Mấy ngày nay, tôi được Chúa báo thức một cách mạnh mẽ. Nội dung báo thức là những Lời Chúa Bùi-Tuần 2251
1. Mấy ngày nay, tôi được Chúa báo thức một cách mạnh mẽ. Nội dung báo thức là những Lời Chúa xưa đã nói với các môn đệ của Ngài.
“Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của thầy.” (Ga 14,27a)
Bằng nhiều cách, Chúa cho tôi hiểu: Trên đây là những lời báo thức quan trọng. Muốn bình an, thì hãy thoát ra khỏi những giấc ngủ nguy hại.
2. Dưới đây là một số những giấc ngủ rất nguy hại đang phổ biến lúc này.
Giấc ngủ tự mãn.
Thực sự, con người chỉ là lữ khách hành hương trên đời. Thế mà biết bao người lại coi đời này là quê hương duy nhất của mình.
Tự mãn đó là sai lầm nguy hại.
3. Giấc ngủ thành kiến.
Thực sự, con người quen ngủ say trong nhiều thành kiến. Có những thành kiến rất nguy hại. Thế mà biết bao người vẫn để những thành kiến đó sai khiến. Khổ cho họ, và khổ cho biết bao người khác.
4. Giấc ngủ vô cảm.
Thực sự, vô cảm là giấc ngủ ngon vốn lôi cuốn con người. Ai chết mặc kệ. Ai khổ mặc kệ. Vô cảm như thế sẽ giết chết con người và xã hội. Thế mà biết bao người vẫn vô cảm.
5. Giấc ngủ nguội lạnh.
Trong sách Khải huyền, Chúa cảnh báo: “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Nên Ta sẽ mửa người ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3,15-16)
6. Giấc ngủ thưởng thụ.
Cũng trong sách Khải huyền, Chúa cảnh báo: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy.” (Kh 3,20)
Thế mà biết bao lần chúng ta tìm hưởng thụ trong cuộc sống, không muốn bị ai quấy rầy mình. Như khóa lòng mình lại. Và cứ thế, chúng ta sẽ chết trong giấc ngủ hưởng thụ như thế.
7. Giấc ngủ trốn tránh chính mình.
Trong cuộc sống, con người cần có những bầu khí tĩnh lặng, để đối diện với chính mình. Tĩnh lặng nói đây là tĩnh lặng nội tâm.
Thế mà biết bao người lại ưa trốn tránh bầu khí tĩnh lặng trong nội tâm. Thành ra họ không biết mình. Hơn nữa họ sợ phải đối diện với chính mình. Và đó là nguy cơ về một cái chết thê thảm.
8. Giấc ngủ trốn Chúa.
Trong cuộc sống, con người nhiều khi coi như không sợ Chúa. Nhưng thực sự ai cũng sợ Chúa. Họ tìm những gì là như giấc ngủ để trốn Chúa.
9. Tình hình hiện nay đang có những báo thức như trên. Báo thức đó là rất mạnh.
Nhưng tôi đang thấy một báo thức khác còn mạnh hơn nhiều. Đó là báo thức về sự bình an của Chúa.
“Thầy ban cho các con sự bình an của thầy” (Ga 14,27a). Bình an vì được tha thứ.
10. Tôi đang được Chúa tha thứ. Tôi đang được tình yêu Chúa nâng niu ấp ủ.
Tôi nhận được tha thứ, và cho đi sự tha thứ.
11. Sống đạo là tha thứ. Tha thứ không là một tình trạng, mà là một sinh hoạt. Nghĩa là tha thứ phải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một ngày, một giờ.
12. Riêng tôi, tôi coi khả năng đón nhận tha thứ và cho đi tha thứ là một dấu chỉ tốt nơi người môn đệ Chúa.
13. Đôi khi, tôi cũng chợt có cảm nghĩ: Tôi cũng phải tha thứ cho chính mình tôi. Đừng ray rứt mình, nhưng hãy nhìn lên Chúa Giêsu.
14. Chính Chúa đi tìm tôi để ban ơn tha thứ. Ngài đi tìm tôi, dưới hình ảnh người mục tử vác con chiên lạc trên vai.
15. Thế là báo thức, mà Chúa thực hiện nơi tôi đang trở thành tiếng gọi để tôi đón nhận Tin Mừng. Xin cảm tạ Chúa. Alleluia.
Bài Phúc Âm hôm nay (Chúa Nhật 16 Quanh năm B) cho ta thấy một hình ảnh của Hội Thánh. Đoàn Bùi-Tuần 2253
Bài Phúc Âm hôm nay (Chúa Nhật 16 Quanh năm B) cho ta thấy một hình ảnh của Hội Thánh. Đoàn chiên đến với chủ chiên. Chủ chiên đến với đoàn chiên. Mỗi người đến đều mang theo mình tất cả con người của mình, như tính tình, tâm tư, những gì đã tốt và những gì chưa thành đạt. Mục đích đến là để chia sẻ tình người, là cùng nhau phát huy cái tốt, là để cùng nhau khắc phục khó khăn. Liên hệ như thế là liên hệ xã hội, liên hệ bình thường. Lối sống đạo như thế của các người tin theo Chúa lúc đó thực đơn sơ. Họ làm thành cộng đoàn. Có thể gọi là cộng đoàn bác ái, vì bác ái phục vụ là sợi dây ràng buộc họ lại với nhau.
Đó là một hình ảnh đẹp. Vì đó là một hình ảnh Hội Thánh mà Chúa Cứu Thế muốn xây dựng. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa đã nói rõ cái gì được Ngài chọn làm đặc điểm của người thuộc Hội Thánh Ngài. Chúa nói: “Người ta cứ dấu nầy, mà nhận biết các con là môn đệ Cha, là chúng con yêu thương nhau”.
Như thế đã quá rõ. Nếu người Công Giáo nào muốn khoe mình và họ đạo mình tốt, thì nên đem đời sống yêu thương ra mà khoe. Vì đó là cái gì căn bản nhất của đạo. Nếu người Công Giáo nào muốn phát triển đạo, thì ưu tiên nên phát triển đức yêu thương, như gieo rắc tình người, gây dựng sự hòa hợp, hòa giải, đoàn kết phục vụ. Đó là điều đẹp nhất của đạo. Nếu người Công Giáo nào muốn tỏ ra mình mạnh về lập trường tôn giáo, thì nên tỏ ra mạnh về đức bác ái yêu thương, như theo lời Chúa mà phân phát của cải mình cho người nghèo, tha thứ cho kẻ khác, không phải mỗi ngày 7 lần, mà là 70 lần 7. Đó mới là những điểm phải mạnh trong đạo. Nếu ai muốn cộng tác với Chúa Giêsu cứu độ, thì hãy đem các việc bác ái yêu thương của mình, hiệp thông với tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Đó là cách cộng tác chắc chắn đúng.
Càng ngày tôi càng hiểu, tại sao Chúa Giêsu trước giờ chịu nạn, khi nhìn về tương lai Hội Thánh, Chúa đã tỏ ra lo ngại rất nhiều về đặc điểm yêu thương của những người trong Hội Thánh. Ngài đã nhắc đi nhắc lại đến yêu thương hợp nhất. Bởi vì thực tế con người, dù ở đâu, dù sống thời buổi nào, cũng rất dễ lỗi lầm thiếu sót về đức yêu thương.
Xin nhớ điều này, là tình yêu thương nói đây, phải hiểu là tình yêu thương quảng đại và hướng thượng. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên các tông đồ nên tạm xa giáo dân một thời gian. Tôi thấy điều Chúa dạy là rất tâm lý. Dù đức thương yêu đối với nhau có gắn bó nhiệt tình đến đâu đi nữa, thì mỗi người cũng cần có một thời gian yên tĩnh cần thiết, để tìm lại chính mình, để bồi dưỡng nội tâm, để suy nghĩ cầu nguyện thờ phượng Chúa. Nhờ đó mà tình yêu thương được quân bình, trong sáng và phong phú hơn.
Khi đưa ra những tư tưởng trên đây, tôi nhìn thấy trước mắt tôi một Giáo Hội dang được Chúa thanh luyện. Nhưng chính vì thế mà nhiều người bị giao động, lo lắng không biết phải giữ đạo làm sao, phải giảng đạo thế nào, tôi nghĩ rằng: Nếu ta biết hướng cuộc sống đức tin vào con đường yêu thương bác ái như lời Chúa dạy, thì cuộc sống đạo sẽ thanh thản hơn, sẽ rộng rãi hơn. Trái lại, nếu ta cứ để lòng mình bực bội, bất mãn, cay đắng, lạc lõng trước một cuộc sống đạo có nhiều giới hạn về hình thức, thì e rằng ta sẽ càng ngày càng đi xa tinh thần yêu thương bác ái, là căn bản của đạo, càng ngày càng tự tách mình ra khỏi xã hội. Chúa không muốn như vậy.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là tình yêu. Xin giúp con biết yêu thương đồng bào của con. Xin giúp con biết phục vụ dân tộc của con. Xin giúp con biết xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc của con. Xin giúp Hội Thánh của con thực hiện tốt giới răn yêu thương của Chúa, để mọi người nhìn thấy nơi Hội Thánh Chúa, một hình ảnh yêu thương dễ mến của Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hãy làm ngọn đèn sáng lời khuyên Bùi-Tuần 2254
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hãy làm ngọn đèn sáng lời khuyên dạy này thúc giục chúng ta hãy xem xét lại bản thân ta gia đình ta cộng đoàn của ta họ đạo của ta có là những ngọn đèn sáng không với một lơưng tâm bình thường chắc chắn chúng ta không dám nhận chúng ta là những ngọn đèn sáng một lương tâm có hơn Chúa soi sáng chúng ta không những không dám nhận mình là ngọn đèn sáng mà còn nhận mình là ngọn đèn tù mù có khi là ngọn đèn đã tắt và biết đâu chúng chỉ là một đống tro tàn làm hại cho môi trường không khí sự thực đó khiến chúng ta khiêm nhường nhận mình là kẻ có tội bởi vì trong việc thực thi lời Chúa chúng ta có nhiều thiếu sót đã có nhiều lỗi lầm đã có nhiều yếu đuối sự thực đó khiến chúng tta khiêm nhường bắt đầu sám hối bởi vì chúng ta đã làm phiền lòng Chúa chúng ta đã không sử dụng ơn CHúa cho nên sự thực đó khiến chúng ta khiêm nhường nhận ra rằng nếu chúng ta không có ơn CHúa chúng ta không nhìn rõ sự thực về mình không đủ sức thực thi lời Chúa không đủ sức sám hối đổi mới cuộc đời không đủ sức trở nên ngọn đèn sáng sự cầu nguyện để có được những gì Chúa dạy hôm nay là điều rất cần hãy tăng cường sự cầu nguyện dịp cuối năm để xét mình có là đèn sáng mà cầu nguyện sự khiêm nhường riênt đối với tôi lời cầu nguyện với Chúa thiết thực là lạy Chúa xin thương xót con vì con tội lỗi và lời cầu nguyện với ĐỨc Mẹ đó là Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi chúng ta khiêm tốn cầu nguyện ần dần Chúa sẽ soi cho chúng ta thấy một số sự thực cần thiết sự thực thứ nhất là Chúa dẫn đưa chúng ta vào con đường đạo đức như một ơn gọi trước mắt về phương diện bác ái trong lòng thì Chúa thử thách ta ngoài thì Chúa gởi đến gương sáng đó là sự thực cái sự thực thứ hai là Chúa đòi chúng ta phải đáp ứng lại ơn gọi đó đáp ứng bằng việc làm chúng ta có làm như vậy không rồi sự thực thứ ba chúng ta phải biết cảm tạ ơn Chúa sống lý tưởng và sự thực sau cùng là sau khi nhìn rõ về mình như vậy chúng ta quyết tâm trở về với Chúa năm sự thực tôi vừa nói là nhnững lộ trình chúng ta đi về với Chúa chúng ta phải cố gắng đi như vậy trong niềm tin phó thác nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót đi một cách bình an đi một cách thường xuyên niềm tin người con bé nhỏ khi chúng ta trở về với Đức Kitô để cùng với Đức Kitô trở thành ngọn đèn sáng thì chúng ta hãy nhớ lại gương Đức Kitô Ngài đã trở nên ngọn đèn sáng như thế nào hãy nhìn lên thánh giá Đức Kitô trên thánh giá thánh Phaolô nói Đức Kitô tuy là có bản tính Tiên Chúq như Chúa Cha nhưng Ngài không đấu tranh để được ngang hàng với CHúa Cha nnhưng Ngài tự hạ sống thân phận con người trong thân phận con người Đức Kitô đã vâng lời vâng lời cho đến chết chết trên thánh giá chính vì thế tất cả mọi người và tất cả thần thánh trên trời khi nghe têu Giêsu đều quỳ gối miệng lơữi phải tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa như vậy chúng ta thấy gương Đức Kitô trở nên ánh sáng cứu độ sự khi6m nhượng sự tận hiến vâng mình Ngài trở nên biểu tượng chúng ta những ai gồng gánh nặng hãy đến với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng Đức Kitô trở nên điểm tựa trở nên đèn sáng không phải do của cải không phải do chức quyền mà do sự từ bỏ hết mọi sự trở nên khó nghèo tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha lễ hy sinh đó là đèn sáng đó là biểu tượng đó là anh chị em thân mến năm nay là năm 1999 chuẩn bị đi vào năm THánh 2000 để kỷ niệm Đức Kitô giáng sinh cứu độ loài người vì thế chúng ta cần phải tập trung vào Đức Kitô tại sao Ngài trở nên Đấng cứu độ lúc nãy anh chị em đã hát xin đốt lửa mà lửa đó là lửa tình yêu mà lửa tình yêu là lửa có nhiều sáng tạo có nhiều chúng trong hạn chế về kinh tế về văn hoá nhưng một khi có tình yêu Chúa trong lòng ta ta sẽ có sáng tạo để làm chứng nhân cho Tin Mừng để làm chứng nhân cho Đức Kitô Đấng cứu độ cứu độ bằng việc làm không phải bằng danh vọng uy tín bằng sức mạnh của Thiên Chúa Ba Ngôi cần phải có sự sống đó tình yêu đó thì mới sáng tậo được nhất là nếu chúng ta không có tình yêu nồng nàn đối với Chúa một lần nữa tôi cầu chúc anh chị em khi nhận ơn Chúa Thánh Thần thì tìm được những sáng kiến để trong hoàn cảnh nhất định chúng ta biết làm chứng cho Đức Kitô là Đấng cứu độ.
Lễ Thêm sức tại xứ Kim Long, kinh D2 ngày 28/8/1999
Anh chị em thân mến
Cũng đã từ lâu tôi được nghe nói về những bước phát triển của cộng đoàn Kim Bùi-Tuần 2255
Cũng đã từ lâu tôi được nghe nói về những bước phát triển của cộng đoàn Kim Long tôi an tâm và vui mừng hôm nay được đến tận nơi được nhìn thấy tận mắt những công trình phát triển tôi thấy niềm vui của tôi là có lý do chính đáng có nền tảng chính xác trong niềm vui này chúng ta cùng nhau xây dựng sự hiệp nhất hiệp thông giữa nội bộ cộng đoàn giữa họ đạo này với họ đạo khác với tất cả những người có thiện chí giúp đỡ chúng ta nhất là trong niềm vui hôm nay chúng ta hãy sốt sắng cảm tạ ơn Chúa khi cảm ta ơn Chúa hôm nay tôi nhìn cộng đoàn Kim Long với ánh sáng của bài Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe tôi thấy là Chúa đã ban cho anh chị em một số khả năng vật chất và tinh thần ví như những nén bạc Chúa trao phó và thực sự anh chị em đã khéo dùng đã biết dùng những nén bạc Chúa ban cho để sinh ra nhiều lợi lãi trên nhiều phương diện hôm nay chúng ta vui mừng tạ ơn về những phát triển tôi cho rằng hôm nay chúng ta kết thúc một giai đoạn phát triển nhưng không vì thế mà chúng ta dừng lại con đường phát triển kết thúc một giai đoạn có nghĩa là mở sang một giai đoạn mới để có những phát triển mới khi tôi nói điều đó tôi lại nhớ lại lời Phúc Âm hôm nay là Chúa trao cho chúng ta những nén vàng nén bạc mà Phúc Âm gọi là gia sản của chủ trong thời gian sắp tới này chúng ta cần phải phát triển tận dụng một gia tài rất quý giá Chúa trao ban cho họ đạo chúng ta nó giá trị hơn vàng bạc hơn các cơ sở hơn các tổ chức gia sản đó là gì thưa là Mình Thánh và Kinh Thánh đây là gia sản căn bản nền tảng của đạo chúng ta về Kinh Thánh chúng ta đã thường nghe Chúa phán lời Ta là lời ban sự sống về Mình Thánh chúng ta cũng đã nhiều lần nghe Chúa xác định đây là Mình Ta đây là bánh hằng sống ai ăn bánh này sẽ được trường sinh ý thức điều đó chúng ta cá nhân cũng như tập thể trên đường đi đón ơn thánh cứu độ cần phải thiết lập với Mình Thánh và với Kinh Thánh những liên hệ cung kính sống động thánh hoá và thường xuyên trước hết là phải thiết lập với Mình Thánh và Kinh Thánh những liên hệ cung kính nghĩa là chúng ta cần phải dành cho Mình Thánh và Kinh Thánh một sự trân trọng cung kính cả về thời gian cả về nơi để cả về cả về những đồ dùng có liên quan cả về cung cách đi lại nói năng trước Mình Thánh về Kinh Thánh chúng ta cần phải bảo toàn sự thiêng thánh của Mình Thánh của Kinh Thánh bởi vì tôi thấy nhiều nơi đang mất dần đi giá trị thiêng thánh vốn có của Mình Thánh của Kinh Thánh ngoài ra chúng ta cần phải thiết lập với Mình Thánh và Kinh Thánh những liên hệ sống động có nghĩa là khi chúng ta lui tới Mình Thánh khi chúng ta nghe và đọc Kinh Thánh chúng ta đừng làm những việc đó như một thói quen như một nghi thức một hình thức mà hãy làm việc đó như một sự gặp gỡ Đức Kitô một sự gặp gỡ có tính cách bản thân có tính cách tư riêng có tính cách mật thiết đọc Kinh Thánh chầu Mình Thánh dự thánh lễ chúng ta luôn ý thức Chúa nhìn ta ta nhìn Chúa Chúa nói với ta ta lắng nghe tiếng Chúa Chúa ban ơn chúng ta khiêm nhường đón nhận chúng ta Đức Kitô với tất cả tâm trí của mình với tất cả lòng khát khao yêu mến của ta như vậy liên hệ của ta và Mình Thánh và Kinh Thánh có tính cách sống động hơn nữa những liên hệ của ta với Mình Thánh và Kinh Thánh phải rất là thánh hoá có nghĩa là khi chúng ta đến với Mình Thánh và Kinh Thánh chúng ta mong muốn một điều là Mình Thánh sẽ thánh hoá chúng ta Kinh Thánh sẽ thánh hoá chúng ta mà đúng như vậy ai lui tới Mình Thánh ai siêng đọc và suy gẫm Kinh Thánh sẽ thấy Chúa trực tiếp thanh luyện chúng ta Chúa trực tiếp đào tạo chúng ta nên những tạo vật mới nên những chứng nhân đích thực của Tin mừng nên những người Kitô hữu thật sự có tâm hồn và nhờ sự thánh hoá đó chúng ta tất cả sẽ biết sống thân phận người con bé nhỏ hiếu thảo của Cha trên trời đó là thánh hoá sau cùng liên hệ của chúng ta với Mình Thánh và Kinh Thánh phải thường xuyên nghĩa là phải siêng năng phải chuyên cần không có nghĩa là luôn luôn nằm trong tổ chức nhưng chúng ta phải dành cho Mình Thánh và Kinh Thánh những thời giờ mà chúng ta có thể và cần phải bỏ ra chúng ta có thể đến với Mình Thánh và Kinh Thánh trong tư cách tập thể với từng nhóm trong gia đình và tư riêng của ta nghĩa là chúng ta phải thường xuyên coi Mình Thánh và Kinh Thánh là của ăn cần thiết cho đời sống và linh hồn chúng ta tôi thấy nhiều gương thánh đã để lại về kết quả của những người năng lui tới Mình Thánh và Kinh Thánh một gương sáng mà tôi rất quý trọng và luôn đi theo đó gương thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu Têrêsa Hài đồng Giêsu chết lúc 24 tuổi còn trẻ lắm ít học lắm nhưng mà luôn luôn lui tới Mình Thánh và Kinh Thánh nhờ đó Têrêsa đã khám phá ra con đường nên thánh độc đáo và đang phát triển khắp thế giới hôm nay đó là con đường sống bé nhỏ sống khiêm nhường là con đường nên thánh bằng cách luôn tìm chỗ rốt hết chẳng bao giờ có tham vọng tìm những chỗ cao hơn bất cứ về phương diện nào sống bé nhỏ sống khiêm nhường tìm chỗ rốt hết luôn luôn phó thác nơi lòng thương xót Chúa đó là điều Têrêsa đã được Mình Thánh và Kinh Thánh dạy cho hướng dẫn cho để hôm nay trở thành một con đường chung của Hội Thánh và tôi tin rằng con đường đó sẽ rất thích hợp thế kỷ XXI anh chị em thân mến càng gần năm thánh năm 2000 chúng ta càng cần phải trở về với cái gì là căn bản là nền tảng trở về với Mình Thánh trở về với Kinh Thánh và trở về với nền tảng khi trở về như vậy chúng ta không bao giờ chúng ta lo ngại đi sai đường chúng ta đi đúng và Chúa muốn như vậy chúng ta đang sống trong một thời điểm rất nghiêm trọng như ông đại diện giáo dân đã nói lúc nãy là rất có nhiều nguy cơ và sức mạnh của ma quỷ của thế gian của xác thịt là rất nặng là rất mạnh bây giờ nếu chúng ta không dùng ơn thánh từ Mình Thánh từ Kinh Thánh là nguồn mạch chính Đức Kitô thì chúng ta sẽ thua Hội Thánh sẽ xuống dốc sẽ suy thoái còn trái lại nếu chúng ta trở về phát triển tài sản Chúa ban cho là Mình Thánh và Kinh Thánh thì chúng ta vững tin Hội Thánh sẽ tiến lên đạo của xứ chúng ta tiến lên sẽ vững vàng một họ đạo có lòng sùng kính Mình Thánh chuyên cần Kinh Thánh đó là một họ đạo đẹp đẽ vững vàng phát triển và trưởng thành đó là điều đôi kính chúc và cầu chúc và cầu chúc cho họ đạo Kim Long của anh chị em. Amen.
----------------------------
Bùi-Tuần 2256: LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG CỨU CHÚNG CON CHO KHỎI MỌI SỰ DỮ
Tâm sự ngày kỷ niệm thụ phong linh mục 2-7-1955 tại Hongkong
+ GB. Bùi Tuần
Hôm nay là kỷ niệm ngày tôi được thụ phong linh mục. Thế là đã 66 năm rồi. 2. Để tạ ơn Chúa Bùi-Tuần 2256
1. Hôm nay là kỷ niệm ngày tôi được thụ phong linh mục. Thế là đã 66 năm rồi.
2. Để tạ ơn Chúa, tôi tha thiết nói với Chúa lời này: “Lạy Chúa, xin thương cứu con cho khỏi mọi sự dữ.”
3. Khi nói với Chúa lời trên, tôi nhận thức con người linh mục của tôi luôn bị cám dỗ để mình xa Chúa. Thường là ở chỗ thích nâng mình lên.
4. Nào là tôi được Chúa nâng tôi lên hàng khanh tướng.
5. Nào là tự hào dâng lên Chúa xác hồn trắng tinh, như ánh trăng vẹn tuyền.
6. Thực sự, con người linh mục của tôi luôn bị một sự dữ kinh khủng lôi kéo, đó là làm linh mục không phải để hiến thân, mà là để tiến thân.
7. Chúa Giêsu đã nói rõ: Mục tử nhân lành hy sinh cuộc sống cho đoàn chiên. (Ga 10,11). Còn tôi chịu chức linh mục, để thành mục tử, mà có hy sinh cuộc sống cho đoàn chiên không? Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là một gương sáng cho tôi.
8. Lúc này, hơn lúc nào hết, linh mục phải làm chứng cho đức tin. Mà đức tin không là lĩnh vực trình diễn.
Chúa phán rõ ràng: “Khi các con cầu nguyện, thì đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn các con, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha các con. Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con.” (Mt 6,5-6)
9. Chúa đã nói rõ như thế. Nhưng thực tế hiện nay nếu không tỉnh thức, thì ngay chính linh mục cũng có thể làm sai, ở chỗ trình diễn đức tin một cách thế tục.
10. Thú thực là 66 năm linh mục của tôi đã có nhiều lỗi lầm. Điều quan trọng Đức Mẹ dạy tôi là hãy sám hối.
11. Khi sám hối, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Chúa nhìn tôi, Chúa tha thứ cho tôi, Chúa an ủi tôi, Chúa chữa lành tôi.
Sáng nay, tại nhà nguyện Tòa Giám Mục Long Xuyên, có thánh lễ phong chức linh mục cho 13 thầy Bùi-Tuần 2257
1. Sáng nay (3.7.2021), tại nhà nguyện Tòa Giám Mục Long Xuyên, có thánh lễ phong chức linh mục cho 13 thầy phó tế.
2. Tôi tham dự một cách âm thầm, với những suy tư và lời cầu nguyện riêng tư.
3. Cái riêng tư của tôi là nhận thức sâu sắc về tình hình hiện nay là rất phức tạp.
4. Nên các tân linh mục được chịu chức hôm nay cần mang một dấu ấn đặc biệt, giúp cho mình được lên đường phục vụ một cách có ý thức đặc biệt.
5. Dấu ấn đặc biệt, mà tôi cầu xin cho các tân linh mục là: Họ hãy là những linh mục của Đức Mẹ.
6. Linh mục, người con của Đức Mẹ, lúc này, tại Việt Nam hôm nay, phải thế nào?
Thưa:
7. + Họ sống ơn khiêm nhường và đơn sơ trong tâm hồn.
8. + Họ yêu thương và quảng đại với mọi người, đặc biệt là với những người nghèo khó.
9. +Họ biết tặng hiến cho cộng đoàn sự bé nhỏ của mình.
10. Như xưa, Đức Mẹ đã là người đầy tớ nghèo nàn bé nhỏ được Chúa đoái thương cách đặc biệt, thì nay linh mục con Đức Mẹ cũng hãy theo gương Mẹ, mà sống như vậy.
11. Đức Mẹ, đã chiến thắng Satan, nhờ đời sống khiêm nhường khó khăn của người nữ tỳ của Chúa.
Nay, muốn chiến thắng Satan, các linh mục hãy bước theo Mẹ, mà sống như vậy.
12. Hôm nay là ngày thứ bảy, ngày dành riêng cho Đức Mẹ. Mong các tân linh mục hãy lên đường, mang theo dấu ấn của Đức Mẹ. Dấu ấn này sẽ nâng đỡ họ rất nhiều.
Tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở Bùi-Tuần 2258
Tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều được vượt qua Biển Đỏ. Tất cả đều được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Maisen. Tất cả cùng ăn một thức ăn thiêng liêng, tất cả cùng uống một thức uống thiêng liêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.
“Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc...
“Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,1-5.12).
Những lời trên đây của thánh Phaolô gợi ý cho tôi thấy: Cuộc đời là một hành trình. Vì thế, giáo dục đi theo con người cũng là một hành trình.
Thánh Phaolô chỉ cho thấy một điều rất quan trọng, đó là: Mọi người đều có thể nhận được một nền giáo dục chung như nhau. Thế nhưng, phần đông đã sống mất lòng Chúa, họ đã quỵ ngã, họ đã dừng lại giữa đường, họ đã không được vào cõi phúc.
Do đó, thánh Phaolô cảnh báo: Lúc này, ai tưởng mình đứng vững, thì đừng dám chắc mình sẽ đi tới cùng.
Cảnh báo của thánh Phaolô thực là đáng sợ. Cảnh báo này sẽ hướng dẫn hành trình suy tư của tôi trong bài này. Tôi xin phép nói về kinh nghiệm đời tôi như một chia sẻ.
I. Nền giáo dục chung cho mọi Kitô-hữu
Ngay từ chặng đầu tiên của cuộc đời, tôi đã nhận được nền giáo dục Kitô-hữu.
Nền giáo dục này được rút ra từ những sách giáo lý truyền thống. Nội dung được chia thành 4 phần:
1/ Tin: tức là những gì phải tin. 2/ Xin: tức là những gì phải xin. 3/ Chịu: tức là những gì phải chịu. 4/ Giữ: tức là những gì phải giữ.
Tôi tin theo kinh Tinh Kính. Tôi xin theo kinh Lạy Cha. Tôi chịu theo bảy phép bí tích. Tôi giữ theo Mười Điều răn Chúa và Sáu Điều răn Hội Thánh.
Lớn lên, tôi được dẫn vào chiều sâu giáo dục Kitô-hữu, qua việc học hỏi Phúc Âm.
Tiếp theo là những lớp thần học: Thần học tín lý, thần học luân lý. Hạnh các thánh cũng là một yếu tố quan trọng của việc giáo dục Kitô-hữu.
Những sách dạy, những lớp đào tạo đều chung cho mọi người.
Thêm vào những yếu tố chung đó còn có những cái chung khác trong giáo dục Kitô-hữu đã tác động đến tôi, đó là bầu khí tôn giáo của Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng theo từng giai đoạn lịch sử.
Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam trở thành những Kitô-hữu giống nhau không? Kinh nghiệm trả lời là “không”.
Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam được rỗi linh hồn cả không? Cảnh báo của thánh Phaolô không cho phép ta trả lời “có” hay “không” một cách dễ dàng.
Lý do là vì, mặc dù được hưởng một nền giáo dục chung, mỗi người vẫn có những yếu tố riêng.
II. Một số những yếu tố riêng của mỗi người trong hành trình giáo dục
1/ Cách tiếp thu
Giáo dục Kitô-hữu có thể ví như việc gieo giống vào tâm hồn con người. Giống thì như nhau, tất cả đều tốt. Nhưng có thể người này tiếp nhận cách này, người khác có thể tiếp nhận cách khác, tuỳ lòng mỗi người.
Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã đưa ra xưa giúp ta dễ hiểu: “Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá, chỗ đất không có nhiều, nó mọc ngay, vì đất không sâu. Nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chúc, hạt được ba chục” (Mt 13,3-9).
Rồi chính Chúa Giêsu cắt nghĩa về lòng người. Lòng người có những khác biệt. Khác biệt về tính tình, về khát vọng, về thói quen, nên mỗi người sẽ tiếp thu nền giáo dục Kitô-hữu với những cách khác nhau. Khác nhau đến mức dẫn đưa đến những hậu quả tốt xấu rõ ràng. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó.
2/ Cách sử dụng
Nền giáo dục Kitô-hữu cũng ví như một kho báu. Có thể là mọi người đều được một số nén bạc như nhau. Cũng có thể là mỗi người được Chúa tặng một số nén bạc khác nhau tuỳ khả năng. Nhưng với điều kiện là ai cũng phải dùng số vốn đó để sinh ra lời lãi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông chủ giao phó tài sản của mình cho các đầy tớ. Sau một thời gian, ông đòi các đầy tớ tính sổ. Lúc đó mới thấy: Có người biết sử dụng tốt, có người sử dụng xấu. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó (x. Mt 25,14-30).
3/ Cách phấn đấu với những nghịch cảnh
Trong hành trình cuộc sống, người Kitô-hữu không mãi được yên ổn. Cho dù nền giáo dục Kitô-hữu vẫn đồng hành với họ, nhưng mỗi người trong họ phải tự mình đối phó với những nghịch cảnh xảy tới.
Các nghịch cảnh của Kitô-hữu được thánh Gioan tông đồ kể ra khá nhiều.
Có thể xếp chúng thành 4 nhóm:
- Nhóm những quỷ Satan, - Nhóm những phòng trào xấu của thế tục, - Nhóm những kẻ chống đối người tốt chỉ vì ghen tương và hẹp hòi, - Nhóm những người đạo đức hình thức. Họ bị khiển trách, nên tức mình muốn phản công lại.
Bốn nhóm này tấn công người Kitô-hữu một cách ác liệt. Người bị nhiều, người bị ít. Sức mạnh lúc như vũ bảo, lúc tế nhị như làn gió nhẹ. Kết quả là có người chiến thắng, có người thất bại nhất thời, có người thất bại vĩnh viễn.
4/ Cách đối phó với những thử thách
Hành trình cuộc sống không tránh được những thử thách. Có thử thách đoán trước được. Có thử thách rất bất ngờ.
Tuổi già, sức yếu, là những thử thách tuy đoán trước được, nhưng chỉ khi xảy tới và ở lại trong tôi, tôi mới thấy đó là một thứ đêm dài giữa những ban ngày mau qua.
Những chứng bệnh thể xác và tâm hồn, khi muốn chọn tôi làm quê hương, sẽ biến tôi thành bãi chiến trường giữa hy vọng và thất vọng.
Những cảnh đời thê thảm, cứ mãi xảy ra hằng ngày xung quanh tôi, sẽ dễ ngấm vào tâm trạng tôi, khiến tôi bồn chồn, nặng nề, chìm lặng trong cõi cô đơn đau đớn.
Thử thách nặng nề nhất là cảnh tối tăm của sự loại trừ, ruồng bỏ. Cảnh đó diễn lại cảnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối đời: Bị xa lánh, bị kết án, bị chối từ, cả đến Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi. “Lạy Thiên Chúa của con, sao Cha bỏ con” (Mc 15,24). Có rơi vào thử thách này, mới thấy mình rơi xuống đáy vực thẳm hãi hùng.
Những vụng về, những yếu đuối, những lỗi lầm của tôi cũng là những thử thách, gợi lên trong tôi những câu hỏi không trả lời được về ý nghĩa cuộc đời.
Còn bao nhiêu thứ thử thách nữa tôi phải đối phó.
Hầu hết mọi thử thách đều rất riêng tư. Cách đối phó cũng riêng tư. Nền giáo dục Kitô-hữu vẫn soi sáng, nhưng không chia sẻ được nỗi đau riêng tư của người Kitô-hữu bị thử thách.
Tới đây, chúng ta có thể thấy khá rõ: Cuộc đời mỗi người là một hành trình. Nền giáo dục Kitô-hữu cũng là một hành trình. Hành trình của mỗi người có những yếu tố chung và có những yếu tố riêng. Nền giáo dục Kitô-hữu rất phong phú, nhưng không chịu trách nhiệm về số phận của từng người. Mỗi người có trách nhiệm về những lựa chọn của mình.
Chính vì thế, mới có cảnh báo đáng sợ của thánh Phaolô: Một số người không đẹp lòng Chúa và không tới đích, một số người được đẹp lòng Chúa và tới đích. Bí quyết nào để hành trình của ta được tới đích?
III. Bí quyết tiềm ẩn trong nền giáo dục Kitô-hữu
Câu trả lời vắn gọn của tôi là: Trong mọi sự, kể cả trong phấn đấu, tôi phải rất khiêm nhường, rất khó nghèo, và hoàn toàn phó tác nơi tình yêu thương xót Chúa.
Rất khiêm nhường là chúng ta nhìn nhận tất cả những gì tốt trong ta, đều là quà tặng nhưng không của Chúa. Ta chẳng là gì, ta chẳng có gì, ta không đáng gì. Hơn nữa, ta là kẻ tội lỗi, cần sám hối, cần gắn bó với Chúa.
Rất khó nghèo là: Chúng ta tuyệt đối chọn Chúa, chứ không chọn gì khác, kể cả những công việc coi như làm sáng danh Chúa. Ta hết sức phấn đấu phục vụ, nhưng ta sẵn sàng dứt bỏ mọi sự, không để mình bị ràng buộc vào bất cứ việc gì, sự gì. Lòng ta hoàn toàn khó nghèo, nhận mình chỉ là đầy tớ vô ích.
Hoàn toàn phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót là: Ta tin tình yêu xót thương của Chúa vượt xa hẳn mọi tội lỗi của ta. Với sám hối, ta tin vào Chúa là Đấng hay xót thương.
Một tấm lòng cực kỳ nghèo khó, hết mực khiêm tốn, trọn vẹn mở ra gởi mình nơi Chúa tình yêu. Đối với tôi, đó là bí quyết tôi tìm được trong nền giáo dục Kitô-hữu.
Bí quyết này mỗi ngày mỗi biến đổi tôi, nhất là khi tôi tham dự thánh lễ. Nơi đây, tôi được gặp Đức Kitô, được tập trung vào Người.
Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà tôi được ơn tha thứ, được ơn biết yêu thương và sống theo thánh ý Chúa, được ơn biết phấn đấu trong tinh thần khiêm nhường, khó nghèo và phó thác.
Từ Người, tôi được trở nên của lễ sống động, để thường xuyên ca tụng Chúa và cầu nguyện cho mọi người.
Khi con người được Chúa biến đổi thành của lễ, thì tinh thần “của lễ” sẽ đồng hành suốt hành trình cuộc đời chúng ta. Tinh thần ấy cũng sẽ đồng hành với hành trình giáo dục, một giáo dục được mang tên là “Kitô-hữu”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin giúp con luôn thuộc về Chúa, luôn cùng với Chúa đi về Nhà Cha, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, và hiệp thông với Hội Thánh Chúa, một cách khiêm nhường, khó nghèo và phó thác không hề lay chuyển.
Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Đó là lời Chúa. Tôi tin Lời ấy. Lời ấy đã ứng nghiệm nơi tôi Bùi-Tuần 2259
“Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Đó là lời Chúa. Tôi tin Lời ấy. Lời ấy đã ứng nghiệm nơi tôi. Nên tôi xin nói thêm: Không những tôi tin, mà tôi đã cảm nghiệm được niềm tin ấy một cách sâu sắc. Một thứ cảm nghiệm giống như một gặp gỡ sống động.
Xin phép được chia sẻ vài loại gặp gỡ như thế. Ở đây tôi sẽ không nói về những gặp gỡ trong các bí tích, trong cầu nguyện và suy gẫm. Nhưng sẽ chỉ nhấn mạnh đến những gặp gỡ qua những con người giàu tình yêu khiêm tốn.
1/ Tôi gặp được Chúa nơi những ai rung động trước cảnh khổ đau của con người
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu gần gũi những người bệnh tật. Người cảm động trước cảnh bà goá thành Naim khóc thương con mình (x. Lc 7,11-17). Người nghiêng mình xuống gọi người đàn bà còng lưng nghèo khó để chữa lành cho bà (x. Lc 13-10-13). Người lắng nghe người mù ngồi ăn xin ở vệ đường và đã cho mắt anh được sáng (x. Lc 18-35-43). Người cúi mình xuống nói chuyện với người bại liệt nằm trên bờ hồ Bếtdatha đã 38 năm, và đã chữa anh khỏi tật bệnh (x. Ga 5,1-9).
Những cử chỉ như thế đã được Chúa Giêsu thực hiện thường xuyên. Tất cả đều nói lên tình yêu. Tình yêu đó rất khiêm nhường. Chính tình yêu khiêm nhường đã mạc khải về Chúa.
Nhìn thấy tình yêu khiêm nhường, người ta dễ nhận ra Chúa là tình yêu. Yêu thương mà khiêm nhường, thế mới là tình yêu đạo đức. Càng khiêm nhường trong yêu thương, càng chứng tỏ một sức thiêng đến từ Thiên Chúa.
Số người yêu thương khiêm tốn đối với những kẻ khổ đau hiện nay không phải là ít.
Bản thân tôi nhiều khi giống như người bại liệt, đau đớn cả nơi thân xác lẫn trong tâm hồn. Bất ngờ có những tiếng gọi, quen và không quen. Những tiếng gọi ấy gởi tới nhiều khích lệ. Những tiếng gọi ấy đã làm tôi như được chữa lành. Đó là những tình yêu rất khiêm nhường. Trong những tình yêu ấy tôi nhận ra Chúa, tôi gặp được Chúa là tình yêu. Xin hết lòng cảm ơn những tình yêu cao quý ấy.
2/ Tôi gặp được Chúa nơi những ai từ bỏ mình, dấn thân phục vụ con người
Phúc Âm cho thấy: Thiên Chúa là tình yêu rất mực khiêm nhường, được mạc khải nơi Đức Kitô từ bỏ mình.
Đức Kitô nghèo khổ trong hang đá Bêlem, trong đời lao động vất vả ở Galilêa, trong cảnh nhục nhã đau đớn tột độ trên thánh giá. Với sự từ bỏ mình như thế, Đức Kitô đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu.
Thánh Phaolô viết:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11).
Như thế, lộ trình mạc khải về tình yêu Chúa Cha là suốt cuộc đời từ bỏ mình của Chúa Giêsu. Qua lộ trình đó, Chúa Cha được giới thiệu, và chính Đức Kitô được quang vinh.
Lộ trình làm chứng như thế nay vẫn được nhìn thấy nơi nhiều cuộc đời xung quanh tôi. Họ thuộc đủ loại người. Có thể nói: Đời họ là chuỗi dài những hy sinh, chỉ vì mục đích cứu độ, phục vụ người khác theo gương Đức Kitô trên thánh giá. Trong hy sinh có từ bỏ, có đớn đau, có yêu thương và hy vọng. Chính nhờ Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường hoạt động trong họ, mà họ có thể hy sinh đến như vậy.
Những cuộc sống như vậy đã làm chứng cho tình yêu khiêm nhường của Chúa. Một thứ khiêm nhường có sức cứu độ và thánh hoá.
3/ Tôi gặp được Chúa nơi những ai xót thương kẻ tội lỗi
Phúc Âm có nhiều chỗ khiến tôi xúc động. Nhưng những chỗ ghi lại tấm lòng xót thương của Chúa Giêsu đối với những kẻ tội lỗi đã khiến tôi xúc động hơn hết. Chẳng hạn những lời Chúa phán và những việc Chúa làm sau đây:
“Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
“Ai có một trăm con chiên, mà có một con đi lạc, lại không để 99 con kia trên núi, mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó hơn là vì 99 con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,12-14).
Dụ ngôn người cha có hai người con đã chú ý đến người con hư đốn. Một đứa bỏ nhà ra đi sống đời phung phá. Một đứa ở lại ngoan ngoãn bên cha. Ngày nọ, đứa con phung phá nghĩ lại đã trở về. Người cha tỏ ra hết sức vui mừng, đón tiếp người con đó một cách âu yếm quảng đại. Thấy người con ngoan tỏ vẻ khó chịu, người cha đã nói: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32).
Ngày nay, lòng xót thương của Chúa dành cho những kẻ tội lỗi vẫn được thực hiện , không những qua bí tích giải tội, mà cũng qua những con người nhân hậu.
Kinh nghiệm cho thấy: Nhân hậu với những kẻ tội lỗi không luôn dễ thực hiện. Nhất là khi kẻ tội lỗi thuộc loại hư hỏng, phá phách, cứng lòng, đi quá sâu vào con đường tồi tệ. Tự nhiên, người ta cảm thấy dễ bực bội, dễ xa tránh họ. Hoặc nếu gần, thì sẽ dễ mắng nhiếc họ, kết án họ, trút lên đầu họ những giận dữ, khinh khi.
Nhưng, bên cạnh những kinh nghiệm loại trừ đó cũng có những kinh nghiệm về những tấm lòng nhân hậu đầy tình xót thương. Họ cầu nguyện rất nhiều, đền tạ rất nhiều, đau khổ rất nhiều cho tội nhân, kèm với những lời khuyên tế nhị, đầy yêu thương. Chính sự khiêm nhường đó đã có sức thiêng cứu những người tội lỗi khỏi mặc cảm và thất vọng, đưa họ vào niềm vui, chứa chan hy vọng.
Riêng đối với tôi, tôi đã gặp được Chúa trong những tình yêu nhân hậu đầy khiêm tốn đó.
“Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng đỡ loài người sa ngã lên” (Lời nguyện nhập lễ, CN XIV TN), này con đây là kẻ sa ngã, xin thương xót con. Tình yêu khiêm nhường của Chúa Giêsu luôn là sức cứu độ con, luôn là chốn con nương tựa, luôn là trường học của con, luôn là sự sống dẫn đưa con về cõi trường sinh muôn đời.
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm nhận thấm thía điều này. Tôi được như hôm nay là nhờ Chúa Bùi-Tuần 2260
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm nhận thấm thía điều này. Tôi được như hôm nay là nhờ Chúa.
2. Chúa đến với tôi qua Lời Chúa, các phép Bí tích. + Chúa đến với tôi qua Hội Thánh. + Chúa đến với tôi qua gia đình. + Chúa đến với tôi qua Tổ quốc Việt Nam. + Chúa đến với tôi qua các biến cố lịch sử. + Chúa đến với tôi qua những tấm lòng.
Chúa đến với tôi mọi ngày, mọi giờ, mọi phút.
Chúa đến với tôi, nhất là khi tôi cô đơn, tưởng mình bị nhiều người xa tránh, ruồng bỏ.
3. Điều quan trọng Đức Mẹ luôn nhắc bảo tôi là : Hãy đón tiếp Chúa.
4. Hãy đón tiếp Chúa bằng niềm tin.
5. Tôi tin Chúa đến với tôi như người cha đến với người con của mình.
6. Tôi tin Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tình yêu của Chúa luôn mới, với những sáng kiến mới, qua những con đường mới.
7. Đức Mẹ cho tôi thấy đời tôi sẽ luôn gặp những gian nan mới, đòi phải có những phấn đấu mới.
8. Đức Mẹ cho tôi thấy tôi sẽ luôn gặp những đau khổ mới, đòi tôi phải có những lời cầu nguyện mới.
9. Tôi ngoan ngoãn vâng theo Đức Mẹ. Tôi bám vào Chúa một cách tuyệt đối. Và hiện giờ tôi cảm nhận thấy thế này:
10. + Chúa luôn sống gần gũi với tôi. + Chúa luôn chia sẻ tình yêu thân mật với tôi. + Chúa luôn cho tôi cảm thấy chắc chắn: Ai tìm nương tựa vào Chúa sẽ chẳng bao giờ phải thất vọng.
11. Lúc này, tôi nương tựa vào Chúa hơn bao giờ hết. Bởi vì tôi biết tôi đang bước vào một tình hình rất phức tạp, cực kỳ nguy hiểm.
12. Nương tựa của tôi vào Chúa được thực hiện một cách quyết liệt nhưng hồn nhiên. Thí dụ.
Tôi gặp gỡ Chúa, qua những lời cầu vắn tắt, hoặc qua những cái nhìn đầy tin tưởng hướng về Chúa.
13. Niềm an ủi lớn của tôi lúc này là tôi gặp được chính Chúa.
14. Tôi cảm nhận rõ ràng.
Chúa yêu thương tôi. Chúa cứu tôi bằng những phương án hiệu nghiệm theo lòng thương xót của Chúa.
15. Chúa cứu tôi ở đời này, và sẽ cứu tôi ở đời sau.
16. Chúa cứu tôi, và qua đó Chúa cũng cứu những người thuộc về tôi.
17. Chúa cứu tôi, và qua đó Chúa cũng sẽ cứu mọi đồng bào thiện chí của tôi.
18. + Chúa đã cứu. + Chúa đang cứu. + Chúa sẽ cứu. Đó là niềm tin của tôi.
19. Niềm tin đó chính là điều Đức Mẹ tha thiết dạy tôi lúc này.
20. Niềm tin đó cũng chính là điều Đức Mẹ khẩn thiết mong được mọi con cái của Mẹ thực hiện lúc này.
21. Mấy ngày nay, lúc nào tôi cũng nghe thấy Đức Mẹ nói với tôi: “Chúa ở cùng con.” Tôi vui sướng về lời chào chúc vắn tắt đó.
22. Mấy ngày nay, lúc nào tôi cũng chào chúc mọi người thân của tôi: “Chúa ở cùng anh chị em.” Tôi tin lời chào chúc đó của tôi là một lời cầu đem lại bình an.
23. Chúa ở với chúng ta, đó là nguồn vui sống của chúng ta trên chặng đường đầy gian nan khốn khó hiện nay. Đó là hơi thở của chúng ta.
24. Nhờ có Chúa ở với tôi, mà mỗi ngày tôi nhặt được nhiều mảnh nhỏ hạnh phúc rải khắp cuộc đời này.
25. Trong phòng tôi, có treo bức ảnh Đức Mẹ hằng cứu giúp. Qua bức ảnh đó, Đức Mẹ nhắc cho tôi điều này: Cứu giúp, cứu độ, là điều cần nhấn mạnh trong mục vụ, trong tu đức, trong truyền giáo, nhất là khi tình hình gặp gian nan khốn khó.
26. Lúc này, tôi nghe từ khắp nơi tiếng cầu cứu. Vì thế, sẽ là vô cảm, vô tâm, nếu phụng vụ của chúng ta cứ nhởn nhơ với những khuôn khổ hô hào hoan lạc.
Tôi là người đã 94. Nên có kinh nghiệm phần nào về người cao tuổi. 2. Tôi sợ kinh nghiệm của tôi Bùi-Tuần 2261
1. Tôi là người đã 94. Nên có kinh nghiệm phần nào về người cao tuổi.
2. Tôi sợ kinh nghiệm của tôi sẽ chủ quan. Nên tôi cầu xin Ðức Mẹ giúp tôi nhận ra thánh ý Chúa trong vấn đề người cao tuổi nơi tôi lúc này.
3. Ðức Mẹ dẫn tôi tới cảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã trối Ðức Mẹ cho thánh Gioan, và đã trao thánh Gioan cho Ðức Mẹ.
4. Từ đó, Ðức Mẹ nương tựa vào thánh Gioan. Thánh Gioan nương tựa vào Ðức Mẹ.
5. Nếu Chúa Giêsu đã không sắp xếp rõ ràng như vậy, thì khó tránh được cảnh bơ vơ cho Ðức Mẹ sau khi Chúa về trời. Bởi vì, cho dù tông đồ nào cũng sẵn sàng lo cho Ðức Mẹ, nhưng dễ gì giữa các ngài sẽ luôn đồng nhất được trong việc chăm sóc cho Ðức Mẹ.
Mà Ðức Mẹ thì rất nhạy cảm và tế nhị.
6. Do vậy, Chúa Giêsu sắp xếp rất rõ ràng, cụ thể, đó là trối Ðức Mẹ cho thánh Gioan và trao thánh Gioan cho Ðức Mẹ.
Nhờ vậy, Ðức Mẹ nương tựa vào thánh Gioan, và thánh Gioan nương tựa vào Ðức Mẹ, một cách có trách nhiệm, dựa trên Lời Chúa.
7. Từ kinh nghiệm trên đây, tôi nghĩ về những người cao tuổi là tôi và nhiều người già như tôi.
Vấn đề mà tự nhiên tôi nghĩ nhiều, nhất là lúc này, đó là vấn đề nương tựa.
Bởi vì, tuổi già sức yếu, bệnh tật, thì tự nhiên tìm nương tựa, đợi chờ nương tựa, rất mừng được có người để mà nương tựa.
8. Nương tựa trở thành vấn đề đạo đức cho tôi và cho nhiều người.
9. Tới đây, tôi sực nhớ tới Ðức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ðược gần gũi với Ðức Thánh Giáo Hoàng, dần dần tôi hiểu ngài là người già khôn ngoan, dùng cách đối xử tế nhị của mình để giáo dục tôi. Cụ thể thế này.
10. Rất nhiều lần, ngài dẫn tôi vào nhà nguyện riêng của ngài, hai cha con cùng quỳ cầu nguyện. Như thể hai cha con cùng nương tựa vào nhau để cầu nguyện trước Chúa.
11. Rất nhiều lần, ngài tâm sự với tôi về những khổ đau của ngài, như thể ngài tìm nương tựa nơi tôi, mặc dầu ngài biết tôi chỉ là đứa con hèn mọn.
12. Rất nhiều lần, ngài đưa tay ngài, để tôi nâng ngài đứng dậy. Như thể ngài tìm nương tựa nơi tôi, mặc dầu ngài biết tôi yếu sức.
13. Nhưng chính những thái độ khiêm tốn như thế của ngài đã trở thành chốn tôi nương tựa.
14. Người già yếu rất cần tìm được người, để mà nương tựa, nhưng họ sẽ rất tủi, nếu nương tựa dành cho họ, lại nặng về trình diễn.
Mà trình diễn hiện nay xem ra đang bùng phát, khiến nhiều người già càng thêm nghĩ ngợi.
15. Tuy sao, tôi vẫn hy vọng người già tại Việt Nam hôm nay sẽ gặp được nhiều nương tựa, tuy lặng thầm, mà rất có chất lượng.
16. Tình hình hiện nay là rất nghiêm trọng. Phải biết nương tựa vào nhau mà sống. Già nương tựa vào trẻ. Trẻ nương tựa vào già.
17. Nương tựa phải có kính trọng nhau, có tin vào nhau, có hy sinh cho nhau.
18. Riêng với tôi, nương tựa giữa chúng ta luôn được thực hiện dưới cái nhìn của Chúa. Chúa nhìn thấu suốt mọi chi tiết về nương tựa của từng người.
19.
Tới đây, tôi sực nhớ về Ðức cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Suốt đời, ngài nương tựa vào Chúa Giêsu, để rồi, ngài trở thành một người cao tuổi rất đáng mến thương.
20. Nhiều vị cao tuổi, thì cao đức. Còn tôi thì cao tuổi, mà kém đức. Xin Chúa xót thương tôi. Xin anh chị em đừng nỡ bỏ rơi tôi.
+ Gm. GB. Bùi-Tuần Long Xuyên 9-7-2021 (CD&DT 2309-2310)
Thưa Đức Cha, Đức Cha là vị Giám Mục Việt Nam duy nhất được phong chức đúng vào ngày Bùi-Tuần 2262
Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha là vị Giám Mục Việt Nam duy nhất được phong chức đúng vào ngày quan trọng của lịch sử đất nước (30/4/1975). Có nhiều cách nhìn về sự trùng hợp này, nhưng đâu là cái nhìn riêng của Đức Cha?
Thưa: Tôi nhớ lại biến cố trùng hợp ấy. Qua giữa tháng 4 năm 1975, vào một ngày thứ sáu, khoảng 03 giờ trưa, Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đến phòng tôi, cho tôi biết Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm tôi làm Giám Mục phó Long Xuyên. Tôi bàng hoàng. Thế rồi, sau đó hơn mười ngày, trưa ngày 30/4/1975, lễ thụ phong được cử hành rất đơn sơ tại nhà thờ cũ nhỏ bé của họ đạo Long Xuyên. Khoảng 50 người tham dự. Tôi lo sợ.
Trước chức vụ mới, tôi thấy mình quá mong manh. Lúc đó, cảm nghĩ của tôi là: Xưa, thánh Gioan Baotixita, bổn mạng tôi, đã là chiếc cầu giữa Cựu Ước và Tân Ước. Nay, Chúa sai tôi vào thời mới này, biết đâu Chúa cũng muốn tôi là một chiếc cầu nào đó. Thế thì mình sẽ cố gắng là một chiếc cầu nhỏ. Người ta qua cầu, chứ chẳng ai dừng lại trên cầu.
Hỏi: Thưa Đức Cha, cái nhìn đó được cụ thể hoá như thế nào?
Thưa: Làm chiếc cầu mà tôi nói đây, chủ yếu là giúp người ta vượt qua những vết thương của quá khứ, để bước sang thời kỳ tập trung vào Chúa Giêsu. Bởi vì, đối với tôi, Đấng cứu độ không phải là chủ thuyết này, chủ thuyết nọ, nhưng là chính Đức Kitô. Cần hiểu biết Người, bước theo Người, gắn bó với Người. Tư tưởng đó xâm nhập hồn tôi và được hình ảnh hoá. Sự việc xảy ra thế này: Vài ngày sau thụ phong, một đêm, tôi chiêm bao gặp Chúa Giêsu. Tôi đang đi giữa cánh đồng lúa, thì thấy từ xa một người đi tới. Tôi nhận ra ngay người ấy là Chúa Giêsu. Người dẫn tôi đến phố, vào một bệnh viện lớn. Người dắt tôi qua các phòng bệnh nhân. Tôi thấy bệnh nhân nằm la liệt. Chúa Giêsu tỏ nét mặt đăm chiêu, thương xót, buồn sầu. Tôi xiết chặt tay Người. Và tôi tỉnh lại. Chiêm bao đó đã gây ấn tượng mạnh trong tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ dung mạo Chúa Giêsu.
Từ đó, các suy nghĩ và hoạt động mục vụ của tôi được diễn tiến qua ba mấu chốt này:
Một là lý trí phải luôn mở rộng ra về bầu trời sự thực bao la sâu thẳm. Sự thực về Chúa Giêsu, sự thực về Hội Thánh của Chúa Giêsu, sự thực về con người và đời người.
Hai là đức tin phải là gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu, gắn bó mật thiết với Người, bước đi theo Người.
Ba là mối dây nối kết lý trí và đức tin phải hướng mọi hoạt động về yêu thương và phục vụ đồng bào một cách thiết thực, nhất là những người đau khổ, để họ có được sự sống dồi dào.
Hỏi: Có lẽ không cần nhắc lại ở đây những thành quả tốt đẹp, mà Đức Cha đã xây dựng được ở giáo phận Long Xuyên. Vậy đâu là những bí quyết cho những thành quả ấy?
Thưa: Một trong những thành quả tôi thích nhất là thành quả về đào tạo nhân sự như hai Tân Giám Mục từ Long Xuyên, rồi chẳng hạn các người trong giáo phận tôi đã đạt được điều, mà Đức Hồng Y Etchegaray đã cầu chúc, trong bài giảng của Ngài tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Ngài nói:
Hãy tự hào mình là người công giáo,
Hãy tự hào mình là người Việt Nam.
Phải, chúng tôi tự hào mình là người công giáo, luôn trung thành với Hội Thánh Công giáo. Chúng tôi tự hào mình là người Việt Nam, luôn trung thành với Tổ Quốc Việt Nam.
Bí quyết của các thành quả là tỉnh thức giữ gìn lương tâm tông đồ, luôn sống tuỳ thuộc vào Đấng đã sai mình.
Hỏi: Kỷ niệm 25 năm Giám Mục của Đức Cha, Đức Thánh Cha có một “thông điệp” nào cho cá nhân Đức Cha?
Thưa: Có. Đức Thánh Cha đã gởi một bức thư riêng. Đây là một bất ngờ lớn đối với tôi. Bức thư mở đầu thế này:
“Vào chính ngày Chúa nhất thứ II Phục sinh trong năm Đại toàn xá này, Đức Cha hân hoan mừng kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám Mục của Đức Cha. Quả thật kỷ niệm đẹp đẽ này nhắc lại muôn vàn công ơn của Thiên Chúa từ nhân, mà trong ngày này Ta cũng muốn ca ngợi và truyền rao. Phần Đức Cha, Ta chắc chắn rằng, Đức Cha sẽ mừng trọng thể lễ Ngân Khánh của Đức Cha cùng với các anh em trong chức vụ Giám Mục và cùng với toàn thể cộng đồng giáo phận Long Xuyên.
Ta muốn gởi đến Đức Cha lá thư này như hiện diện bằng tinh thần và như dấu chỉ chân thật của tâm tình của Ta trong ngày lễ vui mừng của Đức Cha. Xin Đức Cha tin chắc rằng, trong chính ngày đó, ở Rôma trước đền thờ Thánh Phêrô, Ta cùng với các tín hữu sẽ cử hành các nghi thức phụng vụ và liên kết với Đức Cha trong tình bác ái huynh đệ”.
Sau khi kể lại những chặng đường ơn gọi, mà Đức Thánh Cha cho rằng “đã không dễ dàng gì”, Đức Thánh Cha kết luận bức thư bằng những lời nhắn nhủ thân thương: “Xin Đức Cha hãy canh tân sức mạnh của Đức Cha và trong cuộc chiến đức tin, Đức Cha hãy “đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Giêsu Kitô” (2 Tim 2,3).
Sau cùng, xin hãy nhận lá thư này với tất cả tâm tình của Ta, đồng thời Ta rộng ban phép lành Toà Thánh với bao ơn phúc bởi trời, trước tiên cho Đức Cha, rồi cho các Giám Mục, các Linh mục, Tu sĩ cùng toàn thể giáo dân liên kết với Đức Cha trong mối dây tình yêu”.
Tôi hết lòng cảm tạ Đức Thánh Cha về tấm lòng ưu ái đặc biệt Ngài dành cho tôi và giáo phận tôi.
Tiếp nhận bức này của Đức Thánh Cha, và nhớ lại những liên kết tích cực đa dạng của tôi với Toà Thánh, tôi nhìn thấy mờ mờ hình dáng một chiếc cầu giữa đây và đó.
Hỏi: Đức Cha cũng là vị Giám Mục viết nhiều nhất trên tờ Công giáo và Dân tộc. Đức Cha nghĩ gì, khi chọn diễn đàn này làm nơi chia sẻ những suy tư về đức tin của mình?
Thưa: Khi chia sẻ suy tư và cảm nghiệm của tôi về đức tin trên tờ Công giáo và Dân tộc, tôi thường nghĩ tới lời thánh Phaolô “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cor 4,7). Tờ báo cũng như tôi, chỉ là những chiếc bình sành, nhưng nếu từ đó vang lên được một chút tâm tình tuyên xưng Chúa từ nhân, qua việc loan đi Lời Chúa và những hoạt động yêu thương phục vụ của Hội Thánh đó đây, thì dù vang lên trong sa mạc, như thánh Gioan Baotixita nói, tôi vẫn thấy vui.
Thiết tưởng, đây cũng là chuyện của một chiếc cầu nhỏ. Có thể là một số người đã qua cầu.
Rất may là chẳng ai đứng lại trên cầu. Nhưng tất cả họ cũng như tôi, đều là những người vượt qua thời cuộc, đều được Đức Mẹ Maria dẫn về phía trước đến với Chúa Giêsu, là Đấng cứu độ của chúng ta.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc Bùi-Tuần 2263
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”. Khi nghe lời Chúa phán đó, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: Chúa dạy con đi rao giảng Tin Mừng. Vâng, con đi. Nhưng Tin Mừng mà Chúa muốn con đi rao giảng ở đây, lúc này, hôm nay là Tin Mừng nào? Cái gì sẽ làm cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ và giáo dân hiện diện nơi đây cho là Tin Mừng đích thực, mà Chúa muốn con nói bây giờ?.
Tôi hỏi Chúa Giêsu như vậy, và tôi nghe tiếng Chúa trả lời trong lòng tôi rằng: Tin Mừng mà Cha muốn nói hôm nay, lúc này, trong nhà thờ này, không phải là Tin Mừng rút ra từ những lý thuyết ghi trong các sách học ở trường lớp, mà là Tin Mừng con đã sống thực, con đã cảm nghiệm trong suốt đời con, nhất là trong đời mục vụ truyền giáo của con.
Tôi thấy ý Chúa là như thế, cho nên bây giờ, tôi sẽ chia sẻ với anh chị em hai Tin Mừng mà tôi cho là ảnh hưởng lớn nhất trên đời tôi, thường xuyên tác động trong tâm hồn tôi. Tôi sẽ vắn gọn.
Tin Mừng thứ nhất mà tôi cho là quan trọng nhất, thường xuyên nhất, ảnh hưởng lớn nhất trên đời tôi, đó là Thiên Chúa yêu thương tôi.
Thiên Chúa ở bên tôi. Ngài đã kêu gọi tôi. Ngài luôn luôn cứu chuộc tôi. Ngài không ngừng thôi thúc tôi đón nhận Ngài. Ngài không ngừng kêu gọi tôi đón nhận ý muốn của Ngài. Đây là một cảm nghiệm rất thực, thực trên mọi sự thực.
Chút cảm nghiệm nội tâm này đã cho tôi thấy rõ: Đức tin chủ yếu, ít là ban đầu, không phải là sự chấp nhận một hệ thống chân lý, mà chủ yếu là gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng vô hình, đang thương yêu mình. Trong cái gặp gỡ sống động này, tôi thấy rất rõ Thiên Chúa đến với mình, luôn kêu gọi mình. Và đức tin như vậy không phải ảnh hưởng trên tôi và thường xuyên tác động trên đời sống tôi, đã là nguồn mạch sinh ra sự bình an và hạnh phúc thật sự, đó là thánh ý Chúa, đó là vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh ý Chúa là gì? Cái gì rõ ràng nhất? Cái gì là Tin Mừng lớn nhất, quan trọng nhất? Thưa là tin theo Đức Kitô, một Đức Kitô đã sống lại.
Rồi khi đọc Phúc Âm, chúng ta đã thấy Đức Kitô đã tỏ ý muốn của Ngài rõ ràng nhất, đó là: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau”. Hay “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Tình thương của Thiên Chúa xuyên qua Đức Kitô là một tình yêu tuyệt vời, gương mẫu cho tình yêu chúng ta đối với nhau, một tình yêu gánh tội, một tình yêu đền tội, một tình yêu xoá tội, một tình yêu tha tội, một tình yêu nuôi dưỡng, một tình yêu thăng tiến.
Khi tôi vào nhà thờ nào, tôi thường bái chào Mình Thánh, nhìn tượng Chúa Kitô trên Thánh Giá, xem chặng đàng Thánh Giá, để bảo mình rằng: Chúa đã thương tôi như vậy đó, tôi cũng cần phải yêu thương kẻ khác giống như Đức Kitô. Nhưng đó là cái lệnh truyền trên lý thuyết chung chung, còn khi áp dụng cái lệnh truyền yêu thương ấy trong đời sống cụ thể, tôi thấy cần phải biết lắng nghe: Lắng nghe Chúa Thánh Thần soi sáng, trong sự cầu nguyện, suy gẫm lời Chúa và nắm bắt các biến cố xảy ra hằng ngày chung quanh, trên Đất Nước, tại địa phương, trên thế giới. Bởi vì, lệnh truyền yêu thương nhau cần được áp dụng một cách khoa học sáng suốt, với những mức độ khác nhau, tùy nơi, tùy người, tùy lúc, và chính điều ấy đòi tôi cần phải có một sự bén nhạy, với sự soi sáng của Chúa Thánh Linh.
Anh chị em thân mến.
Trên đây là vắn tắt hai Tin Mừng mà tôi đã nói, đã ảnh hưởng lớn nhất và tác động thường xuyên trên đời của tôi. Có thể nói đây là một bản giáo lý căn bản của đời sống tôi, và đây là cái chìa khóa giúp tôi trên con đường truyền giáo trong một địa phận có nhiều sắc tộc, có nhiều tôn giáo, có nhiều hoàn cảnh rất phức tạp.
Tôi cũng phải nói rằng: Hai Tin Mừng tôi diễn đạt vắn tắt trên đây là những gì tôi đã nhận được trên quãng đường dài, từ các chủng viện, do các Cha Đa- Minh đảm nhận. Và hôm nay khi nói lên hai Tin Mừng đó, tôi muốn hiểu rằng, hạt giống Tin Mừng của thánh Đa-Minh đang trở thành cây trên cánh đồng truyền giáo của Việt Nam hôm nay.
Tôi mong rằng, sau lễ này, mỗi một người chúng ta, sẽ nhận thấy một Tin Mừng nào đó mà thánh Đa-Minh sẽ cầu bầu cho ta sẽ vun đắp trong tâm hồn ta. Tôi thấy rằng, nhờ thánh Đa-Minh, nhờ Đức Mẹ, các thánh Việt Nam, những gì mà chúng ta đón nhận như Tin Mừng của Đức Kitô, sớm muộn, cách này hay cách khác, sẽ nở sinh ra hoa trái, và hoa trái sau cùng chính là gặp được Thiên Chúa ở cuối đời mình. Tuy dầu trong đời sống, có khi ta thành công, có lúc ta thất bại, nhưng ta tin chắc Thiên Chúa là Đấng luôn có mặt ở trong hiện tại tương lai mỗi người. Tôi tin như vậy: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tương lai chúng ta. Amen.
Khai mạc tuần lễ Đa-Minh tại nhà thờ Ba Chuông,
Thành phố Hồ-Chí-Minh, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Tỉnh Dòng ở Việt Nam ngày 12/3/1992.
Trong đời, đã nhiều lần, tôi được nghe những người tốt lành nói với Hội Thánh những ước mong Bùi-Tuần 2264
Trong đời, đã nhiều lần, tôi được nghe những người tốt lành nói với Hội Thánh những ước mong tốt lành. Chẳng hạn như lời: Con mong ước bản thân con trở nên đền thờ của Chúa. Và trong đời, cũng đã rất nhiều lần, chính tôi cũng đã dâng lên Chúa lời cầu xin tha thiết. Chẳng hạn như lời cầu: Con cầu xin Chúa cho bản thân con, cho những người thuộc về con được trở nên đền thờ của Chúa.
Thế nhưng, sau nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy rằng: Những ước vọng trên kia, tuy rất tốt, nhưng vẫn mãi là ước vọng. Những lời cầu trên kia, tuy rất trong sáng, nhưng vẫn mãi là những lời cầu. Bởi vì, trên thực tế, bản thân tôi, cũng như bản thân anh chị em và các tín hữu, còn lâu lắm mới có thể trở nên đền thờ của Chúa. Và cũng chắc gì, bao giờ sẽ trở nên đền thờ của Chúa.
Tôi thấy thực tế ấy rất rõ ràng, phũ phàng, và đầy phức tạp.
Bởi vì, bất cứ lúc nào, khi chúng ta nhìn vào lòng mình, chúng ta vẫn thấy lòng mình như một cái chợ, cái chợ này tuy có vẻ yên tĩnh nhưng thực ra rất ồn ào. Trong cái chợ lòng ta, có trưng bày đủ thứ các giá trị, từ những giá trị thực cao và rất thiêng liêng, như các nhân đức, như các lời Chúa, như các chân lý tôn giáo, cho đến các chân lý giá trị tầm thường, rất thấp, như cái ăn cái mặc, lời của thiên hạ, vv... Đúng là lòng ta giống như một cái chợ nhỏ của một cái chợ lớn cuộc đời, bao la, mênh mông, ồn ào, mà trong đó ít thấy có tiếng của Chúa.
Rồi, bất cứ lúc nào, khi nhìn sâu vào lòng mình, chúng ta cũng thấy lòng ta giống như một con đường, con đường này không thênh thang rộng rãi như xa lộ ngoài kia, mà là một con đường phức tạp, có chỗ tối có chỗ sáng, có chỗ phẳng phiu, có chỗ gồ ghề. Và trên con đường đó, biết bao cái đi tới, đi lui, hình ảnh này tới, hình ảnh kia lui, đi dọc đi ngang. Đúng là lòng mỗi người chúng ta, đều giống như một con đường nhỏ của cuộc đời, là một hệ thống đường sá rất phức tạp mà trong đó, nhìn kỹ mà xem, chưa chắc đã tìm được ý Chúa.
Rồi, nhìn kỹ vào lòng mình, bất cứ lúc nào, tôi cũng thấy lòng ta giống như một kho lẫm phức tạp: Không phải là một kho vàng, kho bạc, mà trong kho tàng linh hồn mình, lương tâm mình, có chứa chất đủ thứ, tốt có xấu có, bao nhiêu ước vọng tuổi ngọc nào đó, bao nhiêu đắng cay còn ở lại đó, bao nhiêu niềm vui nước mắt còn ở lại đó. Một kho lẫm trong lòng mình, của một kho lẫm cuộc đời bao la, phức tạp, mà trong đó, nhìn kỹ mà xem, chưa chắc đã tìm được Thiên Chúa.
Thế thì, các lời ước nguyện của chúng ta muốn trở thành đền thờ của Chúa còn xa vời.
Khi nhìn thấy như vậy, tôi hỏi Chúa rằng: Làm sao đây? Con sống giữa đời, mà đời con là một con đường phức tạp, con tìm sao được Chúa?
Tôi cầu nguyện. Chúa trả lời tôi: Thế gian này là như vậy. Con là một cái chợ nhỏ phức tạp, trong cuộc đời phức tạp, như một cái chợ lớn lao ồn ào nhưng con vẫn có thể gặp được Cha.
Đời con như một con đường phức tạp giữa một hệ thống đường sá phức tạp nhưng con vẫn có thể tìm thấy Cha.
Đời con giống như một kho lẫm phức tạp của cuộc đời, là kho lẫm đầy phức tạp, nhưng con vẫn tìm thấy sự an vui của thánh ý Cha, với điều kiện này là con phải mang trong mình tình yêu Thiên Chúa.
Đó là điều mà trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nhắc lại: Tình yêu Thiên Chúa trong ta không phải chỉ là những giáo lý, cũng không phải chỉ là những tâm tình, cũng không phải chỉ là những tuyên hứa. Tình yêu Thiên Chúa trong ta như bài Phúc Âm hôm nay nói, đó là sự gắn bó mật thiết với Đức Kitô: “Như Cha ở trong con và con ở trong Cha thì mọi người thuộc về con cũng hãy ở trong chúng ta”.
Sống thông hiệp, sống kết hợp với Thiên Chúa như vậy mới là mang tình yêu Thiên Chúa.
Tôi nghĩ rằng: Cái thiếu nhất trong đời sống Công Giáo chúng ta, nhất là trong thời văn minh vật chất này, đó là thiếu lửa mến Chúa trong lòng.
Hôm qua, tôi có dịp trao đổi với một mục sư Tin Lành. Mục sư tâm sự với tôi. Ông nói: Thời Giáo Hội sơ khai chỉ có 12 tông đồ, thế mà 12 vị ấy đã đi đốt cháy cả thế giới. Còn bây giờ, biết bao nhiêu mục sư, biết bao nhiêu linh mục, giám mục, tông đồ giáo dân, mà không đốt lên được lửa mến Chúa yêu người trong thế giới, trong nước Việt Nam, trong địa phương này. Cái thiếu của chúng ta là thiếu tình mến Chúa thực sự trong lòng.
Sáng hôm nay, tôi đến dòng Kín SG để cầu nguyện trước thánh nữ Têrêxa, cho tôi, cho anh chị em. Và trong giờ cầu nguyện, thánh nữ Têrêxa cũng tâm sự với tôi: Bí quyết làm cho một người nên thánh đó là tình mến Thiên Chúa trong lòng. Têrêxa không làm gì. Têrêxa không đi đâu. Têrêxa không dạy điều gì. Nhưng trái tim Têrêxa là một lò lửa mến Chúa hừng hực sôi lên, thao thức đầy ước vọng mến chúa.
Anh chị em thân mến, khi biết như vậy, tôi hằng ngày chỉ cầu xin một điều cho tôi và cho những kẻ thuộc về tôi, đó là xin Chúa hãy đốt nóng lên tình yêu Chúa trong tôi, trong anh chị em. Một khi có tình mến Chúa cháy lên rồi thì tất cả sẽ được giải quyết.
Hiện nay, những trào lưu thế tục đang tràn vào Việt Nam, muốn làm cho ngọn lửa mến Chúa tắt đi, và thêm vào đó là ngọn lửa thế tục, yêu mến những sự trần gian, chạy theo tiền bạc danh vọng, chạy theo hưởng thụ. Sau cùng, đạo chỉ còn là hình thức, đạo chỉ còn là lễ nghi. Còn lửa mến Chúa trong lòng tắt đi rồi.
Trước một đe dọa như vậy, tôi chỉ xin anh chị em hãy biết cảnh giác cho đức tin của mình, không phải vững mạnh ở chỗ tin những điều Hội Thánh dạy tin, mà còn là phải có lửa nóng trong lòng mình, để lửa ấy sẽ giúp đốt lên tình mến Chúa yêu người nơi các con em chúng ta.
Hằng ngày, hãy cầu xin Chúa đốt nóng lên tình mến Chúa trong ta, và hằng ngày hãy xin Chúa tắt đi trong lòng ta những ngọn lửa thế tục, những ngọn lửa trái nghịch với điều răn của Chúa.
Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có thành công, nếu chúng ta có lòng thực sự yêu mến Chúa thì Chúa sẽ đốt lửa mến Chúa trong lòng ta. Và vấn đề quan trọng của chúng ta là biết đón nhận lửa mến Chúa chứ nếu Chúa đốt, mà ta không nhận, thì Chúa cũng trọng sự tự do chối từ của ta.
Xin anh chị em hãy chia sẻ những thao thức này của tôi: Tình hình rất tế nhị. Tình hình rất phức tạp cho đức tin. Ngoài Chúa ra, tự mình chúng ta không tạo dựng được đức tin cho chính mình, cho con em mình. Hãy cậy trông Chúa Thánh Thần. Xin Ngài đốt lửa kính mến Chúa trong lòng chúng ta. Amen
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Luca 1,26-38), có một lời đã gợi ý cho tôi nghĩ tới nhà thờ này Bùi-Tuần 2265
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Luca 1,26-38), có một lời đã gợi ý cho tôi nghĩ tới nhà thờ này. Lời đó là lời Đức Mẹ nói với Thiên Thần: “Việc đó làm sao có thể thực hiện được. Việc đó sẽ xảy ra như thế nào được”.
Thực vậy, cách đây 3 năm, cha sở Antôn Nguyễn Tâm có ngỏ ý với tôi về chuyện tu sửa lại nhà thờ Ông Chưởng này. Tôi hân hoan chấp nhận vì nghĩ rằng: Tu sửa ở đây có nghĩa là sửa chữa đôi chút. Chứ nói tu sửa có nghĩa là đổi mới hoàn toàn thì tôi rất lo âu. Bởi vì chuyện đó làm sao có thể thực hiện được. Việc ấy sẽ xảy đến thế nào được, bởi vì nó quá khả năng nhỏ bé của chúng ta.
Thế nhưng, việc mà tôi tưởng sẽ không xảy đến được thì nay đã thực hiện đầy đủ, tốt đẹp.
Chúng ta đang chứng kiến một ngôi nhà thờ mới, nhỏ bé nhưng xinh đẹp, đơn sơ mà khang trang, có bầu khí cầu nguyện và có bầu khí văn minh.
Tôi thấy rằng: Bí quyết thành công của anh chị em Ông Chưởng, đó là niềm cậy trông. Tôi thấy sức mạnh đã thường xuyên thúc đẩy anh chị em luôn tiến tới cũng chính là niềm cậy trông: Cậy trông vào lòng thương xót Chúa, cậy trông vào sự thông cảm của các vị lãnh đạo đời, đạo, cậy trông vào lòng tốt, lòng quảng đại của anh chị em lương giáo, xa gần.
Chính niềm cậy trông này đang làm cho chúng ta cảm nghiệm được sự vui mừng vì đã góp phần của ta, dù nhỏ bé, vào một công việc chung to lớn của Thiên Chúa. Và sự góp phần này của ta cũng chính là một cách đầu tư vào phần rỗi bản thân mình, vào hạnh phúc của con em mình, vào hạnh phúc của đồng bào Việt Nam chúng ta. Chính niềm cậy trông này, cũng đang làm cho chúng ta cảm nghiệm được sự vui mừng thanh thản, vì được Thiên Chúa yêu thương, dù chúng ta, cá nhân cũng như họ đạo là rất nhỏ bé. Thánh đường mới là một quà tặng rất quí, nhưng tình thương Thiên Chúa còn là một quà tặng quí giá hơn nhiều.
Anh chị em thân mến.
Thánh đường đã thành công, nhưng niềm hy vọng vẫn tồn tại và cần phải tồn tại. Bởi vì chúng ta còn cần phải xây dựng những nhà thờ mới. Đó là nhà thờ bản thân ta. Đó là nhà thờ Hội Thánh của ta. Đó là nhà thờ tâm hồn con cái của ta. Đó là nhà thờ hạnh phúc của dân tộc ta. Khi xây dựng những nhà thờ thiêng liêng này, chúng ta cần rất nhiều niềm cậy trông.
Nhiều khi tôi nghĩ: Xây dựng một nhà thờ vật chất, tuy khó khăn đấy, nhưng tương đối dễ. Còn xây dựng nhà thờ thiêng liêng là một công trình rất khó khăn, và tôi tự nói với mình: Cái chuyện này thế nào mà thực hiện được? Cái việc này làm sao mà có thể xảy ra được. Nhưng, tôi nhớ lại lời Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ, mà chúng ta vừa nghe lúc nãy: “Đối với Chúa, không có gì mà không thể thực hiện được”.
Do đó, tôi vững vàng cậy trông. Niềm cậy trông của tôi cũng như niềm cậy trông của anh chị em đôi lúc mỏng manh, và vì thế cần phải tựa nương vào Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Nên, trong thánh lễ này, lời cảm tạ của chúng ta chính là những niềm cậy trông, ta cùng với Đức Mẹ tạ ơn Chúa, và cùng với Đức Mẹ không ngừng cậy trông.
Từ mấy ngày nay, nhất là từ hôm qua đến sáng nay, trước tình hình mưa gió, anh chị em đã rất cầu nguyện, và đã rất cậy trông. Tôi cho rằng chính niềm cậy trông ấy là những lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất. Chính những niềm cậy trông ấy là một sự thúc đẩy chúng ta càng đi tới mãi trong việc xây dựng những thánh đường thiêng liêng.
Lạy Chúa, cùng với Đức Mẹ, chúng con tạ ơn Chúa, cùng với Đức Mẹ, chúng con cậy trông Chúa. Xin cho niềm cậy trông sẽ là hành trang suốt đời của chúng con mãi mãi. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình Bùi-Tuần 2266
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã hỏi Chúa rằng: Chúa gọi con đi theo Chúa. Con muốn đi theo, nhưng giờ đây, Chúa đang ở đâu? Đang trên con đường nào?. Chúa trả lời tôi, bằng cách đem tâm trí tôi nhìn vào Đức Kitô.
Tôi thấy Ngài đang ở Việt Nam, trong chính địa phận Long Xuyên, trên chính vùng Cái Sắn này.
Tôi thấy Đức Kitô, mà hôm nay đang hiện diện nơi đây, cũng vẫn là Đức Kitô trong Phúc Âm gần 2000 năm trước đây tại Israel. Ngài vẫn là một Đấng từ bỏ mình, đặc điểm của Ngài là hoàn toàn từ bỏ mình, triệt để từ bỏ mình. Ngày đêm, Ngài trân trọng phần rỗi các linh hồn. Ngài vẫn là người mang nặng trên vai gánh tội thiên hạ. Ngài vẫn là người đi lại âm thầm trên các nẻo đường truyền giáo. Ngài vẫn là người đang vác thánh giá đi trên con đường lên Núi Sọ. Ngài vẫn là người đang chịu đóng đinh trên thánh giá, vì muốn cứu chuộc loài người, muốn cứu chuộc từng người, không muốn để ai rơi vào tội lỗi, chìm trong sự chết muôn đời.
Khi tôi thấy Đức Kitô hôm nay như vậy, tôi mới nhận ra rằng: Đức Kitô vẫn gần gũi chúng ta. Nhưng, nhiều khi chúng ta lại rất xa Ngài, bởi vì chúng ta thiếu điều kiện quan trọng của người môn đệ Đức Kitô. Ngài quả quyết: “Ai không từ bỏ mình, không đáng là môn đệ ta”.
Sự từ bỏ mà Đức Kitô đòi hỏi nơi chúng ta, không phải chỉ là từ bỏ một vài quyền lợi, một vài sướng vui về mặt tình cảm, về mặt vật chất, về mặt xã hội. Mà là một sự từ bỏ hoàn toàn, triệt để, về mặt tinh thần, thiêng liêng, một sự từ bỏ đụng đến cái “tôi” thầm kín nhất nơi mỗi người chúng ta.
Lúc nãy, khi làm phép thánh đường này, tôi đã thầm nói với Đức Kitô rằng: Con xin tạ ơn Chúa vì những sự từ bỏ mình, những sự vác thánh giá mình, mà các cha, giáo dân họ đạo này và những ân nhân gần xa đã thực hiện, trong quá trình xây dựng ngôi thánh đường mới này. Con xin cám ơn Chúa vì những sự từ bỏ mình, những sự vác thánh giá mình mà các thánh tử đạo Việt Nam đã thực hiện để góp phần xây dựng Hội Thánh hôm nay.
Đang khi tôi nói với Chúa như vậy, tôi nhìn thấy trước mặt tôi những đám đông, gồm những kẻ nghèo túng, những kẻ bệnh tật, những kẻ bé mọn, những kẻ cô đơn, những người đau khổ. Họ đang từ bỏ mình, họ đang vác thánh giá mình từng ngày, suốt đêm, suốt tháng, suốt năm, để cùng với Đức Kitô cứu chuộc nhân loại.
Tôi thấy đúng như lời Chúa đã phán xưa: “Có những người rốt hết, trở nên trước hết”. Bởi vì, có những người đáng lẽ phải gần Chúa hơn, nhưng bây giờ lại xa Chúa. Có những người tưởng rằng sẽ vào Nước Trời trước hết, nhưng lại vào sau hết. Bởi vì, đám đông túng nghèo, khổ đau, bệnh tật, cô đơn ấy, đang là những người từ bỏ mình, nên được Đức Kitô chấp nhận làm môn đệ của Ngài.
Lời Chúa phán hôm nay: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”. Tôi nghĩ đây là một lời, phải là nền móng cho nền tu đức của những người gọi là con cái các thánh tử đạo Việt Nam.
Mới rồi, tôi và một số linh mục đi qua một sân nhà thờ, trên sân ấy có rất đông trẻ em Công Giáo đang chơi. Nhưng thật lạ lùng là không thấy có một em nào trong nhóm đã chào chúng tôi. Đấy là một thiếu sót sơ đẳng nhất, và tôi cho đó là thiếu nền tu đức, thiếu nền văn hóa.
Cho nên dù có đọc kinh nhiều, đi lễ hằng ngày, giáo lý thuộc lào lào, nhưng chỉ thiếu sót như vậy thôi cũng đủ cho thấy là không có sự từ bỏ mình, không vác thánh giá mình, không diễn tả được tinh thần của Đức Kitô.
Tôi mong rằng: Khi chúng ta đang mừng thánh đường mới, chúng ta cũng mừng thánh đường mới trong tâm hồn chúng ta, mà vẻ đẹp của nó là sự từ bỏ mình, mà giá trị của nó là sự vác thánh giá theo Đức Kitô.
Tôi cầu xin Chúa với anh chị em hôm nay, để qua ngôi thánh đường mới mẻ đẹp đẽ này, chúng ta nhìn thấy rõ mô hình thánh đường mới của tâm hồn chúng ta. Tâm hồn của những môn đệ Đức Kitô: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa.
Lạy Chúa Kitô, con xin cảm tạ Chúa, vì những sự Chúa đã làm cho chúng con. Nhất là xin Chúa làm cho lời Chúa hôm nay trở nên sức sống, đổi mới thực sự tâm hồn chúng con. Amen.
Lễ Khánh Thành nhà thờ Hợp Tiến (Kinh B2), ngày 24/11/93.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về rượu. Người nói rằng: Rượu mới thì cần được Bùi-Tuần 2267
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về rượu. Người nói rằng: Rượu mới thì cần được để ở trong bình rượu mới. Cũng như vải mới không nên vá vào áo cũ, mà nên dùng để may áo mới.
Với những lời trên đây, Chúa Giêsu ngụ ý nói về việc đổi mới trong tôn giáo lúc bấy giờ. Ngài không muốn những người ta giữ đạo cứ mãi mãi theo đường mòn, cũ kỹ, lâu năm, lỗi thời. Ngài mong muốn cách giữ đạo cần phải được đổi mới. Sự đổi mới mà Đức Kitô mong muốn có thể là về nội dung, và cả về hình thức: Rượu mới, bình mới, vải mới, với model mới.
Sự đổi mới tôn giáo, mà Đức Kitô mong muốn, đã thực sự được Người thực hiện trong đời của Người. Người đưa vào tôn giáo một nội dung mới, với một hình thức mới.
Nội dung mới mà Đức Kitô đưa vào tôn giáo bấy giờ, đó là luật yêu thương: Mến Chúa, yêu người. Và cách giữ đạo, thực thi lề luật, mà Đức Kitô đem vào lúc bấy giờ như một cải cách, đó là tự do: Hãy mến Chúa, hãy yêu người một cách tự nguyện, tự do, tự ý, như con thảo đối với Cha của mình, không bị ép buộc, không bị áp bức.
Sự đổi mới tôn giáo mà Đức Kitô đã thực hiện lúc bấy giờ, vẫn được Hội Thánh luôn luôn, thường xuyên, không ngừng tiếp tục thực hiện trong mọi thời đại. Bởi vì, Hội Thánh là dân Thiên Chúa, thì cũng là một xã hội như mọi xã hội khác, cũng có những cá nhân yếu đuối, cũng có những cộng đoàn lầm lỗi. Cho nên, cần phải thường xuyên đổi mới.
Riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II của chúng ta, từ mấy năm nay, đã ý thức điều đó, nên đã đưa ra lời hô hào đổi mới, với cái từ mà Ngài thường hay dùng, đó là “tân Phúc-Âm-hoá”.
Tân Phúc-Âm-Hoá mà Đức Thánh Cha muốn nói ở đây, gồm ba điều kiện chính sau đây: Một là có một nhiệt tình mới. Hai là có những phương cách mới. Ba là có những diễn tả mới, trong việc giữ đạo, trong việc truyền đạo.
Tôi thấy ba việc trên đây đang được thực hiện trong giáo phận Long Xuyên chúng ta đó đây, với những mức độ khác nhau, và với màu sắc khác nhau.
Riêng ở xứ đạo Tân Chu này, tôi cũng đang nhìn thấy ba điểm ấy đang được thực hiện trong một mức độ tương đối:
Tôi nhìn thấy có một nhiệt tình mới. Cái nhiệt tình đây, phải hiểu là cái nhiệt tình không phải đi về phía sau, trở nề nếp cũ, mà là nhiệt tình, muốn đi về phía trước, với những sáng kiến mới. Nhiệt tình tôi thấy ở đây, không phải là nhiệt tình giữ đạo, bảo vệ Hội Thánh mà thôi, mà còn là nhiệt tình mở đạo, mở Hội Thánh, phát triển đức tin. Đây là nhiệt tình, đúng là mới.
Rồi, tôi cũng đang nhìn thấy những phương cách mới. Phương cách mới, đó là chúng ta tập trung vào những điều căn cốt trong đạo, tập trung vào Đức Kitô, tập trung vào Chúa Thánh Linh. Đây là những điều căn bản nhất của Tin Mừng. Thay vì phương cách cũ, là rất đề cao các việc tôn sùng các thánh. Tập trung vào Đức Kitô, tập trung vào Chúa Thánh Thần, chính là sức mạnh đổi mới.
Rồi, phương cách mới mà tôi đang thấy ở đây, đó là chúng ta đề cao nhiều hơn sự học hỏi lời Chúa, thay vì đề cao sự học thuộc lòng giáo lý và các kinh.
Rồi, phương cách mới mà tôi đang nhìn thấy ở đây, đó là cách chúng ta sống đạo mà đồng hành với dân tộc mình. Thay vì trước kia sống đạo, chúng ta chỉ biết có quyền lợi tư riêng của Hội Thánh mình.
Những phương cách này, đúng là mới. Và xứ đạo của chúng ta đã bắt đầu thực thi có hiệu quả.
Rồi, tôi cũng đang nhìn thấy cách diễn tả sống đạo của anh chị em rất là mới:
Như việc tập trung tổ chức những việc phượng tự và mời khách, sao cho trang nghiêm, sốt sắng, trật tự, hoan hỷ, đầy tinh thần hiệp thông. Cũng như trong lễ hôm nay, tôi đang nhìn thấy một bầu khí hiệp thông, một bầu khí trật tự, tràn đầy tình người. Đây cũng là một cách diễn tả đức tin mới, mà những người ngoài công giáo sẽ dễ dàng nắm bắt được đức tin của chúng ta.
Rồi, cách diễn tả nữa cũng mới, đó là chúng ta để ý đến môi trường: Nhà thờ sạch sẽ, đẹp đẽ, khang trang. Công viên có những băng đá giúp nghĩ ngơi thoải mái trước khi vào nhà thờ. Khuôn viên nhà thờ những màu xanh, với những cây xanh, có bóng mát, có hoa tươi. Chung quanh nhà thờ lúc nào cũng sạch sẽ. Đó chính là môi trường. Và môi trường như vậy, chính là cách diễn tả đức tin, diễn tả cách sống đạo, sẽ giúp cho mọi người dễ dàng nâng tâm hồn mình lên cao, để ca ngợi Thiên Chúa, là Đấng Tạo Thành chúng ta.
Rồi, cách diễn tả đức tin bây giờ cũng rất thích hợp, đó là nhân cách, là nhân bản, là văn hoá của chúng ta và của gia đình chúng ta.
Tôi nhìn qua anh chị em, kể cả các em bé, tôi đã thoáng thấy những nét nhân bản dễ thương, và những nét văn hoá tương đối cao. Tôi coi đây là những cách diễn tả đức tin, để qua những nét nhân bản và văn hoá đó, người ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa qua nếp sống của những người có đạo chúng ta.
Diễn tả mới, phương cách mới, nhiệt tình mới, đó là ba điều kiện của tân Phúc-Âm-hoá. Chúng ta mới chỉ thực hiện được một phần thôi. Chúng ta còn cần phải bước đi nhiều hơn nữa, với những bước đi xa hơn nữa, theo yêu cầu của thời đại.
Tôi vui mừng, vì những thành công của tân Phúc-Âm-hoá. Nhưng cũng phải nói thực, là tôi cũng lo âu. Và đôi khi phiền muộn, khi thấy những nơi không có dấu chỉ nào về tân Phúc-Âm-hoá: Tôi tìm nhiệt tình mới, nhưng không thấy. Tôi tìm phương cách mới, nhưng không thấy. Tôi tìm cách diễn tả mới, nhưng cũng không thấy.
Tôi có cảm tưởng: Những cộng đoàn đó đang tụt hậu, đang chìm đắm trong những tình cảm mê sảng, đang đi vào tình trạng chết mòn chết dần về tôn giáo.
Làm sao bây giờ? Tôi nghĩ: Cần phải tỉnh thức.
Lúc nãy, khi tôi bước vào nhà thờ, tôi đọc thấy khẩu hiệu: “Xin Ngài đổi mới”. Tôi ý thức ngay rằng: Không phải tôi, không phải các cha, không phải anh chị em, là những người chủ động đổi mới, mà là chính Chúa Thánh Linh. Chính Chúa Thánh Linh là Đấng đổi mới tận căn rễ tâm hồn con người. Chính Ngài mới có thể làm cho chúng ta bỏ đi được nết xấu. Và chính Ngài mới có thể thắp sáng lên được niềm tin, ngay cả trong những tâm hồn nguội lạnh nhất.
Vì thế, tôi xin anh chị em: Hãy sốt sắng và thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, giúp cho chúng ta biết đổi mới, có những nhiệt tình mới, có những phương cách mới, có những việc làm mới, để sống đạo, để truyền giáo cho ngày hôm nay, và cho tương lai sau này.
Giờ đây, trong đức tin mà chúng ta cùng chia sẻ, chúng ta hãy hướng về Chúa Thánh Linh. Chúng ta cùng nói lên niềm hy vọng của chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Tân Chu (Kinh 5a), ngày 8/7/1995.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh để diễn tả Nước Trời: Hình ảnh Bùi-Tuần 2268
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh để diễn tả Nước Trời: Hình ảnh thứ nhất là hạt cải gieo vào lòng đất, rồi mọc lên thành cây lớn. Hình ảnh thứ hai là tấm men trộn vào bột, để bột đó trở thành bánh ngon.
Với hai hình ảnh trên đây, Chúa Giêsu cho thấy đặc điểm của Nước Trời là sự phát triển những cái đẹp, những cái tốt, những cái lành. Và sự phát triển đó gây được ảnh hưởng tốt cho môi trường chung quanh, biến đổi được môi trường đó nên tốt hơn. Vì thế, người nào, cộng đoàn nào, có những phát triển về những điều tốt, gây ảnh hưởng tốt cho khu xóm chung quanh, biến đổi được người chung quanh nên tốt hơn, thì người đó, nơi đó, cộng đoàn đó, có đặc điểm của Nước Trời.
Với nhãn quan về Nước Trời như vậy, tôi quan sát tình hình địa phương này, từ cá nhân cho đến các gia đình, và các cộng đoàn, công giáo cũng như ngoài công giáo. Và tôi thấy: Có những cá nhân, có những cộng đoàn, đã phát triển rất tốt về nhân bản, về trí thức, về văn hoá, về đạo đức. Tôi cho rằng: Nơi những người đó, nơi những cộng đoàn đó, có đặc điểm của Nước Trời.
Trái lại, tôi cũng đã thấy: Có những cá nhân, có những gia đình, có những cộng đoàn, hầu như không phát triển gì về những mặt tốt, từ nhân bản, từ trí thức, đến văn hoá, đến đạo đức. Tôi cho rằng: Những cá nhân ấy, những cộng đoàn ấy, xem ra không có dấu chỉ của Nước Trời.
Cái thực tại, mà tôi đang thấy ở đây, gợi ý cho tôi nhớ lại lời thánh Augustinô xưa đã nói. Thánh nhân nói: “Có những người thuộc về Hội Thánh, nhưng lại không thuộc về Nước Trời. Trái lại, có những người không thuộc về Nước Trời, nhưng lại thuộc về Hội Thánh”. Thánh nhân đề cao những người, mặc dầu không thuộc về Hội Thánh, nhưng lại thuộc về Nước Trời.
Tới đây, một câu hỏi tất nhiên đặt ra, đó là cái gì là cái tốt lành căn bản, cần phải phát triển, để coi đó là dấu chỉ của Nước Trời?
Tôi xin thưa ngay: Cái lành, cái tốt đó, chính là đức bác ái, chính là thực thi bổn phận liên đới với con người.
Câu trả lời đây dựa trên Phúc Âm: Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ đánh giá mỗi người chúng ta, theo tiêu chuẩn bổn phận liên đới của chúng ta đối với những người chung quanh: Người ta đói, có cho người ta ăn không? Người ta khát, có cho người ta uống không? Người ta rách rưới, có cho người ta mặc không? Người ta ở tù, có đến thăm viếng không? Người ta buồn phiền, có đến an ủi người ta không?
Dụ ngôn về ngày phán xét chung rất rõ. Và những tiêu chuẩn Chúa dùng để đánh giá và phân loại chúng ta, hoàn toàn coi như rất đời, nhưng rất đạo, hợp với mọi tín ngưỡng, kể cả đạo làm người. Và Chúa đòi phải phát triển những cái đó, như là một điều kiện căn bản, để đi tới Nước Trời. Và chúng ta thấy: Khi nào chúng ta, gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, thực thi bổn phận liên đới với những người chung quanh, thì môi trường nơi đó dần dần sẽ trở nên một môi trường bình an, một môi trường yêu thương, một môi trường hạnh phúc. Và đó là dấu chỉ Nước Trời đang đến.
Phục vụ người khác, thăng tiến người khác, thực thi bổn phận liên đới với người khác, đó là một điều rất quan trọng của đạo chúng ta. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần đã xác định: “Con người chính là con đường của hội Thánh”. Có nghĩa là phục vụ con người, thăng tiến con người, đó là con đường mà Hội Thánh phải đi, để làm chứng cho đức tin, để làm chứng đạo Công giáo, đạo mến Chúa, đạo yêu người, đạo làm chứng lòng mến Chúa, bằng sự yêu thương, phục vụ, thăng tiến con người chung quanh.
Mới rồi, một nữ tu nổi tiếng trên thế giới, soeur Emmanuella cũng nói: “Con người, chính là dòng sông, mà Hội Thánh phải đi, để dẫn nhân loại về Nước Trời”.
Vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình xem: Chúng ta có đi vào con đường mà Đức Giáo Hoàng đã nói không? Chúng ta có đi theo dòng sông, mà soeur Emmanuella đã nói không? Con đường đó là con đường phục vụ con người, thăng tiến con người, để làm chứng cho đức tin.
Những điều tôi vừa chia sẻ trên đây gợi lên cho chúng ta hai điều này: Khi xét mình, chúng ta hãy đặt nặng vấn đề bổn phận của ta đối với con người chung quanh mà kiểm điểm, mà xét mình. Bởi vì, đó là điều Chúa đặc biệt đòi hỏi trong ngày phán xét. Và một điều nữa ta cũng cần phải đặc biệt quan tâm kiểm điểm, đó là phải xét lại cách sống đạo của chúng ta.
Chúng ta cần phải sống đạo và tuyên xưng đức tin, bằng cách thực thi bác ái. Hãy coi việc chúng ta đối xử tốt với nhau, thăng tiến cho nhau, là những bài ca thờ phượng Thiên Chúa. Khi chúng ta tha thứ cho nhau, giúp đỡ nhau trở nên tốt, và làm cho cuộc đời của những người chung quanh được tốt hơn, thì đó là một cách đền tội tốt nhất. Trong Phúc Âm, Chúa cũng thường hay nhắn nhủ: Hãy ca tụng Chúa, bằng việc làm bác ái. Hãy đền tội mình, bằng những việc bác ái. Hãy tuyên xưng đức tin, bằng những việc bác ái đối với con người.
Địa phương chúng ta là một địa phương có nhiều tín ngưỡng. Và chúng ta đã thấy có những tôn giáo rất mới, nhưng đã phát triển mạnh, phát triển lẹ và sâu rộng. Động cơ phát triển, con đường phát triển, phương thế phát triển, là thực thi các việc từ thiện xã hội.
Đây cũng là một điều nhắc nhở cho chúng ta, nhất là thời buổi hôm nay.
Thời thánh Emmanuel Phụng của chúng ta tử đạo, là thời cần phải làm chứng cho đức tin bằng sự đổ máu mình ra. Còn thời của chúng ta hôm nay, là thời cần phải làm chứng cho đức tin, bằng cách đổ hết nhiệt tình của mình ra, để lo cho người khác.
Chúng ta biết: Thánh Emmanuel Phụng của chúng ta, trước khi đổ máu mình ra làm chứng cho đức tin, thì cũng đã từng đổ hết nhiệt tình của mình ra, để yêu thương, để giúp đỡ mọi người: Giúp đỡ, yêu mến, che chở các cha. Ngài cũng đã yêu thương và giúp đỡ cộng đoàn. Ngài lo lắng cho tất cả mọi người, không phân biệt người lương người giáo. Đó là điều chúng ta, những con cháu của Ngài, cần phải đặc biệt quan tâm trong lúc này, để bắt chước thánh Emmanuel Phụng của chúng ta.
Lúc nãy, khi ca đoàn hát: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”. Tôi đã hợp ý với ca đoàn mà nói với Chúa một tâm tư như vậy. Và tôi hỏi Chúa: Con thực thi ý Chúa, nhưng ý Chúa hôm nay thế nào? Chúa đã nhắc lại cho tôi một cách xác định: Ý Chúa hôm nay, là con và cộng đoàn của con, hãy làm chứng cho Cha về đức ái. Hãy làm chứng cho mọi người biết Thiên Chúa của con là Đấng giàu lòng thương xót. Hãy làm chứng cho Hội Thánh Công giáo của con là Hội Thánh của tình yêu thương. Hãy làm chứng cho những người tin theo Đức Kitô hôm nay là những người biết thương yêu nhau và biết thăng tiến những người chung quanh. “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Cha, là yêu thương nhau và giúp đỡ mọi người chung quanh”.
Tôi xin Chúa Thánh linh ban cho chúng ta một trái tim đầy tình yêu thương.
Tôi thường nói với Chúa: Hành trang cuộc đời của con, chính là trái tim của Chúa. Chỉ thế thôi. Tiền bạc con không có. Sức khoẻ con rất yếu. Hành trang của con là trái tim Chúa, một trái tim yêu thương, một trái tim cởi mở.
Xin Chúa Thánh Linh, giờ đây, ban cho mọi người chúng ta nói chung, và cho con em chúng ta nói riêng, được lãnh nhận tình thương của Chúa, và quyết tâm làm chứng tình thương của Chúa, qua những việc bác ái của mười bốn mối thương xót mà chúng ta vẫn thường đọc vào các ngày Chúa Nhật: “Thương xác bảy mối, thương hồn bảy mối”. Chỉ thế thôi, ta có thể làm chứng được đức tin của chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Cù-Lao-Giêng, ngày 31/7/1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một nông dân: Khi biết một thửa ruộng Bùi-Tuần 2269
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một nông dân: Khi biết một thửa ruộng có chôn giấu kho tàng quí nông dân đó đã vội vàng tìm mọi cách, kể cả cách bán nhà cửa mình đi, để mua cho được thửa ruộng đó.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu dạy: Trong khi chúng ta xây dựng Nước Trời, chúng ta phải phấn đấu. Cũng như phấn đấu của người nông dân trong dụ ngôn, là phải biết xoay sở, là phải biết dấn thân, là phải biết đi lên, là phải biết cam chịu vất vả, thì người lo phát triển Nước Trời, cũng không được quyền nghỉ ngơi, không được quyền bất động, không được quyền thụ động.
Vì Nước Trời, chúng ta phải phấn đấu, phải muốn phấn đấu, phải thích phấn đấu, phải biết cách phấn đấu, và phải kiên trì phấn đấu. Phấn đấu để cho con người được thăng tiến hơn, để cho cuộc sống được dễ chịu hơn, để cho văn hoá được nâng cao hơn, để cho các dây liên hệ có yêu thương hơn, có hoà bình hơn, có công lý hơn.
Bài học phấn đấu, mà Đức Kitô dạy trong dụ ngôn hôm nay, đã và đang được thực hiện trong họ đạo chúng ta.
Khi đến đây, chúng tôi nhận ra ngay họ đạo Tân Lập của anh chị em là một họ đạo đã phấn đấu và đang phấn đấu.
Thực tại là một kết quả. Cách đây đúng 5 năm, như ông đại diện đã nói, bấy giờ tôi đến đây hãy còn là một vùng đồng ruộng mênh mông, nước phèn, chỉ có lác đác một số chòi, và nhà thờ chỉ là một nhà lá chênh vênh, hầu như không có đường đi từ nhà này sang nhà nọ.
Nhưng hôm nay khi tới đây, chúng tôi thấy quang cảnh rất khác xưa: Đường ra đường, nhà ra nhà, ruộng ra ruộng. Và tôi thấy đồng bào có những cách ăn mặc, nhất là trẻ em đã có những sinh hoạt, không mấy thua kém những nơi khác.
Tôi thấy sự phấn đấu ở đây có một số điểm khác với những phấn đấu ở những nơi khác:
Trước hết, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy có một sự cân đối về nhiều mặt: Vừa phấn đấu trong lĩnh vực vật chất, vừa phấn đấu trong lĩnh vực tinh thần, tăng trưởng về kinh tế và tăng trưởng về văn hoá, tăng trưởng về cuộc sống và tăng trưởng về đạo đức.
Rồi, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy có những phần khác nhau: Phần riêng của từng người. Phần chung của Hội Thánh, của xã hội.
Rồi, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy động lực thúc đẩy chính là đức tin. Anh chị em đã nói với tôi nhiều lần: Chính vì đức tin và nhờ đức tin, mà anh chị em đã phấn đấu, bên cạnh những động lực trần thế khác, và rất là chính đáng.
Rồi, trong sự phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy vai trò của linh mục là rất quan trọng. Từ kinh nghiệm này, tôi cho rằng sự hiên diện của Hội Thánh ở giữa lòng dân tộc, nhất là sự chia sẻ của Hội Thánh với kẻ nghèo, với sự thăng tiến của cuộc đời, nó có một giá trị thiêng liêng, giúp cho những phấn đấu của đồng bào mình được hữu hiệu hơn.
Ở đây lúc này, quang cảnh buổi lễ, với sự hiện diện rất tích cực của anh chị em, đang gây cho chúng tôi một ấn tượng mạnh về sự phấn đấu của anh chị em, một sự phấn đấu lâu dài về nhiều mặt, và đã thành công tương đối.
Tôi rất cảm tạ Chúa. Bởi vì, mặc dầu chưa hoàn chỉnh, nhưng những phấn đấu của anh chị em đã có kết quả rất nhiều. Nhất là khi so sánh với những nơi khác.
Cách đây ít tháng, tôi có đến Phi Luật Tân. Tôi đã thấy tận mắt, ngay ở vùng ngoại ô Manila, thủ đô Phi Luật Tân, có rất nhiều người nghèo, ăn ngủ ở trên những đống rác, không nhà, không cửa.
Tôi cũng đã đi nột số địa phận miền Trung. Tôi đã thấy có nhiều cộng đoàn, cả năm mới được một hai thánh lễ mà thôi.
Rồi cách đây ít ngày, tôi cũng đã thấy một người dân thường, có vợ, có con. Nhưng vì thất vọng nghèo túng, không còn nhìn thấy một tia hy vọng, đã phải cầm dao đâm vào cổ tự sát.
Còn ở đây, tôi thấy anh chị em có rất nhiều hy vọng: Có nhà, có cửa, có thánh lễ, có nhà thờ, có linh mục, có tinh thần cộng đoàn, và nhất là có nhiều tiềm năng, để có thể khai thác trong tương lai.
Đây là những điều chúng ta phải nhận đó là kết quả tốt, để chúng ta tự nhủ mình: Chúa thương chúng ta. Chúa rất thương chúng ta. Từ nhận định đó, chúng ta đi vào tương lai với một niềm lạc quan thanh thản.
Tôi cũng nhớ lại lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ: “Thiên Chúa có thể làm những sự coi như không thể làm được”. Cho nên, tôi rất tin vào Thiên Chúa, mặc dù trong những hoàn cảnh coi như bế tắc, coi như không làm gì được, nhưng vẫn tin, vẫn phải tin vào Thiên Chúa, chỉ vì muốn cho danh Người được sáng, chỉ vì muốn có phần rỗi cho linh hồn mình, cho gia đình của mình, cho cộng đoàn của mình.
Tin tưởng vào Chúa là Cha nhân lành, là Chúa tình yêu, như là anh chị em đã từng chứng kiến, đã từng cảm nghiệm, chúng ta lại tiếp tục cuộc hành trình phấn đấu trong tương lai. Và khi phấn đấu như vậy, chúng ta sẽ không lẻ loi vì có Chúa ở trong ta, có Chúa ở bên ta, có Chúa ở cùng ta.
Và như vậy, tôi nhớ lời Phúc Âm nói: “Kẻ sau hết, sẽ là kẻ trước hết”. Trước mặt Chúa, cái trật tự đi vào Nước Trời cũng sẽ là như vậy.
Nếu anh chị em phấn đấu với tất cả niềm tin, vì Chúa, vì Nước Trời, thì Chúa sẽ giúp cho anh chị em đi vào Nước Trời theo một trật tự của Người: Bề ngoài anh chị em nghèo túng, nhưng bề trong, Chúa rất thương anh chị em. Và như tôi vừa nói: Kẻ đứng chót, sẽ trở thành kẻ đứng nhất.
Xin Thiên Chúa là Cha nhân lành giúp cho chúng ta hôm nay được nhiều ơn Chúa Thánh Thần, không phải chỉ là sự can đảm trong cuộc sống phải phấn đấu, mà còn là một niềm tin vững vàng thanh thản trong bình an yêu thương, trong tinh thần và công lý, để chúng ta góp phần xây dựng Nước Trời, giữa một cánh đồng địa phương rất cần ánh sáng Phúc Âm. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ giáo xứ Tân Lập, ngày 02/8/1995
Bài Phúc Âm hôm nay dạy tôi một bài học đơn giản về đạo công giáo. Nếu có ai hỏi tôi: “Đạo Bùi-Tuần 2270
Bài Phúc Âm hôm nay dạy tôi một bài học đơn giản về đạo công giáo.
Nếu có ai hỏi tôi: “Đạo công giáo là gì?”, thì tôi sẽ căn cứ vào bài Phúc Âm hôm nay mà trả lời. Đại khái như sau:
Thứ nhất: Đạo công giáo là đạo dạy phải phục vụ hết mọi người, không trừ một ai. Hãy xem bằng chứng trong bài Phúc Âm hôm nay: Chúa Giêsu đã ban phát bánh và cá cho hơn năm ngàn người. Trong số năm ngàn ấy, có những người tin, có những người không tin, có những người đạo đức, có những người tội lỗi. Chúa không phân biệt ai cả. Chúa phục vụ mọi người, không trừ một ai.
Thứ hai: Đạo công giáo là đạo dạy hãy biết cần nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Trong đám đông ấy, có một cậu bé bán bánh và cá. Cậu bé đó đến, chắc không phải đi nghe giảng đâu. Thế mà, Chúa Giêsu đã dùng cậu bé đó, như là một dụng cụ cần thiết trong chương trình cứu độ. Có vẻ như Chúa cần đến một phương tiện yếu hèn.
Thứ ba: Đạo công giáo là đạo dạy tin vào Chúa và biết tạ ơn Thiên Chúa, nhưng không ép buộc ai phải tin và phải tạ ơn như vậy. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Trước khi ban lương thực cho dân, Đức Kitô đã ngước mắt lên trời, tạ ơn Chúa Cha. Ngài làm điều đó trước mặt đám đông. Nhiều người đã thấy. Và chắc nhiều người đã bắt chước. Nhưng, Chúa không ép buộc ai phải làm như vậy. Chúa trọng tự do lương tâm của mỗi người.
Thứ bốn: Đạo công giáo là đạo dạy phải chân thành và quy hướng về sự sống. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Đức Kitô làm chứng về lòng mến Chúa và lòng yêu người, bằng chính việc làm, bằng chính thái độ, bằng chính trái tim. Nói sao, làm vậy. Ngài lấy lời nói mà báo, nhưng lấy việc làm mà làm chứng.
Thưa anh chị em, nếu một người theo gương Đức Kitô về bốn điểm trên đây, rút ra từ bài Phúc Âm, thì tôi gọi người đó là người có sự đơn sơ Phúc Âm. Người có sự đơn sơ Phúc Âm này làm cho Phúc Âm nên dễ chịu, dễ thương, dễ giữ. Nhiều người đã được Chúa gọi, để sống sự đơn sơ Phúc Âm ấy.
Xưa nay, rất nhiều người đã thực hiện ơn gọi sống ơn đơn sơ Phúc Âm, và đã có được nhiều hiệu quả, để giới thiệu Nước Trời. Tôi có cảm tưởng là cha Bôna của chúng ta cũng ở trong số những người đã được Chúa gọi, để sống ơn đơn sơ Phúc Âm.
Khi mừng lễ Kim Khánh linh mục của cha, tôi đã thử tìm nơi cha một cái nét huy hoàng nào để mà khen. Nhưng thú thực là tôi không tìm thấy. Nhưng tôi tìm thấy nơi cha một nét âm thầm, nhưng căn bản, đó là sống đơn sơ Phúc Âm, với bốn điều tôi vừa nêu lên dựa trên bài Phúc Âm hôm nay. Và chúng ta đã thấy: Với ơn đơn sơ Phúc Âm của cha, nhiều người đã tiếp nhận được Tin Mừng: Bao nhiêu người cùi, bao nhiêu bệnh nhân, bao nhiêu người ngoài Công giáo, kể cả những người không biết đọc biết viết, không biết giáo lý Công giáo là gì. Nhưng, một khi cảm nghiệm được sự đơn sơ Phúc Âm của cha Bona, người ta như được đón nhận một tin mừng thiêng lilêng nào đó, đem lại hy vọng, đem lại hạnh phúc nội tâm cho họ. Và tôi nghĩ rằng: Trong sứ mệnh của một người truyền giáo, thì kết quả như vậy là rất đáng mừng. Theo tôi thấy thì ơn sống đơn sơ Phúc Âm là một đoàn sủng Chúa ban cho người ta, vì ích lợi của cộng đoàn. Bởi vì, cộng đoàn cũng một ơn gọi, để phát triển những đoàn sủng giúp cho họ làm cho Nước Trời đi vào lòng con người.
Vì thế hôm nay, khi tạ ơn Chúa vì đoàn sủng Chúa ban cho cha Bona biết sống đơn sơ Phúc Âm, tôi cũng tạ ơn Chúa, vì ơn đoàn sủng này cũng đã được chia sẻ cho cộng đoàn Phanxicô Cù-Lao-Giêng ở đây, và cho giáo phận Long Xuyên chúng ta.
Tôi cầu xin cho cha, và cầu xin cho mỗi người chúng ta: Biết mở lòng ra, để đón nhận nhiều hơn ơn đoàn sủng sống đơn sơ Phúc Âm. Vì tôi thấy rằng: Cách sống đơn sơ Phúc Âm lúc này là rất quan trọng cho việc tái Phúc-Âm-hóa chính mình, và rất cần cho việc tái Phúc-Âm-hóa các cộng đoàn, và cũng rất cần cho việc truyền bá Tin Mừng tại địa phương chúng ta trong thời điểm mới này.
Hãy đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, bởi vì lễ tạ ơn hôm nay không phải là nhìn về quá khứ, cho bằng nhìn về phía trước. Cha Bona, cũng như chúng ta, phải đi về phía trước, để đón nhận nhiều ơn Chúa Thánh Thần hơn, với một đoàn sủng lớn hơn, hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta cũng phải biết sống quảng đại hơn, khiêm tốn hơn để đón nhận. Xin cho chúng ta biết sử dụng ơn Chúa, và biết cộng tác với Chúa Thánh Thần. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu phán: “Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng Bùi-Tuần 2271
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu phán: “Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con”.
Tôi nghĩ: Với những lời trên đây, Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta đừng bao giờ sợ, coi cái sợ như là một cái xấu, gây thiệt hại. Bởi vì, sợ là một phản ứng tự nhiên của cảm quan Chúa ban cho con người, để bảo vệ và phát triển cuộc sống.
Có những cái sợ không cần thiết và sinh hại. Nhưng có những cái sợ cần thiết, để giúp chúng ta đi vào đúng đường lối. Nếu có một người nào đó không biết sợ gì cả: Không sợ luật pháp, không sợ cha mẹ, không sợ dư luận, không sợ Chúa, không sợ tội, thì người đó, có lẽ sẽ không ngần ngại phạm bất cứ tội nào: Phá rối trật tự, để rồi tự mình đâm đầu xuống lửa địa ngục.
Vậy Chúa bảo chúng ta đừng sợ, là đừng sợ cái gì?
Riêng tôi, khi nghe Chúa bảo: “Con đừng sợ”, có nghĩa là con đừng sợ đời con không có định hướng. Bởi vì, định hướng đời con đã được Cha trên trời xác định rõ. Định hướng đời con là đi về Nước Trời, dù con đang ở Kiên Lương, dù chiều nay con về Long Xuyên, dù sáng mai con đi Sài Gòn, để sáng mốt bay ra Đà Nẵng. Định hướng đời con vẫn là đi về nhà Cha trên trời. Định hướng đó đã được Cha trên trời xác định, và vạch rõ cho con.
Rồi, khi nghe Chúa nói: “Con đừng sợ”, thì tôi hiểu rằng, những sự vất vả, khó khăn, hy sinh tôi chịu, không phải là vô nghĩa. Bởi vì, Chúa sẽ cân đo tất cả, để làm giá cứu chuộc bản thân tôi, và cứu chuộc những người thuộc về tôi. Không có sự gì mà không có giá trị trước mặt Chúa.
Sự anh chị em đang ngồi, đang đứng ở đây, cũng là những việc có ý nghĩa trước mặt Chúa: Mỗi giây phút ta dâng cho Chúa, với tất cả niềm tin yêu, là một giây phút có ý nghĩa. Tôi dâng phút này cho Chúa, để tạ ơn Chúa, để cầu nguyện cho các linh hồn, thì tất cả đều có ý nghĩa hết, đều có giá trị cứu độ. Đừng sợ những việc đó là không ý nghĩa.
Rồi, khi Chúa bảo tôi: “Con đừng sợ”, thì tôi hiểu rằng, việc tôi trở về với Phúc Âm sẽ không tránh được những khó khăn. Bởi vì, những khó khăn ấy trước mặt Chúa sẽ là những bậc thang Chúa gọi tôi bước vào, để mở rộng Nước Trời.
Ở đây, tôi nghĩ tới việc Tân-Phúc-Âm-hoá, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đang hô hào khuyến khích.
Tân-Phúc-Âm-hoá là gì?
Tân-Phúc-Âm-hoá là trở về với Phúc Âm, là tập trung vào Đức Kitô. Đức Kitô chính là Nước Trời. Hãy đón nhận Đức Kitô với lời của Người, với sự sống của Người, với thần linh của Người, và cùng với Đức Kitô xây dựng vương quyền Thiên Chúa trong lòng mình, trong lòng những người xung quanh, và môi trường xã hội, để khắp nơi đều có hoà bình, có yêu thương, có công lý.
Nhưng khi đưa ra sơ đồ Tân-Phúc-Âm-hoá như vậy, và đã thực hiện đôi chút, tôi thấy ngay những khó khăn mình phải đụng tới: Nhiều khi những khó khăn đó lại xuất phát từ trong chính Hội Thánh. Bởi vì, biết bao người coi như giữ đạo, nhưng chỉ giữ đạo bề ngoài, mà không bao giờ trở về cái căn cốt của Phúc Âm, không bao giờ coi sự gặp gỡ Đức Kitô là chính đức tin sống động, và chưa bao giờ quyết tâm đi theo Đức Kitô, và sống theo gương Đức Kitô. Có biết bao nhiêu người như vậy.
Tân-Phúc-Âm-hoá chính là phải có một nhiệt tình mới, phải sáng tạo ra những phương thế mới, để truyền bá Phúc Âm, và để diễn tả một cách thức mới đức tin của mình.
Nhưng trên thực tế, tôi đã thấy biết bao khó khăn: Biết bao nhiêu người trong chính chúng ta vẫn chỉ bám vào những cái cũ. Sợ những cái mới. Phản đối những cái mới. Mà nếu như vậy, thì không thể nào có Tân-Phúc-Âm-hoá được, để trình bày đức tin trong thời điểm mới của Việt Nam hôm nay.
Trước những khó khăn ấy, Chúa bảo tôi: Con đừng sợ. Bởi vì “Cha các con trên trời đã vui lòng ban Nước Trời cho các con”.
Như vậy, vấn đề chính còn lại đối với tôi và anh chị em hôm nay, là đón nhận Nước Trời Chúa ban cho. Nhưng, đây là vấn đề chúng ta cần phải xem xét một cách nghiêm túc. Chúa phán: “Cha đứng ở cửa lòng con, và luôn gõ cửa lòng con, nếu con mở cửa lòng con, Cha sẽ vào và ở lại đó”.
Bây giờ, chúng ta thử hỏi mình xem: Chúng ta có mở cửa lòng ta ra đón nhận Đức Kitô không? Chúng ta có để những dục vọng, sự nguội lạnh, lòng tự mãn, khép cửa lòng ta lại, không cho Đức Kitô đi vào? Hoặc là Đức Kitô đi vào lòng ta rồi, mà ta vẫn xử sự với Ngài như một người khách lạ?
Rồi, bài Phúc Âm hôm nay nói: “Để đón Nước Trời, cần phải tỉnh thức”, có nghĩa là chúng ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa gọi, không những trong Phụng Vụ, trong Kinh Thánh, mà trong các thực tại mỗi ngày.
Chúa kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, nhưng chúng ta có thực sự ăn năn sám hối không?
Rồi, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói: Để đón Nước Trời là Đức Kitô, ta cần phải làm tốt bổn phận của mình, sử dụng tốt các ơn Chúa ban. Vậy, ta tự hỏi mình xem: Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn phần hồn phần xác, nhưng chúng ta có làm tốt bổn phận của ta không với những ơn đó: Bổn phận tạ ơn Chúa hàng ngày, bổn phận trở nên tốt hơn hàng ngày, bổn phận làm chứng hiệu nghiệm hơn cho Chúa hàng ngày?
Anh chị em thân mến,
Họ đạo Kiên Lương của anh chị em có thể gọi được là một nơi đã nhận nhiều ơn Chúa, về kinh tế, về văn hoá, và về đức tin. Nếu so sánh Kiên Lương với những họ đạo trong địa phận, tôi thấy ở đây, anh chị em được nhiều ơn, hơn những giáo đoàn khác. Vậy anh chị em hãy chân thành trả lời Chúa: Mình có thật sự phát triển những ơn Chúa ban cho mình không, để đón nhận Nước Trời? Có lẽ anh chị em cũng như tôi, giờ đây cảm thấy mình yếu đuối, có những lầm lỗi, và tự mình muốn vươn lên, mà khó vươn lên. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy hôm nay: “Các con đừng sợ”. Bởi vì nếu chúng ta có thiện chí, có lòng khiêm tốn, có lòng phó thác, và nhất là như lời Chúa dạy hôm nay” Đoàn chiên bé nhỏ, hãy sống bé nhỏ, hãy sống thật sự khiêm tốn, thì ơn Chúa sẽ biến đổi chúng ta. Hãy nhớ lời Chúa nói trong ngày lễ Truyền Tin: “Những gì người ta không làm được, thì Thiên Chúa sẽ làm được”.
Chúng ta tin vào lời Chúa, nghĩa là chúng ta có thiện chí, tin tưởng, phó thác, khiêm tốn, và sống bé nhỏ thiêng liêng trước mặt Chúa. Giờ đây, chúng ta tập trung lòng trí lại, nhìn vào Thiên Chúa, hết lòng khiêm tốn nhận mình yếu đuối, và xin mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa vào lòng ta, và xin sẵn sàng tuân theo bất cứ sự gì Chúa muốn nơi ta.
Chúa chỉ cần có thế thôi. Và rồi Chúa sẽ giúp chúng ta. Amen.
+ GB. Bùi Tuần Thêmsức tại Kiên Lương, ngày 13/8/1995.
Lúc này, tình hình đang diễn biến bất ổn trong nhiều lãnh vực. Điều tôi khao khát nhất để ổn Bùi-Tuần 2272
1. Lúc này, tình hình đang diễn biến bất ổn trong nhiều lãnh vực. Điều tôi khao khát nhất để ổn định chính mình là gặp được tình thương.
2. Với tâm trạng đó, toi chạy lại bên Đức Mẹ Maria:
Mẹ dạy tôi đọc lại Phúc Âm thánh Gioan, và hãy lắng nghe Chúa Giêsu nhắn nhủ, điều mà Ngài cho là cần thiết nhất trong khi gặp cảnh gian nan khốn khó.
3. Điều đó vắn gọn thế này:
“Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 13,34-35)
4. Với Lời Chúa trên đây, tôi nhìn vào tình hình sống đạo trong Hội Thánh tại Việt Nam lúc này, thì tôi thấy: Yêu thương nhau đang là bầu khí tâm linh được nhấn mạnh nhiều nhất.
5. Sống đạo là sống yêu thương. + Một tình thương chân thành + Một tình thương cụ thể + Một tình thương quảng đại + Một tình thương tránh phô trương + Một tình thương tránh trình diễn
6. Yêu thương đó được gặp trong chính nội bộ Hội Thánh địa phương.
Mỗi địa phương có những hoàn cảnh khác nhau, nên yêu thương cũng được thực hiện với những sáng kiến khác nhau.
7. Nhóm người này sống yêu thương như một cách sám hối.
8. Nhóm người kia sống yêu thương như một cách yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào.
9. Nhóm người nọ sống yêu thương như một cách đem lại hòa giải sau những năm chống đối nhau do lịch sử xui khiến.
10. Nhóm người khác sống yêu thương như một cách làm chứng cho Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
11. Riêng tôi, tôi sống yêu thương, còn để làm chứng tôi có Đức Mẹ ở bên tôi, và có Chúa ở trong tôi.
12. Nói thế không có nghĩa là tôi đạo đức. Nhưng chính vì tôi là kẻ tội lỗi, hèn mọn lại được Chúa tìm đến. Chúa tìm tôi, để lôi kéo tôi về với Chúa. Chúa lôi kéo tôi, không bằng những trừng phạt, mà bằng tình yêu thương xót.
13. Tôi có cảm tưởng là trong những ngày tới, Chúa sẽ dạy chúng ta về yêu thương bằng nhiều sự kiện mới.
14. Chúng ta cần học thêm về yêu thương dưới nhiều hình thức mới do Chúa chủ động.
15. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy: “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời.”
16. Mà đã yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh.
Hy sinh vì yêu thương là một hạnh phúc cao quý ngọt ngào.
17. Như vậy, yêu thương là một hành trình dài. Phải có thời gian thử thách.
Chúa đã thử thách tôi trong tình yêu xót thương của Chúa. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục phê phán những cách sống đạo sai trái. Việc Bùi-Tuần 2273
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục phê phán những cách sống đạo sai trái. Việc phê phán là việc cũng thường thấy trong Phúc Âm. Chúa Giêsu đã từng phê phán như một cách phải có, để đổi mới tôn giáo, để đổi mới xã hội, để đổi mới các tâm hồn. Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để phê phán.
Cách thứ nhất Chúa dùng để phê phán là dùng lời nói. Như bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dùng lời nói để phê phán cách sống đạo quá mải mê với những sự thường tình mà quên đi những điều căn bản.
Rồi cách thứ hai Chúa dùng để phê phán là lấy việc lành gián tiếp phê phán việc dữ, việc không tốt. Thí dụ: Chúa làm phép lạ trong ngày thứ bảy, là để gián tiếp phê phán những quan điểm của những người Biệt phái chủ trương luật là vì luật, còn Đức Kitô thì chủ trương luật vì con người.
Rồi cách thứ ba Chúa dùng để phê phán là chính đời sống. Một đời sống tốt cũng là một cách gián tiếp phê phán những đời sống không tốt. Thí dụ: Cách sống của Đức Kitô từ lúc nhập thể, sinh ra và chết trên thánh giá, đều là một nếp sống khiêm tốn, âm thầm, hy sinh, chịu đựng, hiền lành. Chính nếp sống ấy cũng gián tiếp phê phán cách sống kiêu căng, độc ác, của những người lãnh đạo thời đó.
Rồi Chúa dùng một cách khác để phê phán, đó là dùng ơn Chúa Thánh Linh đánh động lương tâm từng người, để trong sâu thẳm lương tâm, Chúa sẽ phê phán những việc của mình, phê phán những lời nói của mình, phê phán những thái độ của mình.
Tôi thấy Đức Kitô khi muốn đổi mới một tôn giáo, đổi mới một cộng đoàn, Người đã phải cố làm nhiều cách để phê phán, như dùng lời nói, việc làm tốt, cách sống tốt, và ơn thúc giục bên trong. Ai biết đón nhận những cách phê phán này, sẽ được đổi mới.
Nhưng chúng ta cũng đã thấy: Sự đổi mới này không luôn luôn giống nhau, mà luôn luôn có những khác biệt, tuỳ người, tuỳ nơi, theo thực tế đang có.
Hồi xưa đã như vậy, thời nay cũng như thế, và còn hơn thế. Bởi vì, tôi thấy bây giờ, Chúa đang đổi mới Hội Thánh chúng ta qua những lời phê phán, qua những việc làm phê phán, qua những nếp sống phê phán, và qua những ân sủng phê phán. Nơi nào, cá nhân nào, cộng đoàn nào, biết đón nhận những phê phán ấy, sẽ dễ được đổi mới. Trái lại, nếu thiếu tỉnh thức, nếu thiếu nhạy bén, nếu thiếu khiêm tốn, sẽ không đón nhận được ơn Chúa qua những cách Chúa gởi đến để đổi mới mình.
Riêng trong họ đạo anh chị em, tôi thấy thành quả đổi mới là dễ kiểm chứng được:
Khi tôi tới đây, tôi đã nhận ra sự đổi mới bề ngoài và trong tinh thần. Và tôi biết rằng, sự đổi mới này, là do sự anh chị em biết đón nhận những cách Chúa phê phán anh chị em. Phê phán bằng lời nói qua Kinh Thánh, qua Giáo Hội, qua dư luận. Rồi những lời phê phán qua những việc làm tốt của những người xung quanh, và phê phán qua những nếp sống nếp tốt của những người thiện chí, không phân biệt tôn giáo xa gần. Và nhất là, biết đón nhận ơn Chúa đánh động lương tâm để tự phê phán mình, để tự xem xét mình, để đổi mới chính mình. Một điều nữa tôi cũng nhận thấy trong họ đạo anh chị em, là anh chị em đã biết lợi dụng cái tinh thần cộng đoàn. Chính tinh thần cộng đoàn này, cũng là một yếu tố lớn, có ảnh hưởng đến sự phê phán và có ảnh hưởng đến sự đổi mới chính mình.
Khi nhìn anh chị em dự lễ hôm nay, tôi cảm nghiệm được cái bầu khí của họ đạo. Một bầu khí êm đềm, một bầu khí cộng tác liên đới, một bầu khí khiêm tốn, hồn nhiên. Chính bầu khí này, cũng là một cách Chúa phê phán những ai chưa trở về đàng lành, giúp họ trở về với Chúa sâu hơn, nhiều hơn.
Lúc nãy, từ Long Xuyên đến đây, chúng tôi đã phải thay đổi nhiều phương tiện di chuyển: Lúc thì đi xe hơi, lúc thì qua bắc qua phà, lúc thì đi đò lớn, và vừa rồi, phải đi đò nhỏ, mới có thể lọt qua được con rạch nhỏ.
Sự kiện này gợi ý cho tôi thấy rằng: Trong sự đổi mới, cần phải có sự khôn ngoan, biết lựa chọn những phương tiện thích nghi hợp với nơi, hợp với hoàn cảnh: Có những phương tiện thật tốt, nhưng tốt với nơi khác, mà không thể áp dụng được ở nơi đây, vì ở nơi đây hoàn cảnh lại khác.
Cho nên trong sự đổi mới, chúng ta cần phải có sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh giúp cho mình lựa chọn những cái gì có thể thực hiện được, để từ đó mà tiến thêm lên. Đừng nóng vội, đừng bắt chước bất cứ cái gì nơi khác đã làm. Mà cần phải biết lựa chọn những cái gì chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta làm tại nơi đây, trong hoàn cảnh cụ thể này, để có kết quả tốt.
Trong thánh lễ hôm nay, không những chúng ta cầu xin Chúa Thánh Linh ban ơn cho chúng ta biết đón nhận ơn đổi mới, mà chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa, vì những thành quả đổi mới mà Chúa đã ban cho chúng ta tới ngày hôm nay. Tôi tin rằng, anh chị em đang đi đúng đường, trên con đường đổi mới. Xin anh chị em vững vàng, kiên trì và khôn ngoan, khiêm tốn, rồi Chúa Thánh Linh chính là Đấng đổi mới, sẽ giúp anh chị em. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một lời Chúa đáng chúng ta phải sợ. Lời đó là: “Khốn cho các Bùi-Tuần 2274
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một lời Chúa đáng chúng ta phải sợ. Lời đó là: “Khốn cho các ngươi”.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy lời ấy đã được Chúa phán ra nhiều lần, và thường hướng về những người đã lãnh nhận ơn Chúa, mặc áo đạo đức, nhưng thực chất thì không đạo đức.
Hôm nay, Chúa cũng phán lời ấy với một số thành trì mà chúa đi qua. Có một điều để ý là Chúa phán: “Khốn cho ngươi”. Chúa không chỉ nói về cá nhân này cá nhân khác, mà đã hướng về cả một tập đoàn, cả một thành trì, cả một giáo đoàn.
Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, với những tư tưởng trên đây, tôi lo sợ cho tôi, tôi lo sợ cho họ đạo anh chị em, tôi lo sợ cho giáo phận chúng ta, cho Hội Thánh chúng ta. Tôi lo sợ rằng: Biết đâu hôm nay, Chúa cũng chỉ vào chúng ta và nói: “Khốn cho các ngươi”.
Trong tình trạng lo sợ ấy, tôi phải làm gì bây giờ? Tôi xin chia sẻ với anh chị em 3 việc tôi vẫn thường làm, khi tôi lo sợ trước mặt Chúa.
Việc thứ nhất tôi làm là khiêm tốn, nhìn nhận mình và cộng đoàn của mình, có những tội lỗi, có những lỗi lầm, có những sai sót. Nhận mình tội lỗi một cách chân thành.
Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh Cáo Mình. Chúng ta đã đọc những gì trong kinh ấy, thì chúng ta cũng hãy nhận thức chân thành những việc đó trong lương tâm ta. Chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng là gì. Chúng có nhiều tội lỗi. Chúng tanhận nơi Chúa quá nhiều, mà trả đáp chẳng được bao nhiêu.
Chúng ta nhận mình đáng bị khinh bỉ, đáng bị kết án, đáng bị luận phạt. Chúng ta nhận mình như người đui mù, không nhìn thấy ánh sáng siêu nhiên. Chúng ta nhận mình như người điếc, có tai mà không hiểu lời Chúa. Chúng ta nhận mình có một trái tim yêu thương, nhưng lại quá hẹp hòi đối với tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta nhận mình như một người liệt, muốn đứng dậy mà không sao đứng dậy được.
Trong khi nhận mình tội lỗi, chúng ta sẽ cảm thấy một sự cô đơn, lắng đọng và một sự u tối sâu thẳm, để buộc chúng ta phải rất khiêm nhường. Tôi nói rằng cảm nghiệm, chớ không phải là lý thuyết biết suông, mà cảm thấy. Cảm thấy một cách sâu sắc trong tâm hồn mình. Vì thế, chúng ta sẽ không dừng lại ở trong cái cảm nghiệm đau buồn cô đơn ấy, mà chúng ta phải làm một việc thứ hai.
Việc thứ hai đó là bám vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, đã chịu chết vì tôi, đã sống lại cho tôi. Ta tin và bám vào Chúa bằng tinh thần phó thác, cậy trông. Chúa đã đền tội cho ta. Chúa đã chết cho ta. Chúa đã sống lại cho ta thì ta tin Chúa sắp hồi sinh cho thân phận của ta. Chúa có thể làm cho mắt linh hồn ta đang mù trở nên sáng. Chúa có thể làm cho tai thiêng liêng của ta điếc có thể nghe được tiếng Chúa. Chúa có thể làm cho tâm hồn ta đang tê liệt vì tội lỗi, sẽ sống lại và đứng lên. Cần phải trông cậy và tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Đây là việc chính của việc tu đức.
Nếu chúng ta không gặp gỡ Đức Kitô bằng đức tin như vậy, chúng ta sẽ mãi mãi đi trong cái vòng lẩn quẩn là chỉ biết tội mình, mà không biết gỡ ra làm sao.
Khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô bằng niềm tin phó thác cậy trông như vậy, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy trong ta có một lương tâm mới. Lương tâm mới là của Đức Kitô, lương tâm của người con Thiên Chúa, nghĩa tử của Cha trên trời. Và lúc đó, chúng ta sẽ được chia sẻ sự bình an của Đức Kitô. Dù ta có tội lỗi đến đâu, lương tâm của Đức Kitô là Con Thiên Chúa, sẽ giúp cho chúng ta thấy chính tình yêu Chúa Cha sẽ biến đổi tâm hồn ta, chớ không phải do công nghiệp của ta. Chính vì vậy, còn một việc nữa Đức Kitô đã phải ra đi, đó là việc thứ ba.
Việc thứ ba chúng ta sẽ làm là cùng với Đức Kitô đi về với Cha bằng lời cầu nguyện liên lỉ, bằng việc yêu thương hết tình, và bằng những việc bác ái chan hoà đối với những người chung quanh.
Khi đã trãi qua ba việc trên đây, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy được một trời mới đất mới, và làm cho tâm hồn của mình trở nên nghĩa tử của Cha trên trời, mọi cái đều nhìn trong cái nhìn của người Con Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Lúc nãy, ông đại diện giáo đoàn có nói với tôi, là các cha cầu xin cho anh chị em nói chung và con em Thêm Sức chúng ta nói riêng, được can đảm làm chứng cho đức tin. Điều đó là đúng. Nhưng riêng tôi, khi nghe câu đó tôi đã nói với Chúa rằng: Con xin Chúa, không phải là sự can đảm, mà là tinh thần cầu nguyện, là tinh thần sám hối, là tinh thần nghĩa tử. Bởi vì, trong kinh nghiệm Giám mục của tôi, tôi thường thấy trong anh chị em: Nhiều người rất nhiệt tình, nhưng thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu tinh thần sám hối, thiếu tinh thần nghĩa tử, là những việc mà Sách Thánh ngày hôm nay đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nếu chúng ta thiếu tinh thần nghĩa tử, tinh thần cầu nguyện, tinh thần sám hối, thì sự can đảm mà thôi, sẽ trở nên cuồng tín chớ, không làm chứng được cho đức tin, chứng thực của Phúc Âm.
Xin Chúa Thánh Thần giúp tôi, giúp cho anh chị em, nhất là cho con em chúng ta thấy được bản thân mình có được tinh thần cầu nguyện, tinh thần nghĩa tử, tinh thần bác ái và sám hối trở về với Chúa. Được như vậy, chúng ta sẽ thấy dù sống giữa thế hệ đầy thù oán, đầy cám dỗ, chúng ta vẫn luôn luôn nhìn về Thiên Chúa là Cha, và giải quyết mọi vấn đề trong tinh thần nghĩa tử của Cha trên trời, là Đấng giàu lòng thương xót. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Tân Long (kinh 2a), ngày 6/10/1995.
Hôm nay, tôi rất vui mừng được gặp lại anh chị em, và được chứng kiến tận mắt những phát triển Bùi-Tuần 2275
Hôm nay, tôi rất vui mừng được gặp lại anh chị em, và được chứng kiến tận mắt những phát triển mau lẹ của họ đạo Hợp Tiến. Điều mới nhất đối với tôi và cũng đang gây nên những ấn tượng mới đối với tôi, chính là quang cảnh này, nơi chúng ta đang tụ họp để dâng thánh lễ. Đây là một nghĩa trang được xây dựng lại, tạo nên một môi trường, vừa có tính cách khoa học, vừa có tính cách đạo đức.
Khi đứng giữa anh chị em và dâng lễ ở môi trường mới này, tôi có chút cảm tưởng nhỏ, xin được chia sẻ với anh chị em.
Thưa anh chị em,
Đặc điểm của nghĩa trang, của nơi những người quá cố an nghỉ, là sự thinh lặng. Những ngôi mộ thinh lặng, những hòm cốt thinh lặng, những hình ảnh thinh lặng. Nhưng với cách thiết kế, tổ chức quy củ đẹp đẽ như thế này, sự thinh lặng của nơi an nghỉ những người quá cố trở thành một tiếng nói rất thực và rất thân thương. Tiếng nói trong thinh lặng này là một tiếng nói thì thầm, gởi vào lương tâm mỗi người chúng ta, để nhắc nhở cho chúng ta: Có những người đã ra đi nhưng vẫn còn ở lại, họ rất xa ta nhưng thực sự rất gần. Họ muốn gần gũi với chúng ta, không phải như một hoài niệm, như một cái gì để nhớ để thương, mà là một sự hiệp thông.
Những người chết rồi ở đây, vẫn hiện diện một cách nào đó, để có thể lãnh nhận và có thể cho đi. Các người thương của chúng ta chết rồi, vẫn có thể nhận được những lời cầu, những việc lành của chúng ta, và vẫn có thể cho lại chúng ta những sự cầu bầu.
Phía chúng ta cũng nhận được những sự giúp đỡ của những người thân đã chết. Và chúng ta vẫn có thể cho đi những gì là thiêng liêng nhất. Chính vì thế mà khi nhìn thấy khu “Tàng cốt đường” này, tôi có cảm tưởng rằng: Với cách tổ chức như thế này, tình nghĩa gia đình của anh chị em sẽ được phát triển tốt, con cháu sẽ dễ nhớ đến công ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên. Và tình nghĩa cộng đoàn giáo xứ, giáo họ cũng nhờ cái nghĩa trang bé nhỏ này, được tăng cường lên, để vừa nhìn thấy sự chết, nhưng đồng thời cũng nhìn thấy, ở quê hương trên trời, có những người đang chờ đợi chúng ta.
Ngoài ra, nghĩa trang với tổ chức như thế này, cũng sẽ giúp cho chúng ta nhìn vào chiều sâu, chiều dài của cuộc sống. Chúng ta sống ở trần gian một thời gian bé nhỏ, để rồi chúng ta lại ra đi vào cõi đời đời. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là nguồn an ủi nguyên thủy và cùng đích của chúng ta, miễn là ở đời này chúng ta cố gắng phượng thờ Người, sống theo luật của Người.
Tôi nghĩ rằng: Với cách tổ chức nghĩa trang đơn sơ, nhưng có tính chất khoa học và đạo đức như thế này, chúng ta sẽ có một bài học sống động về tu đức, về giáo lý, về đức tin. Tôi nghĩ rằng: Nhiều người trong chúng ta sẽ dễ cầu nguyện nơi đây, sẽ dễ suy gẫm nơi đây, và sẽ có một cái nhìn về cuộc đời, về đời sau một cách sâu sắc ở chính tại nơi đây.
Chính vì thế mà tôi càng xác tín rằng: Chăm lo cho người đã chết, quan tâm đến nghĩa trang, đó là một bổn phận không nhỏ của nếp sống đạo trong giáo xứ, trong giáo họ. Một cộng đoàn tín hữu có nhà thờ đẹp, có nhà xứ đẹp, có trường học đẹp, có cầu đường đẹp, nhưng nếu để nghĩa trang của mình bị bỏ rơi, để những người đã chết bị quên lãng, thì cộng đoàn đó vẫn có một thiếu sót lớn.
Vì vậy tôi mừng cho anh chị em đã có một công trình nhiều ý nghĩa.
Tôi tin rằng Thiên Chúa rất hài lòng với công trình anh chị em đã hoàn thành hôm nay. Và tôi cũng tin rằng những người đã chết trong họ đạo cũng rất vui mừng được nhìn thấy con cháu của mình, những người thân của mình, những người quen biết của mình, đã làm được một công trình, hầu sau này, sẽ giúp cho đức tin và đức hiếu thảo của họ đạo được phát triển đúng chiều hướng.
Trong thánh lễ này, tôi xin cùng anh chị em, đặc biệt là các cha và những quí ân nhân, cầu xin Chúa cho tất cả mọi người chúng ta được ý thức về bổn phận đối với những người đã qua đời, đối với nghĩa trang của họ đạo.
Xin Chúa trả công cho tất cả những người đã góp phần vào việc thành hình công trình tốt đẹp là khu “Tàng cốt đường” này. Amen.
Lễ làm phép “Tàng Cốt Đường” tại họ đạo Hợp Tiến, kinh B2, ngày 28/11/1995.
Hôm nay, giáo xứ Trảng Tranh tổ chức lễ trọng để mừng thượng thọ những vị bảy mươi tuổi của Bùi-Tuần 2276
Hôm nay, giáo xứ Trảng Tranh tổ chức lễ trọng để mừng thượng thọ những vị bảy mươi tuổi của họ đạo. Trong dịp này, cha sở Đaminh của chúng ta là vai chính, được mọi người nhìn đến một cách trân trọng đặc biệt. Theo tôi, sự đáng mừng nhất nơi người thượng thọ chính là tâm hồn của các ngài: những tâm hồn hiền lành khiêm tốn, những tâm hồn nhân ái, những tâm hồn bao dung, những tâm hồn quảng đại trong cách nhìn và trong cách phục vụ.
Nhưng có một yếu tố của tâm hồn đạo đức, nên để ý và cần ca ngợi cách riêng, yếu tố đó đã được Đức Kitô nhắc nhở trong bài Phúc Âm hôm nay. Yếu tố đó là khả năng tha thứ. Khi Đức Kitô bảo thánh Phêrô phải tha thứ bảy mươi lần bảy, thì Ngài có ý bảo chúng ta rằng khả năng tha thứ không hệ tại ở số lần tha thứ, mà hệ tại ở sự thực tâm tha thứ, cho dù việc tha thứ là rất khó.
Các vị lớn tuổi, nhất là các vị thượng thọ bảy mươi tuổi hôm nay, và đặc biệt là cha sở Đaminh, đều đã có kinh nghiệm về khả năng tha thứ. Nó là một giá trị cao quí không dễ sánh được. Vì thế, đối với những người có đức tin, thì khả năng tha thứ chính là một của lễ quí giá, quí giá hơn tất cả mọi lễ vật vật chất, cho dù quí giá nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Khả năng tha thứ chính là liều thuốc có sức thanh luyện và thánh hoá con người, còn hơn là sự ăn chay kiêng thịt.
Khả năng tha thứ chính là một y phục thánh mà Chúa đòi mọi người chúng ta phải mặc vào cách thiêng liêng để tham dự thánh lễ, và nhất là để rước lấy Mình Thánh.
Riêng nơi linh mục, khả năng tha thứ chính là một dấu chỉ về Chúa Kitô là Chúa chiên lành. Nhiều khi tôi nghĩ rằng, nếu cần phải tìm một thành tích chắc chắn nào của một linh mục để mà ca ngợi, thì sẽ không lầm nếu nhìn vào khả năng tha thứ của vị đó. Nếu một vị linh mục cho dù có nhiều khả năng về trí thức, có nhiều khả năng về tổ chức, có nhiều khả năng về hoạt động từ thiện, nhưng chỉ thiếu khả năng tha thứ thì phải kể như còn thiếu quá nhiều những điều kiện để có thể qui tụ dân Chúa, để có thể xây dựng cộng đoàn, nhất là có thể làm chứng cho Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót.
Trái lại, nếu một vị linh mục tuy thiếu rất nhiều khả năng về trí thức, tuy thiếu rất nhiều khả năng về tổ chức, tuy thiếu rất nhiều khả năng về hoạt động từ thiện, nhưng lại có khả năng tha thứ dồi dào thì phải kể linh mục đó đã có rất nhiều điều kiện để xây dựng cộng đoàn, để qui tụ dân Chúa và nhất là để làm chứng cho đạo Thiên Chúa là đạo tình yêu, để làm chứng cho đạo Thiên Chúa là Cha hay thương xót và hay tha thứ. Nhất là khi linh mục đó dễ tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, nhưng lại nghiêm khắc với chính mình khi thấy mình lỗi phạm đến người khác, khi thấy mình phạm đến những bổn phận thiêng liêng Chúa trao cho mình.
Hay tha thứ cho những người lỗi phạm tới mình và biết nghiêm khắc với chính mình, đó là một cái làm nên hào quang cho linh mục. Tôi có cảm tưởng là hào quang đó đang được hình thành cho cha Đaminh. Một hào quang như vậy dễ nhận thấy trong thái độ cầu nguyện và tỉnh thức của cha để đón nhận ý Chúa, như lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện vì chúng ta không biết giờ nào Con Người sẽ đến”. Một hào quang như vậy cũng sẽ dễ nhận thấy trong thái độ dấn thân của cha. Dấn thân để phục vụ những người bé nhỏ, hoà mình vào cộng đoàn những kẻ yếu đuối, tội lỗi, bất toàn như lời Đức Kitô đã hứa: “Bất cứ sự gì chúng con làm cho những kẻ bé mọn nhất của Thầy, thì Thầy kể như là làm cho chính Thầy vậy”. Và hào quang như thế cũng sẽ dễ nhận thấy nơi thái độ phấn đấu của cha với chính mình, từ bỏ chính mình như lời Đức Kitô đã nói: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn ai mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được”.
Hào quang đó sẽ dễ nhận thấy ngay hôm nay, lúc này, ở nơi những tâm tình nồng thắm của con cái, của những bạn bè, của những học trò cũ, của những người thân thương dành cho cha sở. Và những hào quang như vậy cũng dễ nhận thấy nơi bầu khí đạo đức, yêu thương, gắn bó của họ đạo Trảng Tranh này, một họ đạo tuy còn rất non trẻ, tuy ở giữa một môi trường mênh mông, xa xôi, chung quanh đầy những sông rạch nhưng đã có những bước tiến đáng khen ngợi và mang nhiều hy vọng cho việc chia sẻ Tin Mừng trong tương lai.
Hôm nay, với những nhận thức đó, chúng ta cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa cho cha sở Đaminh, cho họ đạo Trảng Tranh. Chúng ta sốt sắng cảm tạ Chúa và cầu xin Chúa cho địa phương này, một địa phương đầy những nét dễ mến, dễ thương, đã đón nhận và đã giúp đỡ những cộng đoàn công giáo bé nhỏ của chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cầu xin cho tình hiệp thông hôm nay được phát triển, được bền vững và được nâng cao lên. Amen.
Lễ Tạ Ơn 40 năm linh mục và lễ thượng thọ của cha Đaminh Nguyễn Quang Thản tại Trảng Tranh, ngày 12/3/1996.
Mấy ngày nay, tôi hay nghĩ tới họ đạo Thanh Tâm này. Tôi nhìn về đây với câu hỏi: Đạo đức của Bùi-Tuần 2277
Mấy ngày nay, tôi hay nghĩ tới họ đạo Thanh Tâm này. Tôi nhìn về đây với câu hỏi: Đạo đức của cộng đoàn biên giới 2 tỉnh An Giang - Cần Thơ này đang lên hay đang xuống?
Tất nhiên tôi muốn câu trả lời sẽ là “đang lên” chứ không đang xuống. Sau khi quan sát tình hình, so sánh trước sau, xa gần, tôi đã có một câu trả lời tương đối lạc quan. Bởi vì, nếu tôi không lầm, thì trong thời gian qua, họ đạo đã đạt được một số tiến triển trên đường đạo đức. Đáng kể là mấy tiến triển sau đây:
- Trước hết, tôi thấy phát triển bầu khí nội bộ bình an trong tinh thần bác ái đối với nhau và hiếu thảo đối với Chúa. Thực vậy, khi phải đánh giá ai, tôi thường dựa vào tiêu chuẩn đầu tiên này là bác ái. Phải thế thôi. Bởi vì bác ái là đặc điểm căn bản của người tin theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quả quyết như vậy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tôi đã căn cứ vào tiêu chuẩn đầu tiên đó, để nhận xét về họ đạo Thanh Tâm này, và tôi đã thấy tình hình chung về bác ái là tương đối tốt, với những tiến triển nhỏ về danh tiếng nhưng lớn về thiện chí. Thiện chí của nhiều anh chị em là những hy sinh, những phấn đấu, không phải một ngày, mà là mỗi ngày. Thiện chí đó tuy âm thầm, nhưng thực sự lớn lao.
- Cùng với bác ái nội bộ, tinh thần liên đới với xã hội trong họ đạo cũng đã phát triển. Đây là một điểm xem ra chưa được chú ý đủ tại nhiều họ đạo. Thậm chí nơi nhiều người, nó chưa được kể như một điều kiện đạo đức. Đang khi Công đồng Vatican II đã xác định rõ nó là một đòi hỏi của người môn đệ Chúa. “Những vui mừng và những hy vọng, những buồn sầu và những lo âu của những con người thời nay cũng là những vui mừng, những hy vọng, những buồn sầu và những lo âu của những người môn đệ Chúa” (Gaudium et Spes 1). Riêng nơi họ đạo Thanh Tâm này, tinh thần liên đới với xã hội đang phát triển theo chiều hướng tốt. Sự đồng cảm, sự đồng hành với địa phương trong các vấn đề phát triển cộng đồng đã không được coi như một việc quan trọng của đức bác ái và công bình xã hội. Họ đạo anh chị em đã hiểu đúng điều đó, và cũng đã thực hiện đúng điều đó, theo khả năng của mình. Thiết tưởng đây là một việc đạo đức gây ảnh hưởng tốt, một hướng truyền giáo thích hợp, một cách làm chứng dễ hiểu về Hội Thánh.
- Tiến triển thứ ba mà tôi muốn nêu lên ở đây là lòng ái mộ của anh chị em đối với Lời Chúa và Mình thánh Chúa. Tôi biết là anh chị em siêng năng đi lễ, rước lễ, học hỏi Lời Chúa. Tôi thấy nhiều người trong anh chị em còn làm hơn thế nữa, đó là cố gắng sống thánh lễ và sống Lời Chúa. Những việc làm này sẽ dần dần cho anh chị em những cảm nghiệm sống động về những gì Chúa Giêsu đã cầu nguyện mà bài Phúc Âm hôm nay ghi lại: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng được ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang, mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,24). Sống thánh lễ và sống lời Chúa, chúng ta sẽ gặp gỡ Đức Kitô, sẽ được ở trong tình yêu của Người. Đó là một hạnh phúc sẽ làm cho chúng ta nếm được vui mừng và bình an lạ lùng dành riêng cho những con cái Chúa.
Với ba phát triển tôi vừa ghi nhận và nêu lên, họ đạo Thanh Tâm này, tuy bé nhỏ, vẫn có thể làm chứng phần nào cho Nước Trời. Nếu họ đạo tiếp tục đi theo hướng phát triển đó, họ đạo sẽ góp phần không nhỏ vào việc truyền giáo.
Chúng ta hãy quyết tâm đi theo hướng phát triển đó. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta, nếu chúng ta biết cầu nguyện với Người, không phải chỉ hôm nay, mà mọi ngày mãi mãi. Chúng ta sẽ là một cộng đoàn có Chúa hiện diện, có Chúa hoạt động. Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ hiểu: Để đón nhận Nước Trời không phải chỉ cần phát triển bí tích, xây cất cơ sở, và kiện toàn tổ chức cơ chế, mà còn phải thực hiện nhiều điều kiện rất quan trọng khác, như chúng ta vừa thấy một phần nhỏ. Xin Chúa Thánh Thần thương đến chúng ta.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Thanh Tâm - Mỹ Thạnh, ngày 23/5/1996.
Đêm vừa qua, tôi thức dậy lúc 12 giờ rưỡi để chuẩn bị cho chuyến đi Thêm sức hôm nay. Đầu Bùi-Tuần 2278
Đêm vừa qua, tôi thức dậy lúc 12 giờ rưỡi để chuẩn bị cho chuyến đi Thêm sức hôm nay. Đầu tiên tôi đã nói với Đức Mẹ: Hôm nay là thứ bảy, một ngày riêng cho những người có lòng tôn sùng Mẹ. Hôm nay cũng là ngày 13, một ngày riêng của những người có lòng tôn kính Đức Mẹ, hay nhắc nhớ đến chuỗi ngày 13, Mẹ đã hiện ra ở Fatima. Và chính hôm nay, thứ bảy, 13, con đi làm lễ Thêm sức cho họ đạo, một họ đạo đã nhận Đức Mẹ với tước hiệu Vô Nhiễm làm quan thầy. Xin Đức Mẹ cầu bầu cho họ đạo Vô Nhiễm này.
Thế rồi bên Đức Mẹ, tôi đã mở sách Phúc Âm ra đọc và suy gẫm, đến câu Chúa Giêsu nói: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt thế gian, thì Thầy cũng sẽ tuyên xưng người đó trước mặt Cha Thầy ở trên trời”, tôi cảm thấy trong mình tôi có một sự thôi thúc do Đức Mẹ hướng dẫn, để chia sẻ lại với anh chị em những gì vang vọng lại trong tâm hồn tôi lúc đó. Và giờ đây, tôi xin vắn tắt chia sẻ.
Tôi vẫn nhìn Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Tôi tin như vậy. Tôi đã nhìn thấy đúng như vậy. Tôi đã có cảm nghiệm như vậy. Tôi xác tín như vậy, nên tôi thường tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Nếu anh chị em theo dõi những bài giảng của tôi đây đó, anh chị em sẽ nhận thấy luôn luôn tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Nhưng có ba cách này tôi thường làm để tuyên xưng điều tôi xác tín.
Việc thứ nhất tôi làm để tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, đó là gặp gỡ Đức Kitô trong thánh lễ. Chẳng hạn bây giờ đây, trong giờ dâng lễ, chúng ta cần phải nhìn thẳng vào Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Chúng ta khao khát gặp Ngài. Chúng ta cần đến Ngài như những người bệnh, như những người yếu đuối cần đến thầy thuốc. Chúng ta chờ đợi Ngài, chúng ta khẩn khoản xin Ngài vào lòng chúng ta. Và muốn được như vậy, trước lễ, chúng ta cần phải cầm lòng cầm trí, giục lòng ăn năn tội, giục lòng tin cậy mến và xác tín rằng: Giờ đây tôi đi gặp một Đấng là Đấng Cứu độ tôi, trọng hơn Đức Cha bội phần, trọng hơn Đức Giáo Hoàng bội phần, nên tôi cố gắng chuẩn bị để gặp gỡ Đức Kitô là Đấng Cứu độ.
Rồi trong thánh lễ, cần phải giữ tâm hồn thinh lặng, nghiêm trang, sốt sắng và phải làm sao xua đuổi ra ngoài những gì chia trí, những gì không thuộc về Đức Kitô. Dự lễ như vậy là một cách tuyên xưng đức tin. Nếu bây giờ có những người không có đức tin thấy anh chị em dự lễ, thấy chúng tôi dâng lễ một cách sốt sắng, thì người ta sẽ thấy chúng ta tuyên xưng Đức Kitô. Bằng không, người ta sẽ chỉ cho chúng ta là làm lễ bề ngoài như là một lễ hội cho vui thôi, chẳng có tuyên xưng gì cả, chẳng có tin gì cả. Chỉ là dấu bề ngoài nông nổi hời hợt, không có bề trong. Cho nên việc thứ nhất tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là phượng tự thánh lễ. Phải sốt sắng, phải trang nghiêm, phải tề chỉnh, phải để ý đến từng lời nói, phải để ý đến từng bước đi, từng cử chỉ, để cho người ngoài thấy tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ đang ở trước mặt tôi, đang đến với tôi. Tôi cần đến Ngài, tôi muốn Ngài đến để chữa linh hồn tôi.
Việc thứ hai tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, đó là đọc Phúc Âm, suy gẫm Phúc Âm, học hỏi Phúc Âm. Tôi thấy ở một vài nơi, có những nhóm giáo dân quen tụ họp lại để đọc Phúc Âm, để chia sẻ Phúc Âm, để suy gẫm Phúc Âm. Và kết quả là những nhóm đó đã đi sâu vào đức tin, lời Chúa thấm vào trong tâm hồn họ. Và khi có ánh sáng của Chúa Thánh Linh mở lòng ra, chúng ta sẽ thấy lời Chúa chính là lời ban sự sống, chính là lời ban ánh sáng làm cho chúng ta nhìn thấy thực trạng tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta thấy ý nghĩa của những thánh giá chúng ta vác hàng ngày, làm cho chúng ta cảm thấy bất cứ sự gì chúng ta làm, chúng ta chịu vì danh Chúa đều có giá cứu chuộc, đều có giá thánh hoá cả.
Vì thế, việc suy gẫm Lời Chúa chính là cách chúng ta tuyên xưng Đức Kitô. Chúng ta tin vào Đức Kitô, chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta ăn uống ánh sáng và lương thực của lời Đức Kitô. Hãy tuyên xưng Đức Kitô bằng cách đó. Nếu anh chị em chưa làm việc đó, anh chị em hãy làm đi. Rồi sẽ cảm thấy một sự ngọt ngào dịu dàng do Lời Chúa lan toả trong hồn ta, vừa soi sáng, vừa uốn nắn, vừa thanh luyện, vừa thánh hoá.
Việc thứ ba tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là thực thi bác ái phục vụ. Cách đây hai ngày, tôi có đi thăm mục vụ những giáo điểm nhỏ ở vùng U Minh thượng, trong các Miệt Thứ. Tôi nhận thấy rằng ở đó, giữa lương dân, cách tuyên xưng Đức Kitô hiệu nghiệm nhất chính là thực thi bác ái phục vụ. Người ta không để ý đến thánh lễ, người ta cũng chẳng hiểu giáo lý. Nhưng khi người ta nhìn thấy người công giáo, cộng đoàn công giáo sống bác ái, có tinh thần liên đới, có tinh thần cảm thông, có tinh thần kính trọng nhau, có tinh thần bao dung phục vụ, thì người ta hiểu Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Và người ta mới hiểu tại sao Đức Kitô nằm trong hang đá Bêlem, người ta mới hiểu tại sao Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. Chỉ có bác ái phục vụ mới cắt nghĩa được những mầu nhiệm đó. Cho nên phải sống bác ái phục vụ để tuyên xưng Đức Kitô Đấng chúng ta tôn thờ.
Tôi vừa chia sẻ vắn tắt nhưng rất rõ ràng ba cách để chúng ta tuyên xưng Đức Kitô, bởi vì trong Phúc Âm hôm nay Chúa hứa: “Ai tuyên xưng Thầy thì sẽ được Thầy tuyên xưng trước mặt Cha Thầy”. Chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, thứ nhất bằng cách chúng ta tham gia thánh lễ một cách sốt sắng, hết lòng khiêm tốn tin tưởng. Thứ hai bằng cách chúng ta năng đọc Sách Thánh suy gẫm Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa với ánh sáng Chúa Thánh Linh. Thứ ba bằng cách chúng ta thực thi bác ái phục vụ.
Thời buổi bây giờ là thời buổi thông tin bùng nổ. Người ta chỉ hiểu được các chân lý qua những hình ảnh thấy được, qua những gì nghe được. Cho nên trong thời buổi này, để chuẩn bị giáo dục cho con em chúng ta, chúng ta phải huấn luyện đức tin và tuyên xưng Đức Kitô không phải bằng những lý thuyết suông, mà bằng những hình ảnh mà con em chúng ta nhìn thấy được.
Chẳng hạn như thánh lễ bây giờ, nếu các em nhìn thấy thánh lễ được tổ chức trang nghiêm sốt sắng, các em sẽ giữ được một ấn tượng rất mạnh rất lâu về sự gặp gỡ Đức Kitô trong ngày lễ Thêm sức.
Và nếu các em nhận thấy những bài đọc thánh lễ hôm nay do những người có đức tin đọc lên một cách có hồn như là gặp gỡ Đức Kitô, thì các em sẽ giữ được ấn tượng đó. Một ấn tượng có sức giúp cho các em tuyên xưng Đức Kitô trong một thế giới tục hoá.
Và nếu hôm nay các em về nhà, trong xóm ngõ, nhìn thấy cha mẹ mình, những người lớn sống bác ái thuận hoà, phục vụ cho nhau, thì các em sẽ học được hình ảnh tuyên xưng Đức Kitô trong xã hội hôm nay.
Phải có hình ảnh, qua hình ảnh để có thể tuyên xưng Đức Kitô. Tuyên xưng Đức Kitô bằng hình ảnh sống động bản thân của mình, bằng thánh lễ sốt sắng, bằng đọc Lời Chúa sốt sắng, bằng bác ái phục vụ chân tình, đó là những hình ảnh tốt đẹp để tuyên xưng Đức Kitô.
Ba đối tượng đó đều có sẵn trước mặt chúng ta, thánh lễ hằng tuần, Kinh Thánh hàng ngày, bác ái phục vụ luôn có dịp. Đó là những cách để huấn luyện đức tin, đó là những dịp để tuyên xưng đức tin, đó là những việc để huấn luyện con em chúng ta.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta thấm nhuần được những chân lý đó. Và xin Đức Mẹ Vô Nhiễm giúp cho anh chị em nắm bắt được ý của Đức Mẹ muốn thông truyền cho anh chị em trong thánh lễ đặc biệt này. Để anh chị em bây giờ đây, vâng lời Đức Kitô ra giữa xã hội, tuyên xưng Đức Kitô bằng chính bản thân của mình, với phong cách của một người tin vào Đức Kitô, một người đã nhìn thấy Đức Kitô, một người đã gặp gỡ Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Họ Vô Nhiễm Kinh 1a, ngày 13/7/1996.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, (thứ hai, tuần XX QN, Mt 19, 16-26), Chúa Giêsu phán: “Ai muốn được vào nơi hằng sống, hãy tuân giữ các giới răn ... chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ và yêu thương người khác như chính mình”.
Khi suy gẫm những điều Chúa dạy trên đây và toàn bộ Phúc Âm thánh Matthêu, nhiều nhà thần học đã đưa ra những nhận định sau đây:
Nhận định thứ nhất là: Chúa Giêsu đã trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng của tình yêu chứ không phải Tin Mừng của mầu nhiệm và của chân lý.
Tất nhiên, không có mâu thuẩn giữa mầu nhiệm, chân lý và tình yêu. Nhưng khi loan báo Tin Mừng, Đức Kitô đã cho thấy Tin Mừng của Ngài chủ yếu là tình yêu. Bởi vì bản tính Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu Thiên Chúa đã tạo dựng. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu chuộc. Chính tình yêu Thiên Chúa đã thánh hoá. Đó là chân lý trên mọi chân lý. Trong suốt cuộc đời trần thế, Đức Kitô đã làm chứng cho chân lý tình yêu đó. Khi đào tạo các tông đồ, Đức Kitô đã muốn các ông trở thành chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, chứ không phải chứng nhân của mầu nhiệm hay của chân lý Thiên Chúa. Vì thế, Ngài ít giảng giải về các mầu nhiệm và các chân lý khó hiểu và không cần thiết. Nhưng Ngài luôn nhấn mạnh đến tình yêu là chân lý dễ hiểu và cần thiết cho phần rỗi. “Hãy thương yêu kẻ khác như chính mình” đó là một chân lý dễ hiểu, nhưng hết sức quan trọng. Ngài vừa giảng chân lý đó, vừa uốn nắn tâm hồn các môn đệ, để họ biết yêu thương như Ngài.
Hiện nay, yêu thương bác ái đã trở thành một giá trị lớn trong tôn giáo và trong xã hội. Chúng ta cứ tự do phô trương mình tin vào mầu nhiệm này, chân lý nọ. Nhưng nếu chúng ta thiếu yêu thương bác ái, thì không những người đời sẽ coi thường chúng ta, mà chính Thiên Chúa cũng sẽ không nhận chúng ta vào nơi hằng sống.
Nhận định thứ hai là: Chúa Giêsu đã trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng do thực hành, chứ không phải Tin Mừng do hiểu biết suông.
Chúa nói rõ: “Ai muốn được vào nơi hằng sống, thì phải tuân giữ các giới răn”. Phải tuân giữ, phải thực hành. Tất nhiên cũng phải hiểu biết. Nhưng hiểu biết để mà tự tôn tự phụ, để rồi cho thế là đủ, thì rõ ràng sai. Chúa sẽ phán xét theo cố gắng thực hành. Chúa căn cứ vào hoa trái để đánh giá cây. Chúa đã nói rõ: “Không phải những ai kêu, lạy Chúa, lạy Chúa, sẽ được vào thiên đàng, nhưng chỉ những ai thực hành thánh ý Thiên Chúa”. Mà thánh ý Chúa rõ ràng nhất chính là hãy yêu thương bác ái. “Hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”.
Ở đây, tưởng cũng nên nhắc tới nhiều phê phán thường hay hướng vào hoặc các cá nhân, hoặc các cộng đoàn công giáo. Họ phiền trách là có một khoảng cách rất lớn giữa thực hành và giáo lý. Về mặt giáo lý thì có tấn tới. Nhưng về mặt thực hành thì ù lì, cằn cỗi. Đọc kinh nhiều, xem lễ đông, nghi thức đẹp, nhưng không có Tin Mừng, nghĩa là không thực hành yêu thương bác ái. Chính vì thế mà đạo nơi đó mất đi sức hấp dẫn.
Nhận định thứ ba là: Chúa Giêsu trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng dành cho số đông, chứ không chỉ dành cho một thiểu số.
Nghĩa là, nếu xét về mặt thực hành, thì vô số người nghèo túng, dốt nát, bệnh tật, hèn yếu đơn sơ đã thực hành tốt những lời Chúa dạy hôm nay về yêu thương bác ái. Đặc biệt là vô số người ngoài công giáo đã thực hành đúng Tin Mừng bác ái của Đức Kitô. Một cách nào đó, họ đã là chứng nhân của Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa. Nhờ tâm hồn rực sáng lửa bác ái và nhờ những việc bác ái chân thành của họ, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ được đẹp, được rõ nét hơn. Họ trở thành gương mẫu bác ái cho bao người gần xa. Không lẽ những người như thế, chỉ vì đứng ngoài Hội Thánh Công giáo, lại không được vào nơi hằng sống sao? Công đồng Vatican II đã giải đáp điều đó rõ ràng rồi .
Nếu người công giáo muốn có một cái gì khác đáng phải có trong việc sống bác ái, thì cái khác đáng phải có đó, chính là phong cách của người môn đệ Đức Kitô.
Ba nhận định trên đây thúc giục chúng ta hãy chọn cho mình một hướng sống đạo thiết thực, đơn sơ, hợp Phúc Âm. Hướng đó là đề cao Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa, đề cao bằng những thực hành, và thực hành không phải chỉ về nội dung, mà còn cả đến phong cách nữa.
Nếu chúng ta biết cầu xin với Chúa Thánh Thần, thì Ngài sẽ giúp chúng ta có những sáng tạo thích hợp, để Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa luôn được thực hiện với những vẻ đẹp mới, trẻ trung và đầy ơn cứu độ.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, (thứ tư, tuần XX QN, Mt 20,1-16a), Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn Bùi-Tuần 2280
Trong bài Phúc Âm hôm nay, (thứ tư, tuần XX QN, Mt 20,1-16a), Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn những người được tuyển chọn phục vụ cho vườn nho Chúa. Khi suy gẫm đoạn Phúc Âm này, tôi nghĩ đến tôi, các linh mục, các giáo dân và mọi người được Chúa trao cho nhiệm vụ góp phần chăm sóc vườn nho Chúa. Vườn nho Chúa rộng mênh mông. Gồm Hội Thánh và toàn thể nhân loại. Công việc thì rất nhiều, rất đa dạng.
Sau nhiều năm phục vụ vườn nho Chúa, với phần vụ của mình, tôi đã có một số kinh nghiệm. Hôm nay, trong tình gia đình, tôi xin được chia sẻ vài kinh nghiệm mà tôi thiết nghĩ là quan trọng, ít là đối với tôi.
Kinh nghiệm thứ nhất là: Thứ phục vụ quý giá và cần thiết cho vườn nho Chúa hiện nay là biết làm chứng về Chúa.
Làm chứng về Chúa không phải chỉ là truyền đạt những hiểu biết về Chúa học được từ các trường lớp, nhưng nhất là những cảm nghiệm sống động, riêng tư của mình về Chúa. Chúa đã đến với mình thế nào? Chúa đã biến đổi mình thế nào ? Nhờ Chúa, những cái nhìn của mình đã được đổi mới thế nào ? Nhờ Chúa, những phán đoán của mình đã được phúc âm hoá thế nào ? Nhờ Chúa, những hoạt động của mình đã được tân phúc âm hoá thế nào ?
Như vậy, làm chứng về Chúa không phải là kể lại những sự Chúa đã làm cho mình được khỏi bệnh, được của cải, được may mắn, mà là kể lại những sự Chúa đã đổi mới con người của mình, những người của mình, và xã hội của mình. Đổi hận thù ra yêu thương, đổi lười biếng ra nhiệt thành, đổi ham hố của cải ra quảng đại cho đi, đổi kiêu căng ra khiêm nhường.
Những làm chứng như trên là những đổi thay bên ngoài, nhưng phát xuất từ những thay đổi bên trong. Những chứng từ như thế là những hoa trái đẹp, có sức thuyết phục, giúp cho vườn nho Chúa được thực sự phát triển.
Kinh nghiệm thứ hai là: Thứ phục vụ quý giá và cần thiết cho vườn nho Chúa hiện nay là có những làm chứng mang tính cách tiên tri.
Có nghĩa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần, người phục vụ vườn nho Chúa nhìn thấy được hiện tại đang mở về tương lai nào. Họ đón nhận hiện tại như một báo hiệu về một tương lai đang tới. Họ coi hiện tại như một thứ mạc khải âm thầm về một tương lai xa.
Thứ làm chứng mang tính cách tiên tri này đòi hỏi phải học hỏi nhiều về lịch sử cứu độ và lịch sử thế giới, cũng như đòi hỏi phải biết phân tích tình hình vườn nho Chúa giữa xã hội hôm nay, nhất là đòi hỏi tinh thần ngoan ngoãn đón nhận ơn Chúa Thánh Linh.
Những chứng từ mang tính cách tiên tri luôn luôn được soi sáng bởi Lời Chúa. Lời Chúa, qua những chứng từ này, sẽ được thời sự hoá, trở thành sống động với những chuyển biến của lịch sử.
Giờ đây, đứng trước hơn 300 em sắp chịu phép Thêm sức, tôi nhìn thấy vườn nho Chúa đang chuyển biến mau lẹ giữa một xã hội đang chuyển biến phức tạp. Chúng ta đang bước vào một giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải làm chứng về Chúa hơn là giảng dạy về Chúa, một giai đoạn cần có những làm chứng mang tính cách tiên tri về một tương lai Hội Thánh chắc sẽ khác xưa.
Xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho chúng ta được biết phục vụ vườn nho Chúa với những đáp ứng thoả đáng theo nhu cầu thời đại hiện nay là nhu cầu làm chứng. Chúa giúp chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng học hỏi, cầu tiến và nhất là đổi mới.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Vạn Đồn, Kinh B/1, ngày 21/8/1996.
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Thứ năm, tuần XX TN, Mt 22,1-14), Chúa Giêsu nói đến Nước Trời Bùi-Tuần 2281
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Thứ năm, tuần XX TN, Mt 22,1-14), Chúa Giêsu nói đến Nước Trời qua dụ ngôn bữa tiệc. Bữa tiệc này ám chỉ một sự quy tụ rộng rãi. Chúa mời gọi mọi người. Chúa muốn mọi người quy tụ lại, để chia sẻ bữa tiệc cao quý Chúa ban tặng. Bữa tiệc cao quý đó là hạnh phúc trường sinh, do được thông hiệp vào sự sống tình yêu của Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm cho thấy một số người được mời đã tự ý không đến, và một số đã đến, nhưng không mặc y phục xứng đáng, nên bị đuổi ra. Sự kiện này khiến chúng ta phải lo. Riêng tôi, tôi rất lo cho chính mình. Nỗi lo của tôi rất chính đáng. Bởi vì tôi biết rõ những yếu đuối, những giới hạn của tôi. Nỗi lo của tôi được giải quyết thế nào ? Hôm nay tôi xin tâm sự đôi chút với anh chị em về cách giải quyết của một số tâm hồn sống theo Lời Chúa.
Cách giải quyết được soi sáng từ một Lời Chúa khẳng định: “Những ai không trở nên giống như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước Trời ... Chỉ những ai giống như trẻ nhỏ, mới được vào Nước Trời".
Như thế, bí quyết để được đón nhận vào bữa tiệc Nước Trời chính là tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Dù ở tuổi nào, dù trong chức vụ nào, tinh thần thơ ấu thiêng liêng vẫn phát triển được. Cụ thể qua những việc này:
Việc thứ nhất là biết cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc.
Mọi nơi, bởi vì nơi nào người con Chúa cũng nhận ra tình thương của Chúa, trong vũ trụ, trong môi trường, trong mọi người, và trong lịch sử. Mọi lúc, bởi vì lúc nào người con Chúa cũng cảm thấy Chúa ở với mình. Vì mọi nơi mọi lúc đều nói về tình thương và quyền năng Chúa, nên những đớn đau, những thinh lặng, những thất bại, những lỗi lầm, sẽ không phải là tiếng nói cuối cùng. Trái lại chúng sẽ càng làm cho sức mạnh phục sinh của Chúa Giêsu được tỏ hiện một cách rõ ràng hơn trong thời gian Chúa muốn.
Việc thứ hai là luôn biết rung cảm trước những vẻ đẹp mới do Cha trên trời dựng nên trong các tạo vật của Ngài.
Có thể nói là Chúa không ngừng tạo dựng nên những vẻ đẹp mới, những cái hay mới, những giá trị mới. Đáng kể nhất là tâm thức con người và xã hội thời nay càng ngày càng hướng về tình liên đới, không ngừng khát vọng sự công bình, càng ngày càng ham thích vẻ đẹp tâm linh của những người làm chứng cho tám mối phúc. Tâm thức đó là do Chúa Thánh Thần. Ngài hoạt động trong các tâm hồn, không phân biệt tôn giáo. Chính Ngài đã hướng lịch sử về Đức Kitô.
Biết rung cảm trước những giá trị mới, đó là dấu tâm hồn còn trẻ. Biết hăm hở với những kỳ công Chúa tạo dựng mỗi ngày, đó là một cách trẻ trung hoá tâm hồn.
Việc thứ ba là luôn ham thích học hỏi thêm, không những qua Kinh Thánh, qua Hội Thánh, mà cũng qua tất cả hệ thống các trung gian mà Chúa vẫn dùng để dạy dỗ con người.
Tôi thấy Chúa dạy dỗ con người qua nhiều thứ trung gian, và bằng nhiều cách. Tâm hồn thơ ấu thiêng liêng dễ nhạy bén với những tín hiệu Chúa gửi cho mình qua các trung gian, dù rất tầm thường và rất bé nhỏ. Không bao giờ trẻ thơ cho mình là đã học đủ, tâm hồn thơ ấu thiêng liêng cũng thế. Luôn học hỏi thêm. Luôn quý trọng những kiến thức mới, những kinh nghiệm mới, những sáng kiến mới. Thích sớm ổn định với một trạng thái không cần đổi mới, đó là một dấu cằn cỗi, rất phản chứng đối với tinh thần thơ ấu thiêng liêng.
Sau cùng, việc thứ bốn là luôn ý thức rằng mình được sai đi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa có nghĩa là họ làm chứng Chúa đã thương yêu họ, họ tin vào tình yêu Chúa, họ kể ra được những kỳ công của tình yêu Chúa đã làm trong sự đổi mới các tâm hồn mà họ đã thấy. Họ làm chứng là họ đã gặp gỡ Đức Kitô, Ngài đã biến đổi cuộc đời của chính họ.
Bốn việc tôi vừa kể vắn tắt trên đây được tôi nhận thấy nơi anh chị em. Người nhiều, kẻ ít. Tôi hy vọng rằng, giữa một xã hội đang chuyển biến phức tạp, tinh thần thơ ấu thiêng liêng, đơn sơ, khiêm tốn, phó thác, luôn biết cảm nhận được tình thương, và luôn khát vọng một thế giới của tình thương, sẽ là một tinh thần thích hợp, để được đón nhận vào bữa tiệc thiêng liêng của Nước Trời, là bữa tiệc tình yêu giữa một Nước Trời là Nước tình yêu, bên cạnh Thiên Chúa là Tình yêu viên mãn đời đời. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Ngọc Thạch, ngày 22/8/1996.
Hồi nãy, khi bước vào nhà thờ và với con mắt đức tin, tôi đã nhìn vào hang đá. Tôi đã thấy nhiều Bùi-Tuần 2282
Hồi nãy, khi bước vào nhà thờ và với con mắt đức tin, tôi đã nhìn vào hang đá. Tôi đã thấy nhiều điều kéo chú ý của tôi. Điều kéo chú ý của tôi nhiều nhất dưới con mắt đức tin, đó là cách Chúa đã chọn để giáng trần. Ngài đã tự hạ, Ngài đã bước xuống, Ngài đã dấn thân chia sẻ thân phận những con người hèn yếu. Ngài đã bao dung tha thứ cho những người khinh chê Ngài, dửng dưng với Ngài, và nhất là Ngài đã kết hợp với Chúa Cha và luôn tuân phục, tin tưởng vào Chúa Cha.
Giờ đây, khi nghe bài Phúc Âm và nhìn lên thánh giá, cũng với đức tin, tôi đã nhìn thấy nhiều điều tôi phải suy nghĩ. Điều tôi suy nghĩ nhiều nhất, gây ấn tượng mạnh nhất nơi tôi, cũng chính là cách Chúa đã dùng để chết. Ngài đã chết trong nhục nhã. Ngài đã tự hạ, Ngài đã dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, những kẻ bị loại trừ và nhất là Ngài đã bao dung tha thứ và luôn kết hợp với thánh ý Chúa Cha trọn vẹn.
Khi sinh ra, Ngài đã chọn cách tự hạ, khiêm cung, dấn thân, tha thứ và kết hợp với thánh ý Chúa Cha. Khi chết cũng vậy, cũng lại tự hạ, khiêm tốn, thứ tha, dấn thân vào thân phận kẻ khốn cùng và kết hợp với thánh ý Chúa Cha.
Tôi coi đây là những chọn lựa can đảm. Tôi cho đây là những hình ảnh đẹp nhất của tình yêu. Tôi cho đây là cách chọn lựa đẹp nhất, để làm dấu chỉ đạo đức của một người trở nên gương mẫu.
Với những cách suy nghĩ như trên, tôi đi trong địa phận, ngoài địa phận, trong nước, ngoài nước và tôi có ý tìm những người mang những dấu chỉ như trên. Những người biết tự hạ khiêm tốn, những người biết dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, những kẻ bao dung thứ tha, những kẻ kết hợp với thánh ý Chúa. Và tôi đã thấy số người như vậy là rất đông. Rất đông và không phải chỉ trong một tầng lớp, mà trong khắp mọi tầng lớp.
Chính những cái đó đang biến đổi nhân loại và lập nên một trật tự mới, một trật tự mà Đức Mẹ đã nói lên trong bài ca tạ ơn: “Những kẻ giàu sang sẽ trở về tay không, còn những kẻ khó nghèo sẽ được nâng lên”. Đó là cái trật tự mới. Một trật tự vô hình trước mặt Chúa và sẽ kéo dài đời đời.
Đúng là tôi đang thấy một số người rất nghèo khổ, nhưng được Chúa nâng lên làm những kẻ chứng nhân, làm những người con Chúa. Và tôi cũng đang thấy, những người coi như giàu sang chức vị, đang bị rơi xuống. Khi suy nghĩ như vậy, tôi thấy tất nhiên một câu hỏi sẽ đặt ra cho chúng tôi, cho anh chị em, cho bản thân tôi, đó là: Chúng ta có những dấu chỉ về sự Chúa chọn chúng ta làm chứng nhân cho tình yêu Chúa, qua sự chúng ta bắt chước Đức Kitô sống tự hạ khiêm tốn, sống dấn thân chia sẻ thân phận kẻ khốn cùng, sống bao dung tha thứ và nhất là sống tuân phục thánh ý Chúa Cha không?.
Lúc nãy, đầu thánh lễ, ông đại diện giáo xứ đã trình bày những công việc mà giáo xứ đã thực hành và sẽ thực hành. Tôi coi đó là những công trình bề ngoài thôi. Điều mà tôi nhắn nhủ, điều mà tôi đợi chờ nhiều hơn, đó là những công trình nội tâm bên trong: Xây dựng con người, xây dựng tâm hồn người con của Chúa, bắt chước Đức Kitô sống khiêm tốn tự hạ, sống dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, sống bao dung tha thứ và nhất là sống kết hợp với thánh ý Chúa Cha.
Đó mới là những công trình mà Thiên Chúa đợi chờ nơi chúng ta. Và với như vậy, chúng ta mới sẽ là những chứng nhân đích thực của Chúa.
Tôi đi nhiều nơi và đã thấy một số cảnh sụp đổ về đức tin nơi này, nơi nọ. Nguyên nhân chỉ vì đã không đi vào đời sống nội tâm, đi vào Phúc Âm, đi vào những đòi hỏi của Chúa Thánh Linh. Thành ra, khi nền văn minh vật chất và khoa học ào tới, cào bằng, thì những tâm hồn tuy rằng mang tên Thiên Chúa giáo cũng đã trở nên lẻ loi, mất mát và khô cằn.
Tôi thấy rồi đây, Việt Nam chúng ta cũng sẽ rơi vào cảnh huống tương tự như vậy. Nên tôi kêu gọi anh chị em, hãy biết đi vào nội tâm nhiều hơn: Sống với Chúa Kitô, bắt chước Chúa Kitô, xây dựng đời sống phó thác nơi Chúa Cha, chấp nhận tự hạ, can đảm dấn thân và luôn mở trái tim mình sống bao dung tha thứ. Có như vậy, thì chúng ta, con em chúng ta sau này, mới có thể đứng vững được trước những trào lưu văn minh vật chất, đang tràn vào tàn phá đức tin.
Một vài gợi ý như vậy, để anh chị em hôm nay cầu nguyện với Chúa Thánh Linh, giúp cho con em mình và cũng giúp cho chính bản thân ta biết đón nhận Chúa Thánh Thần bằng sự quảng đại, bằng sự tỉnh táo và bằng tất cả những gì mình có, để Chúa Thánh Linh tạo dựng chúng ta nên những người mới, có khả năng làm chứng cho Chúa trong một tình hình đang chuyển biến rất phức tạp. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Thái Hoà, ngày 27/12/1996.
Chúng ta đang trong thời kỳ chuẩn bị mừng năm 2000. Năm đó được gọi là năm thánh, bởi vì Bùi-Tuần 2283
Chúng ta đang trong thời kỳ chuẩn bị mừng năm 2000. Năm đó được gọi là năm thánh, bởi vì đây là một kỷ niệm lớn nhắc lại biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Theo tôi, kỷ niệm Chúa giáng sinh không thể tách rời khỏi kỷ niệm sinh nhật thánh Gioan Baotixita. Bởi vì thánh Gioan Baotixita là vị tiên tri được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa cứu thế đến.
Thánh Gioan Baotixita đã thực hiện sứ mạng được trao thế nào? Đó là vấn đề tôi xin vắn tắt chia sẻ hôm nay. Phúc Âm cho thấy: Ngài đã dọn đường cho Chúa bằng 4 việc căn bản sau đây:
Việc thứ nhất là việc Ngài nêu cao nếp sống tu thân. Ngài vào nơi hoang địa, sống một mình trong cảnh cực kỳ khó nghèo. Ngày đêm cầu nguyện chiêm niệm và tự lập mưu sinh. Việc tu thân khắc kỷ của Ngài nói lên ý chí của Ngài phấn đấu với chính mình, với thói xấu thế gian và với ma quỷ, để tập tành rèn luyện sống triệt để lý tưởng thánh thiện.
Việc thứ hai là việc Ngài rao giảng sự thống hối. Trong tiếp xúc riêng tư cũng như khi nói chuyện trước đám đông, thánh Gioan Baotixita thường hay đề cập tới việc ăn năn sám hối. Đối với Ngài, ăn năn sám hối là đổi mới tấm lòng, đổi mới nếp sống, đổi mới những cái nhìn, đổi mới những thao thức. Sao cho lương thiện hơn, sao cho công bình hơn, sao cho bác ái hơn, sao cho hợp thánh ý Chúa hơn.
Việc thứ ba là việc Ngài chỉ cho thấy Đấng cứu thế đã đến. Khi Đức Kitô đi giữa đám đông đến với Gioan để xin chịu phép Rửa, Gioan đã chỉ vào Đức Kitô mà giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,36). Rồi Gioan làm chứng rằng: Đức Kitô được Chúa Cha trọn vẹn yêu mến, và được đầy ơn Chúa Thánh Thần. Gioan phải trở nên bé nhỏ, và Đức Kitô phải được đề cao.
Việc thứ tư là việc Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống, để bênh vực sự thực, đổi mới cơ chế tội lỗi. Ngài đã cảnh cáo tội ác của vua Hêrôđê, và vì thế Ngài đã bị vua ra lệnh bắt giam và bị chém đầu.
Nhìn qua 4 việc trên đây của thánh Gioan Baotixita, chúng ta thấy Ngài thực sự được Chúa Thánh Thần soi dẫn trong sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế. Tất cả 4 việc đó và từng việc một đều làm chứng về ơn thánh cứu độ. Tất cả 4 việc đó và từng việc một đều qui hướng về sự đổi mới con người và xã hội, đồng thời cũng chỉ cho thấy đâu là ý nghĩa cao đẹp của đời sống con người.
Thiết tưởng 4 việc trên đây của thánh Gioan Baotixita cũng là những gợi ý tốt, để chúng ta chuẩn bị mừng Năm thánh 2000 một cách có ý nghĩa.
Hiện nay, trong chương trình chuẩn bị mừng Năm thánh 2000, người ta thường hay nhắc tới những qui tụ lớn, những cử hành lớn, những cuộc hành hương lớn. Các chương trình như thế cũng hữu ích, nhưng không thể thay thế được những việc mà thánh Gioan Baotixita xưa đã thực hiện, để dọn đường cho Chúa cứu thế đến.
Tất nhiên chúng ta không nên bắt chước theo kiểu rập khuôn hình thức bề ngoài, nhưng chúng ta cần bắt chước theo tinh thần nội dung bên trong. Nói chung tinh thần nội dung bên trong là sống ơn Chúa gọi mình một cách trung tín.
Ơn gọi của chúng ta thường rất đơn sơ, nhưng đồng thời cũng rất phức tạp. Đơn sơ, bởi vì ơn gọi ví như hạt giống tốt Chúa gieo vào lòng ta. Phức tạp, bởi vì lòng ta thường hay thay đổi. Có lúc lòng ta cứng cỏi như đất pha nhiều đá sỏi, có lúc lòng ta rắc rối như những bụi gai. Vì thế hạt giống ơn gọi không phát triển được.
Hôm nay, trong thánh lễ này, chúng ta cầu nguyện cho mình và cho cộng đoàn chúng ta được sống tốt ơn gọi của mình. Để theo gương thánh Gioan Baotixita, chúng ta dọn đường cho Chúa Cứu thế bằng những việc lành bé nhỏ, bằng cuộc đời phục vụ khiêm cung, bằng sự luôn cố gắng đổi mới cuộc đời và góp phần đổi mới xã hội, Quê Hương chúng ta.
Lễ Gioan Baotixita tại nhà thờ Long Xuyên, ngày 24/6/1998
Hôm nay chúng ta quy tụ nơi đây nhân dịp lễ gỗ cha cố Augustinô, sự quy tụ này có nhiều ý Bùi-Tuần 2284
Hôm nay chúng ta quy tụ nơi đây nhân dịp lễ gỗ cha cố Augustinô, sự quy tụ này có nhiều ý nghĩa chính đáng, một trong những ý nghĩa đó là chúng ta suy gẫm Lời Chúa nói về sự chết của các môn đệ Người.
Một Lời Chúa có khả năng thắp sáng lên niềm tin cậy, đốt nóng lên tình yêu mến. Lời Chúa đó chúng ta đã nghe trong bài Phúc Âm đó là: “Nếu hạt lúa rơi xuống đất mà không thối đi thì sẽ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sản sinh ra nhiều bông hạt”. Hạt lúa nói đây ám chỉ về bản thân Đức Kitô. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất được thối đi đã sinh nhiều bông hạt thì Đức Kitô khi chấp nhận chết một cách đau đớn cũng là đầu mối trong nhiều mùa màng phong phú thiêng liêng.
Sự chết của Đức Kitô như vậy đã trở nên ơn gọi gởi cho các môn đệ của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ hãy biết nhìn thánh giá và sự chết đau khổ trên thánh giá như một phần quan trọng của đời hiến dâng. Không phải là chết trong khi nhắm mắt lìa đời mà thôi, mà phải tập chết hằng ngày, mà phải chết từng cái chết nhỏ âm thầm kín đáo hằng ngày. Cái chết nói đây là sự từ bỏ mình, là sự từ bỏ ý riêng mình, là sự biết chấp nhận khổ đau vất vả, là sự biết chấp nhận những rủi ro khi mình quyết định đi theo con đường của Chúa. Khi sống đời hiến dâng với sự chấp nhận những cái chết nhỏ hằng ngày, người môn đệ Đức Kitô sẽ cảm thấy đời sống nội tâm lớn lên dần dần và trưởng thành.
Người môn đệ Đức Kitô nhờ vác thánh giá, nhờ chết trên thánh giá sẽ có một đời sống xinh đẹp, là sức mạnh lạ thường thiêng liêng và nhất là khi chấp nhận sống từ bỏ mình, với những thánh giá bé nhỏ kín đáo âm thầm thiêng liêng hằng ngày mình gánh chịu trước khi đi vào cái chết đau khổ cuối đời thì người môn đệ Đức Kitô dần dần sẽ nên giống Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Chúng ta biết Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải chỉ bằng phép rửa, bằng phép Mình Thánh, các bí tích, lời khuyên bảo mà nhất là cứu độ chúng ta bằng con đường thánh giá, bằng cái chết nhục nhã trên thánh giá. Chúng ta phải nhớ điều đó để biết góp phần của mình vào chương trình cứu độ của Đức Kitô. Ơn gọi này nghe thì dễ mà thực thi thì rất khó. Tôi nói điều đó theo kinh nghiệm đời tôi, tôi nói điều đó theo kinh nghiệm của những người môn đệ Đức Kitô, tôi nói điều đó theo kinh nghiệm về đời sống cha cố Augustinô. Tôi biết là suốt dọc cuộc đời của ngài đã có những thánh giá, đã có những khổ đau và ngài đã can đảm vác những thánh giá đó trước khi đi vào cái chết đau đớn dứt đoạn cuộc đời. Đây là phần thưởng của ngài, vì qua cái cách chấp nhận thánh giá, chết trên thánh giá ngài đã được vinh quang, trở nên giống hình ảnh Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Khi tôi nhìn cuộc đời của cha cố Augustinô và cuộc đời của những người môn đệ Đức Kitô nổi danh thánh thiện, tôi nhìn vào địa phận Long Xuyên, nhìn vào giáo xứ anh chị em, tôi vui mừng nhận thấy là chúng ta đã làm rất nhiều việc đạo đức như: năng đi lễ, năng đọc kinh, năng học giáo lý, siêng năng làm những việc từ thiện xã hội vv... những việc đó tốt nhưng xem ra còn thiếu một cái gì đó chưa đủ. Cái chưa đủ đó là những tâm hồn quảng đại, biết chấp nhận thánh giá, biết đi trên đường thánh giá, biết chết trên thánh giá.
Nếu đó là thánh ý Chúa, mà chắc chắn đó là thánh ý Chúa thì hôm nay chúng ta phải có một cái nhìn đúng đắn về đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta không phải chỉ là bám vào một số việc đạo đức bề ngoài mà phải đi vào cốt lõi của Tin Mừng. Tin Mừng đó phải trả giá bằng thánh giá, mà nếu đúng như vậy thì đối với những ai hiếu thảo, báo hiếu cha cố Augustinô, những việc chúng ta làm trước đến giờ và sau này như xin lễ, đọc kinh, tưởng nhớ cũng là rất tốt, nhưng mà đừng quên điều quan trọng của đời hiến dâng mà cha Augustinô đã nêu lên trong đời sống thường ngày và nhất là trong cái chết khổ đau: phải biết chấp nhận những thánh giá, phải sống thánh giá, phải biết từ bỏ mình để báo hiếu, để hiếu thảo với người cha của mình.
Với những tâm tư đó, tôi tạ ơn Thiên Chúa vì đã cho chúng ta một linh mục tốt, sống ơn gọi linh mục với căn bản của thánh giá cứu độ của Đức Kitô; và chúng ta cũng cầu xin Chúa, hôm nay vì lời cầu của cha Augustinô cho chúng ta được đi vào đúng con đường Chúa gọi, con đường vác thánh giá, con đường chết trên thánh giá. Một cách nào đó kín đáo, âm thầm, thiêng liêng nhưng mà là những cái chết đầy tình mến Chúa, đầy tình nghĩa thiêng liêng đối với con người.
Lạy Chúa xin thương đến chúng con, xin giúp cho chúng con biết sống ơn gọi Chúa gởi cho chúng con. Amen.
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe gợi ý cho tôi suy nghĩ đôi điều về hạnh phúc. Người bất toại Bùi-Tuần 2285
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe gợi ý cho tôi suy nghĩ đôi điều về hạnh phúc. Người bất toại đã nhiều năm sống trong cảnh thất vọng, tuyệt vọng, nhưng nhân dịp Chúa Kitô vào thành, anh đã gặp gỡ Đức Kitô và được Đức Kitô chữa lành cho khỏi bệnh tật. Sự việc đó đem lại cho anh một hạnh phúc bất ngờ và rất lớn lao. Anh cảm thấy đời mình có nhiều ý nghĩa, anh cảm thấy mọi người đều là thân thương và nhất là anh có phấn khởi đi về phía trước với biết bao nhiêu hy vọng, anh sống những giây phút hạnh phúc lạ lùng. Rồi dân chúng chung quanh khi thấy người bất toại được Chúa Kitô chữa lành cũng đã nhờ dịp đó đến gặp gỡ Đức Kitô. Họ đã nhận ra Ngài là một Đấng có quyền năng, đầy lòng thương xót.
Trước đến giờ họ sống một cuộc đời nhạt nhẽo và coi như sống đạo một cách máy móc, kính sợ Thiên Chúa, coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Bây giờ gặp được Đức Kitô làm phép lạ chữa cho người bất toại được khỏi, họ khám phá thấy dung mạo mới của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng cứu độ, Thiên Chúa là tình yêu thương, và nhờ đó họ đã ca ngợi Thiên Chúa và họ sống những giây phút hạnh phúc bất ngờ lớn lao.
Sự việc xảy ra được tả lại trong bài Phúc Âm hôm nay cho phép tôi nghĩ rằng trong đời chúng ta cũng đã xảy ra những sự việc tương đối như vậy, nhưng mà những sự việc đó đòi chúng ta phải có sự cộng tác vào.
Điều kiện thứ nhất để cộng tác vào những giây phút làm nên hạnh phúc, đó là chúng ta phải biết nắm bắt những sự Chúa viếng thăm ta. Chúa viếng thăm ta nhiều cách, dưới nhiều hình thức, trong nhiều lúc, hoặc thường xuyên, hoặc bất ngờ, chúng ta cần phải tỉnh thức và nắm bắt những dịp thuận lợi đó, chẳng hạn như ngày hôm nay cũng là một cơ hội ít khi xảy ra. Nếu chúng ta dửng dưng, nếu chúng ta coi thường lễ hôm nay, hay là nhìn lễ hôm nay chỉ là một lễ bề ngoài mà không nhắm vào sự gặp gỡ Đức Kitô thì đúng là chúng ta không nắm bắt sự Chúa đến viếng thăm ta. Ngài đến nhưng chúng ta không biết nhận ra Ngài.
Điều kiện thứ hai là chúng ta phải biết đón nhận ơn Ngài. Khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô thì chúng ta đừng tưởng Ngài sẽ ban ơn này ơn nọ theo như ý ta xin, mà có thể là Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn lành mà Chúa muốn, vì nó sinh ích ơn lợi lớn cho chúng ta. Cho nên cần phải biết đón nhận bất cứ ơn nào Chúa ban cho ta. Tôi thí dụ hôm nay, ngồi đây, đang dự thánh lễ, có người thì dửng dưng không xin gì, có người thì đợi chờ hoặc là có người xin ơn này ơn nọ, nhưng có người chỉ xin một ơn này: xin vâng phục thánh ý Chúa. Cho nên khi Chúa ban ơn cho chúng ta thì chúng ta cần phải biết đón nhận, dù ơn đó là ơn thế nào.
Điều kiện thứ ba để chúng ta sống giây phút hạnh phúc là Tin Mừng cứu độ, đó là biết ca ngợi ơn Chúa. Cũng như bài Phúc Âm hôm nay nói là: dân chúng khi thấy phép lạ, khi được gặp gỡ Đức Kitô thì đã tán tụng ơn Chúa, ca ngợi Ngài.
Về sự biết ơn Chúa, nhiều khi chúng ta có làm đấy nhưng mà thực sự chỉ làm bề ngoài, không thâm sâu. Cảm tạ ơn là phải nhìn Chúa như một Đấng tạo thành, luôn luôn tạo thành làm cho ta nên mới. Nó càng làm cho chúng ta trở nên con của Chúa, nên giống Chúa phải biết cảm tạ ơn Chúa.
Điều quan trọng mà Phúc Âm hôm nay nhắc nhở cho chúng ta để chúng ta biết nắm bắt, để chúng ta biết đón nhận, để chúng ta biết ca ngợi Thiên Chúa, điều đó là hãy gặp gỡ Đức Kitô. Không phải chúng ta gặp Đức Kitô để mà xin ơn nhưng mà gặp gỡ Đức Kitô bởi vì Ngài là Đấng cứu độ. Hãy coi mình là người bất toàn, hãy coi mình là kẻ tội lỗi. Đến với Ngài, gặp gỡ Ngài, rồi xin Ngài đoái thương đến thân phận của ta.
Hãy gặp gỡ Đức Kitô một cách rất đơn sơ, ta có thế nào, ta đang làm gì thì cứ đến gặp Ngài như vậy thôi. Không cần giả tạo gì: con đang khô khan, con đến gặp Chúa, xin thương con, con đang khổ đau, con đến với Chúa, xin Chúa thương con. Hãy đến với Chúa một cách đơn sơ, có thế nào trình bày như vậy. Rồi hãy gặp gỡ Đức Kitô với lòng khiêm tốn, đừng dựa vào công trạng gì của ta, đừng nói rằng con đã làm phúc bố thí vv... tất cả đều hữu ích nhưng không phải là điều kiện để chúng ta đến với Chúa Kitô.
Hãy đến với lòng khiêm tốn như con số không, như một người tội lỗi đến với Đấng cứu độ. Rồi sau cùng hãy gặp gỡ Đức Kitô với lòng phó thác cậy trông. Tất cả đều đợi chờ nơi Cha, tất cả đều tin vào lòng thương xót của Cha, tất cả đều quy hướng về Cha. Khi chúng ta phó thác cậy trông như vậy trong sự gặp gỡ Đức Kitô thì chúng ta sẽ thấy Ngài đến với ta và ban cho chúng ta một hạnh phúc sâu sắc, vững bền và làm cho chúng ta cảm thấy đời ta an ủi, an vui, an ổn và những cảm nghiệm đó rất là bất thường và rất lớn lao.
Tôi biết là anh chị em có lòng đạo đức, năng đọc kinh, năng xem lễ và có lòng quảng đại giúp đỡ việc chung, chăm sóc những người nghèo. Tất cả những điều đó là rất tốt, nhưng anh chị em đừng quên điều tôi nhắc nhở là khi làm những việc đó thì tâm tình của mình phải là tâm tình gặp gỡ Đức Kitô. Khi gặp gỡ Đức Kitô, tìm Đức Kitô và tin vào Đức Kitô thì dù chúng ta làm những công việc rất bé nhỏ Chúa sẽ đến với ta và sẽ cho chúng ta những hạnh phúc mà người đời không cảm được. Bởi vì hạnh phúc đó đến từ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Khi tôi ở đầu kênh đến nhà thờ này, tôi nhìn thấy rất nhiều người nghèo túng trên bờ, dưới kênh, tôi cảm nghiệm thấy là chúng ta cần phải làm cái gì đó, nhỏ thôi, cho những người chưa có hạnh phúc như ta. Ít là chúng ta phải cầu nguyện và phải quan tâm đến sự chia sẻ hạnh phúc của ta cho những người chưa có hạnh phúc hay là không thể nào có hạnh phúc được vì thiếu điều kiện cần thiết. Khi có hạnh phúc rồi hãy nhớ đến những người chưa có hạnh phúc hay là không thể ngoi lên khỏi số phận đày đoạ để nhìn thấy hạnh phúc của người con cái Chúa.
Xin anh chị em, hôm nay nhờ ơn Chúa Thánh Thần biết nắm bắt, biết đón nhận, biết tạ ơn và biết mở lòng ra tìm kiếm những người chung quanh để giúp cho họ cũng có được hạnh phúc tương đối như chúng ta. Amen.
Tháng rồi, tôi có dịp đi thăm mấy họ đạo ở vùng sâu vùng xa. Tôi vui mừng vì thấy ở những nơi Bùi-Tuần 2286
Tháng rồi, tôi có dịp đi thăm mấy họ đạo ở vùng sâu vùng xa. Tôi vui mừng vì thấy
ở những nơi đó đã có những phát triển tốt. Người ta ăn mặc đẹp hơn trước, các hoạt động mục vụ và xã hội sầm uất hơn trước. Tất cả những cái phát triển này đều rất đáng khen. Khi phân tích những phát triển trên đây, tôi nhận thấy có hai yếu tố này:
Yếu tố thứ nhất là những người ở nơi đó đã có những hoạt động phấn đấu. Hoạt động phấn đấu là những việc có nhiều cố gắng. Mà cố gắng thì phải chấp nhận nhọc nhằn, chấp nhận vất vả, chấp nhận xoay sở, lặn lội, cực nhọc. Những hoạt động phấn đấu đó thuộc về nhiều mặt khác nhau như: về kinh tế, về giao tế, về văn hoá, về tôn giáo. Bất cứ phương diện nào muốn phát triển cũng cần phải có những hoạt động phấn đấu. Những hoạt động phấn đấu đó đem lại sự đổi mới cho con người, cho cuộc sống, cho xã hội. Con người được thăng tiến hơn, cuộc sống được thảnh thơi hơn, xã hội được công bằng hơn. Nhìn qua những công việc phát triển đó, tôi thấy phẩm giá con người được nâng lên, bộ mặt xã hội điạ phương đẹp hơn trước và nói chung là dân tộc Việt Nam đi vào con đường có nhiều hy vọng hơn. Những hoạt động phấn đấu là rất cần thiết để đổi mới chính mình, đổi mới xã hội.
Bên cạnh những hoạt động phấn đấu đó, tôi thấy có một yếu tố thứ hai đó là những người đây đó biết cầu nguyện và phó thác cậy trông nơi Chúa. Họ cầu nguyện với Chúa vì tin rằng Chúa là chủ mọi sự phát triển. Họ cầu nguyện với Chúa để bàn hỏi với Ngài nội dung phát triển, cách phát triển và thời gian phát triển. Bởi vì tất cả những cái đó đều chằng chịt liên hệ với nhau. Nội dung phát triển phải tốt hợp thánh ý Chúa, cách phát triển phải tốt hợp với ý Chúa, thời điểm phát triển phải đúng ý Chúa. Tâm tình cầu nguyện với Chúa là như vậy. Và trong khi cầu nguyện phát triển người ta xin Chúa thương cho mình tránh việc tội lỗi. Bởi vì nhiều khi phát triển về vật chất cũng như tinh thần thì thường có những cái khuynh hướng làm cho chúng ta trở nên phô trương, trở nên kiêu ngạo, trở nên thất vọng khi không được như ý v.v... Tránh mọi tội lỗi và biết quy hướng tất cả về Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự tốt đẹp.
Khi tôi nhìn thấy hai yếu tố trên đây trong các họ đạo đã có phát triển thì tôi thấy rằng: Nếu tất cả chúng ta cùng có hai điều kiện mà tôi vừa gợi ý: phấn đấu hoạt động và cầu nguyện phó thác, thì các cộng đoàn chúng ta sẽ trở nên dấu chỉ cho vinh quang Thiên Chúa.
Trong thế giới hôm nay, người ta tin vào những cái gì nhìn thấy được hơn là những cái gì cao sâu không nhìn thấy. Nếu người ta nhìn thấy một họ đạo, một cá nhân, một nhóm nhỏ những người Công Giáo biết phấn đấu hoạt động để phát triển trong niềm tin vào Thiên Chúa là Cha của mình, thì người ta sẽ trân trọng người Công giáo, người ta sẽ nhờ vã người Công Giáo, người ta sẽ coi người Công Giáo, đạo Công Giáo là một nhân tố hữu ích cho Đất Nước, cho điạ phương. Cho nên một người biết phát triển cũng như là một họ đạo biết phát triển chính là một dụng cụ làm chứng cho đạo trong thời điểm hôm nay.
Khi nhìn qua những cảnh phát triển trên đây, tôi mong ước điều này: Là tất cả các họ đạo trong giáo phận chúng ta, trong đó có họ đạo Trái Tim chúng ta đây sẽ là những họ đạo biết phát triển. Nhờ những hoạt động phấn đấu, nhờ sự kiên trì cầu nguyện, tôi tin rằng nếu chúng ta có một cái thiện chí làm hết sức của mình trong khả năng của mình, trong hoàn cảnh của mình vì danh Chúa để phát triển thì Chúa sẽ giúp chúng ta. Nếu hôm nay chúng ta chưa nhìn thấy kết quả thì đừng thất vọng, công việc còn dài, Chúa đòi chúng ta cố gắng mà thôi rồi kết quả Chúa sẽ ban cho sau miễn là chúng ta biết làm những việc phát triển đó cho vinh danh Thiên Chúa, cho phần rỗi các linh hồn, cho hạnh phúc của dân tộc mình.
Lúc nãy, ông đại diện họ đạo có nói tới những nhu cầu thích hợp trong họ đạo như là giáo dục, như là xây dựng thánh đường mới, đó là những nhu cầu chính đáng. Tôi mừng là anh chị em đã ý thức việc đó. Từ ý thức anh chị em đã có nhiều phấn đấu, và những phấn đấu đó đang từng bước đưa lại kết quả tốt. Chúng ta phải kiên trì và khiêm tốn cộng tác với những người có khả năng, có thiện chí và nhất là giữ được sự đoàn kết trong họ đạo. Mỗi người tham gia một cách, nhỏ thôi, nhưng tất cả lòng tin mến của mình thì Chúa sẽ giúp chúng ta. Hãy tin như vậy. Hãy tin rằng một đồng bé nhỏ của bà goá bỏ vào nhà thờ vẫn có công trạng rất nhiều đối với Chúa và có thể sản sinh ra những cộng đoàn rất to lớn về nước thiêng liêng.
Xin Chúa Thánh Linh hôm nay giúp cho chúng ta ơn đổi mới. Không phải chỉ là đổi mới trong tâm hồn mà còn đổi mới về bộ mặt xã hội, bộ mặt văn hoá, bộ mặt nhân bản về môi trường, về cuộc sống. Bởi vì tất cả những cái đó đều thuộc về phẩm giá con người và qua phẩm giá con người chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa của chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức ở nhà thờ Trái Tim, Năng Gù, ngày 5/7/1998
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta nhiều điều, nhưng có một điều đáng chúng Bùi-Tuần 2287
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta nhiều điều, nhưng có một điều đáng chúng ta suy nghĩ nhiều hơn. Điều đó là: “Đừng sợ những người gây nguy hại cho chúng con về thân xác mà không thể giết hại được linh hồn chúng con. Nhưng hãy biết sợ Đấng có quyền ném chúng con cả xác lẫn hồn xuống hoả ngục”.
Suy nghĩ về lời dạy trên đây, tôi để ý nhiều đến phần thứ hai, tức là hãy biết sợ. Hãy biết sợ hoả ngục, hãy biết sợ phải xuống hoả ngục, hãy biết sợ Đấng có quyền ném chúng ta cả hồn lẫn xác xuống hoả ngục. Nhưng bởi vì Chúa không bao giờ ném chúng ta xuống hoả ngục nếu chúng ta không tự gây nên tội lỗi, nếu chúng ta không tự khước từ ơn sám hối và nếu chúng ta không tự mình đi vào con đường hoả ngục. Chính vì thế, nói cho cùng, cái người mà chúng ta phải cảnh giác nhiều hơn nhất, cái người mà chúng ta phải sợ nhiều hơn nhất chính là bản thân mỗi người chúng ta.
Chúng ta biết rằng, trong mỗi người chúng ta có nhiều khả năng tốt và cũng đồng thời có nhiều tiềm năng xấu. Trong chúng ta có nhiều ánh sáng nhưng đồng thời cũng có nhiều bóng tối. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nơi ta, nơi gia đình, nơi cộng đoàn xã hội nhiều khi sự dữ lướt thắng sự lành, bóng tối bao trùm ánh sáng. Tình trạng đó rất đa dạng và rất đáng sợ. Nhưng cái đáng sợ hơn chính là lòng chúng ta, lòng con người trở nên mù quáng. Không có nhìn sự thật mà chỉ rờ gẫm trong bóng tối, không tìm được lối ra, lẫn lộn cái đúng với cái sai, lẫn lộn con đường phải với con đường trái, như một người mù đi trong đêm tối. Đó là một điều đáng sợ.
Còn một điều đáng sợ hơn nữa là lòng chúng ta, lòng con người trở nên cứng cỏi. Trái tim chúng ta như bị bao phủ bởi nhiều lớp đất cứng. Chúa Giêsu gỏ cửa lòng ta, nhưng vì lòng ta cứng quá, chúng ta không nghe được tiếng gõ cửa đó. Chúa kêu gọi chúng ta, nhưng lòng chúng ta cứng quá, chúng ta không nghe được tiếng gọi của Chúa Kitô. Chúa gieo vào lòng ta những ơn lành, nhưng lòng ta cứng quá, những hạt giống đó không mọc lên được. Đó là một tình trạng rất đáng sợ.
Rồi một điều rất đáng sợ là lòng chúng ta trở nên nguội lạnh. Nguội lạnh nghĩa là không còn hít thở với lời Chúa, với việc cầu nguyện, với việc đi gặp Chúa. Giữ đạo bề ngoài, đọc kinh chiếu lệ, đi lễ hay nghe giảng như một cái máy móc nguội lạnh khô khan không bao giờ tìm được Chúa, bởi vì không thao thức như ngày nào. Đó là tình trạng rất đáng sợ.
Trước tình trạng này đang lan tràn trong thế gian, cả trong Hội Thánh, Đức Mẹ mỗi một lần hiện ra thì chỉ khuyên bảo chúng ta hãy ăn năn sám hối, hãy cầu nguyện, hãy đổi mới lại chính đời sống mình. Tôi nghĩ chỉ có cách đó thôi là phải ăn năn hối cải, là phải cầu nguyện, là phải đổi mới chính mình thì mới có thể tránh được hoả ngục, thì mới có thể đứng vững được khi mà trào lưu xấu luôn đẩy con người vào tội lỗi. Nếu không chúng ta sẽ tự mình đi vào hoả ngục, hoả ngục ngay ở đời này, hoả ngục ở đời sau. Hoả ngục đời này là tình trạng xa Chúa dần dần, và hoả ngục đời sau là phải xa Chúa mãi mãi đời đời kiếp kiếp. Vì thế, việc đầu tiên mà Chúa dạy chúng ta là xin Chúa đổi mới trái tim chúng ta.
Lúc nãy, khi chúng ta rước đoàn đồng tế vào nhà thờ, cộng đồng đã hát “xin Thần Khí Chúa xuống trên chúng ta, tác tạo và đổi mới tâm ta”. Đúng là phải đổi mới trái tim ta, lòng ta. Rồi đến trước lễ chúng ta cũng lại “xin Chúa cho chúng ta quả tim mới”. Đúng như vậy, cái quan trọng là lòng ta, trái tim ta, nó đừng cứng nữa, nó đừng mù nữa, nó đừng lạnh nữa thì mới có thể đổi được chính bản thân mình và cuộc sống của mình.
Lúc nãy, các em Thêm Sức có gặp tôi. Tôi nhìn vào cái nhìn của các em, đôi mắt của các em, và tôi cảm thấy tất cả những vẻ đẹp trong đó. Quần áo đẹp cũng đã đẹp, nhưng mà cái nhìn các em nó đẹp hơn nhiều và nó nói nhiều hơn nhất. Có cái nhìn không bao giờ quên được mặc dầu không nói gì nên lời. Kinh nghiệm đó nhắc lại cho tôi về cái nhìn của thánh Phaolô, về cái nhìn của thánh Phêrô khi gặp Đức Kitô, và cái nhìn của kẻ trộm lành khi gặp Đức Kitô. Những người đó là những người tội lỗi. Họ không biết Kinh Thánh nhiều lắm, nhưng mà khi gặp gỡ Đức Kitô, thấy Đức Kitô nhìn mình, một cái nhìn đầy nhân ái, đầy hấp dẫn và từ đó người tông đồ thánh Phêrô, thánh Phaolô đổi mới cuộc đời, bởi vì mình đã thấy một cái gì mà không thể cưỡng được, đó là tình yêu Thiên Chúa cứu rỗi.
Vì thế, tôi mong rằng trong đời sống đạo chúng ta, mặc dầu chúng ta đọc kinh xem lễ, làm việc từ thiện, học hỏi giáo lý nhưng mà quan trọng nhất là hãy tìm gặp gỡ Đức Kitô với một trái tim thống hối cầu nguyện. Tôi tin chắc rằng một người nào đã gặp được Ngài, đã nhìn thấy cái nhìn của Ngài dành cho mình không bao giờ quên được và sẽ đổi mới. Đổi mới chính mình, để rồi mình cũng sẽ đi tìm Đức Kitô trong những người chung quanh, để rồi mình cũng xin Đức Kitô ngự trong mình để nhìn những người khác bằng cái nhìn của Đức Kitô đầy nhân ái. Và sau đó là điều sắp đổi mới thế gian.
Khi chúng ta có một cái nhìn đó rồi thì tất cả đều là hồng ân. Dù có cách khó khăn mới, dù có cách cứu chuộc mới, không quan hệ gì lắm đối với những người đã nhận được Tình yêu Thiên Chúa.
Xin hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Linh hôm nay, để chúng ta có một trái tim mới, để tâm cang chúng ta được đổi mới. Và khi đó gặp gỡ Đức Kitô, nhìn vào cái nhìn của Ngài đầy thương xót, chúng ta thấy mọi sự đều là hồng ân. Tránh cho chúng ta con đường đi vào hoả ngục, hơn nữa giúp cho chúng ta trở nên những người loan báo Tin Mừng trong xã hội Việt Nam hôm nay. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Chúa nhật XV thường niên, năm C) Chúa Giêsu tóm lược việc giữ Bùi-Tuần 2288
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Chúa nhật XV thường niên, năm C) Chúa Giêsu tóm lược việc giữ đạo vào một câu vắn tắt: “Mến Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình”.
Riêng sự yêu thương anh em như chính mình đã được Chúa Giêsu cắt nghĩa rất rõ, bằng ví dụ người Samarita chăm sóc nạn nhân bị cướp đánh nằm ở vệ đường. Qua ví dụ này, Đức Kitô dạy: Yêu thương thì phải dấn thân, phải phục vụ, nhiều khi cũng phải chấp nhận vượt qua những ranh giới hẹp hòi. Chính Đức Kitô đã làm gương về điều đó.
Thực vậy, vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới cộng đoàn những người Thiên Chúa giáo, để phục vụ người lương, là loại người thời đó bị cộng đoàn Thiên Chúa giáo xa tránh. Đó là trường hợp Ngài đón tiếp vị sĩ quan thành Caphanaum và làm phép lạ cho con ông đã chết được sống lại (x. Ga 4,46...).
Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới cộng đoàn những người đạo đức, để tiếp xúc và giới thiệu ơn cứu độ với người tội lỗi, là loại người thời đó bi cộng đoàn có đạo khai trừ. Đó là trường hợp Ngài trò chuyện với người phụ nữ Samarita có 5 đời chồng, và đã làm cho phụ nữ đó trở nên kẻ loan báo Tin Mừng (x. Ga 4,5...).
Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới những người khỏe mạnh, để chữa người bệnh tật lâu năm là thứ người bị xã hội bỏ rơi. Đó là trường hợp Đức Kitô chữa người bất toại nằm ở bờ giếng Bezatha, cạnh đền thờ (x. Ga 5,4-9).
Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới những quan niệm hẹp hòi về việc giữ đạo, để mở ra một lối sống đạo thông thoáng có chất lượng thực sự. Đó là trường hợp Đức Kitô cho biết phải lo thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, hơn là thờ phượng Chúa ở nơi này chỗ nọ (x. Ga 4,23). Và trường hợp Đức Kitô cho biết cần phải coi việc cứu một người bệnh tật 38 năm là việc cần thực hiện hơn luật kiêng việc ngày Sabba (x. Ga 5,16...).
Khi suy nghĩ sự Đức Kitô đề cao bổn phận yêu thương phục vụ trên đây, tôi đã nghĩ đến các họ đạo nói chung và họ đạo Bò Ót này nói riêng.
Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn có tổ chức chặt chẽ, thì tôi vui mừng. Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn, nếu họ đạo anh chị em được khen là một cộng đoàn có tình yêu thương chan hòa, phục vụ dấn thân.
Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn những lễ lạy phượng tự đẹp, thì tôi vui mừng. Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn nếu họ đạo anh chị em được khen là một cộng đoàn có nhiều nghĩa cử đẹp đầy nhân ái đối với những loại người bị dư luận loại trừ.
Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn siêng năng đông đảo đến nhà thờ dự lễ đọc kinh, học hỏi giáo lý, thì tôi vui mừng; Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn, nếu anh chị em được khen là một cộng đoàn biết ra đi chia sẻ Tin Mừng, để giúp cho mọi người xung quanh nhận ra rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, họ có khả năng yêu mến, họ có khả năng phấn đấu, họ có khả năng hiểu biết những chân lý cứu độ.
Sở dĩ tôi chia sẻ với anh chị em những suy nghĩ trên đây, chính vì tôi đã gặp được nhiều người công giáo sống đạo như thế. Gặp họ, tôi có cảm tưởng là gặp được những ngọn lửa đức ái, những ngọn lửa phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, những ngọn lửa được đốt lên do Chúa Thánh Linh, để thanh luyện và đào tạo chúng ta trở nên xứng đáng người con của Thiên Chúa là Cha giàu tình yêu thương xót. Gặp họ, tôi có xác tín này là họ sống theo đúng thánh ý Chúa, biết vượt qua chính mình, biết chấp nhận thánh giá biết từ bỏ mình, để làm chứng cho Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô trong hoàn cảnh hiện nay.
Tôi hy vọng, khi gặp anh chị em, tôi cũng sẽ có những cảm tưởng và xác tín như thế.
Tin bà cố Têrêxa qua đời đã làm cho chúng ta xúc động, chính vì thế mà chúng ta hôm nay tụ Bùi-Tuần 2289
Tin bà cố Têrêxa qua đời đã làm cho chúng ta xúc động, chính vì thế mà chúng ta hôm nay tụ họp nơi đây. Sự qui tụ đông đảo này là một dấu chỉ của mối tình liên đới chúng ta đối với gia đình ông cố nói chung, và đối với hai cha Hoà - Tâm nói riêng. Sự hiện diện thân thương của nhiều giới trong thánh lễ hôm nay cũng là một cách biểu dương công khai những giá trị cao đẹp của cuộc sống bà cố Têrêxa. Những giá trị cao đẹp ấy sẽ không được tôi cắt nghĩa là do bà cố có hai người con làm linh mục, nhưng được tôi hiểu là do sự bà cố biết góp phần đau khổ vào chương trình cứu độ của Đức Kitô.
Như chúng ta đã biết, Đức Kitô cứu độ nhân loại không phải chỉ bằng những lời rao giảng, bằng việc thiết lập các bí tích, bằng những phép lạ cứu độ những người cùng khổ, mà còn bằng những khổ đau, những túng thiếu và thánh giá của Ngài. Đức Kitô suốt đời đã sống cuộc đời túng nghèo vất vả, những ngày bất ổn nay đây mai đó, và sau cùng phải vác thánh giá trên vai lên núi sọ để chịu đóng đinh vào thập giá. Con đường cứu độ mà Đức Kitô đã đi là như thế đó. Những ai muốn đón nhận ơn cứu độ cũng phải phần nào như lễ vật. Những người cộng tác vào chương trình cứu độ của Đức Kitô, cũng phần nào phải như thế. Có nghĩa là sự đau khổ, sự túng thiếu, sự từ bỏ mình, sự vác thánh giá, đó là điều kiện không thể thiếu trong chương trình ơn cứu độ. Có điều kiện đó thì kết quả ơn cứu độ có thể thấy ngay được ở đời này, trước khi được trao ban vĩnh viễn ở đời sau.
Tôi vừa nói là nếu có điều kiện về mầu nhiệm thánh giá thì kết quả ơn cứu độ có thể thấy ngay được ở đời này. Kinh nghiệm mục vụ của tôi, của các cha và những người cộng tác với chúng tôi làm chứng điều đó. Biết bao lần sự gần gũi với những người túng nghèo, bệnh tật hay là lâu ngày phải chịu khổ sở, đã giúp xây dựng đời sống thiêng liêng cho những người đầy đủ, cho những người khoẻ mạnh, trong đó có các tu sĩ, linh mục, giám mục chúng tôi. Bởi vì những người đó đã trình bày một cách chân thành cái thân phận thực sự của con người: Đó là sự yếu đuối, sự thiếu thốn về đủ mọi mặt, sự cô đơn, sự cần những người khác giúp đỡ. Khi tiếp cận với những sự thật rất thực đó, chúng tôi, nhờ ơn Chúa, đã suy nghĩ một cách khiêm tốn về thân phận mình, để rồi trở về với Chúa, và nhờ ơn Chúa mở lòng, biết mở lòng ra cảm thương những người chung quanh mình.
Biết bao lần khi chứng kiến những giây phút hấp hối, chúng tôi đã càng thấy rằng: Nhiều người nhờ thánh giá, đã được tái sinh một cách trọn vẹn vào đời sống mới. Thánh giá đã đổi mới tâm hồn họ. Thánh giá đã trở nên cây gậy họ huy hoàng để bước vào cõi sau. Khi gần gũi với những người đau bệnh, chúng tôi thấy một điều này là: Thường người ta hay nói: Sống lành thì chết lành, sống dữ thì chết dữ. Câu đó không luôn là đúng, bởi vì tôi đã thấy rất nhiều người sống dư, nhưng sau cùng, đã trở nên chết lành nhờ ơn thánh Chúa, ơn thánh rất mạnh do những người đó đã khiêm tốn chấp nhận thánh giá trong giây phút cuối cùng.
Rồi biết bao lần đứng bên người sắp chết, nhìn họ với cái nhìn của họ, nhìn sâu vào đôi mắt của họ, tôi đã thấy chiều sâu của tâm hồn họ, trong cái chiều sâu đó toát ra sự êm dịu, sự bình an tâm hồn, sự phó thác vô biên và niềm xác tín về lời Chúa dạy: “Chỉ có một sự là cần thiết, nếu được mọi sự thế gian này mà mất linh hồn mình thì được ích gì!”
Với những suy nghĩ trên đây, chúng ta nhìn vào cuộc đời bà cố, tôi thấy bà cố với cuộc sống túng nghèo vất vả, và những ngày cuối đời đầy đau khổ do bệnh nặng gây nên, bà cố đã vẽ ra con đường cứu độ của Đức Kitô, đó là những con đường phải đi, để giúp cho các linh mục, để giúp cho những người môn đệ của Đức Kitô đang làm sứ mạng cứu độ phải nhận thức rằng: Không thể nào cứu độ người khác mà không góp phần đau khổ, từ bỏ mình.
Cuộc đời bà cố, nhất là những ngày cuối cùng của bà cố đã là những lời nguyện sống động mà chúng ta thường hát lên, đó là: Lạy Chúa xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài. Đó là những lời chúng ta thường hát lên, nhưng bà cố sống lời cầu đó trong đời sống của mình, nhất là trong những năm tháng cuối đời.
Và có thể nói, cái chết cũng như sự sống của người con Chúa, túng nghèo, vất vả, đớn đau cũng vẽ nên hình ảnh Đức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, mà chúng ta vừa nghe lúc nãy trong bài Phúc Âm. Khổ đau, cô đơn, tất cả những cái đó vì phần rỗi nhân loại. Nếu đúng là như vậy thì chúng ta thấy thánh giá khổ đau chính là một hồng ân. Và nếu đúng là như vậy, thì thánh lễ hôm nay vừa là một thánh lễ cầu nguyện cho linh hồn Têrêxa, vừa là một thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa, và đồng thời cũng là một thánh lễ nhắc nhủ cho chúng ta về mầu nhiệm thánh giá. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì thánh lễ hôm nay, giờ phút này cũng sẽ là dịp chúng ta đón nhận Chúa Kitô đến viếng thăm chúng ta.
Xin Chúa Kitô ở giữa chúng ta. Xin Chúa Kitô thương yêu chúng ta. Xin Chúa Kitô giúp chúng ta biết yêu mến thánh giá của Người. Amen.
Lễ an táng Bà Cố Têrêxa- thân mẫu Cha Phạm Thế Hòa & Cha Phạm Minh Tâm, Thạnh An, ngày 15/7/1998
Trong cuộc sống tự nhiên, lương thực là vấn đề rất quan trọng. Nghĩa là phải có lương thực, phải Bùi-Tuần 2290
Trong cuộc sống tự nhiên, lương thực là vấn đề rất quan trọng. Nghĩa là phải có lương thực, phải dùng lương thực thì cuộc sống mới tồn tại và phát triển được. Cũng vậy, trong đời sống thiêng liêng, vấn đề lương thực cũng rất quan trọng. Nghĩa là phải có lương thực thiêng liêng, phải biết dùng lương thực thiêng liêng thì cuộc sống thiêng liêng mới tồn tại, mới phát triển được.
Vậy, trong đời sống thiêng liêng thì lương thực gồm những thứ gì? Theo chỉ dẫn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, lương thực thiêng liêng cốt yếu gồm ba điều này:
Một là Lời Chúa được ghi trong Kinh Thánh. Chúa nói: Lời Ta là lời ban sự sống. Nghĩa là ai năng đọc, suy gẫm Lời Chúa thì Lời Chúa sẽ trở thành lương thực nuôi dưỡng đời đống thiêng liêng của kẻ đó.
Lương thực thứ hai cũng được Đức Kitô chỉ dẫn trong Phúc Âm, đó là phép Mình Thánh. Chúa dạy: Ai ăn và uống Mình Máu thánh Ta, thì kẻ đó sẽ được sống đời đời. Như vậy là rất rõ.
Còn lương thực thứ ba cũng được Đức Kitô nói rõ trong Phúc Âm, đó là tuân phục thánh ý Chúa. Lương thực của Ta là làm theo ý Cha Ta. Điều này Đức Kitô đã nhấn mạnh nhiều lần và trong bài Phúc Âm hôm nay, một lần nữa Đức Kitô đề cao sự tuân phục ý Cha trên trời. Hôm nay Ngài không nói là ý Cha trên trời là lương thực nuôi dưỡng chúng ta, mà Ngài còn nói đó là máu huyết làm cho chúng ta trở nên họ hàng, bà con với Ngài. Chúa phán: Những ai làm theo ý Cha Ta trên trời, họ là cha mẹ, là anh chị em của Ta. Như vậy đã rõ: chúng ta muốn bảo tồn và phát triển đời sống thiêng liêng thì phải năng suy gẫm Lời Chúa, phải năng lui tới phép Mình Thánh, nhất là phải để ý tuân phục thánh ý Chúa.
Khi suy gẫm về sự tuân phục thánh ý Chúa, tôi tự hỏi: Nó là cái gì đây? Mình làm thế nào thì được gọi là sống theo ý Chúa? Nó gồm nhiều điều, nhưng mà một điều rất căn bản, đó là sống khiêm nhường.
Đêm vừa rồi, tôi đọc sách đạo đức để suy gẫm dọn mình làm lễ hôm nay, tôi gặp một câu trích lại lời người xưa, phê phán một số nữ tu quí tộc thời Trung cổ. Lời phê phán đó là: Các bà trinh khiết như thiên thần nhưng lại kiêu căng như ma quỉ. Trinh khiết là một điều rất tốt, hợp ý Chúa, rất đáng khen. Nhưng kiêu căng vì trinh khiết là một điều xấu xa, là một điều đáng chê trách, và không hợp ý Chúa. Từ phán đoán đó, tác giả dẫn chúng ta đến câu kết luận là phải sống khiêm nhường. Bất cứ ai, bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào, luôn luôn phải sống khiêm nhường. Khi mình thấy mình tội lỗi thì tất nhiên phải sống khiêm nhường. Khi thấy mình sạch tội thì càng phải sống khiêm nhường. Khi thấy mình thất bại tất nhiên phải sống khiêm nhường. Nhưng khi thấy mình thành công bất cứ về phương diện nào thì càng phải sống khiêm nhường. Khiêm nhường là nền tảng đời sống thiêng liêng. Khiêm nhường, đó là thánh ý Chúa muốn. Một khi xác nhận cái giá trị của khiêm nhường như thế. Một khi nhận định sống khiêm nhường là sống theo thánh ý Chúa, chúng ta phải dấn thân vào hướng đó.
Thời nay, khi nói dấn thân, chúng ta thường hiểu theo hướng làm việc từ thiện xã hội, giúp đỡ người nghèo, chia sẻ của cải cho những người không có vv.. Hiểu theo nghĩa đó, sống theo hướng đó là rất tốt, nhưng đồng thời chúng ta đừng quên là phải dấn thân theo hướng xây dựng đời sống khiêm nhường. Bởi vì, rất có thể khi chúng ta thành công thì lại là dịp chúng ta sẽ mất tất cả, bởi vì chúng ta thiếu khiêm nhường. Đang khi dù có thất bại, nếu khiêm nhường thì Chúa sẽ giải quyết tất cả thay cho chúng ta.
Với những suy nghĩ trên đây, tôi nhìn họ đạo Tân Lập của anh chị em, tôi tự hỏi: Anh chị em có dấn thân cho vấn đề bác ái không? Và tôi thấy có. Họ đạo của anh chị em dấn thân cho vấn đề chung, cho vấn đề nâng đỡ lẫn nhau, cho vấn đề nâng cao cuộc sống. Và tôi lại hỏi: Anh chị em có dấn thân cho việc sống khiêm nhường không? Tôi thấy có. Anh chị em sống khiêm nhường thực sự. Hoàn cảnh giúp cho anh chị em sống khiêm nhường. Biết mình nghèo túng, biết mình thiếu thốn, biết mình chẳng có thể ví được những ai cho nên khiêm tốn. Tôi nghĩ rằng sống khiêm nhường, sống bác ái, đó là hai vẻ đẹp giúp cho họ đạo anh chị em nói chung và từng gia đình, từng cá nhân anh chị em nói riêng trở nên những người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Tôi nhìn lịch sử thì thấy rằng: Những phát triển bề ngoài về vật chất có thể là rất tốt trong một thời điểm, nhưng cũng có thể suy sụp trong một thời điểm khác. Trái lại, khi nào chúng ta có bác ái, khi nào chúng ta có khiêm nhường, thì hai vẻ đẹp đó luôn luôn tồn tại và sẽ là một hướng dẫn chúng ta về Nước Trời. Tôi nói như vậy để xin anh chị em phát triển theo hướng dẫn trong đó, dấn thân cho bác ái, dấn thân theo khiêm nhường. Và dù hoàn cảnh sau này có xảy ra những sự làm cho chúng ta bỡ ngỡ vì sụp đổ, vì thiếu thốn đàng này đàng khác, nhưng chúng ta bảo tồn được hai giá trị Phúc Âm đó, và tin vào Chúa, thì Chúa sẽ làm tất cả thay cho chúng ta. Chúng ta đừng quên, trong Phúc Âm, khi từng ngàn người đói khổ, chỉ có năm chiếc bánh, chỉ có hai con cá mà Chúa làm phép lạ để nuôi dưỡng bằng ấy người. Đối với Chúa, không có gì khó cả, nghĩa là chúng ta thương yêu nhau, nghĩa là chúng ta khiêm tốn đừng tự cao tự phụ. Hãy phó thác nơi Chúa, nhất là trong hoàn cảnh thiếu thốn, trong đường cùng không biết bám víu vào ai, hoàn toàn cậy trông vào Chúa.
Xứ của anh chị em đã nhận thánh Giuse làm quan thầy. Thánh Giuse luôn luôn phục vụ, suốt đời phục vụ. Thánh Giuse luôn luôn khiêm tốn, suốt đời khiêm tốn. Hãy bắt chước thánh Giuse, bác ái, khiêm nhường và phó thác nơi Chúa. Có như vậy, chắc chắn chúng ta đi đúng đường sống đạo. Rồi cộng với sự chúng ta năng học hỏi Lời Chúa, sự chúng ta năng lui tới bàn thánh, thì chúng ta đạt được hạnh phúc, không phải đời sau, mà ngay từ bây giờ.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta nhớ những điều mà Chúa nhắn gởi chúng ta hôm nay, để chúng ta dùng nó như là lương thực giúp chúng ta sống một cách thiêng liêng, trong những hoàn cảnh đầy biến chuyển. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: Phúc cho mắt các con, vì đã được thấy những sư Bùi-Tuần 2291
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: Phúc cho mắt các con, vì đã được thấy những sư lạ lùng. Phúc cho tai các con, vì đã được nghe những điều kỳ diệu. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu đã xác định ngay rằng: Không phải mọi người đã được như các con. Sở dĩ mắt các con thấy được những điều lạ lùng, là vì Chúa đã mở mắt các con ra. Sở dĩ tai các con nghe được những điều kỳ diệu, là vì Chúa đã mở tai các con ra.
Sự Chúa Giêsu xác định trên đây soi sáng cho chúng ta thấy một chân lý này, đó là: Để nhìn thấy được Chúa và những sự kỳ diệu của Chúa thì mắt chúng ta cần phải có được ơn Chúa. Để tai chúng ta có thể nghe được bước chân Chúa đến với chúng ta và hiểu được sứ điệp của Chúa gởi cho chúng ta thì chúng ta cần phải có ơn của Chúa ban. Để hiểu được Chúa là kho tàng, là hạnh phúc của ta và những mầu nhiệm về đức tin thì trí khôn chúng ta cần phải có ơn riêng của Chúa. Và nhất là để biết yêu mến Chúa và yêu mến sự Chúa muốn thì trái tim chúng ta cần phải có ơn thánh Chúa giúp. Như vậy, tất nhiên câu hỏi phải đặt ra là: Nếu cần phải có ơn Chúa giúp thì mới thấy được rõ, mới nghe được đúng, mới hiểu được chân ly, mới biết yêu thương thì làm sao bây giờ có thể được những ơn đó. Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: Muốn được ơn Chúa cần phải cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện bền vững. Hãy cầu nguyện, đó là điều chúng ta thường nghe trong các bài giảng, trong các lời khuyên, trong các lớp giáo lý. Nhưng hôm nay, tôi xin được phép nhấn mạnh đến việc đó.
Sở dĩ tôi nhấn mạnh đến sự cầu nguyện hôm nay, là vì tôi thấy thời nay xem ra có nhiều người mắc chứng bệnh mù thiêng liêng, mắc chứng bệnh điếc thiêng liêng, mắc chứng bệnh chai lì thiêng liêng, mắc chứng bệnh liệt thiêng liêng. Nhìn nghe học mà không hiểu những sự Chúa muốn dạy mình.
Ngoài ra, tôi muốn nhấn mạnh đến sự cầu nguyện hôm nay, vì tôi có cảm tưởng chúng ta sắp đi vào một thời điểm có nhiều khó khăn mới. Sẽ có những khó khăn khó lòng vượt qua, không thể vượt qua, nhưng với những người cậy trông, cầu nguyện nơi Chúa, Chúa sẽ cho vượt qua và sẽ cho họ hạnh phúc hơn là họ mong muốn.
Ngoài ra, tôi muốn nhấn mạnh hôm nay đến sự cầu nguyện, vì tôi thấy hoàn cảnh bây giờ, nhất là ở Tân Châu, Kinh Sáng, Châu Đốc, Phú Vĩnh vv... những nơi mà chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Đức Kitô bằng đời sống mà thôi. Một đời sống của chúng ta được đổi mới do sự cầu nguyện, làm chứng cho Đức Kitô qua con người của chúng ta được đổi mới do sự cầu nguyện. Cầu nguyện để có những ứng xử khác, có những phán đoán khác, có cái nhìn khác do sự cầu nguyện.
Và sau cùng, hôm nay tôi muốn nhấn mạnh đến sự cầu nguyện, bởi vì tôi nhớ đến cha cố Martinô. Chính ngài đã dạy anh chị em về sự cầu nguyện. Chính ngài nhiều khi cũng nhắc cho tôi về sự cầu nguyện. Và sự cầu nguyện ấy đã đem lại rất nhiều kết quả cho chính ngài, cho họ đạo của ngài, cho các bạn bè gia đình thân thiết của ngài. Tôi mới đọc một cuốn sách về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Họ kể lại: Trong những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh rất đau đớn, Têrêxa đã nói một câu mà bây giờ trở thành thành ngữ: tất cả đều là hồng ân Thiên Chúa. Trong khổ đau mà nhìn tất cả là hồng ân, bởi vì Têrêxa có một tâm hồn cầu nguyện. Tôi mới đọc một chuyện về một linh mục già đi hưu. Ngài ở một chỗ cô quạnh, sống nghèo, cô đơn. Đến khi hấp hối, nhờ người đi đón một linh mục để ngài xưng tội, rước lễ và chịu phép xức dầu, nhưng tìm không ra một linh mục nào gần đó. Và trước khi ngài chết, hầu như không gặp được linh mục. Ngài đã nói một câu trở thành bất hủ: tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Tại sao một người trong cảnh cô đơn, bị bỏ rơi như vậy, tìm một linh mục trong giờ hấp hối mà không có, lại tạ ơn Chúa tất cả đều là hồng ân? Bởi vì, linh mục đó sống đời cầu nguyện, cho nên nhìn thấy Chúa đến với mình qua những khổ đau, qua sự cô đơn, qua những thất bại.
Khi nhìn những câu chuyện đó hoặc qua những kinh nghiệm mục vụ hằng ngày về những người cầu nguyện, tôi thấy ứng nghiệm lời Đức Kitô đã dạy xưa: “Chúng con hãy cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện bền vững. Và khi cầu nguyện các con hãy vào trong phòng mình, đóng kín lại, nói với Cha trên trời. Ngài thấy hết mọi sự, nhìn trong thâm tâm bí ẩn và Cha chúng con sẽ trả đáp những sự chúng con cầu nguyện”.
Tôi có kinh nghiệm đúng là như vậy. Khi chúng ta cầu nguyện, nếu đến được trong nhà thờ thì cũng tốt, nhưng căn bản là chúng ta vào trong tâm hồn mình như phòng kín, rồi trong đó chúng ta tâm sự với Chúa là Cha. Ngài ở đó, Ngài lắng nghe tâm sự con cái của Ngài, và Ngài thấy tất cả nhu cầu của chúng ta, Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta như Ngài mong muốn. Hãy bắt chước Đức Kitô cầu nguyện khắp nơi, cầu nguyện liên lỉ, và lời Ngài xin luôn luôn khi cầu nguyện là xin cho con luôn theo thánh ý của Cha.
Có thế thôi. Nếu chúng ta cầu xin như vậy một cách kiên trì, chân thành, khiêm tốn, thì dù chúng ta có thể đến nhà thờ được hay không thể đến nhà thờ cầu nguyện, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Và Chúa sẽ mở mắt chúng ta ra, mở tai chúng ta ra, mở trí khôn chúng ta ra, mở trái tim chúng ta ra, và ơn quan trọng nhất, lúc bấy giờ, là Chúa cho chúng ta gặp được Đức Kitô. Và khi đã gặp được Đức Kitô, thấy dung mạo của Ngài, chúng ta thấy, chúng ta khám phá thấy một kho tàng vô giá, không gì sánh được với dung mạo Đức Kitô.
Tất cả, nếu so sánh với Ngài thì sẽ trở thành phù du. Cho nên dù đau đớn, dù vất vả, dù đầy đắng cay, nếu gặp được Đức Kitô là Đấng cứu độ, chúng ta sẽ thấy an tâm và có thể nói: tất cả đều là hồng ân. Ngài đến với tôi qua những may mắn thành công. Ngài đến với tôi qua những rủi ro thất bại. Tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Tôi thấy ở đây nhà thờ đẹp, Phú Vĩnh cũng có nhà thờ đẹp, những nơi cộng đồng để cầu nguyện. Tôi rất mừng vì những thành công đó. Nhưng điều mà tôi mừng hơn hết, là khi thấy anh chị em có những nét mặt cầu nguyện. Và nhờ cầu nguyện, tôi nhìn thấy một cái gì nó toả ra của đức tin. Và dù anh chị em ở nhà thờ hay về gia đình, đi làm các công sở nơi này nơi nọ, chính anh chị em sẽ là đền thờ của Chúa Thánh Linh. Anh chị em sẽ đổi mới chính mình, sẽ làm chứng cho Chúa cũng do sự cầu nguyện liên lỉ.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin các phụ huynh để ý đến việc dạy con cháu mình cầu nguyện. Cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng. Như Đức Kitô dạy. Khi cầu nguyện, đi vào thâm sâu lòng mình, nói với Chúa chân thành, khiêm tốn, xin vâng phục thánh ý Cha, phó thác mọi sự nơi Cha, rồi sẽ thấy đời mình rất là an bình, và rất chắc chắn đi trên con đường cứu độ. Dạy con chúng ta biết cầu nguyện, đó là chìa khóa mở cửa thành công cho cuộc đời con cháu chúng ta.
Xin Chúa Thánh Linh, Đấng ban ơn và đổi mới chúng ta, xin đổi mới chúng ta qua ơn đầu tiên là biết cầu nguyện, thích cầu nguyện, siêng năng cầu nguyện, để từ đó chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa cứu độ, Đấng đổi mới lại tất cả mọi sự trong ngoài chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức tại Tân Châu và giỗ mãn tang Cha Thạch, ngày 23/7/1998
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như hạt cải, như tấm men. Đọc dụ ngôn Bùi-Tuần 2292
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như hạt cải, như tấm men. Đọc dụ ngôn trên đây, tôi đã cầu xin Chúa soi sáng, để áp dụng dụ ngôn này trong hoàn cảnh Việt Nam hôm nay. Và tôi thấy đại khái thế này:
Trước hết sống đạo là phải phát triển Nước Trời cho chính bản thân mình. Nước Trời là Tin Mừng Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thiên Chúa cứu chuộc chúng ta. Thiên Chúa muốn thiết lập một nền văn minh tình yêu trên thế giới, để mọi người sống chan hoà tình yêu thương. (...) Tin Mừng đó đơn sơ như tấm men, nhưng mang trong mình một sức mạnh biến đổi, để khi hoà tan vào bột có thể làm cho bột trở nên miếng bánh thơm ngon. Cần phải phát triển hạt giống Tin Mừng. Cần phải phát triển tấm men Tin Mừng trong chính bản thân ta. Phát triển bằng nhiều cách, nhưng đặc biệt là chúng ta phải tìm đến những lương thực mà Chúa đã chỉ.
Trong Phúc Âm Chúa nói về ba lương thực cần thiết: một là Lời Chúa. Lời Ta là lời ban sự sống. Học hỏi lời Chúa. Suy niệm lời Chúa. Cầu nguyện trên lời Chúa. Những cái đó sẽ là lương thực để cho hạt giống Tin Mừng lớn lên, và tấm men Tin Mừng phát triển.
Lương thực Tin Mừng thứ hai là phép Mình Thánh. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta năng đến nhà thờ chịu Mình Thánh, chầu Mình Thánh, cầu nguyện trước Thánh Thể, Thánh Thể sẽ trở nên lương thực làm hạt giống và tấm men Tin Mừng trong ta được phát triển.
Lương thực thứ ba là thực thi ý Chúa. Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Thánh ý Chúa rõ ràng nhất là chúng ta làm đúng Lời mà Chúa trao cho chúng ta. Khi chúng ta dùng lương thực đó cho chính bản thân thì hạt giống Tin Mừng trước đây bé nhỏ sẽ mọc lên thành một cây sức sống, cây của Tin Mừng. Và làm cho tấm men đơn sơ trong ta hoà tan vào sự sống, biến đổi cái nhìn của ta, biến đổi cách suy nghĩ của ta, biến đổi tình yêu của ta, biến đổi ước muốn của ta dần dần giống như hình ảnh của Đức Kitô. Hãy phát triển Nước Trời là phát triển Tin Mừng trong chính bản thân ta, đó là yêu cầu thứ nhất.
Yêu cầu thứ hai Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta là sống đạo thì cần phải phát triển Nước Trời, tức là Tin Mừng tình yêu trong gia đình, trong họ đạo, trong kênh của chúng ta. Nhưng ngày nay, Chúa nhấn mạnh đến điều sau đây đó là biết sống chung. Làm sao để đời sống chúng ta ở trong họ đạo này, ở trong kênh trở thành gương sáng về sự sống chung. Biết nhìn nhau bằng sự kính trọng, bao dung. Biết góp phần làm việc chung với nhau trong tương quan tôn kính và yêu thương. Tôi thấy nhiều xứ đạo có nhiều giáo dân rất tốt, ngoài việc bổn phận trong gia đình thì lại tham gia nhiều việc trong nhà thờ, nhà xứ, ngoài ra còn có đi thăm những người nghèo túng, cô đơn trong cộng đoàn xứ đạo. Và có những gương sáng tham gia vào những nhóm cầu nguyện, nhóm tình nguyện bác ái. Đó là phát triển Nước Trời, phát triển tình yêu trong giáo xứ, trong kênh của chúng ta.
Con người sống đạo là phải phát triển Nước Trời, là Tin Mừng tình yêu trong địa phương, trong xã hội, Đất Nước chúng ta. Bằng tất cả những cái gì chúng ta có thể phục vụ con người, nâng cao đời sống xã hội. Mấy hôm nay trên đài truyền hình, tôi nhìn thấy hình ảnh một số người dấn thân chăm lo cho những người đau bệnh, già lão, cô đơn…… giúp cho dân tộc mình tiến lên về kinh tế văn hoá. Khi nhìn những người đó, tôi có cảm tưởng rằng: họ lo phục vụ đời sống trên Đất Nước của họ, họ cũng là một thứ xây dựng Nước Trời….
Đầu lễ ông đại diện Hội đồng Giáo xứ có nói là cầu chúc cho tôi, cho các cha được sáng suốt, không ngoan trong việc dẫn đưa đoàn chiên. Tôi cũng dựa vào lời đó để cầu chúc cho xứ đạo anh chị em: hãy biết phát triển nước trời một cách sáng suốt, khôn ngoan.
Có những việc hôm qua nên làm nhưng hôm nay là nên đừng làm. Phải sáng suốt khôn ngoan, có những việc tưởng là ta thực hiện theo sự khôn ngoan. Không phải thế đâu, bởi vì hoàn cảnh đó, chẳng hạn như lễ hôm nay tôi nhận thấy anh chị em tổ chức đơn sơ nhưng có chất lượng. Sáng suốt khôn ngoan trong vấn đề phát triển nước trời, phát triển tình yêu. Tôi nghĩ rằng: những phát triển của anh chị em về tinh thần nhà thờ đẹp, nhà xứ đẹp, khuôn viên nhà thờ với môi trường khác nhau, tất cả đều là phát triển tốt, nhưng với thời gian có thể những phát triển này sẽ lịu tàn đi. Nhưng đang khi đó bản thân ta có sự phát triển nước trời là phát triển tình yêu đối với chúa, đối với con người thì những giá trị đó sẽ rất tồn tại và sẽ luôn làm cho chúng ta trở nên những con người mới. Xin Chúa Thánh Thần trong thánh lễ hôm nay giúp cho chúng ta và con em chúng ta biết phát triển nước trời một cách khôn ngoan sáng suốt. Amen.
Họ đạo Vàm Cống là cộng đoàn nhỏ, nhưng khi nhìn cộng đoàn nhỏ này như là một chi thể của Bùi-Tuần 2293
Họ đạo Vàm Cống là cộng đoàn nhỏ, nhưng khi nhìn cộng đoàn nhỏ này như là một chi thể của Hội Thánh Đức Kitô, tôi thấy họ đạo anh chị em tuy nhỏ bé, nhưng vẫn mang những yếu tố siêu nhiên phong phú để có thể vui mừng và hy vọng.
Thật vậy, trong tư cách là thành phần của Hội Thánh Đức Kitô, họ đạo anh chị em luôn có Đức Kitô hiện diện. Ngài hiện diện giữa anh chị em như một Đấng phục sinh. Và cùng với Đức Kitô phục sinh, tất cả Hội Thánh trên trời, Đức Mẹ, các thánh cũng thường xuyên xuống họ đạo này để giúp cho họ đạo có một đời sống đạo đức tốt đẹp, và vững bước đi về tương lai.
Khi nhìn anh chị em như vậy, tôi tạ ơn Chúa, và muốn rằng: Tất cả anh chị em trong họ đạo, dù trong hoàn cảnh nào hãy biết sống đạo trong tâm tình ca ngợi, tạ ơn Thiên Chúa. Bởi vì anh chị em thuộc về Đức Kitô phục sinh, bởi vì anh chị em là chi thể của Hội Thánh Đức Kitô. Khi ý thức mình được yêu thương cách đặc biệt như vậy, chúng ta cũng nhận thức chúng ta được sai đi để làm chứng cho Nước Trời trong địa phương này. Làm chứng cho Nước Trời, đó là một sứ mạng đầy vinh dự Chúa trao cho chúng ta, họ đạo chúng ta, gia đình chúng ta, cá nhân chúng ta.
Chúng ta sẽ thực hiện sứ mạng đầy vinh dự đó thế nào? Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho tôi là: Chúng ta có thể làm chứng cho Nước Trời bằng việc sau đây. Việc đó là: Mỗi người chúng ta hãy sống như một chiếc lưới thiêng liêng. Sống như một chiếc lưới thiêng liêng có nghĩa là: mỗi người chúng ta hãy cố gắng nắm bắt thực nhiều ơn thánh. Hãy cố gắng đón nhận thực nhiều ơn Chúa. Ơn Chúa được trao ban, có khi từ những việc tôn giáo thuần tuý như là cầu nguyện, lui tới các bí tích, học giáo lý, suy niệm Lời Chúa. Chúa ban ơn nhưng chúng ta phải nắm bắt, chúng ta phải đón nhận. Rồi có những ơn Chúa ban cho chúng ta từ những sinh hoạt bình thường của đời thường, như việc học hành, như việc làm ăn, như việc tiếp xúc, như việc đọc sách, theo dõi tin tức trên đài truyền hình, truyền thanh vv... Những cái đó cũng có ơn Chúa ở trong, nhưng chúng ta cần phải nắm bắt, chúng ta cần phải đón nhận.
Rồi có những ơn Chúa được trao ban cho chúng ta qua con đường thánh giá mệt mỏi, thất bại, khổ đau. Đó cũng là những con đường Chúa dùng để ban ơn thánh cho ta, nhưng chúng ta cần phải nắm bắt, cần phải đón nhận. Khi chúng ta đón nhận ơn Chúa, chúng ta cần phải làm sao có một sự thao thức đi gặp Chúa, cần phải có một lòng khát khao khám phá ra ơn lành của Chúa, và có một sự mong đợi say sưa để biết thánh danh Chúa, ý Chúa, và tin vào ý Chúa. Thao thức đó, cái say sưa đó, khao khát đó, mong chờ đó chính như là lưới để chúng ta đón nhận ơn thánh Chúa.
Khi chúng ta được nhiều ơn thánh, ơn thánh sẽ biến đổi chúng ta từ bên trong, ơn thánh sẽ thánh hoá chúng ta trong mọi lãnh vực con người chúng ta, từ những giá trị nhân bản, đến những tư tưởng trong trí khôn, đến những tình cảm trong trái tim, đến ước muốn trong ý chí vv... Ơn Chúa thánh hoá tất cả, để rồi khi chúng ta sống giữa đời thường, con người chúng ta trở nên tạo vật mới và có thể toả ra một cách tự nhiên hương thơm phảng phất của sự thánh thiện, là đời sống người con Thiên Chúa. Và nhờ đó sẽ gợi lên, cho những người chúng ta gặp chung quanh nhìn thấy ta, một câu hỏi về Thiên Chúa trong chúng ta. Người ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa ở trong ta, Thiên Chúa hoạt động trong ta, Thiên Chúa là hạnh phúc, bình an của ta. Và như vậy, chúng ta sẽ trở nên một chiếc lưới thiêng liêng, để thu hút những người chung quanh suy nghĩ về Chúa, học hỏi về Chúa, hướng lòng về Chúa. Chúng ta sẽ là chiếc lưới, chiếc lưới của tình yêu Thiên Chúa.
Như vậy, sống như một chiếc lưới thiêng liêng, đó là một cách chúng ta làm chứng cho Nước Trời, chúng ta tự biến đổi mình nhờ ơn Chúa, chúng ta lôi kéo người khác về với Chúa một cách nhẹ nhàng, một cách dịu dàng, nhờ ơn Chúa, nhờ chiếc lưới tình thương của Chúa. Khi chúng ta chọn cách làm chứng cho Nước Trời như vậy, chúng ta thấy rằng: Đây là một lựa chọn rất thích hợp cho thời đại hôm nay, và chắc chắn là một việc đúng thánh ý Chúa.
Nhưng chúng ta đừng quên rằng: Lựa chọn thì dễ nhưng mà thực hiện cái lựa chọn đó không dễ chút nào. Tôi chỉ giới thiệu một chìa khoá mở ra cho chúng ta. Và con đường thực hiện sự lựa chọn đó, chìa khoá ấy là cầu nguyện, cầu nguyện thường xuyên, cầu nguyện hồn nhiên, cầu nguyện khắp nơi, cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho chúng ta có một ngọn lửa mới, có một thao thức mới, có một chân trời mới để chúng ta làm chứng cho Nước Trời giữa hoàn cảnh đầy chuyển biến hôm nay.
Khi tôi bước vào khu nhà thờ này, nhìn chung quanh thấy hai chữ và “Đây là nơi đào tạo những con người mới”,tôi mới nghĩ rằng: Bổn phận của chúng ta trong nhà thờ này, trong họ đạo cũng phải nhắm vào mục đích đào tạo những con người mới, con người sống như những chiếc lưới thiêng liêng, để làm chứng cho Nước Trời. Nếu chúng ta không nhắm vào mục đích tạo dựng con người mới nhờ ơn Thánh Linh, tôi sợ chúng ta sẽ tụt hậu, chúng ta sẽ lạc hậu về nhiều phương diện. Thời nay chỉ có cách làm chứng cho Chúa qua con người của ta, chứ không phải qua lễ lạy, xây dựng, tổ chức. Kể cả những công việc từ thiện, phải làm chứng cho Nước Trời bằng chính con người đổi mới của chúng ta. Con người sống như chiếc lưới thiêng liêng, đón nhận rất nhiều ơn Chúa, và nhờ đó thu hút người khác về với Chúa.
Hãy vui mừng vì ơn Chúa ban. Hãy hy vọng sẽ được ơn Chúa ban. Có như vậy chúng ta mới luôn đáp trả niềm hy vọng Chúa đặt nơi chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức tại Vàm Cống (Huyện Chợ Mới), ngày 30/7/1998
Xứ đạo Long Bình là một cộng đoàn được tiếng là có nề nếp, nề nếp trong những sinh hoạt tại Bùi-Tuần 2294
Xứ đạo Long Bình là một cộng đoàn được tiếng là có nề nếp, nề nếp trong những sinh hoạt tại nhà thờ, nề nếp trong cuộc sống gia đình, nề nếp trong cuộc sống xóm làng. Để có những nề nếp đó, phải có luật lệ và phải có những nhân sự thích hợp. Tất cả những cái đó đều nhắm vào một mục đích này là: ổn định trong trật tự.
Tôi gọi cái nếp sống nề nếp là một chiều kích cơ chế. Chiều kích cơ chế rất cần cho Hội Thánh nói chung, cho các họ đạo nói riêng. Ngoài chiều kích cơ chế đó, họ đạo Long Bình anh chị em còn có một cởi mở quan tâm đến những phong trào đạo đức. Những phong trào đạo đức này nó không thuộc về cơ chế, nhưng nó giúp cho họ đạo phát triển tinh thần cầu nguyện, phát triển tinh thần liên đới, phát triển tinh thần tình nghĩa, phát triển tinh thần trách nhiệm, phát triển tinh thần dấn thân. Những phong trào đạo đức đó, có thứ thì rộng, có loại thì nhỏ, và nhắm vào lợi ích đem ân sủng đến cho đoàn thể. Chính vì thế mà tôi gọi những phong trào đạo đức đó là một chiều kích đoàn sủng, đem ân sủng đến cho đoàn thể, chứ không phải chỉ riêng cho chính mình. Khi chúng ta biết đón nhận những phong trào đạo đức, thì đó cũng là một cách chúng ta xây dựng Hội Thánh, phát triển Hội Thánh.
Cuối năm vừa rồi, tại Rôma có một đại hội các phong trào đạo đức. Hầu như gần 50 phong trào khác nhau. Và nhân dịp này, Đức Thánh Cha đã công khai và chính thức khen ngợi những phong trào đạo đức, nhất là những phong trào đạo đức mới được phát lên. Ngài cho rằng: Đây là một dấu chỉ của Chúa Thánh Linh, để làm cho Hội Thánh sống động hơn, đổi mới đẹp hơn, dễ thích nghi hơn với thời đại mới.
Riêng tôi, khi nhìn thấy những phong trào đạo đức mới này, tôi thấy nguồn lực đổi mới trong Hội Thánh rất là phong phú, và cách thức đổi mới rất là đa dạng, và những kết quả đổi mới rất là bất ngờ. Nếu cẩn thận quan sát những phong trào đạo đức nói trên, tôi thấy các phong trào này chủ yếu là do giáo dân, có khi là chính giáo dân có sáng kiến thành lập những phong trào đó, và chính giáo dân tự đào tạo lấy mình, tự điều hành lấy mình, dưới sự hướng dẫn và tháp tùng của hàng giáo sĩ.
Khi nhìn thấy như vậy, tôi có cảm tưởng là: Đặc điểm của Hội Thánh thế kỷ XXI sẽ là Hội Thánh của những phong trào đạo đức mới. Hội Thánh của phong trào giáo dân đây là những dấu chỉ của thời đại. Và khi đã nhận định được hai dấu chỉ đó, và coi như là dấu chỉ Chúa dùng để đổi mới Hội Thánh, để phát triển Hội Thánh, để làm cho Hội Thánh có một sức sống mới, sức sống dồi dào hơn, có sức thuyết phục nhân loại hôm nay, thì vấn đề đặt ra là: Cần phải đào tạo huấn luyện những phong trào lớn, huấn luyện đào tạo giáo dân. Tôi nghĩ rằng khi nói về vấn đề hướng dẫn, đào tạo, hướng nghiệp các phong trào mới, phong trào giáo dân, thì chúng ta nghĩ ngay đến các tài liệu in sẵn, đến các kinh nghiệm đó đây. Điều đó là đúng thôi, nhưng có một điều chúng ta đừng quên trong vấn đề đào tạo, giáo dục các phong trào đạo đức, đó là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh. Hãy cầu nguyện liên lỉ, hãy cầu nguyện kiên trì, xin Thánh Thần Chúa chỉ dẫn đường lối chúng ta phải đi, vì đường lối của Chúa nhiều khi rất bất ngờ. Chúa không soi trước cho ta, chỉ đến lúc đó Chúa mới chỉ dẫn phải làm thế này, phải làm cách kia.
Lúc nãy, trong thánh lễ cộng đoàn đã hát: Xin chỉ cho con đường đi của Chúa. Và tôi nghĩ rằng đấy là một lời cầu xin, không phải chỉ hát lên hôm nay, mà phải hát lên suốt đời. Luôn luôn xin Chúa Thánh Thần soi đường chỉ lối, bởi vì mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi thời điểm có những thách đố mới, có những vần đề mới. Chúng ta cần phải được Chúa Thánh Thần soi dẫn, nhưng khi cầu nguyện như vậy, ta đừng quên cầu nguyện với thái độ khiêm tốn.
Thánh G.Baotixita, ngày hôm nay chúng ta nghe trong bài Phúc Âm, đã rất khiêm nhường. Ngài luôn luôn khiêm nhường. Tôi cần phải được bé nhỏ đi, để Đấng Kitô được lớn lên. Ngài bé nhỏ trong hoạt động, và sau cùng trong cái chết của Ngài, chết âm thầm, chết trong tù, để mọi người quên Ngài đi, để mọi người để ý hơn đến Đức Kitô đang rao giảng trong dân chúng.
Chúng ta cũng vậy, trong các phong trào đạo đức, phong trào bác ái Phúc Âm, phong trào chia sẻ Lời Chúa, phong trào đọc kinh liên gia vv... Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta, nhưng đừng quên cầu xin trong khiêm tốn, trong thầm lặng. Chúa Thánh Linh sẽ dẫn đưa chúng ta đến những kết quả tốt đẹp không lường trước được.
Lúc nãy, trong bài đọc thứ nhất chúng ta đã nghe Chúa phán và hứa là sẽ làm cho Hội Thánh có những sự lạ lùng bất ngờ và những cái đó Chúa chỉ dành cho những người tin vào Thiên Chúa. Cho nên, khi chúng ta biết ngoan ngoãn cầu xin Chúa Thánh Linh với tâm tình khiêm tốn, chúng ta có thể nói được như thánh G.Baotixita: Tôi thấy Thánh Thần Chúa ngự trên Ngài và vì thế tôi tin Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài, nhiều khi chúng ta cũng có thể nói được như vậy. Tôi thấy Thánh Thần Chúa đang ngự xuống họ đạo Long Bình. Tôi thấy Thánh Thần Chúa đang ngự xuống trên linh mục này, trên tu sĩ kia, trên giáo dân nọ. Thấy Thánh Thần xuống một cách nào đó, bởi vì những người đó khiêm tốn cầu nguyện và khiêm tốn tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy đi vào con đường mà Chúa muốn chúng ta đi trong thể kỷ XXI, thế kỷ của các phong trào đạo đức mới, thế kỷ của giáo dân, thế kỷ của Chúa Thánh Linh, thế kỷ của tình liên đới dành cho những người Chúa chọn.
Chúng ta cầu xin cho chính chúng ta. Chúng ta cầu xin cho con em chúng ta, để chúng ta mặc dầu yếu đuối, tội lỗi, bất toàn, nhưng không thiếu thiện chí. Để chúng ta góp phần xây dựng Hội Thánh, mở rộng Nước Trời.
Nhà thờ anh chị em bề ngoài tương đối không đẹp, nhưng bên trong lại khang trang đẹp đẽ. Điều này gợi ý cho chúng ta nghĩ rằng: Hãy để ý đến cái đẹp bên trong, còn cái bề ngoài nếu nó xấu cũng chẳng sao, cần nhất là bên trong của mình nó khang trang, nó đẹp đẽ. Tâm hồn của ta, trái tim của ta, tấm lòng của ta nó phải đẹp, nó là đền thờ Chúa Thánh Linh, nó là sự luôn luôn đợi chờ trong khiêm tốn, trong cậy trông. Đó là điều tôi mong muốn, mà nếu được như vậy thì Chúa Thánh Linh sẽ tiếp tục xuống trên giáo xứ, trên anh chị em. Amen.
Lễ thêm sức tại Long Bình, Kinh G2, ngày 1/8/1998.
Khi tới giáo xứ Đất Hứa này, tôi nhận thấy có nhiều đổi mới. Nếu quan sát những đổi mới này Bùi-Tuần 2295
Khi tới giáo xứ Đất Hứa này, tôi nhận thấy có nhiều đổi mới. Nếu quan sát những đổi mới này, tôi thấy có hai hướng rõ rệt. Một là hướng thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Hai là hướng lo xa cho tương lai. Hai hướng đó là tốt, và giáo xứ Đất Hứa đã thực hiện tương đối thành công hai hướng ấy.
Tôi mong muốn hai hướng ấy sẽ được tiếp tục phát triển và sẽ được tiếp tục thành công trong khả năng và hoàn cảnh anh chị em. Riêng tôi, ngoài lời khen ngợi gởi tới anh chị em hôm nay, tôi muốn được góp ý vào hướng của anh chị em đang thực hiện. Ý đó là: Dù chúng ta phát triển hướng thức thời đòi hỏi của cuộc sống hiện tại, hay dù chúng ta đi theo hướng lo xa cho tương lai, chúng ta cần phải đi sâu hơn nữa vào sự gặp gỡ Đức Kitô. Bởi vì, sống đạo không phải chỉ tôn thờ, sống với kỷ luật, với giáo lý, với nghi thức, với nề nếp, mà sống đạo chủ yếu là sống với Đức Kitô.
Đức Kitô không phải là những tư tưởng, cũng không phải là tượng ảnh, cũng không phải là một Đấng xa vời. Đức Kitô là Đấng sống động. Ngài ở bên chúng ta. Ngài ở trước mặt chúng ta. Ngài nhìn ta. Ngài gọi tên ta. Ngài yêu thương chúng ta. Cho nên vấn đề sống đạo chủ yếu là gặp gỡ Đức Kitô sống động giữa chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay đưa ra một mô hình sống đạo rất đơn giản, nhưng rất là căn bản. Lạy Thầy xin thương xót con. Chỉ đơn sơ thế thôi, nhưng đó là một lời nguyện sống đạo rất thiết thực. Nói thiệt là riêng tôi cũng thường sống đạo như người đàn bà Cana trong bài Phúc Âm hôm nay, thường xuyên nói với Chúa ở bên mình: Xin thương xót con, bởi vì trong con, trong Đất Nước con, trong Hội Thánh của con, vẫn có một cái gì đang chết đi, vẫn có một cái gì đang bệnh hoạn, vẫn có một cái gì đang bị đốn phá. Xin thương xót con, lời nguyện ấy nó tỏ rõ sự thiết thực, không giả tạo chút nào, nó gắn liền cuộc sống và đồng thời lời nguyện ấy lại là một tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Xin thương xót con, cứu vớt con cho khỏi những gì đang suy sụp, đang chết đi, đang bị quấy phá, tức là con tin Chúa là Đấng cứu độ của con. Tôi nghĩ khi chúng ta nói với Chúa một cách hồn nhiên như vậy, Chúa sẽ rất vui mừng, bởi vì chúng ta gặp Ngài trong niềm tin Ngài là Đấng cứu độ, và chúng ta là người cần được cứu độ.
Đức Kitô đã nói: “Thầy xuống thế gian này không phải là đi tìm những người công chính, những người khoẻ mạnh mà là tìm những người đau yếu những người bệnh tật những người tội lỗi”.
Khi chúng ta nói với Chúa, xin thương xót con thì Chúa nhận Ngài là Đấng cứu độ và nhận ta là người cần được cứu độ. Chúng ta có thể nói với Chúa lời nguyện vắn tắt đó đơn sơ trên miệng, trên đường đi, trong gia đình, trong nhà thờ khi tiếp xúc. Đơn sơ nhưng rất sống động, nói rồi chúng ta hãy bắt chước người đàn bà Cana trong Phúc Âm hôm nay, là lắng nghe tiếng Chúa nói với chính mình. Và khi Chúa nói với chúng ta, thường Chúa có ý uốn nắn tâm hồn ta. Như trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa uốn nắn người đàn bà Cana để bà trở nên khiêm tốn hơn, để bà kiên trì trong đức tin hơn, rồi Chúa chữa theo như ý bà.
Đời sống của chúng ta cũng vậy, gặp gỡ Đức Kitô là nói với Ngài thương xót ta, nhưng hãy lắng nghe Đức Kitô dạy bảo. Ngài dạy bảo không phải bằng lời nói, mà nhiều khi bằng các sự kiện xảy ra. Uốn nắn ta để chúng ta khiêm tốn, để chúng ta kiên trì, để chúng ta biết từ bỏ những dịp tội, những cái cản ngăn sự đón nhận ơn cứu độ của ta. Tôi mong rằng trong đời sống của chúng ta, nhất là trong những giây phút quan trong nhất, Đức Kitô sẽ khen chúng ta một lời, cũng như đã khen người đàn bà trong Phúc Âm hôm nay, Đức tin của con rất mạnh. Chúa sẽ không khen chúng ta là nhà thờ chúng con đẹp lắm, quần áo chúng con đẹp lắm, chúng con giàu có lắm, chúng con thông thái lắm. Chúa chỉ khen đức tin của con rất mạnh, con muốn sự gì Cha sẽ làm cho con sự đó. Đó là những lời khen rất là đáng trông đợi, tôi muốn vậy. Sau khi chúng ta đã sống thân mật với Đức Kitô, chúng ta sẽ được Ngài khen đức tin của con rất mạnh, Cha sẽ làm cho con những điều con muốn, để sáng danh Chúa, và làm cho con được sống, và được bình an.
Hãy biết thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống hiện đại, hãy biết phòng xa tương lai chính mình, con cái của mình, họ đạo của mình. Nhưng trong hai hướng đó hãy đi sâu vào sự gặp gỡ Đức Kitô, bằng sự chúng ta tin mến phó thác nói với Người cách hồn nhiên, và lắng nghe tiếng trả lời của Đức Kitô, dù tiếng trả lời đó chỉ là những cảm nghiệm, những nếm thử, những soi sáng, những gặp gỡ, những thanh luyện, nhưng chính đó là một thứ thần học mà chúng ta sẽ thấy rất khác với những gì chúng ta học chỉ trong sách vở, như là một thứ máy móc.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, gắn bó với Đức Kitô, tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài là Đấng cứu độ đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Amen.
Hôm nay giáo xứ Kiên Lương mừng 40 năm thành lập giáo xứ và mừng 25 năm linh mục của Bùi-Tuần 2296
Hôm nay giáo xứ Kiên Lương mừng 40 năm thành lập giáo xứ và mừng 25 năm linh mục của cha xứ.Trong nhận thức đó, khi nhìn cộng đoàn thiêng liêng và nhìn cha sở ở đây, tôi có cảm tưởng là tôi đứng trước một vườn hoa đẹp, một thửa đất có nhiều cây sinh các thứ trái ngon. Sở dĩ có được như vậy, là vì cha sở và cộng đoàn Kiên Lương đã biết phấn đấu.
Trong suốt lịch sử 40 năm giáo xứ, cũng như trong suốt 25 năm linh mục của cha xứ, tôi thấy ngoài những phấn đấu thường nhật, những phấn đấu bất thường, thì có những phấn đấu thầm lặng. Theo tôi, loại phấn đấu này mới đáng chúng ta suy nghĩ. Những phấn đấu đó là sự khiêm tốn biết đón nhận những hạt giống tốt, là biết khiêm tốn để cho thửa ruộng của mình được cày bới lên, được nhổ cỏ, được bón phân. Là để cho vườn của mình, thửa đất của mình được qui hoạch lại trong một môi trường thông thoáng, để cho tâm hồn, là vườn thiêng thiêng, là thửa đất trồng cây thiêng liêng, biết lợi dụng những nghịch cảnh, cũng như là những thời cơ để tự mình bảo vệ lấy mình, để tự mình phát triển lấy mình. Những phấn đấu đó đã đưa tới nhiều công trình tốt đẹp.
Tôi thường để ý đến những công trình thiêng liêng hơn là công trình vật chất, như nhà thờ đẹp, nhà xứ đẹp, mặc dù những cái đó cũng đáng để ý. Những công trình thiêng liêng mà tôi để ý, bởi vì nó quan trọng trong sự tồn tại và nâng cấp giá trị cho một linh mục, cho một giáo xứ, gồm hai đàng khác nhau.
Đàng thứ nhất là biết xây dựng và phát triển những gì có tính cách nề nếp, trật tự, ổn định. Thí dụ như sinh hoạt Lời Chúa, sinh hoạt bí tích, giữ lề luật. Tôi gọi chiều kích đó là chiều kích cơ chế. Cộng đoàn nào, cá nhân nào cũng cần phải có một chiều kích cơ chế vững mạnh, dựa trên Lời Chúa, dựa trên lương tâm trong sáng.
Còn cái thứ hai là biết phát triển những cái gì gọi là đạo đức, gọi là thích nghi. Thí dụ như những phong trào có tính cách đối thoại với các tôn giáo bạn, đối thoại với nền văn minh mới, những phong trào cầu nguyện Thánh Linh, những phong trào làm việc bác ái. Những phong trào đó không nằm ở cơ chế, nhưng trong tự do. Tuy nhiên cần phải biết đón nhận, để sự sống của mình được sống động, được thích nghi với những hoàn cảnh cụ thể của thời gian và của lịch sử.
Tôi nhìn cha xứ ở đây, và qua họ đạo Kiên Lương, tôi thấy có hai chiều kích đó. Một chiều kích là cơ chế, một chiều kích là cởi mở, cũng gọi là chiều kích đoàn sủng, nhờ ơn Chúa Thánh Linh mà biết đón nhận, mà biết thích nghi. Nhìn hai chiều kích đó tương đối là xây dựng tốt và phát triển tốt, tôi cùng với anh chị em cảm tạ Thiên Chúa.
Trong tâm tình cảm tạ, tôi không chỉ kể đến những thành công, những rực rỡ, những ánh sáng. Khi cảm tạ Chúa, tôi cũng nghĩ tới những bão tố. Những bão tố đó là những thất bại, những khổ đau, những nhục nhã .Tất cả những cái đó, nhiều khi làm cho chúng ta ray rức, tưởng rằng không có gì tốt ở trong đó. Nhưng với ơn Chúa, những bão tố ấy, những thánh giá ấy vẫn có thể trở thành những dịp may để thanh luyện chúng ta, để thánh hoá chúng ta, để rồi chúng ta dám hát: Tất cả đều là hồng ân.
Hôm nay, ngày kỷ niệm thành lập giáo xứ, và kỷ niệm 25 năm linh mục cha xứ, việc đầu tiên là chúng ta cảm tạ Chúa, việc tiếp nối là chúng ta ở đây nhìn về tương lai. Tương lai sẽ không đơn giản. Nếu được phép có một lời khuyên, trong dịp lễ mừng hôm nay khi nhìn về tương lai, thì lời đó là lời Đức Kitô: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện trước dấu chỉ của họ đạo. Một trong những dấu chỉ rõ nhất hiện nay, đó là sự chuyển biến, chuyển biến rất nhiều, chuyển biến mau lẹ, chuyển biến bất ngờ.
Quan sát tình hình thế giới, nhất là quan sát tình hình Đông Nam Á, chúng ta thấy có những nơi trước đây kinh tế đang phồn thịnh, bây giờ suy sụp thê thảm. Chúng ta thấy có những nơi đạo đức đang tiến mạnh, hôm nay đang sụp đổ một cách thê lương. Chúng ta thấy có những nơi trước đây qui tụ như là điểm tựa cho những người chung quanh, hôm nay trở thành nơi ly tán. Đầy những chuyển biến và những chuyển biến đó có tính cách cảnh báo cho chúng ta, để chúng ta thấy rằng thành công hôm nay không mãi mãi bền vững, không phải là cớ để chúng ta chủ quan, kiêu căng, tự mãn, mà chỉ là một bước đường để chúng ta nhìn về phía trước, phía trước đầy những thách đố, phía trước đầy những khó khăn bất ngơ. Cho nên tỉnh thức và cầu nguyện trước dấu chỉ của thời đại đầy biến chuyển, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Linh, Ngài sẽ giúp cho chúng ta biết khôn ngoan để đối phó, để thích ứng, để thích nghi với chuyển biến sẽ xảy đến cho cá nhân chúng ta, cho Đất Nước chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho các tôn giáo của chúng ta.
Chúng ta luôn chủ trương: chúng ta đi tìm lợi ích chung. Và trong thiện chí đó, khi chúng ta còn nhiều băn khoăn gặp phải những chuyển biến bất ngờ, thì Chúa sẽ giúp cho chúng ta để biết phải làm gì. Cái cần nhất là luôn luôn phải bám chặt vào những giá trị căn bản nhất của tôn giáo. Hãy biết đốt nóng lên ngọn lửa tình yêu đối với Chúa. Hãy biết nhóm lên ngọn lửa tình thương đối với mọi người, đối với đồng bào, đối với Đất Nước. Rồi biết thích ứng mềm dẻo để có thể lướt qua những bất ngờ mà chúng ta không thấy trước.
Lúc nãy ông đại diện giáo xứ chúc cha sở càng ngày càng trở nên giống Đức Kitô. Riêng tôi thì tôi chỉ xin cầu nguyện với anh chị em giúp cho cha sở, giúp cho chúng tôi, giúp cho tất cả mọi người biết đi theo Đức Kitô một cách khiêm tốn, một cách thầm lặng. Chỉ là bước theo thôi, chỉ là đi theo thôi, như một người môn đệ nghèo khó của Đức Kitô. Với tâm tình khiêm nhượng đó, giờ đây chúng ta tiếp tục tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Amen.
Thánh lễ Tạ Ơn tại nhà thờ Kiên Lương, ngày 5/8/1998
Biết được nhà thờ Rạch Sỏi ở chỗ nào là điều không dễ. Và khi biết được rồi mà tìm đến được Bùi-Tuần 2297
Biết được nhà thờ Rạch Sỏi ở chỗ nào là điều không dễ. Và khi biết được rồi mà tìm đến được nhà thờ Rạch Sỏi lại điều cũng không phải dễ. Có nghĩa là nhà thờ Rạch Sỏi chúng ta có những tính cách độc đáo. Độc đáo ở tính cách nhỏ bé, thô sơ, và vị trí ẩn khuất, và ở hệ thống giao thông đường sông, đường bộ phức tạp.
Chính vì những yếu tố đó mà tôi sợ rằng: Nhà thờ họ đạo chúng ta, lúc nào đó, có thể trở thành lạc lõng giữa một vùng đang tiến về kinh tế. Tôi nói như vậy, bởi vì tôi nhìn các nơi thờ tự, vừa có chức năng phục vụ phượng tự cho người có đạo, mà cũng vừa có khả năng bảo tồn văn hoá, phát triển văn hoá, và giới thiệu văn hoá của Đất Nước.
Văn hoá Việt Nam bây giờ là một văn hoá có vẻ đẹp của tâm linh, của bao dung, của nhân văn, của lịch sử Đất Nước, và của khoa học. Trên thực tế nhiều nơi, chùa chiền, thánh thất, nhà thờ đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển và giới thiệu những nét đẹp đó của văn hoá Việt Nam. Tôi muốn rằng: Với ý thức đó, chúng ta sẽ nhìn nhà thờ của chúng ta trong cái nhìn chung của tổng thể văn hoá Việt Nam, và từ đó có một ý nghĩ thích hợp trong sự tu sửa, xây dựng nhà thờ, khi nào có những hoàn cảnh cho phép. Tuy rằng nhà thờ chúng ta còn thiếu thốn, nhưng nếp sống đạo của chúng ta tương đối là tốt.
Khi nói về nếp sống đạo của chúng ta, thì không những tôi nghĩ đến sinh hoạt kinh lễ, sinh hoạt giáo lý, mà cũng nghĩ đến một nếp sống bao trùm những sinh hoạt trần thế, như là sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt kinh tế vv... Những sinh hoạt đó gọi là sinh hoạt trần thế, nhưng đậm màu sự sống của Phúc Âm.
Sự sống của Phúc Âm chính là sự sống của Tin Mừng. Sự sống này có ba đặc điểm rõ rệt. Một là yếu tố kính sợ Thiên Chúa và biết lắng nghe thánh ý Thiên Chúa. Hai là có một tình yêu chan hoà dành cho mọi người. Và ba là có một tình hy sinh sâu đậm trong cuộc sống.
Tôi thấy ở đây, anh chị em trong cuộc sống đời thường cũng đã thể hiện được phần nào ba yếu tố ấy: Luôn gắn bó với Chúa, tìm vâng phục thánh ý Chúa, biểu dương tinh thần yêu thương Phúc Âm cho tất cả mọi người chung quanh, không phân biệt cùng tín ngưỡng hay không cùng tín ngưỡng. Và đồng thời chấp nhận những hy sinh từ bỏ mình.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố thứ ba, là phải chấp nhận hy sinh. Sự chấp nhận hy sinh này sẽ được thực hiện tất cả trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần phải từ bỏ mình để có sự sống thực sự. Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác thánh giá mình mà theo Thầy. Nếu được mọi sự thế gian này mà sau cùng phải mất sự sống thì nào có ích gì”. Cho nên Đức Kitô dạy chúng ta: Muốn theo Đức Kitô, muốn sống đạo của Đức Kitô, thì phải từ bỏ mình. Tất nhiên là từ bỏ những cái xấu, và nhiều khi cả những cái chúng ta có quyền hưởng, nhưng vì đức mến mà chúng ta tự nguyện bỏ đi, để cho Chúa Kitô có thể đến với chúng ta sâu đậm hơn và biến đổi chúng ta.
Hôm nay là thứ sáu đầu tháng, chúng ta nghe lời Chúa dạy bên cạnh thánh giá Chúa, nhìn lên thánh giá Chúa, để hiểu rằng: Sống đạo không phải đi tìm tư lợi, mà phải biểu dương lòng tin, lòng mến qua những hy sinh lớn nhỏ của đời thường.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta biết sống đạo, biết tìm thánh ý Chúa, và biết có những sáng tạo vì danh Chúa. Amen.
Hôm nay trở lại giáo xứ Tràm Chẹt, tôi nhận thấy có nhiều phát triển mới mẻ, tốt đẹp. Thí dụ Bùi-Tuần 2298
Hôm nay trở lại giáo xứ Tràm Chẹt, tôi nhận thấy có nhiều phát triển mới mẻ, tốt đẹp. Thí dụ như trong khu nhà thờ thì có công viên mới, có đài Đức Mẹ mới, nhà xứ mới. Và nhìn trong dân tôi thấy có đường mới, những chiếc cầu mới, hệ thống điện mới, những công trình này có sự tham gia đáng kể của các cha và của giáo xứ.
Tất cả những công trình phát triển trên đây là rất đáng mừng. Và sự phát triển này cũng đang nói lên hướng sống đạo của anh chị em, đó là sống đạo thì phải phục vụ con người, giúp con người phát triển, giúp cuộc sống được nâng lên.
Khi nhìn những công trình đó, tôi thấy thực sự anh chị em, với sự lãnh đạo cha xứ, đã có phần phát triển con người, nâng cao văn hoá và làm đẹp cho địa phương. Khi nhìn thấy hướng đi như vậy, tôi vui mừng, nhưng đồng thời cũng lo lắng, và đôi khi lo buồn. Bởi vì, nếu chúng ta đọc hướng sống đạo ở chỗ cần phải phát triển con người, nâng cao cuộc sống, thì mặc dầu chúng ta đã đạt được nhiều kết quả, nhưng vẫn còn nhiều cái muốn làm mà chưa làm được.
Tôi thấy ở đây số người nghèo còn rất đông, cảnh nghèo túng, cảnh ít học, cảnh nợ nần, nó như đám mây mù dày đặc, bao trùm rất nhiều gia đình. Và trong những bóng tối dày đặc đó, đối với nhiều người, sự hy vọng có một cuộc đời ấm no cũng vẫn là một giấc mơ không bao giờ thành. Điều đó làm cho tôi xót xa và ray rức, nhưng tôi biết rằng đây là một vấn đề lớn, chủ yếu thuộc về xã hội, Giáo hội cũng có phần phải đóng góp vào để giải quyết vấn đề cuộc sống.
Trong thực tế, quá khứ đã làm chứng Hội Thánh đã đóng góp rất nhiều, phần đóng góp đó phải coi là đáng kể và trong tương lai Hội Thánh cũng sẽ có nhiều cố gắng mới. Tuy nhiên, phần đóng góp của Hội Thánh vẫn là khiêm tốn, bởi vì khả năng vẫn giới hạn. Tuy nhiên, chúng ta không nên dừng lại ở những việc đó, và ở những giới hạn đó. Tôi muốn nói tới sống đạo còn phải hơn thế nữa, sống đạo là chúng ta biết thánh hoá mình trong cảnh nghèo. Và trong việc xoá đói giảm nghèo. Bằng cách nào? Theo tôi cách dễ nhất, đó là chúng ta bắt chước Đức Mẹ và hiệp thông với Đức Mẹ.
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Đức Mẹ có một đức tin sâu sắc, nhìn nhận đứa bé trong tay mình là chính Đức Kitô, Ngài là Đấng cứu độ, Ngài là ánh sáng muôn dân, Ngài là vinh quang Thiên Chúa. Thế nhưng, tiên tri Simêon đã nói với Đức Mẹ: “Suốt đời bà, trái tim bà sẽ bị một lưỡi đòng đâm thâu qua”. Có nghĩa là, Đức Mẹ sẽ phải đóng góp phần đau khổ của mình vào ơn cứu độ.
Ơn cứu độ của Đức Kitô, nguồn hy vọng ánh sáng và vinh quang của Thiên Chúa không phải là một cái gì như một món hàng quá rẻ, hạ giá, nhưng là một thứ cao quý, chúng ta đón nhận cũng phải có một giá phải trả. Đức Kitô đã trả giá bằng chính sự sống của mình, bằng sự hy sinh treo mình trên thánh giá. Đức Mẹ Maria cũng đã trả giá của mình bằng sự suốt đời khổ đau, như trái tim bị thâu qua. Những giá cao đó của Đức Mẹ, của Chúa Kitô, đã mở ra cho chúng ta một chân trời mới, để chúng ta thấy: Dù những kẻ sống trong cảnh cô cực, bi thảm đến mấy, nếu biết đón nhận ơn cứu độ và đóng góp phần mình vào ơn cứu độ, thì sẽ thấy số phận mình đầy những hy vọng tốt đẹp. Và sau cùng, ngay ở đời này và chắc chắn ở đời sau sẽ gặp được Thiên Chúa hạnh phúc đời đời của mình.
Trong đời mục vụ của tôi, tôi đã từng gặp những người rất nghèo, đau bệnh, bị bỏ rơi. Nhưng sau cùng, họ đã gặp được những người có tâm tình từ thiện bác ái đến với họ, và họ đã nhận được đức tin, và nhờ đức tin đó, họ đã cảm thấy một hạnh phúc sâu thẳm, bình an, trước khi chết để lại một tấm gương cho tất cả những người chung quanh thấy rằng: Gặp được Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa, và được Thiên Chúa yêu thương, đó là một hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ có thể hiểu được bằng tư tưởng, mà chỉ bằng cảm nghiệm thôi. Sở dĩ họ được như vậy, vì những tâm hồn đó thao thức khiêm tốn, ước mong ơn cứu độ, và cũng vì có những người hảo tâm đến với họ, mà người hảo tâm đó, khi đến với họ, thực sự mang Thiên Chúa trong mình, và thực sự mang lửa mến trong mình, và thực sự mang tình yêu thương chân thành của mình. Và nhờ đó, Chúa đã đến với những người đau khổ, biến đau khổ thành hạnh phúc, và đồng thời cũng giúp cho người làm từ thiện, bác ái, xoá đói giảm nghèo, cũng được phong phú thêm, nhờ cách mình sống bác ái chân thành, dấn thân với những người đau khổ.
Hãy nhìn vào Đức Mẹ sầu bi, hãy bắt chước Đức Mẹ để góp phần đau khổ của mình, một đau khổ có tình thương, có lửa mến, có niềm cậy trông và sự phó thác vào Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày thứ bảy đầu tháng, ngày kính Đức Mẹ một cách đặc biệt. Hôm nay cũng là ngày kính thánh Đaminh, một đấng thánh có lòng rất mộ mến Đức Mẹ. Và hôm nay cũng là lễ thêm sức kính Chúa Thánh Thần, Đấng đã làm biết bao sự lạ lùng nơi Đức Mẹ. Chúng ta lợi dụng thánh lễ này, chạy đến với Đức Mẹ, nhìn Đức Mẹ, lắng nghe Đức Mẹ, và xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta biết theo gương Người, biến đổi những khổ đau, túng nghèo, và những việc từ thiện chúng ta làm trở nên một giá nào đó, để chúng ta đón nhận được ơn cứu độ, và một cách để chúng ta chia sẻ ơn cứu độ. Vì bấy giờ, không phải ta làm, ta nói, mà là chính Chúa nói và làm trong ta những sự lạ lùng của Chúa Cha giàu lòng thương xót. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Tân Bình, Tràm Chẹt, ngày 8/8/98.
Mấy ngày hôm nay, ngay tối hôm qua, các thông tin trên đài đã rất đáng ngại và rất đáng suy nghĩ Bùi-Tuần 2299
Mấy ngày hôm nay, ngay tối hôm qua, các thông tin trên đài đã rất đáng ngại và rất đáng suy nghĩ. Những thông tin đó đã tạo ra trong tôi một bầu khí tâm linh u ám. Chẳng hạn như những thông tin về chiến tranh, những thông tin về khủng bố, những thông tin về hoả hoạn, những thông tin về lụt lội, những thông tin về hạn hán, những thông tin về thất nghiệp, những thông tin về nạn đói bệnh tật, vv... Đối với tôi những thông tin đó mang tính cách cảnh báo cho một tương lai đang tới.
Nếu chúng ta có một cái nhìn như vậy, tất nhiên chúng ta phải nhìn cuộc sống trong tương lai đang tới với một tinh thần cảnh giác. Nếu tương lai đang bắt đầu từ những ngày qua, và đang bắt đầu từ hôm nay thì cuộc sống trong tương lai chắc sẽ có nhiều khó khăn do thiên tai, do biến động kinh tế, do suy thoái và khủng hoảng tiền tệ tại Á châu, và do nhiều nguyên do khác.
Đang khi tôi nhìn cuộc sống trong tương lai với nhiều lo lắng thì hôm nay trong thánh lễ, qua bài Phúc Âm, tôi lại nghe Đức Kitô nói về một cuộc sống có nhiều nét không vui, như là cảnh nợ nần trong dân, cảnh căng thẳng gay gắt giữa người giàu với người nghèo, và nhất là bài Phúc Âm đã kết bằng một câu khá buồn: “Nói xong Chúa Giêsu đã bỏ nơi đó mà đi”. Có một sự Chúa bỏ. Có một sự Chúa ra đi. Không phải tôi đã chủ ý liên kết những chi tiết trên đây xưa và nay để đưa ra một cái nhìn về tương lai bi quan, nhưng tôi nghĩ rằng: bất cứ chúng ta, ai cũng vậy, nếu đã có kinh nghiệm về cuộc đời và thấu suốt về tình hình thì không thể vô tư trước tương lai đang đến, và chúng ta phải biết lo cho cuộc sống tương lai.
Lo cho cuộc sống tương lai cũng là một cách chúng ta cộng tác vào việc Chúa quan phòng. Tôi nghĩ rằng anh chị em đã thừa kinh nghiệm về việc lo cho cuộc đời tương lai. Riêng tôi, trong mục vụ, tôi chỉ xin được phép nhắc nhủ anh chị em hôm nay một điều, một điều quan trọng, một điều có khả năng đem lại an ủi, bình an và hy vọng cho chúng ta, mặc dầu trong tương lai có nhiều khó khăn xảy tới. Điều tôi muốn nhắn nhủ là: hãy sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô. Sống ơn gọi đó gồm hai phần chính. Tôi xin nói rất vắn tắt.
Phần thứ nhất là chúng ta cùng với Đức Kitô và nhờ Đức Kitô để sống tâm tình người con thảo với Chúa Cha giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy tập quen nhìn Chúa Cha là Cha của ta. Chúng ta hãy tập quen cảm tạ Chúa Cha vì đã thương ta, vì đã chờ ta, vì muốn ở bên ta, vì vẫn lo lắng cho ta, vì luôn tha thứ cho ta. Chúng ta hãy tập quen đến với Chúa là Cha. Đến bằng sự cầu nguyện. Đến bằng cách dâng lễ. Đến bằng những việc vất vả thường ngày do bổn phận, như những thánh giá chúng ta phải vác. Khi chúng ta đến với Chúa là Cha, chúng ta phải có một ý hướng trở về. Trở về với Cha có nghĩa là từ bỏ những gì Cha không muốn và muốn phát triển những gì Cha muốn trong ta. Khi chúng ta đến với Chúa là Cha như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy một sự bình an sâu lắng, một thứ hạnh phúc êm đềm, dù chúng ta sống trong cảnh nghèo nàn thê thảm nhất. Đó là phần thứ nhất của ơn gọi sống người môn đệ Đức Kitô.
Phần thứ hai là chúng ta sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô bằng phát huy tâm tình huynh đệ đối với mọi người chung quanh. Cũng vậy, chúng ta sẽ theo gương Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà sống chan hoà tình thương với những người chung quanh. Chúng ta biết rằng trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh rất nhiều đến phần thứ hai này, bổn phận yêu thương kẻ khác. Theo Đức Kitô thì yêu thương kẻ khác chính là đặc điểm người môn đệ Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau”. Và trong khi sống yêu thương như vậy, Chúa Giêsu luôn nhắc nhở đến bổn phận thứ tha. Như hôm nay trong Phúc Âm Chúa dạy hãy tha thứ cho nhau như Chúa tha thứ cho chúng ta. Chúa coi sự chúng ta tha thứ cho nhau như là một điều kiện để Chúa nhận lễ chúng ta dâng, như là một điều kiện để chính Chúa tha thứ cho chúng ta.
Tôi chỉ nhắc nhở vắn tắt hai điều đó như là hai thành phần cốt yếu của đời sống người môn đệ Đức Kitô. Và muốn được như vậy, quan trọng nhất là phải có lửa trong tâm hồn chúng ta, lửa yêu mến Chúa, lửa yêu thương đồng loại. Phải thắp sáng lên ngọn lửa yêu mến. Nếu không có lửa trong lòng mình thì tất cả lễ nghi chúng ta làm đối với Chúa cũng sẽ trống rỗng. Nếu không có lửa yêu thương chân thành đối với anh em, đối xử chúng ta dành cho nhau nhiều khi chỉ là giả tạo. Cần có lửa, lửa đó phải nhờ đến lửa Thánh Linh.
Tôi xin nhắc lại điều này, để đời sống chúng ta nếu sau này nhất là trong tương lai gặp những khó khăn thách đố khó vượt qua được về kinh tế, xã hội, thì biết rằng ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, lửa mến trong lòng sẽ giúp cho chúng ta tìm được hy vọng và bình an.
Tôi đi nhiều nơi, quan sát nhiều chỗ, tôi thấy nhiều nơi, nhiều người không quan tâm đến ơn gọi này, hoặc là có quan tâm nhưng quan tâm không đủ. Và khi thấy như vậy, tôi lo sợ cho Hội Thánh Việt Nam. Tôi nghĩ rằng những khủng hoảng về kinh tế xã hội có thể vượt qua được, nhưng nếu chúng ta không quyết tâm sống trọn ơn gọi người môn đệ Đức Kitô thì sẽ xảy ra khủng hoảng rất lớn trong tôn giáo, trong Hội Thánh, và sẽ gây ra rất nhiều tai hoạ cho chính chúng ta.
Trong thánh lễ này, chúng ta cần xin Thánh Linh giúp chúng ta hiểu rõ hơn, hiểu sâu hơn về ơn gọi người môn đệ Đức Kitô và nhất là xin Thánh Linh gieo vào lòng con cái chúng ta hôm nay ơn gọi đó, thao thức đó, để ơn đó, thao thức đó sẽ đồng hành trong cuộc sống con em chúng ta, hầu giúp chúng biết mở ra, biết sống thế nào là người con của Chúa, thế nào là người huynh đệ của anh em, để từ đó đời sống của con em có một ý nghĩa mà chúng ta trông đợi. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ An Châu, Chắc Cà Đao, ngày 13/8/1998
Khi nhìn ngắm Đức Mẹ, tôi được thu hút bởi hai vẻ đẹp của Đức Mẹ sau đây. Trước hết là Bùi-Tuần 2300
Khi nhìn ngắm Đức Mẹ, tôi được thu hút bởi hai vẻ đẹp của Đức Mẹ sau đây.
Trước hết là vẻ đẹp bề ngoài. Vẻ đẹp bề ngoài này rất hấp dẫn. Vẻ đẹp bề ngoài này là những nét trầm mặc, phản ánh một tâm hồn cầu nguyện chiêm niệm. Những nét đó gợi về một thế giới siêu việt, linh thiêng, đáng kính, đáng phục. Đó là vẻ đẹp bề ngoài, mà cũng rất hấp dẫn.
Cái vẻ đẹp thứ hai là vẻ đẹp bên trong. Vẻ đẹp bên trong này gợi thẳng đến Thiên Chúa. Đó là thái độ thường xuyên tuân phục thánh ý Chúa. Thái độ thường xuyên vâng phục thánh ý Chúa đã được Phúc Âm gói gọn trong một lời Đức Mẹ xin vâng trong biến cố truyền tin. Đó là vẻ đẹp bên trong trong Phúc Âm. Đang khi vẻ đẹp bên ngoài tôi nói trước đây được Phúc Âm mô tả trong lời nói: Đức Mẹ chứa chất những sự đó và chiêm niệm trong lòng.
Với hai vẻ đẹp trên đây, Đức Mẹ đã khai thông nguồn ân thánh và đưa ơn thánh vào bản thân mình, để rồi dùng hai vẻ đẹp đó như hai cửa để chuyển ơn thánh xuống cho Hội Thánh, cho nhân loại. Thực vậy, nguồn ơn thánh tập trung vào Thiên Chúa, nguồn ơn thánh này được mở ra và được chuyển xuống cho nhân loại nhờ Thánh Linh qua Đức Kitô. Đức Kitô đã mở nguồn ơn thánh thế nào khi Ngài nhập thể? Thưa Ngài luôn luôn sống liên hệ người con với Thiên Chúa là Cha bằng hai việc này: Là con, Đức Kitô luôn nhìn về Cha, tức là chiêm niệm. Là con, Đức Kitô luôn tuân phục ý Cha, đó là đời sống vâng theo ý Chúa. Đức Mẹ theo gương Đức Kitô và hợp nhất với Đức Kitô, cũng sống ân huệ người con bằng hai việc trên đây. Một là con thì luôn nhìn ngắm Cha, tức là chiêm niệm. Là con thì luôn tìm ý Cha để thực hiện, đó là sống vâng theo ý Chúa. Nhờ hai vẻ đẹp này, nhờ hai hoạt động này mà Đức Mẹ đã trở thành Đấng chuyển ơn thánh xuống cho nhân loại, cho Hội Thánh. Bất cứ một đổi mới nào trong Hội Thánh, bất cứ truyền giáo nào trong Hội Thánh đều qua hai cửa đó: chiêm niệm và tuân phục ý Chúa.
Tôi nghĩ đây là một mô hình Chúa gởi cho chúng ta. Với hai vẻ đẹp trên đây, Đức Mẹ trở thành mô hình tu thân, tu đức, Đức Mẹ trở thành mô hình cho người truyền giáo, cho người rao giảng Tin Mừng, đổi mới Hội Thánh và xã hội.
Tôi thấy trong Thượng Hội đồng các Giám mục Á châu vừa qua, các Nghị phụ khi nhìn tình hình Á châu đầy những thách đố, nhất là những gương sáng của những người tu của Phật giáo, Hồi giáo, rất mạnh, rất nổi về chiêm niệm và rất nổi về vấn đề sống khổ hạnh theo đạo của mình, thì đã tỏ ra ước vọng là các địa phận ở Á châu hãy cố gắng có được trong địa phận mình những nhóm người, những cộng đoàn bất cứ là giáo dân hay là tu sĩ chuyên về chiêm niệm, và để ý rất nhiều đến sự thánh thiện, xây dựng trên sự tuân phục thánh ý Chúa.
Tuân phục thánh ý Chúa, nó đơn giản thôi. Nghĩa là sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại, chu đáo đến từng chi tiết của đời mình. Thí dụ như bây giờ, hiện tại bây giờ tôi đang giảng, anh chị em đang nghe, thì thánh ý Chúa là chúng ta làm chu đáo nhiệm vụ người nói, kẻ nghe. Biết lắng nghe ý Chúa, biết suy niệm, biết đón nhận, và với tất cả tình yêu trung tín, nó đơn sơ thôi. Nghĩa là chu đáo cẩn thận từng chi tiết trong hiện tại đời sống của mình, để rồi từ đó Thánh Linh cầm tay chúng ta, dẫn từng bước đến chương trình cứu độ, ơn gọi Chúa dành cho ta.
Tôi thấy là ước vọng của Thượng Hội đồng các Giám mục Á châu tôi vừa trình bày lúc nãy, đang được thực hiện. Khi tiếp xúc với các nhóm của giáo dân, tôi đã gặp khá nhiều các linh hồn rất tốt, họ dấn thân cho việc từ thiện xã hội. Thí dụ như trong y tế, trong giáo dục, trong văn hoá, trong kinh tế, nhưng mà đồng thời vẫn giữ được nếp sống chiêm niệm, và vẫn giữ được tinh thần tuân phục thánh ý Chúa, như tôi vừa nói. Và nhìn những nhóm đó tôi thấy rằng, Thánh Thần đang làm bùng nổ lên trong Hội Thánh Việt Nam một mùa xuân mới, theo mô hình thánh thiện của Đức Mẹ: âm thầm chiêm niệm để nhìn ngắm Chúa là Cha, và luôn luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thực hiện, kể cả trong những chi tiết âm thầm nhất. Khi thấy như vậy, tôi mong muốn rằng, các dòng tu của chúng ta, các giáo xứ của chúng ta, không những không được thua kém giáo dân về phương diện này, mà còn phải hơn nữa, đi vào đời sống tu đức bằng hai vẻ đẹp của Đức Mẹ.
Cách đây không lâu, có một số người ngoại quốc đến Việt Nam, và quan sát đời sống Công giáo tại đây, có chia sẻ kinh nghiệm của họ thế này: sau một thánh lễ, họ gặp một số tu sĩ, họ hỏi rằng: trong thánh lễ này, Lời Chúa đã vang vọng thế nào trong tâm hồn bạn? Người đó không trả lời được. Và trong thánh lễ này, bạn đã có một quyết định nào về đời tu không? Cũng không trả lời được. Và những người ngoại quốc đó kết luận rằng, nếu tu và sống đạo kiểu này, chỉ là hình thức, chỉ là giữ nghi thức, chứ không đi vào chiều sâu, thì tôi lo sợ cho tương lai Hội Thánh tại Việt Nam. Và nhận thức đó là rất đúng, có tính cách cảnh báo.
Hôm nay là ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Hôm nay cũng là kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra ở La Vang. Và hôm nay cũng là ngày kỷ niệm dòng Thánh Gia của chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa, vì trong quá khứ và trong hiện tại Chúa đã ban cho chúng ta nhiều tâm hồn biết lắng nghe ơn gọi, để có những vẻ đẹp của Đức Mẹ xưa. Hôm nay chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta, nhất là trong dòng chúng ta, phải có tâm hồn quảng đại, biết nghe tiếng Chúa gọi để chăm lo đời sống nội tâm, đời sống chiêm niệm, ngắm nhìn Chúa là Cha và cố gắng sống tất cả mọi chi tiết đời mình, tuân phục thánh ý Chúa Cha để sống trọn ơn huệ người con của Chúa. Nếu được như vậy, tôi nghĩ rằng tương lai sẽ rất tốt, bởi vì chúng ta đi đúng đường mà Đức Mẹ đã vạch ra và gởi gắm cho chúng ta hôm nay. Amen.