Chuyện “Số Con Rệp” - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật - Sách 5

Thứ hai - 10/04/2023 23:57
Chuyện mhtn CN sách 5
Chuyện mhtn CN sách 5
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


Chuyện “Số Con Rệp”
Nguồn: https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/

---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, linh mục Mễn, hoặc Cha Mễn kể chuyện gia đình

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------
Mục Lục

Bài 1: Bí quyết giúp thành công. 2
Bài 2: Cần biết sự thật về bản thân. 4
Bài 3: Ông Harold Hughes được ơn biến đổi thật lạ lùng. 7
Bài 4: Chuyện mất một đời 9
Bài 5: Hãy tỉnh thức để sẵn sàng. 14
Bài 6: Chuyện tẩy xóa những vết xăm.. 16
Bài 7: Gương khiêm tốn hòa đồng của Đức Gioan 23. 18
Bài 8: Chuyện một vị vua giả dạng ăn mày ăn xin. 21
Bài 9: Chuyện “Số Con Rệp”. 25
Bài 10: Chuyện hai bài giảng đầu tiên. 30
Bài 11: Hãy là Muối và là Ánh sáng cho đời 32
Bài 12: Luật Yêu Thương mới  của Đức Giêsu. 34
Bài 13: Một kiểu báo oán của người quân tử. 38
Bài 14: 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay. 40
Bài 15 : Chuyện ma quỷ là có thật 45
Bài 16: Hai cuộc biến hình của Chúa Giêsu. 47
Bài 17: Chúa là sự sống đời con, hôm nay và mãi mãi 51
Bài 18: Thế thái nhân tình đổi trắng thay đen. 53
Bài 19: Chuyện con thằn lằn. 56


-------------------------------------

 

Bài 1: Bí quyết giúp thành công

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 076 - TN 29-C

Bạn thân mến,

Nếu có giờ rảnh rỗi đôi chút, chúng ta hãy quan sát một đàn kiến làm việc.

Những con kiến nhỏ bé, chúng luôn kết thành đàn, chúng thông tin với nhau rất nhanh, và trong công việc chúng đoàn kết với nhau rất tốt.

Thử nhìn xem, chúng đang lôi kéo một vật nặng. Nếu đem so sánh với trọng lượng cơ thể của chúng, có khi vật nặng, nặng hơn cả ngàn lần, thế mà, chúng cũng mang về nơi an toàn.

Không phải một cách dể dàng gì đâu, rất vất vả, chúng lôi kéo, chúng kêu gọi nhau hợp sức.

Có khi công của chúng dường như dã tràn, vì bất ngờ, vật mà chúng lôi kéo lại trở về ngay vị trí cũ.

Nhưng những chú kiến nhỏ bé vẫn kiên tâm, bền chí, vẫn cố hết sức, tận dụng hết khả năng mình có.

Cuối cùng, những gì đã bắt đầu, thì cũng có được kết quả tốt đẹp như nó mong muốn.

Đó là nhờ sự kiên trì, bền chí, không nản lòng, cho dù có những khó khăn vất vả, nhưng vẫn thành công.

*****

Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ và những người thời bấy giờ bài học kiên trì trong cầu nguyện, qua thí dụ cụ thể.

Một vị quan tòa không kiên nể ai, không bị khống chế bởi áp lực nào. Thế mà cuối cùng ông bị khuất phục bởi một áp lực xem ra chẳng đáng là gì. Một áp lực rất lớn đối với ông, còn hơn cả sự khiếp sợ, ông không thể chịu được: Đó là áp lực của sự kiên trì.

Một con người không đáng là gì, chỉ là con số không trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, thế mà đã tạo được một áp lực lớn và đạt được điều mình mong muốn. Nhờ sự kiên trì, không nản lòng.

Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, hằng yêu thương con cái Mình, chờ đợi để đáp ứng nhu cầu của họ.

Nhưng những người con của Ngài có biết chạy đến với Ngài, có biết cầu xin và có đủ kiên nhẫn, để nhận những ơn lành Ngài ban cho không?

Mỗi người trong chúng ta đã từng cầu xin và cầu xin rất nhiều. Chúng ta cũng đã được rất nhiều ơn lành Thiên Chúa ban cho. Cả những gì không cầu xin, chúng ta cũng đã được.

Nhưng cũng còn rất nhiều điều, chúng ta vẫn cầu xin, cầu xin hoài mà cũng không thấy gì, nên có nhiều lúc phải tức giận, khó chịu, có khi còn có những lời nói hay cử chỉ không được hay cho lắm.

Đó là những lúc chúng ta cầu xin, mà dường như ra lệnh cho Chúa chúng ta.

Những lần làm tuần tam nhật, cửu nhật. Đó có phải là chúng đang ra một kỳ hạn, một tối hậu thư cho Thiên Chúa của mình đó sao?

Nếu những gì mình cầu xin, mà dường như đòi hỏi đó, không được như ý, chúng ta buồn phiền tức giận, chán nản, thất vọng. Có khi còn tệ hại hơn, những lời chua cay khó chịu cứ tuôn tràn ra, mà không biết dừng lại.

Mỗi người chúng ta, để ra một ít phút suy tư, nhìn lại đời sống đã qua, cách mà chúng ta đã hành động với Thiên Chúa của mình.

Lời cầu xin với tâm tình con thảo, với tất cả lòng yêu thương chân thành, trong tâm tình phó thác trọn vẹn vào Cha nhân từ; chúng có tâm tình như thế được bao nhiêu lần?

Hiện tại giờ đây, tâm tình đó còn kéo dài, còn đọng lại nơi con người của chúng ta được bao nhiêu?

Hay giờ đây, chúng ta chỉ còn biết cầu xin, qua những lời đèo bòng, đòi hỏi cho lợi ích riêng tư.

Chúng ta chỉ còn nhìn thấy những lợi ích trước mắt cho riêng mình. Còn Thánh Ý Chúa, còn bao nhiêu người chung quanh, chúng ta không cần biết đến. Chính vì thế, chúng ta không có được sự kiên trì chính đáng, không có được sự bền chí vững chắc cho đủ.

Vì chúng ta chưa biết cầu xin, chưa ý thức được điều mình van xin như thế nào, nên chưa có được sự kiên trì như Chúa mong muốn.

Chính vì thế, mà những gì chúng ta cầu xin mà vẫn chưa thấy được. Vì không đủ kiên nhẫn để vượt qua những khó khăn trở ngại như đàn kiến nhỏ bé kia.

Lạy Chúa, Chúa hôm nay đã dạy con cách cầu nguyện. Xin cho con biết cầu nguyện như Chúa muốn. Amen.


-------------------------

 

Bài 2: Cần biết sự thật về bản thân

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 77 - TN 30-C

Bạn thân mến,

Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề.

Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất.

Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi, khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.

Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm ở nhà.

Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, ngài bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay, nắm lại từng nắm nhỏ, rồi từ từ đưa vào miệng.

Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?”

Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:

- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?

Nhan Hồi liền chắp tay thưa:

- Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở nắp vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng, bụi trần rơi xuống, làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại, nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng lại nghĩ rằng: Cơm thì ít, mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:

- Chao ôi ! Thế ra, trên đời này, có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành ra đó, mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !

*****

Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử, thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt chút nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình, để được lợi cho anh em.

Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo, ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được, khi thì lộ ra.

Chuyện ấy thường tình lắm, nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.

*****

Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích của mình.

Ông thưa chuyện với Chúa, nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình.

Ông “tạ ơn Chúa”, nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.

Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì là sai. Những điều luật cấm ông đã không dám làm, còn những điều luật buộc thì ông đã làm, và còn làm hơn mức qui định.

Ông thật là một con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương thật tuyệt vời.

Nhưng, chỉ tiếc có một điều, là ông quá tự mãn, quá tự kiêu, nên bao việc lành phúc đức của ông đều đã theo “cái tôi” bọt bèo của mình, mà trôi ra sông, ra biển hết.

Cái tôi của ông quá to, đến nỗi, ông chỉ nhìn thấy mình, mà không thấy Chúa;

Công trạng của ông quá nhiều, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông, chứ không phải là do ơn Chúa ban cho;

Cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em mình.

Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này:

“Vì con không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”.

Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào.

Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người.

Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế:

“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ: Ông đã không nhận ra sự công chính của mình là một ân huệ Chúa ban, chứ không phải do tự ông mà có, chứ không phải tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật mà được.

Chính khi tự mãn, thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình, thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn là công chính nữa.

Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, nên chỉ biết phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính tự bên trong. Chính tâm tình ấy, mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.

Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không, thì sẽ đủ chỗ cho “Đấng Vô Cùng” hiện diện.

Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Lạy Chúa, lỗi lầm của người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay (Luca 18,9-14), cũng là lỗi lầm thường có nơi con: Con quên “Tất cả đều là do ân huệ Chúa ban cho”. Và cũng vì quên mất điểm giáo lý căn bản này, cho nên con không biết đích thực con là ai, để rồi thường hay chê bai, khinh khi, coi thường, gièm pha, chỉ trích, phê bình kẻ này người nọ.

Xin Chúa thương giúp con luôn ý thức và sống triệt để điểm giáo lý căn bản này, để con biết con là ai, để con biết khiêm tốn hơn, và để con xứng đáng Chúa được Chúa yêu thương hơn nữa. Amen.


-------------------------------

 

Bài 3: Ông Harold Hughes được ơn biến đổi thật lạ lùng

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 78 - TN 31-C

Bạn thân mến,

Harold Hughes, là một doanh nhân rất thành đạt và là một chính tri gia rất nổi tiếng ở Hoa Kỳ, đã kể lại cuộc đời bồng bột, nông nổi thời còn trẻ của mình như sau:

“Tôi đã từng là một kẻ nghiện rượu, gian dối và lừa đảo người khác…. Một quãng cuộc đời, mà tôi cứ tưởng là đã phải vứt bỏ đi, vì tất cả đều đã hư hỏng.

Rồi một buổi tối nọ, trong nỗi chán chường thất vọng, lòng thì trống rỗng, vì cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, tôi đã bước vào bồn tắm và định tâm sẽ tự sát.

Tôi cầm lấy khẩu súng và chỉa mũi súng vào miệng. Khi tôi định bóp cò súng thì bỗng Chúa đến với lòng tôi, trong âm thầm, rất nhẹ nhàng, mà tôi không cách nào cưỡng lại được.

Chúa gợi lên trong thâm tâm tôi, nhắc tôi nhớ lại một điểm giáo lý hết sức căn bản, hết sức quan trọng, đó là sự sống là của Thiên Chúa, đừng có ai cướp lấy  quyền này của Ngài. Do đó, nếu tôi tự hại thân thể mình, là tôi có tội, một tội rất nặng.

Nhưng rồi, tôi cũng đã viện đủ mọi lý do, và  giải bày hết nỗi lòng của mình với Chúa, để Chúa hiểu cho, để Chúa thông cảm cho, là  tại sao tôi định làm như vậy.

Sau khi giải bày với Chúa hết nỗi lòng mình, thì bỗng có một sức mạnh vô hình, thúc giục tôi quỳ gối lên, ngay tại trong bồn tắm. Tôi quỳ gối, đầu cúi xuống, mà không dám phân trần điều gì nữa, vì tôi có cảm giác là Chúa đang hiện diện trước mặt tôi, bỗng tôi khóc nức nở, như là một sự thú tội trước mặt Chúa.

Sau đó, tồi cảm thấy một sự bình an dạt dào, bừng lên trong tâm hồn tôi... Tất cả tội lỗi trong mình tôi, hầu như đã tan biến đâu hết... Bởi, Thiên Chúa như đang cúi xuống và chạm đến tôi... Tôi như một đứa con đang run sợ, đang  đi lạc trong cơn bão tố và bất chợt tìm thấy được một bàn tay rất ấm áp của người Cha đang ôm ấp tôi vào lòng...

Quì trong bồn tắm, tôi đã dâng mình cho Chúa và đã thưa cùng Chúa rằng: Từ nay trở đi con quyết sẽ làm tất cả mọi sự, những gì Chúa muốn con làm.”

*****

Chính giây phút linh thiêng cảm động đó đã biết đổi cuộc đời của Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm thống đốc tiểu bang Iowa. Mười bảy năm sau đó, ông được bầu làm thượng nghị sĩ Hoa kỳ. Khi về hưu, ông đã tham gia vào công việc giúp những người nghiện rượu và hút chích.

Câu chuyện Harold Hughes cũng giống với câu chuyện ông Giakêu trong bài Phúc âm hôm nay (TN 31-C: Luca 19,1-10).

Đó là một câu chuyện kể về một người đã được ơn biến đổi, từ một cuộc đời tội lỗi, thành một cuộc sống phục vụ.

Đó là một câu chuyện về một người đã biết mở rộng cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và được tràn đầy niềm vui hạnh phúc, mà ông không hề tưởng là sẽ được.

Chúa Giêsu muốn đi vào trong cuộc đời chúng ta và biến đổi chúng trở nên tốt hơn như Ngài đã làm cho Giakêu.

Chúa Giêsu không bao giờ cưỡng ép chúng ta, hoàn toàn tôn trọng tự do của chúng ta.

Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống mỗi người chúng ta như Ngài đã bước vào cuộc sống của Giakêu. Chúng ta chỉ cần bám lấy Ngài, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi điều như Ngài đã từng làm cho những người khác.

Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, gần gủi với chúng ta qua ba trường hợp nầy.

Thứ nhất Chúa Giêsu có thể nói với chúng ta khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa.

Thứ hai là lúc chúng ta đón rước Chúa Giêsu Thánh thể. Chúa Giêsu nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. (Jn 6:56).

Sau hết, Chúa Giêsu bước vào trong cuộc sống của chúng ta lúc chúng ta gặp những người nghèo khổ, túng quẫn. Bởi Chúa Giêsu đã dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40)

Lạy Chúa, xin cho con gặp được Chúa như ông Hughes và ông Giakêu. Và cũng xin Chúa hãy làm nơi con những gì Chúa muốn. Amen.


----------------------------

 

Bài 4: Chuyện mất một đời

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 79 - TN 32-C

Bạn thân mến,

Một hôm, có một nhà bác học, đứng trên bãi biển, trông thấy mặt biển phẳng lặng, nước trong veo, ông liền xin một ngư phủ đang đứng cạnh bên, lấy thuyền, chèo đưa ông ra khơi, để ông được chiêm ngắm cảnh đẹp của biển cả mênh mông bao la.

Hai người cùng nhau trò chuyện trời đất mây gió, bỗng nhà bác học hỏi người chèo thuyền: Anh có biết đọc không? Người chèo thuyền trả lời: “Dạ, không”.

Nhà bác học nói: “Vậy là anh mất nửa đời người rồi, thật là uổng quá! Bởi vì, nếu anh mà biết đọc sách, thì anh sẽ có thể tiếp thu được biết bao điều hay, học được biết bao điều mới lạ trong trời đất vũ trụ này”.

Rồi ông bắt đầu kể cho người ngư phủ nghe: nào là những chuyện thú vị ẩn chứa dưới lòng biển cả, nào là có biết bao nhiêu loài cá, về sự sinh trưởng thật kỳ diệu của chúng dưới lòng biển...

Người ngư phủ thích thú chăm chú lắng tai nghe.

Nhưng kìa, trên vòm trời xanh, bỗng thấy xuất hiện nhiều đám mây đen từ đâu bay đến. Rồi từng cơn gió mạnh quấy động mặt nước, biển cả bắt đầu nổi sóng. Gió càng thổi mạnh, mây càng hạ thấp. Người ngư phủ đâm ra lo sợ và báo cho nhà bác học hay là một cơn giông bão sắp xảy đến.

Nói chưa dứt lời thì một làn sóng mạnh đã lật úp chiếc thuyền của hai người.

Người ngư phủ lớn tiếng hỏi nhà bác học:
- “Thưa ông, ông có biết lội không?”

- “Tôi không biết bơi”, nhà bác học trả lời.

- “Thưa ông, thế thì ông mất hết cả đời người rồi!”

Người ngư phủ lại hỏi thêm:
- “Thưa ông, ông có tin ở đời sau không?”

Nhà bác học vừa lặn hụp, chóng chọi dưới làn sóng, vừa trả lời:
- “Đời sau là cái gì. Im đi! Ta đang chết đến nơi rồi!”

Nhưng người ngư phủ lại nói thêm:
- “Thưa ông, thế thì ông chẳng những mất cả đời nầy, mà còn mất luôn cả đời sau nữa. Thật là vô phúc cho ông! Thật là bất hạnh cho ông!”

Một cơn sóng lớn đã cuốn hút nhà bác học vào lòng sâu của biển cả.

*****

Đời người có thể sánh ví như một cuộc vượt biển: Biển có khi rất phẳng lặng, nhưng biển cũng có khi đầy sóng gió.

Trong cuộc đời ấy, có người tin rằng: Sau cuộc đời dương thế này, chết là hết, không có cuộc đời mai sau, như nhà bác học trong câu chuyện trên đây, cũng như những người Do thái theo phái Sađốc trong Tin Mừng hôm nay (TN 32-C).

Nhưng trong cuộc đời ấy, lại có người tin rằng: Sau cuộc đời dương thế này, còn có cuộc đời mai sau nữa, như người ngư phủ là đại diện cho hạng người tin có cuộc sống bên kia, sau cái chết, trong đó có chúng ta.

Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng trong thánh lễ: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Đó là đỉnh cao của niềm hy vọng, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta khi đến trần gian này. Vì nếu không có sự sống lại và không có cuộc sống đời sau, thì tất cả mọi sự trên đời này đều là vô nghĩa, kể cả cuộc sống hôm nay của chúng ta.

Hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng: Chết chưa phải là hết. Con người sau khi chết sẽ được đưa sang một thế giới khác, hoặc được dẫn đến một nơi khác để tiếp tục sống.

Thế nhưng đời sau, đối với họ, là đêm tối, là buồn thảm và không có gì hấp dẫn cả. Lý do là vì đó cũng chỉ là thế giới của sự chết, của âm phủ. Bởi, các tôn giáo khác tuy có nói đến một sự sống đời sau, nhưng không có tôn giáo nào nói đến sự phục sinh của người đã chết như kitô giáo.

Ngay cả Do Thái giáo, niềm tin vào sự phục sinh của người chết, cũng không dứt khoát rõ ràng.

Bài đọc I hôm nay, trích đoạn trong sách Maccabêô đã nói lên niềm tin nầy:

Anh em Maccabêô đã thưa với nhà vua đang định giết hại họ: “Vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời nầy, nhưng Vua Cả của vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, cũng sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống hạnh phúc đời đời ”.

Vào thời Chúa Giêsu, người Biệt phái cũng tin như vậy.

Nhưng những người thuộc phái Sađốc thì lại không tin có sự sống lại. Chẳng những họ không tin, mà họ còn chế nhạo những ai tin thân xác con người ngày sau sẽ sống lại. Cho nên, hôm nay, họ kéo nhau đến chất vấn Chúa Giêsu để “chọc quê” Ngài.

Bởi nếu có sự sống lại của kẻ đã chết, thì sau này, một người đàn bàn đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo đúng luật pháp, thì rồi cô ta sẽ là vợ của ai?

Chúa Giêsu đã giải đáp bằng cách cho họ biết rằng: Cuộc sống phục sinh mai sau, sẽ không phải là một sự tái diễn của cuộc sống trên trần gian này. Thân xác phục sinh sẽ là một thân xác đã được biến đổi, không còn đau ốm, bệnh tật, không còn già cả và không còn chết chóc nữa. Những người đã phục sinh sẽ giống như các thiên thần, sẽ không còn cần phải cưới vợ, lấy chồng, để có con cái nối dõi tông đường nữa.

Chúa Giêsu còn dựa vào Ngũ Thư để chứng minh rằng: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của kẻ sống.

Nếu Thiên Chúa đã là Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp thì các Tổ phụ này, là những người đang sống với Chúa, nghĩa là có sự sống lại.

Ở đây, Chúa Giêsu đã không tả rõ cho biết sự sống lại sẽ như thế nào. Điều ngài muốn khẳng định ở đây, đó là “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống”.

Và trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, qua những lời giảng dạy và nhất là qua thái độ của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn cho người ta hiểu rằng: Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, Đấng làm cho sống.

Và ngay cả những người tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư mất, trái lại, Ngài muốn họ ăn năn hối cải, để được sống và sống một cách dồi dào.

Những phép lạ chữa bệnh hay làm cho kẻ chết sống lại của Chúa Giêsu, là những dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống.

Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, đó cũng là để toàn thắng cái chết, và để trả lại cho loài người sự sống đời đời.

Chỉ có căn cứ vào những gì chúng ta biết về Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta mới thấy rõ về cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Chúng ta sẽ được sống lại với Ngài.

Chính vì Chúa Kitô đã sống lại, mà chúng ta xác tín vào sự phục sinh của những người đã chết: “Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp là Thiên Chúa của kẻ sống”.

Những người mà chúng ta gọi là đã chết, là những người đang sống, sống đời đời với Thiên Chúa hằng sống.

Chối bỏ sự sống lại của những người đã chết, là chối bỏ Thiên Chúa hằng sống và chân thật.

Bạn thân mến,

Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Một lời đầy an ủi cho tất cả chúng ta. Đừng thất vọng trước cái chết của một người Kitô hữu, của những người thân yêu chúng ta. Sự chia ly chỉ có trong một thời gian và sau đó, tất cả chúng ta sẽ được gặp lại nhau. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy được một tình trạng hoàn toàn mới của những người con Chúa, là được giống như các thiên thần và nhất là được nên giống Chúa Kitô trong vinh quang phục sinh.

Trong những ngày còn sống ở trần gian này, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn tất cả chúng ta sau này sẽ được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi trên Thiên Đàng.

Lạy Chúa, trong những ngày còn sống ở trần gian này, xin cho con biết tích cực đáp ứng lời mời gọi của Chúa, bằng việc hằng ngày cố gắng sống tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn, luôn tin tưởng và hy vọng vào Đấng đã phục sinh sẽ ban cho con được sống hạnh phúc đời đời bên Chúa. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.


------------------------------

 

Bài 5: Hãy tỉnh thức để sẵn sàng

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 80 - MV 1-A

Bạn thân mến,

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau:

Bấy giờ, vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề. Nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh: Nếu ai nói tới việc đình chiến, thì sẽ bị chém đầu.

Một vị quan trẻ tuổi, nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:

- Khanh làm chi đó ?

- Thưa, trên ngọn cây cổ thụ này, có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây, có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết.

Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt, mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.

Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, nên vua nước Ngô đã nghĩ lại, đã đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.

*****

Cũng vậy, những đam mê lo chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, đã làm chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng.

Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng: mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn phải đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.

Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo và không chịu lo thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng ta cứ mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân đi xâm lăng, mở thêm chút biên cương bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, mà không ngờ rằng: một khi mình đã giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và tình cách chiếm đoạt.

Bởi đó, trước hết, ta không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.

Nếu có chút ít dư thừa, thì ta hãy biết sử dụng vào những việc từ thiện, bác ái, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì, chỉ những cái chúng ta biết cho đi hôm nay, thì ngày mai, chúng mới thuộc về ta mãi mãi.

Tiếp đến ta không được đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng, càng dày gian nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì sẽ ngã đau.

De Girandin là một vị tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự nghiệp lừng lẫy của ông, thì ông đã trả lời:

- Mấy cái đó bây giờ nào có ăn thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì sẽ tốt hơn.

Sau cùng, ta cũng đừng đặt trong tâm đời mình vào lạc thú, vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.

Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:

- Có tới 90%  những người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì  đã phạm tội này.

Thực tế cho hay: phạm những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.

Hãy sẵn sàng: vì thần chết luôn rình rập sau lưng ta.
Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.

Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đó là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, mà chúng ta đã thực hiện.

Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đắng, vì thấy mình trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy mình chẳng có đầu tư gì cho cuộc sống vĩnh cửu.

Lạy Chúa, Mùa Vọng lại về với chúng con, mùa nhắc nhở chúng con phải luôn tỉnh thức để sẵn sàng, vừa để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh sắp tới, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ  nhất, vừa cũng để chuẩn bị cho việc Ngài đến lần thứ hai trong ngày cách chung.

Lạy Chúa, xin giúp con chuẩn bị cho thật tốt trong những ngày Mùa Vọng này. Amen.


-------------------------------

 

Bài 6: Chuyện tẩy xóa những vết xăm

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 81 - Mùa Vọng 2-A

Bạn thân mến,

Cách đây không lâu có một bài báo viết về một chương trình rất đặc biệt. Chương trình nói về việc tẩy xóa những vết xăm, không còn muốn giữ lại trên thân mình nửa, đặc biệt là những dấu xăm có liên hệ đến băng đảng của các bạn trẻ.

Một điều rất ngạc nhiên đã xảy ra, là sau khi bài báo xuất hiện, thì đã có trên 1.000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn, hỏi thêm chi tiết về chương trình.

Nhờ sự đáp ứng đáng kể đó, mà một cơ quan giáo dục tại Los Angeles, đã phối hợp với một hãng truyền hình địa phương, sản xuất một cuốn phim gọi là “Untatoo You” – “Tẩy vết xăm cho bạn”.

Cuốn phim nói về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên những cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và sau lưng.

Các tài tử đóng phim này, chính là những bạn trẻ đã xăm mình. Họ nói một cách thành thật, về lý do tại sao lúc ban đầu họ đã xăm, và bây giờ, tại sao họ lại muốn tẩy xóa đi.

Sau cùng, cuốn phim đã chiếm được giải thưởng quốc gia, và bây giờ đã được phát hành trên khắp nơi trên thế giới.

*****

Câu chuyện đằng sau cuốn phim nói với chúng ta một điều quan trọng: Trong cuộc đời, chúng ta đã làm những điều, mà bây giờ cảm thấy ăn năn, sám hối và muốn tẩy xóa đi.

“Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”.

Giống như những người trẻ vui mừng khi khám phá ra cách tẩy xóa những dấu xăm, không còn muốn giữ nữa, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng vui mừng vì Chúa Giêsu Kitô đã cho chúng ta một cách để tẩy xóa tội lỗi của mình. Chính Ngài đã đến để xóa tội trần gian. Chính Ngài đã lập ra Bích tích Hòa giải, để tẩy xóa tội lỗi ta.

*****

Chủ đề chính của Chúa nhật thứ II mùa vọng hôm nay là sự sám hối chân thành và lòng ăn năn trở về với Thiên Chúa (Mt 3, 1-12).

Sự sám hối chân thành được thể hiện bằng những thái độ, sự lựa chọn và cách sống phù hợp với những giảng huấn của Chúa Giêsu và Giáo Hội. Điều này được thực hiện trong Bí tích Giải tội, với những tên gọi khác nhau, như Bí tích của sự trở lại, Bí tích sám hối, Bí tích của ơn tha thứ, Bí tích hòa giải.

Trong tiếng Hy Lạp, chữ sám hối, metanoia, vừa có nghĩa một cảm xúc hối tiếc về những tội lỗi quá khứ làm xúc phạm đến Thiên Chúa, vừa là việc xét mình tỉ mỉ những tội đã phạm, từng tội một, để xin Chúa tha thứ, vừa là một sự đòi hỏi hoán cải sâu xa trong tâm trí và cuộc sống.

Sự biến đổi cuộc sống là dấu chỉ của lòng sám hối đích thật. Phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cư xử, và cách hành động. Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa gồm những tội nhân. Như một thành phần trong Giáo Hội, chúng ta chưa là thánh, nhưng đang được kêu gọi để trở nên thánh, và luôn được mời gọi để thay đổi.

Nhưng trong quá trình hoán cải, giống như thánh Augustinô, đôi khi chúng ta cũng có khuynh hướng cầu xin với Chúa:

“Lạy Chúa, xin hãy thay đổi con, nhưng xin thay đổi con từ từ thôi”.

Chúng ta cũng còn muốn giữ lại một điều gì đó dính bén với tật xấu, thói quen tội lỗi và trần gian. Sự do dự chần chừ trong việc thay đổi cuộc sống như thế, thường xảy ra trong đời sống thiêng liêng của con người. Hay tệ hơn nữa chúng ta lại còn có những cảm xúc hối tiếc giả tạo, đánh lừa chính mình nữa.

Lạy Chúa, xin cho con thực lòng ăn năn, sám hối, một cách chân thành, đặc biệt là trong Mùa Vọng này, để con xứng đáng đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh sắp tới, mùa Hồng Ân, mùa Chúa mang ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng con. Amen.

------------------------

 

Bài 7: Gương khiêm tốn hòa đồng của Đức Gioan 23

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 82 - Mùa Vọng 3-A

-------------------------------------

Bạn thân mến,

Vào một buổi chiều, chỉ vài ngày sau khi lên ngôi vị giáo chủ, đức giáo hoàng Gio-an 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can, đi bách bộ để tìm chút thư giãn, sau một ngày làm việc căng thẳng.

Ngài thấy một người đang làm vườn, bên mình bác ta lại có đeo một chai rượu. Vị giáo chủ khả ái tiến lại gần hỏi chuyện, và không chút ngần ngại ngồi xuống đất, uống rượu chung với bác ta.

Vì chưa biết mặt vị tân giáo chủ, cho nên trước vẻ xuề xòa của ngài, bác làm vườn nghĩ ngài cũng chỉ là một viên chức cao cấp trong giáo triều, nên bác ta hết lời ca ngợi vị tân giáo chủ, dựa theo dư luận, mà bác đã nghe biết về ngài.

Sau khi đã uống cạn bình rượu với bác làm vườn, trước khi từ giã, đức Gio-an 23 mới hỏi rằng:

"Này bác, bác chưa bao giờ thấy mặt vị giáo chủ mới phải không ?"

Bác ta trả lời: "Thưa chưa ạ".

Bấy giờ Đức Gio-an 23 mới ôn tồn nói:

"Thế là hôm nay bác đã thấy rõ rồi nhé. Giáo chủ mới chính là người đã ngồi uống rượu với bác từ nãy đến giờ đó !".

*****

Dù bị Hê-rô-đê bắt giam vào tù, nhưng Gio-an vẫn được các môn đệ thông báo về các hoạt động của Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su không hành xử nghiêm khắc trừng phạt tội nhân như ông đã rao giảng (x. Mt 3,10-12), Gio-an trở nên hoang mang, nghi hoặc, nên sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su, để nêu thắc mắc về sứ mạng cứu thế của Người: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?".

Đức Giê-su đã không trực tiếp trả lời vấn nạn của Gio-an. Người chỉ nêu ra những công việc Người đang làm. Qua đó, Đức Giê-su gián tiếp cho Gio-an biết Người thực là Đấng Thiên Sai, nhưng là một vị Thiên Sai mục tử, xót thương và làm các dấu lạ, để cứu giúp những người bệnh tật, bất hạnh, phù hợp với sấm ngôn của I-sai-a, về sứ mạng Đấng Thiên Sai:

"Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Is 35,5-6a).

Qua đó, Đức Giê-su muốn Gio-an thay đổi quan niệm về một Đấng Thiên Sai thế tục, giải phóng đất nước Do Thái, bằng chính trị và binh hùng tướng mạnh, để thiết lập một triều đại hiển hách, như thời vua Đa-vít và Sa-lô-mon xưa.

Vì nếu không thay đổi, Gio-an chắc sẽ khó tránh khỏi bị vấp ngã (x. Mt 11,6), như ông Phê-rô sau đó đã ngăn cản Đức Giê-su và đã bị Người nặng lời trách mắng, như Tin Mừng Mát-thêu thuật lại:

"Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16,22-23).

******

Sau khi môn đệ Gio-an về, Đức Giê-su đã khen ngợi Gio-an tẩy giả về ba phương diện:

- Một là tính tình dũng cảm, cương nghị, chứ không hèn hạ, luồn cúi, như loài lau sậy phất phơ trước gió (c 7);

- Hai là có nếp sống đơn sơ, khổ hạnh, chứ không đua đòi ăn mặc, gấm vóc lụa là, như người trong đền vua chúa (c 8);

- Ba là có sứ mạng tiền hô, dọn đường cho Đấng Thiên Sai (c 10).

Sau khi làm phép rửa cho Đức Giê-su ở sông Gio-đan và được chứng kiến cuộc thần hiện xảy ra trên Người, Gio-an đã tin Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người là "Con Chiên Thiên Chúa" với hai môn đệ và khuyến khích họ bỏ ông để theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,36-37).

Gio-an đã khiêm tốn thừa nhận vai trò thấp kém của mình "không đáng cởi quai dép cho Người" (x. Lc 3,16) và khẳng định sự lệ thuộc của mình: "Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn".

Cuối cùng ông còn khiêm tốn tuyên bố như sau: "Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,29-30).

*****

Gio-an đã được Đức Giê-su khen là người cao trọng nhất trong con cái loài người:

"Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông". Vậy Đức Giê-su muốn dạy gì khi nói: "kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông" ?

Đức Giê-su đến thiết lập Nước Trời ban ơn cứu độ, mà Gioan có sứ mạng đi trước dọn đường cho Người. Nước Trời là một gia đình của Thiên Chúa, trong đó chỉ có một Thiên Chúa là Cha, chỉ có Đức Giê-su là Thầy và là người chỉ đạo, còn hết mọi người đều là anh em với nhau (x. Mt 23,8-10). Đây là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người có bổn phận yêu thương nhau và nhờ đó họ sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc. Hiện nay, trên thế giới vẫn có nhiều tiêu cực, đau khổ là do người ta thiếu tình thương với nhau. Đức Giêsu có sứ mạng đem đến cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên tình yêu thương. Từ nay tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ là lề luật như lời thánh Phao-lô: "Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy" (Rm 3,28).

*****

Mùa Vọng là thời gian các tín hữu chúng ta mong chờ Chúa đến. Trong khi người Do thái mong Đấng Thiên Sai đến trong uy quyền vinh quang, thì Chúa lại chọn đến trong khiêm hạ khó nghèo và âm thầm không ai hay biết. Trong khi người đời mong Chúa đến ban ơn cứu độ bằng con đường rộng rãi, thì Chúa lại chọn đi con đường thánh giá chật hẹp, leo dốc, và ít người dám đi. Ngày nay để nhận được ơn cứu độ là được vào Nước Trời, đòi người tín hữu phải tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Mt 7,21-23). Đức Giê-su cũng cho biết đến ngày phán xét, chỉ những ai phục vụ Người, hiện thân trong những người nghèo đói, bệnh tật, và bị bỏ rơi, thì mới được vào Thiên Đàng (x. Mt 25,34-36).

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con rất khâm phục thánh Gio-an, vị tiền hô của Chúa, khi ngài can đảm đứng ra nói lên sự thật, dù bị Hê-rô-đê thù ghét và sau đó ngài đã anh dũng chết để làm chứng cho sự thật ấy.

Xin đừng để con bao giờ hèn nhát, vào hùa với kẻ mạnh để hiếp đáp những kẻ thân cô thế cô, giống như loài lau sậy ngả nghiêng theo chiều gió.

Gio-an đã sống khổ hạnh, đi ngược lại trào lưu, đam mê, ích kỷ, trong đền vua chúa. Xin cho con biết tiết giảm mua sắm các vật dụng quần áo, để dành tiền chia sẻ cho những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh, chung quanh con.

Gio-an đã trung thành với sứ mạng công bố Lời Chúa để giúp những kẻ gian ác, bỏ đường tội lỗi trở về với Chúa, xin cho con cũng biết chu toàn sứ mạng ngôn sứ, khi dám lên tiếng bênh vực công lý, bất chấp những sự đe dọa, trả thù, và làm mọi việc lành với lòng mến Chúa, yêu thương tha nhân, để xứng đáng được nhận là môn đệ của Chúa. Amen.

-------------------------------------

 

Bài 8: Chuyện một vị vua giả dạng ăn mày ăn xin

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 83 - Mùa Vọng 4-A

Bạn thân mến,

Có một vị vua kia đã già, nhưng lại không có con, để nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh, mời các chàng trai trẻ đến cung điện vua, để vua chọn một người làm dưỡng tử, để sau này sẽ lên ngôi cai trị đất nước.

Điều kiện vua đưa ra thật đơn giản:

Chỉ cần người đó biết mến Chúa
và yêu mến anh em hết lòng.


*****

Từ một vùng quê xa xôi, có một anh chàng thanh niên biết việc chọn lựa này của vua, nên chàng cũng muốn đến cung điện vua để ứng thi.

Nhưng khốn nỗi, chàng chẳng có một bộ áo quần nào khả dĩ trông coi cho dược, gọi là cho tương xứng với buổi triều yết vua.

Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm được cho mình một bộ đồ, tạm gọi là xứng đáng trong buổi triều yết  đó.

Trên  đường đi đến gần hoàng cung, thì chàng lại gặp một ông lão ăn xin bên vệ đường, xá lạy lia lịa, trong bộ quần áo rách rưới rưới, tà tơi, thê thảm. Trớ trêu thay, là ông lão lại ngửa tay, xin bộ đồ chàng đang mặc.

Động lòng thương, và với tấm lòng trắc ẩn, và thương người sẵn có, chàng chẳng có một chút chần chừ, hay do dự suy nhgĩ gì. Chàng bèn đổi cho ông già bộ quần áo của mình đang mặc.

Khi đến gần cửa thành, chàng mới giật mình, mới hoàn hồn, mới tỉnh ra, mới nhớ chuyện mình đang làm. 

Bỗng lòng chàng đâm ra hoang mang, lo nghĩ: Rồi đây, không biết lính canh có cho mình vào triều đình để gặp vua không, với bộ quần áo tả tơi như thế này ?

Tuy có do dự, nhưng chàng vẫn nhất quyết đi tới nơi như đã dự tính.

May mắn thay, bước qua cổng một, qua cổng 2… chẳng thấy có một ai hạch hỏi gì, hay thắc mắc gì, về quần áo của chàng. Nên, chàng cứ theo sự hướng dẫn, và mạnh dạn tiến bước đến trước ngai rồng.

Khi gần đến nơi, chàng càng kinh ngạc hơn nữa, khi thấy vị vua đang ngồi trên ngai, lại chính là ông già ăn xin, đã được chàng giúp đỡ, tặng cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình nữa.

Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng:

“Này con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”

Cuối cùng, chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và được chọn làm người thừa kế, chỉ nhờ tấm lòng quảng đại, và bao dung của anh.

*****

Hôm nay Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng A (Mt 1, 18-24), thánh sử Matthêu cũng tường thuật lại việc Vua trời đất, đã chọn lựa một người Cha cho mình, trước khi Ngài đến ở với con người.

Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực là thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David.

Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này, để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước:

“Này đây sẽ tới ngày, Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này, sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và công bình trên đất nước”.

Hoặc ở chỗ khác:

“Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.

Tuy nhiên, hậu duệ của David, không phải chỉ có một mình Giuse, nhưng đã có hàng trăm, hàng ngàn hậu duệ David.

Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy, Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng, ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người, đã thề hứa suốt đời “không biết đến người nam”.

Và rồi người nữ, mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng, dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang, tại sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút vậy ?

Mà theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người nữ ấy trước Hội Trường Do Thái, để nàng sẽ bị ném đá cho đến chết, vì tội ngoại tình.

Nhưng do tấm lòng bao dung, ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.

Đang khi định tâm như vậy, thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến, cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người.

Lời của sứ thần đã soi sáng, giải đáp thắc mắc bấy lâu, đang dày vò tâm hồn Giuse.

Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh.

Với người Do thái, chỉ có người cha, là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa, thì khi chưa có ý kiến của người cha, thì việc đặt tên cũng không có giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy: Buổi lễ đặt tên cho Gioan tẩy giả, cũng phải là do người cha đặc tên.

Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay, can thiệp, để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây, lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn.

Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng, cũng như cho người con đang cưu mang.

*****

Thật thế, cuộc đời của mỗi người chúng ta, chắc ai ai cũng đều có những lúc căng thẳng, phân vân, do dự, đau khổ, vì phải chọn lựa, vì phải quyết định, tuy Thiên Chúa, Đấng thông suốt tất cả mọi sự, nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi.

Ngài chờ cách phản ứng nơi mỗi người chúng ta, do yêu thương hay do giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương, quảng đại, thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương của ta bị rạn nứt, sứt mẻ đâu.

Lạy Chúa, trong những ngày mùa vọng này, con đang chuẩn bị dọn tâm hồn, để đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, xin cho con luôn có thái độ quảng đại bao dung, trong mọi ứng xứ, như làm kim chỉ nam, hứng dẫn mọi suy tư và mọi hành động của con, để cho chương trình của Chúa luôn được thực hiện một cách tốt đẹp nơi con, như Chúa mong muốn. Amen.

--------------------

 

Bài 9: Chuyện “Số Con Rệp”

Chuyện minh họa Tin Mừng Bài 84 - Lễ Giáng Sinh ABC

Bạn thân mến,

Mười hai con giáp, chắc hẳn là không hề xa lạ gì đối với chúng ta: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,  Thìn, Tỵ,  Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Dân gian thường quen gọi một cách nôm na theo kiểu bình dân:  Con Chuột, con Trâu, con Cọp, con Mèo, con Rồng, con Rắn, con Ngựa, con Dê, con Khỉ, con Gà con Chó, con Heo.

Căn cứ vào 12 con giáp này, mà người ta lại nghĩ ra 12 số mệnh, gắn bó với đời sống con người.

Nhưng không biết từ hồi nào, mà người Việt mình, lại có thêm một con giáp nữa, đó là con Rệp, con giáp thứ 13.

Quả thật, con Rệp là con giáp thứ 13, được kể là số xui tận mạng, nó bám sát con người, rúc rỉa, làm cho nhức nhối, khó chịu vô chừng!

Tin hay không tin, thì cũng đã có nhiều sách vở viết về những con giáp này, và người ta đặt cho nó một cái tên thật đẹp, đó là “tướng mệnh học”.

Nhiều người mở báo ra, là coi ngay số Tử Vi, xem mình làm ăn hên hay xui, tình duyên có xuôi chảy hay trục trặc, học hành có thành đạt hay thất bại...

Còn trong hôn nhân, số nào lấy số nào, thì gia đạo mới ngon lành. Chứ mà gặp số kỵ lại vơ đại vào, thì chỉ là cãi lộn tối ngày thôi.

Có người tin rằng, sinh ra ở đời, mỗi người đều có số có mạng. Nhiều ngườisinh ra gặp có số đỏ, số đào hoa, có ngón tay vàng, đụng vào cái gì thì cũng êm đẹp, là xuôi xắn tới đó.

Trái lại, nhiều người thì có vẻ “bị” sinh ra trúng nhằm số đen, số con rệp, nên chuyên môn gặp phải những chuyện chẳng ra làm sao, làm gì cũng xui xẻo, cũng đổ, cũng bể, cũng thất bại.

Người ta tìm cách giải thích hiện tượng này, liên hệ tới năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh của mỗi người, gắn liền với sự vận hành của trăng sao, vào lúc mình sinh ra.

Trời đất cũng có tiết, có nhịp mà. Con trăng có nhịp, con nước có nhịp, thì con người cũng có nhịp vận hành.

Khi trăng lên, thì con nước cũng lên theo. Nó ảnh hưởng tới cả con tôm, con cá, con cua, con ghẹ… chúng cũng biết nhịp, mà vờn trăng. Huống chi là con người.

Và người ta thử ướm chừng cái "múi" của vòng quay, cái thời điểm liên hệ tới đất trời vần xoay, rồi so sánh với những đặc tính của một con vật nào đó, để rồi đặt tên: mỗi người sinh vào đời, đều cầm tinh một con vật, với những nét hao háo, giông giống như con vật đó.

Có người bảo sinh vào năm Hợi, cầm tinh con Heo, là số nhàn cư, cả ngày cứ ủn ỉn, ăn no, mà chả phải lo;

Có người sinh vào năm ngựa, thì chạy suốt, chỉ biết lo, mà không thấy no;

Có người sinh vào năm rắn, thì khôn lắm, không ai bắt nạt được v.v.

Thôi thì cứ tha hồ mà đoán mò, đoán già, đoán non. Rồi thế nào cũng có cái trúng, cũng có lúc trúng. Thế là các thầy bói, các tướng số, tha hồ mà làm ăn, có khi cũng khấm khá ra phết.

*****

Thực tế cho thấy, ít thấy có ai tự cảm nhận là mình có số đỏ, mà chỉ toàn gặp số con rệp, gặp số xui xẻo thôi, lúc nào cũng thấy mình sống trong những khắc khoải, lo âu, quằn quại trong bóng tối, có khi rất hãi hùng, phải giẫy giụa mãi trong  những vũng bùn, nhầy nhụa, luôn tìm mọi cách, luôn cố vùng vẫy, để tìm một lối thoát, thế mà không sao thoát nổi.

Bởi cuộc đời, toàn là những bất ổn thôi, từ trong gia đình, đến ngoài xã hội. Cảnh vợ chồng đổ vỡ, con cái tan hoang, những cảnh cướp giật, giết người, tràn ngập, có khi ngay ở cổng nhà mình.

Nhiều người lo tìm đường để giải quyết bằng mọi cách. Nhưng xem ra, càng tìm, càng gặp bi thảm thêm.

Biết tìm lối nào cho thoát được ?

Nhiều người khi bị nhức đầu, thì tìm thuốc Tylenol để uống.

Khi gặp khó khăn ngột ngạt, thì đi gặp bác sĩ tâm lý trị liệu, hay dùng một vài phương pháp nhân tâm, tập dưỡng sinh, luyện tập hơi thở, để tìm lại an tĩnh.

Nhưng dù sao, hiệu quả cũng chỉ tạm thời trong chốc lát, chứ đó chưa phải là đi vào tận gốc rễ, bởi nó nằm trong chính nơi thâm sâu của con người mình, trong chính sự hiện hữu của mình. Đó là:

- Tại sao tôi có mặt trên mặt đất này?
- Cuộc sống này có ý nghĩa gì đối với tôi?
- Hay cuộc sống này chỉ là một vũng lầy nhầy nhụa, đầy đọa lẫn nhau?

Thì đây,

Đấng Giải Thoát con người đang đến, Đấng giáng sinh đang bước vào cuộc sống của nhân loại: Đấng Cứu Thế giáng sinh cho chúng ta.

*****

Có một câu chuyện, có thể giúp ta hiểu phần nào, biến cố Chúa Giáng Sinh:

Truyện kể về một nhà truyền đạo kia, đã đi đến một vùng đất lạ của dân U-Mê.

Một ngày kia, ông thấy họ đang gặt lúa ngoài đồng, thì bỗng họ hốt hoảng bỏ chạy về nhà hết.

Ông trở ra cánh đồng để xem, thì đây chỉ thấy một trái dưa hấu bị bể.

Ông hiểu ngay rằng, đây là lần đầu tiên, dân này thấy dưa hấu, nên cứ tưởng là quái vật: Bởi da nó thì đen xì, mà bụng thì toàn máu đỏ hoét!

Ông liền bảo họ rằng: Không có gì đâu mà phải sợ.

Và để làm chứng, ông đã lấy con dao trong túi ra, cắt trái dưa thành nhiều miếng và ăn ngon lành trước mắt mọi người.

Nhưng dân U-Mê khi nhìn thấy ông này dám ăn con quái vật đầy máu như vậy, thì càng đâm ra sợ ông ta, còn hơn là sợ con quái vật nữa.

Thế là họ hò hét nhau, lấy cuốc, lấy xẻng, đuổi ông ta ra khỏi làng cho gấp, vì sợ ông ta sẽ giết chết họ, như đã giết con quái vật.

Thế là nhà truyền đạo này, phải nhanh chân, ba giò bốn cẳng chạy trốn đi mất tích.

Ít lâu sau, một nhà truyền đạo khác, cũng đến vùng đất này và cũng gặp cảnh dân chúng bỏ chạy, khi thấy trái dưa hấu ngoài đồng.

Ông đã nghe biết chuyện xưa, nên thay vì khuyên răn, ông đã hòa mình, sống với họ, cũng run rẩy, cũng sợ hãi, cùng bỏ chạy với họ, khi gặp dưa hấu là con quái vật nguy hiểm.

Dần dần, ông trở thành người thân của họ.

Và khi đã sống thân tình với họ một thời gian lâu, dần dần ông dẫn họ đến gần những con quái vật đen sì kia, mà nhận ra, là những trái dưa có thể ăn ngon.

Thế là cả làng bắt đầu trồng dưa hấu.

*****

Bạn thân mến!

Câu truyện này diễn tả phần nào ý nghĩa Chúa Trời sinh xuống làm người:

"Ngôi Lời đã mang thân xác và cư ngụ giữa chúng tôi" (Gioan 1:14).

Ngài không giải thoát con người, bằng cách đứng ở xa, để dùng quyền năng thượng trí, mà cố vấn, mà chỉ cho con người một con đường, một đạo, theo kiểu tâm lý trị liệu, khi con người gặp phải những nghịch cảnh, mà cho là quái gở.

- Nhưng, Ngài đã trở thành một đứa bé, yếu đuối, run sợ những con quái vật là dưa hấu như bất cứ ai.

- Ngài cũng trốn chạy tỵ nạn sang ai Cập, cũng cho thấy dưa hấu là quái vật đáng run sợ trong Vườn Câu Dầu và trên Thập Giá.

Và khi thấy có người thương mình như vậy, con người ta mới nhận ra những gì vốn sợ hãi nhất trên đời, thì lại là những trái dưa hấu có thể trồng, có thể ăn được ngon lành.

*****

Vì chính Đức Kitô đã nhập thể, đã nhập thế, đã làm người, đã mang cho cuộc sống hiện sinh của họ một ý nghĩa, với tất cả ngọt bùi, đắng cay, như lời Kinh Tiền Tụng trong thánh lễ Giáng Sinh có ghi:

"Khi chính Người sinh ra, Người đổi mới thân phận con người... khi từ cõi chết sống lại, Người đã chỉ lối vào chốn trường sinh", để cho con người có thể tham dự vào bản tính Thiên Chúa.

Và khi pha một chút nước vào rượu, ở phần dâng lễ vật, rồi dâng lên Thiên Chúa, linh mục cũng đọc lời nguyện như sau:

"Nhờ mầu nhiệm hòa nước vào rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thiên tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con".

Như vậy, đời không còn là một bể khổ phi lý, để con người phải lo trốn chạy nữa, bởi vì chính Đức Kitô, cũng đang đi vào con đường nhập thể và nhập thế như vậy.

Không có số nào là số con rệp cả.

Và khi sống lại, ngài đã mở cửa Trời, đã dẫn đưa con người đi vào hạnh phúc vĩnh cửu bên Thiên Chúa. Đấng Giáng Sinh làm cho con người mọc được cánh, để có thể "cất nổi mình mà bay lên", bay cao cho tới vô hạn.

Đúng như lời Kinh Thánh đã nói:

“Thiên Chúa không phải là Đấng không thể cảm thông với những yếu đuối của chúng ta, mà là Đấng đã chịu mọi thử thách trong mọi sự, như chúng ta, chỉ khác là đã không phạm tội" (Do Thái 4:15-16).

Lạy Chúa, Chúa đã Giáng Sinh làm người, để sống với chúng con, để sống giữa chúng con, để sống như chúng con, để cảm thông với chúng con, để còn chia sẻ và nhận lấy mọi khổ đau như chúng con, để chúng con hiểu được tình Chúa yêu con, bao la, cao cả đến mức nào.

Xin cho con luôn tin yêu, cậy trông và phó thác vào Chúa, với tất cả tình con hiếu thảo, trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Amen.

--------------------------------

 

Bài 10: Chuyện hai bài giảng đầu tiên

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 85 - TN 4A

Bạn thân mến,

Đức Phật Thích Ca đã mở đầu bài thuyết pháp (giảng) đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu:

"Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ",

nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra, để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối cùng phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện ở đất Pa-lét-tin, đã dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên:

"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!(Mt 5:3)

- Một người thì mang tiếng là bi quan, yếm thế, còn người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ.

- Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng, thấy hạnh phúc trong cái thanh bạch, trống trơn, nghèo khó.

*****

Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực, thời giờ và sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu..

Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy.

Vì thực ra, cả Đức Phật, lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình.

- Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, đã vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng;

- Còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái đã mất (x. Mt 10:39), và thấy được sự sống, trong cái chết (x. Ga 12:24-25)

- Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ.

- Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Mát-thêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ, cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.

Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: Nhiều người có dư mọi điều kiện để hạnh phúc, thế mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, thì lại tràn đày hạnh phúc.

Thật ra, ai cũng biết rằng: Nghèo khó, không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau.

Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên là đem lại hạnh phúc cho con người.

Vấn đề hạnh phúc chủ yếu là ở cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.

Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình.

Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của "người nghèo của Thiên Chúa", của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn, túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.

Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, "dĩ bách tánh tâm vi tâm" (ĐĐKXLIX,1).

Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru.

Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc, cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu và sống hết mình tinh thần 8 mối phúc mà Chúa dạy con hôm nay. Amen.


---------------------------

 

Bài 11: Hãy là Muối và là Ánh sáng cho đời

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 86 - TN 5-A

Bạn thân mến,

Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói:

- “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”.

- Nếu, mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo.

Một vị thánh giống như Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên Chúa.

Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa:

“Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

*****

Hôm nay trong bài Phúc âm TN 5-A (Mt 5, 13-16). vai trò của người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và Anh sáng.

- “Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ?... Các con là ánh sáng cho trần gian, một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.

Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng một lối diễn tả đặc biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm giá của một người.

Thời xưa muối rất có giá trị.

Người Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người La-mã đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối”.

Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.

Người La-mã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người Do Thái được dâng lên với muối.

Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối.

Plutarch đã dùng một lối diễn tả lạ lùng, khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống như một linh hồn mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị mục rữa. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.

Nhưng, đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

Thế nhưng điều trái ngược đã xảy ra trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất hương vị của cuộc sống.

Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc La-mã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại muốn đưa các  thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng:

“Các bạn có nhìn kỹ vào những người Kitô hữu này chưa ? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ cho họ, nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ mọi sự và chấp nhận đau khổ cho đến chết”.

Thực ra không phải vì Kitô giáo đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời, nhưng bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và đã trở nên sa đọa !

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp.

- Một là từ các bờ biển sản xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi là muối biển. Người đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và giảm dần sự mặn mà.

- Nguồn cung cấp muối thứ hai đến từ Biển Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển Chết có pha trộn nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp dưới chân”.

Lạy Chúa, xin biến đổi đời con, để con được trở thành "muối cho đời" và "ánh sáng cho thế gian", đúng như ơn gọi Kitô hữu của con, ơn gọi sống cho người và cho đời như Chúa Kitô đã sống, đã làm gương cho con. Amen.

----------------------------

 

Bài 12: Luật Yêu Thương mới  của Đức Giêsu

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 87 - TN 6-A

Bạn thân mến,

Tạp chí Reader’s Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một truyện ngắn khá thú vị như sau:

Có một đôi vợ chồng kia đã quá nhiều lần cãi nhau, và lần này, đang lúc hai người cãi nhau thật hăng say, bỗng người chồng đề nghị với vợ:

“Thôi, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Bây giờ mỗi người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau”.

Người vợ đồng ý.

Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu.

Người vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, nên cũng hối hả viết liên hồi, dường như cố ý tranh với chồng, để kể ra nhiều tật xấu hơn.

Người chồng chỉ viết một câu, rồi dừng lại nhìn vợ.

Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra những tật xấu của người chồng, và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn.

Đến lúc không còn gì để viết nữa, hai người trao cho nhau bản kể tội của nhau.

Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt của người vợ bỗng biến đổi vì xúc động. Bà vội vàng đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng và tỏ thái độ làm hoà hoản ngay với chồng.

Trong tờ giấy của người chồng, bà chỉ đọc được có một câu duy nhất:

Anh yêu em!”.

Bạn thân mến,

Tình yêu, chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố (TN 6-A: Mt 5, 17-37): “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại, ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa, diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu.

Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho tất cả mọi mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người sẽ không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn, than trách Thiên Chúa.

Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa người với người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.

Luật mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới, tạo nên “Nước Trời”:

“Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”.

Trong một số ví dụ được Đức Giêsu đưa ra, như giết người, gian dâm, bội thề…

Luật mới không chỉ dừng lại ở những hành động tội ác, mà đòi hỏi phải đổi mới tận chiều sâu của tâm hồn, tận trái tim yêu thương:

- Trước kia, có huỷ hoại sự sống thể xác mới là tội, mới phải ra toà. Nhưng từ đây, chỉ mới có tâm tình giận dữ, hay buông một lời nhục mạ anh em, là đã đủ để lãnh án nặng nề rồi.

- Thậm chí chưa tích cực giải hoà với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, thì cũng phải kể là không có liên hệ tốt với chính Thiên Chúa, không còn quyền để dâng của lễ cho Thiên Chúa nữa.

- Luật cũ xử phạt người có hành động ngoại tình. Từ đây, Luật mới đòi buộc phải trong sáng, từ ánh mắt, đến tận tâm hồn. Phải tôn trọng và lãnh trách nhiệm bảo vệ người bạn đời của mình.

- Luật cũ cấm phản bội lời thề. Luật mới đòi phải sử dụng lời nói thế nào trong cả đời anh, để người nghe, hiểu và nhận được lòng chân thành của anh, mà không cần anh phải thề thốt gì hết.

Do đó, chúng ta không lạ gì lối giữ đạo duy hình thức, vụ Lề Luật của các luật sĩ và các nhóm Biệt phái, Pharisêu thời Chúa Giêsu, đã bị chính Chúa Giêsu vạch trần là thứ giả hình, là “mồ mả tô vôi”: Giữ luật chi li, nhưng là để cho bản thân mình được nổi danh đạo đức trước người khác và để tự mãn nơi chính lòng mình.

Tệ hơn nữa, họ là hạng người mượn danh “luật Chúa” để kết án người vô tội, người nghèo khổ, hoặc người mang bệnh tật.

Và còn đáng Ngài phản đối nặng nề hơn nữa, khi họ chủ trương bắt người khác cũng phải hoạ theo lối sống của họ. Chính Chúa Giêsu đã bảo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời”.

Bạn thân mến,

Luật mới là một “Giao Ước Mới”, một “hợp đồng tình thương” với những điều khoản được Chúa “ghi tạc tận đáy lòng, tận trái tim con người” (Gr 31,33).

Ngôn sứ Êzêkiel còn diễn tả qua hình ảnh cụ thể hơn nữa: “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con và ban tặng các con một trái tim thịt mềm, biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con, để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (36,23-27).

Đức Giêsu đã kiện toàn Luật của Thiên Chúa. Ngài đã sống trọn vẹn đến từng chi tiết.

Ngài đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa lấy con người làm đối tượng của tình yêu thương, khi đích thân Ngài, như một tên tử tội khốn nạn nhất, chết treo thê thảm trên Thập giá, chỉ vì muốn nâng con người lên tận hàng con cái Thiên Chúa.

Mầu Nhiệm Nhập Thể không chỉ là mầu nhiệm của Ngôi Lời Thiên Chúa làm con người, mà còn là dấu chứng của tình yêu, cũng là bản thể Thiên Chúa đã dính chặt vào với mỗi con người của trần thế, đến độ bất cứ ai làm gì cho mỗi con người, đều làm cho chính bản thân Ngài, và bỏ qua không làm tốt cho con người, cho dù với mọi thứ lý do, thì sẽ đưa đến kết quả là: “Không được sống đời đời” (Mt 25,41).

Lạy Chúa, hôm nay con đã nhận ra Đạo của Chúa là như thế đó, Luật của Chúa là như thế đó. Nó nhằm mục tiêu cho mỗi người biết hoà nhập vào dòng suối chảy vô tận của tình thương vô biên, khơi nguồn từ Chúa Cha và thông qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần, chuyển đến mỗi người và mọi người, qua muôn thế hệ. Bởi vì chỉ có tình thương, con mới cho phép góp phần vào việc xây dựng, phát triển hạnh phúc của con và của những anh chị em chung quanh con. Và cuối cùng, con sẽ được dự phần hạnh phúc Nước trời của Thiên-Chúa-Tình-Thương.

Lạy Chúa, xin giúp con thực hiện tốt những đều Chúa dạy con hôm nay. Amen.

-------------------------------------

 

Bài 13: Một kiểu báo oán của người quân tử

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 88 - TN 7-A

Bạn thân mến,

Tích xưa kể rằng:

Hàn Tín, thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá để đổi lấy gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn.

Có một bà thợ giặt biết thế, nên đã cảm thương, mời Hàn Tín đến dùng cơm với bà tại tại nhà.

Hàn Tín khi đi đâu thường cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.

Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, nên đã chận đường và thách thức:

Chú mày thường mang gươm theo mình, chả biết để làm gì! Bây giờ, ta không cho chú mày đi tới. Vậy, nếu chú mày có gan, thì sẵn có thanh gươm đó hãy chém ta đi, bằng không thì phải chui luồn trôn của tôi mà đi.

Hàn Tín chẳng chút do dự, chấp nhận luồn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ:

"Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình để đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!"

*****

Sau này, Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước, nên được phong làm Vua Tam Tể  ("Tam kiệt nhà Hán").

Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn cho mời bà thợ giặt đến biếu cho bà nghìn lạng vàng để tạ ơn.

Rồi, không những là không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy năm xưa, mà lại còn phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: "Lúc trước, tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu được ban chức tước?

Hàn Tín ôn tồn bảo: "Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, để đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy, nhà ngươi chớ tị hiềm, mà hãy nhận chức ta ban".

Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay:

- Đối với người ân thì ban thưởng.
- Song đối với người oán, cũng vẫn ban thưởng, chứ không trả thù. Thật là một bậc quân tử.

*****

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước, để khỏi xảy ra điều tai hại hơn.

Đây là một lời khuyên quan trọng: Chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà.

Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian. . . Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người.

Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà.

Tha thứ và làm hoà, là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng vẫn còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ.

“Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Matthêu 5,23-34).

Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau.

Người ta vẫn thường nói: Để sống với Chúa, cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác.

Nếu chúng ta không có lòng độ lượng, có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình.

Đây cũng là điều, mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ.

Không phải chỉ yêu kẻ yêu mình, mà còn phải yêu cả kẻ ghét mình.

Không phải chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình, mà còn phải làm ơn cho kẻ làm hại mình.

Bởi vì, oán báo oán thì oán sẽ chập chùng.

Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù.

Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó, người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin Chúa Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Luca 23,34b).

Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ, mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa, cũng như kẻ chống đối lại Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết lấy tình thương mà sống độ lượng bao dung với những anh chị em sống bên cạnh con, nhất là những người đã xúc phạm đến con.

Xin cho con biết làm hòa để thêm bạn bớt thù.

Xin cho con biết tha thứ để cho tâm hồn con luôn được bình an, nhất là để con đáng được Chúa tha thứ. Amen.

---------------------------------

 

Bài 14: 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay

Chuyện minh họa Tin Mừng Bài 089 - Thứ Tư Lễ tro

-------------------------------------

Bạn thân mến,

Thứ Tư Lễ Tro là khởi đầu Mùa Chay. Mùa Chay tới, nhiều người nghĩ phải cố gắng từ bỏ điều gì đó, để bước theo Đức Kitô. Tuy nhiên, những điều này lại thường ít ảnh hưởng đến cuộc sống, chúng ta “khôn lỏi” lắm !

Dưới đây là 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay. Không phải là những thứ liên quan việc ăn uống, nhưng chúng thực sự cần từ bỏ. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, mỗi ngày cố gắng từ bỏ 1 điều. Trong 40 điều này, có những điều không chỉ từ bỏ trong Mùa Chay, mà phải từ bỏ suốt cả đời.

1. Sợ thất bại. Bạn không thành công nếu chưa trải qua thất bại. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Thất bại là mẹ thành công”.

2. Vùng an toàn. Đó là “vùng thoải mái”, sợ khó. Dám ra ngoài “vùng” này thì chúng ta mới có thể khám phá những điều mới lạ.

3. Cảm thấy hoài nghi. Có lúc chúng ta nghi ngờ rằng: không biết Tạo Hóa có tạo dựng nên mình hay không ? Hãy xác định như tác giả Thánh Vịnh:

“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” ( Tv 139,13-16 ).

4. Thiếu kiên nhẫn. Thời giờ của Thiên Chúa là thời giờ hoàn hảo. Mọi thứ đều đúng hẹn, đúng kỳ theo ý Ngài tiền định và quan phòng.

5. Sống ẩn dật. Còn hít thở, chúng ta còn sống với người khác và tương tác với họ vì Đức Kitô. Công việc của chúng ta luôn ảnh hưởng đến người khác.

6. Làm vui lòng người khác. Không ai có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng chúng ta phải luôn cố gắng làm vui lòng người khác, còn họ có vừa lòng hay không là phần của họ.

7. So sánh. Một là cảm thấy mình kém cỏi hơn người khác, hai là cảm thấy mình “ngon lành” hơn người khác. Dạng nào cũng không được.

8. Trách cứ. Chúng ta có xu hướng không dám nhận lỗi, và luôn muốn đổ lỗi cho người khác.

9. Phạm tội. Nhân vô thập toàn. Mặc dù chúng ta là tội nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, và Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta. Hôm nay là ngày mới, hôm qua đã không còn.

10. Mất tự chủ. Do đó, chúng ta khó có thể hoàn tất công việc và làm tốt hơn.

11. Thiếu dự định. Các quyết định khôn ngoan hiếm khi trở thành vô ích.

12. Không minh bạch. Một là không minh bạch về điều này hoặc điều nọ ( khuất tất), hai là không trong sạch ( nhân đức ).

13. Tự quyền. Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta điều gì, thế giới cũng chẳng mắc nợ chúng ta điều gì. Hãy cố gắng sống trong ân sủng và khiêm nhường.

14. Lãnh đạm. Cuộc đời có bao nhiêu mà hững hờ. Không quý mến nhau thì cũng đừng kèn cựa nhau. Tranh chấp nhau, giành giật nhau, hơn thua nhau làm gì ?

15. Ghen ghét. Hãy cảnh giác, kẻo mắc lừa ma quỷ, bởi vì chúng rất ranh mãnh. Kinh Thánh căn dặn:

“Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” ( Rm 12,21 ).

16. Tiêu cực. Hãy cố gắng quan hệ hòa nhã với mọi người. Tránh né người khác là tiêu cực, mà cũng chỉ vì chúng ta không coi trọng người khác, nên mới tránh né họ.

17. Mê vật chất. Hãy nhớ rằng có Thiên Chúa là có tất cả, mất Thiên Chúa là mất tất cả:

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” ( Tv 23,1 ).

18. Sống máy móc. Càng đầu tư nhiều thì càng có lợi nhiều. Về tinh thần và tâm linh cũng vậy.

19. Than phiền. Đừng cằn nhằn, khó tính, than thân trách phận hoặc trách móc người khác, hãy cố gắng xử lý và giải quyết vấn đề cho thấu đáo.

20. Bất cẩn. Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó là niềm vui sống. Đừng buông xuôi, bất cần đời !

21. Gay gắt. Đó là tự làm khổ mình, và tất nhiên cũng làm khổ người khác. Tâm bất an thì không thể nào sống vui và sống khỏe, bệnh tật phát sinh từ đó.

22. Chia trí. Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta chia trí, vì thế cần phải tập trung vào mục đích của mình.

23. Mặc cảm. Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta, dù chúng ta xấu xa và tội lỗi:

“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con” ( Tv 27,10 ).

24. Tầm thường. Cuộc đời chúng ta có thể không ai biết đến, không có gì khác thường, sống rất bình thường, nhưng tuyệt đối đừng sống tầm thường.

25. Gây chia rẽ. Chia rẽ là chết, đoàn kết mới sống. Khuyến khích nhau là điều cần thiết, mọi nơi và mọi lúc:

“Phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần” ( Dt 10,25 ).

26. Bận rộn. Đó là “huy hiệu danh dự” của người mê công việc, mà bỏ bê những thứ cần thiết khác.

27. Cô độc. Có Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không cô độc. Ngài luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.

28. Bất hòa. Xung đột là mối nguy cho cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Xung đột xảy ra thì không thể hợp tác. Sự cộng tác và đồng tâm nhất trí rất cần:

“Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” ( Mt 18,19 ).

29. Vội vàng. Dục tốc bất đạt. Dù to hay nhỏ, cái gì cũng cần có thời gian, không thể một sớm một chiều.

30. Lo lắng. Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, chúng ta có quá lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì:

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” ( Mt 6,33-34 ).

31. Thần tượng hóa. Đừng thần tượng hóa bất cứ ai, bắt chước là ngu xuẩn, hãy cứ là chính mình ! Chỉ có Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo mà thôi.

32. Cố chấp. Cuộc sống luôn phải thay đổi để thích nghi mọi thứ. Cố chấp là ích kỷ, là hèn nhát.

33. Kiêu ngạo. Thiên Chúa hạ bệ kẻ kiêu ngạo, nhưng nâng cao người khiêm nhường ( Lc 1,51-52 ).

34. Nông cạn. Đừng nói rằng: vấn đề khó quá, chính vấn đề khó đó cho chúng ta biết Thiên Chúa vĩ đại.

35. Đố kỵ. Người Pháp có câu nói chí lý: “Đừng vì kính mến Chúa, mà chống đối người khác”. Mọi người đều là anh em và là con một Cha trên Trời.

36. Vô ơn bạc nghĩa. Cuộc sống là những ngày tháng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa mọi, chúng ta cũng mắc nợ tha nhân và xã hội nhiều thứ. Do đó, chúng ta không thể không biết ơn Thiên Chúa và cuộc đời.

37. Tham lam. Thiên Chúa có kế hoạch riêng dành cho mỗi người:

“Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta” ( Is 45,4 ).

Hãy cố gắng làm trọn công việc Ngài giao phó.

38. Tự mãn. Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta:

“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” ( Pl 4,13 ).

Có Ngài thì chúng ta mới làm được công kia việc nọ, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì đâu:

“Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15,5 ).

39. Ưu sầu. Buồn thì cứ khóc, xong rồi thôi. Đừng giam mình trong vòng ưu sầu. Mọi sự sẽ qua, cứ tín thác vào Thiên Chúa:

“Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người” ( Tv 30,5b ).

40. Cuộc đời. Thế gian là cõi tạm, rồi sẽ qua đi. Đừng coi nặng vật chất, kể cả cuộc sống của chúng ta, tất cả chỉ là bụi tro mà thôi. Chúa Giêsu đã nói:

“Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ).

*** (theo Greater Things Today, Mùa Chay 2017)

-------------------------------

 

Bài 15 : Chuyện ma quỷ là có thật

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 090 - MC 1ABC

Bạn thân mến,

Đối với rất nhiều người trên thế giới, ma quỷ chỉ là chuyện hoang đường do một số người bịa ra để hù dọa những người yếu bóng vía. Họ cho rằng ma quỷ không có thật và cho dù có thật đi nữa, chúng cũng chẳng đáng cho ta quan tâm, chẳng cần cảnh giác.

Nghĩ như thế là mắc mưu ma quỷ rồi, vì theo lời Đức thánh Cha Phan-xi-cô, “Sa-tan cố tìm cách làm cho mọi người tin rằng chúng không còn tồn tại trong thế kỷ này” để người ta khỏi biết đến chúng và mất cảnh giác với chúng.

Ma quỷ có thật

Kinh thánh cho chúng ta biết sự hiện hữu của ma quỷ là một sự thật hiển nhiên.

Ngay từ khi nguyên tổ loài người được tạo nên, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ, để lôi kéo tổ tông loài người đừng vâng theo lời Chúa dạy, đừng đi theo đường lối Ngài và hai ông bà đã nghe theo lời dụ dỗ của Sa-tan. Thế là thảm họa đã xảy ra từ đó.

Rồi khi Chúa Giê-su vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, ma quỷ cũng đến cám dỗ Ngài, không chỉ một lần mà là đến 3 lần và sau 3 lần thua trận, “ma quỷ rút lui để chờ cơ hội khác” (Lc 4,13).

Và trong 3 năm rao giảng, Chúa Giê-su đã nhiều lần trục xuất ma quỷ khỏi nhiều người bị chúng ám hại và Ngài cũng ban cho các môn đệ quyền năng để xua trừ ma quỷ.

Gần với thời đại chúng ta hơn thì phải kể đến việc ma quỷ đã quấy phá cha thánh Gioan Vianney suốt 35 năm trời bằng đủ mọi hình thức đáng ghê sợ khiến ngài hầu như không thể nào ngủ được. Sự việc này đã được tòa án tuyên thánh cho ngài xác nhận là sự thật.

Thánh Phê-rô cũng xác nhận rằng ma quỷ vẫn đang rình rập quanh ta và dạy chúng ta phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Và từ ngày Đức thánh Cha Phanxicô đảm nhậm trọng trách Giáo hoàng đến nay, ngài đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu rằng ma quỷ có thật, ma quỷ luôn hiện diện quanh ta và chúng ta phải luôn cảnh giác với chúng. Ngài nói: "Ma quỷ đang ở quanh ta … trong thế kỷ 21 này!" Ngài kêu gọi: Xin mọi người “đừng thờ ơ trong việc này! Hãy luôn luôn cảnh giác.”

Ma quỷ rất đáng sợ

Chính ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt ý định phản nộp Chúa Giê-su (Ga 13,2), cũng như đã nhập vào y để thúc đẩy y thực hiện hành vi bán Chúa (Ga 13, 27; Lc 22,3).

Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng điều xấu là do ác quỷ mà ra (Mt 5,37).

Hiện nay, ma quỷ có một đạo binh rất đông đảo, rất hùng hậu, rất tinh nhuệ và rất thiện chiến… đang bủa ra khắp nơi để tấn công loài người, tàn phá những giá trị đạo đức, làm suy sụp nền luân lý lành mạnh, làm cho rất nhiều gia đình tan vỡ…

Ma quỷ lôi kéo rất nhiều người vào con đường tội lỗi, sa đọa vì rượu bia, ma túy, mại dâm, đàng điếm, trộm cướp, hận thù, đâm chém, hoang đàng, trác táng…

Ma quỷ xúi giục người ta tham ô, làm hàng giả, sản xuất thực phẩm độc hại, buôn bán ma túy, buôn người…

Ngay cả Chúa Giê-su mà còn bị ma quỷ cám dỗ 3 lần trong hoang địa và sau đó ma quỷ còn chờ cơ hội để cám dỗ tiếp, thì ma quỷ cũng không buông tha cho bất cứ ai trong chúng ta.

Ma quỷ là thù địch đáng sợ hơn bất cứ thù địch nào trên thế gian vì chúng có trăm phương nghìn kế để lừa dối, để mê hoặc, để lôi cuốn người ta vào con đường tội lỗi.
Vô vàn phim ảnh, sách báo, các thể loại ca múa nhạc và văn hóa phẩm đủ loại nhằm kích động bạo lực, tình dục, chia rẽ, hận thù… tràn lan khắp nơi trên thế giới là những phương tiện ma quỷ thường dùng để làm băng hoại bao tâm hồn và xô đẩy nhiều người xuống hỏa ngục.

Trong khi đó, điều rất đáng quan ngại là nhiều người không hề quan tâm, không hề cảnh giác trước những nguy cơ rất đáng sợ này.

Chính vì thế, Đức thánh Cha Phan-xi-cô đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu phải luôn luôn cảnh giác đối với ma quỷ và ngăn ngừa những tác hại do chúng gây ra.

Và thánh Phê-rô cũng nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).

Lạy Chúa Giê-su, ma quỷ thì khôn ngoan xảo quyệt, chúng như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé, còn chúng con chẳng khác gì cừu non trước đàn sói dữ, khó lòng thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù, nếu không được Chúa bảo vệ chở che.

Xin Chúa luôn bảo vệ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống tiết độ và tỉnh thức như lời Chúa dạy để khỏi sa vào móng vuốt kẻ thù rất đáng sợ này. Amen.

----------------------------------

 

Bài 16: Hai cuộc biến hình của Chúa Giêsu

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 091 – MC 2ABC

Bạn thân mến,

Có một cuốn phim, tựa đề là “Mask” (Mặt nạ), đã diễn lại một câu chuyện có thực của một chú bé 16 tuổi, tên là Rocky Dennis.

Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ, khiến cho sọ và xương mặt của chú to hơn bình thường.

Do đó, gương mặt của chú đã bị biến thành dị dạng, trông thật rất khủng khiếp.

- Có người trông thấy chú thì quay mặt đi, vì ngượng ngùng, vì khiếp sợ.

- Có người thì chọc ghẹo, chế nhạo chú.

Dù vậy, Rocky đã chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân và cũng chẳng hề tức tối hay nổi giận với bất cứ ai. Chú cảm thấy  ngoại hình của mình xấu xí, nhưng vẫn chấp nhận nó, như là một phần của cuộc sống mình.

Rồi một ngày nọ, Rocky cùng với gia đình đi thăm khu công viên vui chơi. Họ đi vào nhà kính (nhà này có gắn kính đủ thứ, tứ tung) và bắt đầu cười đùa, chế diễu thân mình và khuôn mặt bị biến dạng của họ.

Bỗng nhiên, Rocky khi nhìn lại mình trong kính, thì lại giật mình, bởi đã trông thấy một chiếc gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú, thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai nữa.

Lần đầu tiên trong đời, mọi người, nhất là lũ bạn của chú, đã nhìn thấy chú ở trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú, hôm nay được bộc lộ ra bên ngoài.

*****

Cũng một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay MC2 (Mt 17, 1-9).

Trong lúc Chúa Giêsu biến hình, thì các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Lần đầu tiên, họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa, được bộc lộ ra bên ngoài.

Điều này khiến ta tự hỏi: “Tại sao cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại được xếp vào hàng số những bài đọc của mùa chay, là mùa thường mang màu sắc ảm đạm, thay vì được xếp vào những bài đọc mùa Phục sinh, thường dính dấp với sự vinh quang của Chúa Giêsu?”

Để trả lời, chúng ta cần phải đọc toàn bộ bài Phúc Âm, nhất là đoạn nói đến cuộc biến hình của Chúa Giêsu:

- Việc này xảy ra, ngay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ rằng: Ngài sẽ phải đi Giêrusalem, để chịu nạn và chịu chết ở đó.

Khi nghe Chúa Giêsu báo như thế, thì Thánh Phêrô liền hốt hoảng la lớn tiếng:

“Lạy Thầy, xin đừng! Xin điều đó đừng xảy đến cho Thầy”.

Lập tức, Chúa Giêsu đã trả lời cho Phêrô:

“Này Satan, hãy xéo đi xa khỏi mặt ta! Đừng có cản trở ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối của Thiên Chúa, mà lại chỉ biết suy nghĩ theo đường lối của con người thôi” (Mt 16,22-23).

Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần phải được chích cho một liều thuốc bổ thiêng liêng, sau khi bị một “cú sốc” quá chướng tai, vì lời loan báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

Và cũng có lẽ, đó cũng là lý do mà Giáo hội đã đặt đoạn Kinh thánh nói về cuộc biến hình của Chúa, vào số các bài đọc mùa chay, vì muốn trợ lực cho chúng ta, trước khi hướng dẫn chúng ta bước vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vào ngày thứ sáu tuần thánh.

Tuy nhiên, còn một lý do khác nữa, khiến cho Giáo Hội đặt đoạn Kinh thánh nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu, vào trong số các bài đọc Mùa Chay, là vì cuộc biến hình của Chúa có những điểm nổi bật, tương tự với cơn hấp hối trong vườn Giêsêmani, đã xảy ra trên một ngọn núi, tên là Cây Dầu.

Còn cuộc biến hình cũng xảy ra trên một ngọn núi, Núi Tabor.

Cơn hấp hối, cũng như cuộc biến hình, đều chỉ có 3 môn đệ này chứng kiến, là Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Cơn hấp hối xảy ra vào ban đêm, cuộc biến hình cũng xảy ra vào ban đêm.

Trong cả hai trường hợp, các môn đệ đều say ngủ, đang khi Chúa Giêsu vẫn tỉnh thức cầu nguyện.

Và cuối cùng lý do đặc biệt hơn cả, là hai biến cố trên: hấp hối và biến hình, đều có những chi tiết bổ túc lẫn cho nhau:

- Trên núi Tabor, ba môn đệ nhìn thấy Chúa Giêsu lúc Ngài xuất thần. Đây là lần đầu tiên thiên tính Ngài được biểu lộ trước mắt họ.

Còn trên núi cây dầu thì ngược lại, họ chứng kiến Chúa Giêsu trong giờ Ngài hấp hối, đây cũng là lần đầu tiên nhân tính Ngài bộc lộ rõ nét nhất.

- Núi Tabor và núi Cây Dầu, mặc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính Chúa Giêsu. Hai biến có trên hai ngọn núi, không thể tách lìa nhau, như hai mặt của cùng một đồng xu bạc cắc. Chúng cho thấy trọn vẹn hai chiều kích nơi Chúa Giêsu: Ngài vừa là con người, vừa là Thiên Chúa

*****

Sau đây, là sứ điệp thực tiễn, rút ra từ biến cố xảy ra trên hai ngọn núi đó:

- Giống như Chúa Giêsu, chúng ta cũng có hai chiều kích: một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính.

Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adam và một nét giống Thiên Chúa.

Giống như Chúa Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có lúc đã từng cảm nghiệm những phút giây xuất thần, khi mà nét giống Chúa toả sáng rực rỡ, hầu như chói loà cả mắt chúng ta, chúng ta cảm thấy sao hạnh phúc qúa, Tuyệt với quá, sao mà dễ gần gũi Chúa quá, đến nỗi dường như chúng ta có thể đụng chạm được Ngài.

Trong những phút giây này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà đẹp quá, chúng ta cảm thấy yêu mến hết mọi người, muốn bá vai, bá cổ bạn bè và sẵn sàng tha thứ cho mọi kẻ thù của chúng ta.

Nhưng rồi xét về mặt kia, cũng có lúc, chúng ta giống như Chúa Giêsu trên núi Cây Dầu, chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được những phút giây “hấp hối”, khi mà nét giống Adam cháy rực trong ta, đến nỗi khiến cho hình ảnh của Chúa trong ta bỗng nhạt nhoà, gần như mất hẳn. Những giây phút này cuộc sống sao mà tồi tệ, sao mà thê thảm quá.

Chúng ta cảm thấy hình như không ai yêu mến mình. Chúng ta thường hay gây gỗ với kẻ này người nọ, kể cả bạn bè, và tất nhiên nguyền rủa những kẻ thù nghịch với ta.

Những giờ hấp hối hay những giầy phút xuất thần đang xảy đến, thì chúng ta cũng hãy nên nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor, và Cây Dầu.

Chúng ta hãy nhớ lại những giây phút mà Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được, trong cả hai khoảnh khắc: quang vinh và ảm đạm nhất trong cuộc đời dương thế của Ngài.

Và quan trọng hơn nữa, là chúng ta cần phải nhớ rằng: trong cả hai khoảnh khắc ấy, Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện.

Nếu sự cầu nguyện là cách thức Chúa Giêsu dùng, để đáp lại những khoảnh khắc ấy, thì chúng ta cũng hãy cố gắng làm giống như Ngài. Nhờ đó, chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta, như Ngài đã từng nói với Chúa Giêsu trong cuộc biến hình trên núi Tabor “Đây là Con Ta yêu dấu…” và cũng như Chúa Giêsu từng chịu hấp hối trên núi Cây Dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được: Thiên Chúa cũng đang chạm đôi tay của Ngài vào cuộc đời ta, để chữa lành cho ta.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin cho con cảm nghiệm được những giây phút xuất thần giống như Chúa Giêsu đã xuất thần trên núi Tabor.

Khi cảm nghiệm như thế, xin Chúa cũng hãy giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là biết hướng về Cha, trong tâm tình cầu nguyện, và cho chúng con nghe được tiếng Cha nói với chúng con: “Con là Con yêu dấu của Cha”.

Và lạy Chúa Giêsu, cũng tương tự như vậy, khi con phải sống trong những giây phút khắc khoải, như lúc Chúa hấp hối trên núi Cây Dầu, thì xin cũng giúp con được bắt chước Chúa, mà làm những gì Chúa đã làm, đó là biết hướng về Thiên Chúa Cha, trong tâm tình cầu nguyện.

Xin cho con cảm nghiệm được bàn tay chữa lành của Chúa Cha đang đụng chạm đến con. Amen.

----------------------------------

 

Bài 17: Chúa là sự sống đời con, hôm nay và mãi mãi

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 092

Bạn thân mến,

Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng:

Hàng năm bộ lạc kia phải  hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra  người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi xuống con thác, chết chung với nhau !

*****

Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Do đó, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Hôm nay trong bài Phúc âm (MC5A), Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”.

Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng: Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim, biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.

Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng:

“. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. (Gioan 11,25-26)

Có lẽ trong lúc đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được hết chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người.

Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin có sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu và sống với niềm xác tín: “Chúa là sự sống lại và là sự sống của con”, để con luôn vui sống và hoàn tất những gì Chúa muốn con hoàn thành trong cuộc sống hôm này, theo như những gì Chúa đã sắp xếp và an bải cho cuộc đời con. Amen.

----------------------------------

 

Bài 18: Thế thái nhân tình đổi trắng thay đen

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá ABC Bài 093

Bạn thân mến,

Có một nhà hiền triết đi tới một đô thị, và được biết ở nơi đó có một tay nhà giàu, rất quí mến khách: Bởi bất cứ người khách bộ hành nào đến, thì cũng đều được ông ta tiếp đón và chiêu đãi, ăn uống, rất tử tế.

Nghe biết thế, nhà hiền triết mới thử tới, trong bộ quần áo rách rưới. Trông thấy thế, chủ nhà đã chẳng những không kính trọng, mà còn tỏ vẻ khinh miệt, và hất hủi nữa.

Sau đó, nhà hiền triết lại mượn được một bộ đồ tươm tất, sạch sẽ, mặc vào, rồi lại đến. Lần này, thì chủ nhà lại đon đả, tiếp đón một cách rất nhiệt tình và còn sai dọn tiệc thiết đãi khách.

Khi nhà hiền triết ngồi vào bàn ăn, thì ông cứ bốc thức ăn bỏ cho vào vạt áo, mà lại không cho vào miệng.

Thấy lạ, chủ nhà mới hỏi: “Ngài làm gì vậy ?”

Nhà hiền triết mới ngẩng đầu lên thong thả đáp:

“Hôm qua, tôi đến đây, với quần áo cũ, rách nát, thì chẳng được ăn uống gì. Hôm nay, tôi được thiết đãi linh đình thịnh soạn như thế này, chẳng qua là nhờ bộ đồ mới này, cho nên tôi phải khao cho nó một bữa”.

Nghe thế, ông chủ nhà ngượng quá và rồi không dám nói gì thêm gì nữa.

*****

Cái cách sử sự của nhà hiền triết, là để minh chứng cho chúng ta thấy một sự thật phũ phàng: Là tình đời đen bạc thật phủ phàng.

Nó đen bạc, một phần là do trên cõi đời này có lắm chuyện, lắm điều, dường như  rất khó hiểu, khó tin, khó ngờ, thế mà nó vẫn cứ xảy ra, khiến chúng ta lúng túng, không biết trước như thế nào, để mà lường, để mà đoán được nữa.

Phần khác, là do lòng con người quá dễ đổi trắng thay đen, đến độ không còn biết tin ai được nữa.

Tuy nhiên, mọi rắc rối, mọi phũ phàng đau thương, mọi hiểu lầm chống đối, chung qui đều bắt nguồn từ nơi lòng dạ con người.

Bởi vì, tất cả mọi sự việc ở đời, tự chúng không thể biến hóa thành trắng hay đen, nhưng do nơi con người điều khiển, khiến chúng thành trắng hay đen mà thôi.

Nói khác đi, một khi lòng con người đã bị nhuộm màu gian tham, độc ác, mù quáng, cố chấp, thành kiến, hẹp hòi, nông cạn, mưu mô, xảo quyệt, thì sẽ dễ dàng bóp méo hay vo tròn, để đổi trắng thay đen mọi sự theo ý mình.

Vì thế, không lạ lùng gì khi chúng ta thấy những phản ứng khác nhau của con người trong biến cố Chúa Giêsu long trọng vào Thành Thánh Giêrusalem hôm nay (Lễ Lá).

Có những người, như các môn đệ và mọi kẻ thiệt tâm, thì hoan hô Chúa thật tình.

Bên cạnh đó, lại cũng có những người, do bầu khí phấn khởi của đám đông, cũng a dua, hùa vào, tung hô Chúa cho vui.

Lại có những người, như Biệt Phái, Luật sĩ thì đả đảo, chưởi bới, căm tức, hận thù.

Tại sao, cũng một con người, nhất là con người đó lại là Một Ngôi Vị Thiên Chúa, không có làm chi sai trái, chỉ biết chí công vô tư, sống nhân ái hiền lành, lại khiến cho kẻ ghét người thương ? Như thế, sự đối xử đầy mâu thuẫn này không tại nơi Chúa, mà là tại do lòng con người phát sinh ra.

Lòng con người thật khó hiểu: Hôm nay tốt, mai lại xấu. Anh hùng can đảm có thừa, nhưng hèn nhát sợ sệt cũng không thiếu. Mới trong sạch thánh thiện đấy, lại xấu xa bẩn thỉu ngay. Như thế, sự mâu thuẫn luôn có trong con người. Ánh sáng và bóng tối luôn lẫn lộn, khiến con người nhìn đời, nhìn sự việc, cũng hay thay đổi tùy theo ý nghĩ và cảm xúc của mình.

Vì thế, trên con đường tin Chúa và theo Chúa, cũng như trong cách cư xử với tha nhân, nếu muốn thành công, nghĩa là muốn đi đúng và trung thành với ơn gọi làm con cái Chúa, sống đúng và làm tròn trách nhiệm công bằng, bác ái với tha nhân, thì mỗi người chúng ta phải làm thế nào, và phải sống làm sao, để phần thánh thiện, trong sạch, ngay thẳng, luôn luôn vượt trội hơn, nổi bật lên trên phần đam mê xấu xa, hư hèn tội lỗi vốn sẵn có nơi ta.

Vì thế, bao lâu chúng ta cứ quen thói dầm mình trong ham mê sự đời, cứ nuông chiều theo bản năng hạ cấp, là bấy lâu chúng ta, chẳng những cố tình đối xử bất công với Chúa, với mọi người, mà còn sẽ tự chuốc lấy vào thân, mọi tai họa ở đời này và đời sau.

Đối với Chúa, vì lười biếng, khô khăn, thờ ơ, trễ nải, chúng ta hay khinh thường lời Chúa dạy, ngạo mạn, chống lại thánh ý Ngài. Đôi khi, vì hèn nhát sợ sệt, chúng ta lại cố tình bêu xấu danh dự của Thiên Chúa, từ chối thánh danh Người trước mặt thiên hạ.

Còn đối anh em là những con người yếu đuối đáng thương, thế mà chúng ta cứ đan tâm đối xử ác cảm với họ, nhỏ nhen, bẩn thỉu, thành kiến, triệt hạ họ, gian tham, xảo quyệt, tranh dành quyền lợi của nhau, nghi ngờ đổ tội cho nhau, làm khổ cho nhau.

Như thế, phải chăng loài người là loài không  đáng tin cậy, không đáng quí trọng như người ta vẫn thường đề cao ?

Dĩ nhiên, không phải tất cả đều bại hoại, xu thời, hay thay đổi, nhưng vẫn còn có những con người trung kiên, một dạ, một lòng, luôn trong sáng, đầy nhân ái từ bi.

Nếu họ có yếu đuối, sa ngã như các Tông đồ, nhưng đã biết đứng dậy từ lầm lỗi, để làm lại cuộc đời cách tốt đẹp trước mặt Chúa, thì đáng chúng ta trân trọng biết mấy.

Lạy Chúa, dù cho cuộc đời có đổi trắng thay đen, dù ai có thay lòng đổi dạ, thì xin cho con luôn là người con đích thực của Chúa, luôn kiên vững trong đức tin, nồng nàn trong tình mến và son sắt trong niềm cậy trông phó thác vào Chúa, và chỉ một mình Chúa mà thôi. Amen.

----------------------------------

 

Bài 19: Chuyện con thằn lằn

Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 094 – Lễ Phục Sinh:

Bạn thân mến,

Bỏ xứ mình, để đến phục vụ, lo cho công việc truyền giáo tại nơi đất khách quê người, quả là một lý tưởng đáng ca ngợi.

Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên, thiếu nữ tây phương, chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng, trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.

Có một thanh niên nọ đã xin đến tận bên Ấn Độ, để phục vụ những người nghèo khổ, theo gương mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta.

Khi ra đi hồ hởi bấy nhiêu, thì giờ này, chạm trán với thực tế, anh mới cảm thấy thất vọng bấy nhiêu:

Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản:

- Từ khí hậu cho đến thức ăn,
- Từ điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt, xem ra rất bí hiểm một cách nào đó đối với anh.


Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn, lại là một điều không đáng bận tâm mấy...

Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên, cũng không nhiều tiện nghi.

Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất.

Duy có một chướng ngại, mà anh không thể nào vượt qua được, để có thể sống bình thản: Đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn.

Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng mình, nhưng mà vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác.

Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó.

Không còn biết làm cách nào khác hơn, để tẩy chay con vật, nên anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.

Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn thân của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn.

Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn, xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó có rất nhiều đức tính, trong đó quan trọng hơn cả, đó là cái tài săn bắt muỗi của nó.

Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý căn bản trong cuộc sống, đó là những khó khăn, rõ ràng là không đến từ môi trường chung quanh bên ngoài, mà là đến từ trong chính bản thân của anh.

Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ", như để nói rằng:

Lắm khi, chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta.

- Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây.

- Khi chúng ta buồn, cảnh vật có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám.

Lắm khi những vấn đề khó khăn, không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà đến từ trong chính bản thân chúng ta.

Gương mặt cau có của chúng ta, thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh.

Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người cũng đều vui vẻ với chúng ta.

Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người ta cũng sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.

*****

Chúa Kitô Phục Sinh, mỗi lần hiện ra với các môn đệ của Ngài, thì lời đầu tiên là Ngài chúc: “Bình an cho các con".

Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, thì chúng ta mới có thể thắng được sợ hãi, mới có thể vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn và nơi ngoại cảnh, nơi môi trường chúng ta đang sống.

Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và dễ dàng chấp nhận chính bản thân, để rồi từ đó, chúng ta mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân, cũng như mọi nghịch cảnh.

Mang lấy màu xanh của hy vọng, thì đôi mắt của chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan.

Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có, với vẻ buồn chán, thì đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.

Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin Chúa ban cho con bình an đích thực của Chúa, để trong bất cứ cảnh ngộ nào, con cũng đều có thể vui sống một cách lạc quan, để có thể chia sẻ niềm vui Phục Sinh của Chúa cho mọi người. Amen.

----------------------------------

Những sách đã in (43 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng– Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui  - Sách 8

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (18 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (4 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4

----------------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây