NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 13

Thứ năm - 08/09/2022 05:14
NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 13
NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 13
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/


---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------
Mục Lục

Bài 1: THÁNH THỂ LÀ MỘT SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU.. 2
Bài 2: MỘT SỰ TRỞ VỀ.. 4
Bài 3: NỖI NIỀM CỦA KẺ CHO VÀ NGƯỜI NHẬN.. 8
Bài 4: NGƯƠI LÀ AI ?. 11
Bài 5: GIÁ TRỊ CỦA CHIẾC ÁO.. 13
Bài 6: SỨC MẠNH CỦA TIỀN.. 18
Bài 7: SINH NHẬT CỦA MỘT NGƯỜI, DẪN ĐẾN CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI 23
Bài 8: TÌNH YÊU CHÚA ÔI VĨ ĐẠI 26
Bài 9: NIỀM VUI PHỤC SINH.. 30
Bài 10: EPHATA - HÃY MỞ RA.. 33
Bài 11: QUYỀN LỰC CỦA CÁI GHẾ.. 36
Bài 12: ĐỌC KINH LẠY CHA VỚI Ý THỨC.. 38
Bài 13: TẠ ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐAU KHỔ.. 40
Bài 14: SỐNG 2 MẶT LÀ LOẠI TRỪ THIÊN CHÚA.. 44
Bài 15: NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT.. 47

----------------------------

 

Bài 1: THÁNH THỂ LÀ MỘT SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 394
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Một hôm, có người thanh niên đến gặp một vị Linh mục, anh ta nói:

- Thưa cha, con có người bạn gái và chúng con đang có chuyện… không hiểu, xin cha giúp cho con.

Linh mục nghĩ thầm:  “Có lẽ là về chuyện tình cảm đây!” 

Ông mỉm cười: Con nói cho cha nghe được không ?

- Thưa cha, bạn gái con hỏi con:  “Đạo Thiên Chúa của anh, ai nấy đều không ăn gì khác, mà lại ăn thịt và uống máu Chúa, sao kỳ cục quá vậy?” 

Thưa Cha con biết Mình, Máu Thánh của Chúa là một Bí Tích mầu nhiệm, nhưng khi nghe bạn gái hỏi, con giật mình suy nghĩ...

Người thanh niên ấp úng một chút, rồi nói tiếp:

- Và con cũng không biết giải thích như thế nào.

Linh mục nhìn anh, ông không trả lời câu hỏi của anh, nhưng ông bắt đầu kể cho anh nghe một câu chuyện.

*****

Ở một thành phố  kia, một trận động đất đã gây hư hại, làm sụp nhà cửa, đường phố... và có rất nhiều người bị vùi dập trong trận động đất. Trong đó, có một bà mẹ cùng với một đứa con tám tháng tuổi, bị kẹt trong đất đá vụn, nhờ có chiếc bàn chắn ngang, nên hai mẹ con bà đươc an toàn, nhưng họ không thể thoát ra ngoài được.  Họ chỉ có một gói nhỏ trong đó có một ít trái cây và bánh.

Ngày đầu tiên: đứa bé  khóc vì đói, bà mẹ cho con bú sữa, tuy không ăn uống gì, nhưng lượng sữa cũng tạm đủ no lòng đứa bé.

Ngày thứ hai... ngày thứ ba thì lương thực đã cạn, sữa cũng không còn, đứa bé lại khóc đòi ăn. Bà lo lắng, bà quờ quạng trong bóng tối và tay bà đụng vào một mảnh vụn của cửa kính.  Bà quyết định cắt một đường trên ngón tay và đưa vào miệng con, thế sữa của mình.

Cứ như vậy, hễ con đói là tay bà có thêm một vết cắt...

Cho đến tối ngày thứ tư, những người cứu hộ tìm thấy được một bà mẹ rất xanh xao và đang trong tình trạng hấp hối nguy kịch, với tư thế đang che chở, ôm ốp bảo vệ con. Trên tay bà vẫn ôm chặt đứa con mũm mĩm.

Khi bạn nghe hay nhìn bằng đôi mắt bình thường: Hình ảnh một em bé mút máu từ ngón tay của mẹ, có lẽ bạn có chút nào đó cảm thấy ghê sợ và...  kỳ cục phải không?

Nhưng với đôi mắt của trái tim, bạn  sẽ thấy điều ngọt ngào và... kỳ diệu biết bao, trong Tình Yêu của bà mẹ dành cho con, đến nỗi thí cả mạng sống mình vì người mình yêu thương.

*****

Chúa Cha đã ban cho chúng ta Người Con Duy Nhất của Người, đó chính là Chúa Giêsu.

Người đã hiến mạng sống của mình cho những người mình yêu, đó là chúng ta. Và Máu, Thân của Người chính là của ăn, của uống Tình yêu cho chúng ta, để chúng ta đươc hòa nhập làm một cùng Thiên Chúa, như giọt máu của người mẹ biến thành dòng sữa ngọt ngào cho con uống, để nuôi sống con mình. 

“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Cũng như em bé đươc nuôi dưỡng bằng  máu  của mẹ để sống, chúng ta cũng cần của ăn Tình Yêu nuôi dưỡng, đó chính là: Mình, Máu Thánh của Chúa Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc tội lỗi của chúng ta, cho chúng ta dược hưởng cuộc sống đời đời.

“Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54).

Ôi kỳ diệu thay Bí Tích mầu nhiệm của Tình Yêu, bạn hãy đến và nếm thử mà xem Thiên Chúa chính là Tình Yêu của chúng ta ngọt ngào là dường bao!

***

Lạy Chúa, chúng con là những người tội lỗi và luôn bất tuân với Chúa, nhưng Chúa vẫn luôn yêu thương chúng con, yêu bằng một tình yêu vô bờ bến. Chúng con hết lòng  tri ân Tình Yêu của Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng con. 

Xin cho chúng con luôn biết chúc tụng, ngợi khen, và cảm tạ Hồng Ân của Thiên Chúa đã trao ban chính Thân mình và Máu Ngài, để bồi dưỡng cho chúng con thêm sức trong Tình Yêu của Thiên Chúa, Cho chúng con  luôn được ở trong Tình Yêu của Chúa. Tà cũng từ đó, chúng con lại biết yêu thương tha nhân như chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng con, và đạy bảo chúng con: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12).  Amen!

-------------------


 

Bài 2: MỘT SỰ TRỞ VỀ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 395
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Có kiến thức và học vị cao, tôi đã may mắn “gặp thời” để làm ăn và cơ hội làm giám đốc một công ty tư nhân, vốn nước ngoài.

Xã hội đã ưu đãi tôi với nhiều tiền tài, địa vị và danh giá.  Đi đến đâu tôi cũng được đón tiếp trang trọng. Tôi hay có khách đến thăm, nhờ vả và tất nhiên quà biếu, bổng lộc cũng phát sinh từ những việc giúp đỡ. 

Thời gian đối với tôi là vàng ngọc. Ngoài công việc chính ở công ty, tôi còn được mời giảng trong khóa, ngoại khóa, cho sinh viên, giảng chuyên đề cho một số công ty, tham gia làm ủy viên cho một số tổ chức lớn, có liên quan đến công việc. 

Trong vị thế là giám đốc, tôi luôn được mời tham dự hội thảo, hội nghị, tổng kết… cả những chuyến du lịch trong nước, nước ngoài, và được mời đự những buổi tiệc lớn bé, sang trọng, với rượu ngoại, đặc sản, bổ dưỡng, đắt tiền…

Trước đây, trong thời kỳ còn khó khăn, vợ chồng chúng tôi cũng an phận với cuộc sống thu nhập qua ngày. 

Sau này, do công việc của tôi ngày càng có vị thế, hơn nữa thu nhập của tôi cũng trang trải đầy đủ cho gia đình, nên bà xã đã nghỉ ở nhà lo nội trợ, phục vụ chăm sóc chồng con, phục vụ những buổi tiệc của gia đình, với cả khách nước ngoài và nhất là vai trò ông lớn của tôi trong xã hội.

Bước sang tuổi 45, có đôi lần, sau khi dự tiệc về, hơi chếnh choáng men rượu, tôi cảm thấy nhức đầu hơn mọi khi. 

Một vài lần cảm cúm, viêm họng kéo dài, có những lần bụng lình sình, bao tử khó tiêu, huyết áp hơi thất thường. 

Tôi giật mình nghĩ đến sức khỏe, nghĩ đến thời gian, nghĩ đến những hạn hẹp của con người…

Nhiều lần vợ và con gái lo lắng, phiền trách tôi uống rượu bia hơi nhiều, nhưng tôi thanh minh: Tôi đâu có thích uống, vì công việc mà!.... 

Thời gian trôi qua, các con cũng đã khôn lớn và cũng đã thành đạt ngoài xã hội. 

Dưới mắt thế gian, gia đình tôi được xếp vào tầm cỡ trí thức, danh giá, là niềm mơ ước, ganh tị, của bao người.

*****

Nhưng vào một buổi sáng định mệnh ở tuổi 59, khi thức dậy, tôi thấy trong người mệt hơn. 

Như mọi khi, vợ tôi giục tôi đi bộ, tập thể dục.

Hôm nay, sau khi đi được một quãng đường, tôi thấy bước chân mình cứ hụt hẫng, bước thấp, bước cao, cảm giác lâng lâng khó tả. Hít thở mãi, mà cái mệt từ lúc thức dậy cũng vẫn không tan đi. Tôi cố đi thêm một quãng nữa, nhưng không xong. Tôi giục vợ đi về. 

Sau đó, tôi vẫn ăn sáng và đi làm. 

Vào bàn làm việc, cái mệt ấy vẫn đeo đuổi cho đến 11 giờ trưa. 

Có cảm giác chẳng lành, nên tôi quyết định gọi thư ký đưa đi bệnh viện. Chẳng biết các bác sĩ cao cấp của bệnh viện đã làm gì, nhưng tôi thì cứ lịm dần, lịm dần mọi cảm giác... 

Ôi, tai biến rồi! 

Mọi người vào thăm tôi ở bệnh viện, lo lắng, xôn xao, rộn ràng, nào quà, nào bì thư, nào sữa, trái cây… tôi bàng hoàng, mê man chìm vào cõi hư vô. 

Rồi một tuần, hai tuần, một tháng trôi qua… “ông giáo sư cao cấp” đành chấp nhận âm thầm trở về nhà, mà trông vẻ không bằng một đứa trẻ lên 2 tuổi.

 *****

Vợ tôi hằng ngày phải chăm sóc tôi như một đứa trẻ: Với lau mặt, thay quần áo, đút ăn, và những câu dỗ dành:

“Nào, ngoan nhé, há miệng ra… Thôi, đừng khóc nhè nữa…. Giỏi nào, giơ tay trái lên… đúng rồi, đưa chân phải lên…”. 

Ôi còn gì là Ông lớn danh giá, để cho bà xã tôi sánh vai làm Bà lớn nữa. 

Đứa con gái út sắp lấy chồng, nhìn tôi mà thất vọng, bởi đám cưới của nó sẽ bị mất đi cái danh giá sang trọng của gia đình quý phái. 

Nhìn đứa em trai của tôi, giờ thì nó cũng đã già rồi. Nó cũng rất lo lắng cho tôi và thường xuyên đến thăm tôi.

Tuy cùng một mẹ sinh ra, nhưng nó lại chậm chạp, tính tình thật thà, nên nghèo, trông thấy mà thương.  Trong thâm tâm, tôi cũng đã bao lần cứ hẹn sẽ làm gì đó cho nó, nhưng... nước mắt tôi lại ứa ra. 

Nhớ lại lúc chưa xây nhà ở riêng, mỗi lần phường khóm có yêu cầu làm vệ sinh đường phố, thì nó là đứa phải thay mặt của nhà đi làm, và cả những việc tầm thường khác. Chứ danh giá bận rộn như tôi, làm sao lại đi làm vệ sinh đường phố được. 

Một số bà con trong khu xóm đạo, hàng năm vào tháng 5 và tháng 10, đến đọc kinh Mân Côi liên gia, nói thật bất đắc dĩ lắm, tôi mới mở cửa đón tiếp họ.

Còn tôi, ông giáo sư danh giá, bận rộn, thì đành “xin kiếu” với bà con, bởi có giờ đâu, mà đến nhà họ để đọc kinh...

Ngẫm nghĩ lại, hình như trong địa vị danh giá của mình, tôi chẳng làm gì không công cho ai cả, có khi còn tận dụng sức lao động của họ. 

Tôi nợ nhiều thứ với nhiều người quá, từ kinh Kính Mừng của các em nhỏ, đến bao người kính nể, lao động phục vụ tôi.

Ôi! thời gian là vàng ngọc của tôi, tôi đã sử dụng thời gian cho những giá trị nào rồi??? 

Ngẫm nghĩ giật mình:

Tôi là người đạo Chúa, nhưng Chúa sao lại quá xa lạ đối với tôi trong thực tế. Tôi như bị bùa mê, nên đã chìm đắm trong đắm đuối. Mọi thời gian, tiền bạc, của cài, tài năng công sức, tôi dành trọng cho những giá trị trần thế, cho danh giá, cho địa vị, cho tiền tài. 

Khi đối mặt với ông chủ trần thế, tôi nghe rất rõ: “Sòng phẳng rồi” nhé: Có khi thế gian còn cho mi nhiều tiền, nhiều lợi nhuận hơn công sức mi bỏ ra.  Mi đã được người ta phục vụ kính nể trong địa vị ông giáo sư, ông giám đốc. Mọi việc mi làm đã được người ta trả dư, nào lương cao, nào bổng lộc, nào là quà biếu đắt tiền, nào là những bữa tiệc sang trọng, nào là biệt thự, xe hơi…. và cả những cơ hội làm ăn béo bở. 

Nhớ lại những khuôn mặt đến thăm tôi ở bệnh viện, nhờ tôi giúp đỡ, mà được lên chức, ông này, bà nọ, vẻ mặt họ toát lên sự hài lòng…

***

Chúa ơi, sao phũ phàng quá, thân xác con còn nguyên vẹ ở đây. Nhưng chỉ đứt một cái mạch máu bằng sợi tóc thôi, mà thân con bây giờ đã ra thừa thãi, vô dụng như thế này. 

Hôm nay con mới nhận ra: Danh giá gì nữa !! Con vốn là bụi đất hư vô, mà lâu nay cái mác ông Giáo sư, ông Giám đốc, đã tâng bốc con lên, chiếm hết thời gian, tâm trí, linh hồn của con và đã làm con xa Chúa. 

Bây giờ con trở về với Chúa với hai bàn tay trắng. Bởi những thông minh, sự lanh lợi, tài khéo léo Chúa ban, con đã sử dụng hết cho tiền tài, cho danh giá, cho những mộng ước trần già con theo đuổi. Nay tất cả đều đã trở thành mây khói.

Hôm nay, Chúa đã cho con cơ hội cuối, để con thấy rõ và có cơ hội sống đúng ý nghĩa của một thân xác phàm hèn của con.

Lạy Chúa, con xin hết lòng ăn năn, hối lỗi, và bằng lòng với cái con đáng chịu.

Con xin dâng lên những đau khổ của con, kết hợp với những đau đớn của Chúa đã  chịu trên thập giá, để xin Chúa ban cho con được ơn biến đổi tận nơi cõi thâm sâu của cỏi lòng con, để xin được ơn yêu mến Chúa nhiều hơn, bù lại cho những năm tháng con đã có quá nhiều lỗi lầm và thiếu sót đối vớ Chúa.

Xin Chúa cũng thương tha thứ cho những thiếu sót, những lỗi lầm, những đau khổ, mà con đã gây ra cho những người thân trong gia đình, cho những người con thương mến và cho những người thương mến con trong suốt thời gian qua.

Xin Chúa cũng thương đến những người đang mê đắm, đang lầm đường, đang lạc lối như con. Xin cho họ cũng được ơn ăn năn, sám hối, trở về với tình thương vô bờ bến của Chúa, để cho trần thế hão huyền, không nhận chìm họ trong bể đắm phù hoa nữa.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ hay thương xót, xin thương xót tất cả chúng con. Amen.

-------------------


 

Bài 3: NỖI NIỀM CỦA KẺ CHO VÀ NGƯỜI NHẬN

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 396
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đề có lúc chonhận. Cho về mặt vật chất và cho về mặt tinh thần.

Người cho và người nhận đều có những nỗi niềm tâm sự thật riêng:

- Nỗi lòng của người cho, là sợ người nhận không thích.

- Nỗi lòng của người nhận, là ở vào cái thế bị nhận, phải nhận.

Tuy nhiên, người cho luôn vẫn là người chủ động. Thường thì ai cũng thích mình trong vai “người cho” hơn là “ người nhận”.

Người nhận là người không có, là người “nghèo” về một phương diện nào đó.

Người nghèo nói chung, thường có một mặc cảm. Mặc cảm đó, được ẩn giấu thật sâu kín trong lòng. Có khi được bộc lộ ra bên ngoài bằng nhiều cách thế khác nhau, hoặc là khiêm tốn, nhưng có khi lại tỏ vẻ kiêu căng, có khi lại rất lố bịch, hoặc rất kỳ quặc và bệnh hoạn nữa… Những mặc cảm này, sẽ không có loại trừ ai đâu. 

Chúng ta thường đề cao rất nhiều về sự cho đi.

Nhưng người cho có bù đắp, hoặc chữa lành được những mặc cảm của người nhận không? 

Hay có khi lại “cho” thêm một mặc cảm nữa, làm tăng mặc cảm đã sẵn có nơi người nhận.

Người có cái gì đó để cho đi, thì đương nhiên là người có hạnh phúc hơn kẻ nhận.

Người cho, ít ra có được niềm vui và hạnh phúc vì được cho, và hãnh diện vì được ban phát. 

Tôi cũng thích có nhiều tiền để cho, hơn là làm người nghèo để phải nhận sự giúp đỡ. 

Tôi thích đi làm từ thiện, hơn là người bị nạn. 

Tôi thích có gương mặt thanh tú để nở nụ cười với tha nhân, hơn là có gương mặt u sầu, xấu xí, dữ dằn, khó ưa. 

Tôi thích là người thông minh, có tài, để làm gì đó giúp ai... hơn là làm người tầm thường để phải nhờ vả người khác.

*****

Còn phía người nhận, để che giấu sự “nghèo”, thì trong thâm tâm, tôi cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ, đôi khi có cảm giác bị nhục, vì mang ơn người cho. 

Nhiều khi người cho vô tình khoe khoang, nên làm người nhận càng tăng thêm nỗi đau.

Trong tâm tình của người nhận, có lúc tôi đã tự nhủ: Thà chịu đựng thiếu thốn còn hơn, hoặc từ nay quyết sẽ không nhận bất cứ cái gì của ai nữa. Chỉ vì hoàn cảnh mà đành chấp nhận vậy thôi.

Là con người, ai ai cũng đều sự kiêu ngạo giống nhau. Người cho cũng kiêu ngạo, mà người nhận cũng kiêu ngạo. 

*****

Trước mặt Chúa, người cho và kẻ nhận cũng như nhau: Trần trụi và chẳng có gì, kể từ khi mới bước chân vào trần gian này. 

Rồi, tất cả cũng đều sẽ trở về cát bụi, với con số 0 như thuở ban đầu.

Một ít trí khôn, sự thông minh, tài năng khéo léo, lanh lợi, sắc đẹp, sức khỏe, hoàn cảnh… tất cả đều là do Chúa ban cho một cách nhưng không, nào có ai đã tự lựa chọn cho mình ông bà cha mẹ giàu sang, gia đình phú quí, giai cấp sang trọng, hoàn cảnh may mắn, chỗ đứng  thuận lợi trong xã hội như mình mong muốn đâu ?  Hoặc ngược lại.

Từ các điều kiện, và các hoàn cảnh Chúa ban cho đó, chúng ta có thể sử dụng làm ra tiền của, có địa vị, có danh vọng, có tình yêu, có tấm lòng quảng đại và vị tha…

Vậy mà người cho, thì lại kiêu ngạo, cứ tưởng là tự sức mình, do mình nỗ lực mà làm ra được tất cả, để trở thành người có. 

Còn người nhận, thì cũng tự cao, tự kiêu, không nhận mình nghèo, để khiêm tốn đưa tay ra đón nhận từ người cho.

Sẽ là tốt đẹp biết bao, nếu kẻ cho và người nhận, sau khi đã cho xong và sau khi đã nhận xong, thì cả hai đều phải biết tạ ơn Chúa, bởi chính Chúa mới là Đấng duy nhất ban phát mọi ơn lành cho tất cả mọi người, cho người có cái để “cho” và cho người có cái để “nhận”. Mỗi người đều vừa làm xong nhiệm vụ của mình do Chúa trao cho. 

*****

Thiên Chúa đã Nhập Thể làm người, là để dạy chúng ta bài học này: Hãy biết khiêm tốn khi cho, vì thực tế mình cũng không hơn gì họ. Bởi tất cả đều là từ Thiên Chúa.

Húng ta biết: Thiên Chúa là Đấng giàu có, cao sang tuyệt vời. Ngài đã tự nguyện bỏ Trời, xuống trần gian này. Mang lấy xác phàm của con người, mang lấy trọn vẹn thân phận một con người, và đã trở thành người nghèo từ lúc mới sinh. Và trong cuộc sống làm người, Ngài đã sẵn sàng đón nhận những cái chúng ta cho Ngài: Một ly nước lã, một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay chào hỏi, một manh áo thân, một đồng xu lẻ...

Lạy Chúa, nhìn vào Hang Đá Bê-lem, chúng con cảm mến Chúa vô chừng: Bởi Chúa là Chúa Tể trời đất, mà lại tự nguyện bỏ Trời xuống trần gian, mang lấy thân hình một Hài Nhi, bé nhỏ, yếu hèn, để sống với chúng con, để hòa mình vào kiếp nghèo hèn của chúng con, để thông ban cho chúng con sự sống thần linh của Chúa và ban hạnh phúc vĩnh cho chúng con.

Xin giúp cho con hiểu và thực hiện điều Chúa dạy hôm nay, để con biết sống hết mình với Chúa và sống tích cực nhiệt tình với những anh em sống bên cạnh con. Amen.

-------------------


 

Bài 4: NGƯƠI LÀ AI ?

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 397
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Có một phụ nữ nằm trên giường bệnh, đang rơi vào một cơn hôn mê rất sâu. Chị cảm thấy mình được đưa lên trời và đứng trước tòa phát xét.

- "Ngươi là ai?" Một giọng nói hỏi chị.

Chị trả lời:

- Dạ, con là vợ của một thị trưởng.

- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai, Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

- Dạ, con là mẹ của bốn đứa con ạ.

- Ta không hỏi ngươi là mẹ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

- Dạ, con là một giáo sư.

- Ta không hỏi nghề nghiệp của ngươi là gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

Và cứ thế, cứ thế ... Câu trả lời nào của chị cũng xem ra không đáp ứng thỏa mãn được cho câu hỏi "Ngươi là ai?"

- Dạ, con là một Kitô hữu.

-Ta không hỏi ngươi thuộc tôn giáo nào. Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

- Dạ, con là người đi nhà thờ hằng ngày và luôn luôn giúp đỡ người nghèo và những người túng thiếu.

- Ta không hỏi ngươi đã làm gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

Rõ ràng người phụ nữ này không vượt qua được câu hỏi ấy, và cuối cùng, chị đã được trả về lại trần gian.

Sau khi chị hồi phục từ cơn bệnh ấy, chị quyết tâm khám phá cho bằng được: Mình là ai. Và quyết tâm ấy đã là nguyên do làm thay đổi toàn bộ những ngày tháng còn lại của cuộc đời chị.

*****

Tôi là ai? Từ đâu đến? Tôi sẽ trở về đâu? Sống để làm gì? Mục đích cuộc sống này là gì? ... Và còn biết bao nhiêu câu hỏi tương tự khác nữa ... cũng không có câu trả lời.

Nếu hỏi tôi đã làm gì? Đang có những gì? Đã đạt được những gì ở đời này? Và tôi đã chuẩn bị những gì cho tháng ngày về hưu của tôi? Điều đó quá dễ để trả lời.

Còn câu hỏi kia thì... phải thú thật là quá khó để trả lời. Mà vì quá khó để trả lời, nên thường là buông xuôi với câu trả lời thật đơn giản là: Tôi không biết.

Mà vì tôi không biết tôi là ai, thì làm sao bạn biết tôi là ai?

Mà vì tôi không biết tôi là ai, thì làm sao tôi biết tôi sống cho ai?

Mà vì tôi không biết tôi là ai, thì làm sao tôi biết được giọng nói đầy uy quyền kia là ai, khi bước vào cõi vĩnh hằng, sau khi tôi chết?

Lạy Chúa, hiện tại con cũng đang rất lấn cấn, như người phụ nữ kia thôi.

Con có rất nhiều câu trả lời, nhưng xem ra không có câu trả lời nào đúng với thánh ý Chúa, đúng như muốn.

Xin cho con thêm thời gian nữa, để con cố tìm hiểu thêm xem con là ai?

Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa! Xin cho con biết con!

Hôm nay con đang rất vui sướng vì những tư tưởng này, những tư tưởng mà Chúa vừa gợi lên trong con. Nói thật, con rất vui sướng giống như một người tử tù, vừa mới được đình hoãn ngày hành quyết.

Lạy Chúa, con xin hứa sẽ cố gắng hết mình, để tìm cho con một câu trả lời thật chính xác vế câu Chúa hỏi, và từ đó, con sẽ định hướng lại cuộc đời của con cho thật chuẩn, trước khi ra trình diện tước thánh nhan Chúa trong giờ sau hết.

Lạy Chúa, xin giúp con, để con biết đích thực con là ai. Amen.

-------------------


 

Bài 5: GIÁ TRỊ CỦA CHIẾC ÁO

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 398
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Sau khi ăn trái táo, Evà thấy mình trần truồng, nên kết lá vả làm áo che thân (Stk. 3:1-7).

Trong hình ảnh này, tôi liên hệ tới áo che thân.

******

Nhiều người tạo giá trị đời mình bằng cách sắm sửa quần áo đắt tiền.

Nhiều kẻ đánh giá sai một người cũng chỉ vì áo quần người đó che thân.

Nhiều lần Chúa khó chịu, vì thấy các thầy tư tế thích trang phục cho mình những áo tua rộng, ngồi chỗ nhất trong hội đường.

Có "áo tua rộng", khuynh hướng tự nhiên thích "ngồi chỗ nhất trong hội đường" là để được mọi người chú ý. 

Bằng ấy năm theo Chúa, chẳng thấy Chúa may cho các môn đệ một bộ áo đồng phục. 

Chúa cứ bảo:

Cứ dấu hiệu này, mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau (Gioan 13,35).

Bây giờ thì khác, giáo phái nào cũng có đồng phục. Đoàn thể nào cũng thích có áo đồng phục. Không có đồng phục, sợ rằng người ta không nhận ra mình là ai

Bác ái thì vô hình quá, chứng nhân bằng bác ái khó hơn làm nhân chứng bằng manh áo.

Đối với manh áo, cứ có tiền là sắm được. Cứ mặc lên là xong, người ta nhìn thấy ngay. Có khi càng có đồng phục đẹp, càng nghĩ mình là chứng nhân trung thực. Có khi càng nghèo nhân đức, thì càng cần tấm áo thật đẹp. Chứng nhân bằng bác ái khó lắm.

Cả đời Đức Kitô, có một lần Phúc Âm nhắc đến áo, lại là lần mất áo.

"Chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau" (Mt.27:35).

Chúa lấy nghèo khó, làm nhân chứng lòng thương xót.

Lấy can đảm, cắt nghĩa sự quý trọng chân lý.

Lấy đau khổ, diễn giải lòng trung thành.

Chúa không lấy tấm áo làm biểu hiệu chứng nhân.

Biết đâu những tấm áo tôi mặc hôm nay chẳng làm tôi thành nhân chứng, mà chỉ là tấm áo ẩn náu, che đi những yếu đuối, vì tôi không có khả năng làm chứng nhân.

*****

Có tội, nên Ađam - Evà mới tìm áo che thân.

Như vậy, áo che thân cũng là áo che tội. Theo câu chuyện thiếu áo che thân của nguyên tổ trong địa đàng thuở xưa, áo và tội liên quan với nhau. 

Biết đâu hôm nay, cũng có những tấm áo chỉ để làm nổi bật sự quan trọng, mà thực sự họ chẳng có.

Hoặc để che đi những gì họ có mà chẳng tốt lành gì.

*****

Người nghèo thường phải mặc áo rách. Kẻ nghèo hơn nữa thì không có áo. 

Hình ảnh những nô lệ, không thấy họ mặc áo.

Nghèo là sự trần trụi của con người. Ai cũng cần tấm áo để che đi cái trần trụi ấy. 

Cái áo làm đẹp con người.

Thiếu áo, khổ thật. Nó là dấu chỉ của thấp hèn, của túng thiếu. Chả ai muốn nghèo.

Ở quê hương tôi, có nhiều người thiếu áo.

Có những bà mẹ lam lũ, mà không sắm được cho con tấm áo vào ngày đầu năm. 

Dì tôi ngồi ở hiên nhà nhặt những hạt đậu sâu. Bàn tay đen sậm, cáu ghét, vì đồng áng lam lũ. Nắng hầm hập trên mái tôn thấp. Những sợi tóc muối tiêu vương vãi trên lưng áo im lặng.

Tôi nhìn chiếc áo, áo của dì rách quá. Cái áo ấy không bằng chiếc giẻ lau ở đây. 

Cũng là con người, nhưng hai miền đất, hai hạnh phúc khác nhau.

Tôi ở một nơi rất xa nơi dì tôi ở.

Sự giàu có ở đây, làm tôi khó nhớ tới những manh áo rách nơi đó.

Nếu Evà, vì tội mà phải cần tấm áo che thân, thì mỗi manh áo tôi che trên mình đều có ý nghĩa.

Manh áo ấy có nhắc tôi về tội tôi đang giấu giếm không?

Những tương quan của manh áo này, với manh áo nọ trong cuộc đời, chắc hẳn cũng có những ý nghĩa.

Đâu là ý nghĩa chiếc áo của những người nghèo như dì tôi đang mặc? Nó có liên hệ thế nào với chiếc áo của tôi nơi phương trời này, trong thân thể Chúa Kitô, nơi mọi người đều là anh em?

*****

Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca có kể rằng:

Anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh, hôn lấy hôn để.

Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..."

Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ:

"Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu..." (Lc. 15:20-22).

Bỏ nhà, anh ta phải đem những áo tốt nhất đi theo. Vậy sao lại còn cái "áo đẹp nhất"? 

Dựa theo mạch văn của bài tường thuật, ta có thể biết được nguồn gốc của cái áo ấy.

Người cha sai đầy tớ về bắt con bê đã "vỗ béo" ăn mừng.  Theo bản văn, không phải bắt con "bê béo", mà con bê đã "vỗ béo". 

Bê đã "vỗ béo" khác con "bê béo". 

Vỗ béo là con bê đã được săn sóc cách riêng cho béo. Nó là con bê được nuôi nấng từ lâu cho một mục đích chờ sẵn.

Bắt con bê béo làm tiệc cũng là quý rồi, nhưng việc ấy chỉ nói lên phần đãi ngộ khi người con trở về.

Còn con bê "vỗ béo" là đãi ngộ ngay khi người con chưa trở về.  Có nghĩa là khi còn trong tội lỗi, người cha đã cưu mang một lòng bao dung, thương nhớ con mình. 

Chưa trở về đã đãi ngộ bằng sửa soạn một con bê.

Hai điều đó khác nhau, diễn tả hai ý nghĩa rất khác biệt.

Nếu người cha nuôi con bê cách riêng cho béo, hy vọng là có ngày người con về, thì chiếc áo kia hẳn phải là áo ông may sẵn.

Ra đi, nó không để lại những đôi giầy quý, hay bỏ lại những cái áo hảo hạng.

Lúc ông bảo đầy tớ về lấy áo, người đầy tớ không thắc mắc chiếc áo nào, áo của ai, không thắc mắc áo của người anh, hay áo của chính ông chủ, nghĩa là người đầy tớ hiểu đích xác chiếc áo nào. 

Qua cách truyền lệnh ấy, dường như giữa người đầy tớ và ông cha già, đã có những lần nói chuyện về cái áo và mục đích của nó để làm gì. Bởi thế, khi nói lấy chiếc áo đẹp nhất, người đầy tớ không cần hỏi han chi, họ biết ngay áo nào rồi.

*****

Sau khi bảo đầy tớ về bắt bê đã vỗ béo ăn mừng, Phúc Âm Luca kết luận:

"Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc. 15:24).

Lời kết luận trên đây nói về một cuộc sống mới, về bình minh của phục sinh. Sự phục sinh là chiếc áo mới. Không phải đợi con về mới có chiếc áo mới. Chiếc áo ấy đã may sẵn.

Như thế, trong lúc tôi phạm tội, khi tôi đang ở trong bóng tối của sự chết, thì Chúa đã gieo mầm phục sinh cho tôi.

Lạy Chúa, nói chiếc "áo đẹp nhất", con muốn hiểu không phải đẹp trong ý nghĩa tơ lụa, mà là ngày tháng nối những ngày tháng, người cha cứ nghĩ đến đứa con.

Ông nhớ nó trong những đường may, nối những đường may. 

Con muốn hiểu tình thương của Chúa trong chiều sâu đó.

Ngày xưa, trưa hè vắng, mẹ ngồi vá áo cho con. Ngón tay mẹ đưa những mũi chỉ.  Tuổi thơ chỉ thích nô đùa làm rách áo.

Nhìn lại tháng ngày thơ bé ấy, bây giờ con mới biết: Mỗi mũi chỉ là mỗi tình thương.

Với cái chết khổ nạn, Chúa may áo mới cho con.

Biết công ơn của mẹ thì nay mẹ đã xa, con muốn cầu nguyện báo hiếu cho những ngày tuổi thơ ấy.

 *****

Lạy Chúa, con muốn gìn giữ chiếc áo cứu rỗi Chúa ban cho con. Tiếc làm sao, nếu chiếc áo linh hồn rách.

Trong cuộc sống giữa đời thường, xin cho con thông cảm cái giá lạnh của những người thiếu áo.

Con cũng xin ơn đừng vì tấm áo, mà làm hoen ố Giáo Hội, áo tu sĩ, áo trí thức, áo quan tòa, áo đoàn thể, áo chủ tịch.

Những tấm áo chức vị ấy, những chiếc áo đồng phục ấy có cần thiết, để biến con thành nhân chứng?  Hay nhiều khi chỉ làm hoen ố những chứng nhân.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J
(Cô Đơn Và Sự Tự Do)


-------------------


 

Bài 6: SỨC MẠNH CỦA TIỀN

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 399
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Sức mạnh của tiền bạc quả là thật đáng sợ. 

Vậy nên người ta mới nói:

Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý.

Tiền có thể là một tên đầy tớ tốt, nhưng cũng có thể trở thành một ông chủ xấu. 

Tiền có thể xây dựng, nhưng cũng có thể phá đổ. 

Tiền có thể phát triển, nhưng tiền cũng có thể hủy diệt mọi công trình vật chất cũng như tinh thần. 

Ham tiền, là tôn vinh tiền, là đặt tiền làm chủ đời mình.

Tiền sẽ làm mê hoặc lòng người.

Tiền có thể biến con người trở nên bất hiếu, đánh mất nhân cách, giảm đi nhân phẩm, có khi trở thành bất trung và bất nghĩa nữa.

Vì thế Chúa Giêsu đã nói:

"Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền bạc được" (Lc 16,13).

Chúng ta vẫn thường nghe nói, có tiền mua tiên cũng được. 

Nhưng chưa chắc đâu, vì:

Tiền có thể mua được lương thực, nhưng không mua được no ấm.
Tiền có thể mua được mái nhà, nhưng không mua được mái ấm.
Tiền có thể mua được giường, nhưng không mua được giấc ngủ.
Tiền có thể mua được đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua được đồ dùng, nhưng không mua được niềm vui
Tiền có thể mua được máu, nhưng không mua được sức khoẻ.
Tiền có thể mua được bằng cấp, nhưng không mua được tri thức.
Tiền có thể mua được kiến thức, nhưng không mua được nhân cách.
Tiền có thể mua được phương tiện, nhưng không mua được mục đích.
Tiền có thể mua được quyền, nhưng không mua được trân trọng.
Tiền có thể mua được hưởng thụ, nhưng không mua được bình an.
Tiền có thể mua được phục vụ, nhưng không mua được chăm sóc.
Tiền có thể mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.
Tiền có thể mua được máy nghe, nhưng không mua được chia sẻ.
Tiền có thể mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.
Tiền có thể mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.
Tiền có thể mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.
Tiền có thể mua được hoả ngục, nhưng không mua được thiên đàng.
Tiền có thể mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa.

Có cái, tiền có thể mua được, nhưng có cái tiền lại cũng không thể mua được.  Mua được hay không, là tuỳ thuộc vào cách sử dụng tiền bạc của mỗi người. 

Nhưng cũng hãy cẩn thẩn, vì:

Tiền có thể làm cho trí khôn ta ra u mê.

Cần phải cẩn trọng, đề phòng, vì Chúa Giêsu cũng đã căn dặn các tông đồ thật kỹ lưỡng:

- “Đừng mang theo hai áo, bánh, bị, giày dép, hay tiền dắt lưng” (Mc 6,8). 

- “Phải cẩn thận, xa rời mọi hình thức tham lam”. 

Chính các tông đồ cũng đã hãnh diện, khoe với Chúa: “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải vâng phục chúng con” (Lc 10,17).

Tham lam có thể được trá hình bằng cách tích góp để… xây dựng công trình này, dự án kia, gây quỹ cho hội này, đoàn thể nọ.

Tiền có thể làm cho tâm hồn ta ra vô cảm: Giuđa là một điển hình. 

- Anh ta vẫn thản nhiên, khi Chúa Giêsu loan báo về sự phản bội của một người trong nhóm. 

- “Anh vẫn lạnh lùng giơ chân cho Chúa rửa” (Ga 13,6).

- Anh đổi cái hôn tình nghĩa, để lấy tiền: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ trao nộp Người cho các ông" (Mt 26,15). 

Thiên Chúa đã thành vật sát tế cho tính tham lam của con người.

Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác, là lòng ham muốn tiền bạc. Và vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin” (1Tm 6,10). 

Tham tiền dập tắt mọi thứ tình cảm quý giá: Bác ái, đức độ nhân cách, và tự lòng trọng v.v... 

Tham tiền, tuy là ta đang sống, nhưng tâm hồn ta đã chết rồi.

Tiền có thể làm cho ý chí ra khô cứng, chai lì.

"Ai ham thích nên giàu có sẽ dễ sa vào lưới của ma quỉ, sẽ mắc nhiều đam mê, vừa bất lợi, vừa nguy hại, và sẽ nhận chìm họ xuống chốn hư vong" (1Tm 6,9). 

Biển báo đỏ, bảo ta đừng lại, là “Giuđa đã đi thắt cổ" (Mt 27,5).

Tiền có thể làm cho ta trở nên tham lam. Bằng cách đầu tư, tích trữ, thu gom cho riêng mình, lấy của chung bỏ túi riêng, mà không phục vụ hay chia sẻ cho ai.

Ta hãy nhớ, con người có trách nhiệm phải làm cho vũ trụ này nên giàu có và phồn vinh; xanh tươi và phát triển; thăng tiến và hoàn hảo hơn về mọi mặt. 

Nghĩa là của cải vật chất phải được chia sẻ, phải được làm lợi cho tha nhân, chứ không phải dành riêng cho bản thân. Bởi không phải là chủ của vật chất, mà chỉ là người đón nhận ân phúc từ Thiên Chúa, rồi ta phải tiếp tục đem chia sẻ, phấn phát ân phúc đó cho người khác.

Sách Sáng Thế cho biết, Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp, và phán:

"Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.  Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất. Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực.  Còn mọi loài dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực” (St 1, 28-30).

*****

Có người đã luận bàn về  đồng tiền như sau: Tiền có thể:

- Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng
- Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.
- Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.
- Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.
- Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.
- Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.
- Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.
- Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.
- Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.
- Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.
- Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa
- Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…

*****

Bạn thân mến!

Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Matthêu có nhắc nhở chúng ta như sau:

“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Mt. 6,24)

Đồng tiền là vật có máu “lạnh”, nên từ thuở xa xưa, ông cha chúng ta cũng đã từng nói: “Lạnh như tiền!”

Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là sự bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền, mà có thể làm cho ta mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất anh em, mất bạn bè...

Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người lại rất ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình rất đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.

*****

Chúa Giêsu không  bài bác tiền của, cũng không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu.

Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.

Tiền của, tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người.

Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của quá đáng, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền. Có khi bán cả lương tâm để chiếm hữu tiền của.

Tiền của là  cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng, nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân.

Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống … thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, khi ta chỉ lo tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian này.

Do đó, điều quan trọng, là ta phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời:

“Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)

Lạy Chúa, từ lâu nay, vì những nhu cầu vật chất của cuộc sống, mà con chỉ biết bù đầu vào việc theo đuổi, tìm kiếm tiền bạc và của cải vật chất. Xin nhắc nhở con trong mọi hoàn cảnh, phải biết dùng thời gian, tiền của, tài năng, công sức, mà tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì đây mới là mục đích tối hậu đối với con, trong những ngày sống ở trần gian này. Amen.
-------------------


 

Bài 7: SINH NHẬT CỦA MỘT NGƯỜI, DẪN ĐẾN CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI


(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 400
-------------------------------------

BẠN THÂN MẾN,

Nếu sự kiện xảy ra, đúng như truyền thống, mà Máccô nhận được (Mc 6, 17-29) và đã ghi lại, thì thật là khủng khiếp:

Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện: Trong bữa tiệc sinh nhật của Vua Hêrôđê, một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người, máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?

Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô. Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan Tẩy Giả, người mà bà hết sức căm ghét?

Nhưng cũng qua đoạn Tin Mừng này của thánh Marcô, chúng ta lại khám phá thấy một số kinh nghiệm của Hêrôđê:

1. Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.

Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.

Dầu vậy, Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện, vẫn sợ ông và cố che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).

Hêrôđê còn lương tâm, khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.

2. Kế đến, là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.

Cái gì đã xui khiến ông nói một câu dại dột này với cô bé Salômê:

“Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?

Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn,
hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?

Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?

Có những lời nói vội vã, mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.

3. Cuối cùng, là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.

Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.

Ông buồn hết sức, vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).

Ông có thể rút lại lời đã nói không? Dĩ nhiên là có.

Nhưng nỗi sợ, đã khiến ông không dám làm:

Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận.

Sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.

Nói chung, ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.

Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái, nhưng ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.

Cần phải can đảm, để giữ lời hứa, nhưng có khi cũng cần can đảm hơn, để không giữ lời hứa.

Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.

Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.

Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.

Philatô cũng đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu: Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.

Cả hai ông Hêrôđê và Philatô đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.

Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, cái danh dự của mình.

Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.

Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với thánh ý Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội, mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối của chúng con.

Lạy Chúa, xin cho con thường xuyên biết điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo, để khỏi phải rơi vào ảo tưởng, và biết thành thật để khỏi tự lừa dối mình.

Xin Chúa ban cho con ơn hoán cải: Dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

-------------------


 

Bài 8: TÌNH YÊU CHÚA ÔI VĨ ĐẠI

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 401
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Nó là một Việt kiều Mỹ, về Việt Nam sinh sống.

Ở nước ngoài nhiều năm, nhưng nó chẳng học hành gì, cũng chẳng có nghề ngỗng gì để tự nuôi bản thân, dù đã lớn, nhưng nó vẫn cứ ăn bám vào gia đình anh chị.

Về sống ở Sàigòn với cha mẹ, nó lại cặp bạn với dân nhậu nhẹt, bài bạc, hút chích.

Thiếu tiền, nên nó đi cầm luôn cả passport. 

Cha mẹ nó hay tin, thì chửi nó như tát nước vào mặt, nhưng nó vẫn dửng dưng. 

Cha mẹ nó phải lo đi chuộc lại cái passport của nó về. 

Cha mẹ nó sắm cho nó chiếc xe, khi thiếu tiền nó cũng mang đến tiệm cầm đồ.

Cha nó bực lắm, cứ mỗi lần thấy mặt nó là chửi rủa. 

Mà nó bị chửi thì cũng phải, cả ngày nó cứ ở trong phòng, chỉ thò mặt ra để ăn uống mà thôi. Ăn xong, nó lại chui rúc vào phòng, mặc ai nấu ăn, dọn dẹp cho nó. 

Chiều chiều nó xách xe đi chơi đến khuya hoặc sáng hôm sau mới về, rồi lại chui tọt vào phòng cho đến trưa mới thò đầu ra để ăn cơm, rồi lại biến mất. 

Nhà nó đang ở như chỉ là phòng trọ. Còn bạn bè, mới là gia đình của nó.

Nó là con trai một trong một gia đình nhiều chị, nên từ nhỏ đã quá được nuông chiều. 

Bây giờ lớn rồi, nhưng nó cứ nghĩ là mọi thành viên trong gia đình, có bổn phận phải cung phụng nó. 

Cha nó chửi thì có lúc nó nhịn, có lúc nó cũng chửi lại. 

Còn các chị của nó, mà hơi lớn giọng với nó một chút thôi, thì nó chửi cho mà biết. Và đã có những lần, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với các chị của nó. 

Chỉ có mẹ nó la mắng thì nó im mà thôi. Mà nó im thì cũng phải, vì cha nó thì đã tuyên bố từ nó lâu rồi, chỉ có mẹ nó là cứ dúi tiền cho nó xài đều đều. 

Đã mấy lần, nó mắng vào mặt mẹ vì nó cần “mượn” vài triệu, mà mẹ nó không có. 

Mẹ nó chỉ lo nội trợ trong gia đình, làm gì có tiền. Mẹ nó đã nhiều lần lấy tiền của cha nó để cho nó, sau này biết được nên cha nó cất hết tiền vào tủ sắt, nên mẹ nó đành bó tay. 

Mẹ nó cứ xin tiền các chị của nó, lúc thì nói cần tiền làm việc này, cần tiền làm việc kia, nhưng trong gia đình ai cũng biết là mẹ chẳng cần gì những thứ đó, vì cha đã lo chó hết mọi cái rồi.

Chẳng qua, mẹ muốn có tiền để cho thằng con “quý tử”, nhưng các chị không nỡ làm mẹ buồn, nên cứ cho mẹ hoài. Thế là nó cứ thẳng tay xài phung phí.

Mỗi lần tôi gặp mẹ nó là mỗi lần bà than thở: “Vất thì thương, mà vương thì tội!”.

Bà cứ xin tôi cầu nguyện cho nó luôn.

Mà thật, tôi dâng lễ cầu nguyện cho nó mãi thôi và cũng cầu nguyện nhiều cho những người lêu lỏng như nó.

Nhiều lúc suy nghĩ về nó, tôi cũng đâm bực, có lúc tôi tự nghĩ:

“Đuổi cổ nó đi, cho nó sáng mắt ra, để biết thân, để hết ăn bám gia đình, thì hy vọng lúc đó nó sẽ phải đi làm, để có thể trưởng thành, sao bà mẹ cứ nuôi nó miết vậy”.

*****

Nhìn lại tư tưởng này, thì tôi thấy rõ là tôi không phải là người mẹ và chưa có cái tình yêu như người mẹ.

Chẳng biết bao giờ tôi mới có được cái tâm tình của một người mẹ!

Người mẹ nhìn đứa con trai quý tử của mình mà xót dạ. Bà khóc hằng đêm, mà có ai biết đâu. Chồng bà thấy bà khóc, không những không thông cảm, mà còn mắng cho: “Cũng tại bà nuông chìu nó quá mức, nên nó mới ra như vậy.  Nó không đáng để bà khóc thương đâu, đừng khóc phí nước mắt”.

Bà lại lầm lũi đến xó khác ngồi rầu rĩ, râu ri. Bà cũng không muốn cho các con bà thấy bà khóc, sợ làm cho các con thêm bận tâm. Bà cảm thấy cô độc. Chẳng ai hiểu bà.  Bà nghẹn ngào cảm thấy tủi thân làm sao. Ông chồng của bà chẳng những không một lời an ủi, lại nhiếc mắng thậm tệ.

Cái người chia cơm sẻ áo với bà, người mà khi xưa vuốt ve chiều chuộng, nay quay lưng lại với bà.

Có đêm nào, mà bà không rưng rưng dòng lệ.

Có đêm nào bà nằm xuống, mà không trằn trọc nhớ đến con, trong khi ông chồng đã say trong giấc điệp.

Có đêm nào, mà bà không cầu nguyện xin Chúa kéo con bà trở lại.

Ngày nào bà cũng ráng đi lễ, và Thánh Lễ nào của bà tựu trung cũng là cầu nguyện cho con mình. 

Lúc nào khuôn mặt bà cũng mang một nỗi buồn khôn nguôi. 

Nhiều lúc tôi ghé thăm, kể chuyện dí dỏm pha trò cho bà vui, nhưng bà cũng chỉ cười được một chút, rồi nỗi buồn lại hằn trên khuôn mặt.

Tình thương của người mẹ dành cho con là thế đó: Nó có tệ đến đâu đi nữa thì mẹ nó vẫn cứ thương. Muốn dứt tình, mà không nỡ. 

Nhiều lúc mẹ chửi, mẹ đánh con tơi tả, rồi lại lấy dầu xoa cho con.

Với khả năng giới hạn của con người, mà tình thương có thể toả sáng tới mức ấy, thì huống hồ là tình thương của Đấng vô hạn là Thiên Chúa.

*****

Một câu trong Thánh Vịnh gần như đã nằm trong xương tủy của tôi:

“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con” (TV 27:10). 

Vâng, cho dù ngay cả cha mẹ tôi, có ruồng bỏ tôi đi nữa, thì Chúa vẫn thương tôi, vì tình thương của Chúa dành cho tôi, vượt trên tất cả những gì tôi và con người có thể hình dung ra được.

Đó cũng là cảm nghiệm của Tiên Tri Isaia:

“Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của Đức Chúa.  Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta, cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).

Càng ngắm nhìn mẹ nó, thương che chở cho nó bao nhiêu, thì tôi lại hình dung ra tình yêu của Chúa dành cho con người cao trọng và vĩ đại bấy nhiêu và nhiều hơn gấp bội bội lần.

Với tuổi đời năm mươi, tôi vẫn chưa thấy tình thương nào giữa con người, mà có thể hơn được tình người mẹ.

Nhìn lại quảng đời quá khứ của tôi, tôi thấy tôi tránh xa Chúa vì mặc cảm tội lỗi. 

Tôi nghĩ chẳng còn ai thương tôi. Tôi nghĩ Chúa cũng chẳng còn thương tôi. Đời sống của tôi chỉ còn là một màu ảm đạm của màn đêm. 

Thế mà Chúa thương gọi tôi về, chỉ vì Chúa quá yêu tôi.

Ngẫm nghĩ lại cuộc đời của nó và tình thương của mẹ nó dành cho nó, làm tôi liên tưởng đến cuộc đời của tôi và tình thương của Chúa dành cho tôi.

Tôi thấy mình giống nó lắm. Tôi mau miệng lên án nó, mà quên mất là chính mình cũng đã bao lần sống lầm lạc và dửng dưng, trong khi Chúa vẫn đau khổ từng ngày, ngóng chờ tôi trở về.

***

Lạy Chúa, con quá vội vàng xét đoán. Nếu Chúa cũng xét đoán con như vậy, thì chắc là con đã tiêu ma từ lâu rồi.

Cảm tạ Chúa đã kiên nhẫn chờ đợi con. 

Cảm tạ tình thương của Chúa, vì tình thương, mà Chúa đã tự nguyện hiến thân, để cứu chuộc con. 

Ôi, vĩ đại thay Tình Yêu Thiên Chúa! 

Lạy Chúa là Thiên Chúa của lòng con. Con xin hết lòng cám ơn Chúa. Con xin chúc tụng và ngợi khen Chúa đến muôn đời. 

Xin Chúa hãy tiếp tục nuôi dưỡng đứa con, một đứa con hãy còn quá nhiều yếu đuối, lỗi lầm, thiếu sót đối với Tình Yêu Vĩ Đại của Chúa. Nay con đã biết: Chỉ có Tình Yêu của Chúa, mới có thể biến đổi được con người con.

Lạy Chúa, con hết lòng tạ ơn Chúa. Amen.

Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.

-------------------


 

Bài 9: NIỀM VUI PHỤC SINH

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 402
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Trong xóm gọi anh là Tư còm, vì thân hình gầy còm của anh, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp.

Và khi nhậu say, anh thường hay chửi bới tất cả xóm làng, không trừ một ai. Khi người ta tìm hiểu thì được biết: Anh có 1 vợ, 5 con, đạp xích lô, suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn.

Các con anh lần lượt bỏ học, vì không đủ tiền đóng học phí.

Nhà anh nằm trên một vũng sình lầy và đã dột nát, trông thật rất bi thảm..

Sống trong hoàn cảnh như thế kéo dài, từ tháng này, qua năm khác, anh đâm ra chán nản, thất vọng, nên mượn chén rượu giải sầu. Nhưng khi chén rượu càng vơi, thì chén sầu lại càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, bà con trong xóm đạo đã hè nhau chung tay giúp đỡ: kẻ ra công, người ra của, cất lại cho anh một căn nhà trên đất liền, chắc chắn và kín đáo.

Lối xóm lại tiếp tục đem đến, kẻ lon gạo, người bó củi, kẻ cái nồi, người cái dao, kẻ cái chén, người cái tô. Thế là anh có đủ những vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, và đã một căn nhà đàng hoàng, bảo đảm cho sức khoẻ.

Các con anh cũng đã được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí. Tất cả đều đã được đi học trở lại.

Quá cảm động trước những tấm lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo trở lại thật sốt sắng, cùng với tất cả gia đình anh.

*****

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói:

Anh Tư còm đã được phục sinh từ cõi chết, cái chết của những ngày say sưa và bê trễ.

Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.

Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Mùa Phục sinh, bằng việc ăn năn sám hối, hãm mình, đền tội, thực thi bác ái. Và giờ đây chúng ta mừng lễ Phục Sinh đang đến.

Chúng ta vui mừng, vì Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết.

Chúng ta cũng hân hoan, vì Chúa đã hứa sẽ cho chúng ta cũng sẽ được sống lại với Ngài, như thánh Phaolô, trong thư gởi tín hữu Rôma, đã khẳng định:

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người” (Rôma 6,8).

Qua việc lặp lại lời tuyên hứa khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày, chết cho tội nhiều hơn, để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.

Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ.

Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta cũng sẽ được lăn đi:

Đó có thể là hòn đá của ích kỷ, chỉ biết đến lợi ích riêng tư của mình thôi. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi, để ta biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân hơn.

Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống, đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta.

Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương, đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em.

Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát, khiến chúng ta chỉ giữ đạo, chỉ giữ ngày Chủa Nhật, qua việc đọc kinh, xem lễ, mà không mấy quan tâm đến những người sống bên cạnh chúng ta.

Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống đức tin, thực thi bác ái cách tích cực hơn.

Mỗi năm khi mừng lễ Phục sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình.

Để có thể thực sự sống lại với Đức Kitô, chúng ta hãy cố gắng, dành ra một vài phút thinh lặng mỗi tối trước khi ngủ, để suy nghĩ: Hòn đá nào hôm nay ta cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, tính lười biếng, hành vi không lương thiện, sự kiêu căng, tính hay giận hờn, tính hay ghen tuông…

Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn.

Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi thì chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp cho thân nhân, cho bạn hữu và cho đồng loại cùng được hưởng ơn Phục sinh của Chúa nữa.

Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm, tiếp tục cuộc sống của Chúa:

Dám sống cho một niềm vui và dám chết cho một tình yêu.

Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta quyết tận hiến cuộc đời mình, để sống trọn vẹn cho giới luật yêu thương, mà Chúa đã dạy và đã làm gương cho chúng ta, đó là chúng ta quyết Yêu Chúa hết mình và thương anh em trong vẹn, bằng những hành vi hết sức thiết thực, và hết sức cụ thể.

Lạy Chúa, xin giúp con sống tinh thần Phục Sinh, mà Chúa muốn con thực hiện trong cuộc sống hằng ngày của con. Amen.

-------------------


 

Bài 10: EPHATA - HÃY MỞ RA

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 403
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Có một người ở trong nước, hỏi một cụ già ở nước ngoài, về thăm quê hương:

- Sống ở nước ngoài nhiều năm, điều gì khiến cụ buồn khổ nhất?

Cụ già trả lời:

- Khổ nhất, là chúng tôi sống như những người câm và điếc:

Không biết tiếng Tây, tiếng Mỹ, nên chúng tôi y như người câm, chẳng nói được điều gì.

Không biết tiếng Tây, tiếng Mỹ, nên chúng tôi cũng y như người điếc, chẳng hiểu người ta nói điều gì.

***

Bạn thân mến!

Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 7, 31-37 ) có nhắc đến một người mắc bện câm và điếc, được Chúa Giêsu chữa lành bệnh:

Ngài kéo riêng anh ta ra một nơi, đặt ngón tay vào lỗ tai của anh, nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.  Rồi Ngài ngước mắt lên trời và nói : "Ephata! ", nghĩa là “ Hãy mở ra !”  Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi của anh như không còn bị buộc lại.  Anh đã nghe và nói được rõ ràng .

Không nói được và không nghe được, khiến cho người câm điếc không hiểu được thế giới chung quanh họ, và thế giới chung quanh họ cũng bị ngăn cách với người câm điếc. Đó là câm điếc thể lý.

*****

Trong nhân gian, còn có nhiều thứ bệnh câm điếc khác nữa: 

- Câm điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hóa.
- Câm điếc vì hiểu lầm, vì định kiến. 
- Câm điếc vì bịt tai không muốn nghe và ngậm môi vì giận dữ. 
- Câm điếc trước sự thật, giả câm, giả điếc để không dám làm chứng cho chân lý.
- Câm điếc khi không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác, những người sống bên cạnh mình.
- Câm điếc khi dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, của trẻ thơ bơ vơ…


Nhưng còn có một loại câm điếc khác to lớn hơn, nguy hiểm hơn, đó là câm điếc tâm linh.

Khi bị câm điếc tâm linh, ta không thể nghe được Lời Chúa nói với ta trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng. 

Không dám mở miệng để ngợi khen Chúa và làm chứng cho Chúa, đó là lúc ta bỏ ngoài tai lời của Chúa nói với ta về sự thật, về chân lý, về yêu thương và về hòa giải. 

Khi bị câm điếc tâm linh, ta thường ngoan cố, cứ cố tình ở lỳ trong tội lỗi. Ta cố tình ở lỳ trong cái chết của tâm hồn, không thèm nghe lời mời gọi hối cải ăn năn, thúc dục của Chúa Thánh Thần. 

Nếu câm điếc thể lý là đáng buồn và đáng sợ, thì câm điếc tâm linh còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội: 

Câm điếc tâm linh làm ta lìa xa Chúa, đánh mất Ơn Thánh Sủng, dẫn đưa ta đến cái chết đời đời.

Khi suy nghĩ về phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc, chúng ta cũng được Chúa mời gọi: “Ephata”, Hãy mở ra.

- Hãy mở tai ra, để lắng nghe lời anh em.
- Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. 
- Hãy phá đi bức tường định kiến. 
- Hãy phá đi bức tường ích kỷ. 
- Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi, để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.


- Hãy mở miệng lưỡi ra, để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. 
- Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ, để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. 
- Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt, để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. 
- Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương và ân sủng của Chúa.


Lạy Chúa.

- Khi con không nghe được lời của Chúa dạy dỗ, con là kẻ điếc.
- Khi con không nói được về Ngài, không làm chứng được cho Chúa, con là người câm. 


Đó là những hình thức câm điếc tâm linh.

Xin Chúa hãy chữa trị con: 
Xin chữa con khỏi câm khỏi điếc. 
Xin cho tai và miệng con được mở ra, để con biết lắng nghe và hiểu được Lời Chúa, để cuộc đời con luôn là một lời tri ân và cảm tạ tình yêu và ân sủng của Chúa giữa thế giới hôm nay. Và cũng xin dạy con biết cách làm cho nhiều người nhận ra Chúa và tạ ơn Chúa nữa. Amen


-------------------


 

Bài 11: QUYỀN LỰC CỦA CÁI GHẾ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 404
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.

Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu... Tất cả mọi nỗ lực của con người hôm nay, hầu như đều dồn vào một chiếc ghế, sau đó là lo giữ ghế, và tìm cách để lên ghế cao hơn.

Ngay cả những người môn đệ Chúa, tuy đã bỏ hết mọi sự để theo Chúa, cũng lại bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.

Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin Chúa cho được ngồi hai bên tả hữu.

Rõ ràng, họ không bắt được tần số của Thầy.

*****

Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi các công đức và công trạng của mình, thì khó hơn bội phần.

Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm một chút lợi lộc, từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.

Họ dám lên tiếng đòi hỏi:

"Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con xin”.

Thái độ bực tức của mười môn đệ kia, có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm nào đó. Nghĩa là có nhiều môn đệ cũng đã từng ước mơ hai cái ghế tả hữu đó.

Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê, để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến.

Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ?

Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu, là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.

Thật ra, được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang, đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí. Trung tín theo Chúa cho đến cùng, thì đã là phần thưởng rồi.

*****

Chúng ta không giữ đạo để đòi hỏi một chỗ thật cao, nhưng ước mong được ở một chỗ thật gần bên Chúa.

Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền, thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách. Chức vụ và quyền lực, trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.

Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh:

"Nơi anh em thì không được như vậy."

Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới: Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh, thì phải trở nên người đầy tớ và nô lệ, phục vụ mọi người.

Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, nhưng mà là đổi lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước.

Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay một Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng đối với Ngài, lãnh đạo là phải khiêm nhường và biết phục vụ.

Phục vụ là động từ, có thể tóm kết được toàn bộ cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu. Ngài đến trần gian là để phục vụ, là sống như người phục vụ, và chết, như là dấu chứng lớn nhất của đời Ngài phục vụ, phục vụ trong yêu thương.

*****

Bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chết, là để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Nhưng hôm nay, chúng ta vẫn còn đang nô lệ những điều gì? Và đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21? Hãy tìm những giây phút trầm tĩnh để suy xét và kiểm điểm cuộc sống mình , để rồi biết tìm những liệu pháp mà chỉnh sửa.

"Lãnh đạo là phục vụ".

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói:

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ. Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Mà Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư, thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha.

Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Như vậy, đương nhiên, Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng, đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con luôn thi hành thánh ý muốn của Chúa Cha cách hoàn hảo, để chúng con xứng đáng là những người em, cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy, hết lòng yêu thương Thầy và theo gương Thầy, mà yêu thương mọi người như anh em. Amen.

-------------------


 

Bài 12: ĐỌC KINH LẠY CHA VỚI Ý THỨC

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 405
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Kinh Lạy Cha là một kinh rất quen thuộc đối với tất cả chúng ta, là những người con Chúa. Mà vì quá quen thuộc, cho nên nhiều lúc chúng ta đọc theo thói quen, mà không chú ý phần ý nghĩa của nó. Vậy:

Khi chúng ta đọc:  Lạy Cha”, thì chúng ta phải hiểu và thực hiện đầy đủ những bổn phận của chúng ta là những người con đối Cha, bằng những việc làm cụ thể, trong chính cuộc sống đời thường của chúng ta.

Khi chúng ta đọc: Chúng con”, thì chúng ta phải hiểu là tất cả mọi người đều là con một Cha Trên Trời, nên tất cả đều là anh em với nhau. Do đó, chúng ta quyết cố gắng loại bỏ tinh thần hẹp hòi, khép kín, loại trừ, ích kỷ của chúng ta đối với những người chung quanh.

Khi chúng ta đọc: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng”, thì chúng ta phải quyết tâm sống lành thánh, lương thiện, đạo đức, xứng với danh là con của Cha chúng ta trên trời, là Đấng thánh tuyệt hảo, để Danh Cha được tỏa sáng trước tiên trong chính chuộc sống của chúng ta.

Khi chúng ta đọc: “Nước Cha trị đến”, thì chúng ta quyết cố gắng dùng hết tài năng, sức lực, và thời gian để xây dựng cuộc sống xã hội hôm nay mỗi ngày một tốt đẹp hơn, chuẩn bị cho ngày Cha chúng ta trở lại đón chúng ta về với Ngài.

Khi chúng ta đọc: “Ý Cha thể hiện”, thì chúng ta quyết cố gắng tìm thánh ý Chúa mà thực hiện, mà vâng theo, nhiều khi rất khó hiểu cho cuộc sống ta, cho xã hội ta đang sống. Dầu sao cũng quyết tâm không bao giờ nổi loạn, chống lại thánh ý của Ngài.

Khi chúng ta đọc: “Dưới đất cũng như trên trời”, thì chúng ta quyết tâm sẵn sàng tận hiến cả cuộc đời của chúng ta, trong những ngày sống ở trần gian này, để phục vụ Cha, thờ phượng Cha và sống hữu ích cho những anh em sống bên cạnh con, vì tất cả đều là cùng chung một Cha trên trời.

Khi chúng ta đọc: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, thì chúng ta quyết tâm thay đổi lối sống, quyết đem hết sức lực, thời gian, tài năng, công sức Chúa ban, với sự trợ giúp của Chúa, mà quyết làm việc, để có của nôi thân, chứ không ỷ lại, hay chỉ cậy dựa vào người khác, theo kiểu lợi dụng họ.

Khi chúng ta đọc: “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”, thì chúng ta quyết tâm xóa bỏ mọi hiềm khích, những lỗi lầm, lòng thù hận, và bớt đi tính nóng giận, thích chống lại anh em, hoặc hay ganh tị với họ.

Khi chúng ta đọc: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì chúng ta quyết tâm xa tránh tội và xa tránh cả những dịp, xa tránh những nguy cơ dễ đưa đến tội, dễ dưa đến những nguy cơ làm mất lòng Chúa. Hãy luôn xin ơn trợ giúp, bởi sức riêng ta, ta không thể làm được gì, nếu không có ơn Chúa.

Khi chúng ta đọc: “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, thì chúng ta quyết tâm sẵn sàng chiến đấu trong tinh thần, trong chính nội tâm ta. Hãy siêng năng cầu nguyện, như vũ khí giúp ta chiến đấu và chiến thắng.

Khi chúng ta đọc: “Amen”, thì chúng ta quyết tâm hứa với Chúa sẽ thực hiện những quyết tâm trên "bằng bất cứ giá nào."

Viết theo: M.W.Grass, bản dịch của M.Stein.

***

Lạy Chúa Giêsu, qua các tông đồ, Chúa đã dạy con cách cầu nguyện qua câu Kinh Lạy Cha. Xin cho con ý thức  từng lời, từng chữ, mà con đọc. 

Xin cho con biết sống với Lời Kinh mà Chúa đã dạy cho con.  Amen.

-------------------


 

Bài 13: TẠ ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐAU KHỔ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 406
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Sau giờ tập hát, các ca viên của giáo xứ tôi thường có thói quen dảnh ra ít phút để cầu nguyện chung với nhau trước khi ra về.

Hôm ấy, đến phiên của anh T. hướng dẫn cầu nguyện. Anh ấy nói một hơi với Chúa, bằng những lời nguyện tự phát, đại khái thế này: 

“Lạy Chúa, tuần trước trên đường đi làm về, bất thần con bị choáng, nên con đã dừng xe máy ở gầm cầu Sàigòn, và ngồi xuống nghỉ một lát.

Bỗng con đã thấy và nghe được đôi vợ chồng già hành khất, cùng đọc kinh tối chung với nhau, với chuỗi kinh lòng Chúa thương xót: “Xin thương xót con và toàn thế giới”.

Họ đọc kinh thật sốt sắng, trong thế giới gầm cầu u tối của họ.

Đang khi đó ngoài kia, một thế giới đầy ánh sáng thì lại hoàn toàn khác hẵn.

Con chợt nhận ra rằng: Con đang sống trong một thế giới đầy ánh sáng của cuộc đời này. Con đang hưởng được quá nhiều đều hay, được quá nhiều đều may mắn, được quá nhiều đều hạnh phúc hơn họ nhiều.

Nhưng từ lâu nay, con nào có để ý tới, con nào có ngờ tới, là các ơn Chúa đã ban cho con đó, không hẳn do lời cầu nguyện của con, hay do những việc lành phúc đức hay những công đức gì của con, mà là do những lời cầu nguyện của những con người đau khổ, bất hạnh nhất trong cuộc đời này, những con người bị xã hội khi khinh, coi thường, những con người bị xã hội đối xử rẻ mạt nhất.

Nay, con xin ghi ơn tất cả những người đau khổ, thấp kém đó.

Vâng, vì địa chỉ của ơn Chúa ban cho con và cho toàn thế giới, lại là những lời kinh âm thầm của những anh chị em nghèo khổ, đói rách, hằng đêm cầu xin dưới gầm cầu, nơi bãi rác, trong những khu nhà ổ chuột, trong những nhà trọ rẻ tiền, mất vệ sinh, mất cả an ninh.

Họ bằng lòng chấp nhận nghèo khổ, để cho con được giàu có.

Họ bằng lòng thiếu thốn, để cho con được đầy đủ.

Họ bằng lòng rách nát, để cho con được tươm tất, chỉnh tề.

Họ bằng lòng chấp nhận mất mọi điều kiện, môi trường xanh, sạch đẹp, để  cho con có được một cơ ngơi rộng rãi, lộng lẫy, biệt thự sang trọng, phương tiện đàng hoàng.

Địa chỉ của ơn Chúa ban cho con và cho toàn thế giới, lại là những lời kinh can trường của những người câm mà biết đọc, biết hát, của những người điếc mà biết lắng tai nghe, của những người mù mà lại đang trông thấy, của những người què quặt tật nguyền mà đang nhảy múa tưng bừng hồn nhiên trước mặt Thiên Chúa.

Lạy Chúa con lại chợt nhớ tới một anh lớp trên con, sau khi bị đột quỵ, bị liệt nửa thân người, ngồi xe lăn, mà vẫn thường xuyên kết hiệp với đau khổ của Chúa vào lúc ba giờ chiều mỗi ngày, để cầu nguyện cho mình, cho bao người khác, và cho toàn thế giới, với việc lần chuỗi kính lòng thương xót Chúa.

Vâng, những người tật nguyền của Chúa Kitô đang gắn liền đời mình với Đức Kitô đau khổ, để biến đau khổ thành niềm vui và thành lời kinh thánh thiện nhất. 

Chính họ đã chấp nhận dâng lên Chúa những thương tích của họ, để con được đẹp đẽ, lành lặn và toàn vẹn.

Địa chỉ ơn Chúa ban xuống cho con và toàn thế giới, lại là những tiếng nấc đau thương, đẫm lệ, bên vũng lầy tội lỗi, của những con người chưa tìm ra lối thoát hiểm, khi chưa tìm được cái ăn, cái mặc, khi chưa tìm được cách trả cái nợ cái nần, khi chưa khắc phục được đời sống thiếu đói của cha mẹ, gia đình, nơi vùng quê nghèo mạc rệp!

Chính họ đang trong thế “chẳng đặng đừng”, mà chấp nhận một cuộc sống mất nhân phẩm hay là nhân phẩm thấp kém, dưới mức tồi tàn vì tội lỗi, để cho con và bao người nhận được bao cái may mắn trong cuộc đời mình!

Thế mà, có khi con đã không thấy, có khi con lại còn buông những lời ta thán hay ngạo mạn, khinh thường này khác.

Địa chỉ ơn Chúa ban xuống cho con và toàn thế giới là những bữa cơm đầm đìa nước mắt, trong những gia đình cơm không lành, canh không ngọt. Ở đó, sự chịu đựng của những người vợ, người chồng, và cả sự chịu đựng của con cái đã đến mức quá sức, chỉ còn những lời kinh âm thầm, mới là sức mạnh để vượt qua được những oan khiên, nghiệt ngã của cuộc đời, nhất là đời làm vợ, làm mẹ.

Những lời kinh của niềm tin và niềm hy vọng ấy đẹp lòng Chúa biết bao, khi họ chấp nhận những cay đắng ê chề, mà vẫn cầu nguyện cho hạnh phúc của tha nhân.

Đã không thiếu  những đôi vợ chồng trẻ được hạnh phúc, nhờ ơn Chúa ban, qua lời cầu nguyện của những người làm cha làm mẹ một đời bất hạnh đó.

Địa chỉ của ơn Chúa ban xuống cho con và toàn thế giới, lại là lời kinh của những người bị đàn áp, vì đấu tranh cho tự do, cho công bằng, cho chân lý. Cũng có thể là những lời kinh của những người bị chụp mũ, khủng bố, lộng hành, hay đang bị nhốt trong tù, để bịt miệng, để khóa mồm, không cho nói lên sự thật.

Lời kinh nguyện âm thầm trong đắng cay của một lãnh đạo tôn giáo nào đó đầy uy tín, đầy nhiệt huyết cho Nước Thiên Chúa và chân lý, nhưng lại bị tẩy chay, nếu không nói là đã bị lãnh án oan ức, lộ liễu, từ nhiều phía các quan tòa!

Vâng, lạy Chúa, con đang được nhiều hơn điều con ước muốn, là nhờ ơn Chúa ban xuống cho con qua những con người đau khổ.

Chính trong những con người đau khổ, bất hạnh, trong cái cùng cực của cuộc đời, mà họ vẫn giữ vững được niềm tin, niềm trông cậy, nhờ sự kết hiệp với đau khổ Chúa Kitô, và họ đã làm nên bao điều kỳ diệu cho nhân loại, cho bản thân con..

Thế mà con vẫn vô tình không để ý tới họ.

Xin Chúa tha thứ cho con, và xin Chúa ban lại muôn hồng ân, cho những con người đau khổ, đã âm thầm cầu nguyện cho con, cho chúng con, cho ca đoàn con, và cho toàn thế giới…”

*****

Thì ra, khi chấp nhận đau khổ, và kết hợp đau khổ với Chúa Giêsu, thực sự những người đau khổ đang truyền giáo cho chúng ta, cho nhân loại.

Một giả sử cho những người đang hoạt động cho các công việc truyền giáo cụ thể, là nếu chúng ta đang ở trong điều kiện của những người đau khổ trên, liệu chúng ta còn có niềm tin, niềm trông cậy nữa không?

Có một linh mục trẻ nói khôi hài: “Thời nay, có được sai đi tới đâu, cho là tới vùng sâu, vùng xa hay mạn ngược, thì cũng đều đi xe hơi, xe máy, chứ đâu có đi bộ mà vác thánh giá.

Rồi cũng uống rượu cần, rượu dầm mật gấu đại bổ, chứ đâu đến nỗi phải uống dấm chua mật đắng.

Bao giờ chạm được cái đau khổ của Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, thì mới thật sự là đạt đỉnh cao của ý nghĩa truyền giáo. Xim hãy cầu nguyện cho chúng tôi”.

Mà quả đúng như vậy.

Lý tưởng truyền giáo là kết hợp với Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Vì thế, Lời Chúa của Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo không giới thiệu cho chúng ta một lý thuyết hùng hồn về Nước Thiên Chúa, nhưng lại giới thiệu cho chúng ta một “người tôi tớ đau khổ và trung tín của Thiên Chúa”, đó là Chúa Giêsu, Đấng đã chấp nhận cái khốn cùng của kiếp nhân loại cho đến chết, và chết một cách nhục nhã đau thương trên thánh giá.

Và qua cái chết ấy, Thiên Chúa chấp nhận như của lễ đền tội cho toàn thế giới (Is 53, 10-11), để toàn thế giới được tái tháp nhập vào tình thương của Thiên Chúa, đã tái thiết lập mối tương quan thân tình Cha-Con với Thiên Chúa (Dt 4: 14-16).

Chúa Giêsu nói rõ hơn tính cách của người truyền giáo, trong Tin Mừng Mc 10, 35-45 rằng:

Người truyền giáo là người đến để phục vụ mọi người và làm giá chuộc cho mọi người.

Trong cuộc đời mỗi người chúng ta đều có những đau khổ riêng.

Nhưng những đau khổ riêng đó chỉ có giá trị thật sự, khi chúng ta biết chấp nhận và biết kết hợp những đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ trung tín của Thiên Chúa, thi mới nên niềm vui, nên phần rỗi cho mình và nên lời nguyện cho người khác được công chính, và nên giá chuộc cho người khác được cứu rỗi.

Lạy Chúa, xin loại bỏ trong con những ý nghĩ truyền giáo to tát, mơ hồ, hoặc để vinh danh con.

Xin đốt lên trong con lửa mến yêu và lòng khát khao kết hiệp với Chúa Giêsu chịu đau khổ, để mỗi đau khổ con chấp nhận, sẽ trở nên địa chỉ của kho tàng hồng ân cho chính con và cho mọi người.

Xin ban lại muôn ơn lành cho những người đau khổ, đã hy sinh, đã dâng những lời kinh nguyện cầu cho con được bình an, được hạnh phúc từ bấy lâu nay. Amen.

-------------------


 

Bài 14: SỐNG 2 MẶT LÀ LOẠI TRỪ THIÊN CHÚA

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 407
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Trong một cuốn ký sự của thời Thập Tự Viễn Chinh, người ta đọc thấy một câu chuyện khá ngộ nghĩnh như sau:

Tại một hòn đảo xinh đẹp, thuộc mạn nam đảo Sicilia, nước Ý, có một nhà ẩn sĩ sống trong một hang động. Sự khắc khổ và những giờ cầu kinh lâu giờ của ông đã thu hút rất nhiều khách thập phương Công giáo, cũng như Hồi Giáo.

Bí quyết của ông thật đơn giản: Ông phân hang động thành hai ngăn cách biệt nhau:

- Một ngăn, ông dựng bàn thờ dành cho Chúa Giêsu.

- Còn ngăn kia, ông dựng bàn thờ dành cho Đức Mahômét.

Khi có thập tự quân Công giáo đến thăm, thì ông mời họ đến ngăn có bàn thờ dành cho Chúa Giêsu.

Còn khi có người Hồi Giáo ghé thăm, thì ông lại mời họ đến ngăn có bàn thờ dành cho Đức Mahômét. 

Cứ thế, các tín đồ của cả hai tôn giáo đều quí mến ông.

*****

Thế nhưng một ngày kia, tình cờ đi qua hang động, một người lính thập tự viễn chinh Công giáo bắt gặp nhà ẩn sĩ đang phủ phục trước bàn thờ dành cho Mahômét. Không còn tự chủ được nữa, vì cảm thấy mình bị lừa gạt từ bấy lâu nay, người lính thập tự Công giáo liền tuốt gươm ra, chém vào vị ẩn sĩ.

Quằn quại trong vũng máu, lúc đó vị ẩn sĩ mới sám hối về hành động hai mặt của mình. Ông cố lê lết đến trước bàn thờ Chúa Giêsu, để xin Ngài tha thứ cho những lỗi lầm của mình.

Thế nhưng cùng lúc ấy, một người lính của Hồi giáo cũng đi qua nơi đó, đã cảm thấy mình bị lừa gạt từ bấy lâu nay, nên hắn đưa gươm kết liễu cuộc đời của ông, và buông ra những lời chửi thề như sau: “Nào hãy xem Chúa của người Kitô giáo mày, có cứu lấy mày được không, hỡi tên phản bội?”

*****

Câu chuyện của nhà ẩn sĩ trên đây có thể gợi lên hai thứ ngăn kéo trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta.

- Một thứ ngăn kéo dành cho Chúa ở nhà thờ.
- Còn ngăn kéo kia thì hoàn toàn xa lạ, khi sống ở ngoài xã hội, và lắm khi lại còn đối nghịch với những giáo lý chúng ta tuyên xưng nữa.


Cuộc sống hai mặt ấy thì cũng là một cách chối từ Thiên Chúa một cách nào đó.

Trong Cựu ước, qua miệng của các Tiên tri: Thiên Chúa đã quở trách dân riêng:

“Chỉ thờ Ngài ngoài môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ngài” (Matthêu 15,8).

Khi chịu đóng đinh vào thập giá, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha và xin tha thứ cho những kẻ không biết việc chúng làm.

Nhưng Ngài thì lại tỏ ra vô cùng gay gắt với những kẻ sống giả hình, những người tuyên xưng một đàng, lại sống một cách khác.

Trong sách Khải huyền, Lời của Chúa lại càng quả quyết hơn:

“Thà ngươi nóng thì thật nóng, thà người nguội thì nguội hẳn, còn nếu ngươi không nóng, mà cũng không lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Khải Huyền 3,15-16).

*****

Lời Chúa trên đây mời gọi chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của chúng ta.

Ngày nay, những cuộc bắt đạo công khai không còn nữa.

Thế nhưng, có những khó khăn về mọi mặt trong cuộc sống xã hội hôm nay, mà người Kitô hữu đang phải đối mặt và phải chọn lựa, cũng không khác gì là một thứ tuyên xưng đức tin, không khác gì một thứ tử đạo.

Và ngược lại, nếu người Kitô hữu khước từ sống theo những cam kết của niềm tin, thì cũng là một hình thức chối đạo mới.

- Chối đạo, là khi chúng ta quan niệm rằng: Đạo chỉ là chuyện cá nhân, thể hiện trong lòng, mà không cần một thể hiện nào qua những hành động cụ thể bên ngoài.

- Chối đạo, là khi chúng ta đóng khung đức tin trong bốn bức tường nhà thờ, trong các giờ kinh lễ, còn khi ra ngoài xã hội, đạo không có một tác động nào.

Hoặc khi kinh kệ, rước sách, được chúng ta làm chỉ vì thói quen, vì áp lực, vì huyênh hoang phô trương, biểu dương lực lượng hơn vì xác tín.

- Chối đạo, cũng có thể là khi chúng ta chối từ một hành vi bác ái, mà khả năng và hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm.

- Chối đạo, cũng có thể là khi chúng ta bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm, để có những hành vi loại trừ tha nhân và loại trừ Thiên Chúa.

- Chối đạo, cũng có thể là khi chúng ta không muốn nhận ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta. Chuyện gì chúng ta cũng than phiền Chúa, chúng ta cũng trách Chúa.

Cuộc sống tại thế của chúng ta, là một chuỗi những bài tập sự của cuộc sống thiên đàng. Nếu chúng ta không tập luyện để xưng nhận Chúa trong cuộc sống này, thì chúng ta cũng sẽ không nhận ra Ngài, và cũng sẽ không được Ngài đón nhận trong cuộc sống mai hậu.

Lạy Chúa, xin cho con đủ can đảm, để dám tuyên xưng Chúa trong cuộc sống thường ngày trước mặt thế gian.

Xin ban thêm sức mạnh và nghị lực, để con dám thực hành những điều Chúa đã dạy.

Xin ban thêm ơn, để con dám sống như Chúa Giêsu đã sống. Amen.

-------------------

 

Bài 15: NÉT ĐẸP CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 408
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Câu chuyện người con trai hoang đàng trong chương 15 của thánh Luca, thì ai trong chúng ta cũng đều biết.

Đúng hơn, đoạn Tin Mừng này của thánh Luca nói về Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Nhưng qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta khám phá thấy mấy nét đẹp thật tuyệt vời, và rất cụ thể như sau:

1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ

Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.

Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.

Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.

Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.

Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ấy minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.

2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.

Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.

3. Nét thứ ba của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.

Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.

Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừa nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.

Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.

Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.

Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim cảu ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi cảu ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giàu lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ, không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.

*** Trích đoạn bài viết của Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

--------------------------------------------------

Những sách đã in (32 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

(Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4))

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (13 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13


IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3

----------------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây