“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen. Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương. Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng. Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23). Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24). Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ. Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel, Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê. Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp, biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành. Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ, lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai. “Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22). Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc. Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth. Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự, Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác. Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình. Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ. Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều. Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã, cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo. Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình, Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước. Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa. Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại. Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman. Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria. Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái. Họ đã mở ra với dân ngoại. Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào. Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào. Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực? Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương. Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người, Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.
Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.
Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (thánh Augutstinô).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
Suy Niệm
Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.
Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.
Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.
Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.
Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.
Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”... (1Cr 13,4-5).
1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông...”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
- Gần chùa gọi bụt bằng anh. - Bụt nhà không thiêng - Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay...”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
- Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
- Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
... Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh... thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh... để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo - ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa, Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa vượt lên mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con một quả tim đủ lớn để yêu những người con không ưa. và đôi tay rộng mở để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen.