bảo: - Gẫm ra cũng chí lý. Biết sai, thì phải biết sửa. Sửa gấp không đặng, thì sửa từ từ, mỗi lần một chút. Vợ sửa trước, mới mong chồng có cơ hội phục thiện để cùng nhau vun vén hạnh phúc gia đình.”
Phản ứng thứ tư:
Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười hớn hở, rằng anh giận gì ? Có thể nói được rằng đây là loại phản ứng mang tính cách xây dựng hơn cả, khả dĩ hóa giải được cơn giận của anh chồng. Như trên chúng ta đã trình bày: va chạm, xích mích, bất đồng là chuyện đương nhiên của cuộc sống vợ chồng. Không va chạm, không xích mích, không bất đồng mới là chuyện bất bình thường, cần phải xét lại. Tuy nhiên điều quan trọng, đó là phản ứng của chị vợ trong lúc “hữu sự”. Nếu biết cư xử một cách tế nhị và khéo léo, thì sau cơn mưa trời lại sáng, sau cơn giận, anh chồng sẽ yêu thương nhiều hơn. Thật đúng với chiến thuật: - Lùi một bước để tiến tới hai bước. Trong lúc anh chồng bị tẩu hỏa nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng, thì việc chị vợ cần phải làm ngay, đó là hãy tiết kiệm lời nói, như người xưa đã từng dạy:
- Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa, một đời chẳng khê. Thực vậy, đạn bắn xuống bùn, chẳng công phá được chi. Trước sự yên lặng của chị vợ, anh chồng la hét mãi, quát tháo mãi cũng sẽ mỏi mồm, tới một lúc sẽ tự động tắt đài, êm ru bà rù. Sự yên lặng của chị vợ trong hoàn cảnh này, quả là quí hơn vàng, hơn bạc. Bởi vì nếu không yên lặng, thì chắc chắn hậu quả sẽ khó mà lường nổi. Sau cơn giận, gia đình chỉ còn là một bãi chiến trường với những đổ vỡ và tan hoang. Bởi vì: - Bên thẳng thì bên phải chùng, ai bên đều thẳng, thì cùng đứt dây. Tuy nhiên, yên lặng không có nghĩa là cam lòng chịu vậy. Trái lại, trong những lúc thuận tiện, chị vợ nên dùng những lời nói ôn tồn và thành thực để nhắc bảo. Lúc bấy giờ, những lời nói êm dịu của chị vợ như rót vào tai, khiến anh chồng dễ dàng chấp nhận, nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, mà vẫn giữ được bàu khí hòa thuận cho gia đình. Bởi vì: - Mật ngọt thì chết ruồi. Hay như một câu danh ngôn cũng đã bảo: - Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng giấm chua. “Hạnh phúc biết bao cho những ai được tắm mình giữa bàu khí gia đình trong ấm ngoài êm. Và đó cũng là phần thưởng quí giá cho những người vợ biết khéo léo, mềm mỏng và thông minh trước những cơn giận, dù đôi khi…kỳ cục của chồng mình. Ai đó đã từng nói rằng: nụ cười của phụ nữ có thể làm thay đổi cả thế giới, huống hồ là đối với…anh chồng bẳn tính của mình. Nhưng nói thế không có nghĩa người vợ phải luôn lép vế, khuất phục trước chồng bởi bất cứ lý do nào. Vì theo các chuyên gia về tình yêu hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng theo kinh nghiệm của các người chị, người mẹ có một mái ấm tuyệt vời, thì cái sự làm lành cũng chính là thứ vũ khí quan trọng để bảo vệ và tôn tạo hạnh phúc gia đình.” Để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau: Có hai vợ chồng nọ, hồi còn trẻ họ sống rất yêu thương và hạnh phúc, nhưng khi đã về già, thì lại thường xuyên lục đục và cãi vã nhau suốt ngày. Ông nói một thì bà nói hai. Ông nói hai thì bà nói ba. Và ông nói ba thì bà nói tới bảy, tám, chín, mười…Cuối cùng, chẳng ai chịu nhận mình là kẻ có lỗi. Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý: - Trên núi kia có một vị sư bào chế được một thứ thuốc giúp cho nhiều gia đình được êm ấm thuận hòa. Bà nghe lời, bèn đi lên núi tìm gặp vị sư. Sau khi nghe trình bày, vị sư liền trao cho bà một chai thuốc và nói: - Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần ngậm một ngụm ở trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn thỏa và tốt đẹp. Bà hăm hở xuống núi. Thế nhưng vừa về tới đầu ngõ, thì ông từ trong nhà vội chạy ra, nét mặt hầm hầm và nói như quát: - Bà rúc ở cái xó xỉnh nào mà giờ này mới vác xác về. Đi mà lo cơm nước, không thì liệu hồn đấy. Nghe vậy, bà liền tợp một ngụm thuốc, ngập ở trong miệng đúng như lời căn dặn của vị sư. Thấy bà chẳng đáp lời, một lúc sau ông cũng lặng thinh. Bà hết sức vui mừng và thầm nghĩ: - Đây quả là một thứ nước thần rất hiệu nghiệm. Khi bà bắt đầu vo gạo để thổi cơm, thì ông lại la: - Làm gì mà chậm như rùa vậy. Bà toan cãi lại, nhưng nhớ tới lời căn dặn của vị sư, bèn tợp một ngụm thuốc trong miệng. Thấy bà không cãi lại, ông đành phải im luôn. Từ đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của hồi còn trẻ. Thứ nước thần hay thuốc gia truyền ấy, chẳng qua chỉ là nước lã mà thôi. Kinh nghiệm ngàn đời cho chúng ta thấy: - Một sự nhịn là chín sự lành. Trong cuộc sống vợ chồng, nhiều lúc phải nhường. Mà đã nhường thì nhiều lúc cũng phải nhịn. Mà đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn răng chịu nhục, nhưng đó lại là chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa hạnh phúc. Gã Siêu
Theo một số nhà nhân chủng học thuộc hạng “gà mờ” thì rất có thể vào cái thuở xa xưa, nhân loại GãSiêu 28
Theo một số nhà nhân chủng học thuộc hạng “gà mờ” thì rất có thể vào cái thuở xa xưa, nhân loại đã trải qua một thời kỳ sống trong chế độ mẫu hệ. Nghĩa là người mẹ nắm mọi quyền hành trong nhà cũng như ngoài ngõ. Trong chế độ mẫu hệ này, thì phe đờn bà con gái được lên ngôi, nắm đầu và chỉ huy tất tật. Hồi đó, các cô nường đi cưới chồng, chứ không phải là các anh chàng đi cưới vợ như ngày hôm nay. Phe đờn bà con gái thì lãnh đạo, còn cánh đờn ông con trai thì chỉ đóng vai trò trang trí cho vui cửa vui nhà, đúng là: Phụ xướng phu tùy, có nghĩa là vợ nói thì chồng phải theo. Đã bảo thì đừng có gân cổ ra mà cãi. Chứ đâu có phong cách nho nhe: Phu xướng phụ tùy, có nghĩa là chồng nói thì vợ phải theo.
Tàn tích của chế độ “phong kiến hồng quần” này còn rơi rớt lại trong một vài câu tục ngữ, chẳng hạn như:
- Một trăm con giai, Không bằng lỗ tai con gái.
- Ba đồng một chục đờn ông, Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi. Ai ngờ dây đứt, lồng rơi, Nó bò lổm ngổm, mỗi nơi một thằng.
Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay thì chế độ phong kiến rất êm dịu và rất dễ chịu này đã “phẹc mê bu tích”, nghĩa là đã đóng cửa tiệm từ lâu, để nhường chỗ cho cánh đờn ông con giai lên ngôi. Bằng sức lao động và sản xuất của mình, cánh đờn ông con trai đã thoát khỏi tình trạng nô lệ, để nắm vai ông chủ. Điều này gã thấy nhan nhản trong kho tàng văn chương bình dân của người An nam mình.
Các cụ ta ngày xưa đã chẳng bảo: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Có nghĩa là đẻ được một “thằng cu” thì đã là có, chứ còn đẻ được cả trăm “cái đĩ “ cũng vẫn kể như là không. Rồi các cụ cũng đã nâng anh đờn ông con giai lên tới tận chín tầng mây khi nói:
- Đờn ông nông nổi giếng khơi, Đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà. Dù là vụng dại cũng là đờn ông.
Còn rất nhiều những câu đại loại như thế nữa, gã chẳng dám kể ra, kẻo mà như bà huyện Thanh quan đã diễn tả: Đau lòng con quốc quốc và mỏi miệng cái gia gia. Cánh đờn ông con giai được ưu thế trong nhiều lãnh vực, gã chỉ xin đan cử một lãnh vực rất mực bình thường, chẳng hạn như lãnh vực tuổi tác:
- Giai ba mươi tuổi đang xoan. Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
Có kẻ đã sánh ví cuộc đời của anh đờn ông con giai tựa như đoàn tàu lửa: Ở tuổi hai mươi, họ muốn đỗ ở mỗi ga. Sang ba mươi tuổi, họ chỉ có thể đỗ ở một ga. Đến bốn mươi tuổi, họ muốn đỗ, nhưng họ không được phép đỗ ở một ga khác. Quá tuổi năm mươi, họ muốn đỗ nhưng họ không thể nào đỗ được. Và khi họ sáu mươi, thì ngay đến việc khởi động họ cũng không thể, thì làm sao mà đỗ được đây. Về phương diện này, để an ủi phe đờn bà con gái, gã bèn trích một câu trong cuốn “Tục ngữ phong dao” của Ôn như Nguyễn văn Ngọc, trang 350, gọi là để nói có sách, mách có chứng:
- Giai ba mươi tuổi mà già, Gái bốn mươi tám đang ra má hồng!!!
Chính vì sự đổi ngôi này, mà có một vị chân tu, mặc dù tuổi đời đã xế bóng, thế mà lúc nào cũng mỉm cười, để lộ hàm răng như răng trẻ thơ, nghĩa là chẳng còn một cái răng nào sốt. Thiên hạ thấy vậy, bèn rất lấy làm ngạc nhiên và hỏi:
- Tại sao cụ cứ cười hoài vậy ?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, vị chân tu không phải chỉ cười ruồi, mà còn há miệng cười một cách hả hê, cười ngặt cười nghẹo đến vãi cả và nước mắt, âm thanh thì rộn rã như tiếng chuông nhà thờ. Sau một hồi cười dài như xe lửa kéo còi, vị chân tu mới lồm cồm bật mí:
- Tại sao ta lại không cười được ? Này nhé, Đức Chúa Trời dựng nên loài người ta có đờn ông và đờn bà. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm đàn ông thì sướng hơn làm đờn bà. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Đó là lý do thứ nhất khiến ta cười hoài.
- Còn lý do thứ hai ?
- Này nhé, làm đờn ông thì một là lấy vợ, hai là đi tu. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà đi tu thì sướng hơn là lấy vợ. Có đúng vậy không hề ?
Thấy thiên hạ yên lặng gãi đầu chẳng giám trả lời, vị chân tu bèn phán luôn:
- Mấy cái lão này chả biết đí gì sốt. Người đời đã chẳng bảo: Tu là cõi phúc tình là giây oan đó sao.
- Dạ thưa đúng.
- Đó là thứ hai khiến ta cười mãi.
- Còn lý do thứ ba ?
- Thứ ba hử ?
Vị chân tu bèn rít một điếu thuốc lào kêu ro ro, rồi lim dim đôi mắt mà khẽ nói:
- Này nhé, thiên hạ đi tu thì một là làm cha hai là làm ma…xơ, đại loại là như thế. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm cha thì sướng hơn làm ma…xơ bội phần. Có đúng vậy không hề?
Lần này, thiên hạ cũng lại yên lặng gãi tai chưa kịp trả lời, thì vị chân tu đã vội cướp đài nói luôn:
- Mấy cái lão này lại chẳng biết đí gì sốt, không sướng mà sao mấy ma xơ cứ biểu tình, lập kiến nghị đòi cho được làm cha. Thế có ngược đời không cơ chứ ?
- Dạ thưa đúng.
- Chính vì thế mà ta cười vang lên như nắc nẻ. Ví dù có các vàng thì ta cũng chả dám làm ma xơ đâu.
Gã chẳng biết ý kiến ý cò của vị chân tu này có lệch lạc nhiều lắm không. Riêng bản thân mình, gã cảm thấy làm thân đờn ông con giai cũng nhiều cái nhiêu khê, phức tạp và rắc rối, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, chứ chẳng phải êm ru bà rù đâu.
Hẳn là bàn dân thiên hạ đều biết rằng: Thuở ban đầu, Đức Chúa Trời đã dựng nên ông Adong và cho ông sống trong vườn địa đàng. Cảm thương cái cảnh cô đơn vò võ của Adong, Đức Chúa Trời bèn đợi lúc ông ngủ say, rồi lấy một nửa chiếc xương sườn của ông mà dựng nên Eva. Sau khi hoàn tất tác phẩm của mình, Đức Chúa Trời bèn dẫn Eva vô ra mắt Adong. Vừa nhìn thấy bà, ông đã mừng húm mà hô vang: Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Kiểu diễn tả của dân Giu-dêu như trên xem ra có vẻ hơi vòng vo, chứ còn diễn tả theo kiểu người Việt Nam ta thì khỏe re, Adong chỉ cần chớp chớp hai hàng mi, rồi khe khẽ kêu lên với một giọng đầy trìu mến: Mình ơi! Hai chữ “mình ơi” này quả thật là tuyệt vời, quả thật là hết ý! Vì Eva được dựng nên bởi nửa chiếc xương sườn của mình, nên suốt đời Adong hằng loay hoay tìm kiếm nửa chiếc xương sườn kia của mình. Chính vì thế, dân “Phú lãng xa” vốn gọi bà xã của mình là: “Ma moitié”, có nghĩa là “hỡi nửa kia của anh ơi!” Bởi vậy cho nên đờn ông hướng tới đờn bà, con giai hướng tới con gái và ngược lại, âu cũng là chuyện rất bình thường và rất tự nhiên, vốn nằm sẵn trong bản tính con người:
- Trai thấy gái lạ, Như quạ thấy gà con.
Thế nhưng, chính cái khuynh hướng bình thường và tự nhiên này đã gây nên nhiều rắc rối cho phe đờn ông, nhất là cho những anh con giai mới nhớn. Chuyện rằng:
Có một vị thiền sư kia ngày nọ dẫn chú đệ tử của mình xuống núi. Trên đường, hai thày trò gặp mấy cô thôn nữ đang đi cấy, cười nói vui vẻ. Thấy vậy, chú đệ tử bèn hỏi sư phụ của mình:
- Thưa thày, đó là cái chi vậy ?
Vị thiền sư chưa biết trả lời ra làm sao, thì bỗng nhìn thấy mấy cô thôn nữ đội những chiếc nón lá, bèn trả lời:
- Ồ có gì đâu, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi.
Kể từ lúc bấy giờ, chú đệ tử chẳng nói chẳng rằng. Một sự im lặng thật là dễ sợ. Về đến nhà, cứ thừ ra như người mộng du hay đi trên mây ấy. Vị thiền sư lân la hỏi chuyện, miết rồi chú đệ tử mới dám thỏ thẻ bày tỏ nỗi lòng:
- Thày ơi, sao con nhớ mấy cái nón ấy quá. Con thương mấy cái nón ấy lắm.
Mang thân phận đờn ông “vai năm thước rộng, thân mười thước cao” theo “mô đen” của anh chàng Từ Hải mà Nguyễn Du đã diễn tả trong truyện Kiều, mà nhảy vào lòng cuộc đời, lắm lúc cũng thật là nhiêu khê và rối rắm như nắm bòng bong. Nếu chẳng may sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, trong một gia đình làm ruộng, suốt ngày đánh vật với “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, thì bị bọn con gái sẽ chê ỏng chê eo:
- Chàng nông nãi vũ phu chi cục mịch, Lấy yếm thắm chỉ đào chi cho uổng công.
Còn nếu may được sinh ra dưới một ngôi sao sáng, trong một gia đình giàu có, được ăn học đến nơi đến chốn, thì cũng bọn con gái ấy lại mở miệng, trề môi ra mà liệt vào hạng “trói gà không chặt”, ham chi mà ham:
- Ai ơi chớ lấy học trò, Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
Rồi thiên hạ cũng lại bảo:
- Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông, Nhất nông nhì sĩ.
Khi có được mấy cọng râu lún phún, tập tễnh bước vào đời, đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, thì cũng lại gặp phải những phiền toái. Nếu mình cặp kè với một cô bồ thuộc loại con nhà giàu, thì bị thiên hạ coi khinh, nhìn mình bằng nửa con mắt và phong ngay cho cái học vị “kỹ sư đào mỏ”. Nếu mình vớ được một cô vợ cao, cao về thân thể cũng như cao về kiến thức, thì thiên hạ lại lo cho mình:
- Chồng thấp mà lấy vợ cao, Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.
Còn nếu ông tơ bà nguyện xe lầm sợi tơ duyên, cột chân mình lại với một cô nàng hơn mình tí tuổi đời, thì chắc chắn thiên hạ chẳng chịu buông tha, lại chõ mồm vào mà bình luận lung tung:
- Chồng già, vợ trẻ là tiên, Vợ già, chồng trẻ là duyêncon bò.
Tử tế hơn, thì họ bảo:
- Chồng lớn, vợ bé thì xinh, chồng bé, vợ lớn ra tình chị em.
Nếu vớ được một cô vợ đẹp như tiên giáng trần, hay ít nữa cũng như một cây trúc mà tục ngữ đã diễn tả:
- Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.
Với một cô vợ đẹp và xinh như vậy, thì dễ gì mà đã được hạnh phúc và sung sướng, bởi vì khi đi ở ngoài đường, lắm lúc tức hộc cả máu mồn, cũng tại bọn đờn ông chiếu cố, ngoái nhìn đến sái cả cần cổ. Chẳng lẽ lại nổi máu Hoạn thư, ghen lấy ghen để. Bản lãnh lắm thì mới tự an ủi lấy mình: Thôi thì bông hoa đẹp cứ để cho cả và thiên hạ nhìn ngắm chán chê mê mỏi, có mất mát đí gì đâu mà sợ. Ấy thế mà vẫn còn bị thiên hạ cho mình là kẻ tầm thường và dại khờ. Có một người đàn ông đã hỏi Đức Chúa Trời:
- Tại sao Ngài tạo ra đờn bà đẹp thế ?
- Thì ngươi mới yêu được cô ta.
- Nhưng tại sao họ lại nông cạn vậy ?
- Để cô ta có thể yêu được ngươi ấy mà.
Hay như Somerset Maugham đã phát biểu:
- Tại sao những người đờn bà đẹp lại lấy những người đờn ông tầm thường? Xin thưa: Vì những người đờn ông khôn ngoan sẽ không lấy những người đờn bà đẹp.
Trong thời gian bồ bịch, anh con giai lại còn phải tỏ ra hết sức “ga lăng”, chiều chuộng “cô nường bé bỏng” của mình cho tới mức, đúng là phải: Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Thế mà nhiều lúc cũng vẫn còn bị “thất sủng” với những độc chiêu, chẳng hạn như: Nào giận, nào hờn, nào phạt, nào nghỉ chơi…và không chừng còn bị cho leo cây, như lời tâm sự với nhau của hai nữ sinh khoa điện, mà gã đọc được trên báo Phụ nữ Chủ nhật như sau:
- Hôm qua tao định cắt cầu dao với lão ta rồi. Con giai gì mà điện trở kém quá, tao đến muộn có 45 phút mà lão ta đã nóng đỏ cả dây tóc lên rồi! Lần sau mà còn như vậy thì tao cho đứt cầu chì luôn.
Cô bạn nghe xong bèn tiếp lời:
- Mày còn hiền quá đấy, phải tao thì lão ta đã bị một trận tóe hồ quang ra ấy chứ. Cái lão chập mạch ấy sao mày ham quá vậy. Thử xem lão ta đẹp ở chỗ nào mà cảm ứng được mày cơ chứ. Người thì dài ngoẵng như cây bút thử điện. Đầu tóc thì bù xù không ra nối tiếp, cũng chẳng ra song song, lại còn ngủ ngáy như cái “tăng phô”. Mày đi với lão trông lệch pha bỏ xừ. Là con gái, mày phải chủ động nắn dòng cho lão ta mới được. Khi hắn quá dòng mà mày chịu tụt áp, thì lão ta sẽ xem thường mày ngay cho mà xem…
Thế thì có trời mới hiểu được lòng dạ đờn bà con gái. Thật đúng như lời một câu danh ngôn đã bảo: Chỉ có hai khoảng thời gian trong đời anh đờn ông không hiểu gì về đờn bà, đó là trước và sau đám cưới. Suy gẫm về câu danh ngôn này, gã bèn thở dài thườn thượt mà rằng: Thế thì hết bố nó rồi còn gì.
Thực vậy, một tác giả, dày dạn trên “tình trường”, đúc kết lại những kinh nghiệm riêng tư của mình, đã bật mí cho cánh đờn ông con giai như một lời tâm sự chân thành, để mà suy gẫm và tùy nghi “đối phó”, hay theo ngôn từ của những cuộc thi hoa hậu hôm nay thì để mà tùy nghi “ứng xử”: Nếu bạn hôn cô ta, cô ta bảo bạn không đứng đắn. Còn nếu bạn không hôn, cô ta bảo bạn chẳng phải đờn ông. Nếu bạn khen cô ta, cô ta bảo bạn nói dối. Còn nếu bạn không khen, cô ta bảo bạn không biết nhìn người. Nếu bạn chiều theo ý cô ta, cô ta bảo bạn nhu nhược. Còn nếu bạn không chiều theo, cô ta bảo bạn chẳng hiểu gì cả. Nếu bạn tới thăm cô ta thường xuyên, cô ta bảo chán ngấy. Còn nếu bạn không tới thăm thường xuyên, cô ta nghi ngờ bạn bắt cá hai tay. Nếu bạn ăn mặc “mô đen”, cô ta bảo bạn là dân chơi. Còn nếu không, cô ta bảo bạn là cù lần cù lèo, quê ba bốn cục. Nếu bạn ghen, cô ta bảo đó là tật xấu. Còn nếu bạn không ghen, cô ta bảo bạn chẳng biết yêu là đí gì. Nếu bạn tỏ ra lãng mạn, cô ta bảo bạn không tôn trọng cô ta đúng mức. Còn nếu không, cô ta bảo bạn không thích cô ta. Nếu bạn đến trễ một phút, cô ta bảo bạn đã để cô ta phải chờ gần chết. Còn nếu cô ta đến trễ, cô ta bảo con gái là như vậy đó. Nếu bạn tới thăm cô gái khác, cô ta bảo bạn không nghiêm túc trong tình cảm. Còn nếu cô ta được chàng trai khác tới thăm, cô ta bảo đó là chuyện thường tình của con gái. Nếu bạn thỉnh thoảng mới hôn cô ta, cô ta nói bạn lạnh lùng. Còn nếu bạn hôn cô ta thường xuyên, cô ta bảo bạn lợi dụng. Nếu bạn không xách giúp cô ta, cô ta bảo bản chẳng lịch sự. Còn nếu bạn xách, cô ta bảo đó chỉ là ý đồ đen tối, âm mưu dụ dỗ. Nếu bạn nhìn cô gái khác, cô ta bảo bạn không đáng tin cậy. Còn nếu cô ta được chàng trai khác ngắm, cô ta bảo đó chỉ là ngưỡng mộ mà thôi. Nếu bạn nói, cô ta muốn bạn nghe. Còn nếu bạn nghe, cô ta lại muốn bạn nói. Quả thật là nguy tai, thậm nguy tai ấy chứ.
Tới khi lập gia đình, bước vào hôn nhân, chính thức sống chung hòa bình “mí nhau”, cánh đờn ông con giai cũng không thoát khỏi cảnh lận đận và long đong. Vì thế, thiên hạ đã sánh ví: Trong đời anh đờn ông, khi còn độc thân là như một con công; Khi đã đính hôn là như một con sư tử; Còn khi đã kết hôn, là như một con lừa. Sở dĩ như vậy, đó là vì: Trai có vợ như rợ buộc chân. Bởi thế, dân Ý đại lợi đã bảo: Cưới vợ là bán đứt sự tự do của mình. Cưới vợ là tự tạo cho mình những điều phiền muộn. Và rồi họ đã kết luận: Trong đời anh đờn ông có hai ngày sướng nhất, đó là ngày cưới vợ và ngày chôn vợ.
Xem ra điều kết luận này thật là quá đáng. Dầu vậy, thì thân phận của anh chồng cũng chẳng được sáng sủa hơn bao nhiêu. Bởi vì trong hôn nhân, chị vợ là người được hưởng lợi trăm bề. Gã xin đưa ra một vài thí dụ nho nhỏ, chứng tỏ anh con giai khi đã có vợ thì bị “bóc lột” đến tận xương, tận tủy.
Này nhé, sau nhiều năm dài học hành chăm chỉ anh chồng mới khều được cái bằng bác sĩ, thế mà phóc một cái, chị vợ bỗng nghiễm nhiên trở thành bà bác sĩ. Sau biết bao nhiêu ngày tháng chí thú mần ăn, đổ cả mồ hôi hột, anh chồng mới ngoi lên được cái chức giám đốc, thế mà ngày trước ngày sau, chị vợ bèn tót ngay lên thành bà giám đốc, mà chẳng gẫy một tí móng tay móng chân nào. Sau những năm dài đấu tranh cực kỳ gian khổ, anh chồng mới ngồi được vào cái ghế tổng thống, thế mà chị vợ chỉ đi làm cảnh, cho thêm phần màu mè hoa lá, cũng lập tức được cả và thiên hạ cúi gập mình xuống mà xưng tụng là “First Lady”, có nghĩa là đệ nhất phu nhân, vợ tổng thống, hay bà tổng thống.
Còn nếu cuộc tình mà tan vỡ, để rồi anh đi đường anh, em đi đường em, tình nghĩa đôi ta chỉ có vậy mà thôi, thì chị vợ vẫn được lợi như thường.
Trong một cuộc chia tay kia, chị vợ nói với anh chồng: Tôi là đờn bà, nên phàm cái chi là giống cái thì thuộc về tôi, còn phàm cái gì là giống đực thì thuộc về anh. Anh chồng nghe nói bùi tai bèn gật đầu cái rụp. Và thế là chị vợ bèn chỉ vào từng đồ vật trong nhà mà nói: Cái ti vi, cái tủ lạnh, cái xe hơi. Cái….và cái….và cái…Tóa hỏa tam tinh, nói chậm thì hết, anh chồng bèn chỉ vội vào con dao rựa mà bảo: Đực rựa. Và rồi anh chồng bèn chộp vội lấy con dao rựa mà ra khỏi nhà. Thật là bẽ bàng và cay đắng cho thân phận những kẻ đực rựa như gã vậy thôi.
Ngày nay, pháp luật đã gióng lên tiếng nói để bảo vệ quyền lợi của những anh chồng chẳng may bị đứt gánh giữa đường, nên đã qui định là phải chia đôi, “half anh half”, mỗi bên năm chục phần trăm. Nhưng dù thế nào chăng nữa, xét theo khía cạnh kinh tế, thì hôn nhân vẫn là một cuộc đầu tư có lợi cho đờn bà con gái. Không biết có phải vì lý do trên hay còn nhiều lý do khác nữa cộng lại, chẳng hạn như vì lý do tình cảm, muốn cho gia đình được trong ấm ngoài êm, hay vì lý do tâm sinh lý…mà các anh chồng thường hay nể chị vợ. Và từ chỗ nể đến chỗ sợ, đoạn đường ngắn chủn, chẳng bao xa. Thậm chí có anh chồng còn tuyên bố một cách hắch xì xằng: Mình sợ vợ mình chứ có sợ vợ thiên hạ đâu mà lo. Nào có mất mát chi!
Để kết luận gã xin ghi lại câu danh ngôn: Thật tội nghiệp cho nhà nào có gà mái gáy, còn gà trống thì lại im. Gã Siêu
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể một mẩu chuyện mang tựa đề là “Lấy của ban ngày”, đại khái GãSiêu 29
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể một mẩu chuyện mang tựa đề là “Lấy của ban ngày”, đại khái như thế này: Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: - Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được… Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền, anh ta nói: - Lửa tham nó bốc lên làm mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ, tôi cứ tưởng là của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại. Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng: - Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dùng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày, so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư ? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ. Từ câu chuyện trên gã nhận thấy cái bệnh “cầm nhầm” của anh chàng này, mặc dù đã thấm nhiễm vào lục phủ ngũ tạng, di căn tới tận tim gan phèo phổi, khiến cho tẩu hỏa nhập ma, khi “lửa tham bốc lên làm mờ cả hai con mắt”, khiến cho thấy mọi sự đều là của mình. Quả là hết thuốc chữa. Tuy nhiên nếu so sánh với những vị tai to mặt lớn, vì ham mê phú quí, mà lừa thày phản bạn, ngấm ngầm làm hại đồng bào, thì cái bệnh ăn cắp lẻ tẻ của anh chàng kia chẳng thấm tháp vào đâu. Vì thế, người làm sách, tức là tác giả “Cổ học tinh hoa”, mới thở dài kết luận: - Trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm vặt, chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian đại ác. Đọc xong lời kết luận này, gã bèn nhớ tới một sự thật mà người xưa đã từng “đề cao cảnh giác”: - Con ơi, nhớ lấy lời này, Cướp đêm là giặc, cướp ngày là…quan. Sự thật cay đắng ấy, ngày hôm nay vẫn đang liên tục phát triển ở bất cứ xã hội nào: dân khố rách áo ôm ăn trộm, ăn cắp tí tiền lẻ thì bị tù mọt gông, còn những xếp nhớn, nuốt trửng bạc tỉ thì lại sống phây phây, hưởng thụ giàu sang phú quí. Tiền bạc ở Việt Nam sợ bị bại lội, thì đem cất kỹ ở ngân hàng Thụy Sĩ, hay mua sắm biệt thự ở bên Mỹ, bên Tây. Liếc qua bất kỳ tờ báo nào, nhất là ở mục “chó cán xe” gã đều thấy nhan nhan những tin tức về trộm cắp, dân đạo tặc lộng hành khắp nơi khắp chốn như ở chỗ không người vậy, dù cho công an cảnh sát có đứng đầy đường, đầy phố. Có rất nhiều lý do khiến cho tệ nạn này bành trướng. Lý do thứ nhất đó là do lòng tham. Lòng tham của con người ví như chiếc thùng không đáy, có thể bỏ vào đó tuốt luốt, từ con gà con vịt đến những máy móc đắt tiền chất lượng cao. Khi lòng tham bừng bừng nổi dậy, thì trông gà hóa quốc, của người cứ tưởng là của mình, nên ung dung thò tay ra….cầm nhầm. Lý do thứ hai đó là do sự lười biếng, muốn giàu mà lại sợ không dám đổ mồ hôi sôi nước mắt. Muốn bốc lên mau mà lại sợ phải lao động vất vả cực nhọc, nên chi đi “thuổng” của thiên hạ là…thượng sách: - Con ơi học lấy lời cha, Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. Lý do thứ ba là do sự túng quẫn. Đói quá thì phải đi ăn trộm, Túng quá thì phải đi ăn cắp, như người xưa đã diễn tả: - Bần cùng sinh đạo tặc. - Đói ăn vụng, túng làm càn. Từ những lý do kể trên, tệ nạn trộm cắp như gặp được một thửa đất màu mỡ để nảy mầm và lớn lên như nấm sau cơn mưa. Người ta sẵn sàng chôn vùi lương tâm, miễn sao vơ vét về cho thật nhiều. Người ta sẵn sàng cười hô hố trên những khổ đau của người khác, miễn sao những cú làm ăn bất chính của mình được trót lọt. Người ta coi đức công bằng là một cái gì cổ hủ và lỗi thời… xưa rồi Diễm ơi!!! Thế nhưng cho tới ngày hôm nay, công bằng vẫn phải là yếu tố căn bản cho mọi liên hệ xã hội, bởi vì công bằng phải đi trước và làm nền tảng cho bác ái. Thực vậy, nếu không có công bằng thì tình thương sẽ bị méo mó, lệch lạc và sụp đổ. Nếu không có công bằng thì tình thương cũng sẽ đi…đong luôn. Chính vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, trước thánh lễ ngày Chúa nhật, người ta thường đọc: - Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn, thứ bảy chớ lấy của người…thứ mười chớ tham của người. Hai điều răn này xuất phát từ lời Thiên Chúa truyền dạy cho ông Maisen trên Núi Sinai như sau: - Ngươi không được trộm cắp…Ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì của người ta. Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết: - Của cải vật chất là điều rất cần thiết giúp chúng ta sống và sống xứng đáng với nhân phẩm của mình. Thiên Chúa biết rõ điều ấy. Ngài đã quy định hai điều răn trên và đòi buộc chúng ta phải tuân giữ. Sách giáo lý còn xác định một cách cụ thể hơn: - Điều răn thứ bảy dạy ta không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép. Trong phạm vi lấy của người ta một cách trái phép, gã xin ghi nhận có nhiều thứ “ăn” bất ổn mà chúng ta cần phải xa tránh, đó là ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn hối lộ, ăn lời…Tuy nhiên, hôm nay gã chỉ bàn đến mấy vụ “ăn” thông thường mà thôi. Trước hết, đó là ăn trộm và ăn cắp. Theo nghĩa bình dân thì ăn trộm và ăn cắp là lấy của người ta một cách kín đáo bằng tài khéo của mình. Tuy nhiên, ăn trộm nhấn mạnh đến khía cạnh khổ chủ vắng mặt, hay ngủ mê không biết. Chẳng hạn ban đêm lẻn vào nhà người ta mà lấy đi đồ đạc, tiền bạc hay bắt heo, bắt gà, bắt vịt… Còn ăn cắp thì thường được thực hiện nay trước mắt khổ chủ mà khổ chủ cũng không hay. Chẳng hạn lợi dụng lúc chen lấn nhau lên xe, quân gian ác bèn thuổng mất chiếc ví hay rạch cái túi xách, lấy đi tiền bạc, áo quần của thiên hạ. Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời, ông bố dẫn những đứa con của mình đi thăm sở thú. Lúc về tới nhà, thọc tay vào túi quần thì mới hay chiếc ví của mình đã không cánh mà bay. Trong chiếc ví ấy hãy còn một số tiền nhỏ và ông đã tự hỏi: - Việc xảy ra vào lúc nào nhỉ ? Rõ ràng lúc lên xe, mình còn mở ví, lấy tiền trả cho bác tài cơ mà. Có lẽ lúc ngồi trên xe, hay lúc kẻ lên người xuống, quân đạo tặc đã nhanh tay lẹ con mắt “nẫng” mất chí ví của ông bố. Hồi xưa, khi còn phải qua phà ở bắc Mỹ Thuận, có lần gã cũng đã được chiếu cố, phải nếm thử kinh nghiệm đau thương ấy. Lúc đó, gã đang đứng lơ tơ mơ, tựa vào lan can mà ngắm dòng sông hiền hòa, đem lại phù sa cho đồng bằng sông Cửu Long, rồi suy nghĩ tản mạn tới những chuyện trên trời cũng như những chuyện dưới đất. Khi phà cặp bến, gã bèn ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo xe, nhưng bỗng thấy chiếc xắc của mình bị kéo “phẹc mơ tuya”, mở toang hoác từ lúc nào không rõ. Mồ hôi mồ kê vãi ra ròng ròng. Mắt nổ đom đóm. Kiểm tra lại thì phát giác ra bị bay hơi mất một tí tiền còm. Từ lần đó, mỗi khi đi đâu, gã thường để tiền ở một vài chỗ khác nhau: trong túi quần, trong xắc, ngăn ngoài ngăn trong, để lỡ có mất chỗ này thì vẫn còn chỗ kia. Tiếp đến, đó là ăn cướp. Ăn cướp có nghĩa là dùng sức mạnh, dùng vũ lực để uy hiếp hầu cưỡng đoạt của cải người khác một cách công khai. Chẳng hạn vào đêm khuya trên đoạn đường vắng, bọn côn đồ dùng dao búa hay súng đạn chặn đường, rồi giật mất chiếc đồng hồ trên tay thiên hạ. Hay xông vào nhà, trói gô tất cả mọi người lại, đẩy vào phòng tắm, rồi ung dung chiếm lấy tiền bạc, hay dinh tê những đồ đạc quí giá. Qua sách vở cũng như báo chí, gã thấy những kẻ làm nghề này thường kết thành băng, thành đảng. Một khi đã cướp của thì phải lấy đi cho nhiều, hay là lấy đi những thứ quí giá nhất. Đồng thời, cướp của lại thường đi đôi với giết người. Thực vậy, đồng tiền thì liền với khúc ruột. Nhìn thấy tiền bạc do mình ky cóp tích lũy và của cải do mình chắt chiu gầy dựng, bỗng dưng bị lấy đi như vậy, khổ chủ thường ra sức chống cự để bảo vệ tài sản của mình, chứ ít ai dám “bỏ của chạy lấy người”, vì thế bọn cướp phải dùng đến biện pháp mạnh như đánh đập và có khi giết chết để chiếm đoạt cái họ muốn lấy. Sau cùng, đó là ăn gian. Ăn gian là dùng mưu mô xảo trá để lừa gạt hầu lấy đi tiền bạc hay của cải người khác. Chẳng hạn trường hợp của những người buôn bán. Thiên hạ thường bảo: - Phi thương bất phú. Không buôn bán thì khó mà giàu. Để được chóng giàu và “phất lên” một cách mau chóng, thì không thể thật thà như đếm, chân chỉ hạt bột hay thành thực chất phác mà trái lại phải mánh mung, lươn lẹo, gian dối và xảo trá. Thí dụ khi cân đo đong đếm hàng hóa cho người mua, thì phải dùng những chiếc cân thiếu, hoặc những chiếc thước hụt, hầu ăn chạn, ăn bớt được tí nào hay tí ấy. Chẳng hạn trường hợp của những kẻ sản xuất. Họ chế tạo ra những mặt hàng dổm, kém phẩm chất và tung ra thị trường, rồi nhờ quảng cáo, đánh lận con đen, trở thành hàng xịn, hàng tốt, hàng chất lượng cao mà dối gạt các vị thượng đế là khách hàng. Chẳng hạn trường hợp của các nhân viên hay người giúp việc, lợi dụng uy tín, được chủ tin cậy mà bớt xén số tiền đã được trao cho mình. Hiện thời gã đang cắm dùi tại một vùng sâu vùng xa, thuộc vào hàng khỉ ho cò gáy, nên sách vở hơi…hiếm. Suốt tuần qua, gã đã phải chạy toạc cả cẳng, hỏi chỗ này, nhờ chỗ kia để mượn đỡ cuốn “Nghệ thuật ăn trộm và bắt trộm” của Toan Ánh, để dùng làm tư liệu ngâm…kíu. Dù đã kiếm mờ cả con mắt, mà rốt cuộc cũng đành phải chào thua, tìm không ra nổi cuốn sách đó. Hồi xưa gã đã đọc một lần, nhưng bây giờ vì có tí tuổi, nên hay quên, chỉ còn nhớ lõm bõm mà thôi. Gã xin kể lại một vài mánh ăn trộm ăn cắp của người xưa mà Toan Ánh đã ghi nhận. Ở thôn quê Việt Nam, nhiều người đã nuôi ngỗng để coi nhà. Mỗi khi có động dạng, ngỗng sẽ kêu lên quang quác, thay cho tiếng chó sủa. Thế nhưng dĩ độc trị độc. Ngỗng vốn sợ rắn. Biết được yếu điểm này, bọn trộm cắp bèn làm giả một con rắn, rồi quơ quơ trước mặt ngỗng. Và thế là những chú ngỗng liền bị tê liệt, đứng ngây như phỗng đá. Bọn trộm chỉ việc thò tay bắt bỏ vào bị. Còn để bắt trộm vịt, phường đạo tặc hay dùng những mánh sau đây. Mánh thứ nhất đó là bí mật đào một cái hố rồi phủ rơm lên trên. Khi người chăn lùa bày vịt ra đồng ăn và đi ngang qua, thế nào cũng có mấy chú vịt sập bẫy mà rơi xuống hố. Khi người chăn và bày vịt đã đi xa, quân đạo tặc mới xuất hiện và…tóm cổ. Mánh thứ hai đó là dùng một sợi dây nhỏ, một đầu thì buộc lưỡi câu với tí mồi, còn một đầu thì buộc vào một cục đá, rồi để trên những chiếc lá súng lớn. Vịt ăn phải lưỡi câu, bị hòn đá kéo ghì và từ từ chìm xuống dưới nước. Đợi lúc thuận tiện, khi không còn người chăn nữa, phường trộm cắp chỉ việc lội xuống và bắt vịt lên. Tuy nhiên, độc chiêu hơn cả phải kể đến mánh bắt chó. Để bắt trộm chó, chúng cũng có hai mánh như sau. Mánh thứ nhất là dụ khị. Hẳn rằng ai cũng biết chó ở Việt Nam rất thích xơi…phân người. Vì thế, một tên trộm ra bãi rác đầu làng, rồi ngồi…ị để dụ chó đến. Khi chó đang nhởn nhơ xơi món thực phẩm khoái khẩu còn nóng hổi, thì một tên khác cầm chiếc vồ, rón rén đến phái sau, rồi đập mạnh xuống. Tuy nhiên, cần phải nhắm cho kỹ, kẻo thay vì đập vồ xuống chó, thì lại đập vồ xuống đồng bọn thì quả là chí nguy. Mánh thứ hai được gọi là “mỹ cẩu kế”. Hẳn rằng ai cũng biết các nàng chó có mùa tìm bạn bốn phương. Và khi mùa tình yêu tới, do tài đánh hơi trời đã phú ban cho, các chàng chó “đào hoa phong nhã” từ khắp nơi kéo về. Lợi dụng cái “basic instinct”, cái bản năng gốc ấy, chủ nhân của các nàng chó đã nghĩ ra một mưu sâu chước độc như sau: Hắn ta khoét một cái lỗ nhỏ ở bờ tường vây quanh nhà, thả nàng chó ra, rồi lại gọi vào qua cái lỗ nhỏ ấy. Cứ thế, cứ thế mà tập cho quen. Sau khi nàng chó đã vào qua cái lỗ nhỏ, thì các chàng chó “ga lăng” khác cũng lần lượt thò đầu vào theo qua cái lỗ nhỏ ấy. Thế nhưng, vào được chàng nào thì lập tức bị thộp cổ chàng ấy. Quả là tuyệt vời và hết ý. Hồi trước năm 1975, có lần gã được theo chân mấy chàng cảnh sát đi kiếm…mồi. Tối hôm đó, không hiểu tại sao ai cũng thèm nhậu. Thế là cả toán liền đồng ý và nhất trí cử vài người lên xe díp, trực chỉ bãi rác vào đêm khuya. Muốn xơi con chó nào, thì chỉ cần…đoàng một phát, chờ cho chảy hết máu, rồi nhét vào bao bố đem về bót mần thịt. Vì thế, trong những đêm giới nghiêm, Sàigòn yên giấc, bỗng nghe tiếng súng nổ xa xa, gã liền nghĩ ngay tới mấy chàng cảnh sát bắn chó đem về nhậu. Còn rất nhiều những độc chiêu khác nữa mà gã nhớ không ra và nếu có nhớ ra thì cũng không thể kể cho hết. Trong những năm gần đây, giới báo chí tại Việt Nam đã phệu ra hai từ “chôm chỉa” để ám chỉ hành động trộm cắp. Hai từ này xem ra có vẻ nhẹ nhàng hơn, thanh lịch hơn, nhưng lại bao gồm một lãnh vực rộng rãi hơn, bởi vì không phải chỉ lấy đi của thiên hạ tiền bạc, đồ dùng và những thứ vàng bạc đá quí, mà còn lấy đi âm nhạc, thơ văn, hội họa….xơi luôn cái tác quyền mà chẳng tốn một đồng xu cắc bạc nào cả. Nếu so sánh nghề trộm cắp ngày xưa với nghề chôm chỉa hôm nay, gã nhận thấy nghề trộm cắp ngày xưa vừa vất vả, vừa nguy hiểm mà lợi nhuận chẳng được bao nhiêu. Còn nghề chôm chỉa hôm nay ấy hả, vừa nhàn nhã, lại vừa phong lưu, có khi cứ việc ngồi trong phòng gắn máy lạnh, phì phèo điếu thuốc lá mà vẫn ung dung chôm chỉa được của thiên hạ, còn lợi nhuận thì nhiều lúc đếm không kể xiết. Gã xin kể ra một vài trường hợp điển hình mà thôi. Trước hết là chôm chỉa của nhà nước. Chẳng hạn khi mua bán cho nhà nước, ta cứ việc bắt tay với chủ tiệm, tự động nâng giá vật liệu lên rồi ghi vào hóa đơn, mà xơi khoản tiền chênh lệch. Chẳng hạn nhà nước có một dự án xây dựng và đem đấu thầu công khai. Theo luật giang hồ thì ai bỏ giá rẻ thì sẽ trúng. Vậy thì ta cứ việc bỏ giá thật rẻ mạt. Khi dự án đã về tay ta, hoặc ta bán lại cho công ty khác để kiếm tí tiền cò, hoặc là ta bắt đầu thực hiện, nhưng rút bớt vật liệu, rồi cưa đôi số tiền bớt xén ấy cho những vị có nhiệm vụ giám sát công trình. Và như vậy là huề cả làng, hai bên cùng có lợi. Chính vì thế mà những công trình này vừa mới khánh thành thì đã vội sụp lún. Nhưng không sao cả. Sụp lún thì nhà nước lại sửa chữa và ta lại có cơ hội chia nhau đớp hít. Tiếp đến là chôm chỉa của tư nhân. Chẳng hạn chôm chỉa những sáng chế của người khác. Một mặt hàng, sau nhiều ngày đầu tư công sức, mới được tung ra thị trường, thì lập tức liền bị chôm chỉa mẫu mã. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, khắp nơi đều thấy bày bán những thứ hàng “nhái”, giống y chang hàng thiệt, mà giá lại rẻ. Và thế là có người vỡ mặt và sập tiệm. Hồi trước năm 1975, ai cũng biết Bata là một hãng giày vải nổi tiếng tại Việt Nam. Thấy Bata làm ăn có lời, thiên hạ bèn ăn cắp mẫu mã và để đánh lận con đen, rồi gắn cho hàng nhái này một tên mới là Bala. Dân hai lúa miệt vườn làm sao nhận ra cái nào là Bata, còn cái nào là Bala. Cũng như bây giờ, khi Biti’s đang làm mưa làm gió trên thị trường giày dép tại Việt Nam thì bỗng thấy xuất hiện những mẫu mã giống hệt, nhưng là của Bita’s. Quả là đến quỷ thần cũng không phân biệt nổi. Đặc biệt trong lãnh vực văn hóa và nghệ thuật. Do những phương tiện sao chép và in ấn qúa dễ dàng, nạn chôm chỉa tác quyền lại càng lộng hành hơn bao giờ hết. Một cuốn phim vừa mới ra lò ở bên Mỹ, thì liền sau đó đã thấy những dĩa xuất hiện tại Việt Nam. Hồi năm ngoái khi chương trình XP của Microsoft chưa được trình làng, thế mà tại Việt Nam người ta đã cài đặt và sử dụng nó một cách anh dũng. Một người bạn của gã bỏ ra bốn năm trăm triệu đồng để thực hiện một dĩa VCD nhạc đạo. Thiếu tiền phải đi vay mượn thiên hạ. Thế nhưng dĩa nhạc chính hiệu con nai vàng tiêu thụ chưa được bao nhiêu thì đã thấy bày bán tận hang cùng ngõ hẻm những đĩa sao chép với giá thật rẻ. Và để gỡ lại vốn, thì chỉ có nước vác mang sang Mỹ mà bán. Có lần một anh bạn điện thoại cho gã và bảo: - Chắc kỳ này mi làm ăn khấm khớ lắm, bởi vì ta thấy sách của mi bày bán tại Hà Nội, nhưng sao thời buổi này mà in ấn lại có phần lem luốc quá. Và thế là gã mới “ngộ” ra rằng sách của mình đã bị thiên hạ vô tư “mần thịt”, đem đi phôtô cóppy rồi bán, mà chẳng được một lời…cám ơn!!! Ấy là gã chưa bàn đến những vụ chôm chỉa lẻ tẻ, chẳng hạn như chôm một đoạn văn của người khác cho vào bài của mình mà không đề xuất xứ, hay chôm hẳn một bài của báo này thảy lên báo kia mà lại lỡ quên không ghi tên tác giả… Để kết luận, gã xin ghi lại một mẩu chuyện cũng được trích trong sách “Cổ học tinh hoa”. Mẩu chuyện mang tên “Cũng là ăn trộm”. Họ Quốc ở nước Tề rất giàu. Họ Hướng ở nước Tống rất nghèo. Hướng bèn sang Tề hỏi Quốc cách làm giàu. Quốc bảo: - Ta chỉ khéo ăn trộm thôi. Thoạt đầu ta ăn trộm một năm thì đủ dùng, hai năm thì thừa ăn, ba năm thì giàu to. Từ đó trở đi, tài sản ta có đến cả làng, cả tỉnh. Hướng nghe nói mừng lắm, nhưng khốn nỗi chỉ hiểu được câu chuyện ăn trộm chứ không hiểu cái lối ăn trộm ra sao. Lúc về, bèn trèo tường, khoét ngạch, phàm cái gì trông thấy, tay cầm được là cũng lấy tất. Hướng đi ăn trộm chưa được bao lâu, bị bắt quả tang, thành phải tội, cả bao nhiêu của cải lúc trước khó nhọc kiếm ra cũng bị tịch thu hết. Bấy giờ Hướng cho Quốc là đánh lừa mình, đến tận nơi trách. Quốc hỏi: - Anh ăn trộm như thế nào chứ ? Hướng bèn thuật lại cung cách ăn trộm cho Quốc nghe. Nghe xong, Quốc nói: Chết thật ! Cái lối của anh ăn trộm sai lầm đến thế kia ư ! Này, để tôi bảo rõ cho mà biết. Trời có thời tiết, đất có hoa lợi. Ta ăn trộm thời của trời, lợi của đất, sự thuận hòa của mưa gió, những sản vật của non sông, để ta cấy lúa trồng cây, xây tường, làm nhà, trên cạn thì ta ăn trộm giống chim muông, dưới nước thì ta ăn trộm giống loài tôm cá. Nầy lúa mạ, đất cát, cây cối, chim muông, cá mú, ba ba đều là của ăn trời sinh ra cả há có phải của ta đâu. Song ta ăn trộm của trời, nên không có tai vạ gì. Còn như vàng, ngọc, châu, báu, thóc, lúa, của cải đều là người ta làm kiếm ra mới có, há có phải là của trời đâu. Nên anh ăn trộm những của ấy mà phải chịu tội là phải lắm, anh còn trách gì ai nữa… Kể xong câu chuyện này, người làm sách góp ý bàn thêm: “Cách làm giàu không phải ở sự bon chen tranh cướp nhỏ nhen những cái người ta làm ra, nhưng ở sự lợi dụng những vật trời đất sinh ra. Chiếm của riêng của người đã kiếm được mà làm giàu cho mình, thế là không chánh đáng, thế tức là ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, có luật pháp trừng trị, có công lý bắt phải bồi thường lại. Chứ lấy của chung của trời đất, biết lợi dụng những sản vật thiên nhiên, tuy không phải của mình mà lấy thì khác gì ăn trộm, nhưng trộm cái kho vô tận của tạo hóa, chẳng những không ai buộc được tội, mà người ta lại còn phải phục, phải chịu là tài giỏi biết khéo lấy nữa. Muôn vật ở đời không phải là của riêng một ai, hay một loài nào, nhưng của công của cả mọi người, ai khôn thì biết lợi dụng, ai hèn thì chịu bó tay…” Quả là ý vị lắm thay !!! Gã Siêu
Một anh chàng nọ, hẳn đã bị các cô đá lên đá xuống như một trái banh, nên đã cay cú phát biểu GãSiêu 30
Một anh chàng nọ, hẳn đã bị các cô đá lên đá xuống như một trái banh, nên đã cay cú phát biểu như sau: Tivi thú vị hơn đờn bà. Rồi anh chàng hâm hâm này đã đưa ra những nhận định riêng tư của mình như thế này: - Này nhé, tivi chỉ cần một miếng vải che cho đỡ bụi mà không cần chạy theo “mô đen mô điếc” gì cả. Tivi không bao giờ hỏi bạn tại sao về trễ, hay tại sao lại có vết son trên áo. Bạn có thể xem tivi bất kỳ lúc nào bạn muốn và có thể bấm nút “mute” cho nó “im cái mồm”. Chỉ cần ngồi ở nhà với cái tivi, bạn có thể biết tất cả mọi chuyện xảy ra trên thế giới. Tiền điện mỗi tháng cho tivi dĩ nhiên phải ít hơn tiền son phấn, quần áo và sửa sắc đẹp của nàng…Và còn nhiều, còn nhiều điều thú vị khác nữa. Anh chàng khác, đã méo mó nghề nghiệp, phân tích đờn bà con gái theo cung cách của một nhà khoa học và đã công bố kết quả “ngâm kíu” của mình như sau: Về vật lý: Đờn bà con gái, bề mặt thường được phủ một lớp màu sắc, tựa như một bức tranh trừu tượng. Có thể sôi sục vì bất cứ điều gì, nhưng cũng thường đóng băng mà chẳng cần lý do rõ ràng. Sẽ đau khổ nếu không được trọng dụng đúng chỗ. Về hóa học: Có một ái lực rất mạnh đối với vàng bạc và những loại đá quí. Hấp thụ rất nhanh các loại vật chất có tính xa hoa. Thường chuyển sang màu hồng khi bị khám phá ra trong trạng thái tự nhiên và chuyển sang màu xanh nếu bị đặt bên cạnh một đối tượng đẹp đẽ hơn. Còn về công dụng, gã không dám phô ra vì sợ mang tính chất báng bổ, bởi vì nhà ngâm kíu lẩm cẩm này mới chỉ ghi nhận được một vài công dụng phụ như có sức trang trí nhất là trên các xe du lịch và có sức làm thư giãn rất cao mà thôi. Trong cuộc sống, hình như đã có một sự phân công, tuy vô hình nhưng lại khá rõ ràng. Đó là đờn ông thì có bổn phận kiếm tiền, dù có phải vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, còn đờn bà thì có bổn phận phải tiêu tiền. Gã không nhớ rõ, hình như có một câu danh ngôn diễn tả mối liên hệ giữa đờn ông, đờn bà và tiền là như một chiếc vòng lẩn quẩn như sau: Người ta lấy tiền nhử đờn bà, lấy đờn bà nhử đờn ông và lấy đờn ông để…nhử tiền. Hơn thế nữa, để phục vụ cho chồng, người vợ ngày xưa phải lo từ manh quần tấm áo đến cái khăn cái lược. Công việc này được gọi là “nâng khăn sửa túi”. Thế nhưng, những kẻ đầu óc có sạn lại nghĩ rằng việc “sửa túi” ở đây là nắm lấy cái túi tiền của chồng.Sở dĩ có sự phân công như trên, bởi vì người đờn bà thường quản lý và quán xuyến mọi sự trong gia đình, cho nên việc giữ tiền và tiêu tiền phần lớn đều nằm trong tay người vợ, người mẹ.
Thế nhưng, sự đời đâu có phẳng phiu và trơn tru như vậy. Tiền bạc thường là một trong những nguyên nhân chính yếu gây nên hục hặc và đổ vỡ trong nhiều gia đình. Ngày xưa, người ta thường để tiền, nhất là tiền cắc trong những chiếc bao nhỏ, được gọi là hào bao. Riêng các bà các cô lại thường để tiền trong chiếc “ruột tượng”. Ruột tượng là một chiếc bao nhỏ bằng vải thật dài, vừa làm dây lưng vừa đựng tiền bạc. Ngày nay, người ta thường để tiền trong những chiếc hòm hay những chiếc “két” sắt rồi khóa lại cẩn thận. Muốn mở hòm hay mở két thì cần phải có chìa khóa. Chính vì thế, người vợ vốn giữ chân thủ quỹ và quản lý tiền bạc trong gia đình nên được gọi là…tay hòm chìa khóa. Ngặt nỗi tay hòm chìa khóa trong gia đình lại có những tình cảm và phản ứng riêng của mình: Vui khi tiền được nhập vào, nhưng buồn khi phải xuất ra, nên chỉ xuấr ra nhỏ giọt, nếu có xuất ra ồ ạt thì lại chỉ dành cho những chuyện không đâu, thành thử mới bị thâm thủng nặng nề. Gã xin ghi lại nơi đây tâm sự buồn của một anh chồng: - Vợ tôi có tánh rất kỳ, nàng không quan tâm gì tới những khó khăn trong công việc của tôi để chia sẻ, an ủi, khích lệ mà cứ tôi đem tiền về nhiều thì vui vẻ, hớn hở. Còn đem về ít, thì nàng than thở, buồn phiền, trách móc và gây chuyện. Có những lúc thị trường nhà đất đóng băng, việc xây dựng chựng lại hay vật tư lên cơn sốt, tôi phải án binh bất động vì nhận công trình sẽ lỗ sặc gạch. Nàng gây gỗ, có những lời xúc phạm. Tôi không nín nhịn được, phản ứng lại. Không khí gia đình sôi sục như lò phản ứng hạt nhân, hạnh phúc chông chênh bên bờ vực thẳm, con cái ngơ ngác nhìn cha mẹ sắp chia xa… Bình thường, người chồng đi làm đem tiền về cho vợ. Còn người vợ vừa giữ tiền, vừa tính toán làm sao cho việc chi tiêu được cân đối, để khỏi bị vay công mắc nợ. Tuy nhiên, với vai trò thủ quỹ và quản lý, người vợ thường mắc phải một trong hai tình trạng thái quá. Mà đã thái quá thì bất cập. Đó là hà tiện và hoang phí. Trạng thái bất cập thứ nhất đó là tính hà tiện, keo kiệt. Chỉ muốn nhập vào mà không muốn xuất ra. Và nếu có xuất ra thì cũng chỉ xuất ra nhỏ giọt, kèm theo đó là những lời “mắng chó chửi mèo”. Hồi còn nhỏ, gã có một thằng bạn, cứ đến đầu tháng là mặt mũi cu cậu buồn xo như treo cờ tang. Hỏi ra mới vỡ nhẽ: Mỗi lần xin bu tiền đóng học phí, thế nào bu cu cậu cũng giáng cho cu cậu một bài luân lý giáo khoa thư về sự cực nhọc để kiếm ra đồng tiền đồng bạc, khiến cu cậu rất sợ khi phải mở miệng xin tiền cho những nhu cầu chính đáng của mình. Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của một anh chồng có chị vợ rất “keo nặng” thuộc hàng “vắt cù chày ra nước”, “đãi cứt sáo lấy hạt đa”. Anh ta đã giãi bày trên báo Phụ nữ Chủ nhật như sau: Lần cuối tôi vứt đồ ăn xuống cát và hùng hổ với vợ rồi bỏ đi thuộc về năm ngoái…Hay hớm gì kiểu chi li, riết róng tới mức ấy cho cực cái xác, khổ cái tâm mà lại sinh ra kình cãi ồn ào trong nhà chứ! Vẫn biết đã là phụ nữ, đã là vợ, là mẹ, là người giữ trách nhiệm “tay hòm chìa khóa” thì tiêu pha, chi phí gì cho gia đình và bản thân cũng phải được tính toán, chứ không được hoang phí. Bản chất của tôi cũng là một người đàn ông chừng mục trong tất cả mọi chuyện, nhất là chuyện xài tiền và vì thế tôi rất thương quí những người phụ nữ biết căn cơ, thu quén. Tiện tặn là tốt, nhưng tiện tặn kiểu nào chứ kiểu của vợ tôi thì tôi xin đầu hàng. Vợ chồng tôi có một quán giải khát bình dân ở dưới bãi biển. Công việc bận rộn lắm và vợ tôi quay như chong chóng suốt ngày cùng với công việc bán buôn. Tôi đôi lúc còn có thì giờ rảnh rỗi để lê la, lai rai với mấy ông bạn, chứ vợ tôi tuyệt đối là không. Từ sáng đến tối, cô ấy không mấy khi được nghỉ tay. Thương vợ và muốn bồi dưỡng cho ba mẹ con cô ấy, tôi có lỡ trót dại ba lần trong năm nay. Giờ xin tổng kết lại. Lần thứ nhất khi tôi mua về một chục trứng vịt lộn để cả nhà cùng ăn cho vui. Mấy cha con tôi thì đúng là vui thật, nhưng cô ấy thì ngược lại. Cô ấy ca cẩm là tốn nhiều tiền, là hoang phí. Cô ấy xỉa xói tôi là thứ phá của. Cô ấy kể lể sự cực nhọc của mình khi tom góp tiền lời từng ly nước mía, từng hộp sữa tươi. Và tôi không chịu nổi nên đã ném hắt tất cả xuống cát rồi bỏ đi. Lần thứ hai khi tôi mua về nửa ký chả quế Hà Nội vì nghe cô ấy nói mình chưa được ăn loại chả này lần nào. Lần thứ ba là nguyên một con gà nướng thơm lựng và béo giòn. Tôi phải bỏ đi ngay để tránh những cặp mắt tiếc rẻ của các con, để khỏi phải thấy cái mặt “men” vì xót của nơi cô ấy, để dằn lòng, để thương vợ hơn và cũng giận vợ hơn. Sao không thử một lần tôi mua món gì đó ngon ngon về nhà mà cô ấy không kiềng riềng. Ăn liền một phát cho tôi mát cái bụng hay tưng tửng khen tôi một câu cho tôi nở cái mũi. Trạng thái bất cập thứ hai, đó là sự hoang phí theo kiểu “vung tay quá trán”, “con nhà lính tính nhà quan”. Ngặt nỗi sự xuất ra ồ ạt này lại được dành cho những nhu cầu không cần thiết của gia đình hay chỉ để dành riêng cho bản thân mình mà thôi. Vậy đâu là những khoản vốn được phe ta hồ hởi và sẵn sàng chi ra một cách rộng rãi trên cả mức bình thường? Trước hết đó là khoản ăn quà vặt. Ở Việt Nam, bước chân ra đường, xó góc nào cũng có những hàng quà vặt, phục vụ tinh thần ăn uống rất cao của quí bà quí cô. Ca dao vốn đã dành nhiều lời để diễn tả về “đức tính” này:
-Nhạt mồm chẳng muốn ăn quả, Có mía súc miệng được vài bốn cây. -Đi chợ hết tám tiền quà, Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Một đồng là chín củ khoai, Mẹ ăn một thì con ăn hai. Mẹ sai con đi bốc muối thì khoai chẳng còn. Con ngồi con khóc nỉ non, Mẹ cầm cái vọt lon xon lên rừng…
Theo Hoàng Thiếu Phủ, thì từ xa xưa trong truyền thuyết dân gian đã xuất hiện hai “siêu sao” điển hình cho tính ăn hàng của đờn bà con gái, đó là cặp bài trùng bà Rằn, bà Rí. Đối với bà Rằn, ca dao đã diễn tả: - Bà Rằn đi chợ miền quê,Thấy hàng chả chó, lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ? Ba đồng một gắp, lẽ nào chẳng mua. Nói dối rằng mua cho chồng, Đi đến quãng đồng, ngả nón ra ăn. Về nhà đau quẳn đau quăn dạ này, Đem tiền đi bói ông thày. Bói ra quẻ này những chả cùng nem. Ông thày nói dối đã quen, Nào tôi ăn chả, ăn nem bao giờ. Còn đối với bà Rí, thì có một mẩu chuyện vừa buồn cười lại vừa dễ thương như sau: Bà Rí vốn rất yêu chồng. Biết chồng thích uống rượu, nên mỗi lần đi chợ bà thường mua thêm một món “ngoài luồng” để chồng đưa cay. Hôm ấy gặp món lòng lợn luộc, vừa ngon lại vừa rẻ, bà Rí mua mấy lạng bỏ vào rổ đội lên đầu mang về. Dọc đường, bà Rí thòm thèm, thỉnh thoảng lại đưa tay lên đầu bốc một miếng lòng lợn bỏ vào miệng. Về đến cổng nhà, bà Rí vội kêu réo chồng: - Mình ơi, ra nhanh lên, xem có cái gì dành cho mình đây nè? Thế nhưng, khi bà Rí hạ chiếc rổ xuống thì mới hay cả gói lòng lợn luộc đều đã bốc hơi, chỉ còn lại miếng lá chuối. May sao trong rổ có một gói dưa giá. Bà Rí nhanh trí nói: - Chợ hôm nay chẳng có gì cả, em mua cho mình gói dưa giá này để mình nhắm rượu đỡ vậy. Từ đó cho đến nay, cái máu ăn hàng của hai bà đã thấm qua nhiều thế hệ hậu duệ như một thứ “gien” di truyền. Con cháu hai bà ngày càng đông thì nhu cầu ăn hàng lại càng lớn. Chả thế mà các kiến trúc sư vẽ kiểu chợ rất am hiểu tâm lý đờn bà con gái. Mỗi cái chợ, dù là chợ nhà lồng, chợ chồm hổm, chợ chuồng bò, đều có một khu trung tâm thuận lợi dành cho việc ăn hàng. Khoản tiền ăn hàng này dĩ nhiên chẳng bao giờ được báo cáo công khai với gia đình, nhưng được luồn lách bằng cách tính bổ vào các khoản chi khác trong buổi chợ. Do việc bội chi này, chúng ta thường nghe không ít các bà các cô đi chợ luôn than một câu rất quen thuộc: - Chợ hôm nay cái gì cũng đắt. Rất hiếm khi họ khen được một tiếng “rẻ”. Tác phong của việc ăn quà cũng đã được diễn tả:
- Vào hàng bánh ít chả tôm, Hai tay lột lá, miệng mồm há ra. - Chồng chê vợ xấu không ham, Vợ chê làm bếp, ăn hàng vểnh tai. Vì sợ người quen bắt gặp, nên khi ăn hàng, các bà các cô thường cúi mặt xuống như muông chim một cách kín đáo. Trong tư thế đó, tuy giấu được cái mặt nhưng không thể giấu được đôi tai. Vì thế mới có thành ngữ “ăn hàng vểnh tai”. Có kẻ đã định nghĩa chiếc cặp của các nữ sinh chính là một cái chạn, một kho bãi chất chứa mọi thứ ăn được, từ trái me trái cóc đến quả xoài quả mận và không bao giờ quên một gói muối ớt.Có cô nàng còn tuyên bố hách xì xằng: - Không ăn hàng, không phải là đờn bà con gái. Mỗi lần được tháp tùng bà chị hay cô em đi thành phố, gã không bao giờ lo bị đói, bởi vì trong suốt cuộc hành trình dài, miệng bà chị hay mồm cô em luôn tóp tép nhai nuốt một thứ gì đó. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, chuyện ăn hàng của đờn bà con gái là điều bình thường, đáng mừng và đáng cảm thông, đôi khi lại còn mang cái nét duyên thầm nữa là khác. Ông bác sĩ giải thích: - Ở người phụ nữ, cơ thể của họ phải trải qua nhiều biến động đặc biệt như tuổi dậy thì, ngày hành kinh, thời kỳ mang thai, hay cho con bú. Một cơ thể phụ nữ tốt thường phải tiêu hao nhiều năng lượng trong những thời kỳ ấy. Do đó, tuy ăn ít bởi vì “nữ thực như miêu”, con gái vốn ăn như mèo, nhưng họ cứ thèm ăn vặt suốt ngày, nếu không muốn nói là suốt đời, chính là để nạp đủ năng lượng cần thiết. Và rồi ông bác sĩ đã kết luận: - Gia đình và xã hội nên tạo điều kiện thuận lợi để phe đờn bà con gái có thể ăn hàng một cách thoải mái. Không hiểu lời kết luận này có chí lý lắm không. Riêng phần gã, gã vẫn thích lời khuyên của câu ca dao sau đây:
- Đi chợ thì chớ ăn quà, Về chợ thì chớ rề rà ở trưa. Dù ai bảo đợi bảo chờ, Thì em nói dối con thơ em về.
Tiếp đến, đó là khoản sửa sắc đẹp, tu bổ ngoại hình cho bắt mắt. Có một câu “ranh ngôn” đã bảo: - Thượng đế cũng không phải là nhà sáng chế hoàn hảo, bởi vì người ta đã phải lập ra nhiều mỹ viện nhằm cải thiện phần nào các tác phẩm do Ngài tạo nên. Như chúng ta đã biết phe đờn bà con gái vốn được gọi là phái đẹp. Và quả thực họ cũng đẹp ra phết đấy chứ. Vì thế, làm đẹp phải là nghề của các nàng. Lại cũng một câu tuyên bố hách xì xằng nữa: - Đờn bà con gái mà không làm đẹp thì chẳng còn là đờn bà con gái nữa. Với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, các mỹ viện ngày nay mọc lên như nấm và người ta có thể làm được nhiều chuyện: Mắt một mí thì sửa thành hai cho nó tình tứ. Miệng hô thì sửa cho gọn gàng, để khỏi phải lấy tay che khi nở nụ cười mím chi. Mũi tẹt thì sửa cho nó cao. Ngực lép thì sửa cho nó to. Rồi thì cắt chỗ này, vá chỗ kia. Chỉ cần liếc qua những hàng quảng cáo trên báo là đã thấy mê tít thò lò, chẳng hạn: - Tạo làn da trắng mịn sau một lần tắm sữa. - Giảm từ một đến ba ký sau một lần điều trị. - Làm cho bụng nhỏ, eo thon… Nhiều bà nhiều cô ở ngoại quốc, trong thời gian về thăm quê hương, đã tranh thủ tới các mỹ viện để sửa chỗ này, chữa chỗ kia, bởi vì giá cả ở Việt Nam vốn tương đối rẻ. Dĩ nhiên chẳng ai có quyền cấm cản quí bà quí cô làm đẹp. Thế nhưng, trong lãnh vực này cũng cần phải lưu ý một vài điểm chính yếu: Chẳng hạn phải chọn những chuyên viên có tay nghề cao, dùng những mỹ phẩm “chính qui”, bằng không làm đẹp lại hóa thành làm xấu và còn mang họa vào thân, như trường hợp bơm hay độn chất silicone. Chẳng hạn phải cân đối ngân sách trong gia đình, đừng vì chuyện làm đẹp cho riêng mình mà gia đình bị thiếu hụt. Chẳng hạn phải biết mình làm đẹp cho ai và làm đẹp như thế nào cho phù hợp với vóc dáng của mình, bằng không sẽ bị thiên hạ cười vào mũi: - Đen thủi đen thui cũng lượt là. Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của anh chồng - Vợ tôi hay làm đẹp. Tôi không hề phản đối mà trái lại còn ủng hộ hết mình. Người đàn ông nào lại không thích vợ mình ngày càng đẹp. Tôi không tiếc gì khi nàng mua sắm quần áo, mỹ phẩm, miễn là những thứ đó làm cho nàng đẹp lên. Tôi nói thế vì nhiều khi nàng đổ rất nhiều công sức và tiền bạc mà hiệu quả hình như ngược lại. Thế mới đau, mà đau nhất là tôi, vì phải ngắm nhìn những “bản sao bị hỏng” đó hàng ngày, hàng đêm. Vợ tôi trước đây có mái tóc thề bỏ xõa ngang vai rất đẹp, nhưng rồi khi cô ca sĩ nọ nổi lên, được báo chí lăng xê hết mình, lập tức nàng cắt ngắn mái tóc ấy không chút thương tiếc. Tôi công nhận mái tóc ấy hợp với một số người nhưng nó hoàn toàn không hợp với nàng. Tôi góp ý, nàng cho tôi là bảo thủ, là độc đoán. Tóc của nàng chứ phải tóc của tôi đâu mà có ý kiến ý cò…Một hôm nàng ra phố, rồi về nhà với cái mũ nồi tùm hụp và một cặp kiếng đen khiến tôi cứ tưởng là điệp viên…không không bảy. Riết rồi tôi thấy nàng hơi xa lạ, không còn là người mà khi mới gặp, tôi đã vui mừng nhận ra đó chính là nửa kia của tôi, đó chính là chiếc xương sườn cụt của tôi. Sau cùng, đó là khoản mua sắm. Trong lãnh vực này, gã chả có được mấy tí kinh nghiệm, nên bèn phải mượn đỡ những lời phát biểu của những chiến hữu dày dạn sương gió được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật. Trước hết, đức tính “dễ thương” bẩm sinh của đờn bà con gái là khoái mua sắm, còn gọi là “hội chứng sốp-ping”. Mấy bà mấy cô mà vào chợ, vào siêu thị, vào “sốp”, hay đơn giản là…ghé chợ chồm hổm bên lề đường, thì cứ như lạc vào mê hồn trận. Thứ gì cũng hoa mắt, muốn mua, muốn sắm. Chợ thì ngày nào cũng đi, cũng lượn từ đầu chợ đến cuối chợ, rồi lặc lè mang về hàng đống thức ăn, tiêu thụ cả tuần mới hết, rồi hôm sau lại đi chợ. Tuy là mua rẻ, nhưng để lâu bỏ đi phân nửa thì cũng thành mắc. Mấy bà mấy cô lại dễ bị dụ khị bởi chiêu “khuyến mãi” của người bán, thành ra tiền nong trong nhà cứ lần lượt ra đi một cách “vô tổ chức”. Tiền ít, thì lại sa vào cái bẫy mua trả góp. Cái gì cũng góp khuân về nhà, thậm chí nhà mình chưa cần đến nhưng vì hàng xóm đã có, nên mình cũng phải mua, rồi hàng tháng ky cóp trả không nổi, nợ nần chồng chất, vợ chồng gấu ó nhau, mệt. Cao cấp hơn nữa là khoản thời trang, đẹp thì có đẹp nhưng chủ yếu là người khác ngắm, chứ các đức ông chồng thì đã quá quen mất rồi, có sửa mắt cắt môi hay khoác thời trang cao cấp, thì cũng vẫn là vợ mình, chỉ lo ngân quĩ gia đình ngày càng cạn kiệt. Chẳng phải các bà các cô không biết cân đối chi tiêu, nhưng khi “máu” đã bốc lên thì không kiềm chế được. Nạn nhân của hội chứng này là các đức ông chồng, nhất là mấy ông thích chứng tỏ sự ga-lăng hoặc nín nhịn mà không dám can vợ. Nhẹ thì mất thời giờ, nặng thì hao tốn tiền bạc. Cứ thế mà liên tục phát triển, thành thử không dám giao cho các bà các cô quản lý ngân quỹ gia đình nữa, rồi lặng lẽ âm thầm thành lập quỹ riêng, ảnh hướng không tốt đến tình nghĩa vợ chồng. Không giao quản lý tiền bạc thì bị coi là “keo kiệt”, là để dành cho “con nào”? Mà giao tiền cho các bà các cô có “máu tiêu xài vô kế hoạch” quản lý, khác nào…giao trứng cho ác. Thật là khó xử. Một ông chồng khác lại cả tiếng than thở: - Sống với nhau, ban đầu tôi cảm thấy mình như trẻ đi mười tuổi. Sự hồn nhiên đôi khi ngây ngô của nàng khiến tôi phải mỉm cười một mình mỗi khi nhớ đến. Tôi như cuốn hút tất cả tâm trí vào nàng. Nhưng cuộc sống vợ chồng đâu thể nhìn nhau suốt ngày là đủ, nó còn biết bao nhiêu việc phải làm, biết bao nhiêu điều phải tính. Nàng nay là vợ, là chủ một gia đình, dầu gia đình mới chỉ có hai người nhưng tương lai nàng còn là mẹ của những đứa con. Thế nhưng, không những nàng vẫn giữ tính nhõng nhẽo, đua đòi như thời con gái mà còn có chiều hướng gia tăng hơn, khi nàng nắm trong tay cái túi tiền gia đình. Mỗi khi lĩnh lương, tôi đưa hết cho nàng và lập tức ngày hôm sau trong nhà tôi có nhiều thứ mới lạ xuất hiện, nhất là tủ quần áo và kệ giày dép, nó luôn luôn được nàng “cập nhật hóa” liên tục. Theo gã nghĩ tiền bạc là do công lao vất vả của mọi người trong gia đình, vì thế nó phải được tiêu dùng chung, nhằm bảo đảm một cuộc sống ấm no, chứ không phải tiền anh, tiền em và mạnh ai người ấy xài, nhất là xài hoang phí cho những chuyện không đâu. Với những nhu cầu cần thiết và chính đáng, thì dù tốn kém bao nhiêu cũng phải chi. Còn với những thứ xa xỉ và thừa thãi, thì một đồng một cắc cũng không. Nói tới đờn bà con gái là nói tới cái đẹp, tình yêu và hạnh phúc. Nếu thế gian này không còn phe đờn bà con gái thì cánh đờn ông con giai cũng chẳng thiết sống nữa. Đờn bà con gái sinh ra…tất cả. Vì thế, trên đời này ngu nhất là đi nói xấu đờn bà con gái.
Và lúc này, gã đang dại dột phạm phải cái ngu… tuyệt vời ấy. Gã Siêu