Theo sự diễn tả của các cụ ta ngày xưa thì con nhà có đạo được gọi là con nhà… “hai phần”, phần GãSiêu 31
Theo sự diễn tả của các cụ ta ngày xưa thì con nhà có đạo được gọi là con nhà… “hai phần”, phần hồn và phần xác. Con nhà có đạo ấy khi lớn lên sẽ chọn cho mình một trong hai ngả đường đời. Một là đi vào cuộc sống tu trì, như mấy cha, mấy dì, mấy thầy…dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Hai là đi vào cuộc sống lứa đôi, như hầu hết bàn dân thiên hạ đã làm, dấn thân xây dựng một mái ấm gia đình. Nếu chọn nếp sống tu trì, thì cũng phải lựa cho mình một hướng đi, đó là tu triều hay tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng. Tuy nhiên, nếu chọn tu dòng, thì cũng phải lựa cho mình một linh đạo, hay nói một cách cụ thể hơn, phải lựa cho mình một dòng để mà đầu tư công sức vào đó. Bởi vì trong lòng Giáo hội, có rất nhiều dòng và mỗi dòng lại theo đuổi một lý tưởng khác nhau, như một thửa vườn với muôn hoa khoe sắc. Tuy cùng phục vụ Chúa và người khác, nhưng mấy sư huynh Lasan lại chuyên về dạy học, mấy thầy Gioan Thiên Chúa lại chuyên về chăm sóc các bệnh nhân, mấy cha Don Bosco lại chuyên về giáo dục giới trẻ…Và cách riêng là các dòng nữ. Thực vậy, nếu hỏi rằng: - Trên thế gian này có bao nhiêu dòng nữ? Một người có óc khôi hài và được liệt vào hạng cũng thích đùa, đã trả lời như sau: - Đức Chúa Trời là Đấng thông minh sáng suốt vô cùng, thế mà Ngài cũng đành phải bó tay, không biết chính xác hiện nay trên thế gian có bao nhiêu dòng nữ! TU THÂN Qua những gì vừa trình bày, chữ tu được hiểu theo nghĩa hẹp của Công giáo. Còn nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi và sửa đổi khuyết điểm, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, nhân vô thập toàn. Đã là người, thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm, chẳng ai là người hoàn thiện. Vì thế, việc tu thân, hay nói cách khác, việc sửa mình phải được coi như là điểm khởi đầu cho trật tự xã hội. Sách Đại Học có viết: “Từ vua cho đến dân, nhất thiết phải lấy việc tu thân làm gốc”. Hay như người xưa cũng đã bảo: “Phải tu thân trước đã, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”. Theo Nho Giáo, muốn tu thân, thì phải: cách vật, trí tri, thành ý và chánh tâm. Thực vậy, muốn sửa mình cho thành người đức hạnh hoàn toàn, trước hết phải giữ cái tâm của mình cho chánh (chánh tâm), cái ý của mình cho thành (thành ý), rồi sau đó mới cách vật, trí tri được, nghĩa là mới hiểu rõ các sự vật và biết đến tận cùng cái biết. Giữ cái tâm của mình cho chánh, có nghĩa là đừng để cho sự tức giận, sợ hãi, vui buồn… làm cho cái tâm của mình chếch lệch, không còn hiểu rõ cái nghĩa lý ngay thẳng. Khi đã bị những sự ấy làm rối loạn cái tâm của mình, thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết ngon, bởi thế cho nên bao giờ ta cũng phải giữ cái tâm cho chánh. Giữ cái ý của mình cho thành, có nghĩa là không dối mình, đối với việc gì cũng cứ thành thật, như ghét mùi thối, yêu vẻ đẹp, ý mình thế nào thì cứ chân thực bày tỏ ra như thế, chớ không dối trá chút nào. Bởi thế, người quân tử phải cẩn thận giữ tư tưởng của mình, ngay cả trong khi ngồi một mình. Tâm đã chánh, ý đã thành, thì tự nhiên cái lương tri, lương năng của mình, tức là cái minh đức trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ chỗ sâu xa, làm điều gì, hay là đối phó với cảnh huống nào, cũng trung dung, cũng điều hòa và rất hợp đạo lý. (Theo “Nho Giáo” của Trần Trọng Kim). Nói như vậy xem ra có vẻ trừu tượng và xa vời. Gã xin bàn đến một vài kinh nghiệm cụ thể trong cuộc sống thường ngày. Thực vậy, việc tu thân hay sửa mình đòi hỏi chúng ta cần phải kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng. Người ta kể lại rằng: Tamerlan là một vị tướng đánh đâu thua đấy. Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ và càng đánh thì lại càng thua. Trong một cuộc bàn luận trao đổi với bộ sậu của mình, để rút ưu khuyết điểm, ông bỗng nhìn thấy một con kiến đang bò lên đỉnh lều. Lên gần tới đỉnh thì lại bị tụt xuống. Cứ thế, cứ thế đến ba bốn lần con kiến mới bò lên tới đỉnh lều. Trước hình ảnh con kiến ấy, ông đã quyết định và truyền cho các binh lính: - Chiến đấu, chiến đấu mãi, chiến đấu không ngừng, cho đến khi nào chiến thắng mới thôi. Và cuối cùng, ông đã chiến thắng. Chúng ta cũng vậy, trong cuộc chiến chống lại những thói hư tật xấu, chúng ta giống như người bơi ngược giòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị giòng nước, là những đam mê sai trái, cuốn trôi. Một người nghiện rượu đã chừa bỏ tật xấu này bằng cách trước khi ngồi vào bàn nhậu với các “chiến hữu”, ông bèn nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, cuối cùng chiếc ly đầy nến và ông không còn nghiện rượu nữa. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta thường có hai thái độ. Thái độ thứ nhất, đó là thiếu kiên nhẫn. Thực vậy, trong những giây phút sốt sắng, chúng ta cảm thấy mình tội lỗi, nên đã dốc quyết uốn nắn lại khuyết điểm này, sửa đổi lại tật xấu kia. Những ngày đầu, chúng ta hăng hái bắt tay vào công việc đổi mới này, thế nhưng cái quyết tâm của chúng ta chẳng kéo dài được lâu, có khi chưa đủ ba bảy hai mươi mốt ngày, thì đã tàn lụi như một ngọn lửa rơm, để rồi cuối cùng mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực. Chúng ta vẫn dậm chân tại chỗ và chỉ là một kẻ tầm thường, xoàng xĩnh mà thôi. Thái độ thứ hai, đó là ngại cố gắng, nên cứ mãi sa lầy trong đám bùn nhơ, không ngoi lên được. Chúng ta giống như chú vịt trời theo đàn bay về phương bắc. Vào một buổi chiều, khi đáp xuống nông trại, chú thấy bầy vịt nhà đang được ăn bắp và thế là chú bèn nhập bầy để được ăn no. Bữa ăn quá ngon khiến chú không còn muốn bay theo đàn nữa. Chú tự nhủ:
- Để mai mốt mình sẽ bay theo cũng chưa muộn. Nhưng rồi ngày này qua ngày khác, chú vẫn cứ ở lỳ với bầy vịt nhà để được muôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt trời từ phương bắc bay xuống phương nam, các bạn cũ kêu chú trở về khi bay qua nông trại. Chú vịt trời cố gắng đập cánh bay lên, nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, chú chỉ bay được lên nóc nhà, rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi và hưởng thụ ở nông trại đã làm cho chú không còn bay được như xưa nữa. Chú đành phải đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần. Từ đó, mỗi mùa xuân và mỗi mùa thu, chú vịt trời đều thấy các bạn cũ bay lên phương bắc, rồi lại bay trở xuống phương nam. Mới đầu chú còn thèm thuồng số phận đó, nhưng dần dần ước vọng ấy bị mờ phai và chú bằng lòng sống dưới đất với bầy vịt nhà trong nông trại. Một kinh nghiệm khác cũng cho thấy: phải quyết tâm diệt trừ tật xấu ngay từ thuở ban đầu, bởi vì càng để lâu càng khó sửa. Trên chiếc áo trắng có một vết bẩn nhỏ, chúng ta giặt ngay, thì có thể tẩy xoá vết bẩn một cách dễ dàng. Thế nhưng, nếu chúng ta để cho chiếc áo ấy vàng ố, lúc bấy giờ thật khó mà giặt cho sạch. Ngày nọ, ông thầy cùng với cậu học trò đi ngang qua một khu rừng. Bỗng dưng, ông thầy dừng chân và chỉ vào ba cây mọc gần đó. Cây thứ nhất mới nhú lên khỏi đất. Cây thứ hai lớn hơn và cây thứ ba đã thành cây to. Ông thầy bảo: - Con hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu học trò đã nhổ lên một cách dễ dàng. Ông thầy lại bảo: - Hãy nhổ tiếp cây thứ hai. Cậu học trò phải dùng cả hai cánh tay lay tới lay lui, mãi một lúc sau mới nhổ lên được, mồ hôi mồ kê toát ra như tắm. Ông thầy lại bảo: - Bây giờ con hãy cố gắng nhổ cây thứ ba. Cậu học trò cũng phải dùng hai cánh tay ôm lấy thân cây. Cậu ra sức lay, nhưng thân cây chẳng hề nhúc nhích. Cuối cùng, cậu đành bó tay chịu thua, không thể nhổ lên được. Lúc bấy giờ, Ông thầy mới cắt nghĩa: - Đó con thấy không? Về các tính hư tật xấu của chúng ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng bén rễ sâu trong tâm hồn và trong thân xác, thì chúng ta khó mà trừ khử. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Uốn cây từ thuở còn non, Dạy con từ thuở con còn đương thơ.
Hay như danh ngôn phương tây cũng đã nói: - Bé ăn trộm một trái trứng, lớn lên sẽ ăn trộm cả con bò!
TU NHÀ VÀ TU CHỢ Theo “Từ Điển Bách Khoa Việt Nam”, về việc tu thân, sửa mình, “khoa học hiện nay có khái niệm tự giáo dục: cá nhân trau dồi năng lực hoạt động đạo đức, hình thành ý thức đạo đức của mình, hoàn thiện những tính tốt và khắc phục những thói xấu. Phương pháp của tự giáo dục không chỉ là học tập để có tri thức và đạo đức, mà chủ yếu là tích cực tham gia vào thực tiễn xã hội, bởi vì chỉ có trong quá trình tham gia thực tiễn xã hội, con người mới cải tạo và hoàn thiện bản thân”. Câu trích dẫn trên đây mang nặng tính cách lý thuyết và trừu tượng, riêng gã thì thích kiểu nói cụ thể hơn, đó là môi trường bên ngoài, như gia đình và xã hội, sẽ giúp chúng ta dễ dàng tu thân, sửa mình, đồng thời việc tu thân, sửa mình của chúng ta sẽ là một góp phần làm cho gia đình và xã hội được tốt đẹp hơn. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa vốn thường chủ trương chữ tu kia cũng có ba bảy đường.
- Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Vì là con nhà có đạo, nên gã xin sửa lại của câu ca dao này thành:
- Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng. Trước hết là việc tu tại gia, các cụ ta ngày xưa đã xác định một cách rõ ràng và minh bạch:
- Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu. Chuyện xưa kể lại rằng: Dương Phủ, người đời nhà Minh, đỗ tiến sĩ và nổi tiếng là một vị quan thanh liêm. Lúc nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cày cấy để phụng dưỡng song thân. Một hôm nghe bên đất Thục có một vị Vô tế đại sĩ, tức là một nhà tu hành vô cùng đắc đạo, ông bèn thưa với song thân xin từ biệt ít lâu để theo hầu bậc Vô tế. Đi được nửa đường, gặp một lão tăng, vị này bảo ông rằng: - Gặp được bậc Vô tế không bằng gặp được Phật. Ông hỏi: - Phật ở đâu? Vị lão tăng nói: - Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo như thế này, đi đôi dép như thế kia, thì đó chính là Phật đấy. Dương Phủ háo hức quay trở về, dọc đường không gặp một ai như thế. Đến khuya mới tới nhà, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá vội vàng xỏ ngược cả đôi dép, áo sống xộc xệch ra đón. Dương Phủ ngẩn người nhìn, thì ra đấy chính là hình dáng Phật mà vị lão tăng đã chỉ dạy. Ông chợt ngộ ra thâm ý trong lời dạy của vị lão tăng. Từ đấy ông ở nhà, hết lòng thờ kính cha mẹ, không phải cầu kỳ đi mộ Phật ở đâu xa nữa. Chính Đức Phật cũng đã từng dạy các đệ tử: - Sinh thời không gặp Phật, khéo phụng dưỡng cha mẹ, tức là thờ Phật vậy (Kinh Pháp cú). Trong truyền thống đạo đức của người Việt Nam, hiếu với cha mẹ là một trong những đạo lý hàng đầu, thiêng liêng và cao cả. Có sự thành công nào của những đứa con, mà đằng sau không có bóng dáng của những người cha, những người mẹ tuyệt vời? Và như vậy, tu tại gia hay tu nhà có nghĩa là cứ ở tại nhà, tại gia đình của mình mà tu bằng cách sống đúng với đấng bậc của mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau. Trong giờ giáo lý, chị giảng viên kể cho các em nghe mẩu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ năm tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột. Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn để leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp: - Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à. Đây là một lời nói đơn sơ, nhưng quả thực có một ý nghĩa sâu xa khiến chúng ta phải suy nghĩ. Làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm. Tuy nhiên, chúng ta không phải chỉ sống với những người thân yêu trong cùng một mái ấm, mà hơn thế nữa chúng ta còn phải sống với những người khác, mỗi khi bước chân vào xã hội, vì thế mới nảy sinh ra một thứ tu khác, được gọi là…tu chợ. Tu chợ có nghĩa là tu tại chợ cũng như tại phố xá, tu giữa tiếng ồn ào của xe cộ cũng như giữa những sinh hoạt tấp nập của cuộc sống, tu giữa những vất vả của nghề nghiệp cũng như giữa những bươn chải kiếm tìm cơm áo gạo tiền. Tóm lại, tu chợ là tu giữa giòng đời, hay nói một cách chuyên môn hơn, là tu giữa đời, tu tại thế, tu ngay trong trần gian. Viết tới đây gã bỗng nhớ tới lời kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assie và tìm thấy trong đó cả một chương trình cho việc tu chợ: “Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Cũng trong chiều hướng ấy, Công Đồng Vaticanô II đã kêu gọi chúng ta, là những người sống giữa đời và làm việc với đời, hãy trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong đêm tối, nghĩa là trở nên chứng nhân cho đức tin giữa lòng cuộc đời. Việc tu chợ như thế sẽ biến chúng ta thành một bông sen như ca dao Việt Nam đã diễn tả: - Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thảo nào mà trong lòng Giáo Hội hôm nay, các thứ dòng ba, các thứ tu hội đời, các thứ phong trào tại thế…đua nhau mọc lên như nấm sau cơn mưa, hay như trăm hoa đua nở, báo hiệu một mùa xuân mới!!! Gã Siêu
Đêm. Ánh trăng vàng đổ xuống ê hề trên một khoảng sân rộng. Gió thổi mơn man. Xấp nhỏ đang GãSiêu 32
Đêm. Ánh trăng vàng đổ xuống ê hề trên một khoảng sân rộng. Gió thổi mơn man. Xấp nhỏ đang chơi trò “Vân Tiên”. Chúng chia thành hai phe, đối đáp nhau bằng những vần thơ thật dễ thương, một phe vần a, còn một phe vần ô, để xem phe nào nhanh trí, còn phe nào bí lối thì liền bị thua. Bị thua thì phải cõng phe kia chạy một vòng quanh sân. Một người xướng: Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, Phe a: Đụng phải bà già, cõng mẹ chạy vô. Vân Tiên cõng mẹ chạy vô, Phe ô: Đụng phải nhỏ bồ, cõng mẹ chạy ra. Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, Phe a: Đụng phải…đờn bà, cõng mẹ chạy vô. Vân Tiên cõng mẹ chạy vô, Phe ô: Đụng phải thầy đồ, cõng mẹ chạy ra. Cứ thế và cứ thế…Những tiếng cười lanh lảnh, trong suốt như pha lê, không hề chất chứa một tí ti ý đồ đen tối nào cả vang lên giữa đêm khuya thôn dã… Còn gã, đang ngồi căng mắt để đọc cho hết một chồng báo mới mua. Nói theo kiểu con nhà có đạo thì: Đã trót ăn cơm Chúa, thì phải múa tối ngày. Còn nói theo kiểu mấy ông cán bộ nhà nước thì: Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Tiếng dế quyện lẫn với tiếng muỗi vo ve tạo thành một bản hợp xướng tuyệt vời mà dân thành thị bây giờ có nằm mơ cũng chẳng thấy. Bất ngờ gã liếc qua một bài viết ngăn ngắn có tựa đề: “Chạy + Y = ?” của tiến sĩ Phạm Văn Tình, đăng trên tờ “Tuổi trẻ Chủ Nhật” số 44-03, ra ngày 02 tháng 11 năm 2003. Càng đọc, gã lại càng cảm thấy “tâm đầu ý hợp” với tác giả: Tuyệt…Thật là tuyệt vời! Vì thế, hôm nay gã xin mượn đỡ một vài ý tưởng của bài viết ấy, để tán dài tán rộng hơn một chút xíu về động tác…chạy. Động từ chạy trong ngôn ngữ Việt Nam mang rất nhiều nghĩa, và có những nghĩa chẳng liên quan gì tới chân, tới cẳng. Chẳng hạn: Dãy núi này chạy dài từ Châu Đốc tới Tịnh Biên. Chạy có nghĩa là chịu thua, như khi chúng ta bảo: Bạc chửa thâu canh đã chạy làng. Chạy có nghĩa là lưu loát, thông suốt, không vấp váp và cũng không ế ẩm, như khi chúng ta xác quyết: Anh ấy nói chạy tiếng Ăng Lê quá. Cô ta bán hàng chạy đấy chứ. Tuy nhiên, những nghĩa trên đây chỉ là những nghĩa phụ thuộc, những nghĩa lẻ tẻ mà thôi. Gã sẽ bàn đến những ý nghĩa chính yếu của động tác…chạy. Trước hết, chạy có nghĩa là di chuyển thân thể với những sải bước nhanh, chân này chưa kịp động tới đất thì chân kia đã giơ lên: - Đường dài ngựa chạy cát bay, Nghĩa nhân thăm thẳm, một ngày một xa. Hồi còn bé, gã được học trong sách “Quốc Âm Giáo Khoa Thư” về một câu đố như sau: Con gì ban sáng nó đi bốn chân, ban trưa nó đi hai chân, còn ban chiều nó đi ba chân.Xin thưa rằng: Đó là con người. Ban sáng có nghĩa là khi mới sinh ra, chúng ta bò bằng cả hai tay lẫn hai chân, như vậy vị chi là bốn chân. Ban trưa có nghĩa là khi trưởng thành, chúng ta đứng thẳng và đi bằng hai chân. Còn ban chiều có nghĩa là khi đã về già, chúng ta phải chống thêm một chiếc gậy, như vậy vị chi là ba chân. Nếu dựa vào câu đố này, thì chạy phải là một đặc tính của người trẻ. Trẻ về phần xác cũng như trẻ về phần hồn, bởi vì trên thế gian này có nhiều người “nhân lão, tâm bất lão”, hình dong bên ngoài thì già, nhưng cõi lòng bên trong thì vẫn trẻ măng và phơi phới. Con nít mới bảy tháng biết bò, thì không thể nào mà chạy. Còn các cụ mang nặng tuổi đời, phải chống gậy mà đi, thì cũng chẳng thể chạy nổi. Tùy theo vận tốc, mà người ta có những kiểu chạy khác nhau, chẳng hạn bon bon, chạy như bay, chạy có cờ, chạy lút ga…Tùy theo hình hài vóc dáng, người ta có những cách chạy chẳng giống ai, thí dụ chạy cong đuôi, chạy cắm đầu, chạy đôn chạy đáo, chạy ngược chạy xuôi, chạy sấp chạy ngửa, chạy dọc chạy ngang…Riêng trong phạm vi máy móc, tùy theo nhiên liệu, người ta cũng có những hình thức chạy riêng biệt, chẳng hạn chạy hơi nước, chạy dầu, chạy điện… Trên lãnh vực thể dục và thể thao, ngày xưa cũng như hôm nay, chạy bộ đã trở thành một môn có tên trong những cuộc thi đấu quốc tế. Và người ta cũng có nhiều kiểu chạy, nhiều cách chạy và nhiều hình thức chạy. Chẳng hạn trong lễ khai mạc thì có chạy đuốc. Trong thi đấu, thì có chạy tiếp sức, chạy nhảy rào… Tùy theo khoảng cách, thì có chạy 500 mét, chạy 1000 mét…Đối với phong trào quần chúng, thì có chạy “việt dã”, tức là chạy trong địa hình tự nhiên như chạy băng đồng hay băng rừng. Còn chạy “marathon”, tức là chạy đường dài, những người thi đấu phải chạy một khoảng đường dài chừng 42km195. Ngoài ra, người ta còn tham dự những cuộc chạy bộ với những lý do khác nhau, chẳng hạn chạy bộ vì hòa bình và phản đối chiến tranh, chạy bộ vì bệnh Aid và cổ võ cho một nếp sống lành mạnh. Trong những thập niên gần đây, thỉnh thoảng lại xuất hiện trên báo chí và truyền hình, lác đác một vài “độc chiêu” của việc chạy, đó là “truồng chạy”, nghĩa là người ta cởi truồng tô hô mà chạy khơi khơi ngoài đường phố cốt để phản đối một chuyện gì đó. Chẳng hạn cách đây mấy năm ở bên Nhật mười mấy người cũng đã truồng chạy để phản đối việc thiên hạ mặc áo da thú, bởi vì để được mặc như vậy, người ta đã phải giết chết biết bao nhiêu nhiêu con vật đáng thương và vô tội, lấy da mới may thành một chiếc áo…
Nếu chỉ có vậy mà thôi, thì chạy vẫn còn là một việc làm lành mạnh và đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Các bác sĩ vốn thường khuyên những người đã lỡ mang nặng “tí tuổi” đời, cũng như những người vốn mắc phải một chứng bệnh nan y nào đó, chẳng hạn như cao huyết áp, tiểu đường, sạn thận…phải vận động bằng cách mỗi ngày chạy bộ hay đi bộ ít phút cho máu huyết được lưu thông. Tuy nhiên, chỉ có một chút vẩn đục trong phạm vi này, đó là mấy chị vận động viên hay mấy anh lực sĩ vì cá nhân quá ham thích những chiếc huy chương vàng, hay vì màu cờ sắc áo, vì tự ái dân tộc thúc đẩy, mới dại dột xơi “doping”, dùng chất kích thích để tăng thêm sức lực, hầu đạt tới mục đích mong muốn, nhưng họ cũng khó mà vượt qua được những xét nghiệm trước khi thi đấu. Kinh nghiệm cho thấy cuộc đời không đơn giản và trong suốt như pha lê. Trái lại, luôn có những chữ “nhưng”, chữ “tại”, chữ “bởi vì”, chữ “ví như”…làm cho trở nên thật nhiêu khê và rắc rối. Nếu chỉ cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một lèo, thì đâu còn chi phải nói, đằng này người ta có thể chạy vòng vo tam quốc, thành thử người ta cũng phát minh ra những kiểu chạy…trời ơi đất hỡi!!! Với trò chơi của xấp nhỏ trong đêm trăng sáng, gã thấy được hai nhóm chạy: Nhóm thứ nhất là chạy ra, nhóm thứ hai là chạy vô. Còn trong việc giao tiếp hằng ngày, gã cũng nhận ra hai nhóm chạy: Nhóm thứ nhất là chạy lui, nhóm thứ hai là chạy tới. Theo sự phân tích của tiến sĩ Phạm Văn Tình, thì: “Ở nhóm thứ nhất, người ta “chạy” là để tránh xa một sự thể đang nói tới, như chạy giặc có nghĩa là tránh xa vùng giặc giã, nguy hiểm…Còn ở nhóm thứ hai, thì ngược lại, người ta “chạy” là để mong có được cái đang nói tới, như chạy việc có nghĩa là lo liệu tìm được việc làm như lòng mong muốn…” Từ đó, chúng ta có thể quả quyết: nhóm một chạy là để tránh xa hay thoát khỏi, còn nhóm hai chạy là để có được hay xáp vô. Gã xin dừng lại, bàn ngang tán dọc về hai nhóm này một chút. Trước hết, nhóm thứ nhất chạy là để tránh xa hay thoát khỏi. Gã xin đưa ra những trường hợp điển hình. Thí dụ thứ nhất, đó là chạy mưa. Đang đi khơi khơi trên đường phố vào một buổi chiều nhàn nhã, bỗng dưng trời đổ mưa. Một cơn ngoài dự tính, như người ta vốn thường diễn tả: Trời Saigon, chợt mưa và chợt nắng. Và thế là phải ba chân bốn cẳng mà “chạy mưa”, tìm một chỗ nào đó để trú cho khỏi bị ướt. Tương tự như vậy là chạy lụt, chạy bão…Gã nhớ hồi còn nhỏ, có một năm đồng bằng sông Cửu Long bị lụt lớn, nước dâng cao ngập đường đi, cũng như ngập nền nhà. Mọi sự đều bị nhận chìm trong biển nước bao la, cộng thêm vào đó, một cơn bão thổi tới, tạo thành những con sóng “bạc đầu” giữa chốn đồng không mông quạnh. Và để an toàn, cả nhà gã lập tức được di tản lên thành phố, ở trọ nhà một người quen, chờ cho tới khi nước rút mới trở về. Chỉ riêng một mình bố của gã là bám trụ ở lại để trông coi nhà cửa, vật dụng cùng những thứ kỉnh kỉnh khác nữa. Thí dụ thứ hai, đó là chạy loạn. Chuyện này thì gã đã hơn một lần kinh nghiệm. Gã còn nhớ rất rõ, khoảng đầu năm 1975, gã đang sống yên ổn tại Đalạt, một thành phố thơ mộng và xinh đẹp nhất Việt Nam. Rồi bỗng dưng, con những ông lớn được gửi học tại đây, dần dần được di tản “chiến thuật” về Saigon. Thế là dân chúng lập tức ăn theo, cũng tìm cách chạy loạn, rút khỏi thành phố này một cách êm ru bà rù, không kèn không trống. Tới khoảng giữa tháng ba, thì thành phố này như đã trở nên một thành phố chết. Xe cộ không còn. Người ngợm thưa thớt. Đến ngày 20 tháng 3, thì một tin đồn được tung ra: Đalạt sẽ được bàn giao nội trong đêm nay. Lập tức một đợt di tản cuối cùng được hình thành. Người ta hối hả chạy ra khỏi thành phố này bằng bất cứ phương tiện nào, tạo nên một chuỗi dài hàng cây số đủ thứ xe cộ, bò xuống đèo Ngoạn Mục, miễn sao mình phải “biến” trước khi màn đêm buông rơi. Riêng gã thì ngồi chung cùng với nhiều người khác trên một chếc xe “ben”, thứ xe được dùng để chở cây rừng. Rất may tối hôm đó cũng tới được Phan Rang và thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ Phan Rang tìm đường vô Phan Thiết. Rồi từ Phan Thiết, kiếm ghe chạy vô Vũng Tàu. Thí dụ thứ ba, đó là chạy tội hay chạy án. Một công dân rất mực lương thiện, nhưng chẳng may bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, nghe theo những lời dụ dỗ đường mật, khiến cho lòng tham nổi lên đùng đừng, phạm vào một trọng tội, như cướp của, giết người, tham nhũng hối lộ hay biển thủ công quĩ…Những tội này, chiếu theo luật pháp, sẽ bị tử hình, hay ít nữa cũng vào nằm nhà đá mà đếm lịch mệt nghỉ. Và thế là bèn vội vã chạy tội hay chạy án, nghĩa là tìm cách làm sao cho thoát tội hay được giảm án phạt, bằng cách thuê luật sư giỏi, gân cổ cãi cho mình, biến đen thành trắng, hay mua đứt quí vị quan tòa, từ chánh án cho đến anh long tong chạy giấy. Tiếp đến, nhóm thứ hai, đi ngược lại với nhóm thứ nhất. Trong nhóm này, người ta chạy là để có được hay sáp vô. Gã cũng xin đưa ra những trường hợp điển hình. Thí dụ thứ nhất, đó là chạy gạo hay hạy tiền. Gia đình lâm vào cơn túng quẫn, thì vấn đề nổi cộm hiện ra trước mắt chính là vấn đề “cơm áo gạo tiền”. Vì thế, bụng đói thì đầu gối phải bò, nghĩa là phải vắt giò lên cổ, chạy gạo từng ngày, làm sao có được những hạt cơm lấp đầy những cửa miệng, dường như lúc nào cũng sẵn sàng ngoác tới tận mang tai để kêu đói như tàu…há mồm. Vì thế, người xưa đã bảo: Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Giải quyết được chuyện bao tử cũng chưa đủ, bởi vì muốn làm bất cứ việc gì, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề tiền đâu. Không có tiền, thì cái khó bó cái khôn, đành phải thúc thủi chịu vậy mà thôi. Có bột mới gột nên hồ. Có tiền thì mới có cơ may phất lên. Vì thế, cũng phải vắt giò lên cổ mà chạy tiền, làm sao để có được tiền, càng nhiều càng tốt, mới cảm thấy được bảo đảm an toàn. Thí dụ thứ hai là chạy thày chạy thuốc. Phàm đã là người, thì ai cũng ham sống và không muốn chết, vì thế chẳng may bị đau yếu hay bệnh hoạn, thì lập tức phải chạy thày chạy thuốc, để chóng được bình phục trở về với cuộc sống thường ngày. Thí dụ thứ ba là chạy điểm, chạy trường. Muốn cho con em mình được lên lớp, thì phải lo chạy điểm, nghĩa là phải biết điều với thày cô để con em mình có đủ số điểm cần thiết, không bị lưu lại lớp cho năm học tới. Rồi trước ngày khai giảng, muốn cho con em mình được học ở những trường nổi tiếng, bảo đảm chất lượng giảng dạy, thì phải lo…chạy trường, bằng cách ký sổ vàng, đóng góp kha khá cho ban giám hiệu thì mới hy vọng con em mình được nhận. Thứ tư là chạy việc. Hiện thời tại Việt Nam, biết bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp với bằng cấp rủng rỉnh, thế mà vẫn cứ bị thất nghiệp, vẫn cứ bị sao quả tạ chiếu tướng và vẫn cứ bị bà cả đọi viếng thăm dài dài. Vì thế, trước khi thò chân bước xuống cuộc đời, phải biết lo chạy việc, nghĩa là tìm cho mình một việc làm phù hợp với khả năng, và hơn thế nữa một việc làm đem lại tiền lương hậu hĩnh, khả dĩ nuôi sống bản thân và những người trong gia đình… Thứ năm là chạy lên lương hay lên chức. Thực vậy, khi đã có việc làm ổn định, thì phải lo chạy để lên lương hầu có thể rủng rỉnh chi tiêu, mua sắm và trang bị cho mình những tiện nghi hiện đại, đỡ tốn sức lao động và bớt phần nhọc nhằn cho cái thân thể gầy còm ốm yếu. Trong khi đó nhiều người lại cắm đầu cắm cổ chạy để được thăng chức, mà nghênh ngang với đời, chứ làm phó thường dân, “vai nặng chân trơn” mãi cũng chán, đã đến lúc phải có danh gì với núi sông, phải có một cái nhãn hiệu trình tòa, một cái lon, cái chức nào đó gắn vào cái tên cúng cơm của mình thì mới…oai và mới được thiên hạ kiêng nể!
Gã biết một thầy sáu, được bề trên gọi tiến chức. Khi làm đơn nộp cho nhà nước xét duyệt, thầy tự vấn lương tâm, thấy mình chẳng có tí công trạng nào. Và thế là những người thân quen với thầy bèn làm một màn chạy thật đẹp mắt, đó là chạy…bằng khen. Ai quen cơ quan nào, thì cố gắng khều cho thầy một bằng khen. Và cuối cùng thầy đã có được một bề dày thành tích đáng kể đối với…cách mạng. Những tấm bằng khen được nộp kèm theo đơn xin, tạo thành một tập hồ sơ nạng ký. Từ bằng khen nuôi lợn, nuôi cá, đến bằng khen cấy lúa, trồng cây. Từ bằng khen xóa đói giảm nghèo đến bằng khen xóa nạn mù chữ. Thầy anh dũng bước đi với những bằng khen che phía trước, chắn phía sau để tiến tới chức thầy cả!!! Nói tóm lại trên cõi đời này, cái gì người ta cũng có thể chạy, hay nói cách khác, người ta lao đầu vào chạy đủ thứ, chạy tuốt luốt, chạy từ cái trường mẫu giáo cho con em đi học, chạy ngay cả đến cái ghế tổng thống cho cá nhân được vinh thân phì gia, nở mày nở mặt với bàn dân thiên hạ…tất tật đều có thể thực hiện được bằng cách…chạy. Qua sự phân tích trên, gã thấy nguyên việc chạy mà thôi cũng đã gây nên biết bao nhiêu điều rắc rối. Và nói theo kiểu dự báo thời tiết thì: Diễn biến còn nhiều phức tạp, quí vị cần theo dõi. Trong cả hai nhóm chạy, nhóm chạy ra cũng như nhóm chạy vô, nhóm chạy lui cũng như nhóm chạy tới, nhóm chạy để mong tránh khỏi cũng như nhóm chạy để mong có được, đều xuất hiện những kiểu chạy chẳng liên quan gì tới chân, tới cẳng, bởi vì người ta chạy bằng những phương tiện khác nhau. Chẳng hạn người ta chạy bằng…ô dù, nghĩa là lợi dụng tình nghĩa thân quen, hay chức quyền để tránh khỏi điều xấu và đạt được điều tốt. Một ông bố quyền cao chức trọng, chạy tội cho cậu ấm vì đã phóng xe vượt ẩu, gây tai nạn chết người. Một bà mẹ làm lớn chạy việc cho cô chiêu để có được một ghế ngồi vững chắc với lương tháng hậu hĩnh trong công ty. Thật đúng như người xưa đã diễn tả:
Con vua thì lại làm vua, Con nhà kẻ khó, bắt cua tối ngày.
Con vua thì lại làm vua, Con nhà thầy chùa, lại quét lá đa. Chẳng hạn người ta chạy bằng…bao thư, bằng phong bì, nghĩa là dùng tiền bạc để thực hiện điều mình mong muốn. Đưa bệnh nhân tới nhà thương cũng phải sắp sẵn bao thư hay phong bì, dĩ nhiên trong đó phải có nhân, có ruột, nghĩa là phải…có tiền. Tiền này được gọi là tiền “bồi dưỡng” cho y tá, cho bác sĩ để bệnh nhân được chăm sóc đến nơi đến chốn. Muốn chạy tội và trắng án, cũng phải lo lót bao thư hay phong bì cho chánh án, cho thẩm phán. Muốn con em có được một nơi học tốt, cũng xùy bao thư hay phong bì ra cho ban giám hiệu. Thời buổi bây giờ, bao thư hay phong bì đang nở rộ, như hoa đào khoe sắc vào mỗi độ xuân về. Thật đúng như người xưa đã nói:
Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Có tiền việc ấy mà xong nhỉ. Người ta còn có thể chạy bằng những phương tiện “âm u” khác nữa, như chạy bằng tửu, bằng sắc, nghĩa là giải quyết công việc bằng tiệc nhậu hay bằng đờn bà con gái…Những cách chạy này, gã xin được “nô-tế-bồn”, nghĩa là xin được miễn bàn tới ở đây, mong bàn dân thiên hạ thông cảm cho gã. Một khi đồng tiền đi trước và chức quyền theo sau, người ta chẳng cần phải tốn sức lao động mà chạy tới chạy lui, chạy ra chạy vô, chẳng cần phải giơ chân nhấc cẳng bước một bước nào sốt, cứ việc ung dung ngồi chơi xơi nước ở nhà, chỉ cần nói một lời nói êm dịu, nhắc một cú “phôn” ngắn ngủi là xong. Khỏe re! Thế nhưng, khỏe cho bản thân mình, nhưng lại phá vỡ các tiêu chuẩn đạo đức và làm cho xã hội bị băng hoại. Để kết luận, gã xin kể lại hai mẩu chuyện tiêu biểu cho hai kiểu… chạy đáng chạy vì chúng mang tích cách xây dựng. Mẩu chuyện thứ nhất, đó là cuộc chạy đua giữa rùa và thỏ. Vào một buổi sáng đẹp trời, thỏ rủ rùa ra đường chạy đua xem ai tới đích trước. Ỷ vào tài chạy nhanh của mình, thỏ nằm dưới gốc cây cổ thụ. Gió thổi hiu hiu đưa thỏ vào giấc ngủ. Trong khi đó, rùa chậm chạp bò lê từng bước, từng bước một. Khi thỏ chợt tỉnh, dụi mắt nhìn thì thấy rùa đã gần tới đích. Bấy giờ thỏ mới ba chân bốn cẳng, chạy vắt giò lên cổ thế mà cũng chẳng đuổi kịp, bèn thúc thủi chịu thua. Chuyện này khuyên chúng phải kiên nhẫn, bởi vì sự kiên nhẫn sẽ dẫn tới thành công: Nước chảy đá mòn. Kiến tha lâu cũng đầy tổ. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Mẩu chuyện thứ hai, đó là chạy nhân chạy nghĩa. Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyền sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phụng Huyền hỏi: Tiền nợ thu được, có định mua gì về không? Mạnh Thường Quân nói: Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyền cho gọi dân lại, bảo rằng: Các ngươi còn nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều tha cho cả. Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyền thưa với Mạnh Thường Quân rằng: Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy buồng, không còn thiếu sự gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa” mà thôi, nên tôi trộm phép vì tướng công đã mua về. Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi han gì đến tiền bạc nữa. Sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, phải về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyền rằng: Trước tiên sinh vì tôi mua nghĩa, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy. Đúng là Phùng Huyền đã mua nhân mua nghĩa, hay nói cách khác, đã “chạy nhân chạy nghĩa” cho Mạnh Thường Quân. Thế nhưng, ngày hôm nay có được bao nhiêu người cũng biết “chạy nhân chạy nghĩa” cho mình như vậy ? Gã Siêu
Trong bầu khí hồ hởi của bữa nhậu, một chiến hữu, sắp sửa bước vào tình trạng ngắc ngư con GãSiêu 33
Trong bầu khí hồ hởi của bữa nhậu, một chiến hữu, sắp sửa bước vào tình trạng ngắc ngư con tàu đi, đã phát biểu một câu xanh lè, khiến cho bàn dân thiên hạ phải ngẩn tò te: Tớ vừa mới khám phá ra một qui luật của muôn đời, đó là: Đàn ông, muốn hư thì phải có tiền, còn đàn bà, muốn có tiền thì phải hư. Dĩ nhiên, câu nói này không hoàn toàn đúng “một chăm phần chăm”, bởi vì nhiều ông có tiền, được liệt vào hàng đại gia, giàu nứt đố đổ vách mà đâu có hư, đồng thời cũng có nhiều bà đã kiếm được tiền bằng chính công sức, mồ hôi, nước mắt của mình và họ cũng chẳng bao giờ hư cả. Tuy nhiên, câu nói trên cũng phản ảnh phần nào sự thật, nhất là sự thật về một hạng người nào đó trong xã hội Việt Nam ngày hôm nay.
ĐỜN ÔNG MUỐN HƯ, THÌ PHẢI CÓ TIỀN. Kinh nghiệm cho thấy: Khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, người ta dễ dàng đạo đức ăn ra, trái lại khi khó khăn đã qua đi và hoàn cảnh trở nên tươi sáng hơn, người ta trở về nếp sống cũ và lại khô khan nguội lạnh, nếu không muốn nói là còn xấu xa hơn trước nữa. Có anh chàng “Hai Lúa” được cha mẹ cho lên Saigon du học. Trước khi khăn gói quả mướp lên đường, anh ta đã thề độc thề địa với người yêu bé bỏng của mình rằng: Nếu không lấy được em thì anh sẽ chết. Em ráng chờ đợi anh nhé. Và trong đầu óc đơn sơ, anh chàng Hai Lúa này đã vẽ nên một cảnh tượng huy hoàng như người xưa diễn tả: Võng anh đi trước, võng nàng theo sau. Nhưng rồi sau khi đã khều được mảnh bằng, anh chàng Hai Lúa năm nào đã trở thành dân Saigon chính hiệu con nai vàng. Vì cần phải có hộ khẩu ở thành phố, vì cần phải có ô dù che chắn trước sau, vì cần phải mở ra con đường tiến thân, vì cần phải bảo đảm cho công danh sự nghiệp, nên anh ta đã lấy một cô vợ mà nhà thì giàu, bố thì thế lực và quên béng mất cô gái miền quê năm xửa năm xưa. Thật đúng với lời bàn của tác giả Cổ Học Tinh Hoa: “Ngán thay thói đời giàu hay quên bạn, sang hay phụ vợ. Lắm kẻ lúc còn hàn vi, vợ nuôi cho ăn đi học, một mai được chút tiền của, chức tước, đã phụ ngay vợ cũ mà kiếm vợ mới, hoặc kiếm vào chỗ giàu, chỗ sang hay người trẻ tuổi xinh đẹp hơn. Nhưng kẻ như thế dù viện lẽ gì, cũng chỉ là kẻ phụ bạc cả mà thôi”. Kinh nghiệm cũng cho thấy: Có tiền, người ta sẽ dễ dàng “rửng mỡ”, lao mình vào chơi bời trác táng. Hay nói cách khác, muốn chơi bời thỏa thích, thì phải có sẵn tiền trong túi. Bình thường, sau một ngày lao động mệt mỏi hay căng thẳng, khi chiều xuống, bè bạn thường rủ nhau tới quán nhậu, làm một chầu để mở mang trí hóa, cũng như giải bớt cơn sầu. Tuy nhiên, nếu chỉ nhậu tăng một, thì dù có say một tí, cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện. Thế nhưng, người ta lại tiếp tục tăng hai và ở tăng hai này, người ta nhậu ở đâu và nhậu như thế nào thì chỉ có ông trời mới biết được mà thôi. Cũng vì tăng hai ấy mà người ta phải chi ra không biết bao nhiêu tiền và cũng dễ bị hư đi. Tiếp đến, như các cụ ta thường bảo: Có tiền mua tiên cũng được. Một số người lại thích cầm tiền đi mua những cô tiên qua những cuộc tình thầm lén và vụng trộm, những cuộc tình chớp nhoáng và ngoài luồng, hay đèo bòng bồ nhí. Có những ông già đang bước vào cảnh hoàng hôn của cuộc đời, thế mà vẫn cứ anh dũng bỏ vợ trốn con, bỏ tiền ra xây tổ ấm và trang bị những tiện nghi hiện đại cho cô bồ nhí trẻ măng của mình, để rồi cuối cùng đã phải chịu nỗi đắng cay như ngậm bồ hòn trong miệng: Bắc thang lên hỏi ông trời, mang tiền cho gái, có đòi được không? Từ những sự việc kể trên, gã có thể kết luận: Đờn ông muốn hư thì phải có tiền. Chứ nghèo rớt mồng tơi thì làm sao dám bước chân vào những nhà hàng cao cấp, những chốn chơi bời du hí và dù có nằm mơ thì cũng chẳng thấy được những người đẹp chân dài. ĐỜN BÀ MUỐN CÓ TIỀN, THÌ PHẢI HƯ. Sống trên đời, ai mà chẳng muốn có được nhiều tiền. Nhưng để thực hiện ước muốn hoành tráng này, nhiều người đã cố gắng phấn đấu để vươn lên. Và họ trở thành những người tốt lành, cũng như đã giúp ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, cũng có những kẻ đã rơi xuống vực thẳm tội lỗi và đã hư đi. Ở đây, gã chỉ xin bàn đến phe đàn bà con gái đã hư đi vì muốn có nhiều tiền một cách dễ dàng mà thôi. Gã xin tạm chia thành hai loại.
Loại thứ nhất là vì hoàn cảnh. Họ có thể là những cô gái nông thôn, muốn thoát khỏi cảnh nghèo túng của miền quê bằng cách lên thành phố tìm việc làm, vừa để đổi đời, vừa để kiếm tiền giúp đỡ gia đình, nhưng rồi bị lừa gạt. Lúc đầu chỉ là phụ giúp bán cà phê, rồi tiến đến bán cà phê ôm và sau cùng là bán tất cả cái vốn mình tự có. Họ có thể là những sinh viên nghèo, nhưng lại muốn theo đuổi việc học, vì thế ngoài những giờ đến trường hay lên lớp, họ phải tìm việc làm để kiếm thêm chút tiền còm, bù lỗ cho những chi phí của mình. Những việc làm thêm này, chẳng hạn như dạy kèm cho trẻ, bán hàng tại cửa tiệm, rửa chén bát cho các nhà hàng, lắm lúc thật vất vả mà lương bổng lại chẳng bao nhiêu. Vì thế, có những cô đã vào làm trong quán cà phê đèn mờ, những vũ trường hay cam phận với kiếp sống tầm gửi, làm vợ hờ, làm bồ nhí. Sở dĩ như vậy, vì những dịch vụ này thu nhập vừa cao, lại vừa nhàn hạ. Và rồi từ đó bị trượt chân, như viên bi lăn mãi lăn hoài cho tới tận cùng con dốc mới thôi. Gã xin đưa ra một vài chứng từ sống động cho vấn đề này. Để có tiền trang trải cho chuyện ăn, chuyện ở và chuyện học, Hằng quyết định làm thêm công việc tiếp thị bia vào ban đêm tại một quán nhậu. Vơi thân hình khá bắt mắt của một cô gái đương thì, cộng với tính tình nhanh nhẹn vui vẻ, Hằng nhanh chóng được lòng rất nhiều anh lẫn “ông” nhậu lui tới quán. Trong số những khách hàng thường xuyên uống bia ủng hộ cô, có Khánh, một dược sĩ 32 tuổi, chủ nhân tiệm thuốc tây tọa lạc gần nơi Hằng tiếp thị bán bia mỗi đêm. Sau vài lần gặp gỡ, trò chuyện, Hằng bằng lòng cho chàng dược sĩ này đưa đón, đi ăn uống và về nhà trọ khi hết giờ làm việc ở quán nhậu. Chỉ sau một tháng đưa đón, Hằng đã sẵn sàng ngã vào vòng tay của chàng dược sĩ, mà cô nghĩ có thể bao bọc được cho mình trong những tháng ngày ăn học khó khăn. Đúng như Hằng nghĩ, để tiện bề lui tới, Khánh thuê hẳn cho Hằng một căn nhà nhỏ trong hẻm. Tuy nhiên, sự cung phụng của Khánh dành cho Hằng chỉ được một năm thì người thứ ba xuất hiện. Đó là một ông nhà thầu xây dựng, cũng là bạn nhậu của Khánh. Ông nhà thầu 42 tuổi này đã có vợ con đề huề. Sau vài lần gặp Hằng, ông đâm ra “kết” cô. Sau đó không lâu, đã diễn ra một thỏa thuận rành mạch giữa ba người: Ông nhà thầu bỏ tiền ra cho Hằng mướn nhà trọ và ăn học. Anh chàng dược sĩ cung phụng cho cô mua sắm. Phần cô sinh viên Hằng tự chia lịch: 2-4-6 dành “tiếp ông thầu”, còn 3-7-5 thì “đi chơi” cùng anh dược sĩ. Chủ nhật là ngày cô được tự do.(Báo Phụ nữ Chủ nhật, số 7 ra ngày 19.2.2006). Loại thứ hai là vì đua đòi Có những cô gái, đua đòi cách ăn chơi của bè bạn, với những mốt áo quần hàng hiệu, theo kiểu bóc ngắn cắn dài, vung tay quá trán, con nhà lính tính nhà quan. Vì thiếu tiền chi ra, nên sẵn sàng chấp nhận thân phận làm bồ nhí, làm gái bao. Thanh xuất thân trong một gia đình khá giả. Thi đậu đại học. Bất chấp lời khuyên của những người thân, Thanh dọn ra ở riêng trong một căn phòng cho thuê khá tiện nghi. Không có sự kiểm soát của người thân, Thanh tự do bay nhảy, đàn đúm. Để có tiền ăn chơi, Thanh không ngần ngại cặp bồ với nhiều người đàn ông lớn tuổi nhưng có tiền. Trong số các “đại gia” ấy, Thanh chọn ông Phát đã có vợ con, nhưng lại là ông chủ cửa hàng kinh doanh xe gắn máy làm “bến đậu lâu dài” vì mọi chi phí thuê nhà, sắm sửa đều được ông Phát chu cấp hậu hĩ. (Báo Phụ nữ Chủ nhật, số 7, ra ngày 19.2.2006). Có những cô gái khác vì cám dỗ của đồng tiền, hay vì một cuộc sống buông thả, sẵn sàng đánh đổi cả thân xác và không ngần ngại kinh doanh bằng cái vốn tự có, bằng cái vẻ tươi mát trời cho. Lúc ban đầu, có thể chỉ lâu mới nhảy dù, tiếp khách một lần để có phương tiện tiếp tục nếp sống chơi bời quậy phá của mình. Nhưng rồi thấy việc kiếm tiền bằng phương cách này quá dễ dàng, nên bỗng trở thành chuyên nghiệp lúc nào không hay. Và khi hàng đã quá đát, thì chỉ còn nước đứng ra ngoài vỉa hè và trở thành một loại bướm đêm, mà thiên hạ vốn thường thấy bay lượn dọc theo những quãng đường vắng hay tại những công viên, khi thành phố đã lên đèn. Và cuối cùng, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả đều phải cúi đầu lãnh nhận một kết thúc đáng buồn! Gã Siêu
Hôm nay, gã xin bàn đến chuyện ghen và ghét. Trước hết là cái ghen. Là con nhà có đạo, chúng GãSiêu 34
Hôm nay, gã xin bàn đến chuyện ghen và ghét. Trước hết là cái ghen. Là con nhà có đạo, chúng ta thấy cái ghen xuất hiện rất sớm, ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. Đó là cái ghen của ma quỉ. Thấy loài người được Thiên Chúa sủng ái, được hạnh phúc trong tình yêu thương của Ngài nơi vườn địa đàng, ma quỉ đã đem lòng ghen, nên mới bày mưu thâm chước độc cám dỗ để rồi ông bà nguyên tổ đã sa ngã và phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tiếp đến là cái ghen của Cain. Thấy lễ vật của Abel được Thiên Chúa chấp nhận, Cain đã bực bội để rồi cuối cùng đã rắp tâm thực hiện ý đồ đen tối, giết em mình ngoài đồng vắng. Bước vào đời thường, chúng ta thấy cái ghen đã có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như trong mọi lãnh vực. Trước hết là trong lãnh vực gia đình. Không ít thì nhiều con cái đều kêu trách cha mẹ ăn ở thiên vị, không công bằng, con yêu con ghét. Đứa được nhiều, đứa được ít. Rồi từ đó sinh ra ngang bướng, giận hờn và thù oán. Thực ra, không nên trách móc cha mẹ mà nên trách móc chính bản thân. Bởi vì chắc hẳn cha mẹ sẽ yêu thương đứa con siêng năng hơn đứa con lười biếng, đứa con đau yếu hơn đứa con khỏe mạnh, đứa con ngoan ngoãn hơn đứa con xấc láo. Đặc biệt là trong lãnh vực tình yêu vợ chồng. Thực vậy, trong lãnh vực này, cái ghen thường được định nghĩa là như thái độ bực bội khi thấy tình yêu của mình bị đánh cắp, hay nói cách khác, đó là thái độ tức tối khi thấy kẻ khác phỗng tay trên tình yêu của mình. Người ta thường bảo: Có yêu thì mới ghen. Và như vậy, cái ghen đã luồn lách vào trong máu huyết của những người đang yêu, bất kể đờn ông hay đờn bà, con giai hay con gái. Tuy nhiên, nơi đờn bà con gái, cái ghen thường mang một sắc thái đặc biệt hơn, chẳng thế mà ca dao đã từng nói: Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Trong ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều danh từ để chỉ những mức độ khác nhau của cái ghen. Chẳng hạn như ghen bóng ghen gió, đó là một cái ghen vu vơ, một cái ghen không có bằng cớ rõ rệt, một cái ghen có tính cách phủ đầu như muốn răn đe người mình thương rằng: Chớ có lạng quạng, xớ rớ vô là….chết với bà! Còn ghen hờn, ghen tủi, đó là một cái ghen chất chứa trong lòng mà chẳng dám nói ra, cũng như chẳng có một hành động nào bên ngoài, cứ âm thầm gậm nhấm nỗi giận hờn và tủi phận, khiến cho tê tái cả tâm hồn, tan nát cả con tim, héo hắt cả cuộc đời và quay quắt cả con người. Trong khi đó ghen thầm là một cái ghen cũng để ở trong bụng, nhưng bên ngoài thì vẫn vui vẻ, coi như chẳng có sự gì xảy ra cả, để rồi lẳng lặng theo dõi và đưa ra những biện pháp vừa sâu lại vừa cay. Đây là cái ghen của những bậc cao thủ võ lâm, đáng cho thiên hạ phải kiêng nể. Và sau cùng, ghen lồng ghen lộn, đó là một cái ghen của người có dòng máu nóng, khi đã máu ghen đã bốc lên, thì đứng ngồi không yên, phải tìm cách bộc lộ ra bên ngoài bằng những hành động và thường là khốc liệt và tàn bạo như cuồng phong vũ bão, nào là chặn đường đánh cho một trận te tua, nào là dùng dao lam rạch mặt cảnh cáo, nào là tạt acid cho đi đoong cả con người, cốt ý sát hại tình địch hầu lưu lại cho tình địch một dấu ấn và một bài học để đời.
Người ta thường nói ghen ghét, một khi đã ghen với người nào, thì chắc chắn cũng sẽ ghét người ấy. Giống như cái ghen, cái ghét cũng có những mức độ khác nhau. Trước hết là ghét ngọt ghét bùi, bên trong thì ghét nhưng bên ngoài vẫn làm bộ vui vẻ, dịu ngọt. Đây là cái ghét của người có bản lãnh sâu sắc và hiểm độc. Tiếp đến là ghét bỏ, nghĩa là vừa có ác cảm lại vừa muốn ruồng bỏ. Và sau cùng là ghét cay ghét đắng, thậm chí còn ghét vào tận tim, cho dù tới chết vẫn không thèm nhìn mặt nhau. Từ ghen tới ghét, khoảng cách không bao xa. Rồi từ ghét tới những hành động tàn ác với chủ đích hãm hại người khác, khoảng cách cũng gần lắm, như chúng ta đã thấy ở trên. Thực vậy, người ta thường bảo: Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Ngày trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Phép nước Vệ là ai đi trộm xe của vua thì bị tội phải chặt chân. Mẹ Di Tử Hà ốm nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe của vua ra đi. Vua nghe thấy liền khen rằng: Có hiếu thật, vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân. Ngày kia, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa bèn đưa cho vua. Vua khen: Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta. Về sau, vua không còn yêu Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: Di Tử Hà trước dám liều lấy xe của ta mà đi, lại còn cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đã lâu ngày. Nói xong đem Di Tử Hà ra trị tội. Câu chuyện trên như muốn chứng minh rằng: Một khi đã ghét thì thế nào cũng có những hành động hãm hại kẻ mình không ưa không thích. Vậy sự ghen ghét xuất phát bởi đâu? Trước hết sự ghen ghét xuất phát từ tính kiêu căng của mình. Thực vậy, kẻ kiêu căng bao giờ cũng muốn mình phải là nhất, phải là trung tâm của thế giới, phải là cái rốn của vũ trụ. Thấy ai phê bình chỉ trích, liền nổi giận đùng đùng. Thấy ai hơn mình thì hậm hực và tìm cách gièm pha, hạ nhục cho bõ ghét. Họ lỡ quên mất câu danh ngôn: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta. Còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thầy ta. Tiếp đến, sự ghen ghét xuất phát từ bụng dạ hẹp hòi của mình. Thực vậy, thấy người khác tài giỏi hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn, chúng ta phải mừng thì mới đáng mặt quân tử. Một xã hội cần phải có những phần tử ưu tú, thì mới hòng tiến triển được, chứ nếu tất cả chỉ xoàng xĩnh, hay thường thường bậc trung, thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ chen vai sát cánh được với bàn dân thiên hạ. Sau cùng, sự ghen ghét còn xuất phát từ sự thiếu sáng suốt của mình. Thực vậy, đứng trước những thành công của người khác, chúng ta cần phải xét mình, đặt ra những câu hỏi để rút tỉa lấy những bài học cụ thể, nhờ đó mà làm đẹp cho bản thân, cũng như làm giàu cho cuộc sống. Chẳng hạn tại sao người ta giàu có? Vì người ta đã chí thú trong việc làm ăn, cần kiệm trong việc chi tiêu. Còn chúng ta thì luôn ươn lười và trễ nải, có làm thì cũng chỉ là làm biếng, hay làm ít mà xài nhiều theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, thậm chí lại còn xài sang nữa, theo kiểu “con nhà lính tính nhà quan”, thì làm sao có thể khấm khớ và phất lên cho được. Điều cần thiết là phải đấm ngực mình mà rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng: Lỗi tại anh, lỗi tại chị, lỗi tại hoàn cảnh mọi đàng. Để kết luận, gã xin ghi lại mẩu chuyện sau đây: Ngày nọ, Cú mèo gặp chim gáy. Chim gáy bèn hỏi: Bác sắp đi đâu đấy? Cú mèo trả lời: Tôi sắp sang ở bên phương đông. Tại sao lại đi như thế? Vì ở đây, nghe tiếng tôi kêu, người ta ghét, cho nên tôi phải dời đi chỗ khác. Chim gáy góp ý: Bác phải đổi tiếng kêu mới được, chứ nếu không đổi tiếng kêu, thì dù sang tới phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chẳng thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời, đừng kêu nữa là hơn. Đừng ghen và cũng đừng ghét người khác. Trái lại, hãy sửa đổi những sai lỗi, những khuyết điểm nơi con người mình, bởi vì tiêu chuẩn cần phải thực hiện, đó là: Muốn được thương, thì bản thân phải là người thương được. Gã Siêu.
Sống trong cuộc đời, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội GãSiêu 35
Sống trong cuộc đời, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng, đồng thời nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Chúng ta thường tỏ ra tức tối đối với những kẻ đã cả gan dám xúc phạm đến quyền lợi, cũng như danh dự và uy tín của chúng ta. Thái độ bực tức này được gọi một cách chung là giận. Gã còn nhớ mang máng ngày xưa khi học về lý hoá, người ta đã phân biệt hai loại cháy, đó là cháy bùng và cháy ngầm. Cháy bùng là khi hiện tượng oxy hoá diễn ra một cách mãnh liệt làm toả nhiệt và phát sáng, khiến mọi người đều có thể trông thấy. Còn cháy ngầm là khi hiện tượng oxy hoá diễn ra một cách âm thầm và lặng lẽ, nhưng lại làm hao mòn các thứ kim loại cứng, như đồng và sắt. Cơn giận cũng vậy, tuỳ theo tính khí và hoàn cảnh, có thể được bộc phát một cách mãnh liệt qua những hành động hung bạo và đập phá, cũng như qua những lời nói gắt gỏng và chửi bới. Chúng ta gọi đó là giận dữ. Còn nếu chúng ta bực bội tức tối mà cứ âm ỉ trong lòng, không chịu nói ra, hay nếu có biểu lộ, thì lại được biểu lộ bằng thái độ im lặng, bất bạo động, bất hợp tác. Chúng ta gọi đó là giận hờn, hay giận dỗi. Hôm nay, gã xin bàn rộng tán dài thêm một tí về sự giận dỗi, giận hờn hay hờn dỗi của những cô nàng đang yêu! Thực vậy, mỗi khi nói tới hờn dỗi, gã liên tưởng ngay đến các nàng, nhất là các nàng đang bị tình yêu, như làn khói toả làm cho cay xè đôi mắt. Và hình như hờn dỗi đã trở thành nghề riêng của các nàng rồi vậy. Nói thế không có nghĩa là chỉ các nàng mới hờn dỗi, mà ngay cả các chàng đôi khi cũng dỗi, cũng hờn, mặc dù về số lượng có phần ít hơn nhiều. Các chuyên gia cho rằng khi yêu các nàng thường đòi hỏi cái cảm giác được an toàn nơi chàng mà họ thương, họ mến. Chàng phải làm được một cách xuất sắc những điều họ yêu cầu. Nếu chẳng may chàng không chu toàn được, thì lập tức họ chọn phương thức hờn dỗi, để biểu lộ thái độ không bằng lòng của mình. Chẳng hạn chàng tới điểm hẹn trễ hơn một lúc, khiến nàng phải đợi, phải chờ; hay chàng lỡ quên tặng hoa, tặng quà cho nàng vào ngày sinh nhật, ngày tình nhân, ngày phụ nữ. Tất cả đều làm cho các nàng hờn dỗi.
Những người bênh vực thì cho rằng nguyên nhân khiến các nàng hay hờn dỗi xuất phát từ tình yêu. Thực ra, không phải là các nàng cố tình làm khó dễ chàng của mình, mà chỉ đơn giản là muốn dùng sự hờn dỗi để kiểm tra lại tình cảm của chàng mà thôi. Nhưng điều đó không cho phép các nàng cứ lạm dụng lý do này để thường xuyên hờn dỗi, bởi vì nó có thể ảnh hưởng và làm sứt mẻ tình cảm của hai người. (Theo Việt Báo). Cùng quan điểm ấy, một tác giả khác cũng đã viết: Giận hờn vốn dĩ là chứng bệnh muôn thuở của những người yêu nhau. Một cách nào đó, hờn giận giống một thứ gia vị làm cho món canh tình cảm thêm ngon, thêm ngọt. Tuy nhiên, nếu nêm nếm quá tay, thì tình cảm ấy có nguy cơ gặp phải sóng gió. (Theo VTC). Sự giận hờn quá đáng không phải chỉ đe doạ tình yêu, đem lại nguy cơ bị sập tiệm, mà còn để lại những hậu quả tai hại cho chính người hờn giận. Thực vậy, khi hờn dỗi khuôn mặt của nàng trước kia xinh đẹp bao nhiêu, thì bây giờ ỉu xìu như bánh bao chiều. Cặp mắt đâu còn long lanh và trong sáng, nhưng lúc nào cũng ủ rũ, rưng rưng như muốn khóc. Và trái đắng đầu tiên nàng phải gậm nhấm chính là nỗi buồn. Nỗi buồn ấy len lỏi vào mọi ngõ ngách tâm tư, khiến nàng mất ăn mất ngủ, lúc nào cũng thở dài thườn thượt và những nếp nhăn xuất hiện trên trán, làm nàng già đi cả chục tuổi. Khi giận hờn, người ta không còn mất tiền vì í ới gọi nhau đi ăn chè, đi uống sinh tố, hay đi coi phim, nhưng lại mất đậm tiền cho điện thoại trong tiến trình đàm phán để tái lập nền hoà bình và bình thường hoá mối bang giao. Khi nhấc máy, một đàng thì cứ nói leo lẻo, một đàng thì cứ im thin thít. Có khi cả hai cùng nín lặng để nghe tiếng thở của nhau, và sự nín lặng đôi khi kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Chỉ vỗ béo cho công ty điện thoại mà thôi. Nguy cơ mất tiền chỉ là chuyện nhỏ, nhưng nguy cơ mất nhau mới là chuyện lớn. Khi giận hờn, người ta thường không kiểm soát được lời ăn tiếng nói của mình, nhiều lúc đã làm cho trái tim của nhau bị trầy xước. Và nếu cứ bị trầy xước hoài, thì tới một lúc nào đó, tình yêu sẽ rơi vỡ tan tành và chỉ còn lại những mảnh vụn. Vì vậy, về phía các nàng thì hãy hờn dỗi in ít thôi nhé. Còn về phía các chàng, đâu là những việc cần làm ngay mỗi khi bị giận, bị hờn, bị dỗi? Kinh nghiệm cho thấy mỗi nàng có một kiểu hờn giận khác nhau. Tuyệt chiêu của các chàng là phải chịu đựng và tìm cách hoá giải những cơn giận hờn đó tuỳ theo từng hoàn cảnh. Nếu nàng dỗi bằng cách im như thóc. Nghĩa là khi dỗi nàng sẽ thinh lặng, cau mày và quay đi chỗ khác. Nàng có vẻ như rất cương quyết không thèm nhìn cái bản mặt của chàng. Lúc bấy giờ chàng có năn nỉ ỉ ôi cỡ nào chăng nữa, thì cũng chỉ là uổng công vô ích mà thôi, nhiều lúc còn tiếp thêm nhiên liệu để nàng lên m?t, lm căng hơn nữa. Nếu lầm lỗi chàng gây ra chỉ nhỏ như con thỏ, thì biện pháp hữu hiệu nhất trong tình cảnh này là hài hước, chàng hãy chọc cho nàng cười. Và khi cả hai đã cười rồi, thì chuyện làm lành sẽ trở nên quá đơn giản. Nếu nàng giận bằng cách chửi mắng chàng xối xả. Nghĩa là bỗng dưng nàng đỏ mặt tía tai, tuôn ra hàng ruỗi những lời khó nghe. Nếu vì tự ái, máu nóng chàng cũng sôi lên sùng sục, cả hai đều giận thì cùng đứt dây. Cách tốt nhất là chàng hãy bình tĩnh rồi nói: Hạ hồi phân giải, chúng mình sẽ duyệt lại chuyện này sau nhé. Rồi “lỉnh” đi chỗ khác, chờ cho tình hình lắng dịu và mức độ căng thẳng được giảm xuống. Đây quả là một khó khăn, một thách thức vì chàng nào cũng có một “cục tự ái” to đùng. Rồi sau đó, hãy gặp riêng nàng mà ôn tồn giải thích trong hoà bình. Chắc hẳn ý kiến ý cò của chàng sẽ dễ dàng được nàng lắng nghe hơn. Nếu nàng hờn bằng cách khóc như mưa. Hờn theo kiểu này quả thật nàng phải được liệt vào hàng cao thủ võ lâm, bởi vì khi sử dụng thứ “vũ khí mít ướt” này, nàng đã nắm chắc được phần thắng trong tay, mặc dù chẳng biết ai đúng ai sai. Khi nàng khóc, chàng chẳng cần phải dỗ, bởi vì càng dỗ, nàng càng được thể mà khóc bạo hơn nữa. Trong hoàn cảnh não nùng và bi đát ?y, chàng chỉ nên kiếm một miếng khăn giấy, đưa cho nàng lau những giọt nước mắt còn đọng trên bờ mi mà thôi. Việc làm đơn sơ và tầm thường này sẽ giảm bớt được những tia nhìn hình “viên đạn” của nàng bắn sang phía chàng. Sau đó, hãy viết một bản “tường trình” với những lời lẽ chân thành. Những nàng mít ướt hay khóc nhè cũng là những nàng dễ mềm lòng hơn ai hết. Dù sao chăng nữa, thì điều tốt nhất, đó là những anh đờn ông con giai không nên làm cho những chị đờn bà con gái giận hờn. Còn nếu lỡ làm cho nàng dỗi hờn, thì phải mau mắn nhận phần thiệt, phần sai về mình. Điều đó chẳng làm cho chàng mất đi hình ảnh đẹp của mình, mà nhiều khi còn làm cho mình đẹp hơn, ít nhất là dưới mắt một người. Gã Siêu.
Gã đang cắm dùi tại một vùng nông thôn khỉ ho cò gáy và gã bỗng nhận ra sự phát triển ghê gớm của cỏ GãSiêu 36
Gã đang cắm dùi tại một vùng nông thôn khỉ ho cò gáy và gã bỗng nhận ra sự phát triển ghê gớm của cỏ dại. Một thửa ruộng vừa gặt xong, chỉ cần vài ba trận mưa là cỏ dại tự nó nảy mầm và lớn lên. Thậm chí chỉ cần múc một tí bùn dưới sông đổ lên mặt đường và thế là…a lê hấp cỏ dại liền xuất hiện. Từ hình ảnh cỏ dại, gã liên tưởng tới một hình ảnh khác, cóc cần tới sự quan tâm của con người, đó là hình ảnh của thời gian. Dĩ nhiên, chẳng ai nhìn thấy thời gian tròn hay méo, dài hay ngắn, vì thế cho nên người ta mới so sánh, ví ví von von. Có kẻ cho rằng thời gian giống như chiếc bánh xe bò, đủng đỉnh quay, tuy chậm nhưng mà chắc. Chỉ quên đi cái vèo là mấy chục năm đi đứt. Mới ngày nào, gã mới chỉ là một chú nhóc đầu húi cua, thế mà giờ đây sống lâu cũng được lên lão làng, ra đường thiên hạ cũng cúi đầu chào bác, chào ông. Mới ngày nào, chúng ta còn trai trẻ thế mà giờ đây cũng đã bước vào buổi trưa hay buổi chiều của đời mình. Chính vì thế, các cụ ta ngày xưa mới bảo: – Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già sống sộc nó thì tới ngay. Có những biến cố, có những câu chuyện, gã tưởng mới chỉ xảy ra cách đây một vài ngày hay một vài tháng là cùng, thế mà cũng đã hai mươi mấy năm rồi, chẳng hạn biến cố ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm. Có người cho rằng thời gian giống như một giòng sông, âm thầm lặng lẽ trôi, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác, chẳng chờ ai mà cũng chẳng đợi ai. Và một khi đã trôi qua thì sẽ chẳng bao giờ trở lại. Bởi đó, thiên hạ mới có lý khi phát biểu: – Chẳng ai tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Hay như tục ngữ cũng đã bảo: – Thời giờ thấm thoát thoi đưa, Nó đi đi mãi, chẳng chờ đợi ai. Chính vì chẳng thèm chờ ai mà cũng chẳng thèm đợi ai, nên thời gian mới mang một vẻ mặt lạnh lùng đến tàn nhẫn. Dù chúng ta có níu kéo thì thời gian vẫn cứ đường ta, ta cứ đi, để rồi dần dần vuột khỏi bàn tay chúng ta. Bởi đó thiên hạ mới bảo: – Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc nào mà không bị tàn phai với thời gian. Và như vậy, cái già như một người khách bất đắc dĩ, tới một lúc nào đó, nó sẽ sồng sộc chạy vào cuộc đời mỗi người, dù chúng ta không muốn. Chẳng những không muốn, mà nhiều người còn muốn che dấu tuổi già của mình, nhất là đờn bà con gái. Bởi đó, Xuân Diệu đã viết: – Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em em ơi, tình non sắp già rồi. Thực vậy, người ta đã đưa ra một ngàn lẻ một cách thức để giúp cho các bà các cô làm đẹp để níu kéo tuổi trẻ cùng với cái thời xuân sắc của mình. Nào là giải phẫu, cắt chỗ này vá chỗ kia. Nào là son phấn, bôi chỗ kia trét chỗ nọ, thậm chí còn bắt chước cả loài rắn. Bởi vì , loài rắn trong quá trình phát triển, thường phải lột da nhiều lần để lấy lại sức lực và sự trẻ trung của mình. Cho nên, người ta cũng khuyên các bà các cô tới thẩm mỹ viện để lột da mặt, hầu dung nhan được tươi mát, mỹ miều. Thế nhưng chỉ được một vài khoảng khắc, để rồi cuối cùng vẫn phải đối mặt với cái già: tóc bạc, răng long…Hay như người xưa đã bảo: – Rắn già rắn lột, Người già người chui tọt xào săng. Sở dĩ người ta sợ tuổi già vì tuổi già có những cái đáng sợ. Người ta lo tuổi già vì tuổi già có những cái đáng lo. Trong phạm vi hạn hẹp cùng với một cái nhìn phiến diện, gã chỉ xin đưa ra một vài cái đáng sợ và đáng lo ấy. Trước hết là tình trạng xuống cấp về thể xác cũng như về tinh thần. Về thể xác thì ai cũng nhận thấy. Bác sĩ Đỗ hồng Ngọc, trong loạt bài viết cho tuổi chớm già đã mô tả như sau: “Một sớm mai thức dậy, người uể oải, nặng nhọc, bước vào phòng tắm, nhìn gương soi, ngỡ ngàng như vừa gặp một người quen mà không nhớ là ai, nhìn tới nhìn lui một lúc mới nhận ra chính là ta đó. Ta mà như không ta. Ta bỡ ngỡ nhau ở cái tuổi mới lớn năm nào, chợt cao lên, chợt lớn lên và lạ lẫm với chính mình, chân tay lọng cọng như thừa như thiếu, mà mày thanh mắt sáng, mà muốn làm nghiêm cũng thấy như tủm tỉm cười, còn giờ đây cũng lạ lẫm với chính mình mà thử nhếch khóe môi tìm lại nụ cười chợt thấy khó khăn, niềm vui thì vẫn vậy, sao mắt môi như trĩu nặng. Một nếp xếp đã đậm theo vòng cung khóe miệng, những dấu chân chim đã hằn trên khóe mắt. Và kìa, một vài nhánh tóc đã nhạt phai, khô quắt, mỏng tanh. Bỗng dưng thèm vẽ lại tức khắc khuôn mặt xa lạ mà thân quen kia, trước khi tắm táp, để rồi mày râu nhẵn nhụi lao vào cơ quan, hay đến giảng đường, xí nghiệp, công ty…” Thì ra mình đã già. Tuổi già âm thầm đến lúc nào mình cũng không hay, như mảnh trăng trên đầu: – Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. Chuyện kể lại rằng: Ngày xưa có một người lái buôn thường đi những chuyến đường dài. Anh bỏ người vợ trẻ ở nhà mòn mỏi đợi trông. Như để chuộc lại những hờ hững của mình, lần này anh hỏi nàng muốn anh mua món quà gì cho nàng lúc trở về. Nàng lẳng lặng chỉ vào vầng trăng non cong vút đang vắt trên bầu trời xanh trong vời vợi kia. Anh ghi nhớ và hứa chắc sẽ mua cho nàng món quà đó dù giá có đắt đến bao nhiêu. Thế rồi ngày tháng trôi qua, một hôm trước ngày trở về, anh nhớ lời hứa với vợ, đã nhìn lên bầu trời trong xanh kia, vầng trăng kia, và thế là anh mua ngay cho nàng một chiếc gương tròn, nạm những hạt kim cương lộng lẫy. Hí hửng tưởng nàng sẽ sướng vui, nhưng thật bất ngờ, nàng nhìn chiếc gương tròn đắt giá kia mà cứ khóc mãi. Thì ra nàng đâu có cần gương, nàng cần lược, một cái lược cài đầu cong vút như mảnh trăng non thượng tuần xinh xắn nọ. Trăng đã già lúc nào đó vậy ? Phàm bất cứ đồ vật nào dùng mãi thì sẽ mòn, sẽ cũ và tới một lúc nào đó sẽ bị phế thải. Chiếc áo đã rách, thì quá lắm là vá chằng vá đụp, dùng tạm được ngày nào hay ngày đó, rồi sẽ bị xếp xuống hàng giẻ lau. Một chiếc xe gắn máy, hay một chiếc đầu video, dùng tới dùng lui, thì thế nào cũng phải đến lúc chúng bị hỏng hóc bộ phận này, bộ phận kia. Hư chút đỉnh thì sửa chữa. Hư nhiều thì đại tu hay nâng cấp, lên đời. Còn bản thân chúng ta thì thế nào ? Năm sáu chục tuổi đời đè nặng thì làm sao còn mới, còn “gin” cho được. Với chiếc máy, bộ phận nào hư chúng ta có thể thay bằng bộ phận khác. Nhưng với cơ thể con người, thì thay thế những bộ phận hư hỏng còn là một chuyện nhiêu khê, rắc rối và hao tốn, mà vẫn chưa bảo đảm được sự an toàn. Như trên gã đã nói: sự xuống cấp về thân xác nói chung, và của từng bộ phận trên cơ thể thì ai cũng nhận thấy. Riêng bản thân mình thì âm thầm “gậm nhấm” nỗi xót xa cho tình trạng xuống cấp ấy. Chẳng hạn cặp mắt: bắt đầu xệ xuống, có quầng thâm, nét nhìn đã bớt long lanh, đã bớt tinh anh, và thỉnh thoảng thấy ghèn xuất hiện ở hai khóe. Nhìn gần không rõ nữa, nên phải mang kính để điều tiết…Mà đúng vậy, một lần kia, cầm tờ báo thân quen đưa lên đọc, bỗng cứ phải đẩy dần tờ báo ra xa, xa chút nữa, rồi chỉ đọc được những cái tựa, những dòng to. Thôi thì đành phải mua cái kính lão. Có kính lão rồi cũng nhất định chưa lão, bất đắc dĩ mới phải đeo lên. Cho đến một hôm rồi đành mua thêm sợi dây toòng teng vì kiếm kiếng hoài thật vất vả. Chẳng hạn đôi tai: bắt đầu kém tinh, khiến nhiều lúc phải lắng nghe. Và cũng do tai nghe kém thính, người chớm già bắt đầu nói to tiếng, cộc lốc, đều đều… Tóc thì bạc và cứ rụng dần thành hói. Răng thì chiếc rụng, chiếc lung lay, khấp kha khấp khiểng như cầu rửa chân. Mũi ngửi cũng tệ. Lưỡi nếm cũng dở khiến ăn mất ngon. Đó là về những giác quan bên ngoài, còn lục phủ ngũ tạng bên trong cũng chịu chung cùng một số phận, có nghĩa là tim gan phèo phổi đều xuống cấp, nên mới nảy sinh những chứng bệnh hiểm nghèo. Chẳng hạn: mạch máu như các ống nước xài lâu năm đã bị gỉ sét hoặc bị cứng lại, không co giãn dễ dàng nữa, nên đâm ra cao huyết áp, dễ bị nhồi máu cơ tim, hay tai biến mạch máu não, một là đi đứt hay là bại liệt khiến cho bản thân phải khổ đã đành, mà những người thân yêu cũng khổ nữa. Đặc biệt ở những người mập phệ, ăn quá nhiều chất béo, làm cho xơ vữa đóng trong lòng động mạch. Các tuyến mồ hôi làm việc kém hơn, dẫn tới tình trạng không thải kịp chất bẩn, dễ làm cho cơ thể…bốc mùi. Cũng vậy, các tuyến tiêu hóa như gan mật, dịch vị cũng hoạt động tệ hơn nên dễ bị táo bón, khó tiêu, trĩ trong trĩ ngoài… Dĩ nhiên, gã không phải là một chuyên viên chăm sóc sức khỏe ban đầu, nên đã mượn tạm những mô tả kể trên của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, được đăng trên báo Kiến thức Ngày nay. Kinh nghiệm bản thân cũng cho gã thấy đời mình giống như một cuộc leo núi. Xuất phát từ chân núi là lúc mở mắt chào đời, rồi cùng với thời gian, mình leo lên, leo lên mãi ở triền núi bên này. Bốn mươi lăm là đỉnh cao, để rồi từ đó tuột dốc và xuống dần ở triền núi bên kia. Người xưa có câu: – Trai ba mươi tuổi đang xoan, Gái ba mươi tuổi đã toan về già. Thế nhưng, có kẻ lại bảo: – Trai ba mươi tuổi mà già, Gái bốn mươi tám đang ra má hồng. Cả hai câu tục ngữ trên đều hơi phóng đại tô màu một chút. Vì thế, để trung dung, gã đã chọn bốn mươi lăm là đỉnh cao cuộc đời như vừa mới trình bày. Thực vậy, vào tuổi này mắt gã bỗng mờ tịt, nên phải sắm thêm một cặp kiếng lão. Dầu chưa đến độ hói đầu, nhưng tóc gã cũng bắt đầu thưa dần. Nếu gã nhớ không lầm thì một văn Thổ nhĩ kỳ trong tác phẩm “ Những kẻ thích đùa” đã đưa ra hai tiêu chuẩn để xác định cho một người thông thái, đó là phải đeo kiếng và phải hói đầu. Nếu đích thực là như vậy thì gã đang chớm “sa-văng”, đang chớm khôn ra rồi đó. Sự vui chưa qua thì sự buồn lại tới. Và nỗi buồn không tên len lén đi vào lòng gã. Nỗi buồn thứ nhất, đó là gã nhận thấy sức kéo của mình bị giảm sút một cách đáng kể. Ngày xưa lúc còn trai trẻ, gã ngồi gõ chiếc máy chữ cà tàng mỗi ngày tám chín tiếng đồng hồ, thậm chí có những hôm làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, mà ăn vẫn ngon, ngủ vẫn đẫy con mắt… Còn bây giờ, ngồi nhấn vi tính, đâu có phải vận dụng tất cả nội lực mà gõ cho thủng mấy tờ giấy than trên chiếc máy chữ cà tàng ấy, chỉ cần đụng nhẹ khỏe re, thế mà cũng chỉ ngồi được bốn năm tiếng đồng hồ là đã mệt nhoài, nhức nhối đến tận lái tim. Ăn mất ngon và ngủ thì chỉ chập chờn. Nỗi buồn thứ hai, đó là thân thể bỗng dưng dở quẻ với đủ mọi thứ bệnh. Mà bệnh nào thì cũng là như một bản án tử hình đã ký chờ ngày thi hành. Nào là huyết áo cao. Mà huyết áp cao thì thể nào cũng ảnh hưởng tới tim. Mà tim đã có vấn đề thì hãy coi chừng, có thể đứt bóng dễ như trở bàn tay. Rồi gan nhiễm mỡ, phổi bị nám, bao tử bị loét, vân vân và vân vân. Gã có thói quen lâu lâu tới ông bác sĩ khám tổng quát một lần để nắm vững tình hình sức khỏe của mình. Lần kia, sau khi đã siêu âm, ông bác sĩ lạnh lùng phán: – Chú có hai viên sạn nhỏ trong thận. Gã bèn hỏi: – Làm thế nào để tống khứ hai cái của nợ ấy ra. Ông bác sĩ liền kê đơn: – Một là chú phải uống thuốc theo sự hướng dẫn của bác sĩ. Hai là chú phải vận động tay chân. Ba là chú phải uống nước nhiều vì nước chảy đá mòn. Bốn là chú phải…cười, vì cười cũng là một liều thuốc bổ đấy. Chẳng hiểu vì nghe theo lời căn dặn của ông bác sĩ hay do toa thuốc nam của mấy bà lang trọc là dùng hạt chuối hột mà hai cái của nợ của gã bỗng lặn mất tiêu, không còn hiện hữu trong hai trái thận thân yêu nữa. Không phải chỉ xuống cấp về phương diện thể xác, mà còn xuống cấp về phương diện tinh thần nữa. Như trên bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho biết vì tai nghe bớt thính, nên những người chớm già bắt đầu nói to tiếng, cộc lốc, đều đều…Do đó dễ sinh ra cáu gắt. Chuyện không đáng gì cũng quặu, cũng trách, cũng giận, cũng hờn…thành thử với tuổi già thì đâm ra khó tính. Không những khó tính, mà người già lại thường hay quên. Ngay chính gã cũng cảm thấy như vậy. “…Có những lúc chợt quên mất tiêu tên một người quen, quá quen. Quên cái tên thôi, còn thì nhớ tất cả. Khi cần nhớ thì quên, mà khi cần quên thì lại nhớ. Nhớ rất kỹ những chuyện xưa cũ. Lạ lùng chưa. Có lúc nhắc chiếc điện thoại lên, gọi cho ai đó, định nói điều gì thì quên tuốt, đành xin lỗi, nhầm số. Không lẽ hỏi người đầu giây bên kia, xin vui lòng cho biết tôi đang định nói gì với bạn đó vậy”. Nơi gã ở, có một bà cụ. Trước kia bà cụ là một con người đảm đang, ăn nói đâu ra đấy, có bài có bổn hẳn hoi, chứ không tào lao thiên địa. Một tay bà cụ quán xuyến hết mọi công việc trong gia đình, thậm chí còn thay chồng làm quan. Bà cụ lo từ A đến Z, còn ông cụ vốn mang chức chánh trương hay chánh tổng chi đó, chỉ có việc ngồi ăn cỗ, thù tiếp các quan trên, hay ngồi xòe tổ tôm chắn cạ với bè bạn. Thế rồi khi về già, bà cụ bỗng dưng quên tất tật, quên tuốt luốt, thậm chí quên cả những người trong gia đình, con cháu cụ cũng gọi là ông, là bà. Quen mà hóa ra lạ, thân mà trở thành người dưng nước lã. Sự khôn ngoan thưở trước không còn nữa. Bà cụ cư xử như một đứa con nít. Có lần trong nhà thờ, bà cụ đã giành lên rước lễ với một bà khác rồi sinh ra ẩu đả. Thấy bất kỳ chiếc dép nào, bà cụ cũng đem về nhà, khiến cho con cháu phải mất công đem trả lại cho khổ chủ. Có lần gã đến thăm bà cụ. Lúc ra về thì chiếc dép mất tiêu, khiến cả nhà phải đi tìm hồi lâu mới thấy được chỗ bà cụ đã cất giấu. Bước vào tuổi già, người ta thường trở lại thời con nít, nhưng lại là một thứ con nít…khó thương. Ngoài tình trạng xuống cấp kể trên, một nỗi lo và một nỗi sợ khác của tuổi già chính là sự cô đơn. Dĩ nhiên không phải chỉ người già, mà hầu như tất cả chúng ta đều sợ sự cô đơn. Thực vậy, chúng ta không thể nào sống cu ky mình ên, như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đoàn, trong một xã hội. Vì thế, mấy ông triết gia lẩm cẩm mới phát biểu: – Người là một con vật có xã hội tính. Nếu ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn, thì chúng ta sống là sống với người khác. Và khi không còn người khác để sống với, thì chúng ta sẽ rơi tõm vào tình trạng cô đơn đáng sợ và khủng khiếp. Cách đây ít lâu, gã có đọc một cuốn sách mang tựa đề là “người vạn đảo”. Trong đó, tác giả kể lại cuộc hành trình lênh đênh trên biển cả của mấy nhà thám hiểm. Tác giả cho biết: trong những ngày cô đơn giữa trời và nước, họ rất thèm được liên hệ với thế giới bên ngoài. Có một con chim nhỏ ngày nào cũng tới đậu trên chiếc bè của họ. Nhưng rồi một ngày kia, con chim nhỏ không tới nữa và họ buồn tiếc như mất đi người bạn thân thương nhất của mình. Cô đơn là một nỗi khổ của tâm hồn. Nó đằng đẵng và day dứt mà chỉ người trong cuộc mới cảm nghiệm được mà thôi. Bởi vì đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Chính vì thế, tục ngữ Liên xô có câu: – Dù được ở trên thiên đàng, mà chỉ có một mình, thì cũng chẳng thể nào sống nổi. Cô đơn không phải là không có ai, nhưng là thiếu vắng những gì thân yêu nhất, những gì hiểu biết và cảm thông với mình nhất. Kinh nghiệm cho thấy: – Không phải bên nhau mà đã gần nhau. Không phải gần nhau mà đã quen nhau. Không phải quen nhau mà đã thương nhau. Không phải thương nhau mà đã hợp nhất với nhau, bởi vì mỗi người là một thế giới. Mỗi người là một màu nhiệm. Đúng thế, nhiều khi đi giữa phố chợ đông người mà chúng ta vẫn cảm thấy âm thầm lẻ loi vì không thấy được một người hiểu mình. Có khi sống giữa con cháu mà chúng ta vẫn cảm thấy trống vắng vì nghĩ tới tuổi già mà tủi phận. Thực vậy, người già thường dễ cảm thấy cô đơn hơn ai hết, sở dĩ như vậy vì các cụ cảm thấy mình bất lực, không giúp gì được cho con cho cháu. Các cụ luôn có ý nghĩ “mình hết thời rồi”. Những ưu tư suy nghĩ của các cụ dễ bị thế hệ sau cho là lạc hậu và lẩm cẩm. Bị thực tại từ chối, các cụ quay về với dĩ vãng, dù biết rằng hoài cổ nhiều lúc cũng thực là viển vông. Đặc biệt nơi các cụ bà thường có một cảm xúc bâng khuâng buồn bã khi con cái đã khôn lớn, không cần tới sự chăm sóc của người mẹ. Cái cảm xúc “tổ trống” khi đàn chim con đã bay xa. Nhiều người sống những tháng ngày hiu quạnh, cảm thấy như mình thừa thãi, vô vị… Chính vì nghĩ tới những ngày tháng quạnh hiu với một tương lai không mấy sáng sủa, mà nhiều cụ ông vẫn cản đảm bước thêm bước nữa, dù tuổi đời đã đè nặng trên đôi vai của mình, như tục ngữ đã diễn tả: – Con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông. Truyền thống gia đình tại Việt Nam là “tam đại”, gồm ba đời: ông bà, cha mẹ và con cái cùng sống chung dưới một mái nhà sẽ giúp cho các cụ già bớt cô đơn và người trẻ bớt lạc lõng vì luôn được nương tựa vào nhau. Thật hạnh phúc đầm ấm khi trong bữa ăn cha mẹ biết gắp những miếng ngon miếng ngọt cho ông bà và ban tối, con cháu được sà vào vòng tay ông bà để nghe kể chuyện cổ tích. Thế nhưng, hình ảnh trên ngày càng bị mai một, không phải vì thiếu thức ăn ngon để gắp cho nhau hay ông bà thiếu chuyện cổ tích để kể cho đàn cháu, mà vì thời gian chúng ta dành cho nhau không đủ. Cha mẹ quần quật suốt ngày để tìm chén cơm manh áo. Con cháu bù đầu vào sách vở học hành. Như vậy, tuy ba thế hệ cùng ở dưới một mái nhà, nhưng chưa thật sự sống chung một tổ ấm. Còn bên tây phương, ông bà hay cha mẹ già thường được gửi vào viện dưỡng lão. Gã xin trích lại nơi đây những lời phát biểu của một số các cụ già sống trong viện dưỡng lão tại Pháp, được đăng trên báo “Phụ nũ Chủ nhật”. Sống trong viện dưỡng lão chẳng khác gì sống trong một nhà tù. Một bà cụ chín mươi hai tuổi đã nói: – Suốt ngày hình như tôi chẳng thấy một bóng dáng ai qua lại, còn con tôi thì hình như chỉ thăm tôi vào cuối tuần, chỉ thăm độ năm phút là chào mẹ…con đi. Do cuộc sống ngày càng khó khăn, con cái khi có gia đình thường cho các cụ vào viện cho rảnh việc để lo chuyện khác. Một quan chức của viện dưỡng lão Seine cho biết: – Thật ra cho các cụ vào viện dưỡng lão là công việc thường làm ở các nước phát triển…nhưng chỉ buồn cho các cụ là cách đối xử của con cháu mình. Có lần thân nhân vác đơn kiện ban giám đốc về thái độ ngược đãi, la mắng và cộc cằn của những người giúp việc, thì được trả lời: – Chính cha mẹ các anh mà các anh còn không chăm sóc huống chi là chúng tôi, người dưng nước lã. Và như vậy, phải chăng phần thiệt thòi luôn nằm về phía các cụ, những người già hôm nay ? Gã siêu
Nói về tuổi tác, thì mỗi người có một quan niệm riêng. Người thì nhấn mạnh đến cái “hình dong” GãSiêu 37
Nói về tuổi tác, thì mỗi người có một quan niệm riêng. Người thì nhấn mạnh đến cái “hình dong” bên ngoài. Kẻ thì nhấn mạnh đến cái “tâm tính” bên trong: Soi gương thì thấy mình già, Soi lòng thì thấy vẫn là thanh niên. Vì vậy mà ca dao đã từng nói: Trai ba mươi tuổi đang xoan, Gái ba mươi tuổi đã toan về già. Thế nhưng, cũng chính ca dao lại bảo: Trai ba mươi tuổi mà già, Gái bốn mươi tám đang ra má hồng. Có lẽ tuổi thọ của các cụ ta ngày xưa hơi bị ngắn, nên mới phát ngôn như vậy, chứ còn thời nay thì ba mươi hay bốn mươi tám vẫn cứ còn oai phong lẫm liệt, chẳng nhằm nhò gì. Riêng trường hợp của cụ Nguyễn Công Trứ, thì quả thật là hoạ hiếm. Sách kể lại rằng: Năm 73 tuổi, ông cưới một nàng hầu và tổng cộng ông có tất cả 14 bà vợ. Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi – Tân nhân lục vấn lang niên kỷ – ông đã chẳng ngần ngại trả lời: Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam. Có nghĩa là năm mươi năm về trước, anh mới có hăm ba à! Nhìn dòng đời lặng lẽ, các cụ ta ngày xưa đã ngán ngẩm mà bảo: Âm thầm ngày tháng trôi qua, Năm kia nào có đợi ta bao giờ. Đúng thế, chẳng ai có thể cản được những bước chân âm thầm của thời gian. Cứ nhìn vào sắp nhỏ, lớn lên như thổi, chúng ta mới nghiệm ra gánh nặng tuổi đời đang đè xuống đôi vai còm cõi và dấu ấn thời gian đã in đậm trên khuôn mặt chúng ta. Cách đây đã lâu, một cô bé Việt kiều hớn hở đến thăm gã. Phối kiểm lại bộ nhớ, gã thấy được rằng: khi khăn gói quả mướp theo thày bu xuống tàu đi vượt biên, cô bé này còn đang ở lứa tuổi “babilắc”, suốt ngày chơi ô ăn quan và nhảy cò cò ở sân nhà thờ, thậm chí còn anh dũng mặc quần đùi đi móc cua ngoài đồng về cho chị nấu canh riêu, thế mà giờ đây đang độ đào tơ trổ mã, đẹp như một nàng tiên, giống hệt một bài thơ đã diễn tả: Hồng hồng tuyết tuyết, mới ngày nào chưa biết cái chi chi, mười lăm năm thấm thoắt có xa gì! Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu. Tất cả những điều vừa trình bày, chỉ có ý muốn nói lên rằng: Chẳng ai mà cứ trẻ mãi, tới một lúc nào đó mình sẽ phải già. Thời gian chính là một vị khách bất đắc dĩ, không mời mà đến, từng bước chân âm thầm, nó đưa chúng ta đi qua những chặng đường đời. Từ ấu nhi đến thiếu nhi, từ thiếu nhi đến thiếu niên, từ thiếu niên đến thanh niên, từ thanh niên đến trung niên, từ trung niên đến lão niên, để rồi cuối cùng đẩy mỗi người chúng ta bước qua khung cửa hẹp, đó là cái chết. Chúng ta giống như cây lúa được gieo trồng, cứ âm thầm nảy mầm, lớn lên, rồi đâm bông kết trái cho tới mùa gặt. Dĩ nhiên, đây chính là qui luật chung của sự phát triển, nhưng vẫn có những luật trừ, bởi vì nhiều người cũng đã chết rất trẻ: Lá vàng còn ở trên cây, Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời. Sở dĩ như vậy là vì cái chết ở trước mặt người già, nhưng lại ở sau lưng người trẻ và nó chẳng miễn trừ cho bất kỳ một ai: Trăm năm nào có gì đâu, Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì. Hôm nay, gã xin “bàn ra tán vào” về lứa tuổi trung niên. Đó là lứa tuổi từ 35 đến 55. Lứa tuổi này được gọi bằng những tên khác nhau, chẳng hạn lứa tuổi đã “toan về già”, bởi vì trẻ thì không còn, mà già thì lại chưa đến. Lứa tuổi xế trưa hay lứa tuổi ngả bóng về chiều, bởi vì trưa thì đã qua rồi mà chiều thì mới đụng tới tí xíu. Nếu thi vị hoá một chút thì gọi đó là lứa tuổi “thu đông”, bởi vì mùa thu cuộc đời thì đang qua đi và mùa đông cuộc đời thì cũng sắp tới. Còn theo cách nói của giới bình dân, thì đó là lứa tuổi “sồn sồn”. Vậy lứa tuổi này có những đặc điểm nào? * Đặc điểm thứ nhất mà dường như ai cũng ngán ngẩm nhận ra, đó là sự tụt giảm về sức khoẻ, sự kiệt lực sau những năm dài miệt mài lao động vì cơm áo gạo tiền, hay vất vả kiếm sống vì chén cơm manh áo. Người ta có thể coi bốn mươi lăm tuổi là đỉnh cao cuộc đời, rồi sau đó bắt đầu đi xuống ở triền núi bên kia. Tới cái mốc này, mắt người ta bỗng mơ huyền mờ, phải vội vã ra tiệm cắt ngay một chiếc kính lão, để khỏi trông gà hóa cuốc. Rồi từ đó, lục phủ ngũ tạng bắt đầu lỏng lẻo. Nhất là khi đã bước vào tuổi “ngũ tuần”, thì sức kéo bị giảm sút một bậc, làm việc lâu một xíu là cảm thấy mệt mỏi, uể oải ngay tức thời. Sức kéo giảm sút đã đành, mà tuổi năm mươi còn là khởi điểm cho đủ mọi thứ bệnh hoạn. Nào cao huyết áp, nào nhồi máu cơ tim, nào tai biến mạch máu não, nào loét bao tử, nào đái… đường. Bản án tử hình dường như đã được treo lơ lửng trên đầu quí cụ thượng thọ ngũ tuần. Chúng ta giống như cái máy nổ, sau một thời gian dài sử dụng, thế nào cũng bị rệu rạo. Không hư chỗ này, thì cũng hỏng chỗ kia. * Cùng với sự sút giảm về sức khoẻ, việc sản xuất các kích thích tố, nhất là các kích thích tố về đường sinh dục cũng cạn kiệt, thành thử nhiều người bỗng dửng dưng với những sinh hoạt vợ chồng, không còn khắng khít mặn nồng như thuở còn trai trẻ. Thậm chí có người, chồng cũng như vợ, còn lảng tránh, như những cô cậu học trò tìm đủ mọi lý do để lẩn trốn, sợ phải trả bài cho thầy cô giáo. Và đây cũng là một trong những lý do làm cho đời sống vợ chồng bị trực trặc và dẫn tới những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mà chẳng dám nói ra. * Tới lúc này thì con cái đều đã khôn lớn. Chúng đều rời xa mái ấm, để xây dựng một cuộc đời riêng, một gia đình riêng, thành thử cuộc sống của phần nào cũng bị đảo lộn. Người ta rảnh rỗi hơn, những cũng lại cảm thấy trống vắng hơn. Đi ra thì cũng chỉ mình với ta. Đi vào thì cũng chỉ ta với mình. Hơn thế nữa, thời gian phần nào cũng đã làm cho tình yêu của chúng ta bị xói mòn, không còn thắm thiết như cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thành thử nảy sinh những cái nhìn tiêu cực về tương quan vợ chồng, dần dần đi tới chỗ chán nhau. Nhưng vì con cái và dư luận xã hội, nên đành phải kéo lê những ngày tháng vô vị, nhạt nhẽo. * Ngoài ra là thái độ bi quan. Bi quan vì cảm thấy cuộc đời mình đã bắt đầu xế bóng và đang đi dần vào cảnh hoàng hôn với những bệnh tật mắc phải. Bi quan vì thấy mất mát, bởi ông bà cha mẹ và ngay cả những bè bạn thân yêu lần lượt ra đi, để lại trong lòng mình một nỗi lo lắng: nay người, mai ta. Lúc nào thì cái chết lên tiếng vẫy gọi, để rồi bản thân cũng sẽ phải cúi đầu vâng nghe. * Sau cùng là sự khủng hoảng trong đời sống hôn nhân. Theo các nhà tâm lý, thì sự khủng hoảng trong đời sống hôn nhân thường xảy ra vào hai thời kỳ: - Thời kỳ thứ nhất, đó là những năm đầu của đời sống vợ chồng. Nguyên do là vì trước hôn nhân, hai người thiếu chuẩn bị, không được giáo dục đầy đủ về những bổn phận và trách nhiệm của mình, cũng như không được hiểu rõ về những khía cạnh tâm sinh lý của đời sống chung. Tiếp đến là vì sau hôn nhân họ mới khám phá ra những sai lỗi khuyết điểm của nhau. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Sau khi tận hưởng tất cả những cái mới mẻ của hôn nhân, giờ đây cả hai phải đối đầu với cái thực tế tẻ nhạt và đơn điệu được lập đi lặp lại, cộng thêm vào đó là những khó khăn mới trong cuộc sống. Sau đây là bản kể tội của đôi vợ chồng trẻ mà gã lượm được ở đâu đó, khi lang thang trên mạng: Vợ kể tội chồng: Ngày mình yêu, anh lúc nào cũng hào hoa phong nhã, dịu dàng tới nỗi em cứ ngỡ mình hạnh phúc nhất đời, vì “vớ” được hoàng tử. Về với nhau một nhà rồi, thì ôi thôi, hoàng tử của em bỗng chốc hóa thân thành chàng… cóc ghẻ. “Ghẻ” theo đúng nghĩa đen thật nhé! Em thực không tài nào chịu nổi khi tối tối anh ôm chân… gảy đàn, trong khi mắt vẫn dán vào màn hình máy tính chơi game. Có giục anh đi tắm, anh lại viện cớ đang bận “công thành”, “việc tắm là việc cỏn con, nay không làm để mai cũng được”. Đành rằng anh chẳng vội gì, nhưng lỗ mũi của em thì sắp… viêm dị ứng, vì mỗi ngày được “hít hà” không ít thứ mùi khó hiểu thoảng ra từ cơ thể của anh… Căn nhà nhỏ xinh của chúng mình, em dọn dẹp mỗi ngày gọn gàng là thế, anh cũng chẳng tiếc thương. Cứ đi làm về, áo quần anh vứt đầy trên ghế, rồi tàn thuốc lá rơi rớt khắp thảm, trên sàn. Thật xấu mặt em mỗi khi nhà bất ngờ có khách. Và còn nhiều nhiều nữa… Chồng kể tội vợ: Chẳng biết anh có nên gọi em bằng biệt danh dịu dàng “bồ câu bé nhỏ” nữa hay không, vì giờ em đã biến ra… quạ khô khó tính mất rồi. Dường như chẳng ngày nào em thôi phàn nàn cả. Em luôn nghĩ ra lý do để cự nự, bắt lỗi anh. Điển hình là, em lúc nào cũng chê anh… bẩn. Anh đã đọc đâu đó, họ nói, mùi đàn ông là thứ mùi quyến rũ nhất cơ mà. Có thể lý thuyết này không đúng với vợ anh, nhưng em tìm cách khác “góp ý” cho anh chứ. Thái độ rất “thiếu tính xây dựng” của em đôi lúc làm anh tự ái. Bất chấp. Tuy nhiên vẫn có khi anh hý hửng tắm táp sạch sẽ nhằm làm em vui. Thế nhưng niềm hân hoan tắt ngóm khi anh “khều” em mà chỉ nhận được cái nguýt dài, em hỏi: “Thế đã đánh răng chưa đấy?” Em bị chứng sạch sẽ thái quá. Hẳn nhiên, anh vui vì em biết lo cho nhà cửa gọn gàng, nhưng cái gì trở nên thái quá cũng đều có hại. Như hôm rồi nhé: Đám tài liệu rất quan trọng của anh, để chúng trên bàn như thế, anh vơ cái được ngay, rất tiện. Vậy mà em chẳng nói một câu, dọn dẹp tuốt luốt, xếp rất ngay ngắn vào tủ hồ sơ. Báo hại anh ngay ngày hôm sau có thuyết trình ở công ty, toát mồ hôi vì để quên tài liệu. Anh không nói lại vì lo em giận dỗi… (Huyền Anh). Nhiều người cho rằng sự khủng hoảng này thật cần thiết vì nó giúp cho đôi bạn được trưởng thành và nhờ sự trưởng thành mà cuộc tình của họ sẽ bền vững và hạnh phúc hơn. - Thời kỳ thứ hai đó là tuổi trung niên. Một tác giả nào đó đã viết: Trong thời kỳ này, người đàn ông xem ra đã nếm đủ mùi vị của cuộc sống gia đình; do đó dễ sống hướng nội hơn. Về phía người đàn bà, sau khi đã trải qua mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân, nếu không cảm thấy được thỏa mãn, họ dễ bị cám dỗ quay về với những ước mơ của thời niên thiếu. Ở lứa tuổi này người đàn bà dễ rơi vào những cuộc phiêu lưu mà họ không lường trước được. Một người chồng khép kín, một người vợ mộng mơ chính là nguyên nhân đưa đến cơn khủng hoảng trong thời kỳ thứ hai của đời sống hôn nhân. Theo gã nghĩ, có hai sự kiện đã tạo thành cuộc khủng hoảng của lứa tuổi trung niên. Sự kiện thứ nhất, đó là hội chứng muốn bù lỗ Ở vào lứa tuổi trung niên, người ta dường như đang ở trên đỉnh cao của sự ổn định và thành đạt. Sau bao nhiêu năm vất vả để làm ăn và bận rộn để tạo nên sự nghiệp, người ta bỗng cảm thấy tiếc xót, vì cho tới tuổi này mà vẫn chưa biết mùi đời. Người ta muốn hưởng thụ để bù lỗ cho một thời trai trẻ theo kiểu: Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già xồng xộc nó thì theo sau. Và một trong những cách bù lỗ rất phương hại cho hạnh phúc gia đình, đó là đèo bòng bồ nhí. Sau đây là câu chuyện của một ông tên là Khương: Hơn 50 tuổi và có mọi thứ trong tay, ông Khương lấy làm tiếc cho cuộc sống chẳng biết gì đời của mình, nên muốn trải nghiệm. Và từ khi ra “trường đời”, được kề cận, được tiếp xúc với những cô gái đẹp, ông đâm ra ngán nhìn vợ. Trước khi lấy được học vị tiến sĩ, ông chỉ là một thầy giáo nghèo với đàn con nheo nhóc. May nhờ vợ ông là người tháo vát, giỏi giang. Bà nghỉ dạy, ngày ngồi chợ bán hàng, tối may quần áo thuê, tạo điều kiện cho ông học hành. Trước sự hy sinh hết mình của vợ, ông chỉ biết có mỗi việc học và dạy học. Thế rồi sau 20 năm vùi đầu vào đèn sách, ông muối tiếc cho thời trai trẻ của mình. Và thế là ông chấm ngay một cô sinh viên mà ông đang hướng dẫn để làm đề tài cao học, thay thế cho bà xã, khiến cho bà và các con đều té ngửa. (Báo Phụ nữ). Sự kiện thứ hai là thèm tự do Ở vào lứa tuổi trung niên, con cái đều đã khôn lớn và ra riêng. Người ta không còn bị ràng buộc vào một chương trình sinh hoạt cứng nhắc: giờ nào đưa con đến trường, giờ nào đón con về nhà, giờ nào đi chợ nấu ăn… và người ta muốn được thảnh thơi và tự do sống cho riêng mình. Hoặc là để làm những việc mà đã từng ước mơ, hoặc là để thư giãn, giải trí như lòng mình mong mỏi. Thế nhưng, đằng sau những ý đồ tốt đẹp ấy, cũng thấy loáng thoáng những nguy cơ đe doạ cho sự vững bền của hôn nhân. Một vị thẩm phán tại Saigon, chuyên trị những vụ ly hôn của lứa tuổi trung niên cho biết như sau: Hơn 90% những đôi vợ chồng ly hôn ở tuổi này đều có gia đình ổn định, thành đạt và con cái trưởng thành. Họ đã phải trải qua nhiều khó khăn mới tạo dựng được sự nghiệp rạng rỡ và gia đình hạnh phúc. Nhưng khi đã đạt được những điều đó, họ lại lơ là chủ quan, quên không bồi đắp cho tình cảm vợ chồng. Trong khi đó, người đàn ông ở tuổi này lại có nhu cầu được sống cho mình sau bao nhiêu năm vất vả với sự nghiệp và gia đình. Vì vậy, nếu vợ chồng không hiểu nhau, không kịp thời điểu chỉnh và nhắc nhở, sẽ dễ dẫn đến tình trạng hưởng thụ sa đà. Người trong cuộc không nghĩ sự hưởng thụ của mình sẽ gây ảnh hưởng tới gia đình, nhưng khi bị cuốn vào những cuộc vui, họ dần dần mất kiểm soát và sẽ phạm sai lầm. Khi đó vợ con không chấp nhận, xảy ra mâu thuẫn, rồi chia tay là điều khó tránh. Hai vợ chồng nhà kia, đều là những người có địa vị và danh tiếng trong xã hội. Thời cực khổ, cả hai cùng chung lưng đấu cật, để các con có được một cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ. Hai người con đầu của họ giành được học bổng du học ở Mỹ, còn cô con út cũng du học tự túc theo hai anh. Các con đi rồi, trong anh bỗng trổi lên khát khao được tự do. Anh chia sẻ: Lúc nhỏ, tôi phải giữ em để ba mẹ đi làm, không được đi chơi. Lớn lên vào đại học, chỉ biết miệt mài với sách vở, ăn ngủ có giờ nên cũng rất gò bó. Đến lúc cưới vợ, sinh con thì phải lo cho gia đình nên tư do cá nhân đúng nghĩa đối với tôi là điều rất xa xỉ. Vì vậy, khi các con đi xa, không còn phải đưa đón, nên hết giờ làm việc là anh ra quán lai ra cùng đồng nghiệp. Thời gian về nhà của anh cứ trễ dần: 7 giờ, 10 giờ và có khi đến tận 3 giờ sáng. Thứ bảy và Chúa nhật, anh không đi đám giỗ hay tân gia, thì cũng cà phê cà pháo với bè bạn. Bị choáng trước sự thay đổi đột ngột của chồng, ngày nào chị cũng đón anh bằng những trận trách móc. Thế là cãi nhau, chiến tranh lạnh cũng nhiều mà chiến tranh nóng cũng lắm… Vậy để vượt qua sự khủng hoảng này, chúng ta cần phải làm gì? Trước hết chúng ta cần xác tín rằng: khủng hoảng, bất hoà, cãi cọ trong gia đình là chuyện thường ngày ở huyện và tự bản chất nó không phải là dấu hiệu xấu, bởi vì những trở ngại vốn dĩ đã là một phần của cuộc sống và là những biểu lộ qua đó con người thể hiện được ý chí tự do của mình. Nếu vợ chồng sợ đụng chạm, sợ tranh luận, sợ bất cứ một sự bất đồng nào trong gia đình, thì rất có thể đó là dấu chỉ họ chưa thực sự yêu thương nhau. Phải coi những va chạm với nhau là điều không thể tránh khỏi trong đời sống vợ chồng: bát đũa còn có khi xô đẩy huống nữa là vợ chồng với nhau. Thậm chí có người còn cho rằng: Cứ sau 7 năm, hay cùng lắm là sau 10 năm chung sống với nhau, thế nào vợ chồng cũng gặp khủng hoảng. Tiếp đến là dù có bất đồng, bất hoà thì cũng đừng bao giờ to tiếng hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Sự to tiếng và đấm đá là dấu chỉ của việc thiếu tôn trọng và yêu thương. Người ta không thể nói sự thật như ném đá vào mặt người khác. Sự thật giống như ánh sáng, chỉ có thể thuyết phục bằng cách đi xuyên qua nhè nhẹ mà thôi. Bởi vì: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Hay như một câu danh ngôn: Người ta có thể bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, hơn là dùng cả một thùng dấm chua. Thay vì to tiếng và sử dụng bạo lực, chúng ta hãy biết lắng nghe. Thực vậy, biết lắng nghe là biết khiêm tốn, biết tôn trọng người khác và nhất là biết thật sự yêu thương người bạn của mình. Lắng nghe là cả một nghệ thuật giúp chúng ta có thể trả lời cho sự thật và tránh quan trọng hoá vấn đề hoặc xoá bỏ được những nguyên nhân đưa tới bất hoà. Sau cùng, là con nhà có đạo, con nhà hai phần, chúng ta còn phải cậy dựa vào ơn Chúa với một đời sống đức tin vững mạnh. Vì đối với Chúa, không gì là không có thể. Có một đời sống đức tin vững mạnh, nghĩa là có lòng tốt, có sự thành thật, có tinh thần hy sinh và nhất là biết tha thứ. Bằng một đời sống như vậy, vợ chồng mới có thể giải quyết êm thắm những bất đồng với nhau, bởi vì chỉ nơi Thiên Chúa, chúng ta mới thực sự tìm thấy lời giải đáp cho những vấn đề xem ra bị bế tắc và không còn lối thoát. Để kết luận, gã xin đưa ra một vài hình ảnh để bàn dân thiên hạ cùng suy gẫm: * Tình yêu vợ chồng là như cây nho, càng đâm rễ sâu trong vùng đất có nhiều sỏi đá, thì càng sản xuất được nhiều rượu ngon. Tình yêu vợ chồng là như một thân cây mà rễ của nó có đâm sâu dưới đất đá, thì mới đứng vững được trước những sóng gió và giông bão của cuộc đời. Tình yêu vợ chồng đích thực chỉ có thể được khám phá và lớn lên qua những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. * Đời sống vợ chồng là như một bản nhạc. Hát cho đúng từng nốt không phải là chuyện dễ. Người thì không có tai để nghe cho chính xác, kẻ thì không có giọng hát đúng tiêu chuẩn. Có những chị vợ đánh giá sai về quyền lợi của mình, nhưng cũng không thiếu những anh chồng chẳng biết đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của vợ. Nhiều chị vợ có khuynh hướng phiền muộn, lo lắng hoặc gây hấn, khiến anh chồng chỉ biết đáp trả bằng những lời lẽ cộc cằn thô thiển, thậm chí bằng những cử chỉ bạo lực. Cả hai, chồng cũng như vợ, đều tỏ ra là những người chưa trưởng thành và chưa đóng trọn vai trò phối ngẫu của mình. * Và sau cùng là hình ảnh Socrate. Ông là một triết gia sống vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, đồng thời cũng là một kẻ bất hạnh vì phải chung sống với một bà vợ khó tính, thuộc vào hàng sư tử Hà đông. Sau những kinh nghiệm đắng cay, ông đã phát biểu như sau: “Nếu có được một người vợ hiền, bạn sẽ được hạnh phúc. Còn nếu chẳng may gặp phải một người vợ không ra gì, bạn sẽ trở thành một triết gia hữu ích cho mọi người.” Một triết gia khác cũng đã nói với các sinh viên trong ngày ra trường như thế này: “Tôi cầu chúc cho các bạn có được một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Các bạn hãy để sẵn một cuốn sách trong tầm tay của mình. Mỗi khi gặp chuyện bất hoà hay cãi cọ, các bạn lập tức cầm lấy cuốn sách ấy và đọc ngay. Tôi tin các bạn sẽ mau chóng gia tăng kho tàng kiến thức của mình.” Ăn theo vào đó, gã xin cầu chúc bàn dân thiên hạ có được một mái ấm gia đình hạnh phúc, bằng không thì cũng sẽ trở thành những triết gia hữu ích cho đời, hay ít nữa là sẽ tích luỹ cho mình nhiều kiến thức tuyệt vời. Gã Siêu
Bài trước đã nói về cái ăn, nên bài này xin bàn về cái mặc, để đáng được gọi là đủ trò, đủ kiểu GãSiêu 38
Bài trước đã nói về cái ăn, nên bài này xin bàn về cái mặc, để đáng được gọi là đủ trò, đủ kiểu, đủ thứ ăn chơi. Rảo qua một vòng báo chí, gã thấy người ta đã dành nhiều giấy bút, nhiều chữ nghĩa, nhiều hình ảnh cho vấn đề thời trang. Đúng là thời trang đang ở vào thời điểm cực thịnh, trăm hoa đua nở. Nào là thời trang xuân, hạ, thu, đông, cho dù ở miền Nam đất nước này chỉ có hai mùa là nắng và mưa. Nào là thời trang áo dài. Nào là thời trang dạ hội, cho dù nhiều người từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi ‘’rình sinh thì’’ cũng chẳng hề biết dạ hội là cái đí gì. Nào là thời trang tuổi ba bi lắc, tuổi học trò, tuổi sồn sồn của các bà mẹ và ông bố, tuổi các vị bô lão gần đất xa trời. Người ta khoác vào những bộ áo quần lạ mắt, nhiều lúc đến kinh dị và quái đản mà lôi lên sân khấu từ anh liền ông đến chị liền bà, từ thằng cu tí đến bà cụ già khú đế. Thôi thì tất tật nam phụ lão ấu, già trẻ lớn bé đều có mặt. Người ta tổ chức biểu diễn thời trang ở mọi nơi và trong mọi lúc. Từ những thành phố lớn cho chí đến những quận huyện xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy. Chỉ cần dăm bảy cô nường lượn ra lượn vào, đi tới đi lui cũng đủ để mà câu khách. Ở Việt Nam, nghề làm người mẫu thời trang mới bắt đầu nảy mầm trong những năm tháng gần đây, nên chưa có được một đội ngũ chuyên nghiệp. Phần đông những người tham gia biểu diễn thời trang là những người mẫu ngẫu hứng qua cầu, những người mẫu thậm chí có khi còn phải ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Lúc lên sân khấu thì hào nhoáng bóng lộn, nhưng khi về nhà thì cũng vẫn chịu khó chui vô bếp vét tí cơm nguội dằn lòng. Còn ở nước ngoài, có những cô người mẫu, mà một buổi trình diễn luợn ra lượn vào, đi tới đi lui dăm bảy lần là đã kiếm được một khoản tiền khổng lồ mà anh chàng nông dân chất phác khố rách áo ôm, quần quật đổ mồ hôi sôi nước mắt trên ruộng đồng suốt một đời cũng chả dám tơ tưởng đến. Vậy thời trang, mốt miếc là đí gì ? Nếu định nghĩa một cách nghiêm chỉnh, nói có sách mách có chứng, thì theo ‘’Việt Nam tự điển’’ của Lê văn Đức: - Thời trang là cách ăn mặc, trang điểm theo thời. Còn mốt miếc, xuất phát từ tiếng tây, có nghĩa là: - Kiểu cọ này kia. Và như trên đã nói: - Có những kiểu cọ thật kinh dị và quái đản, người ta khoác vào để lên sân khấu biểu diễn, chứ đố chị nào đủ can đảm mặc vô trong đời thường của mình. Suy gẫm về hiện tượng thời trang, gã thấy nó chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi từ thái cực này đến thái cực kia. Gã xin đưa ra một vài thí dụ. Trước hết là thái cực từ cao đến thấp rồi từ thấp đến cao, mà tiêu biểu là chiếc áo dài Việt Nam. Thời gã còn để chỏm, thì các bậc đàn chị mặc áo dài có cái cổ cao cả tấc, cái vạt thì dài chấm đất, còn cái eo thì phải thắt như eo con ong. Cùng với thời gian, cái cổ cứù ngắn dần để rồi không còn nữa, thậm chí đã được khoát sâu đến tận ngực, đi tiền phong cho chiếc áo dài hở cổ này hình như là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của ông cố vấn Ngô đình Nhu. Còn tà áo thì cứ vén lên, vén lên mãi, thậm chí trên cả đầu gối và người ta gọi đó là mốt áo dài mini. Thế nhưng bây giờ, trải qua một cuộc bể dâu với mấy chục năm biến hóa theo kiểu thanh hải biến vi tang điền rồi tang điền biến vi thanh hải, có nghĩa là biển xanh biến thành ruộng dâu rồi ruộng dâu biến thành biển xanh, chiếc áo dài dường như lại muốn trở về điểm khởi hành của nó. Tiếp đến là thái cực dài và ngắn mà tiêu biểu là cái váy. Đừng tưởng rằng cái váy là y phục đặc thù của Phương Tây dành cho liền bà, và đôi khi cũng dành cho cả liền ông nữa. Cụ thể là các chàng trai Tô cách lan vẫn khoái mặc váy cho thêm phần mát mẻ. Có thể nói về cái khoản này, người Việt Nam chúng ta đã đi trước một bước. Bởi vì các cụ bà ngày xưa cũng đã từng mặc váy, thế nên mới có câu đố: - Cái thúng mà thủng hai đầu, Bên ta thì có, bên Tàu thì không. Thế nhưng cái váy đã bị đào thải nơi những cụ bà từ lâu, để rồi bây nó lại được tái xuất giang hồ nơi những cô gái trẻ với một phong cánh mới, phong cách của Âu Mỹ ! Ngày xưa ở bên Tây, các cô gái nhà lành, đoan trang và đứng đắn, chiếc váy phải dài quét đất, thậm chí người ta còn đặt vào phía trong cả một cái khung cho nó được phồng to. Rồi chiếc váy cứ được cắt ngắn dần, tới bắp chân, tới đầu gối, rồi trên cả đầu gối cho đến chỗ không thể cắt được nữa, và người ta gọi đó là cái “mini jupe”. Khi mini không còn hợp thời, người ta lại bắt đầu thả xuống, thả xuống cho tới quét đất và người ta gọi đó là cái váy maxi. Từ maxi tới mini, rồi từ mini tới maxi, chỉ là vấn đề thời gian và sáng kiến của các tạo mốt để hốt tiền liền bà con gái ! Sau cùng là thái cực dày và mỏng. Ngày xưa các cụ ta thường bảo: - Ăn chắc mặc bền. Mà muốn bền thì phải dày. Thế nhưng dưới ảnh hưởng của thời trang, vải cứ mỏng dần mỏng dần, thậm chí còn siêu mỏng và trong suốt, khiến cho người mặc và kẻ nhìn người mặc đều chia sẻ chung cùng một cảm giác là có cũng như không ! Rồi từ siêu mỏng người ta tìm về với những thứ dày. Chẳng hạn áo lông thú. Đây là một kiểu cọ đắt tiền và đang bị lên án. Bởi vì để có một cái áo lông chồn, người ta phải giết chết bao nhiêu con chồn thì mới đủ. Nữ tài tử Brigitte Bardot, trong tuổi xế chiều, với lòng yêu thương và bảo vệ súc vật đã từng lên tiếng chỉ trích. Và cách đây mấy năm, người ta đã xuống đường ở bên Nhật để phản đối những kẻ mặc áo lông thú. Chả hiểu ông Thánh Gioan tiền hô, nếu sống vào thời buổi hôm nay, thì sẽ nghĩ thế nào, bởi vì Phúc Âm đã nghi lại: - Trong hoang địa, ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng giây da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng ! Tiếp tục suy gẫm, gã thấy hiện tượng thời trang xuất hiện rất sớm trên mặt đất này. Sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: - Sau khi phạm tội, tức khắc Adong và Evà nhận thấy mình trần truồng, nên lấy lá vả kết lại mà che thân. Phải chăng đó là cái mốt đầu tiên của con người. Tiếp đến, sau khi tuyên phạt Adong Evà, Thiên Chúa đã làm cho mỗi người một chiếc áo bằng da. Phải chăng đó là cái mốt thứ hai do chính Thiên Chúa đã thiết kế. Cùng với khí hậu khắc nghiệt, con người đã phải chế tạo ra những thứ quần áo khác để giữ lại sự ấm áp cho cơ thể. Thế là chúng ta thấy rõ được mục đích của áo quần ngay từ thuở ban đầu. Đó là che để khỏi hở và mặc để khỏi lạnh… Đúng như các cụ ta ngày xưa đã bảo: - Ăn no mặc ấm. Tuy nhiên, cuộc sống vẫn cứ liên tục phát triển. Từ kiếp du mục nay đây mai đó, con người bắt đầu định cạnh định cư, xây dựng và phát triển nông nghiệp, rồi công nghiệp và kỹ nghệ. Vật chất và tiền bạc càng được thu nhập nhiều, thì cuộc sống được càng nâng cao. Và từ một cuộc sống được nâng cao, người ta không còn cần phải ăn no mặc ấm nữa, mà bèn nghĩ ngay đến chuyện ăn ngon mặc đẹp. Và thế là như nấm mọc ào ào sau cơn mưa, thời trang đua nhau ra lò, các thứ mẫu mã cứ thay nhau xuất hiện, liên tu bất tận đến cả quỉ thần cũng không lường nổi. Đồng thời, các mục đích thuở ban đầu cũng dần bị chìm vào quên lãng. Thực vậy, ngày xưa vì hở nên mới phải che, còn bây giờ nghệ thuật của thời trang dường như là che để mà hở. Thực vậy, đã có những bộ quần áo cực kỳ khiêu khích. Khiêu khích ví quá mỏng và quá xẻ. Khiêu khích vì quá ngắn và quá nghèo, để rồi che đấy màø vẫn hở đấy và hở một cách cố ý. Ngày xưa vì lạnh nên mới phải mặc, còn bây giờ dù trời có lạnh, người ta vẫn chịu khó mặc phong phanh. Gã còn nhớ hồi ở trên Đà Lạt, thời gian lạnh nhất là vào khoảng từ lễ Giáng Sinh cho đến Tết Nguyên đán, trời rét căm căm, thế mà quí “nường” vẫn cứ anh dũng chơi váy ngắn, đóng mini jupe mà thênh thang, dung dăng dung dẻ, dắt nhau qua lại bên bờ hồ bởi vì lúc bấy giờ mốt mini đang ở vào thời hoàng kim của nó. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam các bà các cô rất ưa mốt quần đùi, hay đúng hơn là quần “xẩng lẩng”, một thứ quần-dài quá-ngắn, hay một thứ quần-đùi-quá-dài, bởi vì nó lửng lơ ở khoảng đầu gối. Từ già đến trẻ, từ bé tới lớn, từ thành thị đến nông thôn, quí cô quí bà, kể cả những bà ở lứa tuổi “chiều tà bóng ngả về tây”, gần đất xa trời, hay gần trời xa đất nếu nói theo kiểu đức tin của con nhà có đạo, cũng đều thích vận thứ quần này, chỉ tội nghiệp cho những cặp giò vừa to lại vừa đen. Dù thế nào chăng nữa thì người vẫn là một con vật biết may mặc. Chẳng hiểu phát biểu như thế có phảng phất hơi hướm một thứ triếy lý rẻ tiền và lẩm cẩm quá hay không ? Để kết luận tôi xin đưa ra hai quan điểm khác biệt nhau về áo quần. Bên đông phương thì nói: - Yphục xứng kỳ đức. Có nghĩa là cách ăn mặc phải xứng hợp với đức hạnh. Người thế nào thì phải ăn mặc thế ấy. Đồng thời, qua cách ăn mặc, thiên hạ sẽ nhận ra và đánh giá được con người chúng ta. Còn bên Tây phương thì bảo: - L’ habit ne fait pas le moine. Có nghĩa là chiếc áo không làm nên thầy tu. Áo quần chỉ là chuyện nhỏ, không làm nên nhân cách của một con người. Vì thế, quần áo cũng như xiêm y bên Tây phương có phần thông thoáng, tươi mát và “nghèo nàn” hơn. Xuất phát từ hai quan niệm trên, mà thời trang mỗi nơi đều có những khác biệt, những đặc tính riêng. Tuy nhiên, với nền văn minh tin học hiện nay, cái gì bên tây vừa mới có thì lập tức bên ta cũng có, bằng cách cóp pi mà chẳng phải trả một đồng xu cắc bạc nào cho quyền lợi của tác giả. Và rồi thời trang được pha trộn, nửa đông nửa tây, nửa nạc nửa mỡ, hay nói một cách khác, thì “đầu anamít, đít phăng xe”. Thực vậy, gã đã từng nhìn thấy có những chiếc áo, nửa trên là áo dài Việt nam, còn nửa dưới lại là chiếc váy của dân tây phương, hay ngược lại, nửa trên là áo dạ hội của dân tây phương, còn nửa dưới lại xẻ tà theo áo dài Việt Nam. Có một anh chàng lính Mỹ được gửi đi oánh nhau tại Việt Nam. Anh ta rất thích chiếc áo dài, nhất là khi chiếc áo dài này được những cô gái Việt Nam mặc vào thì thật là tuyệt vời: vừa dịu dàng lại vừa kín đáo. Vì thế, anh ta bèn tới một cửa tiệm nổi tiếng tại Saigon, đặt may một chiếc áo dài theo đúng kích thước và vóc dáng của chị vợ, rồi gửi về quê nhà làm quà tặng, nhân ngày sinh nhật của chị vợ. Chị vợ hớn hở mặc thử, nhưng lại chẳng dám thò mặt ra ngoài đường để chiềng làng, khoe khoang với bà con lối xóm. Ban tối, chị ngồi tâm sự và viết cho anh: - Chiếc áo anh tặêng, em mặc vào đẹp ơi là đẹp, nhưng sao mà nó…khêu gợi quá, ”sexy” quá, còn hơn cả xường xám Hồng kông xẻ ngược lên tới tận… Chẳng hiều những cô gái bên đó có dám mặc để đi bát phố không đấy. Nếu có thì quả là thiên hạ tha hồ mà rửa mắt.
Anh chàng lính Mỹ không hiểu chị vợ muốn nói gì. Sau cả tiếng đồng hồ suy nghĩ, anh ta mới vỗ đùi đánh đét một cái rồi nhủ thầm: - Chết cha tôi rồi. Đúng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Té ra anh chàng lính Mỹ này gửi áo dài về cho chị vợ mà quên béng đi mất chiếc….quần dài. Thế mới rách việc. Còn bạn, nhất là phe kẹp tóc, bạn nghĩ gì về trời trang cũng như mốt miếc ? Và nhất là bạn sẽ may sắm cho mình như thế nào ? Gã Siêu
Đôi vợ chồng trẻ vừa được bố mẹ cho ra riêng. Sáng hôm ấy, sau khi thổi cơm và nấu món xong GãSiêu 39
Đôi vợ chồng trẻ vừa được bố mẹ cho ra riêng. Sáng hôm ấy, sau khi thổi cơm và nấu món xong, chị vợ bèn ra thửa vườn phía sau nhà và lên tiếng gọi: - Ai ơi, về ăn cơm. Anh chồng dừng tay, ngước mắt lên tình tứ: - Ai gọi ai đấy? Chị vợ trả lời ngọt như mía lùi: - Ai gọi ai chứ ai nữa. Anh chồng hỏi tiếp: - Cơm ai nấu ngon lắm hử? Chị vợ chu miệng một cách rất duyên dáng và trả lời: - Ai nấu làm sao ngon bằng ai được. Từ mẩu đối thoại ngắn ngủi, nhưng cũng rất dễ thương và ý vị kể trên, gã xin “bàn ra tán vào” một chút về cách xưng hô của những người đang yêu. Thực vậy, thuở ban đầu, nếu chỉ một mình Adong sống trong vườn địa đàng, thì mọi sự thật đơn giản và trong sáng, chẳng có chi là nhiêu khê và rắc rối. Lúc bấy giờ, đối với Adong, chỉ có “cái tôi” hay “cái ta” là cùng: Đi ra, chỉ một mình tôi, Đi vào, ta cũng mà thôi một mình. Thế nhưng, Thượng Đế lại ngậm ngùi và động lòng thương xót trước cảnh tượng cô đơn vò võ của Adong, nên chờ lúc ông ngủ say, đã lấy một chiếc xương sườn của ông mà dựng nên Eva. Sau đó, Ngài dẫn Eva tới giới thiệu cùng Adong. Nhìn thấy Eva, đôi mắt Adong đã rực sáng lên. Và cũng từ “phút đầu gặp nhau, tinh tú quay cuồng” ấy, mọi sự bỗng trở nên khác. Adong không còn nói với chính mình nữa, những nói là nói với người khác, nói cho người khác. Và cũng từ đó, vấn đề xưng hô được nảy sinh. Người nước ngoài thường nhận xét: Dân Việt nói cứ như y như hát và tiếng Việt là một trong những thứ tiếng khó học nhất. Có những cha thừa sai học tiếng Việt suốt năm, sáu năm mà vẫn không dám đứng giảng trước công chúng, vì sợ phát âm sai, làm hỏng cả bài giảng. Chuyện rằng: Một cha dòng Tên nọ đang giảng cho giáo dân trong thánh lễ sáng Chúa nhật, bỗng thấy mọi người phì cười. Ngài bèn dừng lại và nói: - Ai muốn cưới, thì ra ngoài sân mà cưới. Cả nhà thờ lại cười ồ, cho dù tiếng cười hơi bị vô duyên và không mấy lịch sự, bởi vì ngài chỉ muốn bảo rằng: Ai muốn cười, thì ra ngoài sân mà cười. Đặc biệt trong phạm vi xưng hô. Người nước ngoài khó mà nắm bắt được nét tinh tế trong cách xưng hô của dân Việt ta. Thực vậy, Đối với tiếng Anh, tiếng Pháp, khi nói chuyện, người ta chỉ dùng “I-You”, “Je-Tu”, bất kể là nam hay nữ, già hay trẻ, lớn hay bé và cũng bất kể tâm tình hỉ, nộ, ái, ố của hai người lúc bấy giờ. Đúng thế, khi chuyện trò, thì ông tổng thống cũng tự xưng là “I”, là “Je” và gọi người khác là “You”, là “Tu”. Trong khi đó, anh lính quèn cũng tự xưng là “I”, là “Je” và gọi người khác là “You”, là “Tu”. (Với tiếng Pháp, chữ “Vous” thay thế cho chữ “Tu” trong một số trường hợp). Tiếng Việt ta thì không như vậy. Khi nói chuyện, một người có thể đóng nhiều vai trò khác nhau. Chẳng hạn một chị đàn bà: Với ông bà nội, chị xưng là “cháu”; với ba má, chị xưng là “con”; với chồng, chị xưng là “em” và với mấy đứa con, chị xưng là “mẹ”. Nhưng rốt cuộc, chị vẫn là chị, chỉ một con người mà thôi. Đã vậy, người Việt ta lại có thói quen thích đóng các vai giả. Chẳng hạn, một anh đàn ông 50 tuổi có thể gọi một anh đàn ông khác chừng 30 tuổi là “bác” và xưng là “cháu”. Sở dĩ như vậy vì người ấy đang nhập vai đứa con của mình để gọi người khách. Trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng hay nhập vai con để gọi người phối ngẫu. Vợ sẽ không gọi chồng là “anh” mà là “bố thằng cu”, “bố nó”, hay ngắn gọn hơn chỉ là “bố”. Và ngược lại, chồng sẽ không gọi vợ “em”, mà là “mẹ thằng cu”, “mẹ nó” hay ngắn gọn hơn chỉ là “mẹ” theo kiểu: - Bố ơi, chiều nay bố có đi chợ không? - Có. Mẹ cần gì không? - Ờ, bố mua cho mẹ chục xoài nghe. - Xoài gì mà xoài. Mới ăn tuần trước đó thôi. Xoài nóng, ăn nhiều đâu có béo bở gì. - Nóng với chả niếc. Bố sao nhiều chuyện thế. Mùa này xoài đang rẻ, cứ cho con ăn đã. Hết mùa thì chúng lại nhịn. - Mẹ mày cứ hay chiều con. Cách xưng hô của người Việt Nam thường đặt nền tảng trên huyết thống của gia đình. Và ngay cả xã hội cũng được coi như là một gia đình mở rộng. Người nào ngang tuổi ông bà, thì tự động trở thành “ông”, thành “bà”. Người nào ngang tuổi chú bác cô dì, thì tự động trở thành “chú”, thành “bác”, thành “cô”, thành “dì”. Người nào ngang tuổi anh chị, thì tự động trở thành “anh”, thành “chị”. Chỉ trừ toà án là nơi duy nhất loại bỏ cách xưng hô dựa trên hệ thống thân tộc. Chẳng lẽ vị quan toà lại phán với bị cáo: - Cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người. - Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội ăn cắp. Như vậy, cách xưng hô trong đời thường đã khá phức tạp và phong phú, huống chi trong tình yêu, cách xưng hô lại càng phức tạp và phong phú hơn nhiều. Khi bắt đầu quan tâm đến nhau Cậu con trai và cô con gái học cùng một trường, đi cùng một lối, hay ở cùng một xóm, hằng ngày gặp gỡ và trò chuyện, họ có thể gọi nhau bằng “tớ” với “cậu”, “mình” với “bạn”, “đằng ấy” với “đằng này”. Nhưng khi bắt đầu quan tâm đến nhau, họ liền thay đổi cách xưng hô, đễ mỗi ngày một gần gũi và thân mật hơn. Trước hết, cô con gái có thể gọi cậu con trai bằng “ông” và xưng mình là “tôi”. Chữ “ông” ở đây không phải là đã quá già, mà tôi với ông, chúng ta có một tư thế tương xứng để đối thoại, vì chúng ta là những người lớn với nhau. Ít ra cậu con trai phải ý thức mình “lớn” trước cô con gái đối diện. Nhưng không vì thế mà ông lại “ngây thơ cụ” gọi cô con gái bằng “bà” và xưng là “tôi”, bởi vì đối với một cô con gái chưa chồng mà bị kêu bằng bà, thì đó quả là một xúc phạm. Bộ người ta già lắm rồi sao? Sự già của đờn bà con gái là một “thảm trạng”, là một tai nạn. Người ta cố tránh để thấy rằng mình vẫn còn trẻ, còn đẹp, còn xinh và còn duyên. Tuy nhiên, cậu con trai cũng có thể gọi cô con gái bằng “cô” và xưng mình là “tôi”. Tiếng “cô” ở đây có nghĩa là cô gái, cô nàng với âm vang còn trẻ, còn tự do, còn ở một mình, chưa lâm vào số kiếp “gái có chồng như gông đeo cổ”. Ở một mình nhưng không buồn tẻ và cô đơn, bởi vì đây là thời gian tích luỹ biết bao nhiêu hy vọng, đây là thời gian chờ đợi nao nức, pha lẫn chút bâng khuâng và lãng mạn: Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ trước gió, biết vào tay ai. Tiếp đến, cô con gái có thể gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “tôi”. Xem ra cậu con trai không thích được gọi bằng “ông”, bởi vì “đằng này tuy phận mày râu, nhưng râu chưa đến nỗi dài để đáng được gọi bằng ông”. Vả lại kêu bằng ông, nó có vẻ kiểu cách làm sao ấy. Thôi thì đành phải hạ xuống một bậc, gọi là anh nhé. Cô con gái gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “tôi”. Nhưng chữ “tôi” xem ra vẫn còn xa lạ, vậy ta nên thay thế bằng cái tên của cô con gái, để được đằm thắm hơn. Thí dụ tên của cô con gái là Thanh. Lúc bấy giờ cô con gái gọi cậu con trai bằng “anh” và xưng mình là “Thanh”. Cách xưng hô này như muốn xác định: “Anh” là phận nam, còn “Thanh” là phận nữ. Cậu con trai phải nhận ra sự dịu dàng và êm đềm của lối xưng danh này. Tình cảm bắt đầu như hừng đông ló dạng. Cũng trong giai đoạn này, cậu con trai có thể gọi cô con gái bằng “Thanh” và xưng mình là “tôi”. Cậu con trai nhủ thầm: Mình gọi nàng là Thanh, thay vì gọi là cô, bởi vì chữ cô nó cứng nhắc sao ấy, còn mình thì vẫn xưng là tôi. Nếu tình cảm giữa Thanh và tôi chẳng đi đến đâu, thì tôi vẫn còn một lối thoát. Chứ nếu vội xưng mình là “anh”, hẳn sẽ bị chọc quê: Đúng là cái anh chàng ngớ ngẩn, chư gì mà đã ham. Khi tình cảm tiến thêm được một bước nữa, người ta có thể gọi tên của nhau. Thí dụ: “Dũng-Thanh”. Cậu con trai bỏ đi tiếng “tôi” khô khan trước kia và thay bằng tên của mình. Bỏ “tôi” để xưng là “Dũng”, thì đã vượt qua được một chặng đường. Từ đây, Dũng là Dũng đối với Thanh và Thanh là Thanh đối với Dũng. Tuy nhiên cũng vẫn còn phải chờ đợi, bởi vì tình yêu cần kiên nhẫn và cân nhắc, chứ không thể đốt giai đoạn được. Sau cùng, cô con gái gọi anh con trai là “anh” và xưng mình bằng tên, chẳng hạn như Thanh. Còn cậu con trai cũng gọi chị con gái bằng tên, chẳng hạn như “Thanh” và xưng mình là “anh”. Anh-Thanh, cách xưng hô này nói lên sự tin tưởng và chấp nhận lẫn nhau, mang một âm hưởng thật trìu mến, vì thế nó thường được sử dụng trong chốn riêng tư hay trong vòng thân mật mà thôi. Khi đã bước vào tình yêu Ngày xưa, người ta thường quan niệm: Nam nữ thọ thọ bất thân và trong phạm vi hôn nhân, thì cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó. Vì thế, nhiều đôi mãi tới khi thành vợ thành chồng, mới biết mặt nhau và do đó không tránh khỏi những lúng túng khi phải xưng hô với nhau trong những ngày đầu. Khi nói chuyện, hai người nhiều lúc chỉ biết ấp úng, ngập ngừng và yên lặng, như mẩu đối thoại dưới đây. Chị vợ nói với anh chồng: - Má biểu… đem cho… cái nầy nè. Anh chồng hỏi lại: - Má biểu ai đem cho ai vậy? Chị vợ nhìn xuống, đỏ mặt và thinh lặng. Phải dạn dĩ lắm, chị vợ mới đáp lại: - Ai đây chứ còn ai nữa. Khi tình yêu đã chín và nhất là khi đã trở thành vợ chồng, người ta thường xưng hô với nhau bằng cặp từ “Anh-Em”. Thực vậy, khi cậu con trai và cô con gái đã cân nhắc và chọn lựa, để ăn ở đời kiếp với nhau, thì hai chữ “Anh-Em” sẽ là một lời giao ước, kết nối chân tình một cách ngọt ngào và tình tứ nhất. Từ nay, anh phải là anh của em và em cũng phải là em của anh với một sắc thái thật đặc biệt, không giống như em gái hay anh trai trong gia đình. Như trên gã đã trình bày: Sau khi Thượng Đế giới thiệu Eva cho Adong, thì mắt ông đã rực sáng và miệng ông đã vui mừng hớn hở mà kêu lên rằng: - Này đây xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi. Nếu như Adong lúc bấy giờ sử dụng tiếng Việt, hẳn ông đã kêu lên: - Mình ơi! Hai chữ “mình ơi” sao mà khắng khít, đậm đà yêu thương đến thế. Trong tiếng Việt, chữ “mình” vừa là anh, vừa là em, vừa là chúng ta và cũng vừa là thân thể. Kể từ nay, mỗi người trở nên một phần thân mình của nhau, anh đã là mình của em và em cũng đã là mình của anh trong cương vị vợ chồng yêu thương cho nhau hạnh phúc và kết quả trải dài qua con cái: Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai. Hạnh phúc từ trong nhà tràn ra ngoài ngõ, lan tới hàng xóm láng giềng, khiến anh chồng, chị vợ luôn hãnh diện và giới thiệu về nhau cho bàn dân thiên hạ bằng hai chữ “Nhà Tôi”. Nhà là nơi có mái để che mưa, che gió, che nắng; là nơi để người ta đi, dù chỉ một buổi làm, cũng ngong ngóng trở về. Lấy mái ấm mà đôi vợ chồng hạnh phúc sống bên nhau, để chỉ người phối ngẫu, quả là một kiểu nói thật độc đáo của người Việt ta. Trong tiếng Pháp “ma maison”, nhà tôi, dù có thân thiết lắm, cũng chỉ là một căn hộ bằng bê tông cốt thép là cùng. Xã hội Việt Nam ngày xưa lấy nghề nông làm gốc: Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông, Nhất nông nhì sĩ. Làm nghề nông, công việc vất vả nên cần phải có nhiều người để cùng chia sẻ. Vì vậy, người Việt ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí. Cha mẹ vui vầy bên lũ cháu đàn con và ai cũng cảm thấy sung sướng trong cảnh gia đình đông đúc. Khi đứa con đầu lòng mở mắt chào đời, đưa hạnh phúc gia đình tới tình trạng sung mãn, thì anh chồng cũng như chị vợ thường dùng tên con để gọi nhau, chẳng hạn như: Má thằng Mít, ba con Xoài…Gọi tên con như vậy là để nhắc nhở cho nhau trách nhiệm gia đình trong liên hệ đầm ấm vợ chồng con cái. Khi con cái đùm đề, thì tên đứa con đầu lòng nhường chỗ cho kiểu nói gộp lại, chẳng hạn như: Ba bầy trẻ, má xấp nhỏ… cho hợp lý và vừa lòng con cái, đồng thời nhấn mạnh đến gia thế đồ sộ và trách nhiệm tăng lên. Từ cha mẹ cho đến con cái, mỗi người một công việc, mỗi người một bổn phận. Thật là hạnh phúc cho gia đình nào trong đó mọi người yêu thương đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau. Khi tức giận Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, nhất là với những người thân yêu trong gia đình. Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta không thễ nào tránh đi cho hết những va chạm, bực bội và tức tối. Đối với người Việt ta, việc xưng hô còn tuỳ thuộc vào tâm trạng. Những khi cơm lành canh ngọt, thì lời lẽ cũng ngọt ngào theo. Còn những lúc gia đình lâm vào cảnh xào xáo, người ta sẵn sàng văng ra những ngôn từ thật khó nghe: Nào là “Cô-Tôi”, nào là “Ông-Tôi”, nào là “Mày-Tao”, nào là Thằng trời đánh, nào là Con mẹ kia…Sau đây là một vài tình huống mà gã đã lượm lặt được. Tình huống thứ nhất: Trong một cuộc tranh cãi, anh chồng bỗng chuyển sang giọng gay gắt, buông lời đụng chạm tới bố mẹ vợ. Cảm thấy bị xúc phạm, chị vợ không khóc như mọi lần, nhưng đanh mặt lại, nhìn anh chồng và thách thức: - Anh vừa nói gì? Anh nói lại tôi nghe xem nào. Lúc này anh chồng cũng đã bốc hoả lên đầu, xưng ngay “tôi-cô” và cuộc cãi vã kết thúc bằng việc anh chồng phóng xe ra đường, còn chị vợ thì ôm mặt khóc. Chưa hết, chiến tranh lạnh còn kéo dài suốt cả tuần lễ sau đó. Hai chữ “cô-tôi” sao mà lạnh lẽo và xa cách đến thế. Hai người coi nhau như kẻ thù và sẵn sàng ở vào cái thế đối đầu với nhau. Tình huống thứ hai: Anh chồng bình thường rất chiều chuộng chị vợ, toàn gọi chị vợ bằng những cái tên thật trìu mến như: “Vợ yêu”… Nhưng đó là chuyện của năm đầu tiên chung sống. Còn sau đó, mỗi lần điên lên vì ghen, nhất là khi đã có tí men trong người, anh chồng sẵn sàng tuôn ra những tràng: “Mày-tao”, “Con kia”…Ban đầu chị vợ cả thấy rất sốc, nhưng sau đó cũng chuyển sang xưng “mày tao” với anh chồng. Theo các chuyên gia tâm lý: Cho dù cãi nhau vì bất cứ lý do gì, ai đúng ai sai, vợ chồng tuyệt đối không bao giờ được xưng hô “mày-tao” với nhau. Điều này làm cho cả hai cảm thấy mình không được tôn trong, yêu thương và càng đẩy mâu thuẫn lên cao hơn. Trong đời sống vợ chồng, cãi cọ cũng cần có nghệ thuật, bởi vì nếu biết cách, nhiều khi tranh cãi xong, vợ chồng thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt hình viên đạn, thì lại hiểu nhau hơn, đồng thời giải quyết được những khó khăn và cùng nhau rút tỉa được những kinh nghiệm cho cuộc sống chung. Theo lời một chị vợ kể lại: Hồi mới cưới, có lần vợ chồng bực nhau, chị vợ không chịu nổi, đã lớn tiếng xưng “tôi” với anh chồng. Lúc đó, anh chồng nghiêm nét mặt vào bảo: - Em đừng xưng hô như thế với anh, nghe chướng lắm. Nếu anh cũng nói vậy, em có buồn không? Lúc ấy, chị vợ cảm thấy ngượng, nhưng vẫn còn chống chế: - Nếu không xưng hô như thế, thì làm sao cãi nhau được. Anh chồng bèn ôn tồn: - Thế thì thôi, chúng mình đừng cãi nhau nữa. Sau lần ấy, chị vợ cảm thấy yêu và phục anh chồng. Từ đó, chị vợ không còn xưng hô như thế mỗi lần bực tức nữa. Tóm lại, khi mâu thuẫn với nhau, vợ chồng cần phải biết kiềm chế “cái tôi” của mình, lắng nghe “nửa kia” và diễn đạt ý nghĩ của mình một cách tế nhị, đồng thời phải biết tôn trọng lẫn nhau trong cách xưng hô. Như vậy, mới tránh đi được những sứt mẻ và đổ vỡ. (Dựa theo một số tài liệu trên Internet) Gã Siêu
Bàn về tục lệ đặt tên cho con cái, Toan Ánh trong cuốn “Con người Việt Nam” đã ghi nhận như GãSiêu 40
Bàn về tục lệ đặt tên cho con cái, Toan Ánh trong cuốn “Con người Việt Nam” đã ghi nhận như sau: Ngày xưa nước ta không có hộ tịch, đứa trẻ sinh ra không phải khai sinh ngay. Ta cho rằng vấn đề hộ tịch là vấn đề riêng của từng cá nhân và chỉ liên quan tới cá nhân và gia đình người đó. Bởi vậy, khi đứa trẻ mới sinh ra, người ta quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tuỳ theo nó là con trai hay con gái. Cho tới lớn, nhiều khi lấy vợ lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho, và khi đã được đặt rồi, tên vẫn có thể thay đổi, nếu vì trùng tên hoặc phạm phải tên kiêng, hoặc vì cái tên cũ mang lại những điều không may cho gia đình hoặc cho bản thân đứa trẻ. Tên được chọn để nói lên cái sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa gì đó.
Đối với con trai, người ta thường đặt những tên hùng mạnh, mang đặc tính phái nam, chẳng hạn như: Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…Có khi để giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh mà đặt cho con: Giáp, Ất, Bính, Đinh, hoặc Tý, Sửu, Dần, Mão…
Đối với con gái, người ta thường dùng tên của bốn mùa, chẳng hạn như: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Và nhất là người ta ưa chọn tên các loại hoa như Lan, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên… kèm trước một chữ đệm thật là văn vẻ: Mộng Lan, Thuý Liễu, Lệ Mai…
Phe đàn bà con gái mà mang tên của một loài hoa, thì quả là tuyệt vời và hết ý. Thế nhưng, khi loài hoa trở thành một đặc tính, được gán cho phe đàn ông con giai, thì quả thật không ổn tí nào. Trong phạm vi bài này, gã xin bàn đến một vài đặc tính của phái nam được đi kèm với chữ hoa.
Thứ nhất là thói ba hoa
Ba hoa là tính hay nói. Nói đủ mọi chuyện trên trời dưới đất. Đang từ chuyện bên đông, bỗng nhảy sang chuyện bên tây. Đang từ chuyện ngày xưa, bỗng nhảy sang chuyện hôm nay. Nói huyên thuyên như chẳng bao giờ ngừng.
Kinh nghiệm cho thấy: Đa ngôn thì thường đa quá. Mà đã thái quá thì thường bất cập. Càng nói, họ càng giống như chiếc thùng rỗng, bởi vì thùng rỗng thì kêu to. Tới một lúc nào đó, người ta sẽ nhận ra được những lỗ hổng về kiến thức của họ. Hay tới một lúc nào đó, người ta sẽ cảm thấy chán ngấy, bởi vì “biết rồi, khổ lắm nói mãi”:
- Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Thói ba hoa của đờn ông con giai thường dễ nhận thấy hơn cả là ở nơi bàn tiệc. Bởi vì lúc bấy giờ, rượu là như một chất kích thích, làm cho miệng họ ngứa, khiến mồm họ văng ra đủ thứ ngôn từ đao to búa lớn. Chả thế mà các cụ đã bảo:
- Rượu vào lời ra.
Tệ hơn nữa, những thứ ngôn từ đao to búa lớn này lại chẳng êm tai chút nào:
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm. Có nghĩa là khi rượu đã thấm vào lục phủ ngũ tạng, thì như cọp dữ giữa rừng.
- Tủu nhập tâm, như cẩu cuồng tọa thị. Có nghĩa là khi rượu đã thấm vào tâm can tì phế, thì như chó điên cắn càn ngoài chợ.
Thế nhưng, khi thói ba hoa quay vào chính bản thân mình, người ta gọi đó là chứng bệnh nổ. Kẻ ba hoa, mắc chứng bệnh nổ thường luôn khoe khoang về nghề nghiệp, về chức vụ, về những thành công của mình, mà hầu hết chỉ là những ảo tưởng, không hề có thật.
Có những ông chẳng giữ một vai trò gì cả, thế mà cũng cứ tưởng tượng ra một vai trò rất rõ rệt, rất quan trọng cho mình. Có những ông rất giỏi khâu nịnh nọt và luồn cúi cấp trên, nhưng đối với cấp dưới thì vẫn oai, vẫn oách như thường. Có những ông ở cơ quan thì sợ từ cô thư ký trở lên, nhưng về nhà thì luôn hét ra lửa đối với vợ con. Ngược lai, có những ông ở nhà thì rất ư là sợ vợ, nhưng ra đường hoặc đến chỗ đông người thì cứ phải chứng tỏ mình là…gia trưởng, là lãnh đạo!!!
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại mẩu chuyện về “vợ chồng người nước Tề” như sau:
Người nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày ngày chồng cứ sáng ra đi, tối đến mới về, mà hôm nào về cũng no say phè phỡn. Hai vợ thường hỏi:
- Đi ăn với ai, mà đi luôn thế ?
Anh ta nói :
- Ta đi ăn toàn với những bậc giàu có, sang trọng cả.
Một hôm, vợ cả bảo vợ lẽ:
- Chồng ta chơi bời toàn với nhưng bậc giàu sang, mà sao không thấy một người giàu sang nào đến chơi nhà nhỉ? Ta thử dò xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai?
Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người nào đứng lại nói chuyện với chồng mình cả. Khi đi đến phía đông ngoài thành, thấy có đám cất mả, người ta đang tế lễ ăn uống, thì đánh thoáng một cái, đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn xong lại ngong ngóng đi chỗ khác.
Bấy giờ chị ta mới rõ cái cách chồng ngày ngày no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về, kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng:
- Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em mình lại gặp phải một người chồng đê mạt quá đến như thế!
Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau ở giữa sân sụt sùi khóc.
Thứ hai là thói hào hoa
Người hào hoa là người thường ăn mặc sang trọng, hợp thời trang và nhất là hay tiêu pha rộng rãi, đặc biệt đối với đàn bà con gái. Trong tiếng Pháp, người ta dùng chữ “galant”, để nói lên những nét đặc thù của một kẻ hào hoa.
Thực vậy, hào hoa hay ga-lăng trước hết có nghĩa là lịch sự đối với đờn bà con gái. Chẳng hạn: Một phụ nữ bụng mang dạ chửa, mệt mỏi bước lên xe buýt. Trên xe đã hết chỗ. Bỗng nhiên có một chàng thanh niên rời khỏi ghế của mình, nhường chỗ cho chị ấy ngồi, lại còn cất túi hành lý cồng kềnh của chị ấy vào nơi an toàn nhất với những lời lẽ nhẹ nhàng. Ga lăng như vậy là một hành vi thực sự có giá trị. Nó làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và thú vị. Đồng thời nó còn làm nên cái phong cách đáng yêu của con người nữa.
Tiếp đến, hào hoa hay ga-lăng còn có nghĩa là cư xử đẹp với đờn bà con gái. Chẳng hạn: Một cô gái đi xe máy, chẳng may bị té ngã, đồ đạc rơi vãi tứ tung. Một chàng trai thấy vậy vội dừng xe lại, cẩn thận nhặt hết đồ đạc lại cho cô, rút khăn lau vết bẩn trên cánh tay cô và ân cần hỏi han xem cô có cần giúp đỡ gì nữa không. Chỉ khi cô trở lại trạng thái bình thường, chàng trai mới chịu lên xe và đi tiếp. Thái độ của chàng trai thật ga lăng và đáng khâm phục, vì đã tỏ ra chu đáo, biết hy sinh vì người khác.
Sau cùng hào hoa hay ga-lăng còn có nghĩa là chi tiêu một cách rộng rãi đối với đờn bà con gái. Chẳng hạn: Chàng sẵn sàng bỏ tiền ra để mời nàng đi ăn, đi siêu thị. Chàng sẵn sàng bỏ tiền ra để mua tặng nàng những bông hoa, hay những món quà đắt giá vào ngày tình yêu, ngày sinh nhật. Những bông hoa, những món quà này phần nào biểu lộ sự quan tâm chăm sóc, cũng như tình yêu của chàng đối với nàng.
Thứ ba là thói đào hoa
Trong ngôn ngữ hằng ngày thì đào hoa có nghĩa là hoa của cây đào. Còn trong lá số tử vi, thì đào hoa là tên một vì sao chiếu mạng. Anh chàng nào có số đào hoa, thì được được nhiều phụ nữ yêu mến. Ở đây mới chỉ nói tới việc anh chàng được nhiều phụ nữ yêu mến, chứ chưa bàn đến việc anh chàng yêu nhiều phụ nữ trong cùng một lúc. Không nhất thiết anh chàng phải đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu mới có số đào hoa, nhiều khi rất đỗi bình thường, thế mà cái số đào hoa vẫn cứ đeo đuổi.
Trong xóm có một anh chàng 27 tuổi, hình thức trung bình, không nghề nghiệp ổn định, chỉ được mỗi tài ăn nói, vậy mà không ít lần cả xóm chứng kiến cảnh các nàng gây nhau toé lửa vì anh chàng. Tưởng rằng sau đó sẽ tan đàn xẻ nghé, ai dè đâu lại hoàn đấy. Anh chàng vẫn dập dìu sớm hôm cùng những bông hoa xinh đẹp. Anh chàng vừa hắt hơi xổ mũi, lập tức các nàng đến chăm sóc, lũ lượt như đi trẩy hội. Anh chàng còn oang oang tuyên bố giữa đám bạn:
- Tớ chưa bao giờ biết thất tình là gì. Tớ mà muốn lấy vợ là mấy em nhào vô ngay.
Mọi người đều nhìn anh thán phục.
Như vậy, những anh chàng đào hoa quả thật là may mắn và hạnh phúc, bởi vì đối với họ, tình yêu chỉ có thừa chứ không bao giờ thiếu. Họ không phải lo lắng vất vả đi chinh phục, bởi vì chỉ một lời nói, một nụ cười, một ánh mắt cũng đã đủ để làm cho đối phương phải chao đảo. Thế nhưng, như tục ngữ đã bảo: Có ở trong chăn mới biết chăn có rận, và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Những anh chàng đào hoa cũng có nỗi khổ của riêng mình.
Một anh chàng đào hoa bị xe đụng gãy chân và phải nằm viện. Anh chàng bèn căn dặn mấy người bạn thân không được nói cho ai hay và cũng đã cẩn thận gửi một loạt tin nhắn cho các nàng báo "anh đi công tác xa đột xuất", thế nhưng không hiểu sao các nàng vẫn biết và gọi điện tới tấp. Hết đường lẩn trốn, anh chàng đành phải thảo một lịch thăm viếng hẳn hoi ra giấy, rồi gọi điện hẹn các nàng, mỗi nàng một thời điểm khác nhau, tuy nhiên vẫn không tránh được những cuộc chạm mặt.
Nhiều anh chàng đào hoa cũng muốn đàn một dây, chùa một cột, có một gia đình êm ấm, nhưng sao khó quá vì lòng họ đã trở nên chai đá, không còn chỗ cho sự trân đối với trọng phụ nữ, cũng như đối với những tình cảm của mình. Người mến quá nhanh thì bị anh chàng ghép tội dễ dãi, còn người đàng hoàng hoàng, hợp ý, thì lại không tin tưởng vào sự chung thuỷ bởi sự đào hoa của anh chàng. Thành thử cuối cùng lắm mối tối nằm không. Anh chàng đào hoa vẫn cứ đi sớm về khuya một mình, với những bước chân âm thầm.
Khổ hơn cả là những anh chàng đã có vợ nhưng vẫn bị số đào hoa chiếu tướng, bởi lúc các anh chàng nằm viện, người vợ hiền luôn kề cận để chăm sóc. Một anh chàng đã tâm sự:
- Thật kinh khủng, mình thì nằm "ngay đơ cán cuốc", băng bó trắng toát toàn thân. Vợ thì đứng cạnh bên. Vậy mà các nàng vì không ngăn được yêu thương, cứ nước mắt giọt ngắn giọt dài. Các nàng vẫn cứ vô tư nhắn tin kiểu như: Em Hạnh đây, nghe nói anh yêu bị xe đâm phải, anh có sao không? Hay: Kiều đây, anh ở đâu sao không trả lời máy. Có biết là em lo lắm không. Anh đang nằm bệnh viện nào?".
Trước những bằng chứng không thể chối cãi, theo các anh chàng đào hoa, cách duy nhất để các chị vợ hạ hỏa là năn nỉ, đồng thời hứa sẽ không tái phạm để cầu mong sự khoan dung tha thứ.
Chính vì thế, Nguyễn Du cũng đã từng ngán ngẩm:
- Chém cha cái số đào hoa,
Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
Sau cùng là thói trăng hoa
Trăng hoa là mặt trăng và bụi hoa. Cụ thể hơn, thì có nghĩa là dưới ánh trăng và bên bụi hoa, để ám chỉ việc trai gái lén lút tự tình. Người đàn ông có thói trăng hoa là người đàn ông lăng quăng, yêu hết cô này đến cô khác, và có khi yêu nhiều cô cùng một lúc: Con rô cũng tiếc, mà con diếc cũng muốn. Người đàn ông có thói trăng hoa là người đàn ông lẳng lơ, không có tình cảm lâu dài với ai, thay đổi “đối tác” như thay đổi áo quần.
Qua những điều vừa trình bày, gã nhận thấy: Từ hào hoa đến đào hoa chỉ cách nhau một bước nhỏ, bởi vì kẻ hào hoa thường được nhiều phụ nữ yêu mến. Cũng vậy, từ đào hoa đến trăng hoa cũng chỉ cách nhau một đoạn ngắn, bởi vì kẻ đào hoa thường không nỡ từ chối, luôn mở rộng con tim để yêu thương nhiều người, nhưng chẳng tình yêu nào bền vững cả.
Sau đây là một mẩu chuyện mà gã đã lượm được trên mạng:
Bị taxi hất văng trong lúc đi qua đường, nằm bệnh viện, không quan tâm cho chiếc xương sườn bị gãy, anh chàng chỉ lo lắng việc các nàng dồn dập vào thăm không khéo sẽ chạm mặt nhau. Và điều anh chàng lo lắng cũng đã xảy ra.
Người đầu tiên đến bệnh viện là Hương. Mặt xanh như tàu lá, hớt hơ hớt hải, Hương báo đã xin nghỉ làm để quyết vào bệnh viện ở lại chăm sóc cho anh chàng. Phát hoảng vì biết chắc Xuân, Thúy hay Thảo cũng sẽ đến, anh chàng ra sức khuyên lơn “em không nên vì anh mà bỏ việc”, rằng “anh sẽ không sao đâu”. Rồi như để chứng tỏ cho nàng thấy mình khỏe mạnh, anh chàng ngồi bật dậy, ăn một lúc hết luôn tô phở Hương vừa mang vào, uống sạch hộp sữa. Thế nhưng, mọi cố gắng của anh chàng vẫn chả giúp nàng đổi ý.
Một tiếng sau, trong lúc Hương xuống căntin mua thức ăn thì Xuân đến. Vừa đẩy cánh cửa phòng bệnh, Xuân đã nước mắt ngắn dài:
- Trời ơi, sao ra nông nỗi này. Anh có đau lắm không? Em luôn căn dặn đi đứng cẩn thận, vậy mà anh không nghe lời em.
Vừa lúc ấy, Hương trở lại. Đặt hộp cháo nóng luôn trên bụng anh chàng, cô này bước ra không một lời chào. Trả lời thắc mắc của Xuân, anh chàng chống chế:
- Bà chị vào thăm nhưng có việc gấp nên phải đi ngay.
Nửa giờ sau, cánh cửa phòng bệnh của anh chàng lại tiếp tục có người gõ cửa. Lần này không phải một người mà là cả Thảo và Thúy cùng đến. Bí thế, anh chàng vờ ôm lưng than đau dữ dội rồi lấy cớ phải đến gặp bác sĩ khám, sau đó nhắn tin báo “bác sĩ bảo đợi chụp X-quang, làm xét nghiệm, đừng đợi anh”. Tuy nhiên, sau hơn một giờ nín thở trốn, khi quay lại phòng, hai nàng Thảo và Thúy vẫn còn nguyên ở đó. Thái độ lo lắng ban đầu của các cô gái được thay thế bằng câu độp vào mặt:
- Nếu anh không nhập viện và chúng tôi không gặp nhau ở đây thì đã không hiểu được con người thật của anh. Đồ lừa tình.
Theo một tác giả, thì cái tội nặng nhất của anh đàn ông là yêu nhiều bà quá, nếu chỉ yêu một bà thì sẽ tránh được biết bao nhiêu tội lỗi khác. Thực vậy, tội của đàn ông đếm ra thì rất nhiều như: Lười, bẩn, hay quên, bê bối, độc đoán, rượu chè, cờ bạc, hút sách, vui đâu chầu đấy, nhưng cái tội khó tha thứ hơn cả, muôn đời vẫn là cái tội lắm bà, vẫn là cái thói trăng hoa.
Để chỉ lòng tham vô đáy của anh đàn ông, các cụ ngày xưa đã phải công nhận:
- Sông bao nhiêu nước cũng vừa
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa hài lòng
Thậm chí có người còn cay cú: Đàn ông là “loài” bạc tình nhất trong các loài biết hứa hẹn và cũng là “loài” có mới nới cũ nhất trong các loài biết thề thốt!
Để kết thúc, gã xin kể lại mẩu chuyện sau đây:
Có một chú chó kiếm được miếng thịt to, nên nhởn nhơ tha mồi và chạy. Lúc chạy ngang qua chiếc cầu, nhìn xuống thấy bóng hình của miếng thịt phản chiếu dưới nước còn to hơn miếng thịt đang ngậm trong miệng. Và thế là chú chó ta bèn lao ngay xuống nước. Rốt cuộc, miếng mồi thì chìm mất và bóng hình cũng tan đi, chú chó ta đứng trơ mõm, không còn gì để ăn. Và dân gian gọi đó là thả mồi bắt bóng.
Những anh đàn ông mang thói trăng hoa cũng thường thả mồi bắt bóng. Được voi đòi tiên. Đứng núi này trông núi nọ. Và dường như chẳng bao giờ lòng tham của họ được thoả mãn cả.
Nhiều khi kiếm củi ba năm thiêu một giờ. Vui thú chẳng được bao nhiêu, nhưng hậu quả lại thật là tai hại, làm cho thân bại danh liệt, hạnh phúc gia đình bị tan vỡ, cũng chỉ vì những mảnh tình thầm lén vụng trộm của mình.
Dân tộc nào trên mặt đất này cũng có niềm tự hào riêng về gốc gác, về cội nguồn của mình. Chẳng GãSiêu 41
Dân tộc nào trên mặt đất này cũng có niềm tự hào riêng về gốc gác, về cội nguồn của mình. Chẳng hạn như dân Nhật bản chính gốc Phù Tang luôn hãnh diện vì mình là con cháu của “Thái dương thần nữ”. Thảo nào mà lá cờ của họ chỉ có mỗi một hình tròn đỏ, tượng trưng cho Mặt trời, nổi bật trên nền trắng. Chẳng hạn như dân Pháp chính gốc Phú Lãng Sa luôn hãnh diện vì mình thuộc nòi gà trống Gaulois. Thảo nào mà ngày xưa vào thời Cách mạng 1789, người ta đã vẽ hình con gà trống lên quốc kỳ của mình. Thảo nào mà ngày nay trong những trận đá banh quốc tế, các cầu thủ Pháp thường thả một chú gà trống vào trong sân để cầu may. Thảo nào mà mấy cố tây, mặc dù đã tu hành, nhưng vẫn mang nặng đầu óc dân tộc và luôn hướng về đất mẹ của mình, đã đặt chú gà trống ở đỉnh cao cây thánh giá trên ngọn tháp nhà thờ chính tòa thành phố Đalạt. Vì thế, ngôi nhà thờ này vốn được bàn dân thiên hạ gọi là nhà thờ Con Gà.
Còn người Việt Nam chúng ta, chính gốc Giao chỉ, thì lại hãnh diện vì mình là con rồng cháu tiên. Niềm tự hào này bắt nguồn từ một truyền thuyết như sau: Lộc Tục, con vua Đế Minh, lên ngôi vua và lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi Kinh Dương Vương, xưng hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, đẻ ra một cái bọc chứa một trăm quả trứng, nở ra một trăm người con. Có sách thì ghi một trăm người con này bao gồm một nửa là con giai, còn một nửa là con gái, cũng có sách lại chép tất cả đều là đực rựa. Ngày kia, Lạc long Quân nói với Âu Cơ: Ta là dòng dõi Long Quân, tức là Vua Rồng. Còn khanh là dòng dõi thần tiên. Cả hai ăn ở lâu với nhau e rằng không ổn. Nay đã được một trăm đứa con, khanh hãy đưa năm mươi đứa lên núi, còn trẫm sẽ dẫn năm mươi đứa xuống biển.
Từ truyền thuyến này mà người Việt Nam chúng ta thường vốn tự hào vì mình có “long phụ tiên mẫu”, cha rồng mẹ tiên. Hay mình thuộc về dòng “tiên long”, thuộc về giống tiên rồng. Và như thế, đã là người Việt Nam, sinh ra và lớn lên trên quê hương này, ai mà chẳng lấy làm vinh dự về cội nguồn ấy, và ai mà chẳng thích mơ…làm rồng. Rồng là một con vật được mọi người yêu quí.
Rồng được liệt vào hàng tứ quí, bốn con vật quí hiếm, đó là long, ly, qui, phụng và được dành riêng cho nhà vua, là ng “ngon lành” nhất nước. Thành thử phàm bất cứ cái gì thuộc về nhà vua, đều được dám nhãn hiệu chữ long lên đầu. Trước hết về hình dong bên ngoài của nhà vua, chúng ta ghi nhận: long thể nghĩa là thân thể của nhà vua, long nhan nghĩa là khuôn mặt nhà vua. Không hiểu long tu có phải là râu của nhà vua, hay chỉ là một giống lan rừng? Tiếp đến là những đồ vật lỉnh kỉnh bên cạnh nhà vua. Thôi thì đủ thứ: long sàng là giường cho nhà vua nằm, long bào là áo cho vua mặc, long án là bàn cho vua viết, long xa là xe cho vua đi và long châu là thuyền cho vua ngự…
Hình ảnh rồng được đưa vào nghệ thuật, chẳng hạn ngành kiến trúc đã trang trí đền đài, cung điện bằng hình ảnh rồng. Thậm chí những chiếc kiệu sơn son thiếp vàng bên nhà đạo cũng được làm bằng hình ảnh rồng, để nói lên rằng mình dành sự cao quí nhất cho Thiên Chúa, Đức Mẹ hay các thánh.
Và người dân đôi lúc cũng mơ được thành rồng. Chẳng hạn như kẻ sĩ ngày xưa, Đây là giai cấp học rộng biết nhiều, luôn vâng theo những lời dạy bảo của Khổng tử: Khi thì ở ẩn để mà tồn tâm dưỡng tánh, khi thì nhập thế để mà hành động, khi thì xuất thế để mà về hưu. Chính vì vậy, khi thời cơ thuận lợi đến, kẻ sĩ tự mơ thấy mình chính là rồng gặp được mây, nên tha hồ mà vùng vẫy để phục vụ xã hội. Chả thế mà Nguyễn công Trứ đã từng viết:
- Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem tất cả sở tồn làm sở dụng.
Hay trong truyện “Phan trần” cũng có câu:
- Bây giờ cha tuổi tác này,
Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
Không phải chỉ các cụ ngày xưa mới thích mơ làm rồng, mà hơn thế nữa, ngày hôm nay từ quan cho chí dân, từ ông nhà nước cho đến anh nông dân, tất cả chúng ta không phải chỉ mơ làm rồng mà còn cố gắng biến giấc mơ này trở thành sự thật. Nghĩa là đất nước chúng ta phải trở thành một con rồng trong lãnh vực kinh tế, không đại long thì chí ít cũng phải tiểu long, không rồng lớn thì chí ít cũng phải rồng nhỏ, không toàn cầu thì chí ít cũng phải trong vùng Đông Nam Á. Người Việt Nam chúng ta về chỉ số thông minh không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Cộng thêm vào đó là đức tính cần cù siêng năng. Đất nước lại nhiều tài nguyên. Đó là những điều kiện thuận lợi để hóa rồng.
Cách đây chừng bốn mươi năm, nếu gã không lầm, thì Thái lan, Malaysia, Indonesia, ngay cả Singapore và Đại hàn cũng chả là cái thá gì đối với Việt Nam. Mức thu nhập bình quân đầu người của dân ta cũng đâu quá tệ so với họ. Lúc bấy giờ Việt Nam mình chỉ kiêng nể mỗi một anh chàng Nhật Bản mà thôi.
Nhưng rồi chiến tranh leo thang, suốt hai mươi năm dân ta lo đánh nhau, thì họ đã đặt được nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Tiếp theo là hai mươi năm dân ta loay hoay mò mẫm tìm cho ra một đường lối kinh tế, thì họ đã bước được những bước tiến khổng lồ. Thành thử cho đến bây giờ dân ta vẫn còn là một dân nghèo…rớt mùng tơi. Trong khi đó, họ đã vươn mình trở thành những con rồng kinh tế trong vùng.
Dân ta cũng muốn noi gương bắt chước họ, vươn mình trở thành rồng. Thế nhưng việc hóa rồng không phải là một việc dễ dàng và chóng vánh một sớm một chiều. Trái lại, đó là một việc đòi hỏi nhiều cố gắng của tất cả trong mọi lãnh vực qua nhiều tháng nhiều năm. Nhưng ưu tiên phải là lãnh vực con người. Thực vậy, nếu cán bộ còn tham nhũng, nếu học sinh còn quay cóp, nếu thiên hạ còn xài bằng cấp giả, nếu người sản xuất còn tung ra thị trường những mặt hàng dổm, nếu những người buôn bán còn thiếu thành thật trong việc cân đo đong đếm, nếu bộ giáo dục còn chưa có được một chương trình đào tạo hợp tình và hợp lý, thì không hiểu đến đời thuở nào đất nước này mới hóa rồng được hay mãi mãi chỉ là một loài bò sát. Vì thế, để nền kinh tế Việt Nam được trở thành một con rồng trong khu vực, thì con người Việt Nam phải hóa rồng trước đã, nghĩa là phải mặc lấy những phẩm chất cao quí của rồng.
Bàn về chuyện “chính chị chính em”, kinh bang tế thế sao mà thấy nhức cái đầu quá, gã xin nói đến chuyện con nít. Phải thành thực mà công nhận rằng: trẻ nhỏ ngày nay có rất nhiều đồ chơi và trò chơi. Có những em đã dành khá nhiều thời giờ, thay vì ngồi học bài và làm bài, thì lại ngồi trước màn hình với những trò chơi điện tử. Bấm loạn cào cào. Kéo lên kéo xuống như điên. Mà phần lớn lại những trò chơi này lại nghiêng về bạo lực: Nào mìn, nào bom, nào súng, nào đạn…Nào bắn, nào đấm, nào đá…Và gã bỗng thấy thương cho tuổi thơ bây giờ. Không như ngày xưa, lúc gã còn nhỏ. Hồi đó chỉ toàn là những trò chơi dân gian hay tự biên tự diễn, mang nặng tính cách nhân bản và đẹp như một bài thơ.
Chẳng hạn như chơi chuyền :
- Đôi tôi, đôi chị, đôi cành bị, đôi cành hoa.
Đôi lên tư, đôi ông sư, đôi bà vãi…
Chẳng hạn như chơi pháo :
- Pháo kêu vang, cả làng chịu chưa ?
Chẳng hạn như chơi ô quan :
- Hết quan, tàn dân, thu quân, bán họ.
Phe con gái kẹp tóc thì chơi chuyền, chơi trải gianh, chơi ô quan, chơi nhảy giây, nhảy cò cò, chơi chồng nụ…Phe con trai húi cua thì chơi khăng, chơi đáo, chơi pháo, chơi bi, chơi quay, chơi diều… Tuy thế nhưng lại rất phong phú, bởi vì mùa nào thì chơi trò nấy. Và có những lần gã đã trở thành…rồng.
Thực vậy, vào những đêm trăng sáng, bọn nhóc tì xếp hàng trên một khoảng sân rộng. Đứa sau ôm eo đứa trước kết thành rồng, còn một đứa được chỉ định làm ông thày thuốc. Bắt đầu trò chơi, xấp nhỏ rồng rắn tung tăng nhảy quanh sân, vừa đi vừa đọc lớn:
- Rồng rồng rắn rắn,
Lên mây có cây lúc lắc,
Hỏi ông thày thuốc,
Có nhà hay không ?
Rồi dừng lại trước mặt ông thày thuốc và ông thày thuốc liền hỏi:
- Rồng rắn đi đâu ?
Rồng rắn trả lời:
- Đi lấy thuốc cho con.
Tiếp đến là cuộc đối chất giữa ông thày thuốc và rồng rắn :
- Con lên mấy ? - Con lên một.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên hai........
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên mười.
- Thuốc ngon vậy.
- Xin khúc đầu. - Những xương cùng xẩu.
- Xin khúc giữa. - Những máu cùng me.
- Xin khúc đuôi. - Tha hồ mà đuổi.
Sau đó, ông thày thuốc phải đuổi thế nào để tóm được cái đuôi con rồng. Còn con rồng thì phải hết sức ngăn chặn, để ông thày thuốc không tóm được cái đuôi của mình. Khi nào ông thày thuốc tóm được cái đuôi, thì tên nhóc tì làm đuôi sẽ bị giáng chức xuống làm ông thày thuốc. Còn ông thày thuốc thì được nhập vào con rồng, có nghĩa là là ông thày thuốc đã hóa rồng và làm rồng.
Cứ thế, cứ thế. Trò chơi lại được bắt đầu với tiếng trẻ thơ reo vang:
- Rồng rồng rắn rắn,
Lên mây, có cây lúc lắc,
Hỏi ông thày thuốc,
Có nhà hay không?
Chắc hẳn trên cao ông trăng cũng phải nhoẻn miệng cười, vì có một chú nhóc lại sắp trở thành rồng đến nơi.
Hình như số báo xuân nào, người ta cũng phải tán hươu tán vượn về con giáp. Chẳng hạn năm GãSiêu 42
Hình như số báo xuân nào, người ta cũng phải tán hươu tán vượn về con giáp. Chẳng hạn năm nay là năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, thì chắc chắn là phải đá động tới loài động vật “huyền thoại” này.
Chẳng hiểu ngày xưa thì thế nào, chứ còn bây giờ gã xin cam đoan cả hai tay lẫn hai chân rằng: Chưa một ai đã được nhìn thấy rồng. Thế mà rồng lại len lỏi vào mọi nền văn hóa và có mặt ở khắp mọi nơi mọi chốn, bên tây cũng như bên ta, mặc dù hình thù có khác nhau đôi chút.
Theo tự điển “Larousse” của mấy ông tây, thì rồng là một con vật hoang đường, hình rắn nhưng lại có cánh và có đuôi. Còn theo Tự điển Việt Nam của Lê văn Đức, thì phe ta xem rồng là một con vật mình dài, có vảy to, miệng rộng, một sừng, chân có vấu, được sinh ra ở dưới nước nhưng lại biết bay trên mây. Rồng lại còn được mấy chú ba tàu xếp vào hàng đầu trong tứ linh, bốn con thú linh thiêng, đó là long, ly, quy, phụng :
- Áo đen năm nút con rồng,
Ở xa con phụng, ở gần con quy.
Dù hình dong bên ngoài hơi khác nhau vài ba tí, chẳng hạn như có cánh hay không có cánh, có sừng hay không có sừng, có chân hay không có chân…thì rồng vẫn được mọi người quí mến:
- Bao giờ cá lý hóa long,
Đền ơn Cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Và từ chỗ quí mến ấy, hầu như mọi người Việt Nam chúng ta đều rất thích mơ được làm…rồng.
Thực vậy, dân tộc nào trên mặt đất này cũng có niềm tự hào riêng về gốc gác, về cội nguồn của mình.
Chẳng hạn như dân Nhật bản chính gốc Phù tang luôn hãnh diện vì mình là con cháu của “Thái dương thần nữ”. Thảo nào mà lá cờ của họ chỉ có mỗi một hình tròn đỏ, tượng trưng cho Mặt trời, nổi bật trên nền trắng.
Chẳng hạn như dân Pháp chính gốc Phú lãng sa luôn hãnh diện vì mình thuộc nòi gà trống Gaulois. Thảo nào mà ngày xưa vào thời Cách mạng 1789, người ta đã vẽ hình con gà trống lên quốc kỳ của mình. Thảo nào mà ngày nay trong những trận đá banh quốc tế, các cầu thủ Pháp thường thả một chú gà trống vào trong sân để cầu may. Thảo nào mà mấy cố tây, mặc dù đã tu hành, nhưng vẫn mang nặng đầu óc dân tộc và luôn hướng về đất mẹ của mình, đã đặt chú gà trống ở đỉnh cao cây thánh giá trên ngọn tháp nhà thờ chính tòa thành phố Đalạt. Vì thế, ngôi nhà thờ này vốn được bàn dân thiên hạ gọi là nhà thờ Con Gà.
Còn người Việt Nam chúng ta, chính gốc Giao chỉ, thì lại hãnh diện vì mình là con rồng cháu tiên. Niềm tự hào này bắt nguồn từ một truyền thuyết như sau:
Lộc Tục, con vua Đế Minh, lên ngôi vua và lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi Kinh Dương Vương, xưng hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, đẻ ra một cái bọc chứa một trăm quả trứng, nở ra một trăm người con. Có sách thì ghi một trăm người con này bao gồm một nửa là con giai, còn một nửa là con gái, cũng có sách lại chép tất cả đều là đực rựa. Ngày kia, Lạc long Quân nói với Âu Cơ :
- Ta là dòng dõi Long Quân, tức là Vua Rồng. Còn khanh là dòng dõi thần tiên. Cả hai ăn ở lâu với nhau e rằng không ổn. Nay đã được một trăm đứa con, khanh hãy đưa năm mươi đứa lên núi, còn trẫm sẽ dẫn năm mươi đứa xuống biển.
Từ truyền thuyến này mà người Việt Nam chúng ta thường vốn tự hào vì mình có “long phụ tiên mẫu”, cha rồng mẹ tiên. Hay mình thuộc về dòng “tiên long”, thuộc về giống tiên rồng. Và như thế, đã là người Việt Nam, sinh ra và lớn lên trên quê hương này, ai mà chẳng lấy làm vinh dự về cội nguồn ấy, và ai mà chẳng thích mơ…làm rồng. Rồng là một con vật được mọi người yêu quí.
Trong khi đó, dưới chế độ quân chủ, thì nhà vua là người “ngon lành” nhất trong cả và đất nước. Chính vì vậy, hình ảnh con rồng vốn thường được dùng làm biểu tượng cho nhà vua, cũng như tất cả những gì thuộc về nhà vua…đều được gắn nhãn hiệu chữ “long” lên đầu.
Trước hết về hình dong bên ngoài của nhà vua, chúng ta ghi nhận: long thể nghĩa là thân thể của nhà vua. Vì thế mỗi khi nhà vua cảm cúm, nhức đầu sổ mũi và…hắt xì, người ta liền bảo rằng: long thể lại bất an. Rồi long nhan nghĩa là khuôn mặt nhà vua. Không hiểu long tu có phải là râu của nhà vua, hay chỉ là một giống lan rừng ?
Tiếp đến là những đồ vật lỉnh kỉnh bên cạnh nhà vua. Thôi thì đủ thứ: long sàng là giường cho nhà vua nằm, long bào là áo cho vua mặc, long án là bàn cho vua viết, long xa là xe cho vua đi và long châu là thuyền cho vua ngự…Chẳng hiểu còn bao nhiêu thứ “long” nữa thì gã xin khất vào một dịp khác sẽ kê đơn hoàn tán sau, chứ bây giờ mà phải kể tất tật ra thì e rằng bản thân gã sẽ phải…long đong lắm lắm.
Có lẽ cũng vì phẩm chất cao quí này mà ngày xưa những chiếc kiệu của các xứ đạo ngoài Bắc đều được sơn son thếp vàng và hai đòn khiêng đều mang hình con rồng, điều đó nói lên rằng cha ông chúng ta muốn dành cho Thiên Chúa, cho Đức Mẹ hay cho các thánh vinh dự số một. Âu cũng là một cách “hội nhập văn hóa” hết xảy của các bậc tiền bối. Xin “khẩu phục tâm phục”.
Từ những điều vừa trình bày, thì nhà vua hẳn là người mơ làm rồng nhiều nhất. Tuy nhiên, giấc mơ này không phải chỉ là độc quyền dành cho nhà vua, bởi vì dân gian cũng muốn xí phần và ăn có, hay nói một cách nghiêm túc hơn, cũng muốn chia sẻ tí đỉnh giấc mơ này, nghĩa là cũng muốn được làm rồng, được gặp rồng, hay ít nữa là được giống rồng…
Trước hết là kẻ sĩ trong xã hội ngày xưa.
Đây là giai cấp học rộng biết nhiều, luôn vâng theo những lời dạy bảo của Khổng tử: Khi thì ở ẩn để mà tồn tâm dưỡng tánh, khi thì nhập thế để mà hành động, khi thì xuất thế để mà về hưu. Chính vì vậy, khi thời cơ thuận lợi đến, kẻ sĩ tự mơ thấy mình chính là rồng gặp được mây, nên tha hồ mà vùng vẫy để phục vụ xã hội. Chả thế mà Nguyễn công Trứ đã từng viết:
- Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem tất cả sở tồn làm sở dụng.
Hay trong truyện “Phan trần” cũng có câu:
- Bây giờ cha tuổi tác này,
Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
Ăn theo với kẻ sĩ chính hiệu con nai vàng là các cụ đồ.
Giấc mơ của các cụ đồ thì khiêm tốn hơn, chỉ mong sao cho nét bút của mình được lả lướt, được mát mắt thiên hạ để mọi người ưa thích, hầu kiếm tí tiền còm khi ngồi viết câu đối vào mỗi dịp tết đến, như Vũ đình Liên đã mô tả trong bài “Ông đồ già” :
- Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tâm tắc ngợi khen tài,
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay…
Ngoài ra, những kẻ tài giỏi, giàu sang hay quyền thế cũng thích mơ được làm rồng, hay tự đồng hóa mình với…rồng. Chẳng hạn như một anh chồng tài giỏi và ranh mãnh, chẳng may vớ phải một cô vợ dốt đặc cán mai. Khi “phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng” đã hết và tuần trăng mật cũng đã tan, bước vào đời thường, lúc phải đối mặt với cái ngây ngô ngốc nghếch của vợ, hẳn anh ta đã phải quát tháo:
- Ngu chi ngu lạ, ngu vừa vừa thôi chứ, để cho con người ta còn ngu nữa với.
Và nếu biết ca vọng cổ, anh sẽ quai mồm ra mà hét:
- Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Còn nếu như kẻ có tí quyền hay tí chức mà rộng tay ban phát ơn huệ hay đích thân thăm viếng một kẻ khố rách áo ôm, thì lúc bấy giờ chẳng khác gì “rồng đến nhà tôm” vậy.
Mình mơ làm rồng đã đành, mà hơn thế nữa, còn muốn cho những người mình yêu, mình thương cũng sẽ trở thành rồng. Sở dĩ như vậy là vì “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi đã “chịu đèn” mí nhau rồi, thì củ ấu cũng tròn, trái bồ hòn cũng ngọt và một trăm chỗ lệch cũng được kê cho bằng. Chính vì thế, cô vợ dù có xấu đến đâu chăng nữa, thì anh chồng cũng vẫn cứ hít hà khen lấy khen để :
- Lỗ mũi thì tám gánh lông,
Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà,
Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm…
Lông mũi nàng mà anh chồng cứ mơ tưởng là râu rồng, thì quả là tuyệt vời và hết ý. Chỉ khi nào không còn thương, hay là thương không nổi nữa, thì anh ta bèn quay phắt 180 độ như thiên hạ vốn diễn tả: Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.
Còn chị vợ khác, khi thấy anh chồng của mình yếu kém về nghệ thuật nói dối, đã ăn vụng mà lại không chịu chùi mép cho sạch, thành thử chẳng dấu được ai, thì cũng đã sánh ví anh chồng…yêu quí ấy như “rồng nằm bể cạn” :
- Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi.
Hầu như ở mọi nơi và trong mọi lúc, rồng đều được mặc lấy những đặc tính tốt đẹp, chỉ có một vài trường hợp là rồng đã gây nên những thảm họa cho cuộc sống. Rất may, trong những trường hợp này, thì không phải là rồng thứ thiệc, mà chỉ là một loại rồng dổm mà thôi.
Chẳng hạn như rồng hút nước, rồng rê…đây là một hiện tượng thiên nhiên, tạo nên những cơn lốc xoáy, hút nước lên trời hay giật sập nhà cửa dưới đất của một vùng rộng lớn.
Còn khi ngồi vào bàn tiệc, mà một anh chàng phàm ăn tục uống, thuộc vào hàng “lấy cái bụng làm chúa”, chẳng thèm để ý chi tới những người chung quanh, cứ gục đầu xuống như muông chim, thoải mái húp canh chùn chụt, chắc hẳn sẽ được thiên hạ kê ngay tủ đứng vào miệng:
- Ăn uống chi mà cứ như rồng cuốn…không chừng nuốt phăng cả bát đĩa và bàn ghế.
Qua những điều được bàn rộng tán dài, gã thấy dân Việt Nam ta rất khoái rồng và cũng không ít người luôn mơ được hoá thành rồng.
Lâu rồi, gã có viết một mẩu chuyện phiếm dựa trên câu danh ngôn: “Sau lưng anh đờn ông thành GãSiêu 43
Lâu rồi, gã có viết một mẩu chuyện phiếm dựa trên câu danh ngôn: “Sau lưng anh đờn ông thành công, đều có bóng dáng một chị đờn bà”. Thế rồi một ngày rảnh rỗi, lang thang trên mạng, gã vô tình ghi nhận được hàng trăm câu ăn theo. Có những câu thật nhảm nhí, không nên liệt kê ra đây, nhưng cũng có những câu tương đối được liệt vào hàng “ranh ngôn” cũng đáng cho gã suy nghĩ. Chẳng hạn:
Sau lưng anh đờn ông ngoại tình, là chị đờn bà ngồi rình.
Sau lưng anh đờn ông long nhong, là chị đờn bà long đong.
Sau lưng anh đờn ông lảm nhảm, là chị đờn bà thê thảm.
Sau lưng anh đờn ông nghèo khó, là chị đờn bà nhăn nhó.
Sau lưng anh đờn ông mê gái, là chị đờn bà tê tái.
Sau lưng anh đờn ông mất sĩ diện, là chị đờn bà nhiều chuyện.
Sau lưng anh đờn ông buồn phiền, là chị đờn bà đòi tiền.
Sau lưng anh đờn ông nổi tiếng, là chị đờn bà làm biếng.
Sau lưng anh đờn ông nhu nhược, là chị đờn bà láo xược.
Sau lưng anh đờn ông hay nhậu, là chị đờn bà rất quặu.
Và để cho thêm phần bình đẳng và cân bằng lực lương, thiên hạ còn phệu thêm:
Sau lưng chị đờn bà thành công, là anh đờn ông bất tài.
Sau lưng chị đờn bà kiêu kỳ, là anh đờn ông bị xì.
Sau lưng chị đờn bà mạnh mẽ, là anh đờn ông giũ kẽ.
Sau lưng chị đờn bà lo lắng, là anh đờn ông cố gắng.
Sau lưng chị đờn bà lãng mạn, là anh đờn ông nông cạn.
Sau lưng chị đờn bà đau đớn, là anh đờn ông cà chớn.
Sau lưng chị đờn bà nhăn nhó, là anh đờn ông dúm dó…
Gã xin lựa ra hai câu trong số hàng trăm câu như, để làm đề tài bàn ra tán vào cho mục chuyện phiếm hôm nay.
THỨ NHẤT, SAU LƯNG ANH ĐỜN ÔNG THÀNH CÔNG,
LÀ CHỊ ĐỜN BÀ NGỒI KHÔNG
Theo sự phân công tự nhiên, anh đờn ông thường thích hợp hơn với những công việc ngoài xã hội, còn chị đờn bà thường thích hợp hơn với những công việc trong gia đình. Vì thế, vai trò của anh chồng là vai trò “ngoại tướng”, lo công danh sự nghiệp và đem tiền về nuôi sống gia đình, còn vai trò của chị vợ là vai trò của “nội tướng” lo chuyện nữ công gia chánh và nuôi dạy con cái. Mặc dù ngày nay, nhiều chị đờn bà cũng đã anh dũng bước chân ra ngoài xã hội và cũng đã nắm giữ những vai trò quan trọng, không kém gì những anh đờn ông.
Một khi anh chồng đã thành công ngoài xã hội, tiền bạc chảy vô như thác đổ. Với những khoản tiền khổng lồ kiếm được ấy, người ta bắt đầu nghĩ đến việc trang bị những tiện nghi cho đời sống, nào là tủ lạnh, nào là máy giặt, nào là nồi cơm điện, nào là bếp ga, nào là lò hâm thức ăn, lò nướng thịt cá… Rồi lại còn thêm những hưởng thụ cho bản thân như tivi, xe hơi, bồn tắm…Và nhất là thuê mướn người giúp việc.
Tới đây thì những công việc nặng nhọc của người “nội tướng” không còn căng thẳng nữa, vì đã được giảm bớt đi rất nhiều, nên chị vợ có dư thời gian rảnh rỗi. Vì thế, nói rằng sau lưng anh đờn ông thành công, là chị đờn bà ngồi không, thì cũng chẳng phải là quá đáng.
Thế nhưng, như các cụ ta ngày xưa thường bảo: “Nhàn cư vi bất thiện”, sự nhàn rỗi là mẹ sinh ra các thói hư tật xấu. Chính vì ngồi không và thời giờ trở nên như quá thừa thãi, các chị vợ bèn nghĩ cách đầu tư vào những công việc, mà theo gã nghĩ tốt hay xấu còn tuỳ theo quan điểm, tuỳ theo cách nghĩ của mỗi người.
Trước hết, các chị vợ thường tụ tập lại để “tán” với nhau
Thôi thì đủ mọi thứ chuyện, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện trong nhà đến chuyện ngoài ngõ, từ chuyện anh chồng đến chuyện đứa con, bất cứ chuyện gì, nhất là những chuyện tình cảm ngoài luồng, đều trở thành những đề tài nóng sốt để các chị vợ tha hồ bàn ra tán vào. Tuy nhiên trong khi bàn ra tán vào như thế, các chị vợ thường thêm mắm thêm muối, thổi phồng thì nhiều, mà tôn trọng sự thật thì ít, chê bai thì nhiều mà khen ngợi thì ít. Thảo nào mà người Tây phương đã bảo:
- Nơi nào có hai hay ba người đờn bà tụ tập lại, thì nơi đó sẽ biến thành một cái chợ.
Báo chí ngày nay gọi đó là hiện tượng “buôn dưa lê”, còn người bình dân thì gọi là “ngồi lê đôi mách”, nghĩa là ngồi lê la hết chỗ nọ đến chỗ khác, để đưa chuyện nơi này đi nói cho nơi kia hay. Thậm chí trong một bài báo trên “Phụ Nữ Thứ Tư”, số ra ngày 6.7.2011, tác già Trần Triều còn gọi đó là “Kênh Đàn Bà”. Đại khái tác giả viết như sau:
“Chị em là người làm chung văn phòng, là tiểu thương ở chợ hay là hàng xóm, nói chung là ở bất kỳ nơi đâu có ba người phụ nữ trở lên trò chuyện với nhau, đều hình thành nên một kênh thông tin, gọi nôm na là “kênh đàn bà”. Chồng nói chưa hẳn đã nghe, con nói chưa chắc đã tin, nhưng những chị em cùng “kênh” mà rỉ thông tin gì vào tai là tin ngay. Mà qua kênh này, không phải thông tin nào cũng đúng”.
Thực vậy, những thông tin trên kênh này thường rất nóng bỏng, được phóng to, được tô màu đại vĩ tuyến và nhất là được“bình luận” theo cặp kính màu chủ quan, nên rất méo mó và sự thật lắng đọng không được bao nhiêu. Lắm khi còn phát đi những thông tin làm đau đớn lòng quí ông. Sau đây là một trường hợp điển hình:
“Đang sinh hoạt vợ chồng đều đặn, anh T, chủ một cửa hàng điện máy lớn, gặp khó khăn trong chuyện làm ăn, nên bị stress, mất hết “phong độ” gần cả tuần lễ. Lo lắng, chị vợ đưa chuyện này ra chia sẻ với mấy cô bạn thân. Không ngờ, ai cũng tỏ ra lo lắng giùm chị. Một cô còn làm ra vẻ hình sự: “Mình đọc trên báo, thấy người ta viết nếu đàn ông đang vui vẻ với vợ đều đặn, mà đột ngột ngừng một thời gian dài, sẽ có hai khả năng xảy ra: Một là anh ta bị bệnh, hai là anh ta có bồ. Chị tin ngay, về nhà vặn hỏi: Anh có bệnh hay có bồ? Anh chồng đang bị stress, lại còn bị vợ hạch sách, nên đã phát khùng, mắng cho chị một trận te tua…”
Tụ tập lại với nhau, nếu không nói hành nói xấu, thì gây sòng không phải để nhậu, mà là để bài bạc.
Thôi thì đủ mùi đủ thứ, từ tứ sắc đến bài cào, từ tiến lên đến binh xập xám, các chị vợ đều xơi được cả. Ngày xưa, sống trong trại gia binh, gã đã từng chứng kiến những chị vợ sát phạt nhau trong mọi lúc, đêm quên ngủ ngày quên ăn. Trong khi các anh chồng đổ mồ hôi hột, thậm chí còn đổ cả những giọt máu nơi chiến trường. Lương tháng chồng mang về, chỉ vèo một cái là đã nướng sạch vào trò đỏ đen, thành thử con cái nheo nhóc và gia đình cứ túng thiếu dài dài. Thậm chí có chị còn đi vay nóng với lãi xuất cắt cổ, để được tiếp tục cuộc chơi.
Tiếp đến, các chị vợ trong những lúc ngồi không như thế, thường tiêu bớt quĩ thời gian bằng cách đi mỹ viện
Đường đường là một “bà nhớn”, một vị phu nhân, các chị vợ không thể để cho mình nhếch nhác. Không đẹp bằng chị, thì cũng phải đẹp bằng em, nên sẵn sàng làm đẹp bằng bất cứ giá nào. Chính vì thế, ngày nay các mỹ viện đua nhau mọc lên như nấm sau cơn mưa và các chủ nhân của nó kiếm được không ít tiền mỗi ngày. Cắt chỗ này, xẻ chỗ kia. Bơm chỗ này, hút chỗ nọ…Thế nhưng, nếu không khéo, thì khi ra khỏi mỹ viện, đẹp đâu không thấy, mà chỉ thấy ghê ơi là ghê! Giống hệt những cô đào cải lương trên sân khấu. Và hơn thế nữa, đôi khi còn kèm theo những biến chứng, nguy hại cho sức khoẻ.
Ngoài ra, trong khi nhiều chị vợ thích đi mỹ viện để sửa sắc đẹp, thì cũng có không ít chị vợ lại thích đi siêu thị để mua sắm
Và người ta gọi đó là “hội chứng sốp-pinh”. Dường như siêu thị có một ma lực hấp dẫn đối với các chị vợ. Đã bước chân vào thì phải ngắm nghía hết tầng này đến tầng kia và phải mua cho được thứ này thứ nọ, dù những thứ đó không mấy cần thiết, vì ở nhà đã có. Nhiều chị vợ còn sưu tầm và thấy hễ nơi nào khuyến mãi là phải ba chân bốn cẳng chạy tới cho bằng được. Không mua cũng uổng, giá rẻ mà. Các chị săn lùng khuyến mãi, như săn lùng tội phạm!
THỨ HAI, SAU LƯNG ANH ĐỜN ÔNG THẤT BẠI,
LÀ CHỊ ĐỜN BÀ XÚI DẠI
Đây là một kinh nghiệm đau thường, đã có mặt ngay từ những trang đầu của lịch sử nhân loại. Thực vậy, như chúng ta đã biết: Adong Eva là nguyên tổ của nhân loại. Thưở ban đầu, hai ông bà được Thiên Chúa dựng nên và sống hạnh phúc trong vườn Địa Đàng, tức là sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa. Thế nhưng, cũng chỉ vì nghe lời vợ mà Adong đã phải nếm mùi khổ đau và nhân loại ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, mãi cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Sách Sáng Thế đã kể lại như sau:
“Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà:
- Có thật Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?
- Người đàn bà nói với con rắn:
- Các trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.
Rắn nói với người đàn bà:
- Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.
Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: Họ mới kết lá vả làm khố che thân. Nghe thấy tiếng Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Thiên Chúa. Ngài gọi con người và hỏi:
- Ngươi ở đâu?
Con người thưa:
- Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.
Thiên Chúa hỏi:
- Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?
Con người thưa:
- Người đàn bà Ngài ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.
Thiên Chúa hỏi người đàn bà:
- Ngươi đã làm gì thế?
Người đàn bà thưa:
- Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.
Thiên Chúa phán với con rắn:
- Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
Với người đàn bà, Chúa phán:
- Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.
Với con người, Chúa phán:
- Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi đừng ăn nó, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (St 3,1-19).
Cũng vì nghe lời Eva, mà Adong đã ăn trái cấm, để rồi đã phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Bản án này được lưu truyền cho con cháu trong dòng thời gian và người ta đã gọi đó là tội nguyên tổ.
Kinh nghiệm đau thương này cũng đã được tái diễn ở khắp nơi, từ đông sang tây, từ cổ chí kim, khiến người ta đã phải thốt lên:
- Vua nghe vợ, mất nước.
Truyện rằng: Vào thời Xuân Thu bên Trung Quốc, vua nước Việt là Việt Vương Câu Tiễn đánh nhau với vua nước Ngô là Ngô Phù Sai và bị thua. Phạm Lãi khuyên Câu Tiễn nên dùng mỹ nhân kế mới mong phục hận. Phạm Lãi tìm được nàng Tây Thi, dâng vua Phù Sai. Tây Thi là một người con gái ở thôn Trử La, làm nghề dệt vải, có nhan sắc tuyệt trần không ai bì được. Vì thế, Phù Sai ngày đêm mê muội, say đắm quên cả việc nước.
Tương truyền rằng: Tây Thi có chứng đau bụng, mỗi lần đau thì nhăn mặt, mà nhăn mặt thì lại càng đẹp thêm. Cho nên mỗi lần nàng đau bụng nhăn mặt, Ngô Phù Sai lãi cùng say mê tán thưởng sắc đẹp của nàng. Ngoài ra, ông cũng đã hứa trọng thưởng những ai làm cho Tây Thi cười.
Có người hiến kế bằng cách xé lụa, bởi vì khi nghe tiếng lụa xé, nàng sẽ cười. Và thế là bao nhiêu lụa trong kho đều được mang ra xé để mua lấy một tiếng cười cho Tây Thi, nhưng tất cả đều thất bại.
Có người hiến kế: Đốt lửa ngoài biên giới, báo động kinh thành lâm nguy, để các nước chư hầu đem quân về tiếp viện. Trong khi đó Ngô Phù Sai cùng Tây Thi và triều thần ngồi uống rượu trên Cô Tô đài. Trước cảnh ngơ ngác của binh lính các nước chư hầu cùng với chiến xa và kỵ mã, Tây Thi đã cười lên như nắc nẻ. Kẻ hiến kế được trọng thưởng. Thế nhưng, khi kinh thành thực sự lâm nguy, đốt lửa cầu cứu, thì chẳng một nước chư hầu nào đến tiếp viện vì sợ bị mắc lừa. Và kinh thành bị thất thủ.
Tình hình đã chín muồi, Việt Câu Tiễn dấy quân tiến đánh kinh đô và Ngô Phù Sai đã đại bại. Cũng chỉ vì say mê sắc đẹp đến nỗi quên cả việc triều chính, chỉ vì ra sức làm hài lòng người đẹp, mà Ngô Phù Sai đành phải mất nước và sự nghiệp tan theo mây khói.
Ngày nay không thiếu những anh chồng lâm vào cảnh ngồi nhà đá bóc lịch và nhìn thời gian lặng lẽ trôi, chỉ vì trót dại nghe lời chị vợ. Thực vậy, có chị vợ đã anh dũng tâm sự như sau:
“Với các anh chồng, phải thúc họ liên tục phấn đấu. Chưa có nhà thì mua nhà. Đã có ô tô, thì phấn đấu mua ô tô khác xịn hơn, rồi phấn đấu mua nhà thứ hai. Thậm chí, cứ mạnh dạn vay nợ mà mua, để anh ta phấn đấu trả nợ. Nếu anh ta rảnh, không phấn đấu gì cả, mà tiền bạc lại rủng rỉnh, thì thế nào cũng sẽ đèo bòng bồ nhí”.
Trong những lúc thân mật, chị vợ cứ rót vào tai anh chồng những lời có cánh, khiến anh chồng không còn nhận ra phải trái, cứ nhắm mắt phấn đấu làm theo, dấn thân vào con đường làm ăn lươn lẹo, như buôn lậu, tham nhũng, hối lộ. Đó chính là con đường ngắn nhất dẫn tới thân bại danh liệt. Và như vậy, một sự thật đã được sáng tỏ: Sau lưng anh đờn ông thất bại, là chị đờn bà xúi dại!
Báo Phụ Nữ Thứ Hai, số 111, ra ngày 8.11.2010, có đăng một mẩu chuyện như sau: Trong buổi tuyên GãSiêu 44
Báo Phụ Nữ Thứ Hai, số 111, ra ngày 8.11.2010, có đăng một mẩu chuyện như sau:
Trong buổi tuyên dương gia đình hạnh phúc, người ta đã hỏi một ông cụ 71 tuổi, nhân vật được tuyên dương:
- Xin bác cho biết làm thế nào bác giữ được hạnh phúc suốt 50 năm chung sống?
Ông cụ móm mén, đầy vẻ hài hước:
- Vợ chồng chúng tôi có một nguyên tắc: Cái gì quan trọng thì tôi quyết định, còn cái gì không quan trọng thì vợ tôi quyết định.
- Thế những vấn đề gì được xem là quan trọng ạ?
- Thú thật là… vấn đề đó do vợ tôi quyết định, nên suốt 50 năm qua, chúng tôi chưa gặp vấn đề quan trọng nào cả.
Và tác giả bài viết đã kết luận:
- Nếu phỏng vấn bất kỳ người chồng nào có “thâm niên” cơm lành canh ngọt với vợ, chắc chắn bạn sẽ được nghe nói đến một điều kiện quan trọng nhất: Nhường vợ. Cánh đờn ông chẳng thường nói đùa với nhau “Nhất vợ nhì trời” đó sao.
Lại có chuyện khác rằng:
Có một anh nọ xưa nay rất là sợ vợ. Vợ quát tháo thế nào, anh ta cũng ngậm miệng, không dám cãi một lời. Anh ta đi đánh bạc, mãi xẩm tối mới về. Thổi cơm ăn xong, chị vợ ngồi chờ chồng mỏi mắt. Chị ta tức lắm. Khi anh chồng vừa mới ló mặt vào ngõ, chị ta đã chạy ra túm ngực lôi vào nhà, gầm rít. Anh ta vừa gỡ tay vợ túm ngực, vừa kêu xin:
- Bỏ tôi ra! Tôi xin bu nó!
Chị vợ được thể càng làm già, túm luôn tóc ấn đầu anh ta xuống. Anh ta liền vung tay gạt ngã chị vợ, tát cho luôn chị vợ mấy cái, rồi trợn mắt, quát:
- Người ta đã sợ thì để cho người ta sợ chứ!
Và chuyện sau cùng:
Một trận mưa đám mây bất ngờ đổ xuống làm cho anh chồng kia không kịp chạy ra sân thu gom quần áo đang phơi. Và thế là anh ta liền bị bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà đông “tích” cho một trận tơi bời hoa lá cành.Thấy vậy anh chồng này, vốn là người hàng xóm, bèn mở miệng chê bai, phóng thanh qua dậu mồng tơi mà rằng:
- Sao ông hèn quá vậy, sao ông nhát quá vậy. Cứ để cho bà ấy làm tới hoài mãi sao? Phải tay tui thì…
Vừa nói đến đây, bỗng bà vợ xuất hiện. Bà đứng chống nạnh, trừng mắt và phán:
- Phải tay tui thì sao?
Và thế là anh chồng này bèn cúi mặt xuống như muông chim, miệng thì ấp a ấp úng:
- Dạ, phải tay anh, thì anh đã thu gom từ trước lúc trời mưa ạ.
Mencken có nói một câu đáng cho gã suy nghĩ: Khi một người đờn ông và một người đờn bà lấy nhau, thì họ chỉ còn là một người. Tuy nhiên, cái khó đầu tiên là phải quyết định xem người đó là người nào?
Qua hai câu chuyện kể trên, gã nhận thấy quan điểm của tác giả Trần Triều trong bài viết “Nhất vợ” hơi bị đúng:
“Chuyện phái mạnh chấp nhận lùi một bước, để vợ ở “cơ trên” là hết sức bình thường. Và hơn thế nữa, chuyện vâng lời vợ để được yên ổn cũng chẳng có gì lạ. Người đờn ông vốn thích suy luận và phân tích, luôn hiểu rằng: Gây với vợ và trái lời vợ, thì từ chết đến bị thương, chỉ chuốc khổ thêm cho cả nhà mà thôi”.
Trước câu hỏi: Đờn ông vốn mạnh ngoài xã hội, nhưng sao lại “yếu” trong gia đình? Một anh chồng khác đã trả lời như sau:
“Thực ra không phải đờn ông sợ vợ, mà là sợ mất hoà khí trong gia đình. Với bản tính rộng lượng, anh chồng dễ chép miệng cho qua để yên chuyện. Khổ nỗi, mỗi lần được anh chồng nhịn là một lần chị vợ tưởng mình đúng hoàn toàn, nên cứ thế “phát huy”. Một lần, hai lần, ba lần và nhiều lần như thế, quyền lực của chị vợ tăng lên dần, khiến cán cân quyền lực trong gia đình nghiêng hẳn về bên nội tướng lúc nào cũng chẳng biết. Cái bi kịch khó giải quyết ở chỗ: Có những chị vợ thâu tóm quyền lực một cách quá đáng, mà vẫn nghĩ chân lý thuộc về họ, nên không chịu lùi một bước, không nghĩ mình còn phải biết tôn trọng anh chồng nữa”.
Được đàng chân lân đàng đầu. Chị vợ cứ vô tư phom phom tiến tới, đâu có ngờ rằng sức chịu đựng của anh chồng cũng có hạn, tới một lúc nào đó, tức nước ắt hẳn sẽ vỡ bờ, để lại những hậu quả não nùng và bi đát. Một anh chồng đã tâm sự như sau:
“Nhịn mãi, nhịn hoài đến lúc không nhịn được nữa, tôi đã nghĩ:
- Một sự nhịn là chín sự…nhục.
Thế nên, thỉnh thoảng tôi bất ngờ quật lại vợ một phát, khiến bà ấy cũng tá hoả. Tôi vô tình nghe được vợ tâm sự với người bạn qua điện thoại:
- Ông nhà tôi lạ lắm, vốn hiền lành, nhưng lâu lâu lại nổi khùng bất tử, làm mình cũng sợ thật. Mà sao lạ thế nhỉ?
Tôi cười thầm trong bụng, hoá ra bà ấy cũng biết sợ, thế là còn may. Thực ra, lâu lâu vùng lên một lần chỉ để vớt vát lại đôi chút quyền lực, cho bà ấy “tỉnh ngộ”, chứ lúc nào cũng nhịn, thì vợ dễ “hư” lắm. Nói ra nghe kỳ cục, chứ khoảng một tháng là tôi lại cãi vợ một lần và có thể gây nhau từ cuộc cãi vã đó”.
ĐẾN SỢ VỢ
Thế nhưng, có người lại cho rằng sợ vợ là một căn bệnh di truyền hay mãn tính của nhiều anh chồng. Căn bệnh mãn tính này đã bén rễ sâu vào tâm can tì phế, và lục phủ ngũ tạng, khó lòng mà chạy chữa;
"Sợ vợ" là chứng nan y
Cố công, chạy chữa thuốc gì cũng toi!
Cái này lệ thuộc giống nòi
Di truyền trong máu phải coi kỹ càng
Xin đừng hụt hẫng, hoang mang
Nên đi xét nghiệm..chớ than, chớ sầu!
Nhiều anh chồng chẳng những không hổ thẹn, mà lại còn rất lấy làm hãnh diện về cái “nhân đức sợ vợ” của mình:
Tôi đây thích sợ vợ nhà
Thì đâu có sợ người ta chê cười.
Vợ tôi, tôi sợ kê tôi
Miễn tôi không sợ vợ người thì thôi.
Người xưa thường bảo với tôi
Vợ mày mày sợ thế là người khôn
Chớ không mày đã không còn
Công ơn vợ dưỡng nên chồng hôm nay.
Là người phải biết nghĩ dài
Mai sau già yếu ngày ngày vợ nuôi
oOo
Sợ vợ, đôi chữ nghe thanh
Thời nay sợ vợ, nổi danh... anh hùng
Người ta cứ bảo tui khùng
Đường đường quân tử, nhưng chùn hồng nhan
Thời nay sợ vợ mới sang
Chớ không sợ vợ, có màn ra hiên.
Sở dĩ như vậy là vì “nhân đức sợ vợ” sẽ đem lại cho anh chồng nhiều lợi ích thiết thực cho cuộc sống:
Ngồi buồn kiếm chuyện nói chơi,
Nhất vợ nhì trời là chuyện tự nhiên.
Đàn ông sợ vợ thì sang,
Đàn ông đánh vợ tan hoang cửa nhà.
Đàn ông không biết thờ "bà"
Cuộc đời lận đận kể là vứt đi.
Đàn ông sợ vợ ai khi,
Vợ mình, mình sợ sá gì thế gian!
Đàn ông khí phách ngang tàng,
Nghe lời vợ dạy là hàng "trượng phu."
Đàn ông đánh vợ là ngu,
Tốn tiền cơm nước, ở tù như chơi.
Mặc dù đôi lúc cũng cảm thấy xót xa cho thân phận làm chồng của mình:
Lấy nàng từ thuở mười nhăm,
Đến khi mười chín tôi đà năm con.
Nàng thì trông hãy còn son,
Tôi thì đinh ốc, bù lon rã rời.
Nắng mưa là chuyện của trời,
Tề gia nội trợ có tôi bao thầu.
Suốt ngày cày cấy như trâu,
Chiều về rửa chén cũng "ngầu" như ai.
Nấu cơm, đi chợ hàng ngày,
Bồng con, thay tã tôi đây vẹn toàn.
Lau nhà, lau cửa chẳng màng,
Ôi thời oanh liệt ngang tàng còn đâu.
Nhiều khi muốn hộc xì dầu,
Xin nàng nghỉ phép, nàng chau đôi mày.
Nàng đòi thi đấu võ đài,
Tung ra một chưởng, chén bay ào ào.
Nhớ xưa mình mới quen nhau,
Em ăn, em nói ngọt ngào dễ thương.
Cho nên tôi mới bị lường,
Mang thân ngà ngọc cậy nương nơi nàng.
Nhưng dầu sao chăng nữa, thì cuối cùng vẫn một lòng một dạ thuỷ chung cùng nàng:
Than ôi thực tế phũ phàng,
Mày râu một kiếp thôi đành đi đoong.
Một lòng thờ vợ sắt son,
Còn non còn nước thì tôi còn... thờ.
Tóm lại, người khôn thì phải “ăn lời vợ”, chỉ kẻ dại khờ mới dám cãi lại mà thôi:
Đàn ông nể vợ là sang,
Ngồi nghe vợ dạy là hàng trượng phu.
Đàn ông đánh vợ là ngu,
Vừa mất tiền thuốc vừa tù chung thân.
Tới đây, gã xin mượn câu truyện của tác giả Thảo Trần trên báo Phụ Nữ Việt Nam như một kết luận. Tác giả viết như sau:
Tớ sợ vợ.
Vợ ghê gớm nên chồng sợ vợ thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng vợ tớ lại không ghê gớm mà tớ vẫn sợ mới là điều để nói, nên tớ nói ra để các chị em nghe mà học.
Tớ cũng lắm tội như nhiều đàn ông khác, cũng nhậu nhẹt bia bọt, cũng về muộn, ít ăn cơm nhà, cũng một tấc đến trời, trăm voi không được bát nước xáo. Nhưng vợ tớ lại chẳng giống vợ các ông ấy. Cô ấy không gầm gào, chì chiết khi thấy chồng về muộn. Không rình rập, theo dõi khi chồng nói là đi họp hành, công tác. Không phong tỏa kinh tế, không theo dõi điện thoại. Nghĩa là vợ tớ để tớ tự giác hoàn toàn (chứ không phải là mặc xác đâu).
Càng nghĩ đến vợ, tớ càng phục cô ấy. Vợ tớ là người đàn bà đảm đang, chịu thương chịu khó. Việc nhà cô ấy làm tất, không bắt tớ làm gì cả. Nhưng có hôm thấy cô ấy mệt, tớ bảo để tớ rửa bát chẳng hạn, là mắt cô ấy nhìn tớ cực kỳ âu yếm, cô ấy hôn tớ đánh chụt rồi bảo: “Ôi! Anh thật tuyệt vời. Hôm nay em thấy mệt. May quá...”.
Thế là thỉnh thoảng muốn được vợ hôn và cám ơn, tớ lại đóng vai người chồng tốt. Thực ra so với cô ấy thì tớ làm việc nhà chỉ bằng cái móng tay, nhưng chỉ thế thôi mà vợ tớ đã cảm động lắm, nên yêu tớ nhiều hơn và tớ cũng yêu vợ, biết ơn vợ nhiều hơn.
Vợ vò võ ở nhà chăm con, lo chuyện gia đình, tớ thì cứ tớn lên đánh đu với đám bạn ở quán, nhưng vợ tớ không cáu. Hôm nào tớ về sớm, vợ nhìn thấy mừng như bắt được vàng, reo tướng lên: “Ôi, hôm nay anh ngoan quá, về sớm... Sướng thật”. Nghe thế lòng dạ tớ cứ sướng mê tơi. Nhìn mắt vợ sáng long lanh mà lòng cũng thấy vui.
Thế là thời gian nhậu của tớ cứ ngắn dần khiến đám bạn gán cho tớ danh hiệu sợ vợ. Điều mà tớ yêu nhất và cũng nể nhất ở vợ là cô ấy biết cám ơn và xin lỗi từ những điều nhỏ nhặt nhất.
Nhiều bà vợ hiếu thắng, hay tranh cãi đến thắng mới thôi, nhưng vợ tớ mà thấy ý kiến hai đứa trái nhau thì cô ấy không tranh cãi nữa mà sau đó cô ấy đi tìm tài liệu để xem ý nào đúng rồi mới nói tiếp. Cô ấy bảo: Đó không phải là hiếu thắng mà muốn có kiến thức. Khi biết ý mình sai thì cô ấy nói: “... Anh nói đúng, còn em thì sai rồi, xin lỗi chồng nhé”.
Tớ thích vợ tớ ngay cả ở cách nói lời xin lỗi và cám ơn, rất vui vẻ và chân thành. Ví như: “Hôm nay mẹ nấu cơm khô quá. Xin lỗi cả nhà nhé”; “Xin lỗi con bé bỏng. Hôm nay mẹ cáu con thế là mẹ sai rồi. Nhưng lần sau con đừng làm thế nữa nhé...”.
Tớ sợ nhất là khi mở cửa ra thấy vợ ngồi nghiêm túc ở bàn nước chờ mình. Những lúc ấy tớ sợ vãi cả linh hồn vì biết vợ đang cáu lắm. Vợ tớ mà cáu thực sự không bao giờ cô ấy to tiếng, không bao giờ xưng hô anh với tôi. Cô ấy rất giỏi kìm chế. Cô ấy bảo: “Cả giận mất khôn. Mỗi lời nói khi mất khôn sẽ làm sứt mẻ tình vợ chồng, em chả dại...”. Vì vậy mà vợ tớ rất bình tĩnh bảo: “Anh ngồi đây, em muốn nói chuyện với anh...”, thế là cô ấy đem tội của tớ ra nói, cô ấy phân tích tác hại, cô ấy nói sự lo lắng của cô ấy... Sau mỗi lần “em muốn nói chuyện với anh” của vợ là tớ sợ hàng tháng, ngoan ngoãn hàng tháng vì biết mình đã bước đến giới hạn chịu đựng của vợ.
Tớ đẹp trai lại tốt tính nên cũng lắm cô thích, nhưng rồi họ bảo tớ là thầy tu. Mấy thằng bạn thì bảo tớ sợ vợ. Có cậu còn nghĩ vợ tớ ghê gớm lắm, hay ghen lắm nên tớ cứ nhũn như con chi chi. Quả là oan cho vợ tớ. Thực ra, với người vợ đáo để ghê gớm, chồng sợ là sợ mất thể diện, chứ chẳng phải sợ gì vợ, có khi còn ghét là đằng khác. Chả thế mà nhiều anh chán vợ, có bồ là vì thế. Dùng chiêu lạt mềm buộc chặt như vợ tớ mới là cao thủ.
Có lẽ mỗi người chúng ta nên nhiệt liệt hoan hô những anh chồng sợ vợ, bởi vì:
Sách “Cổ học Tinh hoa” kể lại rằng: Ngày kia, Đức Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ GãSiêu 45
Sách “Cổ học Tinh hoa” kể lại rằng: Ngày kia, Đức Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, thấy có một cái lọ đứng nghiêng. Ngài bèn hỏi người coi miếu. Người ấy nói rằng:
- Đó là một vật quí, nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi, hầu làm gương.
Đức Khổng Tử nói:
- Ta nghe nhà vua có một vật quí để làm gương. Vật đó bỏ không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng ngay, mà đầy quá thì lại đổ, có lẽ là vật này chăng?
Ngài bèn sai học trò đổ nước vào. Quả nhiên, đổ nước vừa, thì lọ đứng ngay, nước đổ đầy thì lọ đổ; bỏ không, thì lọ đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng:
- Hỡi ôi! Ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ!
Thầy Tăng Tử hỏi:
- Có cách gì giữ cho đầy mà chẳng đổ không?
Ngài nói:
- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn; công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung; sức khoẻ hơn đời nên giữ bằng tính nhút nhát; giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ.
Mặt trời đứng bóng rồi lại xế, mặt trăng tròn rồi lại khuyết, nhân sự cũng vậy, thăng rồi trầm, thịnh rồi suy, đó là luật tự nhiên khó mà tránh khỏi. Tuy vậy, cứ theo lời dạy của Khổng Tử, thì cũng có cách giữ được lâu dài mà không suy đổ. Cách ấy là “hữu nhược vô, thực nhược hư”, nghĩa là có mà như không, đầy đặc mà như trống rỗng.
Vừa thì đứng. Quả là thâm thuý lắm vậy thay.
VỪA THÌ ĐỦ
Câu chuyện trên làm cho gã nhớ tới cái lý thuyết trung dung của Khổng Tử. Thực vậy, ngày xưa các cậu học trò cắp sách đến trường với mơ ước trở thành cụ đồ nho, thường phải học thuộc lòng Tứ Thư và Ngũ Kinh, là những cuốn sách nòng cốt của Nho giáo. Chẳng hạn như vừa mới nhập môn, các cậu đã phải ê a:
- Nhân chi sơ, tính bản thiện.
Trước hết, Ngũ Kinh là bộ sách do một số soạn giả Trung Quốc thời cổ đại, được Khổng Tử sưu tầm và sắp xếp lại thành 5 cuốn:
- Kinh Thi gồm những bài ca dao ở thôn quê và những bài hát ở chốn triều đình.
- Kinh Thư gồm những phép tắc, kế sách, những lời khuyên răn và dạy bảo từ đời Nghiêu Thuấn đến thời Đông Chu.
- Kinh Dịch, sách lý số đưa ra lời giải thích trời đất và muôn vật, có từ trước đời Chu đến đời Hán và được ghi lại thành sách.
- Kinh Lễ gồm các lễ nghi trong gia đình, thôn xóm và triều đình.
- Kinh Xuân Thu, sách sử ký nước Lỗ, được Khổng Tử san định lại theo kiểu biên niên.
Tiếp đến là Tứ Thư với bốn cuốn:
- Đại Học dạy cái đạo của người quân tử.
- Trung Dung gồm những lời dạy bảo của Khổng Tử về cái đạo ăn ở cho đúng mực.
- Luận Ngữ ghi lại những lời Khổng Tử nói với học trò và người đương thời về nhiều vấn đề triết lý, chính trị, luận lý và học thuật.
- Mạnh Tử, sách do Mạnh Tử viết, bàn về cái thiện của con người cùng với chủ trương “dân vi quí”, lấy dân làm gốc.
Tứ Thư và Ngũ Kinh kết hợp với nhau thành một bộ sách căn bản về kinh điển và văn chương của Nho giáo.
Như trên, ta thấy Trung Dung là một trong Tứ Thư. Sách chứa đựng những lời dạy bảo của Khổng Tử do học trò truyền lại, rồi cháu ngài là Tử Tư chép lại thành sách gồm 33 chương. Theo Khổng Tử: Trung hào là tính tự nhiên của trời đất, trung dung là đức hạnh của con người. Trung là ở giữa, không lệch về bên này, cũng không nghiêng về bên kia. Còn dung là bình thường. Sống theo đạo trung phải là điều rất bình thường trong cuộc đời của con người. Đạo trung dung thì ai cũng có được, thế mà không mấy người chịu theo. Chẳng khác gì ai cũng ăn, cũng uống, nhưng rất ít người nhận ra mùi vị của đồ ăn thức uống. Chỉ những bậc thánh nhân mới theo được mà thôi.
Đối với Khổng Tử, trung dung là một cái đạo, một con đường, một triết lý sống của con người. Quan điểm này không khác với quan điểm phương Tây là mấy, bởi vì nếu gã không lầm, thì các nhà đạo đức vốn thường bảo: Virtus in medio stat. Nhân đức thường đứng ở giữa.
Những điều vừa trình bày ở trên xem ra có vẻ nặng mùi lý thuyết. Người bình dân Việt Nam đã đưa cái lý thuyết này vào cuộc sống và đã đúc kết thành những kinh nghiệm cụ thể.
Cha ông chúng ta cũng đã thường nói: Thái quá bất cập. Phàm những cái gì quá mức, cũng đều bất ổn, nhất là trong mối liên hệ với người khác:
- Già néo thì đứt dây.
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Hai bên đều thẳng, thì cùng đứt dây.
Và như vậy, gã nghiệm ra rằng vừa thì đủ. Giống như một ông bác sĩ chữa trị cho con bệnh. Liều thuốc ông đưa bệnh nhân uống phải vừa đủ. Bởi vì nếu ít quá, bệnh nhân sẽ không khỏi, còn nếu nhiều quá, vượt quá liều lượng cần thiết, bệnh nhân có thể bị ngộ độc và dẫn tới tử vong. Hay như một câu tục ngữ cũng đã bảo: Tham thực cực thân. Ăn nhiều quá thì chỉ chuốc lấy những cực khổ vào thân mà thôi.
VỪA THÌ PHẢI
Mới bước vào cuộc sống hôn nhân, gã nhận thấy nhiều chị vợ bỗng quay phắt 180 độ, thay đổi cái rụp, khiến cho anh chồng bị chới với và hụt hẫng, như lời tâm sự trong “Thư gửi vợ” sau đây:
Nhớ lúc trước em dịu dàng, xinh xắn
Có bao giờ cay đắng với anh đâu.
Giờ cưới xong, sao em cứ “mặt ngầu”?
Làm ông xã của em rầu muốn chết.
Hồi xưa ấy, nàng luôn vui như tết
Dẫu gian nan, thấm mệt vẫn mỉm cười.
Chỉ nhìn thôi, anh hạnh phúc cả người
Anh vẫn ước “tám mươi năm chạy tốt”!
Em bây giờ mới sang ba mươi mốt
Nhưng âu sầu, ủ dột quá đi thôi.
Bao nhiêu phen anh đã góp ý rồi
Nàng sửa đổi có…hai ngày, như cũ!
Em càng ngày càng giống như bà chủ
Cứ la anh đủ thứ chuyện trên đời.
Và có nhiều lý luận rất “trời ơi”
Anh nghĩ đến mà rụng rời, bải hoải.
Anh chỉ muốn vợ anh xinh tươi mãi
Như cái hồi ta mới phải lòng nhau.
Được như vậy thời hạnh phúc dạt dào
Lòng vui sướng hổng lời nào tả xiết!
Nguyễn Huỳnh an Thơ
TP. HCM
Anh chồng bỗng thấy mình bị hất ra bên rìa mái ấm, không còn là chủ gia đình nữa vì mọi quyền hành đã chui tọt vào tay chị vợ:
Có câu: “nhất vợ, nhì trời”
Ngẫm ra từng chữ, từng lời chẳng sai.
Trong nhà em thật là oai
Một lời em phán bằng hai lệnh trời.
Em giận, năn nỉ hết hơi
Phân bua cho lắm, rốt rồi…anh thua.
Ông trời mưa nắng hai mùa
Còn em mưa-nắng-nắng-mưa…bất thường.
Em “chăm” quản lý tiền lương
Hoá đơn: điện nước, em nhường cho anh.
Thương em vất vả điều hành
Thủ thành, thủ quĩ, lại giành…thủ kho.
Biết điều anh phải ráng lo
Bằng không em chẳng cho chung một mùng.
Lệnh em nếu hỏng phục tùng
Thế nào cũng có “bão bùng” nổi lên.
Chuyện nhà toàn việc không tên
Thương em, anh nghĩ chẳng nên nề hà.
Vợ ơi, vợ hỡi, vợ à!
Quyền uy như thế, đúng là nhất…em.
Lê Anh Vũ
Trong sự nghiệp “nuôi chồng khoẻ, dạy chồng ngoan”, nhiều chị vợ cũng muốn áp dụng một thứ kỷ luật sắt, đưa ra những luật lệ, giống như 9 điều dưới đây được soạn ra nhằm bảo đảm sự “công bằng” giữa vợ và chồng:
1- Luật trong nước: Nhất vợ, nhì chồng.
2- Luật ngân sách: Chồng không thể là người giữ chìa khoá kho bạc, ngay cả khi vợ vắng nhà vài ngày.
3- Luật lao động: Chồng là người cho con bú, rửa chén và giặt đồ.
4- Luật thương mại: Mọi sự mua bán đều phải trình vợ duyệt.
5- Luật doanh nghiệp: Tất cả những hợp đồng đã ký kết với vợ phải triệt để thi hành.
6- Luật kinh tế: Nhà thiếu gạo, nhưng vợ không thể không có thêm một bộ quần áo mới trong ba tháng.
7- Luật gia đình: Nghiêm cấm mọi hành vi đánh lại vợ.
8- Luật bản quyền: Tác giả của cái bầu là chồng, còn xuất bản hay không là quyền của vợ.
9- Luật cung cầu: Chồng lúc nào cũng phải bảo đảm “cung” theo yêu “cầu” của vợ.
Khi nào có bổ sung, thì vợ sẽ thông báo sau, vì vợ là người làm luật.(Thanh Ly st)
Cũng trong sự nghiệp “nuôi chồng khoẻ, dạy chồng ngoan’, nhiều chị vợ muốn chồng mình phải tốt ngay, phải giỏi ngay, mà quên mất cái kinh nghiệm quí giá, đó là “dục tốc bất đạt”, vội quá thì không đạt được như lòng mong ước.
Uốn cây thì phải từ từ. Nóng vội sẽ làm cho cây bị gẫy. Sửa lại một sai lỗi của anh chồng không phải là chuyện dễ, nhiều khi gắt quá sẽ tạo nên tác dụng ngược, khiến anh chồng càng chìm sâu vào những sai lỗi của mình. Gã xin đưa ra một vài thí dụ điển hình được Tô Diệu Hiền đề cập đến trong một bài viết trên báo Phụ Nữ Thứ Tư.
Để chữa trị bệnh lười mãn tính của chồng, chị vợ thường kết án nào là chồng ích kỷ, vô dụng, thiếu trách nhiệm. Khi đứa con có biểu hiện lười học, chị lại phán: Giống như bố mày. Nói trong nhà chưa đủ, chị còn mắng vốn nhà chồng để kiếm thêm đồng minh. Nói riết chẳng ăn thua, chị bèn nêu “gương điển hình” của ông hàng xóm, để chồng có hướng phấn đấu. Không ngờ, anh chồng không noi theo, mà lại còn sẵn sàng gây hấn với ông hàng xóm mỗi khi có dịp chạm mặt. Cuối cùng, chị đành phải thú nhận sự thất bại của mình:
- Thực ra, trước kia anh ấy cũng không đến nỗi chây lười như thế, chỉ vì tôi quá nôn nóng và không biết khuyến khích chồng. Mỗi khi anh phụ việc, tôi không khen vì cho rằng đó là trách nhiệm của anh. Tâm lý của bà vợ nào cũng muốn chồng phải giỏi ngay và giỏi hơn nữa, chứ không dừng lại ở đó, nhưng bản tính con người đã có từ bé, không thể thay đổi ngay trong một sớm một chiều.
Anh chồng khác có tật hay nhậu với bạn bè. Để “sì tốp” cái tính ham vui của chồng, chị vợ thường điện thoại nhắc chừng chồng mua đồ, rước con…Sau một thời gian được vợ “bảo ban”, anh chồng có tiến bộ, nhưng cũng chỉ cố gắng làm xong nhiệm vụ vợ giao, rồi lại đi nhậu tiếp.
Được thể, chị vợ dấn thêm bước nữa, thường xuyên “giáo dục tư tưởng” cho chồng, nhưng có lần anh chồng đã phản ứng mạnh:
- Già mồm, biết rồi mà cứ lải nhải hoài.
Chị cự nự:
- Biết kiểu gì mà không thấy sửa đội, vẫn chứng nào tật nấy. Nếu anh không tự giác bỏ nhậu, thì tôi sẽ ra tay, anh đừng có trách.
Chị vợ bắt đầu làm mặt ngầu, không nể nang với bạn nhậu của chồng. Không ngờ, anh chồng cho rằng vợ làm vậy là mất mặt, nên bỏ đi nhậu suốt đêm. Trước nay, chưa bao giờ anh làm thế.
Khi anh chồng có thói tật hoặc những lỗi lầm, thì đương nhiên chị vợ trở thành “bác sĩ gia đình”. Điều quan trọng là phải sáng suốt để quyết định liều lượng và thời gian điều trị cho đúng. Bởi vì nói nhiều thì chạm tự ái, họ sẽ không tiếp nhận. Còn nói ít hay không nói, họ sẽ không biết cần thay đổi chỗ nào và thiếu động lực để sửa chữa. Vì thế, chỉ có “vừa” là phải. Nhưng thế nào là vừa phải?
Theo các chuyên viên tâm lý, để được “đúng liều” thì phải tuỳ theo từng hoàn cảnh của gia đình và cá tính của mỗi người. Với người này là quá, nhưng với người khác có khi lại chưa đủ đô. Muốn được như vậy, chị vợ cần phải bình tĩnh, nghĩ rồi mới hành động, mới góp ý. Cố gắng nói ít, không nói vòng vo, việc nọ xọ việc kia, Mỗi lần chỉ nên đề cập đến một sự việc. Cách nói không phê phán, không ra lệnh, nhưng mang tính tin tưởng, theo tinh thần “đóng cửa bảo nhau”.
Ngoài ra, cũng cần cho chồng một thời gian thay đổi, ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Và khi anh chồng thay đổi và có tiến bộ, chị vợ phải có thái độ ghi nhận những cố gắng của chồng, cho dù sự tiến bộ có đi theo vận tốc của cụ rùa. Dồn ép quá, sẽ khiến anh chồng chán ngán rồi bỏ cuộc.
Mưa dầm thấm đất. Lạt mềm cột chắc. Xem ra cũng có lý quá đi chứ!
Thuật ghép chữ trong tiếng Việt thật là tuyệt vời, để có được một ý nghĩa đầy đủ và cụ thể. Chẳng GãSiêu 46
Thuật ghép chữ trong tiếng Việt thật là tuyệt vời, để có được một ý nghĩa đầy đủ và cụ thể. Chẳng hạn:
- Chữ học thường đi đôi với chữ hành. Đã học thì phải làm. Học mà không làm thì chẳng ích lợi gì.
- Chữ nhường thường đi đôi với chữ nhịn. Đã nhường thì phải nhịn. Nếu không nhịn thì đâu còn là nhường nữa.
- Chữ nhịn thường đi đôi với chữ nhục. Đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn răng chịu nhục.
Có khi chỉ cần đổi qua đổi lại là ý nghĩa đã khác hẳn nhau. Chẳng hạn:
- Chay lòng là sống tinh thần chay tịnh, hay giữ lòng mình cho trong sạch. Còn lòng chay là một phần lục phủ ngũ tạng, được chứa trong bụng và trong ngực các loài động vật. Bộ lòng chay thường gồm có tim và gan.
Chính trong chiều hướng đó, gã xin bàn tới hai chữ bớt ăn và ăn bớt.
Theo nghĩa đen thì ăn là một hành động nhằm nuôi sống thân mình hay thoả mãn cơn đói bằng cách đưa lương thực vào miệng, rồi nhai và nuốt. Theo nghĩa bóng thì ăn là tìm hưởng lợi lộc, tiền bạc môt cách chính đáng hay không chính đáng.
Bớt theo nghĩa đen là làm giảm đi, hay lấy ra một ít. Chẳng hạn bớt lời là nói ít lại, hay nói nhẹ hơn. Bớt lửa là giảm lửa đi, chỉ để lại một ít than hồng.
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê.
- Chồng giận thì vợ làm lành,
Cơm sôi bớt lửa, rằng anh giận gì?
Còn theo nghĩa bóng thì bớt là bòn rút của người khác về cho mình mỗi ngày một ít.
Trong khi bớt ăn là một hành động tự nguyện với chính mình, thì ăn bớt lại là một hành động lừa dối người khác để trục lợi.
Trước hết gã xin bàn đến hai chữ bớt ăn.
Hiện nay người ta đang hô hào…bớt ăn, nghĩa là ăn ít đi, giảm bớt khẩu phần của mỗi người. Có nhiều lý do giải thích cho hiện tượng này.
Thứ nhất, bớt ăn vì lý do kinh tế.
Ai trong chúng ta cũng đều biết nền kinh tế thế giới và Việt Nam nói chung, cũng như nền kinh tế của mỗi gia đình nói riêng, đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Giá cả tăng lên vùn vụt, trong khi đó lương công nhân vẫn cứ ba cọc ba đồng, thành thử phải thắt lưng buộc bụng mới mong sống sót sau cơn bão giá.
Và để thực thi “chính sách” thắt lưng buộc bụng, nhiều gia đình đã phải giảm bớt chi tiêu. Cụ thể hơn cả là cắt giảm chế độ ăn uống. Ăn cho no chứ không cần ăn cho ngon. Vì thế, bữa nào cũng như bữa nấy, thành phần chủ yếu là cơm với rau. Thịt thà cá mú bỗng trở thành một thứ xa xỉ, ngoài vùng phủ sóng của những gia đình đang gặp phải khó khăn. Các bà nội trợ thường lên thực đơn cho gia đình mình như sau:
- Nếu nhiều tiền, thì tăng thịt giảm rau, còn nếu ít tiền, thì cứ việc tăng rau giảm thịt.
Hay như một nhà thơ nào đó cũng đã viết:
- Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch.
Thứ hai, bớt ăn vì lý do thẩm mỹ.
Trái ngược với tình trạng trên, một số gia đình dư giả, có thể vì trúng mánh “áp phe”, có thể vì công việc làm ăn đang phất lên như diều gặp gió, người ta đã tiến đến chỗ ăn ngon. Cùng với việc ăn ngon, thân thể người ta cũng liên tục phát triển, tăng cân vù vù. Và tình trạng béo phì đã trở nên một cơn ác mộng, bởi vì không ai muốn mình sẽ là “một vòng tròn biết đi, một thùng phi di động”.
Chính vì thế, tại các thành phố, những trung tâm chữa béo, trừ phì mọc lên như nấm, rồi lại còn những câu lạc bộ thể dục, thể hình được quảng cáo rầm rộ, những thẩm mỹ viện với chức năng hút mỡ, căng da làm ăn phát đạt. Nơi nào cũng có những phương pháp riêng, những độc chiêu giúp nhẹ ký, giảm cân trong một thời gian thật ngắn.
Tuy nhiên phương pháp hữu hiệu nhất và ít tốn kém nhất, vẫn chính là bớt ăn. Người ta ăn ít đã đành mà còn quan tâm đến thực đơn hằng ngày: người thì bài trừ thịt và những sản phẩm làm ra từ thịt, người thì kiêng những thực phẩm liên quan đến mỡ động vật và những thứ có nhiều đường. Món ăn chính là rau, đậu, trái cây tươi, hạt khô và dầu thực vật.
Bớt ăn kiểu này không phải chỉ đem lại một thân hình “mi nhon”, mà còn tránh được những căn bệnh thời đại, như cholesterol, tiểu đường cùng với những hệ luỵ về tim mạch và huyết áp. Hay như một câu danh ngôn đã nói:
- Vòng hai mà tăng, thì vòng đời sẽ giảm. Trái lại, vòng hai mà giảm, thì vòng đời sẽ tăng.
Và như vậy, bớt ăn sẽ trở nên một phương pháp giúp người ta sống đẹp và sống khoẻ.
Sau cùng thứ ba, bớt ăn vì lý do tôn giáo.
Hầu như tôn giáo nào cũng coi việc chay tịnh là một phương thế giúp hy sinh hãm mình. Và trong việc chay tịnh thì bớt ăn là một thành phần chính yếu. Thế nhưng, bớt bao nhiêu và được ăn những gì, hay nói cách khác, nội dung của chay tịnh ra sao, thì mỗi tôn giáo lại có một chủ trương khác biệt, không giống nhau.
Thông thường khi nói đến ăn chay là người ta nghĩ ngay đến việc ăn lạt, dùng tương chao, rau đậu và không dùng cá thịt. Theo “Từ Điển Bách Khoa Việt Nam”, thì ăn chay là ăn các thức ăn không thuộc nguồn động vật, như thịt, cá…Nội dung và phương thức ăn chay thay đổi tuỳ theo tục lệ, tôn giáo, hay chế độ chữa bệnh. Có hai cách ăn chay. Một là ăn chay tuyệt đối, nghĩa là không ăn mọi thức ăn từ nguồn động vật, kể cả trứng, sữa, mật ong và các chế phẩm. Hai là ăn chay tương đối, nghĩa là chấp nhận các thức ăn từ nguồn động vật, như trứng, sữa, mật ong và những chế phẩm. Có người ăn chay suốt đời, gọi là ăn chay trường. Có người chỉ ăn chay trong một số ngày nhất định nào đó mà thôi.
Đối với người Công giáo, một năm chỉ buộc ăn chay có hai ngày, đó là thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Trong ngày ăn chay, người ta phải giảm bớt khẩu phần, chỉ được ăn một bữa no, còn hai bữa khác chỉ được ăn chút ít mà thôi. Ăn chay thường đi đôi với kiêng thịt, tức là kiêng không ăn thịt các loài động vật, nhưng được ăn cá và các chế phẩm từ động vật như bơ sữa…Như vậy việc ăn chay nơi người Công giáo xem ra có vẻ nhẹ nhàng. Vì thế, các đấng bề trên thường khuyên nhủ chúng ta dùng số tiền do việc giảm bớt phần ăn của mình, để giúp đỡ những người nghèo túng. Đồng thời còn khuyên nhủ chúng ta sống tinh thần chay tịnh bằng cách hạn chế những tiện nghi và làm chủ lấy miệng lưỡi và những giác quan của mình, không để chúng đi hoang; ngoài ra còn phải chấp nhận những hy sinh gian khổ, vì đó là cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Tiếp đến, gã xin bàn tới hai chữ ăn bớt.
Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Hầu như người người đều ăn bớt, từ những bậc làm cha làm mẹ đến những người bán hàng ngoài chợ. Hiện tượng này còn lan tràn tới mọi lãnh vực, và thậm chí ngay cả những thứ không ăn được, người ta cũng sẵn sàng bớt luôn, để bòn rút và đem lại lợi nhuận hay vui thú cho mình. Và ăn bớt cũng không khác với ăn cắp là mấy.
Trước hết là ăn bớt tiền bạc.
Đây là cái dễ ăn bớt nhất. Chẳng hạn trong gia đình, người chồng cắt xén tiền lương, ăn bớt tiền thưởng để làm quĩ đen, hầu có thể rủng rỉnh tiêu xài mỗi khi có nhu cầu cần đến. Người giúp việc ăn bớt tiền bà chủ đưa mỗi khi đi chợ!
Tại cơ quan, người ta ăn bớt tiền của nhà nước để làm giàu cho mình, theo đúng tiêu chuẩn: “Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng”. Thậm chí có những viên chức còn xơi luôn cả tiền cứu trợ đồng bào gặp phải thiên tai bão lụt. Những đồng tiền cứu trợ ấy thay vì giúp đỡ những con người bất hạnh, thì lại chạy thẳng vào túi của những viên chức có lòng tham không đáy.
Tiếp đến, là ăn bớt vật tư.
Xách giỏ ra chợ mua hàng, không ít lần chúng ta gặp phải những chiếc cân non, hay những cây thước thiếu. Mua một ký thịt, về nhà cân lại chỉ còn 800 hay 900 “gờ ram” mà thôi.
Đặc biệt là trong lãnh vực xây dựng. Nhà vừa mới xây xong đã đổ chổng vó. Đường vừa mới khánh thành đã lỗ chỗ những ổ gà, ổ vịt, ổ voi. Cầu mới thông xe đã sụp lún trầm trọng. Sở dĩ như vậy là vì khi thi công, người ta đã rút ruột công trình, ăn bớt vật tư, thậm chí có cả những cây cột bằng “xi-măng cốt tre”, thì làm sao đứng vững được với thời gian.
Gã xin ghi lại nơi đây một mẩu chuyện nho nhỏ mang tựa đề “Cứ tưởng là thiếu niên cao thủ” của tác giả Đồ Bì, đăng trên Tuổi trẻ cười, như một minh chứng cho sự kiện trên:
Một em trai 11 tuổi người dân tộc Mơ Nông ở một xã thuộc huyện miền núi Phước Sơn (Quảng Nam) cao hứng đá vào vách nhà của mình một cước. Nó làm vỡ ra một cái lỗ thủng to khoảng 2 mét vuông, gạch và hồ rơi xuống ào ào. Đã vậy, nơi em đứng lấy thế đá, nền nhà sụp xuống in 2 dấu chân nho nhỏ.
Tôi là ông già khoái nói chuyện kiếm hiệp. Nghe được thông tin trên, tôi bèn mua vé bay ngay về Quảng Nam, rồi đón xe lên Phước Sơn. Bụng tôi chắc mẫm phen này sẽ tìm ra được một cao thủ thiếu niên có đường cước pháp lăng lệ.
Thế nhưng than ôi, khi tới Phước Sơn, tôi thật sự vỡ mộng. Đúng là có một em bé trai đá sập vách nhà thật, nhưng không phải do em có sức mạnh bẩm sinh, mà là do người ta xây nhà cho cha mẹ em quá dỏm! Em bé chỉ cần đùa nghịch trong nhà, tiện chân đá một cái mới biết mình đang ở nhà…siêu dỏm.
Huyện Phước Sơn giao cho các nhà thầu xây dựng 462 căn nhà cho các hộ nghèo theo Quyết định 167 của Chính phủ. Chức năng giám sát xây dựng không biết tiến hành tới đâu, để bây chừ lòi ra nhà siêu dỏm. Ông phó ban chỉ đạo chương trình 167 huyện Phước Sơn nói một cách…trơn lu: “Không thể giám sát thường xuyên việc xây nhà cho dân, nên để xảy ra tình trạng nhiều nhà kém chất lượng”.
Hai chữ “nhiều nhà” nghe ra quá đỗi nhẹ nhàng. Trên thực tế, tất cả các căn nhà xây hỗ trợ cho dân đều kém chất lượng do các chủ thầy ăn quá nhiều vào số tiền Chính phủ lo cho dân. “Nhà” cái gì mà vừa xây xong đã lún nền, nứt vách, bong tróc hồ tô. “Đòn tay” cái gì mà toàn là gỗ non, gỗ tạp, đóng cây đinh vào đã muốn gãy. “Cửa” cái gì mà toàn là ván bìa chắp vá lại, mới lắp vào thì phía trên đã vênh qua hướng Tây, phía dưới ưỡn ngược về phía Đông.
Đất Phước Sơn gồm toàn rừng, đồi, núi. Gỗ ở Phước Sơn không thiếu. Quyết định 167 đã nói rõ “Gỗ khai thác từ rừng chỉ được sử dụng có mục đích làm nhà ở cho các hộ nghèo”. Các nhà thầu đã ăn xi-măng lẫn gỗ. Nói nào ngay, xi-măng cứng mà họ còn ăn được huống chi là gỗ mềm. Tiêu chuẩn của mỗi nhà là từ 0,8 đến 1 mét khối gỗ. Nhưng tình hình họ ăn gỗ ghê gớm đến nỗi mỗi nhà chỉ còn được 0,2 mét khối. Họ ăn ngon miệng đến nỗi ông giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam đã phải nói: “Gỗ tốt, doanh nghiệp đem đóng nhà biệt thự đâu đâu, còn gỗ bìa phế phẩm thì làm nhà cho dân. Tôi đã làm báo cáo gửi lãnh đạo tỉnh để làm rõ vụ việc”.
Sau cùng là ăn bớt thời giờ.
Trong gia đình, người ta ăn bớt thời giờ: Cha mẹ ăn bớt thời giờ dành cho con cái. Vợ chồng ăn bớt thời giờ dành cho nhau.
Có một cậu bé đã hỏi ông bố:
- Ba à, mỗi giờ ba kiếm được bao nhiêu tiền.
Ông bố trả lời:
- Mỗi giờ bố kiếm được 5 chục ngàn đồng.
Cậu bé không nói một tiếng, đập bể con heo đất, đếm hết số tiền tiết kiệm, rồi đưa cho ông bố và năn nỉ:
- Con gửi bố 350 chục ngàn đồng, để bố dành cho con mỗi ngày một tiếng đồng hồ.
Ông bố giật mình, thì ra bấy lâu nay ông đã ăn bớt thời giờ dành cho con cái.
Cũng vậy, nhiều bà vợ mong mỏi những ngày cuối tuần để gia đình được đoàn tụ và sống cho nhau. Họ cần đến một bờ vai để nương tựa. Họ cần đến những lời an ủi sau những vất vả mệt mỏi. Thế nhưng, nhiều ông chồng lại ăn bớt thời gian dành cho vợ con và những người thân yêu bằng cách rủ rê bè bạn đi đánh bạc hay đi ăn nhậu, làm cho bầu khí gia đình trở nên tẻ nhạt và vắng lặng.
Nơi công sở, người ta ăn bớt thời gian làm việc. Thay vì làm việc một cách nghiêm chỉnh, thì lại tụm năm tụm ba, tán hết mọi chuyện, từ chuyện trong nhà đến chuyện ngoài ngõ, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện biểu tình và đánh nhau ở Trung Đông đến chuyện vật giá leo thang, từ chuyện ông nọ đèo bòng bồ nhí đến chuyện cô kia sắm được chiếc váy mới. Thôi thì hầm bà lằng đủ mọi thứ chuyện.
Ngoài ra, họ còn tìm mọi mánh khoé, mọi kẽ hở để khai gian, báo cáo láo hầu biến phần nào của chung thành của riêng. Họ giống như con mọt ăn bên trong khúc gỗ, làm cho khúc gỗ chỉ còn cái dáng vẻ bên ngoài, nhưng bên trong thì đã mục, đã rỗng.
Ngay cả trong lãnh vực tôn giáo, người ta cũng vô tư ăn bớt thời gian cầu nguyện, thời gian dành cho Thiên Chúa. Chẳng hạn đi tham dự thánh lễ Chúa nhật. Họ ngồi tán hươu tán vượn với nhau nơi quán cà phê cho đến khi thánh lễ bắt đầu, thì mới ló mặt vào nhà thờ. Và khi thánh lễ chưa kết thúc, họ đã vội vã ra khỏi nhà thờ. Có thể nói được rằng họ là những chuyên viên “đi muộn về sớm”. Họ quên mất lời cảnh cáo của Chúa: Ngươi đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong trả lại bằng đấy ấy.
Lâu rồi gã có đọc được một câu chuyện về bác thợ mộc. Bác đã già nên xin chủ cho được nghỉ hưu. Ông chủ năn nỉ bác làm cho một căn nhà cuối cùng trước khi giải nghệ. Bác đành phải chất thuận.
Thay vì đem tất cả nhiệt tâm để làm căn nhà cuối cùng này, thì bác lại làm một cách bôi bác. Bác ăn bớt tiền của chủ bằng cách dùng toàn gỗ xấu, nhưng phủ lên trên một lớp sơn bóng loáng.
Ngày hoàn tất, ông chủ đến xem và không ngớt lời ca tụng bác. Cuối cùng ông chủ nói:
- Suốt một đời bác đã phục vụ ta, vì thế ta tặng lại cho bác ngôi nhà này như một món quà là, kỷ niệm.
Bác thợ mộc thực sự ân hận, nếu như bác đã dùng những vật liệu tốt thì bây giờ đỡ khổ biết bao.
Trong một bài ngắn trên báo “Tuổi trẻ cười”, Tigôn đã chia tình yêu thành hai giai đoạn: trước và GãSiêu 47
Trong một bài ngắn trên báo “Tuổi trẻ cười”, Tigôn đã chia tình yêu thành hai giai đoạn: trước và sau khi kết hôn, để rồi từ đó, tác giả đã đưa ra một vài hình ảnh so sánh về chị đàn bà cũng như về anh đàn ông. Gã xin ghi lại như sau:
Đối với chị đàn bà:
Trước thì dịu dàng đáng yêu và hiền như một con mèo nhỏ; còn sau thì vẫn là con mèo nhỏ đó nhưng có thêm tiếng gầm và bản năng của sư tử.
Trước là nàng thiên nga xinh đẹp; còn sau là cô vịt bầu xấu xí.
Trước thì thẹn thùng ít nói; còn sau thì hay cằn nhằn và lảm nhảm nói ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Trước thì ăn uống nhỏ nhẹ luôn để lại một nửa, phần vì mắc cở, phần vì giữ eo; còn sau thì thanh lý sạch sành sanh, vì bỏ thì tiếc.
Đối với anh đàn ông:
Trước thì cực kỳ ga lăng với bạn gái; còn sau thì vẫn cực kỳ ga lăng với các cô gái, ngoại trừ cô vợ.
Trước thì luôn sạch sẽ và siêng năng trước mặt bạn gái; còn sau thì lộ nguyên hình là một con ma ở dơ và lười biếng.
Trước thì chứng tỏ cho bạn gái biết mình lương cao, thưởng nhiều, thậm chí còn năn nỉ cô bạn gái “giữ giùm anh nhé cưng”; còn sau thì ép lắm mới chịu khai tiền lương, riêng khoản tiền thưởng thì đó là “bí mật quốc gia”, khi đưa tiền cho vợ thì cái bản mặt còn ủ rũ hơn thua cá độ bóng đá.
Trước thì nói rất nhiều; còn sau thì không có đất dụng võ vì phải nhường đài cho bà xã phát thanh.
Trước thì thứ bảy và chủ nhật là chuyên gia kiếm cớ để đưa nàng đi chơi; còn sau thì cũng vẫn là chuyên gia kiếm cớ nhưng để đi nhậu với bè bạn.
Thế nhưng, cũng có tác giả lại chia ra làm ba thời kỳ: trước, liền sau và lâu sau khi kết hôn, để nói về tình yêu vợ chồng:
Với những người thích màu sắc, thì trước khi cưới là một màu hồng rực rỡ, liền sau khi cưới là một màu trắng nhàn nhạt, còn lâu sau khi cưới là một màu xám ảm đạm.
Với những người thích nghiên cứu về thời tiết, thì trước khi cưới là những ngày mùa xuân nắng ấm, liền sau khi cưới là những ngày hè thu oi bức hay mưa dông, còn lâu sau khi cưới là những ngày dài mùa đông lạnh giá.
Với những người thích âm thanh, trước khi cưới anh nói thì em nghe và em nói thì anh nghe, liền sau khi cưới, anh nói thì anh nghe và em nói thì em nghe, còn lâu sau khi cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm phải nghe.
Với những người có tinh thần ăn uống, trước khi cưới thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới thì nhìn nhau mà ngáp, còn lâu sau khi cưới thì nồi niêu xoong chảo thỉnh thoảng lại bay ra ngoài sân.
Với những người vốn mang dòng máu ga lăng, trước khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía nàng và chàng sẵn sàng chịu ướt, liền sau khi cưới thì chiếc dù nằm ở chính giữa và mỗi người chịu ướt một nửa, còn lâu sau khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía chàng và nàng đành cam chịu ướt.
Từ đó, người ta đi tới một kết luận không mấy sáng sủa :
- Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm.
Thậm chí còn có kẻ còn bi quan hơn khi phát biểu :
- Trong cuộc đời anh đàn ông có hai ngày vui lớn. Ngày vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ, còn ngày vui thứ hai đó là ngày vợ chết.
Chính vì con người ta thay đổi như thời tiết nắng mưa, khiến cho tình hình diễn biến phức tạp và cuộc sống trở nên nhiêu khê và rắc rối.
Trong một bài giảng về hôn nhân, cha sở nọ đã kể lại như sau:
Có lần đi thăm gia đình, tôi được nghe một ông bố tâm sự:
- Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bồng như tụi con, khổ lắm cha ơi!
Có lần gặp gỡ các bà mẹ, tôi hỏi các bà nên khuyên nhủ các đôi tân hôn như thế nào. Một bà mẹ đã hung hăng phát biểu:
- Xin cha bảo chúng nó là đừng lấy nhau nữa. Khổ lắm. Khổ lắm.
Dĩ nhiên lời phát biểu này có phần thái quá, bởi vì cho đến ngày hôm nay bàn dân thiên hạ vẫn cứ lấy nhau rầm rầm. Không lấy nhau thì làm sao nòi giống con người tồn tại được. Tuy nhiên, câu nói ấy cũng phảng phất một chút sự thật nào đó.
Thực vậy, ngày xưa người ta thường nói:
- Tu là cõi phúc, tình là dây thung.
Gã thầm bảo đó chỉ là một câu nói bông đùa cho vui, nhưng hôm nay nghĩ lại cũng thấy cũng đúng phần nào. Đặc tính của dây thung là có thể kéo dài và thu ngắn, có thể giãn ra và co vào. Chính đặc tính co giãn này đã tạo nên những khổ đau và hạnh phúc cho cuộc sống gia đình và làm cho cuộc sống ấy trở thành một bức hoạ có những khoảng đậm và những khoảng nhạt, một bản nhạc có những nốt trầm và những nốt bổng.
Với đặc tính co giãn này, gã có thể sánh ví tình yêu như trời Saigon, chợt mưa và chợt nắng, hay như cánh chuồn chuồn, khi vui nó đậu khi buồn nó bay.
Tác giả Trần Triều trên báo “Phụ nữ thứ năm” số 120 ra ngày 29.11.2010, trong bài “Chợt ghét, chợt thương” đã đưa ra những kinh nghiệm cụ thể trong đời sống vợ chồng như sau:
Có những ngày người chồng thấy vợ cực kỳ đáng yêu, nhưng ngay hôm sau, anh ấy lại thấy “mình đúng là sai lầm khi vớ phải một bà vợ như vậy”.
Cũng không hiếm những chị vợ, mới ban ngày còn đay nghiến, còn tỏ ra thất vọng ghê gớm về chồng, thì nửa đêm lại lén thơm chồng một cái khi chồng đang ngủ và khẽ nói:
- Người đâu mà nhìn thấy dễ thương chi lạ!
Và để chứng minh cho sự thật trên, tác giả đã kể lại một trường hợp điển hình:
Chị vợ kia bức xúc nói với chồng:
- Chắc chúng ta không thể sống với nhau được nữa, cứ yên lành được vài hôm, rồi lại gây nhau.
Anh chồng trả lời tỉnh bơ:
- Có gì đâu, ai mà chả thế.
Chị vợ hét lên:
- Thật hết chịu nổi với thái độ của anh. Vợ nói không chịu tiếp thu mà sửa đổi, lại còn cãi chày cãi cối như thế. Thú thật, em mong không phải nhìn thấy mặt anh. Càng nhìn càng tức.
Thực ra, lúc bấy giờ chị vợ gặp phải chuyện rắc rối ở công ty, đang bực bội trong người, lại mệt đừ, nhưng về nhà còn phải quăng mình vào bếp chuẩn bị bàn nhậu cho nhóm bạn của chồng. Khách tan, chị kiếm cớ gây sự.
Hôm sau trên đường đi làm về, anh chồng đang nghĩ không biết phải tìm cách nào để làm hoà với chị vợ, thì bất ngờ chị vợ gọi lại với giọng phơi phới:
- Bố thằng cu thích ăn món gì tối nay, mẹ đãi.
Anh chồng không thể hiểu nổi tại sao hôm qua mới “vời vợi xa cách” như thế, mà hôm nay lại vui vẻ và đáng yêu với chồng đến vậy.
Viết đến đây gã bèn nhớ tới loài nhím. Thực vậy, nhím có nhiều loại. Loại sống ở nhiệt đới xứ nóng. Loại sống ở hàn đới xứ lạnh. Nhưng dù loại nhím nào thì cũng có một bộ lông thật cứng và thật nhọn, mà người xưa đã dùng làm tên bắn.
Ở xứ lạnh, mùa đông tuyết phủ, những con nhím phải nằm gần sát nhau cho ấm. Tuy nhiên có cái phiền là khi nằm gần sát nhau như vậy, thì bộ lông cứng và nhọn đó lại đâm vào nhau, làm cho nhau đau đớn khó chịu. Vì vậy, chúng lại giăng ra xa.
Nhưng cũng chỉ được một lúc, vì lạnh quá, chúng lại bò sát gần nhau. Dù đâm nhau, dù phải xa nhau, chúng vẫn cứ đến cùng nhau. Càng xa nhau, chúng lại càng tới gần sát nhau hơn, bởi vì chúng cần đến nhau. Phải chăng đó cũng chính là câu chuyện của những cặp vợ chồng đang sống trong bậc gia đình.
Có người lại đưa cái thực tế tình cảm vợ chồng trồi sụt ra để so sánh với lúc mới yêu. Ngày xưa thì quấn quýt bên nhau, nàng có nói gì, làm gì, thì chàng đều chiều. Hôm nào chàng cũng là “người hầu” trung thành, còn nàng là công chúa quyền uy. Bây giờ sự đời đã hoá khác. Tìm đâu ra sự yều chiều của chàng như những ngày trước được nữa. Đó là chưa kể có ngày anh chống nhìn vợ thấy “yêu không hết”, nhưng lại có ngày mới nhìn đã thấy “ngứa con mắt”. Ngược lại chị vợ cũng vậy.
Chính cái sự “tình cảm không ổn định” trong đời sống vợ chồng, khiến nhiều người không hài lòng khi nhìn lại cuộc sống hôn nhân của mình. Vậy đâu là nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng ấy và đâu là phương cách để hâm nóng lại tình yêu sau những va chạm xảy ra?
Theo Jonh Gray, một nhà tâm lý học người Mỹ, sau khi nghiên cứu về cung cách ứng xử giữa vợ chồng, đã phát hiện: Tình cảm vợ chồng không bao giờ đứng yên một chỗ, mà đàn hồi như sợi dây thung, hết co vào, rồi lại giãn ra. Tiếc là nhiều người không hiểu được chu kỳ tự nhiên này, nên lắm lúc thấy người bạn đời của mình quả là khó hiểu, đang yên lành, thì lại “giở quẻ”.
Có anh chồng lúc này “tự dưng thấy” ghét vợ, “phang” vợ không nể nang, lúc khác bỗng dưng lại thấy thương vợ, hối hận vì những gì đã đối xử với vợ. Tình trạng này giống như chiếc lò xo, giãn ra hết cỡ, sau đó thì lại co vào.
Lúc co vào chính là lúc anh chồng muốn “quay trở lại mái nhà xưa”, hay “tung cánh chim tìm về tổ ấm”, sau khi đã có những cư xử xấu, thế nhưng lại bị chị vợ giận dỗi, không chấp nhận. Anh chồng muốn đụng tay làm lành một cái, cũng bị chị vợ hắt ra. Thế là tự ái nổi lên đùng đùng và anh chồng chẳng còn cần gì nữa.
Cũng theo John Gray, nếu chu kỳ tình cảm tự nhiên của anh chồng thường xuyên bị chị vợ phá vỡ như vậy, thì những vết rạn nứt trong quan hệ sẽ xuất hiện ngày càng nhiều và có thể gây ra những hậu quả “không lường nổi”.
Để nói lên yếu tố tâm lý bên trong ảnh hưởng tới cảnh sắc bên ngoài, trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:
- Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Cũng vậy, phải chấp nhận trong tình yêu một thực tế, đó là cả vợ lẫn chồng đều chỉ cảm thấy yêu thương người bạn đời thật nhiều, khi trong lòng thoải mái vui vẻ. Còn lúc bực tức, căng thẳng, họ cau có cũng chỉ là chuyện bình thường. Cuộc sống lúc vui lúc buồn đã kéo theo cái chu kỳ tình cảm lúc thương lúc ghét là vậy.
Chẳng có cặp vợ chồng mà ngày nào cũng yêu nhau hết mình, vui vẻ với nhau trọn ngày, trọn tuần hay trọn tháng được. Phải chấp nhận sự giận dỗi, gần rồi lại như xa, xa rồi mà lại như gần bên nhau. Điều quan trọng là nếu một bên đang ở trong tình trạng “khủng hoảng tình cảm”, thì bên kia phải chịu khó nhường nhịn và nhất là đừng đổ thêm dầu vào lửa. Đồng thời khi anh chồng hay chị vợ cảm thấy khó chịu về người bạn đời của mình, thì cũng đừng làm gì quá trớn, để rồi “khi con tim đã vui trở lại”, thì người bạn đời đã “bỏ của chạy lấy người”, hoặc bị tổn thương nghiêm trọng, không thể làm hoà được.
Các cụ ta ngày xưa đã chẳng bảo:
- Mình với ta tuy hai mà một,
Ta với mình tuy một mà hai.
Có gắng hợp nhất nên một, những vẫn tôn trọng những khác biệt của nhau, đó là con đường dẫn tới hạnh phúc bền lâu.
Ngày xưa, bố mẹ gã đi tìm đất sống và rồi cắm dùi tại dinh điền Cái Sắn. Lúc bấy giờ Tổng Uỷ GãSiêu 48
Ngày xưa, bố mẹ gã đi tìm đất sống và rồi cắm dùi tại dinh điền Cái Sắn. Lúc bấy giờ Tổng Uỷ Di Cư cấp cho mỗi gia đình một nếp nhà lá, một chiếc xuồng và một con trâu. Còn mỗi người được lãnh bốn đồng nuôi ăn một ngày, cho đến khi thu hoạch lúa thóc, tự túc tự cường.
Gã còn nhớ khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, một cơn bão đã thổi qua vùng này. Gió rít lên từng cơn. Sóng nước đập vào nền nhà. Người lớn thì lo chống đỡ cho căn nhà khỏi bị sụp đổ. Con nít thì ngồi thu mình vào một góc và run lập cập.
Sau nhà là cả một cánh đồng hoang với cỏ dại và lau sậy ngập đầu, vì chưa khai khẩn hết. Mấy con rắn lớn cũng tìm đường trốn bão, bò vào nhà và cuộn tròn trên mấy cây xà, thế mà chẳng ai thèm đập cho chúng chết. Trận bão này đã để lại những hình ảnh khó quên trong đầu óc non nớt của gã.
Các nhà khoa học cho biết: Bão là một tình trạng nhiễu động của khí quyển do nhiệt độ cao tại những vùng nhiều hơi nước. Thực vậy, nhiệt độ cao sẽ làm cho hơi nước bốc mạnh lên và hình thành một tâm áp thấp. Không khí ở khu vực lân cận sẽ tràn vào và chuyển từ trên xuống dưới xung quanh tâm bão.
Ngoài ra, không khí bốc mạnh lên cao ngưng tụ thành một bức tường mây dày đặc, tạo nên những cơn mưa cực lớn và gió xoáy rất mạnh. Khi đi vào đất liền hoặc vùng biển lạnh ở các vĩ độ cao, bão mất nguồn năng lượng bổ sung, cộng thêm ảnh hưởng của lực ma sát với mặt đất nên suy yếu dần và tan đi.
Tuy nhiên, danh từ bão còn bao gồm cả những cơn dông tố, những trận cuồng phong và những hiện tượng khác hiếm gặp thấy ở Việt Nam như bão tuyết, bão cát…
Trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã sẽ điểm qua những loại bão khởi đi từ một nơi xa lắc xa lơ là mặt trời và các vì sao, cho đến những nơi thật gần gũi là gia đình và cõi lòng mỗi người chúng ta.
Trước hết là bão mặt trời. Đó là một luồng hạt điện tích được giải phóng từ vùng thượng quyển của mặt trời tạo thành những luồng gió khổng lồ. Còn khi nó được phát ra từ những ngôi sao khác với mặt trời, thì được gọi là gió sao.
Khi những điện tích này tác dụng tới trái đất, sẽ tạo thành những cơn bão từ. Theo tiến sĩ Hà Duyên Châu, chúng ta có thể hiểu một cách nôm na, bão từ là sự biến thiên rất mạnh của từ trường trái đất ở chung quanh chúng ta. Theo lý thuyết, bão từ được gây ra do các chùm plasma khổng lồ bởi các vụ nổ trên mặt trời. Các chùm này, khi đi tới trái đất, sẽ bao trùm lên trái đất và tác động với từ trường của trái đất, tạo nên dòng điện xoay quanh trái đất và gây nên bão từ. Vì sự biến đổi của từ trường rất mạnh, nên bão từ thường ảnh hưởng không nhỏ đối với những người cao huyết áp, những người mắc bệnh tim mạch và thần kinh.
Sau khi đã bàn chuyện trên trời, gã xin tiếp tục bàn chuyện dưới đất.
Khi bão xảy ra tại sa mạc, chúng ta có những trận bão cát.
Vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, Trung Quốc đã phải gánh chịu một trận bão cát khổng lồ. Trận bão cát khổng lồ này đã tấn công vào một ngôi làng ở thành phố Golmud, tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc. Khu vực này là nơi tiếp giáp với sa mạc Gobi, sa mạc lớn nhất châu Á. Khi trận bão đi qua, người dân trong khu vực chỉ còn biết trốn vào trong nhà và đóng kín tất cả mọi cánh cửa, ngăn không cho bụi vào nhà.
Cơn bão đã che đi mặt trời làm cho ban ngày trở nên tối hẳn đi, tầm nhìn xa cũng giảm xuống chỉ còn khoảng hơn 150m. Rồi sau đó ít phút, cơn bão tan, để lại một khối lượng khổng lồ cát bụi cho người dân trong làng, họ lại bắt đầu cho một cuộc tổng vệ sinh.
Những trận bão như thế không phải là hiếm tại khu vực này. Thành phố Golmud, nơi cư trú của khoảng 200.000 người, trong đó có 140.000 người sống ở trung tâm thành phố. Các khu công nghiệp liên tiếp được xây dựng tại khu vực giáp ranh với sa mạc Gobi. Tuy đây không phải là nơi thích hợp để sinh sống, nhưng hàng chục ngàn người đã di chuyển đến đây để làm việc tìm chén cơm manh áo.
Mỗi mùa xuân gió mạnh thổi qua sa mạc Gobi tạo ra các cột cát bụi khổng lồ tàn phá các khu nhà. Những cơn bão cát này có thể gây mất điện thường xuyên trên diện rộng, giao thông bị ngưng trệ và là nguyên nhân chủ yếu gây ra các bệnh về đường hô hấp cho những người dân ở đây. Những cơn bão cát này thậm chí còn có thể thổi xa tới Bắc Kinh, mỗi năm trung bình có khoảng gần một triệu tấn cát bụi bay vào tới thủ đô của Trung Quốc. Hơn 1/4 diện tích của Trung Quốc ở khu vực phía bắc bị ảnh hưởng bởi bão cát từ sa mạc Gobi.
Tuy nhiên “Bão Sa mạc” còn là một danh từ ám chỉ cuộc chiến tranh vùng Vịnh, kéo dài từ ngày 2 tháng 8 năm 1990, đến ngày 28 tháng 2 năm 1991. Đây là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia, do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait.
Nguyên nhân dẫn tới chiến tranh là việc Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq cho rằng (nhưng không chứng minh được) Kuwait đã "khoan nghiêng" giếng dầu của họ ở biên giới Iraq. Lập tức Iraq bị Liên Hiệp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1991, dẫn tới một thắng lợi hoàn toàn của các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng ở mức tối thiểu cho lực lượng đồng minh. Những trận đánh chính là những trận đánh trên không và trên bộ bên trong Iraq, Kuwait và những vùng giáp biên giới Ả Rập Saudi.
Cuộc chiến không mở rộng ra ngoài vùng biên giới Iraq, Kuwait, và Ả Rập Saudi, dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel. Cuộc chiến vùng Vịnh này được coi là dấu chấm hết cho thời kỳ chung sống hòa bình của thế giới.
Khi bão xảy ra vào mùa đông tại những vùng băng giá, thì đó là những trận bão tuyết.
Hồi năm ngoái, một trận bão tuyết dữ đội đã càn quét các bang ở vùng trung tây của nước Mỹ, khiến nhiều tuyến đường lớn bị đóng cửa, làm hơn 1.600 chuyến bay bị hủy tại Chicago và gây thủng mái của sân vận động ở bang Minnesota. Ít nhất 2 cái chết liên quan tới bão tuyết đã được thông báo khi cơn bão mang theo tuyết rơi dày lên tới gần 61cm đổ xuống nhiều khu vực tại bang Minnesota và đang di chuyển về phía đông. Cảnh báo bão tuyết đã được đưa ra tại các khu vực ở phía đông bang Iowa, đông nam bang Wisconsin, tây bắc bang Illinois và phía bắc Michigan.
Tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota, mái bơm phồng của sân vận động Metrodome bị thủng sau khi hứng tuyết rơi dày 43cm. Không ai bị thương nhưng phần mái của sân đã bị rách một đoạn khoảng 10m.Liên đoàn bóng bầu dục Quốc gia phải hoãn lại trận đấu hôm Chủ nhật giữa đội New York Giants và đội chủ nhà Minnesota Vikings trên sân Metrodome và chuyển địa điểm thi đấu trận này tới Detroit vào tối 13/12.
Thời tiết băng giá, với tuyết rơi làm tầm nhìn bị hạn chế, đã khiến giao thông đường bộ và hàng không bị gián đoạn nghiêm trọng. Tại khu vực Chicago, gió mạnh, nhiệt độ xuống thấp và tuyết rơi dày đã khiến ít nhất 1.375 chuyến bay bị hủy tại sân bay quốc tế O’Hare và hơn 300 chuyến cũng bị hủy tại sân bay Midway. Cả hai sân bay này dự kiến sẽ còn hủy và hoãn thêm nhiều chuyến nữa. Một số tuyến đường quan trọng ở vài bang đã bị đóng cửa do điều kiện lái xe không an toàn và đề phòng tai nạn.
Khi bão xảy ra trên đại dương, thi đó là bão biển. Rồi từ đại dương, bão thổi vào đất liền và để lại những tan hoang với cảnh màn trời chiếu đất cho nhiều người.
Chiều 17/10/2010, tâm bão Megi cách đảo Ludông (Philippines) khoảng 410 km về phía Đông. Theo Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương, sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão Megi đạt tới cấp 17 (202 đến 221 km một giờ), giật trên cấp 17, nên được gọi là siêu bão. Mức độ nguy hiểm của cơn bão được các đài dự báo khí tượng trên thế giới đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, do cấp độ và tính chất phức tạp của một siêu bão, hiện chưa thể đưa ra dự báo dài ngày về hướng di chuyển của Megi. Theo Đài khí tượng thủy văn Nhật Bản và Hải quân Mỹ, cơn bão sau khi vào biển Đông sẽ vòng lên phía bắc vào khu vực bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc) và Hồng Kông. Với khả năng này, ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão tới Việt Nam là không lớn. Tuy nhiên, theo dự báo của cơ quan khí tượng Hồng Kông, siêu bão này gần như giữ nguyên hướng di chuyển về phía tây. Nếu khả năng này xảy ra, cơn bão sẽ tấn công thẳng vào các tỉnh miền Trung nước ta. Đây là cơn bão mạnh nhất trong năm đổ vào Philippines và biển Đông.
Ở Việt Nam, thường có bão từ tháng 5 đến tháng 12. Bão phát sinh từ vùng Thái Bình Dương hay trong khu vực biển Đông, rồi di chuyển theo hướng tây, hay tây bắc và đổ bộ vào bờ biển nước ta. Do sự xê dịch theo mùa của đường bão di chuyển, mùa bão có xu hướng chậm dần từ bắc vào nam. Ở Bắc Bộ và Thanh Hoá, mùa bão bắt đầu từ tháng 6 cho đến hết tháng 10. Tháng 8 và tháng 9 là những tháng có nhiều bão nhất. Ở Trung Bộ, mùa bão bắt đầu từ tháng 7 và kết thúc vào tháng 10. Tháng có nhiều bão nhất là tháng 9. Vùng bờ biển Nam Trung Bộ, mùa bão nằm trong tháng 10 và tháng 11. Khả năn có bão ở khu vực này ít hơn ở các khu vực trên. Nam Bộ gần như không có bão, (khoảng 20 năm mới thấy một lần vào tháng 11 hay tháng 12. (Từ Điển Bách Khoa Việt Nam).
Dĩ nhiên, “Bão Biển” còn là t?a đề cuốn tiểu thuyết của tác giả Chu Văn, mang tính cách bài bác Công giáo, nhưng lại được đưa vào chương trình văn của mấy lớp trung học.
Tới đây,gã xin bàn đến những loại bão khác ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi gia đình cũng như mỗi cá nhân.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều ngán ngẩm, than ngắn thở dài trước cơn bão giá hiện nay. Không biết ở ngoại quốc thế nào, chứ tại Việt Nam, theo một báo cáo chính thức của Bộ Công Thương, thì trong 2 tháng đầu năm 2011, thị trường giá cả đã biến động rất lớn. Chỉ số giá các nhóm hàng thiết yếu tháng 1/2011 tăng 24,3% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 4% so với tháng trước; Chỉ số giá lương thực trong tháng 2/2011 tăng 34% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 2,2% so với tháng trước.
Nguyên giá vàng mà thôi cũng đã tăng lên vùn vụt, mỗi ngày một giá, đến chóng cả mặt, khiến nhiều người nụ cười cứ méo xệch như muốn khóc. Rồi tiền tiết kiệm ky cóp gửi ngân hàng cứ tự động bốc hơi, cứ không cánh mà bay. Mấy người buôn bán theo tính toán thì có lời, nhưng thực chất lại không có ăn, bởi vì tiền bán một món hàng công với tiền lời chút đỉnh sẽ không đủ để mua lại cũng món hàng ấy cho ngày hôm sau.
Bên cạnh đó, những diễn biến phức tạp về chi phí nguyên liệu, xăng dầu, tỷ giá ngoại tệ, giá cả nguyên vật liệu, đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh trong nước. Chi phí đầu vào, chi phí sản xuất, đời sống công nhân trở thành những vấn đề nan giải mà doanh nhân phải đối mặt và phải tìm cách tự cứu lấy mình.
Trong khi giá cả thị trường cứ liên tục leo thang, thì đồng lương của công nhân vẫn cứ dậm chân tại chỗ, vẫn cứ ba cọc ba đồng, thành thử mọi người đều phải thắt lưng buộc bụng, bữa ăn trong gia đình của thời bão giá cứ mỗi ngày một tóp lại và xuống cấp một cách thê thảm.
Bữa cơm tối được người mẹ trẻ nấu trong chưa đầy nửa tiếng đồng hồ với một đĩa đậu hũ chiên, tô mì ăn liền và đĩa rau cải bắp chấm xì dầu cho hai vợ chồng và năm đứa con.
Tại nơi cư ngụ của một gia đình công nhân: vì giá điện tăng, nên căn phòng chừng 16 mét vuông lờ mờ dưới ánh sáng đèn chữ U yếu ớt; chiếc quạt máy "trùm mền" lâu lâu có khách đến chơi mới bật cho đỡ nóng, rồi lại tắt đi để tiết kiệm điện.
Chị vợ cho biết, căn phòng được thuê với giá 750.000 đồng mỗi tháng, mới đây chủ trọ thông báo sẽ tăng thêm 50.000 đồng, riêng tiền điện, tiền nước tháng này cũng tăng mỗi món 10.000 đồng. Chị tính toán, tổng cộng các khoản chi tiêu ăn uống cho cả nhà, học phí cho con cũng hết gần 3 triệu đồng. Trong khi đó, tiền lương cơ bản của hai vợ chồng cũng chỉ hơn 3 triệu rưỡi mỗi tháng. Vợ chồng cùng với cậu con 5 tuổi ngồi quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Chị vợ phân trần:
- Thịt cá dạo này mắc quá, chỉ có đậu hũ và các loại rau thì giá cả vừa phải hơn, nên cả nhà đều phải ăn mấy món này suốt. Mặc dù lo con không đủ dinh dưỡng, nhưng thời buổi khó khăn, phải chi ly tính toán lắm mới được.
Chị vợ còn nói tiếp:
- Cả mì gói gần đây cũng tăng giá, lên thêm ít nhất 500 đồng nữa.
Một gia đình khác gần đó cũng đang dùng cơm tối với vài con cá khô chiên mặn và đĩa rau muống luộc. Hai vợ chồng đang bàn nhau kế hoạch hạn chế chi tiêu thời buổi khó khăn thì chủ trọ đến báo tiền phòng tháng tới sẽ tăng thêm 100.000 đồng, giá điện nước cũng lên theo giá nhà nước. Cả hai cứ ngồi thở dài mãi:
- Phải tằn tiện hơn nữa mới đủ sống!
Đó là những bữa ăn khiêm tốn trong thời buổi bão giá hiện nay. Thế nhưng, có một anh chồng đã tương kế tựu kế, tuyên bố vung vít với các chiến hữu của mình như sau:
- Bão giá rất có lợi, vì nó đem lại hoà bình cho gia đình của tớ đấy.
Mọi người đều tròn mắt ngạc nhiên. Và anh ta đã thành thực chia sẻ kinh nghiệm sống:
- Này nhé, tớ đi nhậu về hơi bị muộn, thấy khuôn mặt hầm hầm của bà xã, tớ vội hỏi: Gạo nhà mình hình như sắp hết. Thế là vợ tớ bèn ca vọng cổ sáu câu có mùi: Giá gạo tăng thêm mấy ngàn đồng một ký. Mọi năm trước tết giá lên, sau tết giá xuống, còn năm nay sau tết giá vẫn liên tục lên. Khi xưa đi chợ chỉ cần 7 chục ngàn là đủ cho cả nhà một ngày, bây giờ 100 ngàn mà vẫn cứ thiếu…Và thế là tớ thoát nạn.
Lần khác, tớ quên mất không làm việc bà xã nhờ, về nhà nhìn cặp mắt hình viên đạn của bà, tớ vội hỏi: Hình như giá gas tăng lên thì phải? Thế là vợ tớ gật đầu: loại 13,5 ký nhà mình tăng thêm 50 ngàn nữa. Rồi vợ tớ thở dài: chậc chậc, như tiếng thạch sùng kêu trên trần. Và thế là tớ lại thoát nạn.
Miết rồi thành lệ, nên từ đó về sau, cứ mỗi lần vợ tớ định gây chiến, thì tớ lại tìm một đề tài về sự tăng giá. Và thế là trật tự được tái lập và hoà bình trở lại dưới mái nhà êm ấm của tớ.
Nếu coi cuồng phong và dông tố cũng là một thứ bão, thì thứ bão loại này vốn thường xảy ra cho các cặp vợ chồng. Thực vậy, đã từ lâu gã thắc mắc không hiểu vì sao người ta lại lấy tên đờn bà con gái mà đặt cho các trận bão. Đi hỏi những bậc cao niên nhiều kinh nghiệm, thì các vị đều mỉm cười trả lời:
- Sao bố mày ngây thơ thế. Mỗi khi các nàng nổi cơn ghen hay lên cơn giận, thì chẳng khác gì bão táp, dông tố, cuồng phong. Hậu quả khó mà lường nổi.
Gã lấy làm đắc ý, bèn gật đầu:
- À thì ra.
Khi gặp phải những tình huống như vậy, những anh chồng khôn hồn hãy tìm nơi ẩn nấp an toàn, không thì toạc đầu, xẻ tai và rồi đổ vỡ khó mà hàn gắn.
Sau cùng là những cơn bão lòng. Theo “Việt Nam Tữ điển” của Lê Văn Đức, thì bão lòng xảy ra khi ta gặp phải những khó khăn chồng chất, mà không tìm được phương cách giải quyết thoả đáng, khiến ta băn khoăn, lo lắng trong lòng.
Trong trường hợp này, theo gã nghĩ, ta nên tìm một người bạn thân để giãi bày tâm sự, cùng nhau gỡ rối những mối tơ lòng thòng, bởi vì như người xưa đã từng bảo:
- Việc người thì sáng, còn việc mình thì quáng.
- Hai cái đầu bao giờ cũng hơn một cái đầu.
Khi ta giãi bày tâm sự với người bạn thân, thì nỗi băn khoăn lo lắng sẽ vơi giảm được một nửa. Đồng thời những ý kiến đóng góp của người bạn sẽ đem lại cho ta một cái nhìn khách quan và sáng suốt, đồng thời giúp ta tìm được những phương thức giải quyết vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Nếu gã nhớ không lầm, thì trước ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại Chủng Viện Thánh GãSiêu 49
Nếu gã nhớ không lầm, thì trước ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Saigon các thầy phó tế, hay nói nôm na là các cụ sáu, được lãnh nhận chức vụ linh mục vào cuối tháng tư, trước khi ra trường; còn tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đàlạt, thì vào tháng mười hai, trước lễ Giáng Sinh. Thành thử trong năm có những đợt truyền chức, được gọi là những mùa hồng ân,
Vào những mùa và những đợt này, bàn dân thiên hạ lại được nghe trình bày về linh mục. Các vị giảng thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng vẻ cao đẹp tuyệt vời của thiên chức ấy. Chẳng hạn linh mục là trung gian giữa trời và đất, là gạch nối giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nghe cứ như rót vào tai.
Có vị trích dẫn mẩu đối thoại hình, hình như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để biện minh cho những lời ca tụng của mình. Thánh nhân phát biểu như sau :
- Nếu một ngày nào đó, tôi gặp một thiên thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi sẽ cúi đầu chào linh mục trước, bởi vì linh mục đã đem Chúa đến cho tôi, còn thiên thần thì…không.
Có vị còn xác quyết mạnh mẽ hơn thế nữa, khi nói :
- Mẹ Maria chỉ sinh Chúa có một lần, còn linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi ngày!
Chỉ sợ rằng các cha mới cứ được nghe miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim dim ngủ trên những hào quang của mình. Cứ ngỡ mình là ông Bụt cao sang, mà quên mất thân phận hòn đất thấp kém, bởi vì từ hòn đất, các ngài đã được cất nên ông Bụt.
Có một anh bạn là linh mục, ngày kia đã tâm sự với gã như thế này :
- Hồi còn bé, mình thích đi tu lắm, ông có biết tại sao không ? Này nhé, đi tu làm cha thì được ở nhà tây, được mang giày tây, được ăn bánh tây. Ra ngoài đường, bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu đều khoanh tay cúi đầu chào : Con xin phép lạy cha ạ. Lạy cha mà còn cần phải xin phép nữa, thì quả là hết ý. Hồi ấy, mình cũng giống như anh em ông Giacôbê và Gioan, mang nặng đầu óc xôi thịt, theo Chúa với mục đích vinh thân phì gia, mong được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, có nghĩa là tìm lấy cho mình ghế nọ ghế kia, chức này chức khác. Tóm lại là được làm lớn trong vương quốc của Ngài. Thế rồi những tháng năm dài ở chủng viện đã dần dần thanh luyện cái ý hướng của mình, nhờ đó mình không còn mang ảo tưởng nữa. Chức linh mục là để phục vụ Chúa và người khác, chứ không phải là để phục vụ cho bản thân. Và đời linh mục chẳng phải là một xa lộ an toàn, nhưng cũng chất đầy những chông gai và sỏi đá…
Cũng vị linh mục này, trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền mẫu góp ý…nhẹ nhàng như sau :
- Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm cha ơi.
Có bà còn mạnh miệng phán một cách rất quyết liệt và quá khích :
- Khi gặp gỡ và trao đổi với những đôi hôn nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy nhau nữa, khổ lắm cha ơi.
Nghe vậy, gã bèn hỏi :
- Vậy cha đã giải tỏa cho họ như thế nào ?
Ngài trả lời :
- Mình cũng chỉ biết nhún vai, nhếch mép…mần duyên mà nói với họ rằng : Có ở trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom đóm mắt và toát mồ hôi hột ra không ?
Đúng thế, bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục và tu sĩ.
Vì thế, hôm nay gã xin hầu chuyện về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các linh mục, đặc biệt các cụ xứ, các cha sở bên ta, tức là bên Việt Nam. Hy vọng có người nào đó sẽ viết tiếp về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha sở bên tây.
Nhìn thoáng qua con người và cuộc đời, gã thấy linh mục được phủ đầy hào quang, thậm chí có kẻ xấu bụng còn liệt các ngài vào hàng :
- Ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng.
- Muốn nói ngoa, thì làm cha mà nói.
Hằng ngày chẳng phải bon chen, bươn chải hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo tiền. Rồi lại còn được bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy vậy ai mà chẳng ham.
Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn một chút, thì con người và cuộc đời linh mục cũng không thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên tấm bi kịch của thân phận linh mục, theo gã nghĩ, đó chính là những mâu thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh do bản chất, do căn tính của linh mục.
Trước hết là những mâu thuẫn từ bên ngoài.
Ngày xưa việc huấn luyện và đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở tiểu chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các chú còn được học một chương trình giống như các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc mãn tràng, hết lớp đệ nhất hay lớp mười hai.
Giai đoạn thứ hai ở đại chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu trên trời.
Sau khi lãnh nhận chức linh mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm và bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với những việc cụ thể dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo đức được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít, cũng đã thấm được phần nào vào con người linh mục. Nhưng rồi những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm cho cái chất đạo đức ấy bị phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ được học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng dạy lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu trên trời, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời thường, để rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra cái chất sống ấy ?
Là người luôn đứng trên bục mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại trở thành kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là không còn được dạy bảo, như lời một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa mới được thụ phong linh mục như sau :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ xứ không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ không còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những thành công gặt hái được và những trọng kính người ta dành cho mình, cụ xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt bỏ thẳng thừng những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực đoan, độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho mình dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được, hay nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà việc nào xem ra cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ, bởi vì ngài là…thầy cả cơ mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà. Thế nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình :
- Cha xây, rồi cha lại cất. Xây nhiều thì cất cũng nhiều.
Trái lại, nếu không xây, thiên hạ bảo cha cù lần :
- Bao nhiêu năm cha ở với chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha chẳng lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi.
Rất lơ mơ về nghề xây dựng, nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến độ quỷ thần cũng không lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay đào ao thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào những ngành nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang nặng tính cách khoa học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao đời sống.
Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì cha sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách khác :
- Đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày mà thôi.
Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao để dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập.
Trong một bài báo với tựa đề : “Làm cụ xứ thời nay dễ hay khó ?”, một tác giả đã đưa ra những nhận xét của mình như sau :
“Nếu cha giảng lâu quá mười phút – Cha lại nói thao thao bất tuyệt !
Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về Thiên Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây trên gió !
Nếu cha đề cập hơi nhiều đến các vấn đề xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả rồi !
Nếu cha chỉ cư ngụ trong khuôn viên Giáo Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với thế gian !
Nếu cha cứ cả ngày ở trong Nhà Chung – Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai cả !
Nếu cha thường xuyên đi thăm người này người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà Xứ !
Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và chứng Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là cha đã bán tống bán tháo các Bí Tích !
Nếu cha đòi hỏi cao hơn và nhiều hơn – Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những người trọn hảo !
Nếu cha thành công với thiếu nhi – Đạo của cha là đạo ấu trĩ !
Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân – Cha chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề của thời đại !
Nếu cha sửa sang Nhà Thờ – Cha lại ném tiền qua cửa sổ mất rồi !
Nếu cha không tu bổ gì – Cha đã bỏ bê mọi sự !
Nếu cha cộng tác chặt chẽ với Hội Đồng Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ mũi cha rồi !
Nếu cha không lập Hội Đồng Giáo Xứ – Cha độc tài quá đi mất !
Nếu cha hay mỉm cười – Cha quá dễ dãi !
Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một chuyện gì đó nên cha không nhìn thấy một người nào đó – Cha khinh người vừa vừa chứ !
Nếu cha hay bực bội vì một sai sót nào đó của người khác – Cha thiếu sự độ lượng nhân từ rồi đấy !
Nếu cha hiền hòa nhẫn nhục – Cha thiếu nghị lực quả quyết !
Nếu cha còn trẻ – Đúng là cha còn thiếu kinh nghiệm trường đời !
Nếu cha đã có tuổi – Xin mời cha nghỉ hưu đi là vừa !
Vậy thì, kính thưa cha sở, xin cha cứ can đảm lên nhé !”
Qua những cuộc tiếp xúc, gã cũng nhận thấy tương tự như vậy : một cha sở, nếu vui tính thì bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh và ít đi lại thì bị khép vào hạng người kiêu kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả…
Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói :
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ xứ phải là người khôn ngoan như Salomon, bằng không thì sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salomon chăng nữa, biết đâu lại chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và rắc rối quá đi thôi!
Sau khi đã rảo qua một vài mâu thuẫn từ bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh bởi bản chất hay căn tính của linh mục.
Thứ nhất, con người linh mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Thế nhưng, kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Ngày xưa, gã có quen một anh bạn bổn đạo mới, tên là Minh. Trong chỗ bạn bè thân mật với nhau, chúng tôi thường gọi anh là…”Minh Tốc”. Chắc hẳn anh đã được nghe thuyết giảng nhiều về sự cao cả của thiên chức linh mục, nên luôn xác tín rằng : Linh mục là người không thể nào sa ngã bởi vì luôn được Chúa yêu thương, nâng đỡ và chở che. Chúng tôi có cắt nghĩa thế nào chăng nữa, anh cũng không chấp nhận. Chúng tôi có đưa ra những bằng chứng cụ thể, chẳng hạn linh mục này đã sa ngã, linh mục kia cởi bỏ chiếc áo chùng thâm để trở về làm…phó giáo dân ngoài đời, anh cũng chẳng chịu nghe. Lập trường của anh trước sau như một :
- Linh mục là người thánh, không thể nào phạm tội!!!
Là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Vừa nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải nắm chặt lấy bàn tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của con người. Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ dàng chút nào.
Vì thế, trong khi thi hành bổn phận, cụ xứ càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng phải siêu thoát đối với đời bấy nhiêu, chứ không được quyến luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc đời chỉ là quán trọ trong hành trình tiến về Nước Trời vì chỉ Nước Trời mới là quê hương đích thực mà thôi. Hay như người ta thường bảo :
- Thân xác là bụi tro, danh vọng là mây khói và tiền bạc là phân bón.
Ý thức mình chỉ là một con người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện chính trị, những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự, thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức mạnh của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết :
- Chính lúc tôi yếu lại là lúc tôi mạnh.
Những kẻ muốn tẩy trừ Giáo hội ra khỏi thế giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với biết bao nhiêu quyền lực và sức mạnh, họ cũng vẫn không thể nào đè bẹp nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị sụp đổ.
Linh mục không phải chỉ là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con người vừa được yêu lại vừa bị ghét.
Như trên, chúng ta đã thấy người giáo dân Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu thương và trọng kính. Trong khi đó, linh mục cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức Kitô, cụ xứ trở nên bia cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý khi thốt lên :
- Phải bị ghét bỏ mới chính là linh mục đích thực của Đức Kitô.
Linh mục bị những kẻ thù của Giáo hội hạ nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là chuyện…thường ngày ở huyện. Thế nhưng, linh mục còn bị chính con cái mình, những kẻ được ngài dẫn dắt, quay lưng chống lại và phản bội.
Bằng chứng là những đơn kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng và nổi cộm. Thậm chí, có linh mục đã phải ngậm đắng nuốt cay mà than thở cả tiếng, khi đời mình đã ngả bóng về chiều :
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Sau cùng, trong khi thi hành chức vụ, linh mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một loại mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi.
Đúng thế, đôi khi cụ xứ cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là của riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những công việc đem lại lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách : có cũng như không.
Đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, cụ xứ cũng như linh mục phải có một trái tim rộng mở để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách đến những người nghèo túng khố rách áo ôm.
Tình yêu của ngài phải là một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách. Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng lại không được phép đóng lại trên ai cả. Ngài chẳng phải là của riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.
Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình : buổi chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui làm sao. Tiếp nối là giờ sinh hoạt của giới thiếu nhi : những tiếng hát hồn nhiên và những nụ cười ngây thơ của lứa tuổi thiên thần mới rộn rã làm sao…Nhưng rồi sau đó, mọi người ra về và cánh cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi và âm thầm bước vào căn phòng nhỏ hẹp của mình. Có nói thì cũng chỉ nói với chính mình. Có nhìn thì cũng chỉ nhìn hình bóng mình in trên tường vách. May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã cứu ngài một bàn thua trông thấy, bằng không thì chỉ còn nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!!!
Để kết luận, gã xin ghi lại ý kiến sau đây của cha Chevrier. Ngài nói :
- Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.
Người ta ngạc nhiên bèn hỏi :
- Ngôi thánh đường nào vậy ?
Ngài nói tiếp :
- Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Sở dĩ như vậy vì đời sống đạo đức của người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh thiện của các linh mục và các…cụ xứ!!!
Ngày xửa ngày xưa, hồi còn bé tẹo bé teo, gã đã được thày giáo trường làng dạy cho biết: - Thân GãSiêu 50
Ngày xửa ngày xưa, hồi còn bé tẹo bé teo, gã đã được thày giáo trường làng dạy cho biết :
- Thân thể con người ta được chia làm ba phần : đầu, mình và tay chân.
Tất cả ba phần này đều được bảo vệ kỹ càng để chống lại với những khắc nghiệt của thời tiết. Chẳng hạn để bảo vệ cái đầu, người ta đã sáng chế ra biết bao nhiêu thứ ô dù, mũ mão. Chẳng hạn để bảo vệ cái mình, người ta đã tung ra thị trường biết bao nhiêu thứ áo quần. Chẳng hạn để bảo vệ tay chân, người ta đã bày bán biết bao nhiêu thứ giày dép, găng vớ…
Thế nhưng, người là một con vật có trí khôn, là một cây sậy biết suy tư. Chính nhờ những suy tư của trí khôn mà con người không ngừng cải tiến và phát triển trên mọi lãnh vực, chẳng hạn từ chỗ ăn cho no đến chỗ ăn cho ngon, từ chỗ mặc cho ấm đến chỗ mặc cho đẹp…Chính vì lẽ ấy mà các thứ mẫu mã thời trang thi nhau chào đời như nấm mọc ào ào sau cơn mưa.
Hơn thế nữa, trên mỗi phần của thân thể lại có những bộ phận khác nhau và mỗi bộ phận cũng đều có nhu cầu cần được bảo vệ và làm đẹp. Chẳng hạn trên cái đầu thì có tóc, tai, mắt, mũi, môi…
Về cái tóc, chúng ta thấy các thứ kiểu cọ từ đầu trọc, đầu húi cua ba phân đều đến đầu bù xù và các thứ đầu quái đản khác. Nhất là đối với quí bà quí cô, thì các kiểu tóc, các màu tóc lại còn thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Về cái tai, chúng tha thấy lủng lẳng các thứ vòng to vòng nhỏ, hình nọ hình kia, thậm chí đến cả cây thập giá cũng đã được treo toòng teng lúc lắc trên những đôi tai mỹ miều và dễ thương. Đúng thực “cái tai cái tóc là góc người”.
Ngày nay, đối với dân chơi, không phải chỉ đờn bà con gái mới xỏ, mà đờn ông con giai cũng xỏ. Không phải chỉ xỏ lỗ tai, mà còn xỏ cả lỗ mũi, lỗ rốn cũng như xỏ cả cái lưỡi của mình nữa, mà đôi khi gã được rùng mình chiêm ngưỡng trên phim ảnh.
Về cái mắt, chúng ta thấy nào là cạo hàng lông mày có từ lúc cha sinh mẹ đẻ để tô vẽ lên đó theo đúng ý của mình, “lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”. Hay xâm lên đó để có hàng “lông mày vĩnh cửu”, từ nay khỏi mất công mất giờ điểm trang, vì “thời giờ vốn dĩ là vàng bạc”. Còn lông mi ấy hả, nào là cấy thêm cho nó dày đặc. Còn ví như không có tiền đi mỹ viện để cấy thêm, thì sẽ phải chịu khó đeo lông mi giả, để mỗi khi đôi mắt chơm chớp, sẽ tăng thêm phần đơn sơ “con nai vàng ngơ ngác”.
Về cái môi, cái miệng, cái cằm…người ta cũng rất chịu khó thẻo bớt chỗ này, vá thêm chỗ kia để được hoàn toàn như ý. Nguyên son tô môi mà thôi cũng có biết bao nhiêu thứ với biết bao nhiêu “tông” màu khác nhau, từ tái nhợt như miếng thịt trâu ươn cho đến đỏ chói như máu gà trống…
Bàn về những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh ấy, chả biết đến bao giờ mới hết. Hôm nay gã chỉ xin nói về những thứ được dùng để bảo vệ cho cái đầu mà thôi.
Tất cả những thứ được đội để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu đều được gọi là mũ hay nón. Tuy nhiên, đâu là điểm phân biệt giữa mũ và nón, thì gã xin chịu, chưa thể đưa ra lời giải đáp thỏa đáng. Rất có thể vì thói quen, người ta gọi cái này là mũ, còn cái kia là nón. Hay do thiết kế mẫu mã của nó, chẳng hạn nón thì thường to hơn mũ.
Người Việt Nam chúng ta có một loại nón đặc biệt, đó là chiếc nón lá. Chiếc nón lá được trang điểm thêm thành chiếc nón bài thơ cho các cô gái Huế và chiếc nón quai thao cho các cô gái Bắc Ninh hát hò quan họ. Chiếc nón lá được các cô gái Việt Nam đội trên đầu, đi theo với chiếc áo dài hay áo bà ba thì quả là tuyệt vời. Những lúc cần tỏ ra e ấp thẹn thùng thì chỉ cần lấy chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt là…ăn tiền.
- Trời mưa thì mặc trời mưa,
Tôi không có nón, trời chừa tôi ra.
Tuy nhiên, có một loại nón gã rất thích, đó là chiếc nón sắt của mấy anh lính. Chiếc nón này thật đa dụng. Có thể dùng làm ghế để ngồi, có thể dùng làm thùng để múc nước, có thể dùng làm nồi để nấu cơm và nhất là có thể dùng làm cối để giã cua, vừa nhẹ lại vừa gọn. Đứa con nít bị mẹ bảo giã cua, giã xong lại còn phải mang cối đi cọ rửa. Sức con nít làm sao có thể bưng nổi cái cối đá, không khéo nó rớt vào chân thì thật…rách việc.
Trở lại với chủ đề chiếc mũ. Trải qua dòng thời gian chiếc mũ cũng được biến đổi tùy theo vật liệu, tùy theo hình dáng và tùy theo chức vụ…
Chẳng hạn về vật liệu, chúng ta thấy mũ dạ là loại mũ làm bằng len để đội cho ấm khi mùa đông trở về, mũ rơm là cái vòng bện bằng rơm có quấn vải trắng để con trai và cháu nội người chết đội mà chịu tang, như ca dao đã diễn tả :
- Một mai bóng xế cội tùng,
Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
Chẳng hạn về hình dáng, chúng ta thấy mũ nồi hay mũ bê rê là loại mũ tròn giống như cái nồi úp lên đầu, mũ trái bí là loại mũ có khía giống như trái bí, mũ lưỡi trai là loại mũ có vành giống như con sò, con hến, con trai để che mắt cho bớt nắng, mũ chào mào là loại mũ giống như đầu con chim chào mào…
Chẳng hạn về chức vụ, chúng ta thấy mũ cử nhân hay mũ tiến sĩ là loại mũ hình vuông, có tua phủ xuống, mà những người thi đỗ thường đội khi lãnh nhận văn bằng. Trong ngày tốt nghiệp, những cô cậu hay ông bà cử nhân và tiến sĩ đều đi thuê áo mão để chụp cho mình những bức hình làm kỷ niệm lúc ra trường với bè bạn và những người thân yêu. Đây quả thực là một dịp tốt để các bác phó nhòm…hốt bạc.
Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta thấy bên Phật giáo có mũ ni là loại mũ dành cho các vị sư sãi :
- Nào mũ ni, nào áo thâm,
Đi đâu chẳng đội, để ong châm.
Bên Công giáo có mũ gàu hay mũ cà cuống là loại mũ dành cho các giám mục khi cử hành thánh lễ “đại trào”. Ngoài ra, ngày xưa còn có thêm mũ ba khía là loại mũ vuông, phía trên có ba cái khía, chẳng biết có phải là để kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi hay không ? Mũ này vốn được các linh mục đội khi cử hành thánh lễ.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam, nhà nước đã qui định đòi buộc tất cả những người cưỡi xe máy, phóng phom phom trên đường, phải đội mũ an toàn. Đây cũng là một dịp hốt bạc cho những tay chế tạo mũ giả cũng như cho các tay lái buôn. Có những lúc chiếc mũ an toàn lên cơn sốt vì giá cả tăng vùn vụt. Nhưng rồi ba bảy hai mươi mốt ngày, qui định trên lại chìm vào quên lãng, như hòn đá chìm xuống đáy hồ. Ai đội thì cứ đội, ai không đội thì vẫn không đội. Công an cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ, mặc dù dọc theo bên đường, không thiếu những tấm bảng ghi :
- Đoạn đường buộc phải đội mũ an toàn.
Vô phúc cho những ai không đội mũ an toàn vào những ngày nhà nước phát động chiến dịch, hay vào những ngày anh công an cảnh sát buồn tình và ngứa tay muốn biên phạt mà chớ.
Trong ngôn ngữ hằng ngày, người ta cũng thường dùng chữ mão và chữ miện để chỉ về mũ.
Chẳng hạn mão bình thiên là loại mũ phía trên thẳng được nhà vua đội khi cúng tế, mão cánh chuồn là loại mũ có hai tai dài như cánh con chuồn chuồn được các quan văn đội, mão tì lư là loại mũ dành cho các vị hòa thượng.
Còn miện được dùng để chỉ chung các loại mũ được đội trong những lúc hành lễ, như gia miện, quan miện, triều miện…Riêng hai chữ vương miện, gã không biết có phải là loại mũ của nhà vua hay không, nhưng ngày nay nó là một món đồ trang sức được cài lên đầu cô hoa hậu trong những cuộc thi sắc đẹp.
Thực vậy, để đoạt được cái vương miện, các cô gái đã phải trải qua nhiều phen sất bất xang bang, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trong những cuộc thi sắc đẹp ngày nay trên cả và thế giới, người ta không phải chỉ chú trọng đến ngoại hình, mà còn chú trọng cả đến kiến thức và cách ứng xử nữa. Thành thử, mặc dù có điểm cao với trang phục áo tắm, hay có những vòng số một, số hai và số ba thật lý tưởng, thì cũng chưa ăn chắc cho lắm, bởi vì còn phải trả lời những câu hỏi ấm ớ hội tề của ban giam khảo, để trắc nghiệm về kiến thức và cách ứng xử.
Cũng trong phần thi trắc nghiệm này mà nhiều chuyện vừa buồn lại vừa cười khiến vãi cả nước mắt đã xảy ra trong các cuộc thi sắc đẹp tại Việt Nam, bởi vì có những câu trả lời thật ngây ngô ngốc nghếc không thể chấp nhận được của những người vốn đã đẹp.
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Trưng Trắc, Trưng Nhị là ai ?
Thí sinh đã trả lời :
- Đó là hai tài tử ăn khách của Hồng Kông !!!
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Nếu đạt danh hiệu hoa hậu, em sẽ làm gì ?
Đây là một câu hỏi mà hầu như các “lò luyện thi hoa hậu” nào cũng đều cài đặt sẵn cho những con gà của mình. Vì thế, khi được hỏi, thì hầu như các thí sinh đều có một câu trả lời giống hệt nhau :
- Em sẽ dành một số tiền để giúp đỡ những nạn nhân chất độc màu da cam. Rồi sau đó, em sẽ hiến đời mình để phục vụ những con người bất hạnh…
Và thực tế đã cho thấy nói vậy mà không phải vậy đâu, hay nói để mà nói, còn làm lại là chuyện khác. Ta cứ nói vung nói vít để ăn điểm của ban giám khảo cái đã, rồi mọi sự sau đó sẽ…hạ hồi phân giải. Bởi vì trong đời thường không thiếu gì những cô hoa hậu, những cô người mẫu lợi dụng sắc đẹp và tên tuổi của mình để làm những việc não lòng như đi buôn lậu, hay đi làm…gái gọi !!!
Xét về lợi ích, như đã trình bày ở trên, chiếc mũ được dùng để bảo vệ cho cái đầu, nó giúp chúng ta che nắng che mưa…Đồng thời còn được dùng để làm đẹp nữa, vì thế đã có biết bao nhiêu kiểu cọ và mẫu mã xuất hiện, nhất là những thứ mũ được dành cho đờn bà con gái. Có chiếc mũ được hình thành như một một bông hoa, có chiếc mũ được hình thành như một tổ quạ, có chiếc mũ được hình thành như một cái đuôi con công…Thôi thì thiên hình vạn trạng làm sao kể ra cho xiết !!!
Ngoài ra, chúng ta còn có thể ghi nhận được những lợi ích khác nữa của chiếc mũ, tùy theo quan niệm của từng dân tộc.
Chẳng hạn người Việt Nam chúng ta thường bảo :
- Mũ ni che tai.
Chiếc mũ ni dành cho các vị sư sãi, thường được đan bằng len, nếu kéo xuống có thể phủ kín cả đôi tai, để rồi chẳng còn nghe thấy gì nữa. Cử chỉ này muốn nói lên thái độ “phớt tỉnh ăng lê”, an phận thủ thừa trước những đổi thay và thăng trầm của cuộc sống. Ta chui vào cái vỏ ốc của ta. Ta ngủ yên trong tháp ngà của ta :
- Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời lên xuống anh hỏi làm chi cho mệt.
Chảng hạn đối với người Pháp, trong một cuốn tự điển thành ngữ, gã đọc được hai câu xin ghi lại đây để cùng suy nghĩ xem đúng hay sai.
Câu thứ nhất :
- Ngồi trên ngai và đội mũ, người ta sẽ tỏ lộ được nhiều tác phong của mình.
Theo ngu ý của gã thì câu này ý muốn nói lên rằng hoàn cảnh bên ngoài cũng giúp chúng ta thể hiện được phần nào con người của mình.
Câu thứ hai :
- Người ta sẽ đi xa với chiếc mũ cầm trên tay hơn là với chiếc mũ đội trên đầu.
Cũng theo ngu ý của gã, thì với phép lịch sự, người ta sẽ chiếm được nhiều cảm tình của những người chung quanh.
Chả hiểu có đúng như vậy không ?
Sau khi đã xét về lợi ích của chiếc mũ, bây giờ gã xin nói đến việc người ta đã dùng chiếc mũ như thế nào ?
Vì chiếc mũ là một đồ dùng để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu, nên mỗi khi ra đường người ta vốn thường đội mũ. Đây là một hành động tự ý. Do đó, người ta cũng có nhiều cách đội mũ.
Có người thích đội mũ thật ngay thật thẳng. Có người thích đội mũ lệch sang một bên. Và thậm chí có người thích đội mũ ngược, đằng trước lộn ra đằng sau. Chẳng hạn như chiếc mũ lưỡi trai, bình thường cái lưỡi trai ở phía trước để che bớt cho cặp mắt, nhưng bây giờ người ta lại thích đội ngược, nghĩa là cho cái lưỡi trai về phía đằng sau để bảo vệ cái ót, cái gáy của mình. Đội ngược như vậy đôi khi cũng lợi, nhất là khi cần phải cầm máy để chụp hình…
Vì chiếc mũ có liên quan tới địa vị và chức tước, nên người ta rất lấy làm vinh dự khi lãnh nhận nó cùng với những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa. Chẳng hạn khi được bổ nhiệm làm quan, hẳn đương sự sẽ vô cùng hãnh diện khi lãnh nhận “áo mão” vua ban. Chẳng hạn khi được tấn phong làm “vít vồ” tức là làm giám mục, bậc đáng kính nom cũng oai phong lẫm liệt ra phết khi tiến lên lãnh nhận…”mũ gậy”.
Tuy nhiên có một hành động xem ra chẳng mấy ai ưa thích, đó là bị thiên hạ…chụp mũ. Vậy chụp mũ là gì ?
Theo gã nghĩ, bị chụp mũ là bị bó buộc đội phải một chiếc mũ trên đầu, từ đó suy ra là bị gán cho một nhãn hiệu, một tội trạng nào đó trước mặt bàn dân thiên hạ. Còn theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì chụp mũ là tròng mũ lên đầu người ta, từ đó suy ra là vu khống, gán ghép cho người ta một việc làm phi pháp tưởng tượng, với dụng ý làm hại người ta, khiến người ta, nếu không thân bại danh liệt, thì cũng mất toi cái danh dự và uy tín vốn dĩ là những thí quí hiếm trên đời.
Nếu chịu khó “ngâm kíu” một tí, chúng ta sẽ thấy thói chụp mũ đã được thịnh hành từ một thời rất xa xưa.
Chẳng hạn như tổ phụ Giuse của dân Do Thái, sau khi bị bán sang Ai Cập, đã phải đi ở đợ cho nhà quan Putiphar. Nhân lúc quan ông đi vắng, quan bà bèn dụ dỗ tổ phụ ăn ở với mình, nhưng tổ phụ đã thẳng thừng từ chối. Bực bội và tức tối, quan bà bèn chụp cho tổ phụ chiếc mũ cưỡng bức và tổ phụ liền bị tống ngục.
Chẳng hạn như bà Suzana bị hai lão già giở trò hãm hiếp, nhưng bà một mực cự tuyệt. Thấy ý đồ đen tối của mình không thành, hai lão già bèn chụp cho bà chiếc mũ ngoại tình để rồi kết án ném đá bà cho chết. Nhưng may thay, bà đã được cậu bé Daniel cứu thoát.
Và nhất là Đức Kitô, có lẽ Ngài là người đã bị chụp mũ nhiều nhất. Nào là chiếc mũ lộng ngôn phạm thượng dám xưng mình bằng Thiên Chúa. Nào là chiếc mũ phá hoại lề thói tổ tiên vì không tuân giữ ngày nghỉ lễ. Nào là chiếc mũ phản loạn vì tự xưng là vua và xúi dân đừng nộp thuế…Cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá như một tử tội.
Chụp mũ cho cá nhân đã đành, nhiều khi người ta còn chụp mũ cho cả một tập thể, cả một tổ chức. Và Giáo hội Công giáo đã trở thành nạn nhân số một trong lãnh vực này.
Thực vậy, suốt ba thế kỷ đầu, Giáo hội đã bị chụp cho chiếc mũ là nguyên nhân gây ra những tai ương hoạn nạn để rồi các vua chúa giáng xuống những chiếu chỉ bắt bớ và cấm cách. Bạo vương Nêrôn, chẳng hiểu vì muốn chỉnh trang lại thành phố Rôma hay vì muốn lấy hứng làm thơ, bèn ngầm sai người phóng hỏa đốt cháy kinh thành, rồi chụp cho người công giáo chiếc mũ là thủ phạm rồi ra tay tàn sát đẫm máu.
Tại Việt Nam cũng thế, các ông vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã chụp cho người công giáo chiếc mũ theo tây, chiếc mũ phản quốc, chiếc mũ phá hoại truyền thống…rồi ra lệnh truy nã.
Trong phạm vi cá nhân, hằng ngày chúng ta cũng đã được nghe biết hay chứng kiến bao nhiêu trường hợp đau buồn đã xảy ra. Cách đây không lâu, một nữ sinh trẻ đẹp đã nhảy xuống sông tự tử, làm xôn xao dư luận trong nước. Lý do thật đơn giản. Số là có một chàng thanh niên hàng xóm thầm yêu trộm nhớ cô ta, nhưng đã bị cô ta lờ tít và chối từ. Giận cá chém thớt. Không được ăn thì đạp đổ. Anh chàng này đã tung tin, phao đồn rằng cô ta là đã từng ăn cơm trước kẻng, đã từng quan hệ trên mức tình cảm cho phép với anh ta. Và thế là cô nữ sinh trẻ đẹp liền bị mọi người nhìn bằng cặp mắt khinh bỉ. Chịu không nổi sự khinh bỉ ấy, cô ta đã mượn dòng nước để minh chứng cho cõi lòng trong trắng của mình.
Xem ra nạn chụp mũ ngày càng gia tăng với cấp số nhân. Gã còn nhớ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hình như nhà nước Việt Nam rất khoái dùng biện pháp chụp mũ để thực hiện những mưu toan của mình.
Thực vậy, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của chế độ cũ đều bị chụp cho một trong hai chiếc mũ, nếu không đồi trụy thì cũng phản động, để rồi cấm tiệt việc lưu hành các tác phẩm cũng như cấm tiệt mọi hoạt động của giới này.
Muốn tịch thu một cơ sở nào đó, thì chỉ cần nhờ kẻ lạ dấu vào đó một vài khẩu súng, rồi ra lệnh lục soát và thế là cơ sở ấy lập tức bị đi đoong. Muốt bắt một người nào đó, thì chỉ cần ném vào nhà người ấy một vài tờ truyền đơn rồi chụp cho chiếc mũ phản động, thế là người ấy bèn tiêu tùng, đi đời nhà ma.
Có một hồi, người ta bảo Giáo Hoàng Học Viện tại Đalat do các cha dòng Tên điều khiển là cơ sở đào tạo nhân viên CIA, còn cất giấu nhiều vũ khí, làm cho những người sống trong đó cứ phập phồng lo âu.
Bản thân gã cũng vậy. Vì cắm dùi tại một vùng sâu vùng xa, thư từ thường bị thất lạc, nên gã đã phải mượn địa chỉ của một người bạn trên tỉnh. Chẳng hiểu sao mấy ông công an biết được, bèn mời gã tới làm việc. Họ nói :
- Chúng tôi biết anh là xịa được gài lại để quấy phá.
- Thưa cán bộ, tôi chẳng hiểu xịa là gì thì sao làm xịa được.
- Nếu anh không phải là xịa thì tại sao anh lại có một hòm thư bí mật trên tỉnh để liên hệ với những người nước ngoài.
- Thưa cán bộ, nếu tôi là xịa, thì ngu gì tôi liên hệ với người nước ngoài bằng thư từ qua bưu điện, vì chắc chắn thế nào cũng bị kiểm soát. Như vậy chẳng khác chi thưa ông tôi ở bụi này. Hơn nữa, bọn xịa chẳng nhẽ lại không trang bị cho nhân viên của mình những phương tiện hiện đại để liên hệ một cách mau chóng, chứ ngồi đó mà chờ bưu điện chuyển theo vận tốc rùa bò thì tới bao giờ mới nhận được và còn đâu tính cách nóng sốt của nó nữa.
Thế là tịt ngòi.
Và hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin qua việc nối mạng “internet”, người ta lại càng chịu khó chụp mũ cho nhau một cách ồn ào. Thực vậy, nếu nói theo ngôn ngữ của Phúc Âm, thì bây giờ không còn là thời buổi người ta lấm lét xì xầm với nhau dưới gậm giường nữa, mà là thời buổi người ta công bố trên mái nhà. Không những chỉ công bố trên mái nhà mà còn người ta loan truyền cho cả và thiên hạ cùng biết.
Chỉ cần ngồi nhà, bấm“con-néc” một phát, tức khắc người ta có thể xem mọi hình ảnh và đọc mọi thứ, từ tin tức đến những chuyện giải buồn…Nhiều khi lượng thông tin ào ạt đổ xuống, đến tối tăm mắt mũi, không kịp thở để mà coi nữa.
Đôi lúc, gã cũng lang thang trên mạng, hay nhận được những cái “meo”, trong đó người ta chửi nhau búa xua và chụp cho nhau đủ các thứ mũ. Qua những tài liệu ê hề ấy, gã ghi nhận một vài điều như sau :
Điều thứ nhất, những kẻ thích chửi bới thường thường tự phong cho mình là thông minh uyên bác vào bậc nhất trong thiên hạ. Thế nhưng, sự thông minh uyên bác của họ cũng chỉ là sự thông minh uyên bác của một con ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung mà thôi.
Điều thứ hai, một khi tự cảm thấy mình thông minh uyên bác, họ liền cho rằng mọi ý nghĩ của mình đều là “sáng kiến” còn những ý nghĩ của người khác chỉ là “tối kiến”. Mình luôn luôn đúng, còn người khác luôn luôn sai. Vì thế, mặc sức mà chửi bới vung vít, như vung gươm giữa cảnh nhà hoang vườn trống.
Điều thứ ba, đối với những kẻ cùng một lập trường, họ không ngần ngại bốc thơm và nâng lên tới tận trời xanh, còn đối với những người không cùng một đường lối, họ sẵn sàng bốc thối và dìm xuống tận đất đen, bằng cách chụp mũ, nào là thân cộng, nào là phản bội quê hương, vân vân và vân vân…
Điều thứ bốn, người ta thường dùng đao to búa lớn mà phang nhau. Ngày xưa, gã thường rất dị ứng khi nghe đài Hà Nội gọi thằng Ngụy, thằng Mỹ, thằng Thiệu, thằng Nixon, thằng nọ và thằng kia…Bây giờ, họ cũng dùng thứ ngôn ngữ hàng cá hàng thịt, lái trâu lái bò mà chửi nhau như vậy. Theo gã nghĩ, dù chửi nhau thì cũng phải chửi cho có…văn hóa, bởi vì người Việt Nam mình vốn thường tự hào là có những bốn ngàn văn hiến kia mờ.
Sau cùng điều thứ năm, một khi đã không ưa nhau, họ sẵn sàng vạch áo cho người xem lưng, bới móc nhau từ chuyện chính chị chính em đến chuyện đời tư, chẳng kiêng nể gì sốt. Mà chuyện đời tư với những mảnh tình lem nhem mới câu khách và hấp dẫn người đọc. Nếu không có, người ta cũng dư sức tưởng tượng mà phệu ra…cho thêm phần giật gân và lâm ly bi đát.
Thậm chí, gã có anh bạn tính làm sui với người kia, nhưng chuyện không thành. Thế là anh bạn ấy bèn nhảy vào trang “web” mà hạch sách, mắng mỏ cho người kia một trận te tua.
Cái gì, chứ bắn lên mạng, tung lên “net”…bây giờ quả là việc dễ dàng như trở bàn tay, mà hậu quả lại to lớn khôn lường vì bàn dân thiên hạ đều biết đến.
Viết tới đây bỗng gã thở dài thườn thượt. Nếu là kẻ bi quan, gã liền sắm cho mình một chiếc mũ ni che khuất hai lỗ tai và hai con mắt, để trở thành người không không thấy và không không nghe, như điệp viên không không bảy vậy.
Còn nếu là người yêu đời, gã sẽ tặc lưỡi mà lẩm bẩm :
- Kệ bà nó. Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chửi ta mà chửi phải ấy là thày ta. Chiếc mũ đâu có làm nên ông cử hay ông tú.
Có một câu truyện vui nước ngoài với tựa đề “Nghỉ học vì con mèo tham ăn”, nội dung như sau GãSiêu 51
Có một câu truyện vui nước ngoài với tựa đề “Nghỉ học vì con mèo tham ăn”, nội dung như sau: Để tăng tốc trong kỳ thi cuối cấp, thầy giáo đã đưa ra một qui định: Không ai được ra ngoài vì việc riêng, trừ việc đi vệ sinh mà thôi. Qui định được ban bố và thi hành trong một tuần, ai nấy đều nghiêm chỉnh chấp hành. Thế rồi một hôm, trong tiết của thầy giáo, một cậu bé học sinh đứng lên và xin phép: - Thưa thầy, xin cho em ra ngoài ạ! - Em ra ngoài có việc gì không? - Thưa thầy, em xin ra ngoài để về nhốt con mèo nhà em lại. - Việc đó có quan trọng bằng việc học của em không? - Thưa thầy, nếu em không nhốt nó lại, chắc chắn em sẽ phải nghỉ học! - Sao lại có chuyện như thế? Em hãy giải thích tại sao lại phải nghỉ học? - Thưa thầy, nếu em không về nhốt con mèo nhà em lại, thì nó sẽ ăn hết thức ăn mà mẹ đã nấu cho bố trưa nay. Nếu bố em về mà không thấy gì, thì sẽ trách mẹ ở nhà không chu đáo. Mẹ chắc chắn sẽ cãi lại. Bố sẽ bỏ đi vì chán nản, còn mẹ thì sẽ buồn bã. Sau đó, bố và mẹ sẽ ly dị. Cuối cùng thì em sẽ bơ vơ, nên phải nghỉ học ạ. Thầy giáo, nghe xong lập luận của cậu bé học trò, cũng toát hết cả mồ hôi hột, nên đành phải cho cậu bé ra ngoài. (St). Điểm qua tình hình hiện hay, gã nhận thấy “dân số” dòng họ nhà mèo ngày càng bị giảm đi một cách thê thảm và không chừng sẽ dẫn tới một cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhất là từ khi người ta quảng cáo rùm beng cho món “tiểu hổ”. Tệ trạng bắt mèo đã có từ lâu, nhưng bây giờ mới thực sự phát triển bằng những bước nhảy vọt khổng lồ. Đoàn quân bắt mèo lùng sục khắp các hang cùng ngõ hẻm để mua bán, đổi chác và…bắt trộm. Toan Ánh, trong cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm”, đã kể lại chuyện bắt mèo ngày xưa như sau: “Bắt mèo ở đây có nghĩa đen, tức là bắt trộm mèo của người khác. Kể ra thì người ta bắt mèo làm gì? Ở nhà quê mèo vào nhà người ta còn cho là một điềm xấu, nên mới có câu: Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu. Mèo hoang ở nhà quê nhiều lắm và có khi ở tỉnh cũng nhiều. Nhà nào có nuôi mèo, cũng chỉ nuôi một hai con cho nó bắt chuột là nhiều. Nếu chẳng may có con mèo cái đẻ, người ta gọi cho bạn bè, hoặc cũng có khi người ta mang ra chợ bán rẻ được đồng nào hay đồng ấy. Ai đã có dịp đi xe đò mà gặp một hành khách mang mèo, chắc cũng phải nhận thấy là xe đò không chịu chở mèo vì sợ xúi quẩy. Vậy mà có kẻ đi bắt mèo, chúng bắt để làm gì? Xin thưa: Nguyên do là mấy năm chiến tranh thực phẩm khan, các hiệu cơm tây lại thường phải cung ứng cho khách ăn các món thỏ si-vê, mà thỏ thì kiếm không ra, khách ăn lại cứ đòi ăn. Các ông chủ hiệu đành phải làm phép biến hoá để có thể cho khách xơi. Các ông khách sành ăn, xơi thịt mèo, lại cứ cho là thịt thỏ, thấy nó vẫn ngon thơm, có khi thịt lại thấy bùi hơn món thỏ các ngài vẫn xơi ở nhà. Các ngài cho là đầu bếp ở hiệu nấu khéo và các ngài đã xơi thịt thỏ chính cống rồi. Cũng vì các ngài khách sành ăn này mà các hiệu ăn phải đi kiếm mèo nhiều để có thịt thỏ bán cho khách. Chỉ oan cho lũ mèo! Và cũng do đó có nạn ăn trộm mèo ở nhà quê và ở cả tỉnh nữa. Ngay tại Saigon, trước đây đã có bọn đi bắt mèo để bán cho các hiệu ăn, và các ngài sành ăn ở Saigon chắc chắn cũng đã xơi nhiều món thỏ chính cống nấu bằng thịt mèo rồi. Muốn bắt mèo, bọn ăn trộm mèo lấy thức ăn mà dử. Trong khi mèo mải ăn, chúng chụp cho vào bị, hoặc cũng có khi chúng rật thòng lọng cho vào lồng. Bắt mèo không nguy hiểm, vì thường những chủ nuôi mèo cũng ít khi để ý tới mèo. Người nuôi mèo không thấy mèo về, cho là nó đã đi đâu mất, không ai ngờ nó bị bắt trộm. Không có con mèo này thì nuôi con mèo khác, xin đâu chẳng được mèo con. Bọn đi bắt mèo chỉ bắt những con mèo lớn vì các hiệu ăn cũng chỉ dùng những con mèo lớn để nấu giả làm thịt thỏ. Chiến tranh xong, thỏ dễ mua, nhưng bọn đi bắt mèo vẫn không bỏ nghề, vì giá thỏ đắt hơn giá mèo, mà khách sành ăn xơi thịt mèo lại vẫn cứ khen ngon, thì các hiệu ăn vẫn cần mua mèo. Mèo chết thay thỏ và bọn bắt mèo vẫn sống!” Còn tác giả Lữ Khách trên “Giai phẩm xuân Tân Mão 2011” của báo Kiến Thức Ngày Nay đã viết về món “tiểu hổ” hiện giờ như sau: “Vùng quê tôi có câu: “Dê núi Ninh Bình, cầy tơ Nam Định, tiểu hổ Thái Bình”. Chẳng biết từ bao giờ, quê lúa Thái Bình đã trở thành trung tâm của thịt mèo, cũng chẳng biết căn cứ vào sách vở nào, thịt “tiểu hổ”, (thịt mèo) luôn được quí ông khẩu truyền và tâm đắc như một món ăn quí, có tác dụng “bổ âm bổ dương, bổ giường bỏ chiếu”. Các quan nhậu ở trung tâm thành phố Thái Bình không cần treo biển hiệu rầm rộ, chỉ cần nhốt vài con mèo ngoài cửa, rồi làm thịt ngay trên vỉa hè là khách nhậu ùn ùn kéo tới. Giá “tiểu hổ” gấp đôi món cầy tơ, nên các chủ quán sẵn sàng bỏ nghề cũ, mỗi đêm chỉ cần thịt chừng mươi chú mèo là sống khoẻ re… Ăn thịt mèo chưa đủ, còn phải uống rượu mật mèo với giá 10.000đ/xị mới bảo đảm thành “đại sự”. Nghe đâu mật mèo cũng chẳng kém gì mật gấu, mật bò tót. Chủ quán đon đả với thực khách: “Mật gấu bây giờ là mật gấu nuôi nên lạt nhách. Bò tót thì tuyệt chủng hết rồi, nên phải dùng mật bò nhà làm giả. Bởi vậy, chỉ có mật mèo là nguyên chất nhất. Mà uống mật nó thì có khác gì mật hổ đâu, nó là tiểu hổ mà”. Ai cũng gật gù tán thưởng. Nếu muốn tác dụng nhanh chóng và hiệu quả rõ ràng hơn, tốt nhất là uống rượu có ngâm bào thai mèo. Đắt giá nhất là “cao tiểu hổ” với giá 700-800 ngàn đồng/lạng, ngâm theo công thức 2 lít rượu/100g cao. “Tiểu hổ” là sư phụ của “Đại hổ, nên rượu “tiểu hổ cốt” uống vô là “bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ!?”… “Tiểu hổ” cũng đã theo chân người miền Bắc tha phương tới miền Nam. Tôi đi trên đường Lê Hồng Phong, thành phố Nha Trang, thấy đã có nhiều quán treo biển “tiểu hổ 9 món”, “meo…meo”… Ở Saigon, món đặc sản này cũng đã cắm dùi ở Gò Vấp và nhiều nơi khác. Có cầu ắt có cung, để bảo đảm “hậu cần” cho hàng chục ngàn quán nhậu lớn nhỏ, đã hình thành mạng lưới thu mua, vận chuyển, đại lý hoàn chỉnh. Có những đoàn quân đông đảo do lực lượng chuyên rong mua chó “kiêm nhiệm”, đi khắp các xóm làng hẻo lánh với câu rao: “Ai có mèo đực theo cái, mèo gái theo trai…bán – mua”. Miền Bắc cạn nguồn, đoàn quân này “Nam tiến”, từ mua bán đến đổi xoong nhôm, kể cả bắt trộm. Chưa ai thống kê được mỗi ngày có bao nhiêu chú mèo lên bàn nhậu, nhưng cứ nhìn số lượng mèo bị giết ở những hàng quán tại các tỉnh, thành phố lớn, có thể ước tính cứ 24 giờ trôi qua, cả ngàn kiếp mèo được giải thoát để phục vụ cho “mục đích cao cả” của quí ông. Thịt mèo ngon bổ đâu chưa biết, nhưng có lẽ cần đưa thêm chút thông tin sau: Một chuột đồng trong vòng 1 năm có thể sinh 80 chuột con, và cứ 2 tháng lại có 1 thế hệ chuột tham gia sinh sản. Mỗi năm, một đôi chuột có thể trực tiếp và gián tiếp cho “ra lò” 2.160 con chuột. Và nếu cánh đồng có 1.000 con chuột, thì mỗi ngày sẽ đẻ thêm 6.000 con. Vắng bóng mèo, chuột sẽ hoành hành”. Lúc bấy giờ đại hoạ sẽ xảy ra cho bàn dân thiên hạ”. Khoa học cũng như lịch sử đã cho thấy sự thực là như vậy. Một nhà sinh vật học nổi tiếng người Anh, khi nghiên cứu nguyên nhân mất mùa của cây cải dầu, đã kết luận là do số mèo giảm theo cơ chế như sau: Mèo giảm, thì chuột tăng; chuột tăng sẽ phá tổ ong làm cho ong giảm; ong giảm thì việc thụ phấn cho hoa cải dầu cũng giảm, và thế là dẫn tới mất mùa. Vào thời Trung cổ, ở châu Âu đã từng xảy ra dịch hạch lớn, cướp đi 20 triệu mạng sống, tương đương với 60% dân số lúc bấy giờ. Nguyên nhân là do người châu Âu lúc đó cho rằng mèo là tay chân của phù thuỷ, nên phải tận diệt, tạo cơ hội cho giống chuột châu Phi hoành hành, mang lại thảm hoạ cho loài người. Chính vì vậy mà mèo dần dần được phục hồi danh dự. Đối với người Việt Nam, mèo không phải chỉ là con vật thân thương và gần gũi với con người, được nuôi trong nhà để bắt chuột, mà hơn thế nữa mèo còn là một trong số rất ít những con vật được dùng làm hình ảnh tượng trưng cho con người, thậm chí còn được đồng hoá với con người. Gã xin được kể ra như sau: Trước hết, mèo được dùng làm hình ảnh tượng trưng cho con gái. Sở dĩ như vậy là vì giữa con gái và con mèo có nhiều điểm rất giống nhau. Thực vậy, trong một cuộc hội thảo bàn tròn chung quanh vấn đề này, những anh con giai đã nhao nhao phát biểu ý kiến. Anh thì bảo: - Con gái bình thường rất ư là hiền lành, thậm chí còn nhõng nhẽo với mình bằng đôi mắt nai long lanh. Nhưng khi bức tức ấy hả? Con gái cũng giống như con mèo: gầm gừ, xù lông, không chừng còn nhe răng, làm cho mình, như chú chuột nhắt, hết sức sợ hãi, chỉ thầm mong sao thoát khỏi móng vuốt của nàng mà thôi. Cãi lời là bị lườm nguýt thấu đến tận tim gan phèo phổi. Lơ mơ là còn bị ăn đòn nữa chứ! Anh thì nói: - Con gái cũng giống như con mèo, khi kêu meo meo thì thật dễ thương, nhưng động vào là nó cào cho chết luôn. Và khi bị con gái cào thì chẳng khác chi bị mèo cào vậy! Anh thì xác quyết: - Con mèo rất hay ăn vụng và con gái cũng rứa. Hễ nhìn thấy cái gì ăn được, thì thế nào cững phải đưa tay bốc. Anh thì cho rằng: - Con mèo là chúa lười và hay ngủ dạy muộn. Con gái cũng giống như vậy. Sau cùng một anh đã nhận xét: - Con mèo và con gái đều hay nói “meo”. Chẳng hạn khi kiến bò bụng thì con gái thường nói với con trai: Tớ đói meo rồi đó. Có phải vì vậy mà con mèo bắt chước con gái, cứ suốt ngày kêu meo meo! Tiến đến, mèo được đồng hoá với bồ nhí. Có lần gã đã hỏi một ông thầy người Pháp: - Tiếng Việt đối với ngài dễ hay là khó? Ngài bèn trả lời: - Tôi là người Pháp, nếu học tiếng Ý, hay tiếng Tây Ban Nha thì chỉ mất có ba bốn tháng. Nếu học tiếng Anh thì chỉ mất sáu bảy tháng. Nếu học tiếng Đức thì chỉ mất hơn một năm. Nếu học tiếng Do Thái thì chỉ mất hai năm. Nếu học tiếng Tàu thì chỉ mất ba năm. Còn học tiếng Việt ấy hả. Đã mất bốn năm rồi mà vẫn chưa ăn thua gì. Thậm chí đã viết ra giấy, thế mà khi đọc lên, thiên hạ vẫn cứ cười ồ! Cũng vì thế mà ngày xưa, các vị cố Tây qua Việt Nam để truyền đạo, tiếng Việt của các ngài không được thông thạo cho lắm, nên nhiều khi đã gây ra những hiểu lầm, buồn cũng có mà vui cũng có, thậm chí còn cười ra cả nước mắt cũng có. Đặc biệt là câu chuyện mà tôi thường được nghe kể sau đây: Có một chàng thanh niên, khi vào xưng tội với vị cố Tây, anh ta đã nói rằng: - Thưa cha, con đã có một vợ và hai đứa con thơ, con rất thương vợ và thương các con của con, nhưng mà con đã phạm một tội nặng lắm cha ạ! Vị cố Tây bèn an ủi: - Chúa nhân từ, con cứ việc xưng. Chàng thanh niên lắp bắp: - Dạ thưa cha, con đã có vợ mà lại còn có mèo nữa ạ! Vị cố Tây bèn ôn tồn nói: - Có mèo thì sao? Cha cũng có mèo mà! Cái rắc rối mà vị cố Tây này không “ngộ” ra được: Mèo có khi chỉ là một con vật, có khi lại là một con người, và nó được đồng hoá với “bồ nhí”. Vậy thế nào là bồ nhí? Trước hết bồ có nghĩa là phe cánh, chẳng hạn như khi đánh bạc, người ta thường cặp bồ, hay bắt bồ mí nhau. Còn trong ngôn ngữ dân gian, thì bồ có nghĩa là bạn thân. Riêng trong mối liên hệ giữa đờn ông và đờn bà, giữa con giai và con gái, bồ còn có nghĩa là người tình hay người yêu. Tiếp đến là chữ nhí. Nếu gã không lầm thì chữ nhí, dưới một góc cạnh nào đó, cũng đồng nghĩa với chữ nhỏ. Lê văn Đức trong “Việt Nam Tự điển” còn chua thêm một nghĩa nữa cho chữ nhí, đó là lẳng lơ và liến xáo, chẳng hạn như nhí nhảnh Tuy nhiên, có bồ, có người tình hay có người yêu thì khác với có mèo hay có bồ nhí. Bởi vì loại có trên thường là công khai, hợp pháp và mang nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi, còn loại có dưới, thì bao giờ cũng thầm lén, vụng trộm, chui lủi và bất hợp pháp. Theo các nhà tâm lý, thì đối với một số những người đờn ông đã lập gia đình, thì thích “có mèo” hay có “bồ nhí” là một khuynh hướng bẩm sinh, khó mà cưỡng lại được. Ngay cả những ông chồng “siêu tốt” cũng phải trầy da tróc vẩy, thế mà chưa chắc đạt được điểm cao cho môn đạo đức hôn nhân. Một công ty thám tử tư, sau nhiều dịch vụ rình mò, đã hùng hồn công bố kết quả của họ là 99% đàn ông đã kết hôn vẫn có hay vẫn thích có bồ nhí. Đàn ông 18 tuổi, thì tìm kiếm một cô gái cùng trang lứa, năm 40 tuổi các chú này vẫn yêu cô gái 18, và cho đến năm 60 hay 70 các cụ này vẫn không thay đổi lập trường, trước sau như một, vẫn chọn cô gái 18 nếu có thể. Đàn ông là như thế. Họ khó chung thuỷ với bà xã, nhưng luôn chung thuỷ với bản thân mình. (Đẹp). Vậy tại sao các ông chồng lại thích có mèo, hay ưa có bồ nhí? Xin thưa chỉ vì bồ nhí thì giống mèo và mèo thì cũng giống bồ nhí. Gã xin đưa ra một vài điểm của sự giống nhau ấy. 1- Mèo ít khi gầm gừ, nhe răng hay dương móng vuốt, trái lại luôn dịu dàng kêu meo meo nghe thật êm tai. Bồ nhí cũng vậy, ít khi cáu gắt hay quát tháo ầm ĩ, nhưng luôn âu yếm, thật êm dịu và dễ chịu. 2- Mèo bao giờ cũng sạch sẽ. Bồ nhí cũng vậy, lúc nào cũng thơm tho. 3- Mèo thích được mơn trớn. Bồ nhí cũng vậy, ưa được vuốt ve và thường xuyên nũng nịu. 4- Mơn trớn mèo mang lại cảm giác mềm mại. Bồ nhí cũng vậy, vuốt ve bồ nhí làm cho sung sướng. 5- Mèo ăn uống nhỏ nhẹ. Bồ nhí cũng vậy, ăn uống rất từ tốn, có nghĩa là bồ nhí nhiều khi ăn rất từ từ, nhưng lại vô cùng tốn kém, thế mà ông xã vẫn cứ cho là chuyển nhỏ, không đáng kể. 6- Mèo biết tỏ ra vâng lời. Bồ nhí cũng vậy, luôn cưng chiều khiến ông xã tưởng mình là chúa tể sơn lâm. 7- Nếu chẳng may bị mèo cào, thì chỉ xót xa tí chút. Cũng vậy, nếu chẳng may bị bồ nhí giận hờn, thì cũng chỉ thêm thi vị cho cuộc sống mà thôi. Càng suy nghĩ, chúng ta càng tìm ra được nhiều điểm giống nhau giữa mèo và bồ nhí. Cũng chính vì vậy mà các ông chồng, vợ con đàng hoàng, thế mà vẫn cứ thích có mèo, vẫn ưa đèo bòng bồ nhí. Đối với các chuyên gia trong lãnh vực gỡ rối tơ lòng, thì đây chỉ là chuyện thường ngày ở huyện, nhưng đối với các bà xã, thì đây quả là một hung tin, bởi vì khi dựng nên người đàn bà, Thượng đế đã cài đặt sẵn trong tâm can tì phế của họ một chương trình ghen và đánh ghen, như Hoạn Thư đã từng phân bua: - Rằng tôi cũng thể đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Cac bà vợ bị phản bội luôn cần đến một quân sư quạt mo, giúp họ những phương thế “trị mèo”, nhưng tại các trung tâm tư vấn, họ chỉ nhận được những lời khuyên chung chung, chẳng hạn như phải bình tĩnh và sáng suốt, phải biết tự trọng và cư xử cho có văn hoá. Nhưng làm sao có thể đàng hoàng với những kẻ đã không đàng hoàng với mình bây giờ đây? Tuy nhiên, sự quyết định của các bà vợ, hành động mà các bà định làm, sự ra tay hay xuất chiêu của các bà mới thực sự quan trọng, ảnh hướng sâu xa tới kết quả: Một là sẽ đưa các ông chồng “trở về mái nhà xưa” cách an toàn, hai là vợ chồng sẽ ca bản đường ai người ấy đi vì tình nghĩa đôi ta chỉ có thế mà thôi. Làm sao trị được mèo bây giờ đây? Gã Siêu
Cách đây không lâu trên báo “Tuổi Trẻ Cười”, một độc giả đã nêu lên câu hỏi như sau: “Tôi sinh GãSiêu 52
Cách đây không lâu trên báo “Tuổi Trẻ Cười”, một độc giả đã nêu lên câu hỏi như sau: “Tôi sinh năm 1975, mẹ tôi bảo tuổi Mẹo, cầm tinh con mèo, cha tôi thì bảo tuổi Mão, cầm tinh con thỏ. Như vậy có phải Mão là thỏ, còn Mẹo là mèo hay không? Đến nay tôi biết trong 12 con giáp không có con thỏ. Vậy năm 2011 này, gọi là Tân Mão hay Tân Mẹo, cầm tinh con thỏ hay con mèo?” Và Cô Tú, chủ “quán Mắc Cở”, đã trả lời như sau: “Theo cách tính của âm lịch, lịch Can-Chi, thì Tí, Sửu, Dần, Mão… là 12 chi. Người làm lịch chọn cho mỗi chi một con vật làm biểu tượng. Ví dụ: Tí biểu tượng là con chuột. Sửu biểu tượng là con trâu… Cần hiểu rằng: Theo chữ Hán, Tí không có nghĩa là chuột và Sửu cũng không có nghĩa là trâu. Tương tự như vậy, Mão không phải là mèo và cũng không phải là thỏ. Riêng từ Mẹo là tiếng Việt thì rất có thể do từ mèo mà ra. Âm lịch của người Trung Hoa có rất sớm, khoảng đời nhà Thương (thế kỷ 16 TCN). Khi ấy nước Trung Hoa chưa có mèo thuần dưỡng, chỉ có loại mèo rừng. Hầu hết giống mèo thuần dưỡng đều có nguồn gốc từ Ai Cập. Châu Âu mãi đến thời Trung Cổ mới biết nuôi mèo. Vì chưa có mèo, nên các nhà làm lịch Can-Chi của Trung Hoa lấy con thỏ làm biểu tượng cho chi Mão. Khi người Việt Nam biết sử dụng lịch Can-Chi, thì dân ta đã nuôi mèo, nên các nhà làm lịch người Việt bèn linh động, dùng con mèo làm biểu tượng thay thế con thỏ, vì lẽ con mèo gần gũi hơn. Hiện nay, người Hoa vẫn nói rằng tuổi mão cầm tinh chon thỏ, còn người Việt thì tuổi mão cầm tinh con mèo”. Tác giả Lữ Khách, trên báo Kiến Thức Ngày Nay trong giai phẩm xuân Tân Mão, cũng cùng một quan điểm như trên, nhưng lại thêm một câu hỏi: Tại sao người Trung Quốc không nêu biểu tượng con mèo? Tương truyền rằng: Ngày xửa ngày xưa, Ngọc Hoàng tuyên triệu các loài vật lên thiên đình để được chọn lựa và thụ phong 12 con giáp. Mèo và chuột đều “quá giang” trên lưng bác trâu tốt bụng. Khi bơi qua sông Ngân Hà, chú chuột láu cá đẩy chú mèo xuống nước. Lúc chú mèo ngoi lên được, thì đã trễ, xếp thứ 13, nên phải ra rìa. Bác trâu cần cù, dẫn đầu đoàn quân, nhưng khi đến cửa thiên đình, chú chuột bèn nhảy phóc qua đầu bác trâu, thành ra được xếp thứ nhất trong 12 con giáp. Cũng từ đó, mèo thấy chuột là phải vồ bằng được cho hả giận. Đó là truyền thuyết dân gian, còn các nhà khảo cổ thì cho rằng sở dĩ Trung Quốc vốn không dùng biểu tượng mèo là vì mèo mới chỉ được du nhập vào Trung Quốc từ đời Minh Đế (43-61) nhà Đông Hán, cách thời điểm phát minh ra 12 con giáp đã trễ gần 200 năm, nên không có chỗ đứng. Còn Mông Điểm đời Tần Thuỷ Hoàng (220-207 TCN) đã sử dụng lông thỏ làm ra bút lông, chứng tỏ giả thuyết trên là có lý. Mèo thấy chuột, thì phải vồ cho bằng được. Vồ được rồi, thường không cắn chết hoặc xơi tái ngay, trái lại còn vờn tới vờn lui, đùa giỡn hồi lâu và cảm thấy thích thú trên sự sợ hãi và đau đớn của chuột. Tìm hiểu về mối thù truyền kiếp của mèo đối với chuột, gã ghi nhận được một vài mẩu truyện sau đây. Mẩu truyện thứ nhất: Ngày xửa ngày xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng được ở trên thiên đình. Trời trao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột không phải là loài đáng tin cẩn, nhân được giữ chìa khóa, cứ tự do đến mở kho, rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa. Sau Trời biết được, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi xuống dưới hạ giới để giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian. Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của người, rả rích ăn. Đến nỗi người đã phải than rằng: - Chuột kia xưa ở nơi nào? Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này? Người lấy làm chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt chuột đem lên trả cho Trời và tâu rằng: - Chuột này vốn ở thiên đình, sao Trời lại thả nó xuống hạ giới làm chi? Trời nói: - Ừ, trước kia nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn vụng lúa của ta nhiều lắm, nên ta không cho nó ở trên này nữa, mà đuổi nó xuống hạ giới, cho nó giữ kho lúa ở dưới ấy. Vua Bếp tâu: - Xuống dưới ấy, nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm chúng con thiết nghĩ: lúa của Trời thì nhiều, mà lúa của người thì ít, của Trời nó ăn không hết, chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày sẽ hết, và người người đến phải chết đói mất. Vậy xin bây giờ trả lại nó cho Trời. Trời nghe tâu, bèn phán: - Không được. Ta đã đuổi nó đi cho xa, nên không thể lại để nó lên đây một lần nữa. Thôi bây giờ ta đã có cách: con mèo của ta, ta cho ngươi đem xuống hạ giới, để khi nào lũ chuột ăn lúa của nhân gian, thì ngươi hãy thả nó ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ mà ăn chuột đi; còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì ngươi bảo nó cứ kêu toáng lên rằng: “Nghèo, nghèo, nghèo", ắt chuột sẽ phải sợ nó mà bỏ đi. Vua Bếp lạy tạ, rồi lại đem cả chuột lẫn mèo xuống trần gian. Và cứ theo như lời dạy mà làm. Thành thử, hễ khi nào rình bắt được chuột, thì mèo cứ "gầm gừ, gầm gừ". Còn khi nào không bắt được chuột, thì mèo cứ vô tư kêu: "Nghèo, nghèo, nghèo!” Những lúc ấy, mèo hồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mà mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp, nên mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro trong bếp mà phóng uế. (VietFun Story). Mẩu truyện thứ hai: Ngày xưa, mèo và chuột đều chung sống hòa bình và đều biết nói tiếng của loài người. Nhưng bản tính của hai loài vật này quá khác nhau, nên mâu thuẫn nảy sinh và ngày càng trầm trọng. Hôm nọ, trong một nhà kia, chủ nhà bực bội vì mâm thức ăn mình chưa đụng đũa đến nhưng đã thấy thất thoát. Vừa nghe chủ nhà quát tháo, mèo đã uốn éo đến cạ mình vào chân ông chủ và nói: - Ông xem thử dấu răng nham nhở trên miếng thịt kia là của ai? Quá dễ, chủ nhà thấy ngay đó là dấu răng chuột nên bèn lôi lũ chuột ra nện cho một trận. Chuột chúa kêu oan inh ỏi: - Ông ơi, đúng là tụi con có tội. Ông nghĩ mà xem, cả đám tụi con vì đói nên phải ăn vụng, nhưng cũng chỉ hết có chút xíu thịt. Còn lão mèo ấy à, lão giở cả lồng bàn lấy đi nguyên con cá to. Chẳng qua lão ấy khéo quá nên ông không phát hiện mà thôi! Mèo bèn gầm gừ: - Bằng chứng đâu mà bọn mày dám bảo ta ăn nguyên con cá to? Bực mình với hai tên kẻ cắp, ông chủ bèn tát mỗi con một cái cực mạnh khiến cả hai mất luôn khả năng nói và hiểu tiếng người. Từ đó, mèo và chuột trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau. Có điều chuột thì luôn bị săn đuổi, đánh đập, còn mèo thì vẫn nhơn nhơn thân cận với con người! Nhiều lúc buồn tình đời, chuột triết lý: - Mình phá cả đời cũng không bằng hắn xơi một quả. Vậy mà lúc nào tiếng xấu cũng thuộc về mình. Đúng là con người nói chớ có sai: Lý thuộc về kẻ mạnh!” (Bút Bi, báo Tuổi Trẻ). Từ mối thù truyền kiếp này, hễ thấy chuột là mèo phải rình bắt cho bằng được. Bắt được rồi, thì cứ từ từ mà xơi tái. Bởi vì thịt chuộc là một món ăn bổ dưỡng, giúp cho mèo được sáng mắt. Thực vậy, theo các nhà khoa học nghiên cứu thì để duy trì sức nhìn vào ban đêm, mèo cần phải ăn thịt chuột, vì trong thịt chuột có rất nhiều chất taurine, giúp cho hoạt động của các tế bào hình nón cảm nhận được ánh sáng yếu. Và hơn thế nữa, thịt chuột còn là một món ăn khoái khẩu cho loài mèo. Một món ăn tuyệt vời, ngon ơi là ngon. Do đó mới có truyện: Một con mèo chết đi và đưa lên thiên đường, Thượng đế hiện ra và nói: - Con là một con mèo tốt khi còn sống. Bây giờ con mong ước gì, thì sẽ được nấy. Con mèo nói: - Con sống trong một gia đình nghèo khó, suốt cuộc đời phải ngủ trên sàn gỗ cứng. Thượng đế mỉm cười: - Sẽ không còn thế nữa. Dứt lời, một chiếc gối nệm rất êm được mang đến. Vài ngày sau, có mấy chú chuột cũng chết và được đưa lên thiên đường. Thượng Đế cũng ban điều ước cho chúng. Lũ chuột lao nhao: - Cả đời bọn con cứ phải chạy, chạy suốt. Bọn con bị mèo, chó và cả các quý bà với cây chổi trên tay rượt đuổi suốt thôi. Tụi con ước gì mình có được đôi giày patin để đỡ phải chạy. Thượng đế mỉm cười: - Như chúng con đã ước. Thế là mỗi chú chuột đều có một đôi giày patin mới toanh. Vài tuần sau, Thượng đế đi thăm chúng sinh trên thiên đường. Ghé ngang qua chỗ mèo, ông thấy chú mèo đang ngủ ngon lành trên gối nệm. Thượng đế đến khẽ lay mèo dậy và hỏi: - Con khoẻ chứ? Con có thấy vui không? Chú mèo vươn vai và rên ư ử ra chiều thích thú: - Trong đời mình con chưa bao giờ hạnh phúc như thế này. Và đặc biệt mấy bữa ăn ngài để trên bánh xe mà gửi xuống cho con, thì thật là tuyệt vời! (xaluan.com). Trong lúc mèo mang nối thù truyền kiếp đối với chuột, thì mèo lại bị chó “ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”. Thực vậy, rất nhiều phen gã đã bị lũ chuột quấy phá. Chuột lớn thì cắn lúa ngoài ruộng, ăn thóc trong bồ, chuột nhắt thì cắn rách áo quần. Thậm chí nó còn chui vô máy vi tính và gậm nhấm từng sợi dây điện. Để diệt bớt loài chuột, đánh thuốc thì không ổn, bởi vì chuột ăn phải bả, sẽ nằm chết ở một kẹt góc nào nó, bốc mùi hôi thối không chịu nổi. Còn đánh bẫy thì chỉ được một vài con vào đêm đầu mà thôi, sau đó nó khôn ra, không chịu chui đầu vào cho bẫy sập nữa. Vì vậy, kế sách hay nhất là phải nuôi mèo. Tuy nhiên, nuôi được một hai con mèo trong nhà không phải là chuyện dễ, nhất là khi trong nhà đã có dăm ba con chó. Có người đã từng phải đi xin hay đi mua, mèo lớn cũng có mà mèo nhỏ cũng có, thế nhưng cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng, tất cả những con mèo đem về đều bị chó rượt đuổi tới cùng và cắn chết. Sự ghét cay ghét đắng này có nguồn gốc như sau: Ngày xửa ngày xưa, chó và mèo gặp nhau trong rừng, chúng nhìn thấy đối phương và khá hài lòng về người bạn mới, trong đầu chúng nghĩ sẽ có một mối quan hệ tốt với "kẻ kia". Và vì thế, chó vẫy đuôi biểu hiện sự vui vẻ. Tín hiệu này thật dễ hiểu đối với người yêu chó và họ cũng biết nếu chó gầm gừ thì chúng đã sẵn sàng chiến đấu. Nhưng mèo lại không cho là vậy. Từ nhỏ mỗi lần bú sữa mẹ, chúng phát ra tiếng gừ gừ nho nhỏ trong miệng nhằm báo cho mẹ biết mình đã nhận được sữa, đồng thời thể hiện sự thích thú. Khi lớn lên, mèo đem nguyên ký ức của mình làm thành một thói quen, và để tỏ ra thân thiện mèo đã gừ gừ. Ôi, chó lại cứ tưởng mèo đang muốn gây sự với mình. Nhưng nếu bạn nào yêu mèo thì sẽ rõ khi sắp xung trận, mèo sẽ lắc đuôi liên tục. Hoá ra trong tình huống ấy, mèo đã nghĩ chó muốn tấn công mình. Từ đó, chó mèo không đội trời chung. Chỉ vì sự hiểu lầm đáng tiếc mà lý ra hai kẻ rất hợp làm bạn tâm giao lại trở thành kẻ thù. Sự hiểu lầm này hoá ra chỉ vì chúng dùng những cảm giác và những tư duy của mình để suy đoán kẻ khác, mà không hề cố gắng tìm hiểu tâm hồn và những mong ước của kẻ khác loài kia. (Sưu tầm). Cũng có truyện khác kể lại rằng: Một ngày nọ, mèo và chó bị bắt vào ngục của Diêm vương vì đã cắn nhau một trận nảy lửa cho đến chết. Sau một thời gian thu thập nhân chứng, vật chứng đầy đủ, công tố viên, tức Mít tờ Phán quan, quyết định chuyển giao vụ việc khởi tố lên Diêm Vương. Sau đây là bài tường thuật trực tiếp buổi xét xử chó và mèo. Diêm Vương hỏi Mèo: - Trong cáo trạng của Mít tờ phán quan thì mèo cắn chó trước! Tức là mèo gây sự trước. Tại sao? -Tại vì con thù nó - Tại sao mèo thù nó? - Tại vì nó cắn con - Tại sao nó cắn mèo? - Tại vì nó thù con. - Tại sao nó thù mèo? - Tại vì con cắn nó. - Tại sao mèo cắn nó? - Tại vì con thù nó. - Thế ta hỏi tại sao mèo thù nó? - Tại vì nó cắn con. - Thế tại sao nó cắn mèo? - Tại vì nó thù con. Nghe thiên hạ đồn rằng: Kể từ lúc loài chó và loài mèo được sinh ra và vụ án được khởi tố, Diêm vương vẫn chưa xử xong. Chính vì thế mà loài mèo và loài chó vẫn còn rất ghét nhau vì không quên được mối cựu thù năm xưa mà đến nay lời giải đáp vẫn chưa được ngã ngũ. Dĩ nhiên, cũng có những con mèo và những con chó sống chung hoà bình với nhau, như những người bạn chân thành. Neta-li Feuerstein và các cộng sự viên của ông tại Đại học Tel Aviv, Israel, đã phỏng vấn 170 gia đình nuôi chó và mèo. Phần lớn họ đều cho biết hai loài vật có thể sống thân mật với nhau. Sự dửng dưng chỉ chiếm 1/4 và tình trạng đấu đá xảy ra chưa tới 1/10. Sự hòa hợp sẽ ở mức độ cao khi con mèo được nuôi trước con chó và khi chúng gặp nhau lúc con mèo chưa tới 7 tháng tuổi và con chó thì chưa được 1 năm tuổi. (M.T. theo Livescience). Mối liên hệ tay ba giữa chuột mèo và chó làm cho gã nhớ tới một câu truyện trong sách Cổ Học Tinh Hoa, đại khái nhự thế này: Vua nước Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Đã nhiều người can ngăn, nhưng vua nhất định không nghe. Sau lại hạ lệnh rằng: - Ai can ta đánh nước Kinh, thì sẽ bị xử tử. Có một viên quan trẻ tuổi, muốn can ngăn mà không dám nói. Luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung tên đến đứng vườn sau nhà vua, sương ướt đẫm cả áo. Hôm thứ ba, vua gặp, mới hỏi: - Người đến đây làm gì mà để sương xuống ướt cả áo như thế? Viên quan thưa rằng: - Trong vườn có một cây cổ thụ, chót vót trên ngọn cây, có con ve sầu hút gió, uống sương, rả rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân lắm. Biết đâu, đằng sau có con bọ ngựa đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu, lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghển cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa, lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực bắn. Chính tôi đây muốn bắt con chim sẻ mà không biết sương đã xuống ướt đẫm cả áo… Như thế đều chỉ vì tham cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ở ngay sau lưng vậy. Vua nghe nói tỉnh ngộ, bèn thôi không đánh nước Kinh nữa. Và tác giả đã thêm vào câu chuyện lời bàn như sau: - Thế mới hay ở trên đời, ngay cả đến loài vật cũng chỉ rình hại lẫn nhau, nuốt lẫn nhau mà thôi. Nhưng biết đâu trong khi mình muốn nuốt người, lại có kẻ khác muốn nuốt mình, mình chỉ ham mê trục cái lợi trước mắt, mà không phòng bị cái hại sau lưng. Mà khi tai hại nó đã xảy đến, thì chẳng những không thấy lợi đâu, lại thiệt thân mình trước. Cho nên người khôn thấy cái lợi, thì lo cả đến cái hại, lợi bất cập hại thì không bao giờ làm. Trước thềm năm mới, gã xin mượn lời của tiên tri Isaia mà vẽ ra một tương lai an bình thịnh vượng: Lúc bấy giờ: Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. (11,6-8). Người với người sẽ không còn cấu xé lẫn nhau theo kiểu: Cá lớn nuốt cá hé. Hay theo kiểu: Anh như con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau. Nhưng sẽ thực sự sống chung trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Và hoà bình sẽ mỉm cười với trái đất này. Gã Siêu
Mão, miêu hay mèo đó là một loại thú nhỏ thuộc giống ăn thịt, lông mềm, râu trắng, cứng và GãSiêu 53
Mão, miêu hay mèo đó là một loại thú nhỏ thuộc giống ăn thịt, lông mềm, râu trắng, cứng và cử đôäng được, vấu bén, mình nhẹ, leo giỏi và có tài bắt chuột. Có lẽ chính nhờ tài bắt chuột mà mèo được nhiều người, nhất là nông dân ưu ái muôi ở trong nhà. Đối với lũ chuột thì mèo chính là đại vương sư tử. Người tàu thì bảo: Sát nhất miêu, cứu vạn thử. Nghĩa là giết được một con mèo thì cứu được vạn con chuột. Còn người tây thì nói: Absent le chat, les souris dansent. Đã có lần gã quan sát khi chuột thấy mèo thì hình như tứ chi bị tê liệt, co rúm và bất nhóc nhách. Mặc dù mèo có làm ngơ, ngoảnh mặt đi, thì chuột cũng không thể chạy thoát khỏi móng vuốt của mèo. Hồi còn bé, gã được học về một câu chuyện ngụ ngôn mang tựa đề là “Hội đồng chuột”. Câu chuyện ấy đại khái như thế này: Họ hàng nhà chuột, sau một cuộc kiểm tra hộ khẩu, thấy dân số bị sút giảm trầm trọng, khả dĩ đi tới chỗ tuyệt chủng. Thế là họ hàng nhà chuột bèn vội vã tổ chức đại hội bất thường, sớm hơn định kỳ để tìm phương thế cứu vãn tình hình. Trong cuộc đại hội này, vì sự sống còn của dòng tộc, tất cả từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột đực đến chuột cái, đều tích cực và hăng hái góp ý kiến. Những ý kiến này được ghi nhận, bàn bạc và thảo luận. Cuối cùng, ý kiến được coi là tuyệt vời nhất và được toàn thể hội nghị vỗ tay tán đồng, đó là tìm cách cột một chiếc chuông nhỏ vào cổ mèo. Hễ mèo đi tới đâu, chiếc chuông sẽ phát ra những tiếng leng keng báo động để họ hàng nhà chuột có đủ thời gian di tản chiến thuật, rút vào những nơi bảo đảm và an toàn nhất. Mọi chuột đều nhất trí và đồng ý với kế sách này. Thế nhưng khi hỏi xem có ai sẵn sàng đăng ký thực hiện, thì chẳng một chuột nào dám ghi tên. Và thế là từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột đực đến chuột cái, tất cả đều yên lặng rút lui có trật tự. Thậm chí cho tới ngày hôm nay, mèo vẫn còn là một tai họa to lớn cho dòng họ nhà chuột. Câu chuyện này làm cho gã băn khoăn, bởi vì trong đời thường, rất nhiều kẻ và ngay chính bản thân gã cũng giống như loài chuột bởi vì mình nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Nói thì đao to búa lớn, còn làm thì chỉ như cây tăm. Thậm chí trăm voi chưa chắc đã được một bát nước xáo. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tại Việt Nam dòng họ nhà chuột khấp khởi mừng thầm, bởi vì dân bợm nhậu Việt Nam và Trung Quốc rất khoái món thịt mèo, được kê theo thực đơn nhà hàng là món “tiểu hổ”. Những tay lái buôn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để tìm mua mèo. Mèo mua về được bán cho các nhà hàng, khách sạn và nhất là được xuất khẩu sang Trung quốc. Thế là dòng họ nhà chuột phát triển theo cấp số nhân. Vì không còn mèo giám sát và canh chừng, nên dòng họ nhà chuột tha hồ, mặc sức đục khoét mọi kho lẫm. Và chuột bỗng trở thành một quốc nạn làm cho chính phủ phải lo lắng và ra tay can thiệp bằng cách trừng trị đích đáng những tay lái…mèo. Không hiểu thiên hạ chế biến món thịt mèo ra sao. Chứ người dân quê, chỉ cần một mớ rau má đem nấu hay xào với thịt mèo, thì đã là tuyệt vời. Nhất là ruột mèo vừa trắng lại vừa dòn quả là hết ý. Từ cái tài bắt chuột, mà mèo bỗng được nhảy tót vào lãnh vực chính chị chính em. Bởi vì nếu gã không lầm, thì một vị chính khách cỡ bự, thuộc hàng đầu của Trung quốc, đó là ông Đăng tiểu Bình, đã lấy mèo làm biểu tượng cho đường lối của mình khi tuyên bố: Mèo trắng, mèo đen không hệ gì, miễn là bắt chuột. Phải chăng lời phán dạy này đã khai đường dẫn lối cho chính sách mở cửa, tự do kinh doanh, ngoại quốc đầu tư… miễn sao làm cho dân được giàu và nước được mạnh? Được ưu ái nuôi ở trong nhà, nên mèo rất gần gũi với người bình dân, đồng thời cũng đã đi vào nếp sống và kinh nghiệm đời thường. Thực vậy, mèo vốn là dấu chỉ của sự xui xẻo và xúi quẩy: Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang. Bởi đó mấy anh lơ thường không cho hành khách mang mèo lên xe đò, kẻo gặp sự chẳng lành trong suốt cuộc hành trình của mình. Rồi mỗi khi tự khen về những thành công và ưu điểm của mình, thì liền bị những kẻ thối mồm kê ngay tủ đứng vào miệng: Rõ thật, mèo khen mèo dài đuôi. Câu kê tủ đứng này còn nặng hơn cả câu: Mẹ hát con khen hay. Hoặc câu: Lươn ngắn lại chê trạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm. Với tuổi đời chồng chất, chúng ta thu tích được một mớ kinh nghiệm, thế nhưng nếu lỡ biến chúng thành những kinh nghiệm…sống sượng bởi những ý đồ đen tối, thì chúng ta lập tức trở nên giống mèo, bởi vì: Mèo già hóa cáo, cáo già hóa chằng tinh. Liệu chúng ta đã trở nên “cáo già” hay “chằng tinh” chưa? Thỉnh thoảng một đôi khi trong cuộc sống, chúng ta được vận may thăm viếng hay thần tài gõ cửa vào giữa lúc nghiệt ngã nhất. Thiên hạ không ngại liệt chúng ta vào hàng mèo, bởi vì lúc bấy giờ mắt chúng ta sáng rực như “mèo thấy mỡ” và thiên hạ sẽ không ngần ngại gọi chúng ta là “mèo mù vớ cá rán”. Và sau cùng, mèo hiền, mèo ngoan thường được yêu thương, chẳng ai nỡ đánh tập nó, như tục ngữ đã bảo: Mèo lành ai nỡ xách tai, gái hư chồng để khoe tài nỗi chi. Trong đời thường, hình như mối liên hệ giữa mèo và những người bạn sống quanh nó không được tốt đẹp cho lắm. Trước hết là mối liên hệ với chuột. Như chúng ta đã thấy, hình như sự thù ghét chuột đã in sâu vào bản tính của mèo. Vì thế, hễ gặp chuột là mèo liền xơi tái, chẳng chút xót thương. Còn họ hàng nhà chuột, vốn ý thức thân phận nhược tiểu và yếu kém của mình, nên theo sự diễn tả của người bình dân, luôn tỏ ra biết điều và lễ độ: Bốn con chuột đưa xác con mèo, tò te tò tò tí tí te. Tiếp đến là mối liên hệ với chó. Mèo ghét chuột thế nào, thì có lẽ chó cũng ghét mèo như thế. Nhà gã nhiều chuột, định nuôi vài con mèo cho bớt sự phá phách. Thế nhưng hễ xin được mèo con nào, nếu không canh giữ cẩn thận, thì liền bị chó cắn chết. Đang đêm mà nghe thấy mèo tru lên hai ba tiếng, thì thế nào sáng hôm sau cũng thấy mèo con phơi xác trên trận địa. Vì thế người Pháp đã bảo: Vivre comme le chien et le chat. Nghĩa là yêu nhau cũng thể như chó với mèo. Tuy nhiên một đôi lúc chúng ta cũng thấy mèo và chó sống chung hòa bình với nhau. Có những tay săn ảnh tình cờ chộp được những bức hình mèo ngủ yên trong vòng tay yêu thương của chó. Xét về những đặc tính của mèo, gã ghi nhận mấy điều sau đây. Trước hết mèo có nhân đức “sạch sẽ”, bởi vì mỗi khi phóng uế, mèo đều vùi dấu thật kỹ, chứ không phóng uế một cách bừa bãi, thiếu văn hóa như nhiều người. Vì sạch sẽ mà vùi dấu, thế nhưng chính vì sự vùi dấu này mà mèo lại trở thành biểu tượng cho sự thiếu ngay thẳng, bởi vì thiên hạ thường bảo: Lấm la lấm lét như mèo dấu cứt! Có lẽ vì phải thức đêm bắt chuột, mà suốt ngày mèo nằm ngủ li bì. Với sự nằm ngủ li bì như thế, mèo bị mang tiếng là lười biếng, lười đến độ chảy thây chảy xác, đồng thời tượng trưng cho những kẻ chểnh mảng, bôi bác, qua loa, đại khái, bởi vì họ làm như mèo mửa hay như mèo rửa mặt. Thực vậy, mèo tuy có nhân đức “sạch sẽ” nhưng lại rất sợ nước. Vì thế, để rửa mặt, mèo thường liếm vào bàn chân rồi đưa lên và quẹt quẹt vào mặt, giống như gã hồi còn nhỏ. Phải, hồi còn nhỏ, mỗi khi trời trở lạnh, gã rất thích nằm ngủ nướng, cuộn mình trong chăn sướng rên mé đìu hiu. Mẹ đánh thức như gọi đò sang sông, thế mà gã chỉ ú ớ: Từ từ cái đã. Khi mở được cặp mi nặng trĩu, thì đã sáng bạch, thiếu điều ông mặt trời chiếu xỏ vào lỗ mũi. Và thế là phải ù té gấp gáp làm một số những công việc cần thiết, như: đi đái lấy nước súc miệng đánh răng! Thấy vậy, bao giờ mẹ gã cũng mỉm cười và bảo: Con làm cứ như mèo rửa mặt vậy. Một đặc tính khác của mèo là thích được vuốt ve, mơn trớn và chiều chuộng. Gã nuôi một con mèo, ban sáng ngủ dậy, vừa ngồi vào ghế, thể nào nó cũng đến và cạ vào chân gã. Cạ một vài lần mà không thấy gã nhúc nhích hay động tĩnh gì, thì thế nào nó cũng cắn nhẹ vào chân gã, khiến gã đau điếng. Vì thế, nhiều hôm vừa mới bắn xong điếu thuốc lào, mà theo dân ghiền thì điếu quan trọng nhất trong ngày, chính là điếu đầu tiên ban sáng, chắc chắn thế nào cũng…phê. Đang thả hồn theo khói thuốc, cũng phải cố gắng đá nhẹ cho nó một phát thì nó mới chịu để cho gã được yên. Ngoài ra mèo còn mắc phải một thói xấu khác là thích ăn vụng. Gã nhớ hồi còn bé, mỗi lần bố gã dọn tiệc hay chị gã dọn cơm, thế nào gã cũng được phân công canh chừng, để đuổi ruồi và trông mèo. Có lẽ vì thích ăn vụng và thích được vuốt ve mà mèo được dùng để chỉ…bồ nhí. Tiếng Việt Nam thật là phong phú. Có người yêu thì hoàn toàn khác với có bồ nhí hay có…mèo. Bởi vì có người yêu thường phải công khai và hợp pháp. Trong khi đó có bồ nhí hay có mèo bao giờ cũng phi pháp và thầm lén vụng trộm. Gã thành thật “khẩu phục tâm phục” những đấng đờn ông, vợ con đề huề, thế mà còn can đảm đèo bồng thêm tí bồ nhí. Vừa hao tiền tốn bạc, vừa mất thời giờ và chỉ tội đau lưng. Còn địa vị và sự nghiệp thì dễ dàng đi đoong, một sớm một chiều thân bại danh liệt chóng như trở bàn tay. Chiều được một cô bồ nhí quả là một nghệ thuật. Bởi vì cũng giống như mèo, cô bồ nhí nào mà chẳêng thích được vuốt ve, cưng chiều. Cô bồ nhí nào mà chẳng hay hờn, hay dỗi, hay nhõng nhẽo và hay đỏng đảnh. Biết vậy thế mà khối anh đờn ông vẫn cứ nhào vô như con thiêu thân lao đầu vào lửa. Ngoài ra, thiên hạ còn thích dùng hình ảnh mèo để so sánh với con gái, bởi vì giữa mèo và con gái có nhiều điể giống nhau. Điểm thứ nhất giống nhau đó là cái khoản ăn. Mèo ăn ít mà con gái cũng ăn ít, vì vậy người đời mới bảo: Nam thực như hổ, nữ thực như miu. Nghĩa là đờn ông con giai thì ăn nhiều như hổ, còn đờn bà con gái thì ăn ít như mèo. Ấy là thiên hạ tự giới hạn vào việc ăn chính thức trong bữa cơm, chứ còn ăn lai rai trong ngày hay ăn hàng với đủ thứ quà vặt thì khác. Đem cộng và cân tất cả mọi thứ quà vặt này vào thì chưa chắc mèo nào thắng mèo nào, vì đờn bà con gái vốn là chúa ăn vạêt cơ mà: Đi chợ mất tám tiền quà, chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm! Điểm thứ hai giống nhau, đó là chuyện không và có. Con mèo ngoáy đuôi bên trái thì sẽ nhảy qua bên phải, cũng vậy con gái bảo có thì chắc chắn là không, bảo không thì chắc chắn lại là có, như một bài hát của Ngọc Lễ: Con gái nói một là hai, nói hai là một, con gái nói ghét là thương, nói thương là ghét. Vì thế, đừng nghe những gì con gái nói! Điểm thứ ba giống nhau. Đó là về thái độ hiền và dữ. Thực vậy, mèo thật hiền lành khi nó nằm dài ngủ yên, khi nó cạ nhẹ vào chân mình. Thế nhưng mèo cũng thật dữ dằn khi nó nhe răng gầm gừ và giơ móng nhọn chiến đấu với chó, hay vồ chuột nhanh như chớp. Con gái cũng vậy, bình thường thì nhỏ nhẹ dễ thương và dễ mến, nhất là khi cô nường nhõng nhẽo hay mần duyên. Thế nhưng một khi đã nổi cơn tam bành vì bị chạm tự ái hay bị phỗng tay trên mất mối lợi, thì phải biết. Đang là một cô em bắc kỳ nho nhỏ bỗng hóa kiếp thành một bà chằng lửa, chửi đến nơi đến chốn, chửi có bài có bổn, chửi có cung có điệu, tay chân thì múa may quay cuồng thiếu điều lăn xả vào người ta như muốn ăn tươi nuốt sống vậy. Tuy nhiên, có một điều hoàn toàn khác biệt giữa mèo và con gái, đó là mèo thì luôn có râu, bất kể là mèo đực hay mèo cái. Còn đờn bà con gái thì lại chẳng có râu. Họa lắm mới có. Và nếu có, thì quả là hết nước nói. Gã Siêu
Thiên hạ thường bảo: - Nhà báo nói láo ăn tiền. Thế nhưng, ăn được tiền bằng nghề nói láo GãSiêu 54
Thiên hạ thường bảo: - Nhà báo nói láo ăn tiền. Thế nhưng, ăn được tiền bằng nghề nói láo không phải là chuyện dễ. Có anh nhà báo khi bài của mình vừa mới được trình làng liền bị bà xã chất vấn: - Tôi nói cho anh hay: văn là người. Anh đã vắt óc, moi ruột gan phèo phổi để viết nên bài ấy và bài ấy đã phản ảnh đúng tim đen của anh và của bọn đàn ông. Vậy cái con nhỏ trong bài ấy là đứa nào ? Liệu cái thần hồn, anh mà léng phéng với ai là…chít mí em đấy. Không thiếu gì những anh nhà báo đã được ăn đòn hội chợ hay được xơi kẹo đồng vì đã trót dại chõ mõm vào các xếp lớn, hay lạng quạng đụng vô phạm vi chính chị chính em. Và rốt cuộc chẳng anh nhà báo nào làm giàu hay phất lên nhờ cái nghề ngỗng này, bởi vì ở Việt Nam nhà giáo và nhà báo thì chỉ có nước…húp cháo mà thôi. Lắm lúc tiền nhuận bút đã tiêu béng đi từ hồi nào, mà bài thì lại chưa viết, thế là đúng hẹn, bèn phải ngồi vào bàn hì hục viết lách gọi là kéo cày trả nợ, một cách văn hoa hơn là “tằm nhả tơ”, nhưng thực chất chỉ là viết nhăng viết cuội. Như gã lúc này, công việc cuối năm thật bề bộn khiến đầu óc trống rỗng, mà hạn nộp bài cho số tết đã tới gần, chẳng biết sẽ phải tán hươu tán vượn về sự gì. Thôi đành phải theo truyền thống vốn đã có từ lâu đời, năm mão thì phải nói láo về…mèo đứt đuôi chứ còn gì. Mão, miêu hay mèo đó là một loại thú nhỏ thuộc giống ăn thịt, lông mềm, râu trắng, cứng và cử đôäng được, vấu bén, mình nhẹ, leo giỏi và có tài bắt chuột. Có lẽ chính nhờ tài bắt chuột mà mèo được nhiều người, nhất là người nông dân ưu ái muôi ở trong nhà. Đối với lũ chuột thì mèo chính là đại vương sư tử. Người tàu thì bảo: - Sát nhất miêu, cứu vạn thử. Nghĩa là giết được một con mèo thì cứu được vạn con chuột. Còn người tây thì nói: - Absent le chat, les souris dansent. Nghĩa là vắng mèo, chuột nhảy choi choi. Hay: - Mèo đi ra thì chuột vươn vai theo kiểu vắng chủ nhà gà vộc niêu tôm. Đã có lần gã quan sát khi chuột thấy mèo thì hình như tứ chi bị tê liệt, co rúm và bất nhóc nhách. Mặc dù mèo có làm ngơ, ngoảnh mặt đi, thì chuột cũng không thể chạy thoát khỏi móng vuốt của mèo. Hồi còn bé, gã được học về một câu chuyện ngụ ngôn mang tựa đề là “Hội đồng chuột”. Câu chuyện ấy đại khái như thế này: Họ hàng nhà chuột, sau một cuộc kiểm tra hộ khẩu, thấy dân số bị sút giảm trầm trọng, khả dĩ đi tới chỗ tuyệt chủng. Thế là họ hàng nhà chuột bèn vội vã tổ chức đại hội bất thường, sớm hơn định kỳ để tìm phương thế cứu vãn tình hình. Trong cuộc đại hội này, vì sự sống còn của dòng tộc, tất cả từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột đực đến chuột cái, đều tích cực và hăng hái góp ý kiến. Những ý kiến này được ghi nhận, bàn bạc và thảo luận. Cuối cùng, ý kiến được coi là tuyệt vời nhất và được toàn thể hội nghị vỗ tay tán đồng, đó là tìm cách cột một chiếc chuông nhỏ vào cổ con mèo. Hễ mèo đi tới đâu, chiếc chuông sẽ phát ra những tiếng leng keng báo động để họ hàng nhà chuột có đủ thời gian di tản chiến thuật, rút vào những nơi bảo đảm và an toàn nhất. Mọi chuột đều nhất trí và đồng ý với kế sách này. Thế nhưng khi hỏi xem có ai sẵn sàng đăng ký thực hiện, thì chẳng một chuột nào dám ghi tên. Và thế là từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột đực đến chuột cái, tất cả đều yên lặng rút lui có trật tự. Thậm chí cho tới ngày hôm nay, mèo vẫn còn là một tai họa to lớn cho dòng họ nhà chuột. Câu chuyện này làm cho gã băn khoăn, bởi vì trong đời thường, rất nhiều kẻ và ngay chính bản thân gã cũng giống như loài chuột bởi vì mình nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Nói thì đao to búa lớn, còn làm thì chỉ như cây tăm. Thậm chí trăm voi chưa chắc đã được một bát nước xáo. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tại Việt Nam dòng họ nhà chuột khấp khởi mừng thầm, bởi vì dân bợm nhậu Việt Nam và Trung Quốc rất khoái món thịt mèo, được gọi theo thực đơn nhà hàng là món “tiểu hổ”. Những tay lái buôn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để tìm mua mèo. Mèo mua về được bán cho các nhà hàng, khách sạn và nhất là được xuất khẩu sang Trung quốc. Thế là dòng họ nhà chuột phát triển theo cấp số nhân. Vì không còn mèo giám sát và canh chừng, nên dòng họ nhà chuột tha hồ, mặc sức đục khoét mọi kho lẫm. Và chuột bỗng trở thành một quốc nạn làm cho chính phủ phải lo lắng và ra tay can thiệp bằng cách trừng trị đích đáng những tay lái…mèo. Không hiểu thiên hạ chế biến món thịt mèo ra sao. Chứ người dân quê, chỉ cần một mớ rau má đem nấu hay xào với thịt mèo quả là tuyệt vời. Nhất là ruột mèo vừa trắng lại vừa dòn quả là hết xảy. Từ cái tài bắt chuột, mà mèo bỗng được nhảy tót vào lãnh vực chính chị chính em. Bởi vì nếu gã không lầm, thì một vị chính khách cỡ bự, thuộc hàng đầu của Trung quốc, đó là ông Đăng tiểu Bình, đã lấy mèo làm biểu tượng cho đường lối và chính sách của mình khi tuyên bố: - Mèo trắng, mèo đen không hệ gì, miễn là bắt chuột. Phải chăng lời phán dạy này đã khai đường dẫn lối cho chính sách mở cửa, tự do kinh doanh, ngoại quốc đầu tư… miễn sao làm cho dân được giàu và nước được mạnh ? Được ưu ái nuôi ở trong nhà, nên mèo rất gần gũi và thân thương với người bình dân, đồng thời cũng đã đi vào nếp sống và kinh nghiệm đời thường. Thực vậy, mèo vốn là dấu chỉ của sự xui xẻo và xúi quẩy: - Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang. Bởi đó mấy anh lơ thường không cho hành khách mang mèo lên xe đò, kẻo gặp sự chẳng lành trong suốt cuộc hành trình của mình. Rồi mỗi khi khen và tự khen về những thành công và ưu điểm của mình, thì liền bị những kẻ thối mồm kê ngay tủ đứng vào miệng, khi họ chu mỏ nói với chúng ta: - Rõ thật, mèo khen mèo dài đuôi. Câu kê tủ đứng này còn nặng hơn cả câu: - Mẹ hát con khen hay. Hoặc câu: - Lươn ngắn lại chê trạch dài, Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm. Với tuổi đời chồng chất, chúng ta thu tích được một mớ kinh nghiệm, thế nhưng nếu chúng ta lỡ biến chúng thành những kinh nghiệm…sống sượng bởi những ý đồ đen tối, thì chúng ta lập tức trở nên giống mèo, bởi vì: - Mèo già hóa cáo, Cáo già hóa chằng tinh. Liệu chúng ta đã trở nên “cáo già” hay “chằng tinh” chưa ? Thỉnh thoảng một đôi khi trong cuộc sống, chúng ta được vận may thăm viếng hay thần tài gõ cửa vào giữa lúc nghiệt ngã nhất. Thiên hạ không ngại liệt chúng ta vào hàng mèo, bởi vì lúc bấy giờ mắt chúng ta sáng rực như “mèo thấy mỡ” và thiên hạ sẽ không ngần ngại gọi chúng ta là “mèo mù vớ cá rán” hay “ngủ gật gặp chiếu manh”. Và sau cùng, mèo hiền, mèo ngoan thường được yêu thương, chẳng ai nỡ đánh tập nó, như tục ngữ đã bảo: - Mèo lành ai nỡ xách tai, Gái hư chồng để khoe tài nỗi chi. Trong đời thường, hình như mối liên hệ giữa mèo và những người bạn sống quanh nó không được tốt đẹp cho lắm. Trước hết là mối liên hệ với chuột. Như chúng ta đã thấy, hình như sự thù ghét chuột đã in sâu vào bản tính của mèo. Vì thế, hễ gặp chuột là mèo liền xơi tái, chẳng chút xót thương. Còn họ hàng nhà chuột, vốn ý thức thân phận nhược tiểu và yếu kém của mình, nên theo sự diễn tả của người bình dân, luôn tỏ ra biết điều và lễ độ: - Bốn con chuột đưa xác con mèo. Tò te tò tò te te tò Bốn con chuột đưa xác con mèo, Tò te tò tò tí tí te. Tiếp đến là mối liên hệ với chó. Mèo ghét chuột thế nào, thì có lẽ chó cũng ghét mèo như thế, nhất là mèo con. Nhà gã nhiều chuột, định nuôi vài con mèo cho bớt sự phá phách. Thế nhưng hễ xin được mèo con nào, nếu không canh giữ cẩn thận, thì liền bị chó cắn chết. Đang đêm mà nghe thấy mèo tru lên hai ba tiếng, thì thế nào sáng hôm sau cũng thấy mèo con phơi xác trên trận địa. Vì thế người Pháp đã bảo: - Vivre comme le chien et le chat. Nghĩa là yêu nhau cũng thể như chó với mèo. Tương tự như mối liên hệ mẹ chồng nàng dâu vậy: - Thật thà như thể lái trâu, Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng. Tuy nhiên một đôi lúc chúng ta cũng thấy mèo và chó sống chung hòa bình với nhau. Có những tay săn ảnh tình cờ chộp được những bức hình mèo ngủ yên trong vòng tay yêu thương của chó. Xét về những đặc tính của mèo, gã ghi nhận mấy điều sau đây. Trước hết mèo có nhân đức “sạch sẽ”, bởi vì mỗi khi phóng uế, mèo đều vùi dấu thật kỹ, chứ không phóng uế một cách bừa bãi, thiếu văn hóa như nhiều người. Thực vậy, Saigòn, thành phố Hồ chí Minh, vốn được gọi là hòn ngọc Viễn đông từ lâu, thế mà đi trên đường, đôi khi thiên hạ vẫn dẫm phải những “bãi mìn”, cụ thể là những đống…phân. Hình như chỗ nào có bảng chữ: cấm đổ rác, cấm tiêu, cấm tiểu, cấp đái… thì chỗ đó lại được chiếu cố đặc biệt. Người ta càng đổ rác nhiều và càng…cho ra hăng. Mỗi lần phải đi qua đó, thì liền được thưởng thức một thứ xú khí nồng nặc đến nôn mửa. Vì sạch sẽ mà vùi dấu, thế nhưng chính vì sự vùi dấu này mà mèo lại trở thành biểu tượng cho sự thiếu ngay thẳng, bởi vì thiên hạ thường bảo: - Lấm la lấm lét như mèo dấu cứt. Có lẽ vì phải thức đêm bắt chuột, mà suốt ngày mèo nằm ngủ li bì. Với sự nằm ngủ li bì như thế, mèo bị mang tiếng là lười biếng, lười đến độ chảy thây chảy xác, đồng thời tượng trưng cho những kẻ chểnh mảng, bôi bác, qua loa, đại khái, bởi vì họ làm như mèo mửa hay mèo rửa mặt.. Thực vậy, mèo tuy có nhân đức “sạch sẽ” nhưng lại rất sợ nước. Vì thế, để rửa mặt, mèo thường liếm vào bàn chân rồi đưa lên và quẹt quẹt vào mặt, giống như gã hồi còn nhỏ. Phải, hồi còn nhỏ, mỗi khi trời trở lạnh, gã rất thích nằm ngủ nướng, cuộn mình trong chăn sướng rên mé đìu hiu. Mẹ đánh thức như gọi đò sang sông, thế mà gã chỉ ú ớ: - Từ từ cái đã. Khi mở được cặp mi nặng trĩu, thì đã sáng bạch, thiếu điều ông mặt trời chiếu xỏ vào lỗ mũi. Và thế là phải ù té gấp gáp làm một số những công việc cần thiết, như: đi đái, lấy nước, súc miệng, đánh răng, rửa mặt… Thấy vậy, bao giờ mẹ gã cũng mỉm cười và bảo: -Con làm cứ như mèo rửa mặt vậy. Một đặc tính khác của mèo là thích được vuốt ve, mơn trớn và chiều chuộng. Gã nuôi một con mèo, ban sáng ngủ dậy, vừa ngồi vào ghế, thể nào nó cũng đến và cạ vào chân gã. Cạ một vài lần mà không thấy gã nhúc nhích hay động tĩnh gì, thì thế nào nó cũng cắn nhẹ vào chân gã, khiến gã đau điếng. Vì thế, nhiều hôm vừa mới bắn xong điếu thuốc lào, mà theo giới ghiền thuốc lào thì điếu quan trọng nhất trong ngày, chính là điếu đầu tiên ban sáng, chắc chắn thế nào cũng…phê, đang thở phì phò hay đang thả hồn theo khói thuốc, cũng phải cố gắng đá nhẹ cho nó một phát thì nó mới chịu để cho gã được yên. Ngoài ra mèo còn mắc phải một thói xấu khác là thích ăn vụng. Gã nhớ hồi còn bé, mỗi lần bố gã dọn tiệc hay chị gã dọn cơm, thế nào gã cũng được phân công canh chừng, để đuổi ruồi và trông mèo. Có những hôm bóng dáng mèo chẳng thấy đâu, mà thủ phạm ăn vụng lại là chính gã. Thực vậy, nhìn trước nhìn sau không thấy một ai và thế là gã liền rón rén, nhón vội một miếng, rồi đút vào miệng mà nhai ngấu nhai nghiến. Miếng thịt được ăn vụng sao mà nó ngon đáo để, đến giờ nghĩ lại vẫn còn thinh thích, mặc dù có…xí hổ tí chút cho tuổi thơ đơn sơ và ngây thơ. Có lẽ vì thích ăn vụng và thích được vuốt ve mà mèo được dùng để chỉ…bồ nhí. Tiếng Việt Nam thật là phong phú. Có tình nhân, có người yêu hay có bồ thì hoàn toàn khác với có bồ nhí hay có…mèo. Bởi vì có tình nhân, có người yêu hay có bồ, thường phải là công khai và hợp pháp. Trong khi đó có bồ nhí hay có mèo bao giờ cũng bất hợp pháp và thầm lén vụng trộm. Gã thành thật “khẩu phục tâm phục” những đấng đờn ông, vợ con đề huề, thế mà còn can đảm đèo bồng thêm tí bồ nhí. Vừa hao tiền tốn bạc, vừa mất thời giờ và chỉ tội đau lưng. Còn địa vị và sự nghiệp thì dễ dàng đi đoong, đồng thời một sớm một chiều thân bại danh liệt chóng như trở bàn tay. Chiều được một cô bồ nhí quả là một nghệ thuật. Bởi vì cũng giống như mèo, cô bồ nhí nào mà chẳêng thích được vuốt ve, mơn trớn và cưng chiều. Cô bồ nhí nào mà chẳng hay hờn, hay dỗi, hay nhõng nhẽo và hay đỏng đảnh…..Biết vậy thế mà khối anh đờn ông vẫn cứ nhào vô như con thiêu thân lao đầu vào lửa. Thiên hạ thích dùng hình ảnh mèo để so sánh với đờn bà con gái, bởi vì giữa mèo và đờn bà con gái có nhiều điể giống nhau. Điểm thứ nhất giống nhau đó là cái khoản ăn. Mèo ăn ít mà đờn bà con gái cũng ăn ít, vì vậy người đời mới bảo: - Nam thực như hổ, nữ thực như miu. Nghĩa là đờn ông con giai thì ăn nhiều như hổ, còn đờn bà con gái thì ăn ít như mèo. Ấy là thiên hạ tự giới hạn vào việc ăn chính thức trong bữa cơm, chứ còn ăn lai rai trong ngày hay ăn hàng với đủ thứ quà vặt thì khác. Đem cộng và cân tất cả mọi thứ quà vặt này vào thì chưa chắc mèo nào thắng mèo nào, vì đờn bà và nhất là con gái vốn là chúa ăn vạêt cơ mà: - Đi chợ mất tám tiền quà, Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm. Điểm thứ hai giống nhau, đó là chuyện không và có. Con mèo ngoáy đuôi bên trái thì sẽ nhảy qua bên phải, cũng vậy con gái bảo có thì chắc chắn là không, bảo không thì chắc chắn lại là có, như một bài hát của Ngọc Lễ: - Con gái nói có là không, con gái nói không là có. Con gái nói một là hai, con gái nói hai là một. Con gái nói ghét là thương, con gái nói thương là ghét, Đừng nghe những gì con gái nói. Đừng nghe những gì con gái nói… Gã sẽ mổ xẻ chi tiết về chuyện này trong một bài khác. Điểm thứ ba giống nhau. Đó là về thái độ hiền và dữ. Thực vậy, mèo thật hiền lành khi nó nằm dài ngủ yên, khi nó cạ nhẹ vào chân mình…thế nhưng mèo cũng thật dữ dằn khi nó nhe răng gầm gừ và giơ móng nhọn chiến đấu với chó, hay vồ chuột nhanh như chớp. Đờn bà con gái cũng vậy, bình thường thì nhỏ nhẹ dễ thương và dễ mến, nhất là khi cô nường nhõng nhẽo hay…mần duyên. Thế nhưng một khi đã nổi cơn tam bành vì bị chạm tự ái hay bị phỗng tay trên mất mối lợi, thì phải biết. Đang là một cô em bắc kỳ nho nhỏ bỗng hóa kiếp thành một bà chằng lửa, chửi đến nơi đến chốn, chửi có bài có bổn, chửi có cung có điệu, tay chân thì múa may quay cuồng thiếu điều lăn xả vào người ta như muốn ăn tươi nuốt sống vậy. Về vấn đề này thì gã xin “ no table” nghĩa là xin miễn bàn, kẻo lại bi ăn cà chua, trứng thối và bị chụp cho cái mũ thiên vị là luôn bốc thơm đờn ông con giai, mà lại hay bốc thối và bôi bác đờn bà con gái. Tuy nhiên, có một điều hoàn toàn khác biệt giữa mèo và đờn bà con gái, đó là mèo thì luôn có râu, bất kể là mèo đực hay mèo cái. Còn đờn bà con gái thì lại chẳng có râu. Họa lắm mới có. Và nếu có, thì quả là hết chỗ nói. Đêm bắt đầu về khuya, tiếng con nít xa dần, chìm vào xóm vắng: - Con mèo mà trèo cây cau, Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. Chú chuột đi chợ đàng xa, Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo. Gã Siêu.
Cách đây khoảng mười năm, mỗi khi gửi một bài báo, gã cảm thấy thật vất vả đến toát cả mồ GãSiêu 55
Cách đây khoảng mười năm, mỗi khi gửi một bài báo, gã cảm thấy thật vất vả đến toát cả mồ hôi hột. Ngoài chuyện phải cầm lòng cầm trí mà viết với lách, gã còn phải bấm đốt ngón tay và nhẩm tính trong bụng như sau: - Thời gian từ đây qua đó mất ngót nghét một tháng vì vận tốc của bưu điện vốn được tiếng là vận tốc của rùa bò. Phòng hờ những trục trặc như bị thất lạc, hay chưa ăn ý với ông chủ bút, cần phải điều chỉnh qua lại cũng mất ngót nghét một tháng. Thời gian cho báo lên khuôn, rồi in ấn và phát hành cũng mất ngót nghét một tháng. Như thế, phải gửi bài đi trước những ba tháng thì mới chắc ăn. Cứ thử nghĩ mà xem: Đầu tháng mười, gã đã phải ngồi rung đùi viết về lễ Giáng Sinh, cho dù có vận dụng hết khả năng tưởng tượng, thì cũng vẫn là một việc làm hết sức khó khăn. Còn bây giờ thì khác. Những phương tiện viễn thông trong thời gian gần đây đã liên tục phát triển và tạo được những bước tiến khổng lồ và ngoạn mục. Để tiết kiệm tiền bạc, bây giờ ông chủ bút chỉ cần gửi một cái “meo”, và lập tức vọng lại tiếng trả lời từ bên kia đại dương: - Dạ, có em. Và chỉ một lúc sau, tòa soạn liền nhận được một bài báo mới toanh, rồi chỉ việc “cóp-pi” và dán vào phần đất đã được dành sẵn cho nó, chẳng cần phải mổ cò gõ máy, vừa chậm chạp lại vừa tốn sức lao động. Với những tiến bộ trong lãnh vực viễn thông như thế, nhân loại dường như xích lại gần nhau hơn và câu tục ngữ từ ngàn xưa xem ra có cơ may sớm được thực hiện, đó là: - Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Một biến cố vừa xảy ra ở nơi nào đó trên thế giới, chẳng hạn như cơn bão Katrina thổi vào New Orleans…thì lập tức mọi người đều được biết qua truyền thanh, truyền hình, internet…những ngăn cách, những rào cản đang dần dần đã bị phá vỡ, để rồi thế giới trở thành mái nhà chung cho mọi người. Cũng trong chiều hướng phá vỡ những rào cản, những ngăn cách, trong những năm gần đây gã thường thấy xuất hiện cụm từ “không biên giới”. Nào là “Nhà Báo không biên giới”. Nào là “Y Sĩ không biên giới”… Nếu gã nhớ không lầm thì tổ chức “Y Sĩ thế giới” đã được lập ra để phục vụ mọi người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc và lãnh địa. Khi phong trào vượt biên lên tới cao điểm, thì tổ chức này đã có hẳn một con tàu lênh đênh trên biển Đông để cứu vớt và giúp đỡ những người lâm nạn. Và nếu suy nghĩ một chút, gã thấy phong trào “không biên giới” này đã nảy sinh từ “lệnh lên đường” của Đức Kitô bởi vì chính Ngài đã truyền dạy các môn đệ: - Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân. Chính vì thế, qua dòng thời gian các vị thừa sai đã lặn lội tới những vùng đất xa xôi và hẻo lánh nhất, để chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm, nhờ vậy mà cách đây hơn ba trăm năm dân tộc Việt Nam chúng ta đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng. Tuy nhiên, theo thiển ý của gã thi tình yêu mới chính là vùng đất phì nhiêu cho phong trào không biên giới này được nở rộ như trăm hoa khoe sắc. Và đó cũng chính là đề tài gã xin bàn đến trong mục chuyện phiếm hôm nay. Lâu lắm rồi gã có được xem một cuốn phim hay một vở kịch chi đó đề cập tới vấn đề: Người ta nên yêu đương ở lứa tuổi nào ? Câu chuyện xoay quanh một ông bố và ba cô con gái. Ông bố là một vị giáo sư khả kính, muốn tìm ra những qui luật của tình yêu dưới mọi góc độ như thời gian, nghề nghiệp, tuổi tác… Vậy muốn cho tình yêu được bền vững, người ta chỉ cần áp dụng những qui luật ấy một cách nghiêm chỉnh mà thôi. Vị giáo sư khả kính này được mời đi thuyết trình về bộ luật tình yêu ở nhiều nơi. Đồng thời chính ông cũng đã ra sức khuyên nhủ và tìm mọi cách để ba cô con gái thân yêu thực thi những qui luật ấy. Thế nhưng, cả ba cô con gái kẻ trước người sau đều rơi vào cái vòng tình ái cong cong, bất chấp những qui luật mà ông đã tốn công giảng giải. Và sau cùng, chính vị giáo sư khả kính này cũng đã bị tình yêu của bà hàng xóm đánh gục. Vì thế, ông đã quyết định đốt bỏ bộ luật mà ông đã khám phá ra, rồi sau đó tuyên bố một cách mạnh mẽ và dứt khóat với bàn dân thiên hạ rằng: - Tình yêu thì không có biên giới và cũng chẳng có qui luật ráo trọi nào cả. Thực vậy, như người ta thường bảo: - Con tim có những lý lẽ riêng của nó. Mà lý lẽ của con tim thì khác xa với lý lẽ của đầu óc, của lý trí. Chẳng hạn đối với những anh chị tập tễnh bước vào tình yêu, rất khó mà cắt nghĩa được cho ra ngô ra khoai: - Tại sao tôi yêu người này ? Tại sao tôi chọn người kia ? Có người vừa mới gặp mặt nhau, thì liền bị tiếng sét ái tình giáng một quả tốt tăm mặt mũi, khiến cho cả tinh tú lảo đảo quay cuồng. Trong khi đó, có những kẻ sống bên cạnh nhau từ hồi còn để chỏm, thế mà chẳng mảy may xúc động và xao xuyến bâng khuâng. Gã xin lượm lặt và đưa ra một vài lãnh vực để nói lên rằng yêu thương quả thực là không có biên giới. Thứ nhất, tình không biên giới về tuổi tác. Gã mới đọc được hai mẩu tin. Trước hết là mẩu tin trên báo Công An nói về chồng già vợ trẻ: “Nếu có ai làm được bộ sưu tập “những cuộc hôn nhân óai oăm” thì thật là tuyệt vời. Đó là truờng hợp của nhà báo Marie- Laure Durand trong tác phẩm “Những cuộc tình kỳ thú” (NXB La Fayette), sưu tập trong suốt 15 năm từ khắp thế giới. Ở đây, chúng tôi chỉ trích ra một bức ảnh trong số hàng trăm bức ảnh cực kỳ khác lạ: Cô gái 18 tuổi lấy chồng 78 tuổi, ông ta là một cựu phú tại Madras, Ấn Độ”. Nhìn vào bức hình chồng già vợ trẻ, gã liền nhớ tới câu ca dao: - Chồng già vợ trẻ là tiên. Vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần. Tiếp đến là mẩu tin trên báo Phụ Nữ nói về chồng trẻ vợ già: “Tình yêu không phân biệt tuổi tác, đều này thì không ai có thể nghi ngờ. Thế nhưng, người ta sẽ sửng sốt khi được biết có một mối tình chênh nhau quá xa này ở nước Úc. Bà Edna Townsend không ngần ngại thú nhận: - Tôi 70 tuổi, anh ấy 31. Tôi yêu anh ấy ngay từ lần gặp đầu cách đây 3 năm. Cuộc tình của họ nảy nở khi bà đi nghe một buổi hòa nhạc. Lúc chàng nhạc công Simon Martin vừa bước ra sân khấu, thì bà bỗng thấy tim mình đập dồn đập: - Tôi đã tự nhủ thật là một người đàn ông đáng yêu, anh ấy đích thực là người đàn ông của đời tôi. Bà là một kỹ sư xây dựng nghỉ hưu, đã lập gia đình lần đầu vào năm 1954. Cuộc hôn nhân này tồn tại được 37 năm. Sau đó bà “kết” một người bán sữa nhỏ hơn bà 16 tuổi và người đàn ông này qua đời vì canh bệnh ung thư 8 năm truớc. Còn Simon là một nhạc công rất nhút nhát trong chuyện tình cảm. Anh tâm sự: - Trước khi gặp Edna, tôi chưa bao giờ có một mối quan hệ sâu đậm nào và gần như chỉ biết có âm nhạc. Và Edna đã đảo lộn cuộc đời tôi. Cuộc tình của họ đã diễn tiến khá êm ả và lãng mạn với lời cầu hôn đúng ngày Valentine và một hôn lễ vào đầu năm nay. Trong ngày vui vô tiền khoáng hậu này, cô dâu ở tuổi 70 đã diện áo cưới được thiết kế theo mẫu thập niên 20, cài hoa lan trên tóc và cầm một bó bông dài. Những người được mời đến chung vui đều cảm thấy đây là một đám cưới có một không hai, nhất là khi họ được xem bộ ảnh cô dâu chú rể hóa thân thành những cặp tình nhân lãng mạn trong phim Pretty Woman, Titanic… Có thể nói ngay rằng mối quan hệ của họ tuy chênh lệch về tuổi tác, nhưng không mang “màu sắc đồng tiền”. Sau lời cầu hôn, Simon và Edna đi sắm nhẫn cưới trong một cửa hàng nữ trang second-hand. Gay cấn nhất là lúc Simon đưa “bà” người yêu về ra mắt bố mẹ anh: bố 69 tuổi, mẹ 64. Anh nói: - Tất nhiên là bố mẹ tôi hơi bị choáng khi biết cô con dâu tương lại còn lớn tuổi hơn bố mẹ chồng, nhưng rồi bố mẹ tôi đã thông cảm, chấp nhận mối tình của tôi. Ở tuổi xế chiều, điều mà bố mẹ tôi mong mỏi nhất là thấy tôi được hạnh phúc với người phụ nữ tôi yêu. Về phía nhà gái, Edna được các con riêng của bà ủng hộ… Nhìn vào tấm hình của họ, gã cũng nhớ ngay tới câu ca dao: - Chồng lớn vợ bé thì xinh, Chồng bé vợ lớn ra tình chị em. Ở đây không phải chỉ “ra tình chị em” mà còn “ra tình mẹ con” ấy chứ. Cách đây khá lâu, gã được chứng kiến một cảnh tương buồn cười. Tối hôm đó, bọn con nít vây chung quanh nhà thờ, khiến cha sở phải khóa chặt cửa lại, rồi mới tập nghi thức cho một đôi hôn phối: Chàng 70 còn nàng 45. Cha sở hỏi: - Khi đọc lời cam kết, ông muốn xưng hô: Anh nhận em làm vợ, tôi nhận bà làm vợ…hay một công thức khác đơn giản hơn, chỉ cần trả lời “có” mà thôi. Ông lão bèn hăng hái nói: - Thưa cha, phải: anh nhận em chứ. Đúng là tình yêu không phân biệt tuổi tác. Thứ hai, tình không biên giới về địa dư và đất nước. Như chúng ta đã biết, với những chiếc máy bay phản lực và nhất là với những phương tiện truyền thông hiện đại, thì việc nối liền những quốc gia và những lục địa chỉ là chuyện…nhỏ và không còn khó khăn nữa. Vì thế cũng đã nảy sinh những cuộc tình không biên giới, hay nói cách khác những cuộc tình xuyên quốc gia, xuyên lục địa. Trước hết là những cuộc tình xuyên quốc gia. Ngày xưa, một cô gái Việt Nam lấy chồng người nước ngoài, sự việc này thường bị coi là một hiện tượng đặc biệt và bị bàn dân thiên hạ nhìn bằng cặp mắt không mấy cảm tình. Người ta gọi họ là…me tây, me mỹ. Nhưng ngày nay, thế thái nhân tình đã đổi khác. Người ta coi đó là một vinh dự, một hãnh diện. Vì thế, trong những tháng năm gần đây đã nổi cộm lên phong trào những cô gái Việt Nam thi nhau lấy chồng Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan…Và gã tạm gọi đây là những cuộc tình xuyên quốc gia. Trong những cuộc tình xuyên quốc gia này, cũng có những người được hạnh phúc và đem tiền bạc về giúp đỡ cho cha mẹ, cho gia đình. Tuy nhiên, phần lớn đều đã thất bại đắng cay. Thất bại vì không hiểu được phong tục và ngôn ngữ nơi đất khách quê người. Thất bại vì bị lạm dụng để trở thành phương tiện thỏa mãn tình dục cho cả bố lẫn con của người ta. Thất bại vì bị bán vào những ổ điếm, mang thân ra làm gái mãi dâm, kiếm tiền cho các chủ chứa…Thật là đau lòng và bi đát. Tiếp đến là những cuộc tình xuyên lục địa. Đối tượng được nhắm tới là những anh chàng Việt kiều, vì người ta mơ rằng: - Lấy được Việt kiều thì tức khắc được đổi đời, từ nghèo hèn trở thành giàu có, từ vất vả cực nhọc trở thành sung suớng hạnh phúc. Và không ít người cũng đã vỡ mộng. Bên cạnh nhà gã có một cô bé. Thực tình mà nói, về phương diện ngoại hình thì cô bé bị xếp vào hạng dưới trung bình. Cô bé chỉ cao một thước rưỡi, nước da lại ngăm đen, nhưng bù lại trời phú cho cô bé cái khiếu về sinh ngữ. Cô bé rất giỏi tiếng Ăng Lê và làm giáo sư tại một trường học nọ. Thế rồi cô bé được cử đi giao lưu văn hóa tại Ấn Độ trong ba tuần lễ. Tại đây cô bé làm quen với một anh chàng chính gốc Ăng Lê, “cham phần chăm”: da trắng, mắt xanh và cao những một thước tám. Khi cuộc giao lưu chấm dứt, mọi người đều trở về quê hương bản quán của mình. Lúc đầu chỉ là tình bạn tinh ròng, nhưng sau đó qua những cái “meo” được trao đổi, tình bạn tinh ròng này bỗng chuyển biến và trở thành tình yêu lúc nào cả hai cũng không hay. Tết năm ấy anh chàng Ăng Lê còn dẫn cả bà mẹ sang Việt Nam để xem nhà và xem mắt cô bé. Và truớc khi cử hành hôn phối, anh chàng Ăng Lê này đã qua và sống ở Việt Nam sáu tháng để ôn lại giáo lý và lo những thủ tục cần thiết. Trong đám cưới mọi người tha hồ bình luận: - Đúng là mối tình xuyên lục địa. - Con nhỏ sao bạo gan thế. Khi mọi sự đã hoàn tất, chính anh chàng Ăng Lê đã đưa cô bé sang Anh Quốc, để cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc, bỏ lại sau lưng những lời bình luận đầy tình cảm cũng như đấy ác ý. Đúng là tình yêu không phân biệt lãnh địa và đất nước. Thứ ba, tình không biên giới về phương diện ngoại hình. Hình như bây giờ bàn dân thiên hạ đều chú trọng tới ngoại hình, tức là cái hình dong bên ngoài, theo kiểu: - Xem mặt mà bắt hình dong, Con lợn có béo, thì lòng mới ngon. Trong mục tìm bạn bốn phương trên các tạp chí, nếu là phe nữ thì thường kèm theo một câu giới thiệu đại loại như thế này: - Ngoại hình dễ nhìn…Ngoại hình coi được…Ngoại hình dễ thương…Ngoại hình bắt mắt… Trong các thông báo tuyển mộ nhân viên, nếu là nữ, thì thường bị đòi hỏi một điều kiện, đó là là…ngoại hình phải đẹp. Thành thử, nhiều người đã than ngắn thở dài: - Thời buổi này đâu còn là thời buổi cái nết đánh chết cái đẹp, mà là thời buổi cái đẹp đè bẹp cái nết. Vì vậy, luôn xảy ra những cuộc hôn nhân “lệch pha” về ngoại hình, hai bên khác biệt nhau một trời một vực. Trước hết là chuyện cao và thấp. Bình thường người chồng phải cao hơn người vợ một chút, thì mới hài hòa cân đối. Nếu người vợ hơi bị lùn một tí thì có thể dùng giày hay guốc cao gót, để bù lấp chỗ thiếu hụt thước tấc của mình. Chứ còn thiếu hụt quá nhiều thì cũng đành…bó tay. Như cô bé Việt Nam chỉ đứng tới ngực anh chàng Ăng Lê, xem ra cũng chẳng được ổn cho lắm, bởi vì mỗi khi anh chàng Ăng Lê muốn “mi” một cái, chắc sẽ phải thì thầm hay nghêu ngao bài hát của Trịnh Công Sơn: - Cúi xuống, cúi xuống thật gần… Thế nhưng, nếu chồng thấp vợ cao, thì đây chắc hẳn phải là điều bất ồn, làm cho bàn dân thiên hạ bàn tán, như ca dao đã diễn tả: - Chồng thấp mà lấy vợ cao, Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa. Hay: - Mẹ em tham thúng xôi dền, Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng: đừng, Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào. Bây giờ chồng thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch so sao cho vừa. Thế nhưng, trên đời vẫn có những đôi đũa lệch, những cặp chồng thấp vợ cao. Đúng là tình yêu không phân biệt thước tấc. Tiếp đến là chuyện trắng và đen. Vốn biết rằng: - Tối lửa tắt đèn, trắng cũng như đen. Thế nhưng, màu sắc hài hòa sẽ làm cho vợ chồng trở nên “bắt mắt” và dễ được bàn dân thiên hạ chấp nhận. Nếu trắng, thì cả hai cùng trắng. Nếu đen thì cả hai cùng đen, còn nếu ngăm ngăm, thì cả hai cùng ngăm ngăm. Trái lại, nếu người này trắng, còn người kia lại đen thì thế nào cũng được miệng lưỡi thế gian chõ vào. Dầu vậy, vẫn có những cặp vợ chồng đối chọi và tương phản nhau về phương diện màu sắc. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, gã có một người học trò tên là Dũng. Vì nước da hơi bị tối, nên bè bạn trong lớp đã tặng cho hắn cái biệt danh là “Dũng Đen”. Hai mươi năm sau, gã gặp lại người học trò cũ tại một vùng đất khỉ ho cò gáy. Hắn giới thiệu vợ hắn với gã. Thì ra vợ hắn là một người phụ nữ có nước da trắng như trứng gà bóc. Theo những định luật của sự di truyền, gã nhẩm tính trong lòng rằng: Có lẽ tổ tiên ba bốn đời của vợ hắn là một ông tây, nên bây giờ chị ta mới được thừa hưởng đôi mắt nâu màu hạt dẻ, cái mũi cao cao và nước da trắng như trứng gà bóc. Lợi dụng nước da ngăm đen của mình, đồng thời lợi dụng đôi mắt nâu màu hạt dẻ, cái mũi cao cao và nước da trắng như trứng gà bóc của vợ, hắn chạy chọt và luồn lách để làm hồ sơ sang Mỹ theo diện con lai. Và hắn đã qua mặt các viên chức Mỹ cũng như Việt và gia đình hắn hiện đang sống hạnh phúc tại Hawaii. Đúng là tình yêu không phân biệt trắng đen. Sau cùng là chuyện đẹp và xấu. Trong cuộc sống, gã đã từng thấy có những anh chàng đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu lại kết “mô đen” với một chị nàng xấu ơi là xấu. Và ngược lại, có những chị nàng đẹp ơi là đẹp lại đi lấy một anh chàng nông nãi vũ phu chi cục mịch. Chỉ trong những cuộc thi hoa hậu, người ta mới bàn đến cái đẹp khách quan, được ấn đinh bởi những số đo vòng một, vòng hai, vòng ba… Còn trong đời thường, người ta luôn nói tới cái đẹp chủ quan. Ngoại hình tuy hơi bị xấu, nhưng lại có duyên ở cách ăn nói, ở chiếc răng khểnh, hay ở đôi má lúm đồng tiền…nên vẫn hấp dẫn là làm cho người khác mê như điếu đổ. Vì thế, cái đẹp trong tình yêu mãi mãi vẫn chỉ là một cái đẹp chủ quan. Dưới lăng kính của tình yêu, người ta đã định nghĩa: - Đẹp có nghĩa là con cóc cái dưới mắt con cóc đực. Xấu là xấu với bàn dân thiên hạ, nhưng vẫn luôn là đẹp với người đang say men tình. Và chỉ cần có vậy mà thôi. Đúng là tình yêu không phân biệt đẹp xấu. Nếu cứ tiếp tục phân tích, gã còn nhận ra biết bao nhiêu lãnh vực khác nữa. Tình không biên giới về tiền bạc, tình không biên giới về địa vị, tình không biên giới về giai cấp…Và để kết luận, gã xin mượn lời một tác giả trên báo Công An đã viết như sau: “Tình yêu không phân biệt tuổi tác, giai cấp, kích thước và trọng lương. Có những ông già 70-80 lấy cô gái 20. Có những gã nẵng hàng trăm ký lấy người đẹp 38 ký. Hay cô em người mẫu cao 1,82 mét lấy anh chồng thấp chỉ được 1,3 mét đứng tới hông của mình. Có những ông vua lấy nàng thôn nữ, hay những tay đại tài phiệt lấy cô gái đứng đường…” Tất cả những sự kiện “không biên giới”, “không phân biệt” hay “lệch pha” kể trên, theo gã nghĩ , đều được xuất phát bởi những đánh giá mang tính cách chủ quan của mình, như tục ngữ và ca dao đã diễn tả: - Yêu nhau muôn sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng. Một khi đã yêu, đã thương thì củ ấu cũng tròn và trái bồ hòn cũng ngọt. Vậy gã xin giơ cả hai tay lẫn hai chân để nhiệt liệt hoan hô: - Tình không biên giới muôn năm !!! Gã Siêu
Theo “Việt Nam tự điển” của Lê văn Đức thì cò được định nghĩa là một loại chim cẳng cao, mỏ GãSiêu 56
Theo “Việt Nam tự điển” của Lê văn Đức thì cò được định nghĩa là một loại chim cẳng cao, mỏ dài, mình thon, đuôi nhọn, ăn cá, bình thường lông màu trắng, nhưng cũng có loại lông màu xám như cò hương, hay lông màu đỏ như cò lửa… Khi tìm hiểu về ca dao, gã thấy hình ảnh con cò là một hình ảnh quen thuộc và thân thương nhất của người bình dân. Thực vậy, vãi mồ hôi trên đồng ruộng, người nông dân có con trâu làm bạn để giúp đỡ họ. Thế nhưng trâu thì nặng nề, chậm chạp và suốt đời vất vả. Vì vậy, để đầu óc được thư giãn, thảnh thơi và bay bổng, người nông dân đã mượn hình ảnh con cò, một hình ảnh vừa thơ mộng lại vừa đẹp đẽ để nói lên những ước mơ và những hiện thực của đời mình. Như người nông dân, con cò cũng đã phải vất vả kiếm sống: - Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo xèo mặt nước buổi đò đông, Như người nông dân, con cò đã chết đi trong cô đơn nghèo túng: - Cái cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngay làm ma. - Cái cò chết tối hôm qua, Có hai hạt gạo với ba đồng tiền, Một đồng mua trống mua kèn Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong Một đồng mua mớ rau rong Đem về thái nhỏ thờ vong con cò. Như người nông dân, con cò cũng đã phải chịu nhiều cảnh oan ức vì thấp cổ bé miệng: - Cái cò cái vạc cái nông, Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò, Không không tôi đứng trên bờ, Mẹ con cái vạc đổ thừa cho tôi, Chẳng tin ông đến tận nơi, Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia. Như người nông dân, con cò cũng đã chia sẻ số phận cay đắng của đất nước: - Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống gềnh bấy nay. Và đôi lúc cũng đã bị đàn áp dã man: - Con cò mà đậu cành tre, Thằng Tây bắn súng cò què một chân, Đến mai ra chợ Đồng xuân, Chú khách mới hỏi sao chân cò què, Cò rằng cò đứng bờ tre, Thằng Tây bắn súng cò què một chân. Như người nông dân, con cò cũng có những giây phút mộng mơ và nhung nhớ: - Một đàn cò trắng bay quanh, Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta, Mình nhớ ta như cà với muối, Ta nhớ mình như cuội với trăng. Như người nông dân, con cò dù có phải chết vẫn cố gắng giữ lấy sự trong trắng của mình: - Con cò mày đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm luôn cổ xuống ao, Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng, Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Dĩ nhiên con cò không phải chỉ là hình ảnh tượng trưng cho người nông dân, mà hơn thế nữa, nó còn được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau. Nào là hình ảnh của một em bé mồ côi: - Cái cò là cái cò vàng, Mẹ đi đắp đàng con ở với ai, Con ở với bà, bà không có vú, Con ở với chú, chú là đàn ông. Nào là hình ảnh của một cô gái được muông chiều: - Cái cò là cái cò con Mẹ nó yêu nó, nó càng làm thơ. - Cái cò là cái cò kỳ, Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô, Đêm nằm thì gáy o o, Chửa ra đến chợ đã lo ăn quà. - Cái cò bay bổng bay lơ, Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng. - Cái cò lặn lội bờ ao, Phất phơ hai giải yếm đào gió bay. Và nhất là hình ảnh người vợ Việt Nam tần tảo, chắt chiu nuôi chồng, nuôi con: - Cài cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Nàng hãy trở lại cùng con, Để anh đi trẩy nước non Cao bằng. Hình ảnh con cò trong ca dao, trong văn chương bình dân thật là phong phú, gã có thể kê đơn hoàn tán nhiều nhiều nữa. Còn trong đời thường, con cò cũng không kém phần đa dạng. Này nhé, cò là nhảy một chân. Cò là thanh tre mỏng dùng để điểm công gánh, công vác bằng cách bẻ từng đoạn ngắn, vì thế mới gọi là bẻ cò. Cò là một bộ phận của cây súng, khi bấm nó mổ vào viên đạn và làm cho đạn nổ, vì thế mới nói là bóp cò. Cò là tem để dán vào thư. Có cò thì bưu điện mới chuyển, bằng không thì cũng vẫn chuyển nhưng người nhận sẽ bị phạt. Riêng trong phạm vi con người, cò cũng rất ư là nhiêu khê. Trước hết, hồi còn bé, gã không hiểu tại sao ở làng gã, thiên hạ thường gọi những đứa con trai thuộc vào hàng suy dinh dưỡng là…thằng cò. Chắc hẳn chỉ vì thân hình của chúng còm cõi, mảnh mai như một bộ xương cách trí, khẳng khiu như cánh cò trên ruộng đồng. Rồi cò còn là một tiếng chửi nhẹ nhàng của bọn con nít. Vì thế, khi bực bội, tức tối, chúng liền không ngần ngại cho nhau ăn…cò. Dưới thời Pháp thuộc, gã thấy xuất hiện một vài loại cò đặc biệt. Thực vậy, cò là sửa bài trong nhà in. Bài viết được xếp chữ và in thử. Khi bản in đầu tiên mới ra lò, thì lập tức được chuyển đến thày cò, để anh ta đọc và ghi chú những chỗ sai hay chưa vừa ý, cần phải đổi thay. Chữ cò này xuất phát từ chữ “corriger” nghĩa là sửa, chữa. Còn “correcteur” nghĩa là thày cò, người sửa bài, người chữa bài. Tiếp đến, cò còn chỉ viên cảnh sát trưởng nói riêng, hay mấy thày cảnh sát nói chung. Chữ cò nay xuất phát từ chữ “commissaire” nghĩa là ông cò. Còn “phú lít” xuất phát từ chữ “police” cũng có nghĩa là cảnh sát. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam đang có một nghề mới phất lên như diều gặp gió mà gã xin đề cập đến, đó là nghề…cò. Theo báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, chữ cò này xuất phát từ chữ “commission” nghĩa là tiền hoa hồng, tiền côm hay tiền cò. Còn theo ngu ý của gã, cò nay có lẽ xuất phát từ “cò mồi”, là loại cò được nuôi làm mồi để dụ khị lũ cò hoang sa vào bẫy. Vì thế bọn cò mồi là bọn giả bộ theo phe mình đề làm hại cho phe mình và làm lợi cho phe chúng. Nghề làm cò bây giờ đôi lúc thật tệ lậu và trắng trợn, đã tạo nên không ít những cảnh dở mếu, dở khóc và dở cười… Nói một cách văn hoa thì đó là nghề làm môi giới, làm trung gian, làm tiếp thị. Còn nói một cách nôm na và bình dân thì đó là hạng mối lái, dụ khị thiên hạ mua hàng hay cậy nhờ một công việc nào đó. Họ chỉ cần dẻo mép, mánh khóe và đôi khi cả áp lực nữa để kiếm lời cho mình. Họ là những người trung gian, chuyên bán nước bọt để chấm mút tí tiền còm. Nếu ai đã từng sống ở Châu đốc, hẳn phải biết từ sau tết nguyên đán, thiên hạ đã chuẩn bị cho ngày lễ hội Bà Chúa xứ tại núi Sam, vốn được gọi là Vía Bà. Trong những ngày lễ hội này, hiện nay ở đây hội tụ đủ mặt mọi hạng cò mà báo “Công an” đã phải gọi là “làng cò Núi Sam” . Thôi thì thượng vàng hạ cám, hầm bà lằng xắng cấu. Đủ loại cò. Đủ thứ cò. Này nhé, khi khách vừa chân ướt chân ráo đến nơi thì đã có ngay một lực lượng cò dành dật khách tới nhà trọ này, tới khách sạn nọ. Bước vào lễ hội, khách là thiện nam tín nữ, muốn biểu lộ tấm lòng thành của mình đối với Bà, thì liền có ngay một đội ngũ cò đông đảo để phục vụ cho nhu cầu lễ bái và cúng kếng. Nào là “cò heo quay” với khoảng ba chục tên chuyên nghiệp, rất giỏi việc khua môi múa mỏ, gian lận trong giá cả và trong cân đo, sẵn sàng nhét đầy tiết heo, tiết bò trong bụng heo quay để cân cho nặêng, vì thế mà hạng cò này ăn nên làm ra một cách mau chóng. Nào là “cò nhang đèn”, thay vì thắp một nén nhang để tỏ lòng tôn kính, người ta đã lạm phát nhang, để rồi nhang đã trở thành một dụng cụ để…hun Bà. Suốt ngay khói tỏa nghi ngút thì làm sao mà chịu nổi. Nào là “cò phóng sinh” mối lái để khách mua chim rồi thả ra để cầu mong lộc Bà. Chim trong lồng nhảy lên nhảy xuống, nên mặc sức đếm gian theo kiểu năm mười mười lăm…Chim được xổ lồng bay ra thì ít mà chim được đếm thì lại nhiêàu. Và khi khách buồn tình, muốn giải sầu thì lập tức có ngay bọn “cò tệ nạn”, hay nói huỵch toẹt ra, đó là cò…gái, cò mãi dâm. Quả là hết ý. Báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” đã phải lên tiếng báo động: - Chưa bao giờ nghề cò lại phát triển bát nháo như hiện nay. Theo tác giả Nguyễn thị Oanh, thì ngày xưa có “ông mai bà mối” nhưng họ chỉ ăn “đầu heo” thôi vì mục đích giới thiệu này mang tính cách nhân đạo. Chẳng hạn mách cho bệnh nhân được gặp thày gặêp thuốc…Đẹp biết mấy những môi giới vì hạnh phúc con người. Còn bây giờ thì khác, hoạt động cò không xuất phát từ nhu cầu của người “bị phục vụ” mà từ động cơ ranh ma lợi dụng và khai thác họ. Chẳng hạn tiệm bán thịt nằm sát mặt đường, khách có thể dừng xe để mua hay người bán hàng có thể bước ra vài bước để giao hàng. Vậy mà có tới hàng chục thanh niên vạm vỡ, la hét, níu kéo làm người mua ngao ngán bực mình. Con người bán, đã mất khách, lại phải nộp tiền mãi lộ cho chúng mà chẳng dám ho he. Đai loại gã có thể phân chia thành hai loại cò. Trước hết là cò dịch vụ, làm trung gian mua bán vật dụng như cò xe, cò nhà, cò đất, hay chạy chọt giấy tờ với những thủ tục hành chánh rắc rối, nhiêu khê tựa mê hồn trận như cò xuất ngoại, cò hộ khẩu, cò sang nhượng… Thế nhưng khi mắc míu, dính líu với hạng cò này, chúng ta cần tỉnh táo và đề cao cảnh giác, bởi vì rất nhiều mánh chỉ là mánh dổm, rất nhiều cò chỉ là cò giả, nhận tiền rồi tung cánh bay cao, khiến chúng ta tiền mất tật mang, công việc thì cứ dậm chân tại chỗ, hết tháng này qua tháng khác, chẳng đi đến đâu cả. Tuy nhiên, đáng kinh tởm hơn cả phải là loại cò thứ hai này, đó là cò người, gã chỉ xin liệt kê một vài loại chính điển hình mà thôi. Chẳng hạn như cò tệ nạn, cò mãi dâm, cò…gái. Một buổi tối bạn lang thang trên phố vắng hay tại công viên, rất có thể bạn sẽ bị hỏi thẳng thừng một cách sỗ sàng: - Có mốn giải sầu không sư phụ ? - Có cần em út không đại ca ? Chẳng hạn như cò lấy chồng nước ngoài, nhất là lấy mấy chú ba tàu xếnh xáng gốc Đài loan. Hạng cò này len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, luồn lách tận vùng thôn quê hẻo lánh, gạ gẫm, dụ dỗ, rót vào tai những cô gái và những bậc phụ huynh những lời ngon ngọt, đường mật về tiền bạc và hạnh phúc, để rồi mấy cô gái nhẹ dạ ấy đã ca bài “cũng liều nhắm mắt đưa chân”, cuối cùng phần đông đã phải ngậm đắng nuốt cay một số phận nghiệt ngã, một kết thúc bẽ bàng nơi đát khách quê người. Chẳng hạn như cò con nuôi. Một cô gái chửa hoang đang lo lắng sợ hãi thì vớ ngay được tên cò loại này. Hắn không những trấn an mà còn đặt tiền cọc cho cái bầu nữa. Vậy là thay vì ăn năn hối cải, cô gái sẽ chai lì và dám làm thêm một cái bầu nữa để kiếm tiền. Như thế, cô gái không chỉ vi phạm luật pháp, chà đạp nhân phẩm phụ nhữ và trẻ em, mà còn tích cực góp phần làm băng hoại các giá trị đạo đức. Chẳng hạn như cò phá thai. Một cô gái lỡ mang bầu, ngơ ngác và rụt rè tới cổng bệnh viện, lập tức được mấy tay cò nạo thai xớp đi mau chóng và nhiều cô đã bỏ mạng vì đến những chỗ phá thai lậu, không bảo đảm về mặt vệ sinh và y khoa. Chắc chắn là còn nhiều loại cò khác nữa, nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ ngán ngẩm và nhức nhối cho một xã hội đang nhích lên về mặt kinh tế, nhưng lại đang tuột dốc về mặt đạo đức. Biết làm sao vực lên bây giờ ? Gã Siêu
Bây giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ lãng đãng GãSiêu 57
Bây giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ lãng đãng trong đầu óc gã, khiến cho gã phải thờ dài thườn thượt như người xưa: - Ôi nhân sinh là thế ấy, Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Thời gian thấm thoát tựa thoi đưa, tựa ngựa hồng qua khung cửa. Một khi đã chắp cánh bay đi thì chẳng bao giờ trở lại. Nó giống như dòng sông, làm sao có thể chảy ngược về nguồn. Nó cũng lững lờ trôi, chẳng cần chờ ai mà chẳng cần ai chờ nó: - Xoay vần ngày tháng thoáng qua Năm kia nào có đợi ta bao giờ. Chính trong những ý nghĩ xám xịt ấy, mà gã lan man, tản mạn nghĩ về cái tết. Vậy tết là đí gì ? Trước câu hỏi này, gã phải vác tự điển ra tra cứu, vì sự hiểu biết của gã về vấn đề này rất là “lơ tơ lơ mơ”. Theo “Việt Nam từ điển” của lê văn Đức, thì tết là ba ngày đầu năm âm lịch. Đồng thời nó còn chỉ khoảng cách thời gian trước và sau ba ngày này. Thí dụ như khi tôi nói chợ tết, thì phải hiểu chợ được nhóm trước tết, chứ sau tết thì chỉ còn là chợ bán những đồ ế, của thừa mà chớ… Điều rắc rối là về ngày. Khi ta bảo hai mươi chín tết phải hiểu là trước. Trái lại, khi ta nói những ngày còn ở trong… mùng, như mùng bảy, mùng tám, mùng mười, thì tất ráo cả đều là sau tết. Ngoài ra, tết còn chỉ những ngày lễ lớn trong năm, như tết trung thu… Hay chỉ hành động xách đồ vật đi biếu nhân ngày tết: - Mồng một tết cha, Mồng hai tết chú Mồng ba tết thày. Trong khi đó, theo: “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển”, của Trịnh văn Thanh, thì thời gian ăn tết co dãn như cao su và thường được kéo dài ra nhiều hơn. Đó là tám ngày đầu năm. Ngày xưa các cụ cho mỗi ngày thuộc một giống khác nhau. Mùng một thuộc gà, mùng hai thuộc chó, mùng ba thuộc heo, mùng bốn thuộc dê, mùng năm thuộc trâu, mùng sáu thuộc ngựa, mùng bảy thuộc người và mùng tám thuộc thóc. Vì thế, vào dịp tết người ta thường nghỉ sáu ngày, đến ngày mùng bảy thuộc người, được kêu là khai hạ, mới bắt đầu làm việc. Chẳng hạn như gã, sống bằng nghề cạo giấy, thì ngày mồng bảy thể nào cũng phải bắn một điếu thuốc lào, thả hồn theo khói, rồi tay cầm bút nguệch ngoạc vài dòng, gọi là “khai bút” lấy hên cho năm mới. Riêng quí vị thất nghiệp, ưa ngáp vặt, ngồi chơi xơi nước, thì còn nghỉ mút chỉ hơn nữa: - Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai trồng đậu, Tháng ba trồng cà. Gã biết một nhóm bè bạn, gồm đúng mười hai tên, được gọi là “thập nhị sứ quân”. Họ nhậu xoay vòng, cứ ngày mồng bảy âm lịch mỗi tháng là đến “lai rai” tại nhà một tên, thành thử suốt năm họ đều…ăn tết cả. Xong chuyện thứ nhất, bước tới chuyện thứ hai. Vậy trong cả và thiên hạ, người ta ăn tết ra làm sao ? Mỗi lần nghĩ về cái tết, dân khố rách áo ôm như gã thường thở dài ngao ngán, như người xưa đã diễn tả: - Tết đến, Ông vải thì mừng, con cháu thì lo. Đúng thế, ông vải thì mừøng bởi vì được tưởng nhớ, được cúng vái và nhất là được hưởng… hương khói. Trong khi đó, con cháu thì lo bởi vì phải sắm sửa trăm thức bà giằng. Còn hôm nay, gã có thể đổi lại câu nói trên một tí xíu: - Tết đến, Con nít thì mừng, Người lớn thì lo’’. Thực vậy, con nít thì mừng bởi vì sẽ được nghỉ học, sẽ được tiền lì xì, sẽ được mặc quần áo mới, sẽ được ăn thịt và còn nhiều cái khác ‘’sẽ được’’ khác nữa… Trong khi đó, người lớn thì lo, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trăm dâu đổ đầu tằm, bao nhiêu chi phí đều cậy nhờ vào ‘’cái hào bao’’ đang độ rỗng tuếch… Trước tết thật lâu, thằng bạn gã đã hối bà xã mua hoặc may cho quí vị con nít, mỗi nhóc tì một bộ quần áo mới. Vì lúc bấy giờ vải còn rẻ và tiền công chưa mắc. Hay âm thầm sắm những bộ đồ “sida” đem về giặt ủi y như mới, rồi cất kỹ đến tết mới phô ra cho chúng. Ngày ba mươi tết, bà xã hắn cứ thấp thỏm muốn đi chợ thật sớm, thế là hắn bèn phải vắt óc tìm đủ một ngàn lẻ một lý do để cản chân bà ta lại, khiến bà ta đi chợ muộn hơn thường lệ, bởi vì từ giờ ‘’ngọ’’ tức là vào khoảng giữa trưa , thịt thà, đường mứt và hoa kiểng đều rẻ… chỉ tội nó hơi kém tươi, hơi kém ngon một chút mà thôi. Nhưng nào có can chi, bởi vì hắn lý luận: - Của không ngon, Nhà niều con cũng hết. - Phải giả bộ đủng đỉnh cho qua ba ngày tết để lấy vải thưa che mắt thiên hạ, khỏi nhìn thấy cái rách mát te tua của mình. Hắn cũng giống như một cô gái được ông thày bói sờ mu rùa, gieo quẻ mà phán: - Số cô chẳng giàu thì nghèo Ba mươi tết có thịt heo trong nhà’’. Miễn là có hoa kiểng, có bánh mứt, có thịt thà cá mú để ‘’lên mặt với đời’’ còn phẩm chất của chúng ra sao thì thôi, kệ bà chúng. Méo mó có hơn không. Thói đời vốn thường vậy kia mờ: - Chí cha chí chát khua giày dép Đen thủi đen thui cũng lượt là. Tính toán chi li như vậy, hẳn gã sẽ phải phong hắn lên hàng ‘’trùm sò’’ mất thôi. Nhưng đành chịu vậy. Cái khó bó cái khôn, biết nói sao bi giờ. Ngoài những mua sắm cần thiết cho cái mặc, cái ăn, cái uống… cả năm đầu tắt một tối, thì cũng phải phong lưu ít ra trong ba ngày tết cho bõ ghét. Rồi sau đó, lại cúi gầm mặt xuống, tiếp tục kéo cày trả nợ cho cuộc đời mà vẫn cảm thấy hả lòng hả dạ, mát ruột mát gan. Phải, ngoài những chi phí kể trên, là xếp trong gia đình, hắn còn phải dành cả một ngân khoản, cả một số tiền… khơ khớ, để lì xì. Ngày xưa hắn vui mừng vì được lì xì bao nhiêu thì bây giờ hắn lại xót ruột, nhót gan và ỉu xìu bấy nhiêu vì phải lì xì. Lì xì cho con nít còn đơ đỡ một chút. Nhưng con nít thời nay khôn hơn con nít thời xưa. Qua mặt nó bằng đồng tiền ‘’mới mà nhỏ’’ là không xong, thế nào nó cũng đòi cho được đồng tiền to, có cũ một tí cũng chẳng nhằm nhò gì. Phiền nhất và đau nhất là phải lì xì cho những cặp vợ chồng “đỏ” đi tết mới. Đây cũng là dip để họ ‘’bù lỗ’’ cho đám cưới. Theo phong tục quê gã, đồ lỡi thường là một cặp rượu, một cặp bánh chưng, một ký đường… hay thế nào thì tùy hỉ, không cần thiết lắm. Đồ lỡi chỉ có tính cách nghi thức tượng trưng và trình diễn, vì sau đó anh chị được lấy lại và đem sang nhà khác, miễn sao bày biện cho đẹp mắt và dễ coi. Riêng phần khổ chủ, phải mở hào bao lì xì. “Bèo” quá thì không được, bởi vì đây sự góp vốn đầu đời cho anh chị mới làm ăn. Nhưng “khơ khớ” một chút thì không cáng đáng nổi. Thử hỏi, dịp tết mà có chừng hai mươi cặp đến tết mới, nhận họ nhận hàng, thì quá là nguy tai, và… vỡ nợ ! Gã là kẻ có khiếu ăn, mà chẳng có khiếu nói, bởi vì tinh thần ăn uống được Chúa ban cho ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Do đó, những lời chúc hay những câu “đáp lêã “, gã thường phải nhẩm trước trong bụng. Nhớ lại hồi còn bé, sáng mồng một tết thật là vui. Thày mẹ gã ở nhà để nhận đồ lỡi, còn anh em gã phải hớn hở vác đồ lỡi đi tết ông chú bà bác, những người ở… vai trên. Trước khi đi, mẹ gã thường gài cho một lời chúc, bắt phải học thuộc lòng như sau: - Năm hết tết đến, thày mẹ chúng cháu cho chúng cháu đến tết hai bác, cầu chúc hai bác trong năm mới được… vân vân và vân vân… Lớn lên, gã thường phải “vắt chân lên trán” để phệu ra những lời chúc thật dí dỏm, vừa để cười thầm một chút vừa để chọc ghẹo thiên hạ cho vui cửa vui nhà. Thí dụ năm Canh Mùi, cầm tinh con dê, gã bèn mở miệng : - Trước thềm năm mới, xin chúc chị năm con dê… nhiều may mắn. Hay: -Xuân về, chúc anh năm con… dê nhiều… may mắn. Chúc như vậy, thì cứ liệu hồn đấy, không chừng sẽ được ăn đòn hội chợ đến phù cả mỏ ra. Tuy nhiên, có những câu chúc mà ngày nay xét ra không còn hợp thời nữa. Thí dụ: - Chúc cho anh chị mới, đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái… hay đẻ “tốc hành” theo kiểu cá cặp, sinh đôi, sinh ba... Chúc như vậy là đi ngược lại với đường lối và chủ trương của nhà nước, vì nhan nhản ngoài đường phố thấy những tấm bích chương với khẩu hiệu: - Vợ chồng son hai con là đủ. - Dù gái hay trai, Hai con là đủ. Hơn nữa, nếu nhiều quá thì vợ chồng trẻ cũng khó mà khan nổi giữa thời buổi gạo châu củi quế này. Dịp tết, ai cũng mong được nhiều may mắn. Người ta kiêng cữ đủ thứ để tránh cái xui cái xẻo. Người ta lên chùa hái lộc để rước vận may. Người ta đi xem bói, chấm lá số tử vi để biết được thêm một tí tẹo về hậu vận. Bởi vì, như dân Thổ Nhĩ Kì đã bảo: - Tương lai giống như người đàn bà mang thai, chẳng hiểu bà ta sẽ đẻ ra con trai hay con gái. Câu danh ngôn này, hôm nay xem ra đã “xưa rồi Diễm ơi”, bởi vì nhờ siêu âm người ta biết rằng bà xã sẽ sinh con trai hay con gái từ lúc bào thai còn bé tẹo tèo teo. Nhưng tương lai hậu vận thì vẫn còn mù tịt. Gã sẽ treo giải thưởng, còn đắt giá hơn giải Nobel, cho ai sáng chế ra chiếc máy dò tìm và xác định được tương lai hậu vận. Bây giờ thì gã đành phải mượn lời của Tú Mỡ mà long trọng cầu chúc: - Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu Phen này ông quyết đi buôn cối Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu. - Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Đứa thì mua chức đứa mua quan Phen này thì ông quyết đi buôn lọng Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng Còn rất nhiều chuyện để nói về ngày tết, nhưng cứ lông bông, nói dông nói dài, thì sợ bị thiên hạ kê ngay tủ đứng vào miệng: - Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Vì thế, gã xin trở lại với những ý nghĩ xám xịt lúc ban đầu. Nếu trong chuyện Kiều, Nguyễn Du đã bảo: - Chữ tài liền với chữ tai một vần. Cùng theo thể thức ấy, gã liền phệu: - Chữ tết liền với chữ chết một vần. Một ông thi sĩ nào đó đã viết: - Yêu là chết trong lòng một tí. Còn gã, gã cũng có thể phệu: -Tết là chết trong đời một tí. Đúng thế, trong dịp tết này rất nhiều người sẽ chết. Phải, họ chết vì rượu bởi vì họ uống tới tình trạng say xỉn, ngoắc cần câu. Rất may cái chết này chỉ là một cái chết tạm thời, bởi vì người ta sẽ tỉnh lại sau cơn say. Có những chàng trai và cô gái sẽ chết vì đua xe, vì đụng xe hay vì lạng lách trên đường phố. Rất may cái chết này chỉ dành cho một số ít, đó là những cô chiêu cậu ấm, ăn no dửng mỡ… mà đứt bóng ! Nhưng quan trọng hơn vẫn là cái chết chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, một năm mới sắp tới, cũng có nghĩa là một năm cũ sắp qua đi trong dòng chảy cuộc đời. Cây nến hồng cuộc sống sẽ ngắn lại một chút, bởi vì mỗi cái tết là một bước tiến gần đến cái chết, để rồi một lúc nào đó, cây nến hồng ấy sẽ phụt tắt. Tết là chết trong đời một tí. Mới ngày nào, gã còn trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời, thế mà hôm nay đã phải cõng trên vai một tí tuổi. Tết đến, gã sẽ già hơn một chút. Với tí tuổi mang nặng, gã cảm thấy lưng oằn xuống, thân xác giở quẻ với những chứng bệnh mà gã không ngờ trước. Cuối cùng, thuyền đời sẽ cặp bến, nhưng bến đục hay bến trong ? Điều đó lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của gã. Lúc này gã đã nghĩ trước một điều ước, để trong đêm giao thừa, lỡ có một bà tiên, hay một cô tiên thì càng tốt, quá bộ đến vỗ vai và bảo: -Hãy ước một điều. Hẳn gã sẽ trả lời liền tù tì như sau: - Xin cho gã được làm con nít mãi mãi. Hồi còn bé, gã chỉ mong ước được làm người lớn, để khỏi phải đi học, khỏi phải bị mắng, khỏi phải bị khua dậy đi lễ… mặc sức la hét om sòm cũng như ngủ nuớng và tết đến lại còn “sẽ được” nhiều thứ. Gã thường hay hỏi ông ngoại: - Làm thế nào cho tuổi mới nó vào ? Ôâng ngoại xoa đầu gã, rồi mỉm cười và nói: - Đêm giao thừa hãy chổng mông lên. Thằng bé mê ngủ quên cả chổng mông, thế mà tuổi vẫn vào ào ào và xác vẫn lớn. Bây giờ gã mới thấy: - Mơ làm người lớn quả là điều dại dột, bởi vì người lớn phải nghĩ nhiều, phải lo nhiều, phải làm nhiều và nhất là… chóng về chầu trời. Viết tới đây, gã bỗng nghe thấy tiếng hát của Hồng Nhung với chiếc răng khểnh vọng lên từ chiếc “cát xét” của quán nước bên nhà hàng xóm được vặn hết cỡ thợ mộc điếc cả lỗ nhĩ và rát cả con ráy: - Em không muốn làm người lớn đâu anh, Ứ hư….ứ hư… Gã Siêu
Trong mục sổ tay của tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, gã lượm được một mẩu tin như sau: - Kể từ GãSiêu 58
Trong mục sổ tay của tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, gã lượm được một mẩu tin như sau: - Kể từ nay, chính phủ sẽ không bổ nhiệm người làm thứ trưởng và những chức vụ tương đương quá 55 tuổi. Khi đọc thông báo trên do thủ tướng vừa ký ngày 18 tháng 4, một công chức cấp vụ ở Hà Nội nói với người viết: dễ có đến 20% số cán bộ mang cấp hàm thứ trưởng sẽ ra đi vì tuổi không còn đúng với tiêu chuẩn… Mẩu tin này cũng khiến cho gã phải sờ vào gáy mình và nhận ra rằng: - Sống lâu lên lão làng, cứ cái điệu này thì mình cũng sắp được …ra ngũ, về nhà đuổi gà và trồng hoa. Chẳng biết nên vui hay nên buồn. Gã nhớ lại hồi đầu mình còn để chỏm, hình như có đọc trong sách Quốc âm Giáo khoa thư bài học về một câu đố: - Con gì sáng nó đi bốn chân, trưa nó đi hai chân và chiều nó đi ba chân ? Xin thưa: - Đó chính là con người. Thuở còn nhỏ, chúng ta bò lê bò la bằng cả hai tay lẫn hai chân, vị chi là bốn. Lớn lên, chúng ta đứng thẳng và mạnh mẽ bước tới. Còn khi về già, chúng ta phải chống thêm một chiếc gậy nữa là ba. Các cụ ta ngày xưa đã ngán ngẩm mà bảo: - Âm thầm ngày tháng trôi qua, Năm kia nào có đợi ta bao giờ. Đúng thế, chẳng ai có thể cản được những bước chân âm thầm của thời gian. Cứ nhìn vào xấp nhỏ, lớn lên như thổi, gã bèn nghiệm ra gánh nặng tuổi đời đang đè xuống đôi vai còm cõi của gã và dấu ấn thời gian đã in đậm trên khuôn mặt gã. Cách đây không lâu, một cô bé Việt kiều hớn hở đến thăm gã. Phối kiểm lại bộ nhớ, gã thấy được rằng: khi khăn gói quả mướp theo thày bu xuống tàu đi vượt biên, cô bé này còn đang ở lứa tuổi “babilắc”, suốt ngày chơi ô quan và nhày cò cò ở sân nhà gã, thậm chí còn anh dũng mặc quần đùi đi móc cua ngoài đồng về cho chị nấu riêu, thế mà giờ đây đang độ đào tơ trổ mã, đẹp như một cô tiên, giống hệt một bài thơ cổ đã diễn tả: - Hồng hồng tuyết tuyết, Mới ngày nào chửa biết cái chi chi, Mười mấy năm thấp thoát có xá gì, Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu. Ngay như chính bản thân gã cũng vậy. Bốn mươi năm được coi là đỉnh cao cuộc đời, rồi sau đó bắt đầu đi xuống ở triền núi bên kia. Tới cái mốc này, mắt gã bỗng mơ huyền, phải vội vã ra tiệm cắt ngay một chiếc kính lão, để khỏi trông gà hóa quốc. Rồi từ đó, lục phủ ngũ tạng bắt đầu rệu rạo. Nhất là khi đã bước vào tuổi “ngũ tuần”, thì sức kéo bị giảm sút một bậc, làm việc lâu một xíu là cảm thấy mệt mỏi, uể oải liền tù tì ngay à. Nhớ hồi còn trẻ, ngồi đánh máy chữ lọc cọc suốt tám chín tiếng đồng hồ mà chẳng hề hấn, sứt mẻ chi cả, thậm chí có những lúc gấp rút, làm ngày không đủ phải tranh thủ làm cả ban đêm mà vẫn cứ phom phom và hăng tiết vịt. Chứ bây giờ, khi đã có tí tuổi, gõ máy dù là máy vi tính, chỉ một lúc là liền nhức nhối từ đầu ngón tay cho đến tận…lái tim. Rồi ăn chẳng biết ngon, ngủ thì cứ mơ mơ màng màng. Sức kéo giảm sút đã đành, mà tuổi năm mươi còn là khởi điểm cho đủ mọi thứ bệnh hoạn. Nào cao huyết áp, nào nhồi máu cơ tim, nào tai biến mạch máu não, nào loét bao tử, nào đái…đường. Bản án tử hình dường như đã được treo lơ lửng trên đầu quí cụ thượng thọ ngũ tuần. Nghĩ vậy, nên cứ bình tĩnh mà run. Vì thế, hôm rồi gã bèn phải gồng mình đi khám lại toàn bộ đồ lòng, từ tim gan cho chí đến đến phèo phổi. Qua siêu âm, người ta cho biết gã hiện có hai viên sạn nhỏ nằm ở trong thận. Ông bác sĩ thuộc vào hàng chịu chơi bèn phán: - Vì chúng còn bé tẹo tèo teo, nên chưa cần phải mổ hay bắn biếc chi cả, chỉ cần uống thuốc, uống nước, vận động và nhất là…cười nhiều. Vì thế, trong mấy tháng nay, gã đành phải ép mình ép xác mà dùng thuốc, dùng nước và tập thể dục thẩm mĩ để giữ…eo. Bởi vì lúc này cái eo của gã xem chừng liên tục phát triển theo kích thước của cái eo con…bò. Rồi lúc nào cũng phải vén môi lên mà cười. Vui cũng cuời mà buồn cũng cười, thiếu điều bị liệt vào hạng người…cõi trên. Thế mà chẳng biết đến bao giờ mới tống khứ được hai cái của nợ ấy ra. Từ những điều gã vừa cà kê dê ngỗng, thì khác biệt thứ nhất giữa già và trẻ là khác biệt về ngoại hình, về sức khỏe. Trẻ thì mạnh, già thì yếu. Đó là lẽ đương nhiên, qui luật của muôn đời kia mờ. Trừ ra một vài trường hợp ngoại lệ mà chúng ta vốn gọi là những cụ… già gân, như Nguyễn công Trứ đã viết: - Càng già càng dẻo càng dai. Bình thường, tuổi già là một nhà thương, tiếp nhận đủ mọi thứ bệnh. Hơn nữa, nếu nửa đầu cuộc đời, chúng ta xài theo kiểu “xả láng sáng về sớm”, như lời hô hào: - Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già sồng sộc nói thì tới ngay. Chắc hẳn nửa sau cuộc đời, chúng ta sẽ phải trả giá bằng những bệnh tật và đớn đau của mình. Sự giảm sút về sức khỏe phần xác, thường kéo theo sự giảm sút về tâm lý và sự xơ cứng về tinh thần. Kinh nghiệm của những bậc tiền bối cho hay: - Năm mươi tuổi thì ta chán đời, còn sáu mươi tuổi thì đời chán ta. Tuổi già vốn dĩ là một gánh nặng cho bản thân cũng như cho người khác. Tuổi già giống như phiên chợ chiều, vắng tanh vắng ngắt. Hay như con sư tử già chỉ là trò cười cho đám chó con. Từ đó, người già đánh mất sụ hăng say nhiệt tình, để rồi buông xuôi, mặc cho ‘’con tạo xoay vẫn đến đâu’’ hay phó mặc cho lũ cháu đàn con: - Già thì mọi sự mọi hèn Giang sơn phó mặc đàn em sau này. Khác biệt thứ hai giữa già và trẻ là khác biệt về kinh nghiệm, về vốn sống được tích lũy từ lòng cuộc đời. Trong phạm vi này, người trẻ chưa có được bao nhiêu, đang khi đó với bề dày của năm tháng, người già đã gom góp được rất nhiều. Vì thế, người trẻ thường hay bồng bột, xốc nổi và… phổi bò, như tục ngữ cũng đã bảo: - Khôn đâu tới trẻ, khẻo đâu tới già. Và đôi lúc người ta đã gọi: - Tuổi trẻ là tuổi ăn chưa no, lo chưa tới. Với những kinh ngiệm được tích lũy suốt dọc dòng thời gian, tuổi già thường khôn ngoan và thâm trầm, giống như cây càng già thì gỗ càng tốt, giống như gừng và quế, càng già thì lại càng cay, hay như tục ngữ cũng đã nói: - Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Do số vốn sống phong phú ấy, nên đã nảy sinh ra một khác biệt thứ ba giữa già và trẻ, đó là người già thường thích quay nhìn dĩ vãng và sống bằng những hoài niệm, còn người trẻ thường thích hướng tới tương lai và sống bằng những ước mơ. Người già thì quay lại phía sau, còn người trẻ thì bước tới phía trước. Thực vậy, mấy ông bạn già lâu ngày gặp mặt nhau, khề khà bên chén rượu nồng hay bên tách trà đậm, chắc chắn các cụ sẽ gợi nhớ và sống lại cái thuở huy hoàng vang bóng của mình: - Ngày ấy mình thế này… chúng ta thế nọ… chứ không như bây giờ, chẳng ra cái thể thống nào cả. Trong khi đó, bọn trẻ ngồi đấu láo với nhau thì thao thao bất tuyệt về những dự tính đang được ươm mơ. Nào là làm cái này, nào là làm cái kia… Chính do sự khác biệt này, nhiều lúc đã xảy ra những bất đồng, những lục đục, những chống đối trong gia đình giữa già và trẻ, giữa cha mẹ với con cái. Hồi xưa, có lần thằng bạn gã đang năn nỉ ỉ ôi, xin mẹ tí tiền còm để mua sách hay làm cái chi đó, thì ông bố bước vào. Chợt nghe thấy tiền, ông bố bèn mở miệng phang ngay cho cậu ấm một bài ‘’luân lý cơ bản’’: - Ngày xưa tao phải tiết kiệm từng trang giấy, từng giọt mực… ngày xưa tao thế này… ngày xưa tao thế kia… ngày xưa tao thế nọ… Điệp khúc ‘’ngày xưa ấy’’ không biết đã được ông bố ca đi ca lại biết bao nhiêu lần. Cứ nhìn cái bản mặt nhăn nhó của thằng bạn như là sắp bị ‘’Tào tháo’’ rượt, gã thấy nó hậm hực mà nói chẳng nên lời, vì sợ bị mắng, nên đành phải nhủ thầm trong bụng rằng: - Biết rồi, khổ lắm, nói mãi, bố ơi. Cũng từ điểm khác biệt đằng trước và đằng sau, tương lai và dĩ vãng, nên người trẻ thường dám liều, dám chấp nhận cái mới để rồi khắc phục và làm chủ lấy nó, như chúng ta thường bảo: - Đâu cần thanh niên có, Đâu khó có thanh niên. Phải chăng đây chính là yếu tố quan trọng làm thành ‘’chất trẻ’’ nơi một người… Trong khi đó, tuổi già thường ngại di chuyển, ngại thay đổi, an phận với những cái đã có. Ấy là gã chưa nói đến những cụ thích ngủ quên trên chiến thắng và vinh quang một thời của mình. Vì vậy, thiên hạ vốn thường bảo: - Một người bị coi là già kể từ lúc người ấy hết dám… liều. Nếu cứ ngồi kể tội và điểm mặt những khác biệt giữa già và trẻ, thì có lẽ nói mãi, nói hoài cũng chẳng bao giờ hết, chi bằng bây giờ hay thửû đi tìm một dung hòa, một mô hình lý tưởng để cùng chung sống hòa bình ‘’mí nhau’’. Theo gã, mỗi tuổi đều có nét duyên ngầm của riêng mình. Buổi bình minh có vẻ đẹp của bình minh và lúc hoàng hôn có vẻ đẹp của hoàng hôn. Chồi non, có sức quyến rũ của chồi non và trái chín có sức quyến rũ của trái chín. Về người già và người trẻ, chúng ta có thể diễn tả như Nguyễn Du: - Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười. Tuy nhiên cuộc sống vốn thường có những ngịch lý, những ngược đời và những chuyện chéo cẳng ngỗng của nó, như G. B. Shaw đã viết: - Có lắm người không khi nào trẻ và vài kẻ không bao giờ già. Thực vậy, có lắm người không bao giờ trẻ. Nói cách khác, họ đã đánh mất tuổi trẻ khi mái đầu còn xanh. Họ là những kẻ tuổi đời chưa được bao nhiêu, thân xác còn phơi phới, thế nhưng tâm hồn họ đã già cỗi và tàn úa. Họ thiếu mất chất trẻ và chất lửa trong con người. Có nghĩa là họ không dám liều, không dám chấp nhận cái mới và đối đầu với những đổi thay. Họ bằng lòng với số phận của mình và lúc nào cũng chỉ xin cho được hai chữ…bình an. Họ không còn sự hăng say nhiệt thành, trái lại chỉ sống lửng lơ như con cá vàng, mặc dù bề ngoài họ rất oai phong bệ vệ và sức khỏe tràn trề. Chính vì thế thiên hạ vốn thường gọi họ là những … ông cụ non. Tiếp đến là có vài kẻ không bao giờ già. Dĩ nhiên ở đây gã không bàn tới một vài người vì ảnh hưởng của một loại bệnh đặc thù nào đó, khiến cho họ, dù đã ba mươi mí, những thân xác họ mới chỉ là một đứa trẻ lên sáu, lên bảy như báo chí đã đăng tải cách đây không lâu. Gã cũng không bàn tới một vài cụ vì ham vui và thích của lạ mà thiên hạ vốn thường gọi là chơi…..trống bỏi. Những cụ đầu đã bạc, răng đã long mà vẫn còn đèo bồng vợ nọ con kia, chỉ vì sợ cảnh cô đơn: - Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông. Gã chỉ xin nói đến các cụ tuy đã già mà thực sự vẫn còn trẻ. Vậy các cụ ấy là ai ? Các cụ ấy được diễn tả là những người “nhân lão tâm bất lão”. Ngoại hình các cụ tuy già, nghĩa là tóc các cụ đã bạc, răng các cụ đã long, da các cụ đã nhăn nheo và tay chân các cụ đã lỏng lẻo. Thế nhưng, tâm hồn các cụ vẫn còn trẻ chứ chưa già, nghĩa là các cụ vẵn hăng hái nhiệt thành, dám chấp nhận cái mới và dám đương đầu với những thay đổi…. Chất trẻ vẫn lưu thông trong máu huyết, trong thân thể già nua của các cụ và lửa vẫn bừng cháy trong con tim đau ốm của các cụ. Tuy nhiên, số người nhân lão tâm bất lão như thế này, hẳn không nhiều lắm. Có một thời ở Sàigòn thiên hạ đã gọi nhạc sĩ Phạm Duy là một híppi già. Sở dĩ như vậy, vì tuổi đời đã đè nặng trên vai ông. Ngay từ hồi gã còn là một thằng bé mặc quần thủng đũng, thì những bài hát của ông đã được phổ biến sâu rộng. Thế nhưng, tâm hồn và tư tưởng của ông vẫn còn trẻ. Ông không phải chỉ viết về tuổi trẻ, mà hơn thế nữa, từng lời ca, từng khuông nhạc của ông đều thoát ra chất trẻ, làm cho người trẻ say mê và thiên hạ đã không ngần ngại tặng cho ông cái biệt danh là híppi già. Ngày nay, khắp mọi nơi người ta đều hô hào phải trẻ hóa lãnh vực này, trẻ hóa lãnh vực kia và nhất là phải trẻ hóa cấp lãnh đạo. Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật viết: “Chuyện sẽ không xa lạ một khi nước Nga có thủ tướng 36 tuổi hay là Việt Nam thời gian không xa có những nhà lãnh đạo, những chính khách lứa tuổi 30-40, nếu như công nghệ trẻ hóa, không chỉ là hạn mức tuổi tác mà thực sự là cả một quá trình chuẩn bị nhân tài, ươm trồng, vun bón”. Mẹ chồng nàng dâu, như hai cô ca sĩ có thương nhau bao giờ. Cũng vậy, luôn có một vực thẳm ngăn cách giữa già và trẻ, giữa trẻ và già. Trẻ chê già là cổ hủ, lỗi thời và…. khó tính. Gìa chê trẻ là thiếu kinh nghiệm, xốc nổi, ngu đần theo kiểu: trứng mà đòi khôn hơn rận. Tuy nhiên, theo gã nghĩ: - Trẻ phải kính trọng già và học hỏi nơi gìa vốn sống và kinh nghiệm. Còn già thì hãy tìm hiểu, cảm thông và nâng đỡ cho trẻ. Có lẽ gã bèn phải mượn lời khuyên sau đây và Alfred de Vigny như một kết luận: - Bạn ơi, một đời sống vĩ đại là gì ? Nếu không phải là một ý tưởng của tuổi trẻ được tuổi già thực hiện. Kết luận như thế, chẳng hiểu gã đã lên mặt dạy đời hay chưa ? Và nhất là gã có đáng được phong làm…hàm cụ non hay chưa ? Gã Siêu
Tựa đề của câu chuyện phiếm hôm nay có lẽ đã làm cho bàn dân thiên hạ hơi bị ngạc nhiên, bởi GãSiêu 59
Tựa đề của câu chuyện phiếm hôm nay có lẽ đã làm cho bàn dân thiên hạ hơi bị ngạc nhiên, bởi vì từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con trâu vốn dĩ đã là một người bạn chân thành của nông dân Việt Nam, cũng như vốn dĩ đã là biểu tượng của một kiếp sống lầm than và cực nhọc. Nơi con trâu, ta chẳng tìm thấy được một chút gì thơ mộng, một chút gì để nhớ và để thương, hay một tí ti nào dính dáng tới tình yêu. Tuy nhiên, cứ từ từ thì cháo nó mới nhừ, cứ nhẩn nha suy gẫm, cứ âm thầm nhai đi nhai lại, thì sẽ nghiệm ra rằng con trâu thật là dễ thương và cũng có được một chút gì đó gắn liền với tình yêu. Tương truyền rằng: Ngưu Lang là anh chàng chăn trâu cho Nhà Trời, còn Chức Nữ là cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, vốn làm nghề dệt cửi. Cả hai gặp nhau, thương nhau và kết thành duyên vợ chồng. Thế nhưng, vì quá đắm đuối yêu thương, nên cả hai đã bỏ bê công việc bổn phận của mình, khiến cho Ngọc Hoàng Thượng Đế nổi giận đùng đùng. Cuối cùng, Ngọc Hoàng Thượng Đế đành phải trừng phạt bằng cách bắt cả hai phải xa lìa nhau. Mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, được gọi là đêm thất tịch. Đêm hôm ấy, bầy quạ cắn đuôi nhau làm thành một chiếc cầu bắc ngang dải Ngân Hà cho vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ sum họp. Gặp nhau, vợ chồng mừng mừng tủi tủi, kể lể cho nhau nghe những tâm sự buồn vui. Vừa kể mà những giọt nước mắt cứ lã chã tuôn rơi, khiến cho đêm đó có mưa dầm, được gọi là mưa ngâu. Riêng loài quạ thường rụng lông đầu vào tháng bảy là do việc cùng nhau kết thành chiếc cầu cho vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ đi mà gặp nhau. Cũng vì thế mà trong thiên hạ mới lưu truyền bài hát: - Giọt mưa, mưa ngâu, mưa ngâu, Búp non trên cành thành lá biếc. Giọt mưa, mưa ngâu, mưa ngâu, Tròn xoe chiếc ô trên đầu. Ngày xưa đôi ta bên nhau, Chiếc ô xoe tròn thành bóng lá. Mong sao mưa thật lâu, Để cho đôi lứa bên nhau…. …. Và cơn mưa, mưa rồi sẽ tan đi trên trời đầy nắng gió, Giọt mưa ngâu hay là nước mắt ai nhớ nhau. Chuyện tình yêu như là những cơn mưa trong đời đầy nắng gió. Để trên mi ai bây giờ ướt đẫm mưa. Chuyện tình trên đẹp như một giấc mơ và một trong hai nhân vật chính là Ngưu Lang, rất thân quen với loài trâu, bởi vì anh ta thường xuyên chăn trâu cho Nhà Trời. Tuy nhiên trong thực tế, gã xin ghi nhận hai quan niệm của xã hội bình dân Việt Nam ngày xưa về tình yêu và hôn nhân có liên quan tới con trâu. Quan niệm thứ nhất đó là: “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”, hay “Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy”. Cả hai câu này đều mang một ý nghĩa na ná giống nhau, đó là quyền lợi của ai thì người nấy hưởng, lãnh địa của ai thì người nấy khai thác, nhà mình mình ở, cơm mình mình ăn, việc mình mình làm… Tuy nhiên, trong phạm vi tình yêu và hôn nhân, thì xem ra hai câu này lại muốn nêu cao lập trường bảo vệ hàng nội địa, nghĩa là trai làng nào thì lấy gái làng nấy. Như chúng ta đã biết: Do ảnh hưởng của nền luân lý Khổng Mạnh, các cụ ta ngày xưa vốn chủ trương “nam nữ thọ thọ bất thân”. Phải có sự “nam nữ hữu biệt” thì mới tránh được những trò “trên bộc trong dâu”, hay “ăn cơm trước kẻng”, một hiện tượng vốn thường xảy ra như cơm bữa trong giới trẻ ngày nay. Tuy nhiên, theo Toan Ánh trong “Phong tục Việt Nam”, thì việc nam nữ “hữu biệt” hay “bất thân” như thế chỉ có ở những gia đình trưởng giả, còn trong giới bình dân, thì không đến nỗi quá khắt khe, bởi vì phong tục cũng như sinh hoạt hằng ngày đã tạo nên nhiều dịp để họ có thể gặp nhau. Nào những lúc công việc đồng áng cùng làm, rồi những lúc nghỉ ngơi trên bờ đê, nơi sân đình, hay dưới dậu tre… họ tha hồ gặp gỡ và tiếp xúc với nhau. Rồi trong những cuộc tiếp xúc này, họ đã thổ lộ tâm tình với nhau. Bao nhiêu câu ca dao đã nhắc lại những cuộc trò chuyện của họ. Họ ướm thử lòng nhau, họ nhắc lại cái cảnh còn đơn chiếc của mỗi người: - Cô kia má đỏ hồng hồng, Cô chưa lấy chồng, cô đợi chờ ai? Buồng không lần lữa hôm mai, Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương. Trong lúc tình yêu được liên tục phát triển để rồi tiến tới việc trầu cau cưới hỏi, thì rất có thể vì tình trạng trai thiếu gái thừa và cũng có thể vì tự ái dân tộc nổi lên bừng bừng mà người ta đưa ra chủ trương: “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”, hay “Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy”. Đọc lại lịch sử gã nhận thấy ngày xưa trước sự tấn công của người Pháp, các vua triều Nguyễn đã tích cực áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, sống đơn độc một mình, không thèm giao thiệp với nước ngoài. Còn ngày nay, để cứu vớt nền kinh tế vốn èo ọt của mình, nhà nước có một thời đã phải áp dụng chủ trương bảo vệ hàng nội địa, bằng cách đánh thuế thật nặng những mặt hàng nhập khẩu, để người dân quay trở về với những mặt hàng được sản xuất ở trong nước. Và người ta đã đưa ra khẩu hiệu: - Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. Phải chăng chủ trương “trâu ta ăn cỏ đồng ta”, hay “trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy” cũng có phần nào hao hao giống với chính sách bế môn tỏa cảng và bảo vệ hàng nội địa? Để thực thi chủ trương này, thì ngoài việc giai làng nào lấy gái làng nấy, người ta còn cấm vận không cho giai làng khác xớ rớ đến gái làng mình. Rất nhiều lần gã đã được chứng kiến cái cảnh anh giai xóm trên bị bọn giai xóm dưới xúm lại đánh hội đồng cho một trận tơi bời hoa lá, đến phun cả máu đầu, chỉ vì anh giai xóm trên đã dám cả gan lẹo tẹo cô nàng xóm dưới. Ngày nay, tình trạng này đã giảm đi rất nhiều, chỉ còn lác đác xảy ra tại một vài thôn làng thuộc vùng xâu vùng xa mà thôi. Bởi vì cánh cửa toàn cầu hóa đã mở rộng và Việt Nam ta đã anh dũng bước vào. Tình yêu cũng ăn theo, không còn đóng chốt hay bám trụ trong một làng, một ấp, mà đã trở thành “tình yêu không biên giới”, “tình yêu xuyên lục địa”. Biết bao nhiêu anh chàng Việt kiều từ Mỹ, từ Đan Mạch… đã trở về Việt Nam để cưới lấy một cô vợ. Biết bao nhiêu chú ba Tàu, biết bao nhiêu bác sâm Cao ly, đủ mặt già trẻ lớn bé, đã đến phần đất nghèo túng này để chọn lựa, ngã giá và mua lấy cái vợ. Đám trai làng nghèo túng chỉ còn biết tiếc xót, nhuốt nước bọt mà “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư”. Quan niệm thứ hai, đó là: “Trâu tìm cọc, chứ cọc không tìm trâu”. Theo nghĩa thông thường, câu này ám chỉ rằng: muốn được việc cho mình, thì chính mình phải đến cầu người, chứ không phải đợi người đến cầu mình. Còn trong lãnh vực tình yêu và hôn nhân, câu này nói đến việc muốn thành vợ chồng với nhau, thì anh con giai phải lên tiếng trước, phải tỏ tình trước. Còn cô con gái cần phải giữ danh giá, cho dù “lòng trong như đã”, nhưng “mặt ngoài còn e”, và cũng cần phải tỏ ra dè dặt một chút để mần duyên, theo kiểu Vũ Trọng Phụng: - Em chả… Em chả… Nguyên tắc là như vậy, còn trong thực tế, không phải chỉ anh con giai mới kén vợ, mà cả chị con gái cũng vẫn cứ kén chồng. Theo Toan Ánh, ngày xưa anh con giai khi kén vợ, thì thường chọn người đạo đức và nết na, bởi vì: - Cái nết đánh chết cái đẹp. Chứ không như ngày nay: - Cái đẹp đè bẹp cái nết. Thế nhưng, cùng đi với cái nết và cái đức, nếu cô nàng lại có thêm tí cái nhan sắc kiều diễm, thì lại càng tuyệt vời hơn nữa, như câu da dao “mười thương” đã diễn tả: - Một thương tóc để đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng. Bảy thương ở nết khôn ngoan, Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chín thương em ở một mình, Mười thương con mắt hữu tình với ai. Anh con giai yêu chị con gái vì nết na và vì nhan sắc, trong khi đó chị con gái lại yêu anh con giai vì tài ba hơn người: - Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công trang điểm má hồng môi son. Và như vậy cả hai bên, nam cũng như nữ, vừa là trâu mà cũng vừa là cọc. Muốn cho tình yêu và hôn nhân của mình được tiến triển một cách mau chóng, thì mình phải mang lấy thân phận của trâu, cố gắng mà đi tìm cọc. Vì thế, nhiều anh chàng từ phương bắc đến phương nam, từ phương đông đến phương tây, đã chịu khó lặn lội tới Việt Nam để tìm lại chiếc xương sườn cụt của mình. Và thỉnh thoảng cũng có những cô nàng từ Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan…trở lại chốn quê hương, tìm lấy cho mình một anh chồng rặt dòng da vàng mũi tẹt, chính gốc “An Nam Mít” một trăm phần trăm. Còn nếu cứ ngồi chờ cho tình yêu như trái sung chín và rụng xuống, thì có lẽ phải đợi đến tết…Công Gô, thì may ra mới ngáp được một trái!!! Tuy nhiên, trong việc kén chọn, thì cũng chỉ nên một vừa hai phải, bởi vì trên trần gian này làm gì có mẫu người yêu lý tưởng, thỏa mãn mọi nhu cầu và đáp ứng mọi tiêu chuẩn mà mình đưa ra. Có lần gã đã kể câu chuyện về một ông già cô đơn và hôm nay xin được nhắc lại cùng bàn dân thiên hạ: Ngày kia, bàn dân thiên hạ xúm lại hỏi một ông già: - Tại sao lại không lập gia đình? Ông ta bèn kể lể về cuộc đời ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình: - Tôi đã dành trọn thời gian của tuổi thanh xuân để tìm kiếm một người đờn bà hoàn hảo. Tại Cairô, thủ đô nước Ai Cập, tôi đã gặp một người đờn bà vưa trẻ đẹp lại vừa thông minh, nhưng rất tiếc người đờn bà này chẳng có được một chút dịu hiền, nàng hung dữ như con cọp cái. Tôi đành bỏ Cairô mà tìm đến Bagdah, thủ đô nước Irak, với hy vọng tìm ra người đờn bà lý tưởng của lòng mình. Tại đây, tôi đã gặp một người đờn bà đúng như lòng mong ước. Nàng vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, vừa quảng đại lại vừa dịu hiền. Chỉ kẹt một nỗi, đó là hai đứa chúng tôi chẳng bao giờ nhất trí được với nhau về bất cứ chuyện gì. Hễ ngồi tâm sự với nhau là bắt đầu cãi vã, ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Vì thế, tôi đành phải chào thua. Và như vậy, hết người đờn bà nọ tới người đờn bà kia. Kẻ được điều này, người mất điều khác. Tôi như kẻ đốt đuốc đi tìm người yêu lý tuởng, mà dường như chẳng bao giờ thấy. Thế rồi một hôm tôi gặp được nàng, người đờn bà của mơ uớc. Nàng đã kết hợp được tất cả những đức tính mà tôi thầm vẽ ra trong đầu óc. Vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, vừa quảng đại lại vừa dịu hiền, vừa tế nhị lại vừa ăn ý với tôi ngay cả trong những điều nhỏ mọn nhất. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn cứ phải gân cổ lên mà ca solo, cam chịu cảnh chăn đơn gối chiếc suốt đời. Các bạn có biết tại sao không? Trong lúc mọi người suy nghĩ, ông già cô đơn đáng thương khẽ kéo một hơi thuốc lá, rồi kể tiếp: - Sở dĩ như vậy là vì người đờn bà ấy cũng đang đi tìm một người đờn ông lý tưởng. Và thật chẳng may cho tôi, bởi vì dưới mắt nàng, tôi chỉ là một thằng đờn ông tồi với biết bao nhiêu thói hư tật xấu. Rồi ông già cô đơn đã khuyên nhủ cánh trẻ với mot cung giọng hơi bị cay cú: - Đi tìm một một người tình hoàn hảo chỉ là một việc làm hão huyền và vô ích, bởi vì người tình hoàn hảo ấy chỉ có trong mơ mà thôi. Nhân vô thập toàn. Đã mang lấy kiếp con người, ai mà chẳng có những sai lỗi và khuyết điểm. Thành thử người đời mới nói: - Trâu già kén cỏ bờ ao, Anh kia không vợ, đời nào có con. Bờ ao là nơi đất tốt, lại thường ẩm ướt, nên cỏ mọc ở đó luôn xanh tốt. Đây là loại cỏ ngon, người ta dành cho trâu bò đang độ sanh đẻ hay đang ra sức kéo cày. Còn loại trâu già đã bất lực rồi, gặp cỏ gì thì người ta cho ăn cỏ nấy, làm sao mà dám kén chọn cỏ bờ ao cho mình. Và như vậy, câu này muốn nói lên rằng: thiếu tài năng mà lại cứ đòi hưởng sung sướng. Thân phận thấp hèn mà lại cứ đòi làm cao, Cũng như chẳng chịu lấy vợ, mà lại cứ đòi có con, thì làm sao mà được. Còn trong lãnh vực tình yêu, anh con giai chẳng ngon lành gì mà cứ nằng nặc đòi cưới cho được một cô vợ vừa đẹp lại vừa hiền, vừa khôn lại vừa ngoan, thì e rằng hơi bị khó lắm đấy. Cũng như chị con gái, kén đi kén lại, chọn tới chọn lui…kén miết và chọn hoài mà cũng chẳng tìm được một tấm chồng, để rồi khi tuổi đời “bóng ngả về tây”, bèn phải lấy vội lấy vàng: - Còn duyên kén cá, chọn canh, Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ. - Còn duyên kén những giai tơ, Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng. Bằng không thì cứ việc đếm những bước chân âm thầm, mà đi vào chốn cô đơn: - Đi đâu mà chẳng lấy chồng, Người ta lấy hết, chổng mông mà gào. Gào rằng: Đất hỡi trời ơi! Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng? Ông trời ngoảnh lại mà trông: Mày hay kén lắm, ông không cho mày. Để kết thúc, gã xin phác họa niềm hạnh phúc của một gia đình nông dân ngày xưa: - Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. Suy đi nghĩ lại về câu ca dao này, gã thấy hạnh phúc sao mà quá đơn sơ trong tầm tay của mọi người. Thực vậy, cho dù cuộc sống của đôi vợ chồng này có chất đầy những vất vả với những công việc đồng áng đầy cưc nhọc, thế nhưng hạnh phúc của họ vẫn tràn đầy, bởi vì họ luôn sống trong tình yêu. Tình yêu là như một chất xúc tác, biến khổ đau thành niềm vui, làm cho gánh nặng cuộc đời trở thành nhẹ nhàng và êm ái. Trong năm Ky Sửu cầm tinh con trâu, chắc chắn sẽ còn nhiều khó khăn và thử thách, nhưng với tình yêu thì hạnh phúc sẽ mỉm cười với mỗi người chúng ta. Gã Siêu
Trong khi phần lớn những anh đều chồng sợ vợ, thì cũng có không ít những anh chồng thuộc vào GãSiêu 60
Trong khi phần lớn những anh đều chồng sợ vợ, thì cũng có không ít những anh chồng thuộc vào loại hảo hớn, lúc nào cũng sẵn sàng nổi máu “yêng hùng” đối với chị vợ. Thái độ của những anh chồng loại này, được tóm tắt vào mấy chữ “Đ” như sau: - Độc đoán, đày đọa và đánh đập…vợ mình. Thái độ trên xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo của Nho giáo. Bởi vì Khổng Mạnh vốn chủ trương trọng nam khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, một mụn con trai được kể là đã có, còn mười cô con gái cũng vẫn bị coi là không. Vì thế, một khi đã mang thân phận đờn bà con gái thì bắt buộc phải sống cái đạo “tam tòng”: - Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có nghĩa là ở nhà thì phục tùng bố. Khi lập gia đình thì phục tùng chồng. Còn khi chồng ngỏm thì phục tùng con. Từ đó mà luôn luôn phải: - Phu xướng phụ tùy. Có nghĩa là chồng mà đã phán, thì vợ phải cúi đầu răm rắp vâng theo. Ôm mớ lý thuyết này mà đi vào thực hành, các ông chồng luôn nắm giữ vai trò “gia trưởng”, đứng đầu gia đình, coi vợ như một đầy tớ, như một con ở, có bổn phận phải phục dịch cho bản thân mình, đúng với tiêu chuẩn: Chồng chúa vợ tôi. Quan niệm này ngày nay đã bị đảy lui trước những phong trào nổi lên như vũ bão: nào là phụ nữ đòi quyền sống, nào là nam nữ bình quyền… Dầu vậy, đôi lúc nó vẫn còn tái xuất giang hồ ở chỗ này hay chỗ khác, dưới hình thức nọ hay hình thức kia. Trước hết, về phương diện tư tưởng, các ông chồng này luôn tỏ ra độc đoán, cho ý nghĩ của mình là đúng và bắt mọi người phải tuân theo. Tác phong của họ là “ cả vú lấp miệng em”. Dù bộ ngực của nhiều người trong bọn họ lép kẹp vì là dân “hít tô phe” nghĩa là nghiện thuốc phiện, hay xì ke ma túy. Tiếp đến, về phương diện lời nói, các ông chồng này luôn tỏ ra gắt gỏng, cộc cằn và thô lỗ, theo kiểu “dùi đục chấm mắm tôm”. Mở mồm ra là: - Cái con mẹ mày…cái con mụ kia. Trong khi đó, môi miệng của họ lại dẻo quẹo đối với bồ nhí hay đối với người dưng nước lã, thôi thì: - Anh anh, em em…mình ơi, mình à… Cứ ngọt xớt như đường cát và mát như đường phèn! Còn về phương diện hành động, họ luôn đày đọa và đánh đập ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đày đọa bằng cách bắt chị vợ phải làm hết mọi công việc nặng nhọc, từ buôn bán ngoài đường đến bếp núc trong nhà. Còn họ thì lúc nào cũng phải thuốc lào ngon, trà tàu đặc…để mà bàn chuyện chính chị chính em, chuyện trên trời dưới đất với mấy ông bạn già, rồi ngước mặt nhìn đời bằng nửa con mắt. Tác phong của họ đã được diễn tả như sau: - Bố tôi hay tửu hay tăm, Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Tới bữa thì phải cơm bưng nước rót. Lắm khi nhà nghèo không đủ tiền mua gạo, thế mà vẫn phải có tí thịt…cho ông chồng nhắm rượu. Có gia đình còn phải dành riêng cho anh chồng một mâm riêng, khi anh ta xơi xong thì mới tới lượt vợ con và những người trong nhà. Thiếu điều chị vợ còn phải đứng mà quạt theo kiểu: - Em hầu quạt…mo. Đày đọa như thế chưa đủ, đến khi tẩu hỏa nhập ma, cơn giận nổi lên đùng đùng, thì liền ném nồi niêu. xoong chảo, bát đũa…ra ngoài sân. Nếu chưa hả cơn nóng, thì bèn thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh đập chị vợ một cách không thương tiếc. Nghĩ về thái độ “vũ phu chi cục mịch này”, gã thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì khi tỉnh cơn mê, nếu nồi niêu bát đũa bị bể vỡ, lại phải bỏ tiền ra mà mua sắm. Nếu chị vợ đánh bị phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc và thời giờ ra mà chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ…bị đi tàu suốt sang thế giới bên kai, thì chắc chắn ông chồng này sẽ được luật pháp sờ vào gáy, cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai gia đình và con cái sẽ như thế nào? Một anh chồng đã thề quyết với bè bạn như sau: - Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ nữa. Tốn kém lắm. Mọi người đều ngạc nhiên: - Sao lại tốn kém? Anh chồng buồn sầu trả lời: - Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý. Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm trước cô ấy hỏi ý kiến để đi xâm môi, tớ không đồng ý vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi vợ tớ đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu, chứ đi xăm nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ cương quyết: - Em mà xâm môi, anh nhất quyết sẽ không bao giờ hôn em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ giả. Yên lặng được một thời gian, lần này cô ấy chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ luôn. Các cậu thấy đấy, cái mũi vợ tớ trước giờ vốn hênh hếch nhìn có duyên đáo để. Thế mà hôm nay cô ấy đem về trình diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng tưng, chóp mũi còn cao hơn cả cái trán. Tớ mở tủ xem ngân quĩ thì thấy thiếu mất một triệu rưỡi. Khổ quá! Đang dành tiền tính đổi cái xe đạp cà tàng cổ lỗ sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng phải lên đời, chuyển hệ thành xe máy chứ. Tức quá, tớ gọi cô ấy lại, xáng cho nguyên một bạt tai. Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi chứ đâu có mạnh tay. Lần đầu tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì xảy ra không ? Cái mũi “mỹ viện” của cô ấy lệch sang một bên, nhìn giống như cục thịt thừa. Cô ấy soi vào gương mà cứ khóc thút thít khiến tớ ân hận quá. Nắn mãi cũng không làm sao cho mũi ngay ngắn lại được. Đành phải chở vợ tớ tới mỹ viện, tốn thêm một triệu rưỡi nữa để họ chỉnh cái mũi lại như cũ. Tớ chỉ đánh vợ một lần duy nhất mà thôi, tởm tới già. Giận quá mất khôn. Tốn một lần chưa đủ hay sao mà lại muốn tốn thêm một lần nữa. Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho mọi anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư xử với chị vợ của mình. Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng giỏi chồng ngoan” lại càng khó hơn. Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau: Hôm đó, một nhóm các cô gái đi tới câu lạc bộ “tìm bạn”, nơi mà người ta quảng cáo có rất nhiều chàng trai để các cô làm quen. Khi họ đến, người hướng dẫn nói: - Chúng tôi có năm tầng. Các cô cứ đi theo thứ tự từ tầng một và có thể dừng lại bất cứ chỗ nào các cô thấy thích hợp. Họ đi vào tầng một, thấy tấm biển với hàng chữ: - Ở đây có những chàng trai thấp và chất phác. Họ liền cười ồ và tiếp tục lên tầng hai. Tại tầng hai, họ thấy tấm biển với hàng chữ: - Ở đây có những chàng trai thấp và đẹp. Các cô thấy chưa đủ tiêu chuẩn, nên tiếp tục lên tầng ba. Tại tầng ba, họ thấy tấm biển với hàng chữ - Ở đây có những chàng trai cao và chất phác. Các cô muốn các chàng trai tốt hơn nên đi tiếp. Tại tầng bốn, họ thấy tấm biển với hàng chữ: - Ở đây có những chàng trai cao và đẹp. Các cô rất hào hứng vì thấy càng lên cao, tiêu chuẩn càng tăng và chất lượng càng bảo đảm. Các cô thầm nghĩ: - Còn một tầng nữa, tội gì mà không lên. Vì thế, các cô tiếp tục leo lên tầng năm. Tại tầng năm, họ thấy tấm biển với hàng chữ: - Ở đây chẳng có chàng trai nào cả. Tầng này được xây chỉ để chứng minh rằng: Ở trên cõi đời này, không có cách nào làm cho phe đờn bà con gái được vừa ý cả. Tất cả các cô đều chưng hửng, trố mắt nhìn nhau, vừa mệt lại vừa tức. Câu lạc bộ này quả thực là…đồ đểu, đồ tồi, đã chơi khăm các cô nàng một vố đau điếng Đọc xong mẩu chuyện trên, gã đã phải mất trọn một đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm. Rồi sau đó, lồm cồm bò dậy, bắn một phát thuốc lào, tớp một ngụm trà nóng, rồi vỗ bụng cười…hề hề. Gã Siêu