Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật - Sách 12 Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban

Thứ tư - 03/09/2025 23:14
Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật - Sách 12 Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban
Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật - Sách 12 Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)

Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban
Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật
Sách 12 (Phục Sinh 1 C - Thường Niên 20 C)


Nguồn: https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/

**** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165


**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

---------------------------------

Mục Lục:

Bài 1: Ý nghĩa đích thật của việc Chúa Kitô Phục Sinh. 2
Bài 2: Dấu chân của Thiên Chúa. 4
Bài 3: Chứng nhân của Chúa Phục Sinh. 9
Bài 4: Một lời động viên đã thay đổi số phận của một con người 13
Bài 5: Tình yêu hy sinh quên mình. 15
Bài 6: Chuyện anh thợ giày quá dính bén tiền của nên sinh ra rối lòng. 18
Bài 7: Mẹ ơi, con mong mẹ chóng về Trời. 21
Bài 8: Những biến đổi kỳ diệu từ Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. 25
Bài 9: Một câu chuyện về Thiên Chúa nơi người Châu Phi 27
Bài 10: Sự khác biệt giữa cây Thánh Giá và Mình Thánh Chúa. 29
Bài 11: Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban. 32
Bài 12: Bình an của Chúa ở cùng bạn. 34
Bài 13: Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. 36
Bài 14: Giá trị của sự thinh lặng, là bà Maria Madalêna ở bên Chúa. 39
Bài 15: Sứ điệp bốn chữ đầu của kinh Lạy Cha. 42
Bài 16: Người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng. 44
Bài 17: Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức. 47
Bài 18: Lịch sử của giải thưởng Nobel 51

---------------------------------

 

Bài 1: Ý nghĩa đích thật của việc Chúa Kitô Phục Sinh

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 202 - Phục Sinh 1 C

Bạn thân mến,

Một em bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu ?

Người mẹ đáp:

- Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu.

Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè hàng xóm, tỏ ý đau buồn, khi nhắc đến đứa con mới mất.

Em bé ngạc nhiên hỏi mẹ:

- Khi mẹ mất một vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ?

Bà mẹ đáp:

- Phải.

Bé nói tiếp:

- Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất ?

Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc Thiên Đàng cùng Chúa Phục Sinh.

***

Thật vậy, Chúa Ki-tô đã Phục Sinh như trong tin mừng Gio-an 20,1-9 đã tường thuật một cách tỉ mỉ, như một nhân chứng đã mắt thấy tai nghe, diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là 3 nhân vật: Ma-ri-a Mac-đa-la, Phê-rô và Gio-an đã trải qua để tiến đến niềm tin ”Chúa đã Phục Sinh”.

Chúng ta có thể suy niệm về vai trò của Phêrô và Gioan trong ý nghĩa về Giáo hội học.

Nhưng hôm nay chúng ta lưu ý đến chính cuộc phục sinh của Chúa Kitô và ý nghĩa của biến cố này.

Thánh Phao-lô quả quyết:

"Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,… chúng ta là những người khờ dại nhất, vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền” (1Cr 15,12-19).

Vậy,

- Phục Sinh là gì ?

- Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh ?

Phục Sinh không có nghĩa là hồi sinh, trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt là ông La-za-rô (Ga 11,1-45).

Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.

Trường hợp của Chúa Giê-su hoàn toàn khác hẳn:

Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục Sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi chết lại.

Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ, đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài.

Nhưng quan trọng hơn nữa, Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và sự sống lại của chúng ta.

Điều Chúa nói trước đây: "Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24), bây giờ trở nên sự thực qua việc Chúa sống lại.

Là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các môn đệ Đức Giê-su đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài, Tin Mừng ấy là:

Ai tin nhận Đức Giê-su, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được Phục Sinh như Ngài.

Ngày nay tất cả mọi người tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là là niềm tin vào sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Ki-tô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm, và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.

Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, xin ban cho chúng con niềm tin mãnh liệt vào quyền năng Phục Sinh của Chúa.

Xin cho chúng con sáng suốt nhận ra Ngài, trong mọi biến cố cuộc đời.

Nhất là xin cho chúng con luôn hăng say loan báo và làm chứng cho Ngài, bất chấp mọi thử thách gian nan. Amen.

-----------------------------

 

Bài 2: Dấu chân của Thiên Chúa

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 203 - Phục Sinh 2 C

Bạn thân mến,

Nhiều năm trước đây, có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy: Cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời, chắp tay cầu nguyện.

Nhà bác học hỏi:

- Các ông làm gì vậy?

Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Đấng Allah, là Thiên Chúa của chúng tôi.

Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:

- Vậy các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài nói khi nào chưa?

Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:

- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy, tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?

Nhà bác học sửng sốt lên giọng:

- Các ông thực là những người điên, các ông thật là mù quáng khi sấp mình thờ lạy một Chúa, mà các ông chưa hề xem thấy, hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.

Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng, không đáp lại lời nào hết. Rồi, tất cả đếu vào trong lều của mình để ngủ.

Sáng hôm sau, khi mặt trời chưa ló dạng, nhà bác học cũng thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:

Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua đã có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.

Bỗng một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng, đã loé lên trong ánh mắt của hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:

- Vậy thì chắc, là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?

Nhà bác học thật thà đáp lại:

- Không, tối hôm qua tôi đã ngủ ngon lắm, đâu có thấy con lạc đà nào và cũng không hề sờ tới lông của nó.

Hướng dẫn viên nói:

- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tay không sờ tới, và tai ông cũng không hề nghe tiếng chân lạc đà đi.

Nhà bác học cương quyết cãi lại:

Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng nè, hãy xem đây này: Các ông không trông thấy những dấu chân con lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?

Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng, kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:

- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.

*****

Bạn thân mến,

Bài Tin Mừng Chúa Nhật 2 Phục Sinh năm C hôm nay (Ga 20, 19-31),  đã ghi lại lời Chúa Giêsu nói với ông Tôma:

“Phúc cho ai không thấy mà tin”.

Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được.

Và tinh thần khoa học thực nghiệm đã được áp dụng vào trong mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo.

Người ta nhân danh khoa học, mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, có kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín.

Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa, trong câu truyện Tin Mừng hôm nay:

Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ.

Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra lần nữa và đã bảo ông:

“Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”.

Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông:

“Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”.

Không những tin vì đã thấy, mà còn phải tiến đến chỗ tin, cho dù không được thấy.

Đến mức này, ông Tôma đã dựa vào Lời Chúa mà tin, và không cần kiểm chứng nữa.

Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này:

“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.

*****

Bạn thân mến,

“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.

Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay, với lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan:
Sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, nên chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin.

Hãy tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác.

Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp được Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự.

Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người chúng ta tin vào Đức Kitô:

“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.

Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết:

“Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9).

Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài, trong cuộc đời các Kitô hữu.

Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi:

“Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).

Bạn thân mến,

Nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi, thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học.

Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn, về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.

Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay. là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, do họ đã thấy.

Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện:

“Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”.

Và có lẽ, đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này, cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã gởi ông Thomas cứng tin đến cho thế giới hiện đại. Chẳng phải hôm nay họ mới dám bộc lộ nghi ngờ về Chúa phục sinh. Chuyện đó xưa lắm rồi, từ thời các tín hữu tiên khởi lận. Đúng hơn, từ thời các thánh Tông Đồ, mà Thomas là tiêu biểu.

Lạy Chúa, xin cho con biết vững tin vào tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.

---------------------------------------------------

 

Bài 3: Chứng nhân của Chúa Phục Sinh

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 204 - Phục Sinh 3 C

Bạn thân mến,

Trong một buổi tọa đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh, anh nói:

“Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết. Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi. Tranh cãi làm gì cho mất công, phí thời giờ. Các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài, thì Ngài cứ việc đánh tôi chết đi”.

Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim đắc thắng nói:

“Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu nào ?”.

Mọi người đều im lặng.

Bỗng có một người khá đứng tuổi lên tiếng:

“Này anh Lim, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi thách thức:

“Tôi không chắc ông có phải là cha của tôi thật không. Nhưng những người chung  quanh, ai cũng bào: Ông là cha của tôi. Người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Vậy, nếu thực sự đúng: Ông là cha của tôi, thì cái dao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi. Còn nếu không, thì chính tôi sẽ đâm ông”.

Anh thử nghĩ giúp tôi: Trong trường hợp này, tôi phải xử trí thế nào ?

Thú thật tôi không đủ khả năng chứng minh cho nó thấy: Tôi là cha của nó, theo cách thức nó đòi hỏi.

Nhưng có phải từ sự kiện: Tôi không dám đâm nó chết, mà anh có thể kết luận: Tôi không thực sự là cha của nó không ?

Vì thương nó, nên tôi đã không đâm chết nó. Bởi tôi là cha của nó, nên tôi thà để mình bị nó đâm chết, còn hơn là tôi cầm dao đâm chết con mình.

Trong cuộc thách thức đấu lý này, tôi không đâm nó chết, theo cách thức nó đòi hỏi, để chứng minh tôi là cha nó. Vậy, vì tôi không đâm nó chết, nên tôi không phải là cha của nó sao?

Tuy nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết.

Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ ?

Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy: Nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu, bao giờ cũng có một điểm nghịch thường, mà người ta không thể diễn tả hết được.

Người ấy nói tiếp:

- Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau, chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt.

Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi.

Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại rất cần cho đời sống của chúng ta, hơn là đá cứng nhiều.

Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi, nếu chúng ta làm như thế với bất kỳ ai khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ lãnh đủ.

Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác.

Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé.

 Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn, anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật.

Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin, cũng như tuyên xưng đức tin.

- Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội.

- Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh.

Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh.

Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã thấy các vết thương trên tay chân và cạnh sườn Ngài, đã nghe tiếng Chúa nói rõ ràng, đã cùng ăn uống với Ngài, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, nhất là cuối cùng, các ông đã dám chấp nhận cái chết, để chứng minh điều mình nói “Chúa đã sống lại”. Như vậy, đích thực 100 % Chúa đã sống lại.

Còn chúng ta hôm nay, tuy dù không thấy, chúng ta vẫn tin và tin một cách tuyệt đối.

Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh.

Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này.

Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh C (Ga 21, 1-14), đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm, mà không được gì.

Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng.

Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự, mà không cần đến Chúa.

Nhưng rất may, ở trần gian này, có một định luật là sự giới hạn: Giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.

Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán:

“Không có Ta, các ngươi không làm gì được”.

Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.

Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ:

Các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, đi loan báo, đi làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hóa những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi, giải trí…

Chúng ta xao lãng bổn phận này, hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống, là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.

Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép:

“Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”.

Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng.

Nhưng hiệu quả hơn cả chính là cuộc sống của chúng ta. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con khả năng nghe được tiếng Chúa, để con biết làm theo lời Chúa dạy.

Trước mắt, xin cho con biết vâng lời những người có trách nhiệm phần hồn phần xác của con, đó là giáo quyền, là cha mẹ, là thầy dạy, là bạn hữu xa gần, là thế quyền  hợp pháp và hợp luân lý đạo đức.

Sự vâng lời của con sẽ là bằng chứng hùng hồn con là con ngoan của Chúa, là đồ đệ trung thành của Đức Ki-tô Phục sinh. Amen.

-----------------------------------

 

Bài 4: Một lời động viên đã thay đổi số phận của một con người

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 205 - Phục Sinh 4 C

Bạn thân mến,

Dương An Điển, là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo, thuộc vùng núi miền nam đảo Đài Loan.

Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.

Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng.

Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.

Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi.

Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường, làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường.

Ông đã nói với cô:

“Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”.

Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.

----------------------------

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. (Chúa Nhật 4 PS-C: Ga 10, 27-30)

Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt, đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất, vô nhị, trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Chúa.

Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương An Điển chỉ là hình bóng, giúp chúng ta hiểu phẩn nào tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.

Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.

- Nghe Chúa, chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng tự trong tâm hồn mình.

- Nghe Chúa, chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người.

Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô”.

- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác, lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết được cả thánh ý Người.

- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người.

- Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, bỏ nếp sống cũ, bỏ đường lối cũ.

Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ con đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ cuộc đời trụy lạc, để đi theo Người.

Nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa thì sẽ được những gì ?

Đức Kitô đã trả lời:

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”.

Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì chắc chắn sẽ tới đồng cỏ xanh tươi, với dòng suối mát trong lành, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời, mà Ngài còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không ai có thể lấy mất được.

Không chỉ Chúa Con, mà cả Chúa Cha, cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người:

“Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”.

Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy.

Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối, trong cả hai bàn tay của cả Chúa Cha, lẫn Chúa Con, thì còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa.

Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên.

Nhưng cũng có những mục tử chưa hoàn toàn yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi.

Vậy, lạy Chúa,  Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cả thế giới và xã hội này, thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa, tình người hơn. A-men.

----------------------------------

 

Bài 5: Tình yêu hy sinh quên mình

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 206 - Phục Sinh 5 C

Bạn thân mến,

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết và bị thương. Trong cái tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.

Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.

Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ:

- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?

Chị đáp: Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói, vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy  miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. sau đó, tôi không còn biết gì nữa ?

Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ?

Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

*****

Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (PS 5-C: Ga 13, 31-33a. 34-35).

- Yêu như Thầy đã yêu, chính là cúi xuống rửa chân cho nhau, để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.

- Yêu như Thầy đã yêu, chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.

Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới. Mới ở đây, chính là yêu như Thầy đã yêu.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu, khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu, khi chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước anh em.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu, khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức độ như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.

- Như vậy, yêu như Thầy đã yêu: không phải là tình yêu vị kỷ (Eros): yêu người khác, nhưng chỉ để lợi dụng, để chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.

- Yêu như Thầy đã yêu, chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô:

“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau”.

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, nghĩa là con phải yêu thương anh chị em con với tất cả con người của mình, phải quên mình, và quan tâm lo cho người khác và đem sự lành của con cho họ, vì Chúa đến cửu tất cả chúng con và muốn thấy mọi người xử tốt với nhau.

Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con. Amen.

--------------------------------------------

 

Bài 6: Chuyện anh thợ giày quá dính bén tiền của nên sinh ra rối lòng

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 207 - Phục sinh 6 C

Bạn thân mến,

Có người thợ giày ngày ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng đến ca hát với anh.

Đối diện với anh là một ông nhà giàu, suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới ngủ nhưng không sao ngủ được vì tiếng hát ồn ào của anh thợ giày.

Ông bèn mời anh thợ giày sang nhà, tặng cho anh một túi đầy tiền vàng. Anh thợ giày mừng quýnh, đem về nhà và đếm cả ngày cách sung sướng. Khi thấy đám trẻ đến nhìn, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền, nên đuổi chúng đi.

Ban đêm anh sợ mất túi tiền, không dám ngủ, rán thức để canh giữ. Mòn mỏi quá, nên buộc lòng anh phải đem giấu, nhưng vẫn sợ mất, nên mỗi khi thức dậy anh lại phải đem giấu chỗ khác. Thế là anh không còn ca hát vui vẻ gì được nữa, đám trẻ xa lánh, đêm ngày anh càng gầy ốm xanh xao!

Thế là anh không chịu nổi nữa. Anh bèn mang túi vàng trả lại cho ông nhà giàu. Từ đó anh lại vui vẻ thoải mái, ca hát với các trẻ hằng ngày. (Theo Wille Hoffsemmer).

*****

Anh thợ giày dính bén tiền của, ham mê quá, sinh ra rối lòng. Từ đó ảnh hưởng đến tâm sinh lý: Ăn không ngon, ngủ không yên, mất cả niềm vui thân thuộc, càng ngày càng suy thoái về tinh thần, lẫn thể xác.

May thay, anh lại biết từ bỏ một đối tượng không lành mạnh, để trở về cuộc sống an lành bình thường.

Phải chăng, nhờ ảnh hưởng của Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh năm C hôm nay, mà anh đã biết chỗi dậy, không để cho của cải chi phối cuộc sống đến mức tai hại.

Chúa đã nói rằng: “ Nếu tay ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi… Nếu chân ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi…. Nếu mắt ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy khoét nó đi… (Mc.9,42-48)

Trong cuộc sống còn quá nhiều điều làm chúng ta mất bình an: Tội lỗi sinh ra rối lòng, mất tình yêu với Thiên Chúa, và khi xúc phạm đến tha nhân ta lại lỗi đức ái.

Mỗi lần lỗi phạm, chúng ta lại phải tái lập sự bình an trong tâm hồn, hoà giải với Thiên Chúa và tha nhân.

Ngoài tội lỗi ra, những điều làm chúng ta mất bình an, đó là đam mê thái quá.

Những ham muốn ở đời này, tự nó là tốt, nếu đi trong lề lối của Thiên Chúa.

Nhưng ham mê quá độ, đi vượt quá giới răn Chúa, lại là thảm hoạ cho chính mình, cho tha nhân, cho xã hội.

Cũng như anh thợ giày ham mê túi tiền vàng, thì ở đời này còn rất nhiều thứ làm cho người ta hấp dẫn. Chẳng hạn. Chúa ban cho loài người có nam có nữ để nâng đỡ nhau, bổ túc cho nhau và để tạo nên một hương thơm tình yêu tuyệt vời, nhưng khi sự hiện diện của chàng hay nàng chiếm đoạt tâm hồn, đến ngày tưởng, đêm mơ, nó bắt đầu đi đến phiền toái.

Ham quá hoá ra tội lỗi: Bệnh tương tư, thủ đoạn chiếm hữu, tệ hại nhất là bất chấp lề luật Chúa, kể cả xung đột, để được theo ý mình.

Những chuyện đại loại như thế vẫn thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày.

Ngay cả trong Kinh Thánh, cũng không thiếu những chuyện giống như thế: Quan Pô-ti-pha mua Giuse từ chợ bầy bán nô lệ đem về nhà, thế mà đã lọt vào đôi mắt long lanh của bà vợ ông quan. Nàng dụ dỗ Giuse phạm tội (Sáng Thế Ký, Ch: 39):

- Anh nằm với em đi!

Từ xáo trộn nội tâm của nàng, làm rối rắm thêm cho tâm hồn Giuse, kèm theo bao tai hoạ khác nữa.

Trong con người chúng ta còn có rất nhiều đam mê không thể nào kể cho xiết, nếu chúng ta không tự chủ được, nó sẽ đảo lộn tâm hồn, làm mất bình an nội tâm.

Chỉ có đường lối Thiên Chúa và ơn thánh của Ngài, mới kìm hãm con người yếu đuối của ta được.

- Nếu chúng ta đi tìm tình yêu, thì hãy “ở lại trong tình yêu của Chúa” (Ga. 15,9).

- Nếu chúng ta đi tìm tiền của cũng là để dùng nó để mua chuộc nước trời mà thôi.

Chúa Giêsu xuống thế làm người là để làm lại trật tự cho thế gian, đem bình an cho thế giới. Những trang đầu của sách Tin Mừng đã viết về lời chúc của Sứ thần khi Đấng Cứu Thế vừa mới ra đời:

 “Vinh danh Chúa cả trên trời.
Bình an dưới thế cho người lòng ngay.” (Lc.2,14)

Nguồn bình an từ đó cứ tiếp tục chan chảy trên địa cầu. Ngài đến để xua đuổi mọi xáo trộn, đem lại niềm vui cho tâm hồn.

Chính Đấng Cứu Thế sẽ đem lại phúc lộc bình an tuyệt vời nhất: “Lúc đó sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng”. (Tv. 72,7).

Những ai thành tâm tìm kiếm Ngài sẽ tìm được yên vui.

Các thánh Tông đồ là những vị theo sát chân Chúa, nên đã được nếm hưởng nguồn ơn phúc bao la.

Bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ trước khi Ngài về trời, không phải là lời bình an như phong tục người Do Thái chào chúc nhau mỗi khi từ giã, mà đây là sự trao ban bình an cho các Tông đồ: “Thầy ban cho chúng con sự bình an của Thầy” (Ga.14,27).

Hiệu quả ơn bình an của Chúa Giêsu rất dồi dào, các môn đệ không còn lo âu, sợ hãi, dù Thầy mình đã khuất bóng.

Trái lại các môn đệ còn phải vui mừng; vì Thầy mình đã hoàn tất sứ vụ Cứu độ ở trần gian, mang hào quang vinh thắng trở về với Chúa Cha.

Hơn nữa, các Ngài còn được Chúa Thánh Thần dẫn dắt, nhắc nhở những việc phải làm, ban ơn sức mạnh phi thường để các Ngài hăng say đi vào giữa lòng thế giới, đem Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân. Dù phải túng thiếu, xa xôi, vất vả, hiểm nguy, bắt bớ, đòn đánh, tù ngục, cuối cùng sẵn sàng chịu chết vì Đức Kitô và cho muôn thế hệ mai sau.

Lạy Chúa, xin biến đổi con thành dụng cụ hoà bình của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nới lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem niềm tin vào nơi nghi kỵ, đem trông cậy vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui tới chốn u sầu.

Lạy Chúa, xin dạy con, tìm an ủi ngưòi, hơn được người ủi an; tìm hiểu biết người, hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người, hơn được người mến yêu. Vì chính khi cho đi, là khi được nhận lãnh, chính lúc thứ tha, là khi được tha thứ; chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời. Amen. (Kinh Hòa Bình)

---------------------------------

 

Bài 7: Mẹ ơi, con mong mẹ chóng về Trời.

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 208 - Lễ Thăng Thiên C

Bạn thân mến,

Một em bé mới có 3 tuổi đã ngây thơ nói với mẹ mình:

“Mẹ ơi, con mong mẹ chóng về Trời với Chúa”.

Sau đó ít tháng, mẹ em đã qua đời thật. Em bé ấy chính là thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.

Khi em bé mong mẹ về trời, là em nghĩ rằng về trời sẽ hạnh phúc.

*****

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời.

Điều này Chúa đã nói trước với các môn đệ: “Thầy bởi Cha mà ra. Thầy đã đến trong thế gian. Bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha”.

Cha ở đâu? Cha Ở trên trời. Chính Chúa đã nói điều đó với ông Nicôđêmô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người là Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13).

Thiên đàng được đồng hoá với trời.

- Vậy thiên đàng là gì?
- Thiên đàng ở đâu?
- Ta được vào thiên đàng khi nào?
- Làm sao để được vào thiên đàng?

1. Thiên đàng là gì?

1.1. Đối với người không có niềm tin vào sự sống đời đời, thì cho rằng thiên đàng là hạnh phúc. Và khi nào có tiền, có danh vọng, hưởng được mọi thứ trên trần gian này, có thành công, có vợ đẹp, con khôn, muốn gì được nấy, thì là có thiên đàng hạnh phúc.

Thế nhưng, đây là thứ thiên đàng phù phiếm ở dưới thế, nay còn, mai mất. Mọi sự sẽ kết thúc trước cái chết.

1.2. Còn đối với những ai có niềm tin tưởng vào Chúa, vào sự sống đời đời, sự sống đời sau, thì thiên đàng là quê hương vĩnh cửu, và cái chết chính là kết thúc một giai đoạn tạm bợ, để bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, là hạnh phúc muôn đời. Thiên đàng là nơi mà ông Gióp trong lúc đau khổ đã kêu lên: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống và trong ngày sau hết (tức là ngày tận thế), tôi sẽ từ bụi đất sống lại và tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”.

Chính Chúa Giêsu đã an ủi những người đau khổ, bị bắt bớ bằng niềm hy vọng Nước Trời: “Các con hãy mừng rỡ hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ to lớn trên trời”.

Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ phán với những người lành: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng Nước Trời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ khi tạo dựng thế gian”.

Nói tóm lại, Thiên đàng là một “trời mới, đất mới”, là nới “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

Chính Thánh Phaolô đã nói: “Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy, và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài”.

Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc Nước Trời.

Đó là nơi vinh quang. Đó là nơi ánh sáng. Đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa.

2. Thiên đàng ở đâu?

Các em nhỏ thường chỉ tay lên trời và bảo thiên đàng ở trên trời.

Chúng ta tưởng trời ở thật xa, nhưng thực ra lại rất gần.

Chúa đã nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Vậy, ở đâu có Chúa, là ở đấy có thiên đàng.

- Thiên đàng có thể ở ngay trong lòng ta.

- Thiên đàng có thể ở ngay trong trái tim ta, nếu trái tim đầy ắp yêu thương, ngập tràn ơn Chúa.

- Thiên đàng có thể ở ngay trong thế giới này, nếu tràn ngập công bình và huynh đệ.

3. Ta được lên thiên đàng khi nào?

Ta tưởng mình chỉ được lên thiên đàng sau cuộc sống đời này, nhưng thực ra, ta có thể vui hưởng hạnh phúc Nước Trời bất cứ lúc nào, nếu khi ta có Chúa ở trong ta. Vì Chúa là hạnh phúc của đời ta. Có Chúa là có tất cả.

Tuy nhiên, niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy không phải như một món ăn quí giá đã nấu chín và chúng ta chỉ việc dùng mà thôi.

Trái lại, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới.

4. Vậy làm sao để được vào Thiên đàng?

4.1. Phải giữ cho lòng trong sạch, không vương vấn tội lỗi. Chúa đã dạy rằng: “Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”

4.2. Sống công chính

Vua Thánh Đavít đã xác quyết: “Sống công chính, tôi sẽ được nhìn thấy Chúa. Thức giấc rồi, tôi no thoả Thánh Nhan”.

Còn sách khôn ngoan thì diễn tả: “Bấy giờ người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao”.

4.3. Phải giữ các giới răn, biết hy sinh và chia sẻ

Có một thanh niên đến thưa Chúa rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”.

Chúa trả lời: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn”.

Ngươi ấy hỏi điều răn nào?

Chúa đáp: “Không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, phải thờ kính cha mẹ, phải yêu đồng loại như chính mình”.

Người ấy nói: “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ. Tôi còn thiếu điều gì nữa?”

Chúa đáp: “Vậy còn thiếu một điều nữa, hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời”.

Nghe lời đó, anh buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. (Mt 19,16tt)

4.4. Mến Chúa và yêu người

Một tiến sĩ luật đứng lên hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Chúa đáp: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”

Chúa bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy sẽ được sống” (lc 10,25tt)

Lạy Chúa, Chúa về trời là niềm hy vọng của chúng con. Trời là thiên đàng. Chúng con tin có thiên đàng. Chúng con mong ước được vào thiên đàng. Xin cho chúng con giữ được lòng trong sạch, sống công chính, giữ các giới răn Chúa truyền và Hội Thánh dạy, biết hy sinh và chia sẻ, mến Chúa và yêu người, xây dựng thế giới này ngày một tươi đẹp hơn, để chúng con được hưởng hạnh phúc đời này và một ngày kia được trở về với Chúa trên quê hương Nước Trời mà chúng con hằng mong mỏi. Amen.
 
---------------------------

 

Bài 8: Những biến đổi kỳ diệu từ Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 209 – Lễ Hiện Xuống C

Bạn thân mến,

Báo Tuổi trẻ Chúa nhật số ra ngày 29-4-2001 có đăng bài “Sự bình an” như sau:

Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an.

Nhiều họa sĩ đã cố công.

Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh, nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Bức tranh thứ nhất đó là bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ, vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình an thật hoàn hảo.

Còn bức tranh hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.

Nhưng sau khi nhà vua ngắm nhìn kỳ bức tranh hai, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.

Nhà vua công bố:”Ta chấm bức tranh thứ hai này! Bởi sự bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp, ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an”.

*****

Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.

Giữa cơn bão táp phong ba, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực:”Bình an cho anh em!”.

- Bình an của Đấng Phục sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió.
- Bình an của Người là bình an trong tâm hồn.
- Bình an ấy không loại trừ phải đối đầu với kẻ thù.
- Bình an ấy giúp ta đối diện với khổ đau và cái chết.

Chính vì thế, mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân, mà các môn đệ sẽ phải đi tới.

“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Nhận được bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các môn đệ không còn nhát sợ. Với sức mạnh của Thánh Thần, các ngài mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu, Đấng đã bị người ta giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Người đang hiện diện sống động giữa các ngài và đang hoạt động mãnh liệt trong các ngài.

Lễ Hiện xuống nhắc nhở người tín hữu về một Thánh Thần bình an đã hoạt động trong lòng Giáo Hội suốt hơn 2000 năm qua.

Người cũng đang hiện diện trong những người đã lãnh nhận bí tích Thêm sức để sai họ đi làm chứng nhân cho Tin mừng:

- Làm chứng cho Tin mừng là để Thánh Thần mở toang cánh cửa tâm hồn, không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau trong cuộc sống.

- Làm chứng cho Tin mừng là để Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, để tận tình yêu thương và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.

- Làm chứng cho Tin mừng là để Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đến với những người chưa nhận biết Chúa, bằng đời sống dấn thân phục vụ trong hân hoan.

Nếu mỗi người tín hữu biết mềm mại để Thánh Thần canh tân đổi mới, nếu mỗi chúng ta biết lắng nghe tiếng nói thầm lặng nhưng mạnh mẽ của Thánh Thần, thì mọi người sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu trên toàn thế giới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới, để cả trái đất này được thay da đổi thịt, trong cùng một Thánh Thần tình yêu. Amen.
 
--------------------------------

 

Bài 9: Một câu chuyện về Thiên Chúa nơi người Châu Phi

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 210 - Lễ Chúa Ba Ngôi C

Bạn thân mến,

Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa đáng chúng ta suy nghĩ:

Một hôm, Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc, 4 người này đều thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài, rồi phục mình thờ lạy.

Sau đó, Thiên Chúa biến mất, rồi xem sự việc diễn tiến thế nào:

Bốn người kia chạy vào làng và nói rằng: Đúng là có Thiên Chúa thật, vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ nay về sau, chúng ta đừng sống vô thần nữa, mà phải cố mà lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe thế đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật.

Nhưng một người hỏi: “Thế thì Thiên Chúa hiện ra mặc áo màu gì ?”

- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa ba nói sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.

Thế là mọi người cãi nhau chí chóe, rồi ẩu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.

*****

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy: Mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm.

Thực ra, mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra, mỗi người phải biết rằng, mình chỉ thấy được một phần, nên đừng nghĩ rằng mình đã thấy toàn vẹn.

Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác, để bổ sung cho cái nhìn của mình, thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.

Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài.

Để hiểu biết về những sự dưới thế, mà chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta có thể nắm bắt được đầy đủ những sự trên trời.

Chỉ có ơn Trên ban sự khôn ngoan trợ giúp, chúng ta mới có hể hiểu được phần nào về Thiên Chúa và đường lối của Ngài.

Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.

Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả.

Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo, hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài ?

Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì như thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu chính là hình ảnh Thiên Chúa vô hình”.

Vậy Chúa Giêsu ra sao ?

Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất: Ngài là Mục Tử nhân lành.

Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này: Ngài là mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.

Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào ?

Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.

Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống.

Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta đang  sống hằng ngày.

Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới, mà Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con rằng “không có Thầy chúng con không làm được gì”.

Chúng con luôn tin vào lời đó của Chúa. Xin Chúa soi lòng mở trí cho chúng con hiểu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhất là để chúng con luôn cảm nhận tình Chúa yêu thương chúng con là vô bờ, để chúng con cũng biết luôn cố gắng gìn giữ, phục vụ, yêu thương xã  hội con đang sống, nhất là gia đình con luôn là cộng đồng của tình yêu thương, như Thiên Chúa là tình yêu. Amen.

-------------------------------

 

Bài 10: Sự khác biệt giữa cây Thánh Giá và Mình Thánh Chúa.

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 211 - Lễ Mình MáuThánh Chúa C

Bạn thân mến,

Một hôm, có người hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu:

”Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa?”.

Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng:

”Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”.

Đúng vậy, về phép Thánh Thể, người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương.

Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay.

Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Ngài.

Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí này, tức là thánh lễ, phải được tiếp diễn luôn mãi, qua các môn đệ của Ngài.

Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu:

”Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”,

tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng đã là Mình và Máu Chúa Giêsu.

Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người.

Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức.

Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực: Một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, còn một đàng là tấm bánh nhỏ bé và rượu vẫn bình thường.

Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.

Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin.

Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu.

Tại sao vậy ?

Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.

Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ.

Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã.

Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ, cũng như chén rượu, Ngài đã trao cho các môn đệ, là để họ cùng ăn, cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ, để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài.

Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày.

Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh.

Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.

Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ.

Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ, hoặc không cám ơn đàng hoàng.

Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ bất   kính: Nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính.

Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.

------------------------------------

 

Bài 11: Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Bài 212 - Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu C

Bạn thân mến,

Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng: Nếu bà không được giải phẩu thay tim ngay, thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón tay.

Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.

Khi người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: Anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vv…...

Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, bởi vì theo anh nghĩ: Tim của người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!

Đứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối, với lý do cô là con gái duy nhất trong nhà. Và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom, sắp xếp, mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần, cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất quan trọng khác… Vậy cô cần phải sống.

Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ. thì phải lẽ hơn…

Đến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận… Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.

Thế là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.

*****

Thế nhưng có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban Trái Tim, mà còn hiến toàn cả thân xác và mạng sống của Người, để cứu độ chúng ta. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta và chết thay cho chúng ta.

“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sẽ được sống cuộc đời công chính. Vì như thánh Phêrô nói:  

“Người phải mang những vết thương, mà anh em đã được chữa lành” (1 Phêrô 2, 24)

Trước mặt Thiên Chúa toàn năng tốt lành cao cả thì loài người chúng ta chỉ là sâu bọ, chỉ là cỏ rác, cát bụi thấp hèn, thế mà Chúa Giê-su, là Chúa Tể càn khôn, là Vua của muôn vua, là Đấng quyền năng và vô cùng cao cả, đã vui lòng hiến ban thân xác và mạng sống cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng ta.

Thật là điều nhiệm mầu của tình yêu, mà trí khôn loài người không hiểu thấu được.

Trên thập giá, Chúa Giê-su trao ban cho chúng ta không những Trái Tim bị đâm thủng, mà còn cả sinh mạng của Người, với trọn vẹn tình yêu và lòng tha thứ vô biên.

Từ đó, Thập giá Chúa Giê-su đã trở thành biểu tượng cao quí nhất của tình yêu.

Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa Cha:

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Người, thì sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống muôn đời.” (Gioan 3, 16)

*****

Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương của Chúa Con:

“Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình.” (Gioan 15, 13)

Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.

Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, chúng ta không tôn thờ hình ảnh trái tim rỉ máu của Chúa Giê-su, nhưng là tôn thờ Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa, mà Thánh Tâm là biểu tượng.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin dạy chúng con bài học yêu thương cơ bản: Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban.

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một mình.” (Gioan 3, 16)

“Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho người mình yêu.” (Gioan 15, 13)

---------------------------------

 

Bài 12: Bình an của Chúa ở cùng bạn

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 213 - Thường Niên 14 C

Bạn thân mến,

Vào năm 1980, có một tuần báo nọ bên Hoa Kỳ đã đăng tải một sự cố sau đây:

Một người vừa mua hàng trong siêu thị xong, trở lại xe mình, thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại nằm ngay trên chỗ ngồi của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội như sau:

Thưa ông bà, tôi có ý định đánh cắp chiếc xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của ông bà gắn nơi tay lái: “Bình an của Chúa ở cùng bạn”, thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ.

Ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc tôi là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này, thì chắc chắn ông bà mất xe và không có sự bình an, tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây là lần đầu tiên tôi bước vào nghề ăn cắp xe.

Xin chúc ông bà và cho cả tôi nữa sự bình an của Chúa. Chúc ông bà lái xe an toàn và lần sau xin nhớ khóa cửa xe.

Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.

*****

Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý đến một trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi sai họ ra đi truyền giáo đến trước những nơi mà Chúa sẽ đi qua để chuẩn bị cho Chúa đến: “Vào nhà nào chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà này". (TN 14-C Lc 10, 1-9)

Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc xe: “Cầu chúc bình an” mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một người không làm việc xấu xa nữa, thì thử hỏi nếu những đồ đệ của Chúa, chính chúng ta đây, nếu chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi, mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh, mà ta thường gặp hằng ngày; nếu chúng ta thực hiện được điều này thì thử hỏi ta có thể đóng góp phần tích cực của mình, cho sự bình an của anh chị em, nơi môi trường chúng ta sinh sống biết là chừng nào.

Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc “bình an cho nhà này” là tiếng vang trước cho lời chúc bình an của Chúa Giêsu Phục sinh, trước khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa: “Bình an cho chúng con”.

Chắc chắn, khi nghe những lời chúc của Đấng Phục sinh: “Bình an cho chúng con”, các tông đồ nhớ lại lời dạy trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai các ngài đi thực tập trước công việc truyền giáo, mà các ngài sẽ chu toàn sau biến cố Phục sinh:

“Vào nhà nào, chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.

Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho các tông đồ, để các ông ra đi và đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc như Chúa đã chúc: “Bình an cho nhà này”.

Các ông nói như Chúa đã nói, làm các công việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời Chúa nói là hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: “Bình an cho chúng con. Bình an cho nhà này”.

Ước gì mỗi người chúng ta được thật sự lãnh nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để thực hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người.

Ước gì mỗi người chúng ta trước hết lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh hóa, biến đổi chúng ta để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm “Bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.

Người truyền giáo phải là kẻ nói những lời bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh chị em.

Chúng ta cần kiểm điểm lại lời nói và việc làm của mình xem có phải là lời nói và việc làm như Chúa hay không ? Đó là “Bình an cho anh chị em. Bình an cho nhà này”.

Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy”, để rồi chúng ta cũng có thể trao sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.

Lạy Chúa, mọi người Kitô hữu chúng con đều được Chúa sai đi gặt lúa.

Xin cho chúng con biết đem bình an và lời Chúa đến mọi gia đình, để lời Chúa sẽ trở nên sự sống đời đời cho họ. Amen.

---------------------------

 

Bài 13: Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 214 - Thường Niên 15 C

Bạn thân mến,

Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ.

Ngạc nhiên trước sự bình tâm thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:

- Thầy không biết yêu sao ?

Vị ẩn sĩ trả lời:

- Chưa đến giờ đó thôi ?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó.

Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho nhừ tử, thừa sống, thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị

Cô gái khi tĩnh dậy, mới sững sờ nhìn vị ân nhân, mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:

- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót !

*****

Người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu:

“Ai là người thân cận của tôi ?”  (TN 15 C: Lc 10, 25-37)

Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành:

Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm đó nửa sống, nửa chết bên lề đường.

Trong khi hai thầy tư tế và Lêvi lần lượt đến thấy vậy, đã “tránh qua bên kia mà đi”, đang khi đó người Samaria ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?”

Hỏi tức là trả lời.

Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”.

Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”.

Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình.

Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông.

Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay.

Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”.

Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lêvi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế, khi đụng vào xác chết, hoặc sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân !

Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi:

“Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử ?”

Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu hỏi:

“Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy ?”

Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân.

Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân.

Kahil Gibram có một câu nói chí tình:

“Bạn cho đi quá ít, khi chỉ cho đi của cải.
Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.

Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình.
Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn.
Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy, khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, là con người chỉ thực sự, khi người ta dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa, khi họ dám tiêu hao vì người khác.

Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Yêu rồi làm.

Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em.

Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ.

Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

Lạy Chúa, xin giúp con biết sống quảng đại, biết yêu thương và phục vụ anh chị em con, cả trong những việc nhỏ thường ngày.Amen.

------------------------------

 

Bài 14: Giá trị của sự thinh lặng, là bà Maria Madalêna ở bên Chúa

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 215 - Thường Niên 16 C

Bạn thân mến,

Truyện cổ tích Arập có kể lại câu chuyện:

Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với một vị hiền triết.

Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền triết, bởi suốt ngày ông không thèm nói lời nào với hoàng tử, mà chỉ ra dấu cho hoàng tử hãy ngồi im bên cạnh mình.

Sau một tháng im lặng như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:

- Thưa thầy, cha tôi gởi tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi, mà tôi chưa học được gì cả ?

Nhà hiền triết ôn tồn trả lời:

Này hoàng tử trẻ tuổi của ta,

- Nếu con không học quí trọng sự thinh lặng của ta, thì con sẽ không thể nào quí trọng được những lời ta nói.

- Nếu con không học được bài học sống trong thinh lặng, thì con sẽ không học được điều gì nữa đâu.

*****

Triết gia người Pháp ông Pascal đã nhận định về thời đại của ông như sau:

“Sau khi đã quan sát cuộc sống của những người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức, xáo trộn cho con người, là vì con người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa”.

Ông Pascal đã sống xa chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp.

Nhưng căn bệnh của những người ở thời đại ông, vẫn còn là căn bệnh của rất nhiều người của thời đại hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng.

Nhìn qua những ồn ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này vẫn còn tồn tại.

Nhưng không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không có gì cả.

Người Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này, vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh.

Sự thinh lặng của người Kitô là sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để được nhìn thấy Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.

- Thử hỏi trong một  ngày sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này ?

- Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể ?

- Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa ?

Đây là điều tốt nhất mà Maria đã chọn, như trong Phúc âm Chúa nhật TN 16 C hôm nay (Lc 10, 38-42) kể lại cho chúng ta.

Sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy Chúa.

Không dừng lại ở sự thinh lặng, nhưng luôn đi trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa, được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài.

Đây là điều chúng ta nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II (Col 1,24-28)

Sống trong sự thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.

Cách nói còn thiếu nơi sự thương khó của Chúa, không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong cuộc đời của tông đồ Phaolô.

Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này, chúng ta mới có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.

Tâm thức sống ồn ào, là tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống.

Sống trong thinh lặng có đầy Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày nay.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được sống trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa. Amen.

------------------------------------

 

Bài 15: Sứ điệp bốn chữ đầu của kinh Lạy Cha

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 216 - Thường Niên 17 C

Bạn thân mến,

Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn bất tử, đến đời sau.

Khi ông ta đau nặng, người ta đưa ông vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng gần như hấp hối.

Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông, nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:

- Chị làm cái gì thế ?

Vị nữ tu trả lời:

- Tôi đang cầu nguyện, để ông được giảm bớt những cơn đau và mau mạnh.

- Vậy chị cầu nguyện như thế nào ?

Vị nữ tu bèn đọc thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã dạy:

- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…

Ông ta phát biểu:

- Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.

- Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Rồi sao nữa:

- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:

- Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh bất hủ này.

Và sau cùng, một người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa, nhờ lời kinh Lạy Cha.

*****

Trong phần tìm hiểu lời nChúa sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha chúng con.

Trước hết là hai chữ “Lạy Cha”.

Trong đời sống chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính nào đó của Thiên Chúa.

Nhưng theo tôi nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy vọng, cho bằng danh hiệu là Cha.

Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện hãy thưa lên:

- Lạy Cha chúng con ở trên trời.

Thiên Chúa là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta chiếc chìa khóa để giải quyết vấn đề thân phận con người:

- Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu ?

Tôi xin thưa:

- Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Tiếp đến là hai chữ “chúng con”.

Chúng ta không đọc: Lạy Cha con, mà là đọc Lạy Cha chúng con.

Như thế lời kinh tuyệt vời này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.

Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.

Như thế, lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.

Đã là anh em, thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hòa giải cùng nhau. Vì thế, không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:

- Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài.

Đồng thời là anh em với nhau, nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

Đó chính là những sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.

------------------------------------

 

Bài 16: Người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 217 - Thường Niên 18 C

Bạn thân mến,

Năm 1987, Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn đại học, về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì ? Họ nhằm điều gì trước hết ?

Anh chị em có biết kết quả như thế nào không ? 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết:

- “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”.

Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt, với đồng lương cao để sống thoải mái”.

Không phải chỉ có những người trẻ này mới có ý nghĩ về cuộc sống hưởng thụ những của cải vật chất như vậy, mà trong một xã hội thấm nhiễm tinh thần hưởng thụ và vật chất như ngày nay, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc, và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng tốt.

Nhiều người có thái độ giống như ông phú hộ giàu có được Chúa Giêsu mô tả trong Tin Mừng (18 TN-C: Lc 12, 13-21).

Đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, thường được gọi là dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc hay dại dột. Bởi vì ông ta chỉ nghĩ đến đời sống trần gian, mà quên mất số phận vĩnh cửu của mình.

Ông ta chỉ lo làm giàu, mà không biết rằng: Tất cả sự giàu sang của ông chỉ là hư vô mà thôi, vì tất cả những gì ông đang có, ông không thể đem chúng theo ông vào cuộc sống vĩnh cửu, ông phải để lại cho những người khác.

Hơn nữa, ông lại chỉ tìm sự an nhàn, hưởng thụ vinh thân, phì da, mà không nghĩ tới Thiên Chúa, không nghĩ tới người khác, và cũng không nghĩ tới đời sau. Đó là lý do tại sao ông phú hộ này bị Chúa bảo là ngu ngốc, dại dột, vì ông tham lam, thích sống hưởng thụ, mà quên mất đời sống vĩnh cửu của mình.

Câu chuyện sau đây cũng tương tự như vậy, giúp minh họa cho chúng ta hiểu rõ hơn chủ trương sai lầm của ông phú hộ ấy:

Có một người kia rất giàu có, ruộng đất mênh mông thẳng cánh cò bay. Ông có một tên đầy tớ vốn có lòng tham của và ham danh vọng.

Một hôm, ông gọi đầy tớ đến và bảo: “Ta sẽ cho ngươi ruộng đất của ta như lòng ngươi ước nguyện. Ngươi có thể chạy bao nhiêu tùy ý, chạy đủ một vòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Ta sẽ cho ngươi hết số ruộng đất mà ngươi đã chạy được, nhưng phải nhớ điều này: nếu ngươi trở về đây chỉ sau một phút khi mặt trời đã lặn rồi, ngươi sẽ không được gì hết, cho dù chỉ một tấc đất thôi”.

Người đầy tớ rất sung sướng làm theo lời ông chủ. Mặt trời vừa lóe lên những tia nắng đầu tiên, hắn đã sẵn sàng khởi hành, trong lòng nghĩ rằng: “Thật là sung sướng biết bao, chỉ trong vòng một ngày thôi, mình sẽ trở thành một người điền chủ giàu có”.

Với niềm vui sướng đó, hắn bắt đầu cắm cổ chạy, chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Mặt trời đã đứng ngọ, lẽ ra đến lúc phải quay đầu chạy vòng trở về cho kịp trước khi mặt trời lặn mới phải, nhưng trước mặt hắn, đồng cỏ vẫn còn xanh tươi, ruộng lúa chín vàng. Lòng tham đã khiến hắn chóa mắt. Thế là hắn cứ cắm đầu chạy mãi, chạy tiếp nữa. Đến khi hắn quay đầu chạy về thì trời đã xế chiều, nhưng đường vẫn còn xa, hắn ước ao mặt trời đứng lại để chạy về cho kịp. Hắn lo sợ, gắng sức chạy nhanh hơn. Khi hắn tới cửa nhà ông chủ, cũng vừa lúc mặt trời lặn. Nhưng tiếc thay cũng là lúc hắn hết hơi, ngã gục tắt thở dưới chân ông chủ.

Và ông chủ cho anh như là phần số là một chỗ nghỉ. vừa dài, vừa rộng, không quá ba tấc đất.

*****

Chúng ta thường nghe nói: “Tham thì thâm” quả là đúng.

Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ, đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình, thay vì bỏ tiền ra mua.

Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải, đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất, chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức.

Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng, họ liều mình đánh mất, không những tự do, mà còn mất cả chính đời sống nữa.

Của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là phương tiện cần thiết để sống, nhưng không bao giờ là tất cả.

Không thể vì chúng, mà người ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả mua gian, bán lận, xâm phạm mạng sống, cũng như tiết hạnh của kẻ khác, tham ô, tham nhũng, hoặc khai thác “con người” và “thiên nhiên” cách bất chính.

Tiền bạc, của cải tự nó không phải là xấu. Ai cũng cần có tiền bạc, của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm.

Tuy nhiên, tiền bạc, của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi:

- Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống tốt đẹp, hạnh phúc.

- Trái lại, nếu chạy theo tiền bạc, mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại ấm no hạnh phúc đời này, nhưng thiệt mất linh hồn thì ích gì?

Bởi vì, cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi cuộc sống giàu nghèo, sang hèn.

Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của chúng ta sẽ ra sao ?

Của cải trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất diệt hay lôi kéo chúng ta vào chỗ trầm luân đời đời?

Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình:

- Chúng ta phải nhận định cho đúng bậc thang giá trị của cuộc sống. Trong khi bôn ba vất vả kiếm sống hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm nước Chúa và những giá trị của nước Chúa trước hết.

- Trong khi tìm kiếm nhu cầu vật chất, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian dối.

Chúng ta phải biết hài lòng với những gì mình đang có, đồng thời không sống ích kỷ, đóng kín, chỉ biết có mình, bất cần người khác.

Trái lại, hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy:

“Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ, để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau” (Cl 3,1).

----------------------------------------

 

Bài 17: Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 218 - Thường Niên 19 C

Bạn thân mến,

Lời Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng Chúa Nhật 19-C Thường Niên hôm nay: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay" (Lc 12:35).

Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay:

“Cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai... Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát.

Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra, như vụ nổ bom toà đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya, vụ tàn sát tập thể tại Nam Tư, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên, như lũ lụt tại Trung quốc, sóng thần tại New Guinea, đất động tại Ấn độ.....”

Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế, mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian.

Nhưng thử hỏi: "Rời thế gian để đi đâu?"

- Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm?

- Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác?

- Hay chết là hết?

Nếu nói chết rồi sẽ đi đầu thai kiếp khác thì e rằng người ta chẳng cần phải quan tâm lo lắng về đời sống ăn ngay ở lành làm gì.

Vì có kẻ cho rằng: "Tại sao không ăn chơi hưởng thụ cho thoải mái, để bù lấp những ngày cơ cực.

Nếu không may sau này có bị đầu thai làm kiếp trâu bò lừa ngựa, thì cũng không thành vấn đề, bởi vì hiện nay cũng từng phải vất vả quần quật, ‘cày bừa’ tối ngày nên có kinh nghiệm rồi."

Có người còn tâm sự: Ở Việt nam còn được sinh ra trong tuổi con rồng, con gà hay con rắn..., chứ qua bên Mỹ, dường như ai cũng cầm tinh giống nhau: tinh con trâu. Vì ai cũng phải đi cày tối ngày. Thế nên nếu có đầu thai làm kiếp trâu bò, tưởng cũng không có gì đáng ngại ngùng.

Thành ra, nếu chết rồi đi đầu thai kiếp khác, thì không công bằng và không đáp ứng xứng hợp với nhân phẩm cao cả của con người chút nào.

Với lại, thú vật thì đâu có tri thức để phân biệt đúng sai, lành dữ, và như thế làm sao chúng có dịp chọn lựa hay từ khước, lập công hay phạm tội?

Làm sao có cơ may để đi đến một kiếp tốt hơn hay xấu hơn?

Còn nếu nói: Chết là hết, thì càng bất công và xúc phạm đến phẩm giá con người cách khủng khiếp. Chính chủ nghĩa vô thần, những triết thuyết cộng sản và chủ nghĩa hưởng thụ đã đưa con người đến với khái niệm chết là hết đầy bất nhân kia.

Nếu chết là tận tuyệt, thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái?

Nếu chết là hết, thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật chi cho vất vả?

Nếu chết là hết, thì đúng là con người đang sống trước một ngõ cụt vô cùng bất công. Bởi vì rồi đây người lành kẻ ác cũng như nhau, người dấn thân phục vụ yêu thương nhân loại cũng chẳng hơn gì kẻ gây tang thương khốn khổ cho bao người.

Nếu chết là hết, thì tôi phải tỉnh thức làm chi, ngày Chúa đến hay không, nào có quan hệ gì.

Nhưng không. Ngàn lần không! Chết không phải là hết.

Niềm tin Kitô giáo xác quyết: Chết là bước vào một cuộc sống mới và đời đời.

Trong cuộc sống đó, tôi sẽ khổ đau ngàn thu, hay hạnh phúc đời đời, tùy thuộc vào cung cách sống niềm tin hiện nay của tôi.

Như thế, tôi cần phải tự vấn: Niềm tin của mình đang ngủ vùi, chìm đắm, hay tỉnh thức hoạt động? Nó đang sống hay đã chết tiệt rồi?

Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động:

Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.

Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.

Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.

1. Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: "Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết".

2. Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: "Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi, khi nào thì các ngón tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’" Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: "Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi."

3. Cuối cùng anh  Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: "Thưa ông, nếu không có đức tin, thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận, ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: Bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta."

*****

Tôi tự hỏi:

- Do đâu mà một chàng thanh niên đầy bất hạnh lại có thể nói lên được những lời đầy khích lệ, yêu thương và tha thứ như vậy?

- Nhờ đâu mà cha mẹ anh Joe có thể can đảm cảm thông và gánh vác nổi đau khổ của đời mình và đời con như vậy?

- Tựa vào đâu mà họ có được sức mạnh để yêu thương và duy trì sự sống chứ không tận diệt hay khước từ như vậy?

Câu trả lời duy nhất chính là nhờ vào đức tin—một đức tin tỉnh thức và sống động, một đức tin được tôi luyện qua năm tháng và những bước thăng trầm trong cuộc đời. Những câu nói của ba con người trên kia đã xác quyết điều đó.

Thế giới, gia đình và lương tâm của nhiều người đang ngủ vùi trong hận thù, chôn sâu trong chiến tranh, sa đoạ trong các đam mê hưởng thụ trần tục. Chính vì sự hưởng thụ thiếu ý thức và vô trách nhiệm của người tài xế kia đã gây nên bao khổ đau cho người khác, nhưng chính nhờ niềm tin vào chân lý yêu thương, mà người ta đã tồn tại để xoa dịu bao nhiêu u sầu và đem lại hạnh phúc cho nhiều tâm hồn.

Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức như vậy chắc chắn không bị chấm dứt với cái chết, không bị đi vào hư không trống rỗng, cũng chẳng phải đầu thai kiếp này hay kiếp khác, nhưng sẽ tồn tại đến muôn đời trong tình yêu cua Thiên Chúa.

---------------------------------

 

Bài 18: Lịch sử của giải thưởng Nobel

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 219 - Thường Niên 20 C

Bạn thân mến,

Alfred Nobel, một nhà bác học danh tiếng của Thụy sĩ, đã sáng chế ra được thuốc nổ, làm cốt mìn và thứ thuốc súng không khói. Người ta đã dùng thứ vũ khí lợi hại này trong chiến tranh, nên số thương vong càng lên cao.

Do đó, sau khi đã chế tạo được thuốc làm cốt mìn, Nobel  bị một số người gọi là “hung thần” và bà Bertha suttner, vợ ông gọi ông là “một tên sát nhân”.

Chính những lời kết án đó đã giúp đưa ông tới quyết định lập giải thưởng Nobel.

Năm 1895, trước khi qua đời, ông đã làm chúc thư, để lại toàn bộ gia tài khoản 40 triệu quan, để làm giải thưởng cho những ai có công với nhân loại.

Một trong 5 giải thưởng cao quí này là giải thưởng Nobel về hòa bình, ban cho những ai đã hoạt động để gây thêm tình hữu nghị, thân ái, giữa các dân tộc hoặc cho những ai cổ động cho hòa bình nhân loại.

*****

Có lẽ không ai, không một dân tộc nào trên thế giới mà lại không khao khát hòa bình, không ao ước một cuộc sống an lành hạnh phúc.

Nhưng trớ trêu thay, từ tạo thiên lập địa cho đến nay, nhân loại nhìn chung chưa bao giờ được hưởng lấy một yên ổn. Không nơi này thì nơi khác, hằng ngày hằng giờ, không chiến tranh lớn thì chiến tranh nhỏ xảy ra liên miên.

Trước những kinh nghiệm đau thương đó, con người mới nhận ra rằng, hòa bình không thể giải quyết bằng bom nguyên tử, bằng vũ khí tối tân, hay bằng bạo lực chém giết nhau.

Và nếu những thứ đó có đem lại hòa bình thì hòa bình đó chỉ là giả tạo, tạm thời, mau tan vỡ.

Vậy phải làm gì và làm thế nào để có thể kiến tạo được một nền hòa bình vững bền và chân chính ?

Để giải đáp được vấn nạn này, trước tiên chúng ta hãy tìm kiếm đâu là nguyên nhân gốc rễ gây ra bất ổn, bất hòa giữa người với người.

Và nếu diệt trừ được nguyên nhân chính yếu đó, tất nhiên con người sẽ hưởng được sự bình an đích thực.

Trước hết, có thể khẳng định rằng, mọi bất ổn từ nhỏ đến lớn, giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác, đều bắt nguồn từ tâm địa con người.

Bởi vì, tâm bất an, thì mọi sự theo đó mà thác loạn, gây hận thù chia rẽ, sinh ra lắm tang thương độc ác.

Hơn nữa, khi lòng trí con người để cho sự kiêu căng, ích kỷ, tham tiền, háo danh ngự trị thì không thể mà không gây xích mích, bất công, lạm dụng giữa người với người.

Như thế, khi tâm trí con người chưa được giải thoát khỏi tham sân si, thì không thể có sự bình an thật sự.

Và bao lâu tâm hồn chưa có sự bình an này, thì bấy lâu bất ổn, chiến tranh vẫn còn tồn tại.

Diệt được tội lỗi, xấu xa, là diệt được hỗn loạn, chiến tranh.

Xây dựng được lòng con người trong sạch, chân chính, là kiến tạo được hòa bình đích thực.

Tuy nhiên, hòa bình không có nghĩa là được an nhàn, sung túc về vật chất, thịnh vượng cho cuộc sống này, vì vật chất, được sống mong manh, tạm bợ đâu phải là những thứ có khả năng mang lại cho con người sự vững bền và hoàn hảo đâu.

Trái lại, chính chúng ta, ai cũng tưởng sẽ đem lại sự bình an mong muốn, nhưng chỉ toàn đau khổ, chết chóc, chia rẽ, hận thù, ghen ghét.

Từ đó chúng ta mới hiểu được câu nói của Chúa trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN năm C (Luca 12,49-53):

“Thầy đến thế gian không phải đem lại sự bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

Thật chính đáng và phải lẽ, vì sứ mạng cứu chuộc của Chúa không nhằm mục đích dạy cho con người tìm kiếm thứ hòa bình, cầu an, cầu lợi để thụ hưởng những sự sung sướng vật chất, mau qua.

Trái lại, Chúa đem đến sự chia rẽ cần thiết và đáng giá, vì những gì Chúa dạy để được an bình thực sự trong tâm hồn con người thì trái ngược lại với lòng ham muốn thấp kém, trí bạc nhược, hư hèn, nên sinh ra đấu tranh, giành giật giữa sự thiện và sự ác, giữa những ai chủ trương sống đời bê tha trụy lạc sẽ chống đối, gây gổ với Chúa, với những chỉ dạy của Ngài.

Vậy để trở thành một Kitô hữu đúng nghĩa, chúng ta phải trở thành ngọn đuốc hòa bình sáng rực tình thương, phải mang một con tim cao thượng không còn chứa chấp hận thù chia rẽ, không chạy theo những nuông chiều xác thịt, không đồng lõa với những ham muốn trần thế.

Và muốn có bình an đích thực phải sống đúng lương tâm chân chính, mà không sợ chống đối vì lẽ phải, không ngại bị sỉ nhục vì chân lý, không hùa theo người khác để mưu cầu lợi ích vật chất.

Tóm lại, một Kitô hữu chân chính bao giờ cũng yêu chuộng hòa bình và ra sức xây dựng sự hiệp nhất thân ái giữa mọi người, nhưng không nao núng, sợ sệt khi phải chiến đấu với tội lỗi, không thỏa hiệp với lười biếng thụ động. Và phải luôn xác tín rằng đời đời mới là thứ hòa bình cần phải tìm kiếm và xây dựng.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở nên những sứ giả của hy vọng, công cụ của hoà bình và tác nhân của tình yêu cho thế giới bất công và chia rẽ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

---------------------------------

Những sách cha Mễn đã in (82 cuốn):

như lương thực tinh thần hổ trợ bà con qua lại thời Covid,
từ khi nhà thờ không có thánh lễ, không có giảng dạy, không có các lớp Giáo Lý và không có các sinh hoạt đoàn thể....

https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).

*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...

*** Và  bạn cũng có thể chép đường link trên: https://...  gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.


---------------------------------

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (12 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên  – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
11. Những câu chuyện biến hình – Sách 11
12. Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban – Sách 12

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (22 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề  được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
20. Năm Thánh - Ất Tỵ 2025 - Sách 20
21. Đừng hành động đang khi nóng giận - Sách 21
22. Chuyện chưa từng kể về Giáo Hoàng Lê-ô XIV - Sách 22

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (33 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
31. Các Con đã Bỏ Quên Mẹ trong Luyện Ngục  – Sách 31
32. Đừng lân la, đùa giỡn hay thách thức ma quỉ  – Sách 32
33. Một đức tin đích thực, cần phải được tôi luyện trong đau khổ – Sách 33

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (7 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6
7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7.


---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây