Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2024

Thứ sáu - 12/04/2024 03:21
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2024
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2024
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 2-2024
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: Lễ TRUYỀN TIN 25/3. 3
Lời Chúa: Lc 1, 26-38. 4
Suy niệm 1. Tôi là nữ tỳ của Chúa. 4
Suy niệm 2. Khiêm nhường đón nhận. 6
Suy niệm 3. Lời ”Xin Vâng” trong lễ Truyền Tin. 8
Suy niệm 4. Xin Vâng, sự hợp tác của con người 11
Suy niệm 5. Sẵn sàng để Chúa hoạt động trong ta. 11
Suy niệm 6. Lễ Truyền tin cho Đức Mẹ. 13
Suy niệm 7. Một đời Xin Vâng. 14
Suy niệm 8. Lòng kính sợ và sự khiêm nhường. 20
Suy niệm 9. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao. 23
Suy niệm 10. Lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể. 24
Suy niệm 11. Mẹ thưa xin vâng khi thi hành thánh ý Chúa. 27
Suy niệm 12. Ơn cứu chuộc ngang qua sự vâng phục. 29
Suy niệm 13. Khiêm Nhường Để Đón Nhận Ý Chúa. 32
Suy niệm 14. Lễ Truyền Tin. 35
Suy niệm 15. Xin vâng. 36
Suy niệm 16. Hai cuộc truyền tin. 37
Suy niệm 17. Cám ơn Mẹ đã sinh con ra. 39
Suy niệm 18. Yêu cuộc đời, yêu con người 40
Suy niệm 19. Đức Mẹ, mẫu gương đức tin. 43
Suy niệm 20. Đối thoại Truyền Tin. 47
Suy niệm 21. Niềm Vui Kitô Hữu. 51
Suy niệm 22. Được truyền tin để truyền tin. 54
Suy niệm 23. Giảng Lễ Truyền Tin. 55
Suy niệm 24. Chúng ta có để cho Thiên Chúa "truyền tin” cho mình không?. 58
Suy niệm 25. Xin Vâng. 60
Suy niệm 26. Xin Vâng. 63
Suy niệm 27. Sự khiêm nhường của Thiên Chúa. 66
Suy niệm 28. Này tôi là nữ tỳ của Chúa. 68
Suy niệm 29. Truyền Tin. 71
Suy niệm 30. Đấng đầy ơn phúc. 75
Suy niệm 31. Đức tuân phục. 77
Suy niệm 32. Sứ điệp vĩ đại 80
Suy niệm 33. Xin vâng như Mẹ Maria. 83
Suy niệm 34. Lễ Truyền Tin. 84
Suy niệm 35. Lễ Truyền Tin. 87
Suy niệm 36. Xin Vâng. 88
Suy niệm 37. Đón nhận quà tặng của Thiên Chúa. 90
Suy niệm 38. Nữ tỳ của Chúa. 93
Suy niệm 39. Từ lúc Mẹ nói lời ’’Xin Vâng’’ 94

Thứ 3: 97
Lời Chúa: Ga 3, 7-15. 97
Suy Niệm 1: Ai tin được sống muôn đời 97
Suy Niệm 2: Sống theo Thần Khí tự do. 99
Suy Niệm 3: Ðược Sống Muôn Ðời 100
Suy Niệm 4: Thánh Thần dẫn tới đâu?. 101
Suy Niệm 5: Điều kiện căn bản: "niềm tin". 102
Suy Niệm 6: Tin để hiểu. 103
Suy Niệm 7: Khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới 104
Suy Niệm 8: Chúa Kitô được giương cao. 105
Suy Niệm 9: Tiếp tục nói về việc tái sinh. 107
Suy Niệm 10: Sinh lại như thế nào. 109
Suy Niệm 11: Nhờ tác động của Thánh Linh. 112
Suy Niệm 12: Chúa đến trần gian vì chúng ta. 115

Thứ 4: 116
Lời Chúa: Ga 3, 16-21. 116
Suy Niệm 1: Thiên Chúa yêu thế gian. 116
Suy Niệm 2: Ánh sáng sự sông. 118
Suy Niệm 3: Đi rao giảng Tin Mừng. 119
Suy Niệm 4: Án xử của Thiên Chúa. 120
Suy Niệm 5: Yêu? Phán xét? Án phạt?. 122
Suy Niệm 6: Thiên Chúa là tình yêu. 123
Suy Niệm 7: Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho nhân loại 124
Suy Niệm 8: Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi 124
Suy Niệm 9: Tin Chúa sẽ được trường sinh. 126
Suy Niệm 10: Đi theo ánh sáng. 128
Suy Niệm 11: Hiệu quả của việc sinh lại 130
Suy Niệm 12: Chúa đến để ta được sống. 132

Thứ 5: 133
Lời Chúa: Ga 3, 31-36. 133
Suy Niệm 1: Đấng từ trên cao mà đến. 134
Suy Niệm 2: Đấng từ trên cao. 135
Suy Niệm 3: Tình yêu thương. 136
Suy Niệm 4: Hướng nhìn lên cao. 138
Suy Niệm 5: Trời và đất bất hòa sao?. 139
Suy Niệm 6: Giữ lấy bản sắc của mình. 140
Suy Niệm 7: Tin vào Chúa Giêsu sẽ trở thành người bất tử. 141
Suy Niệm 8: Đấng đến từ trời – Thiên Chúa làm người 142
Suy Niệm 9: Hãy tin để được sống. 143
Suy Niệm 10: Trách nhiệm của con người: Tin hay không tin. 145
Suy Niệm 11: Sinh lại thành con người mới hay không?. 147
Suy Niệm 12: Chúa Cha trao quyền cho Chúa. 150

Thứ 6: 151
Lời Chúa: Ga 6, 1-15. 151
Suy Niệm 1: Ăn bao nhiêu tùy ý. 151
Suy Niệm 2: Thật và giả. 153
Suy Niệm 3: Đấng cứu rỗi thế gian. 154
Suy Niệm 4: Sự cộng tác của con người 155
Suy Niệm 5: Dự tính tương lai 156
Suy Niệm 6: Phép lạ do tình thương. 157
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu mời gọi, chờ đợi sự đóng góp của con người 158
Suy Niệm 8: Thiên Chúa cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác. 159
Suy Niệm 9: Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều. 161
Suy Niệm 10: Phép lạ hóa bánh ra nhiều. 163
Suy Niệm 11: Biết quảng đại trao ban như Chúa. 166
Suy Niệm 12: Chúa ban của ăn cho dân chúng. 168

Thứ 7: 170
Lời Chúa: Ga 6, 16-21. 170
Suy Niệm 1: Chính Thầy đây. 170
Suy Niệm 2: Thầy đây, đừng sợ. 172
Suy Niệm 3: Bến bờ bình an. 173
Suy Niệm 4: Tin tưởng vào Chúa. 174
Suy Niệm 5: Đừng sợ, Thầy đây. 175
Suy Niệm 6: “Thầy đây, đừng sợ”. 176
Suy Niệm 7: Có Chúa là có bình an. 177
Suy Niệm 8: Chính Thầy đây, đừng sợ. 178
Suy Niệm 9: Đức Giêsu đi trên mặt biển. 179
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu là Êlia mới, Êlisê và Môisê mới 181
Suy Niệm 11: Sự che chở an toàn của Chúa Giêsu. 183
Suy Niệm 12: Chúa đi trên mặt biển. 186

----------------------------------

 

Thứ 2: Lễ TRUYỀN TIN 25/3


Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
08/04 – Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh – Lễ TRUYỀN TIN. Lễ Trọng.
“Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.

* Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Biến cố này được thánh Luca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người.

Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả Thánh Vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Do Thái đặt lên miệng Chúa Kitô khi Người bước vào trần gian: “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 1, 26-38


Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà.

---------------------------------

 

Suy niệm 1. Tôi là nữ tỳ của Chúa


--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ

Suy niệm:

Chín tháng trước khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo hội mừng lễ Truyền Tin.
Lễ Truyền Tin là lễ trọng, lễ Con Thiên Chúa xuống thế giới này làm người.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm lớn, đã bắt đầu từ giây phút này đây.
Nhưng sự trọng thể và lớn lao ấy lại diễn ra rất đỗi bình thường và bé nhỏ.
Galilê là vùng đất của dân ngoại, Nadarét chỉ là một tỉnh nhỏ ít danh tiếng.
Đây là nơi sinh sống của Chị Maria, một thiếu nữ đã đính hôn với ông Giuse.
Sứ thần Gáprien được Thiên Chúa sai đến với người trinh nữ Do thái ấy
vào lúc Chị đang sống đời sống thường nhật như các cô gái khác.
Chị sống bên cha mẹ, chờ ngày về nhà chồng.
Chị có biết đời mình sắp bước vào một khúc quanh mới không?
Thiên Chúa cần Chị Maria cho công trình cứu độ thế giới của Ngài.
Lễ Truyền Tin là lễ Thiên Chúa hỏi ý một thụ tạo, một thiếu nữ nhỏ bé.
Ngài tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho Chị, Ngài cần sự ưng thuận của Chị.
Qua trung gian sứ thần Gáprien, Thiên Chúa muốn Chị làm Mẹ của Con Ngài.
Người Con ấy là Vua thuộc dòng Đavít, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
Chị Maria đã hết sức bối rối trước lời chào của sứ thần.
Lời chào ấy khiến Chị phải suy nghĩ và sợ hãi (c. 29, 30).
Và khi được báo tin mình sẽ thụ thai,
Chị đã hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào?”
vì cho đến nay Chị vẫn còn là trinh nữ, chưa về chung sống với Giuse (c. 34).
Trước khi nói tiếng Xin Vâng, Chị Maria đã suy nghĩ cầu nguyện nhiều.
Chị biết mình được Thiên Chúa mời gọi bước vào cuộc phiêu lưu.
Cuộc hôn nhân với Giuse, người mà Chị yêu mến, hẳn sẽ không như cũ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Chị mang thai bây giờ? Giuse sẽ nghĩ sao?
Ai sẽ tin chuyện Chị được thụ thai bởi Thánh Thần (c. 35)?
Maria đã nói tiếng Xin Vâng không phải vì thấy rõ con đường Chúa muốn.
Xin Vâng là mềm mại, buông mình để Chúa dẫn đi giữa đêm đen,
yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai,
nhưng vì tin nó nằm trong tay Chúa.
Xin Vâng là để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Chị Maria đã dám chấp nhận mọi hậu quả khi nói tiếng Xin Vâng.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa.” (c. 38).
Tiếng Xin Vâng của Chị Maria đã cho Con Thiên Chúa có chỗ trong thế giới.
Nhờ những tiếng Xin Vâng của tôi, Đức Giêsu đi vào được thế giới hôm nay.
Tôi có kiên nhẫn cưu mang Ngài trong đời tôi, để cho Ngài lớn lên cứng cáp,
trước khi sinh ra Ngài cho môi trường tôi đang sống không?
 
Cầu nguyện:

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy niệm 2. Khiêm nhường đón nhận


--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa "Xin vâng", Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa "xin vâng", nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta "trở lại”đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

-------------------------------

 

Suy niệm 3. Lời ”Xin Vâng” trong lễ Truyền Tin


--GM G.B Bùi Tuần

Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời "xin vâng”của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó "xin vâng”đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.

Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét (Lc 1, 39 – 45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.

Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.

Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn "Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1, 46 – 55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.

Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.

Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.

Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng. Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ (Lc 1, 35).

Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí.

Do đó, Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.

Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng Lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự.

Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở. Thời sự hôm nay là Ít-ra-en, quê hương của Đức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Đức Mẹ.

Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không? Đoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay:

"Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". "Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13, 1 – 5).

Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Đó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác.

Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.

Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.

Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam chúng ta, và cho tất cả nhân loại.

-------------------------------

 

Suy niệm 4. Xin Vâng, sự hợp tác của con người


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Nhờ lời ưng thuận của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng người Mẹ đồng trinh. Thiên Chúa là Đấng khởi xướng mọi hoạt động cứu độ, nhưng Ngài cần sự hợp tác của con người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Con của Chúa Cha, Chúa đã nhập thể, đã trở thành người trong lòng Đức Mẹ đồng trinh. Với tâm hồn thánh thiện đầy ân sủng và thân xác tinh tuyền, Mẹ đã được Chúa chọn làm cung thánh để từ đó Chúa đi vào lịch sử loài người. Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Chúa trong thân xác. Tâm hồn Mẹ tràn đầy Chúa nên thân xác Mẹ cũng được Chúa cư ngụ, để rồi Mẹ ban tặng Chúa cho chúng con. Mẹ đã khiêm tốn ưng thuận để Chúa đi vào cuộc đời Mẹ và làm chủ cuộc đời Mẹ, nhờ vậy Chúa đã đi qua cuộc đời Mẹ để đến với chúng con.

Lạy Chúa, hôm nay, Chúa đang muốn đi qua cuộc đời con để đến với thế giới, Chúa cũng đang muốn hiến mình cho con, để qua con, Chúa hiến mình cho nhân loại hôm nay. Xin Chúa giúp con biết khiêm tốn đón nhận Chúa và ưng thuận Lời Chúa mời gọi. Con không thể đem Chúa đến cho anh em nếu con chẳng có Chúa trong lòng. Hằng ngày, nhờ thánh lễ, Chúa lại muốn nhập thể trong con. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc đời mình. Nhờ đức tin và tình yêu mến, nhờ tâm hồn trong sạch và khao khát Chúa, con sẽ được cưu mang Chúa trong tâm hồn. Nhờ việc rước lễ, con sẽ được cưu mang Chúa trong cả thân xác nữa. Xin Chúa ở với con luôn mãi. Con xin dâng hiến đời con cho Chúa, để Chúa dùng con như khí cụ của tình thương cứu độ của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.

-------------------------------

 

Suy niệm 5. Sẵn sàng để Chúa hoạt động trong ta


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A- Phân tích (Hạt giống...)

Vai chính trong tường thuật này là Đức Mẹ Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:

- Một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)

- Nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì”đầy ơn phước”và được”Thiên Chúa ở cùng” (câu 28)

- Được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)

- Dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38: Fiat =“Tôi xin vâng”...).

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

1. Đức Mẹ Maria hỏi”Việc đó xảy đến thế nào được, vì”.... Thiên Thần đáp”không có việc gì mà Chúa không làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Mẹ Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.

2. Mặc dù”không có việc gì mà Chúa không làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Trinh Nữ Maria hợp tác. Và Đức Trinh Nữ Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Tôi xin vâng”.…

3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)

4.”Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,28-29)

Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.

Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.

Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)

-------------------------------

 

Suy niệm 6. Lễ Truyền tin cho Đức Mẹ


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Hỡi Sứ thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú,
Người có nghe náo động cả muôn trời? (Hàn Mạc Tử)

Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này: lòng kính sợ Thiên Chúa và sự khiêm nhường

Lòng kính sợ Thiên Chúa

Sách thánh vịnh nói: "Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.

+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Gabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.

+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.

- Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập

- Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về

- Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.

Lòng khiêm nhường

Các nhà tu đức học đều coi "Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức". Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:

- Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…

- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.

"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)

"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).

Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.

-------------------------------

 

Suy niệm 7. Một đời Xin Vâng


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

I. NGÀY LỄ TRUYỀN TIN

1. Việc chọn ngày lễ

Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.

Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ "Ngôi Lời nhập thể”từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.

Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng "Lễ Truyền Tin”vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm "con Đức Trinh nữ”và lễ Đức trinh nữ là "Mẹ Thiên Chúa".

Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.

Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.

2. Quang cảnh Truyền tin

Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: "Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao".

Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể".

Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".

Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.

Truyện: Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.

Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".

Quang cảnh tới đây hạ màn.

II. VÀI SUY TƯ TỪ LỄ TRUYỀN TIN

1. Thiên Chúa là Đấng toàn năng.

Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần: “Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì..."? Sứ thần liền đáp: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).

Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người. Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy sáng kiến táo bạo của Ngài.

Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa, không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao?

Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là: người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu?

Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.

2. Thiên Chúa cần con người cộng tác

Nhưng có một điều mà "Thiên Chúa không làm được", đó là "Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài". Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bài Tin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.

Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng.

Ôi! Thiên Chúa nhân từ dườg nào! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.

Truyện: Chiếc đồng hồ báo thức

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.

Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.

3. Lời Fiat của Đức Maria

Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".

Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô City đã nói: “Virgo fidelis: Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì? Trung tín bao gồm chiều kích gì?

- Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet? Sự việc xẩy ra như thế nào? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin (...).

- Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat: Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ "như thế nào"; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc (...)

- Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.

- Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất: sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung.. Lời thưa "Fiat": xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).

Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.

Truyện: Tờ giấy và cây viết

Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.

Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi".

Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người".

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.

Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.

Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại". Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống", và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).

-------------------------------

 

Suy niệm 8. Lòng kính sợ và sự khiêm nhường


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Biến cố sứ thần của Thiên Chúa truyền tin cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta.

1- Lễ Truyền tin như anh chị em vẫn thấy luôn được cử hành lồng vào trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Và nếu anh chị em để ý một chút thì chúng ta thấy cách đây một tuần Giáo Hội cho chúng ta mừng kính lễ thánh Giuse. Tại sao Giáo Hội lại cho mừng hai lễ này trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh như thế? Chắc phải có lý do của nó. Giáo Hội là người mẹ rất khôn ngoan. Giáo Hội muốn đưa ra những tấm gương cụ thể để cho con cái của mình biết phải sống như thế nào trong Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Cũng như trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hai hình ảnh đặc biệt được Giáo Hội coi như mẫu mực là Thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Mẹ Maria, thì trong mùa Chay và Mùa Phục sinh Giáo Hội cũng đưa ra hai khuôn mặt mẫu mực như thế. Thay vì Thánh Gioan Tẩy Giả thì là Thánh Giuse và vai trò của Đức Mẹ thì chắc là không bao giờ có thể thiếu. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta có dịp để suy gẫm về Người.

2- Nói về Đức Mẹ như lời thánh Bênađô thì”chẳng bao giờ cho đủ”. Mỗi lần nói về vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa thì chúng ta thường hay nghĩ đến cách thức Chúa thực hiện những việc lạ lùng nơi con người của Đức Mẹ hơn là nghĩ đến những yếu tố đặc biệt khiến Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn. Thậm chí chúng ta còn thấy nhiều nhà tu đức còn cho là Thiên Chúa luôn có quyền làm theo ý muốn của mình. Họ cho rằng việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ quê mùa, nghèo khó để làm Mẹ Thiên Chúa là cốt ý để làm bẽ mặt những kẻ quyền thế, giàu có sang trọng ở trong thế gian.

Tôi không phủ nhận ý kiến đó. Thế nhưng đối với tôi nếu chỉ nghĩ về Thiên Chúa như thế thì chưa đủ. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng hành động khác thường. Có những lúc Ngài cũng hành động theo những qui luật bình thường. Khi nói thế, tôi muốn nói tới những lý do khiến Chúa đã đặc biệt để ý đến Đức Mẹ và tuyển chọn Ngài vào một công tác rất quan trọng trong chương trình cứu độ của Người.

Thế thì Đức Mẹ đã có những yếu tố nào để Thiên Chúa làm như vậy? Tôi thấy nơi Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này:

Trước hết đó là lòng kính sợ Thiên Chúa.

Thứ đến là sự khiêm nhường.

a- Lòng kính sợ Thiên Chúa.

Sách Thánh vịnh nói: “Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.

+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Grabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.


+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.

Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập
Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về
Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
b- Đức tính đặc biết thứ hai của Đức Mẹ đó là lòng khiêm nhường.

Các nhà tu đức học đều coi”Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức”. Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:

– Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc”quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…

– Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.

“Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tì hèn mọn” (Lc 1,48)

“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)

Vâng tất cả là bởi Thiên Chúa.

“Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường – Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).

Phải có một lòng khiêm nhường thật thẩm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn điạ đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.

Trong thi tập: “Người Làm Vườn”. Thi hào Tagore của Ấn Độ đã ca ngợi người đàn bà như sau:

Hỡi người đàn bà!
Người không chỉ là tuyệt tác của Thượng Đế.
Người còn là công trình của con người.
Chính con người vẫn mãi mãi tiếp tục tô điểm cho người bằng tâm tình của họ.
Các thi sĩ dệt cho người một mạng lưới của những vần thơ óng ả.
Các hoạ sĩ mặc cho người một chiếc áo choàng bất tử.
Biển khơi dâng hiến cho người ngọc ngà châu báu.
Người thợ mỏ mang vàng đến cho người.
Người làm vườn ôm ấp vỗ về người bằng muôn hoa cỏ đồng nội.
Khát vọng của lòng người đã trải dài vinh quang của họ trên tuổi xuân của người.
Hỡi người đàn bà!
Người một nữa là đàn bà, một nữa là mộng mơ.

Anh chị em thân mến.

Những vần thơ trên đây đáng được dành riêng để ca tụng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Nhưng có lẽ trên trần gian này không có lời nào có thể làm hài lòng Mẹ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu, Con Mẹ. Mẹ Maria tuyệt mỹ, bởi vì Mẹ giống Chúa Con. Mẹ giống Chúa Con là bởi vì cả cuộc sống lúc nào Mẹ cũng tuân theo thánh ý Chúa. Trước khi được liên kết với Chúa Giêsu bằng máu mủ ruột thịt, Mẹ đã được liên kết với Ngài bằng hai chữ”xin vâng”.

Lạy Mẹ, chúng con được gọi Mẹ bằng chính âm thanh của Chúa Giêsu đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giêsu gọi bằng mẹ không những vì đã sinh ra Ngài mà còn bởi vì đã sống vâng phục như chính Ngài.

Xin mẹ hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống Con Mẹ hơn. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 9. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?”.”Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”.

Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).

Suy niệm

Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.

Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.

Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện”Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).

Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.

Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa.

Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).

Ý lực sống: ‘‘Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.(Dt 10,7)

 -------------------------------

 

Suy niệm 10. Lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể


 // Theo chân Mẹ cất tiếng xin vâng

--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn “ (x. Bài giảng 69, 3, 4).

Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Sự kiện ấy diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “ (Lc 1, 26-27). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiaret hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội ". Nên tôi nói: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo cứu chuộc thế gian.

Kế hoạch của Thiên Chúa dần dần được thể hiện trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: “Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.

Từ Abraham đến Đức Maria

Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham "cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12). Đưa chúng ta về Nagiaret, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta."

Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một quốc gia vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu của Chúa. Sứ thần Gabriel nói, "Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai [...] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người [...] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).

Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).

Lời "xin vâng”của Abraham và Đức Maria

Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời "xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Elizabeth. Thiên Thần Gabriel nói về Elizabeth để trấn an Đức Maria: "Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).

Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.

Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa "xin vâng”của Đức Maria tại Nagiaret mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ "đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).

Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?

Chúng ta cầu xin cho mọi người trong Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này được đối mới về đức tin, không chỉ chung chung, nhưng là một đức tin có ý thức và can đảm tuyên xưng như vẫn đọc trong Kinh Tin Kính: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người ".

Tại Nagiaret, Chúa Giêsu”đã ngày càng tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52). Chúng ta xin Thánh Gia để bảo vệ tất cả các gia đình khỏi các mối đe dọa hiện nay đang đè nặng trên các gia đình. Chúng ta phó thác cho Thánh Gia tất cả những ai đang nỗ lực bảo vệ sự sống và cổ võ việc tôn trọng phẩm giá con người. Chúng ta phó dâng cách riêng các gia đình trên thế giới cho Mẹ Maria.

Tại Nagiaret, nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, chúng ta xin Đức Maria giúp Hội Thánh rao giảng "Tin Mừng”khắp mọi nơi. Trong "Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình", chúng ta xin xin Mẹ dạy chúng ta con đường khiêm tốn, vâng phục và niềm vui Phúc Âm để phục vụ anh chị em.

Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, nhờ lời”xin vâng”của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại. Chúng ta có thể thư”xin vâng”với Chúa Kitô, ngõ hầu toàn thể nhân loại "giao hòa với Thiên Chúa.”Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 11. Mẹ thưa xin vâng khi thi hành thánh ý Chúa


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta theo Sứ Thần Gabriel đến Nagiarét gặp một trinh nữ mà thiên hạ muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4).

Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Một sự kiện diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27 ). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiarét hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội”. Nên tôi nói: ”Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo nhất để cứu chuộc thế gian.

Kế hoạch của Thiên Chúa được thể hiện từng bước trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: ”Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.

Từ Abraham đến Đức Maria

Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham”cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12 ). Dẫn chúng ta về Nagiarét, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta.”

Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một dân tộc vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng được Chúa xức dầu. Sứ thần Gabriel nói,”Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).

Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).

Lời ”xin vâng” của Abraham và Đức Maria

Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời”xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Isave. Thiên Thần Gabriel nói về Isave để trấn an Đức Maria: “Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).

Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.

Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa”xin vâng”của Đức Maria tại Nagiarét mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ”đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).

Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?

Chúng ta cầu xin cho những người sống đời thánh hiến, để họ biết đón nhận Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa, suy ngẫm Lời Chúa như Mẹ Maria, nhất là sống theo Chúa Kitô, khiết tịnh, thanh bần và vâng phục là một sự chú giải sống động về Lời Chúa. Xin cho họ được luôn thưa”xin vâng”với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.

Trong năm Phúc Âm Hóa Giáo xứ, xin cho mọi người biết quan tâm đến nhau, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân. Vì Giáo hội luôn ý thức rằng: “Nếu một chi thể đau, thì tất cả các chi thể khác cũng đau” (1 Cr 12,26), nên Đức khẳng định: “Mỗi cộng đoàn Kitô được kêu gọi hãy vượt qua ngưỡng cửa nối kết họ với xã hội xung quanh, với những người nghèo và những người xa xăm. Giáo Hội tự bản chất là thừa sai, không co cụm vào mình, nhưng được sai tới tất cả mọi người. Sứ mạng của Giáo Hội là kiên nhẫn làm chứng về Ðấng muốn mang tất cả thực tại và mỗi người về cùng Chúa Cha… Tôi ước mong sao ở đâu Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, ở đó trở thành những honf đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng!” (Sứ điệp Mùa Chay năm 2015)

Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, chúng ta có thể thưa: Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn trong mọi hoàn cảnh của đời con. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 12. Ơn cứu chuộc ngang qua sự vâng phục


--Vinhsơn Ngọc Biển SSP

(Is 6, 10-14; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Nói cách khác, hôm nay, chúng ta long trọng mừng biến cố Thiên Chúa chính thức thực hiện lời hứa cứu độ với nhân loại khi trao ban Con của Người xuống thế và nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.

Qua biến cố vĩ đại này, tinh thần phụng vụ hướng chúng ta về hai mẫu gương vâng phục của Đức Giêsu và Mẹ Maria, đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương Đức Giêsu và Mẹ Maria để sống sự vâng phục trong cuộc sống đạo hôm nay.

1. Vâng phục để cứu độ

Khi nói đến sự vâng phục, chúng ta nhớ ngay đến đoạn Kinh Thánh mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philípphê, ngài viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7).

Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giêsu không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Emmanuen, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giêsu đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Sự vâng lời của Đức Giêsu hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, vì thế, Ngài đã nói: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa”Tv 39, 8a – 9a); hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài đã vâng lời và vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự và đã chấp nhận đổ máu mình ra nhằm cứu chuộc con người.

Chính vì sự vâng phục này, mà nhân loại đón nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật.

2. Vâng phục để đồng công cứu chuộc

Khi nói đến sự vâng phục của Đức Giêsu, chúng ta không thể không nói đến sự vâng phục của Đức Maria. Mặc dù phụng vụ canh tân ngày nay không còn tập trung nơi Đức Maria như trước kia vào thời Trung Cổ. Tuy nhiên, khi nói đến ơn cứu chuộc của Đức Giêsu nhờ sự vâng phục mà có, thì Giáo Hội cũng luôn đề cao sự cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc ấy cũng bằng chính sự vâng phục nơi Mẹ.

Sự vâng phục của Mẹ Maria được đánh giá rất cao trọng, bởi vì khi Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kế hoạch riêng tư của Mẹ hoàn toàn sang trang và chuyển hướng khác, để nhường cho chương trình và ý định của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại.

Nói như thế, là vì Đức Mẹ ngay từ khi còn nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phụng sự Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại có chương trình riêng cho người thiếu nữ Sion này, đó là muốn Mẹ nhận lời và cưu mang Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại.

Biết được ý định ngàn đời của Thiên Chúa, nên sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế,Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ), Mẹ Maria đã mau mắn trong tự do để thưa lên với Thiên Chúa ngang qua sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ). Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại tràn đầy niềm hân hoan, vì từ nay, Con Thiên Chúa đã đến và ở với loài người.

Khi chọn Mẹ Maria, người thiếu nữ Sion để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Thiên Chúa đã khai mở một kỷ nguyên mới, thiết lập một dân tộc mới thay thế cho dân cũ đã bị cái chết bao phủ do tội bất tuân của Evà. Từ nay, muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì từ cung lòng Mẹ đã cưu mang Đấng là Nguồn Ơn Cứu Độ, Nguồn Mạch Sự Sống.

Cũng chính lời xin vâng này, mà cuộc đời của Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trọn vẹn. Mẹ đã trở thành Đấng đồng công cứu chuộc với Con Chí Ái của mình.

3. Người Kitô hữu sống tinh thần vâng phục

Sứ điệp Lời Chúa và tinh thần phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu và Mẹ Maria như là mẫu gương tuyệt hảo cho sự vâng phục trong đời sống đức tin hằng ngày của mỗi người.

Nếu trước kia, nơi Đức Giêsu, Ngài đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để vâng phục Thiên Chúa Cha qua việc đến trần gian trong thân phận là một con người nhằm cứu chuộc nhân loại; và nếu Mẹ Maria khi vâng lời Thiên Chúa và sẵn sàng để cho thánh ý của Người được thực hiện, thì đến lượt chúng ta, nếu muốn trở nên người môn đệ đích thực của Chúa trong lòng Giáo Hội hôm nay, thiết nghĩ con đường tự khiêm tự hạ và vâng phục trong lòng mến của Đức Giêsu và Mẹ Maria chính là lựa chọn của chúng ta.

Tuy nhiên, với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin!

Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sang Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi” (SGLHTCG. Số 1733).

Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con chính người Con Một duy nhất của Cha đến trần gian qua cung lòng Mẹ Maria, để chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc của Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Xin Cha ban cho chúng con biết noi gương Con Một Cha và Đức Trinh Nữ Maria để sẵn sàng hiến dâng cuộc đời của mình trong sự vâng phục nhằm cộng tác vào công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 13. Khiêm Nhường Để Đón Nhận Ý Chúa


--Vinhsơn Ngọc Biển SSP

(Is 7, 10-14. 8,10; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)

Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong công việc. Tiêu chuẩn để được trở thành trợ lý xứng đáng, đó chính là sự khiêm nhường. Nếu khiêm nhường thì sẽ dễ dàng đón nhận ý chủ và thi hành cách trung thực. Ngược lại, nếu tự kiêu tự đại, người trợ lý rất khó chấp nhận ý chủ và sẵn sàng đưa ý mình thay ý chủ. Như vậy, công việc của ông chủ sẽ bị người trợ lý phá hoại nếu hắn không tuân thủ mệnh lệnh trong sự khiêm tốn, và lẽ tất yếu, rất khó trung thành!

Hôm nay, Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thấy toát lên hai nhân vật chính: một là sứ thần, hai là Mẹ Maria. Sứ Thần là người truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria, còn Mẹ Maria là người đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa qua sứ thần.

Khiêm nhường để đón nhận Ý Chúa

Nội dung sứ điệp rất đặc biệt. Người đón nhận đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì khi đón nhận, ngay tức khắc, Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi sẵn sàng để Con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế và nhập thế nơi cung lòng mình.

Đây là một tin vừa gây shock, vừa hãnh diện nơi Mẹ. Shock là vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, ấy vậy mà giờ Thiên Chúa lại thách đố Mẹ khi truyền cho mình phải mang thai, cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa. Hãnh diện vì trong muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã chọn mình. Tuy nhiên, dù shock hay hãnh diện, Mẹ đã khiêm tốn để xin vâng trong lòng mến.

Từ thái độ khiêm nhường để đón nhận lời xin vâng, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thành hiện thực. Cũng kể từ khi lời xin vâng đầy xác tín và khiêm nhường ấy, mà: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14). Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của thiên thần, đây là giây phút Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời mà Mẹ đã được hấp thụ bởi cha mẹ của mình.
Vâng phục Chúa, qua lời thiên thần truyền, Mẹ nhận mình là một người tôi tớ. Rõ ràng trong sự vâng phục, qua tiếng xin vâng của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng, phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.

Cũng chính lời xin vâng của Mẹ như thế, mà từ nay, Mẹ trở thành Evà mới thay thế cho Evà cũ đã bất tuân. Từ nay mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.

Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..

Qua lời kinh này, đức khiêm nhường lại càng đậm nét hơn nơi Mẹ, vì thế, Mẹ đã dâng lại cho Chúa tất cả vinh dự mà Người ban tặng cho Mẹ.

2. Sứ điệp Ngày Lễ

Mỗi khi mừng lễ Thiên Chúa Nhập Thể, hay còn gọi là lễ Truyền Tin, Giáo Hội mong muốn con cái của mình khám phá ra sứ điệp nền tảng của ngày lễ:

Trước tiên, đó chính là noi gương Thiên Chúa. Người đã yêu thương thế gian và Người yêu đến cùng, bằng việc trao ban chính Con Một của mình để biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Thứ đến, việc nhập thế của Đức Giêsu lộ hiện rõ đức khiêm nhường. Thật thế, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận từ bỏ vinh quang, mang lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế để cứu chuộc con người.

Cuối cùng, học nơi Mẹ Maria bài học vâng phục thẳm sâu. Sự vâng phục nơi Mẹ được khởi đi từ đức khiên nhường, nên khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận trong sự tín thác.
Có thể nói: nhân đức khiêm nhường chính là điểm nổi bật nơi Mẹ Maria. Vì khiêm nhường, nên Mẹ Maria mới sẵn sàng vâng lời tuyệt đối để trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ nhân đức này mà Mẹ được thuộc trọn về Chúa là Đấng hằng yêu quý những tâm hồn khiêm tốn.

3.        Sống sứ điệp ngày lễ

Ngày hôm nay, sống đức khiêm nhường quả là một thách đố đối với mọi thành phần. Chúng ta nói về đức khiêm nhường thì rất hay và “kêu”, nhưng khi đòi hỏi phải sống đặc tính của đức khiêm nhường thì lại là một “miếng xương” khó nuốt.

Thật vậy, nhiều người vẫn xin Chúa ban cho mình ơn khiêm nhường, nhưng khi Chúa gửi thử thách đến, nhất là những thử thách đụng đến lòng tự trọng, danh dự, thế là ta sẵn sàng nổi khùng và phàn nàn, trách móc nếu không muốn nói là khẳng khái khước từ!

Cũng vẫn có nhiều người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ như: tiền, tình, quyền… để đi theo Chúa, nhưng cái tôi thì không chấp nhận bỏ. Những người đó, họ đâu biết rằng: bỏ mọi sự, nhưng cái tôi không bỏ thì kể như chưa bỏ gì cả!

Mừng lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể, xin cho chúng ta biết noi gương Thiên Chúa để xót thương mọi người như Chúa đã xót thương đến nhân loại tội lỗi. Biết noi gương Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa – người, chấp nhận tất cả để cho người khác được hạnh phục và được cứu độ. Noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng khiêm nhường và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.

Chúng ta cần hiểu rằng: đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Khi có được nhân đức này, chúng ta mới hy vọng thuộc về Chúa cách trọn vẹn nhờ loại bỏ được những thói xấu như: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con.
Chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con
về tình thương cao vời của Thiên Chúa
ngang qua biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu.
Xin Chúa ban cho chúng con học được bài học khiêm nhường thẳm sâu nơi Mẹ Maria.

Ước gì qua sự khiêm nhường của mỗi người chúng con,
kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa
được thực hiện trong cuộc đời mỗi chúng con. Amen.
 
------------------------------

 

Suy niệm 14. Lễ Truyền Tin


--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

--Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu

Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.

Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục, một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môsê hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.

Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.

Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của Mẹ Maria ngày xưa.

Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.

------------------------------

 

Suy niệm 15. Xin vâng


--L.P

Người ta không ngớt hỏi về tiểu sử của cô thiếu nữ Do Thái, cô đã biết nắm giữ những điều chính xác của Chúa, và trong đám chị em cô. Cô đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có phải có một phụ nữ độc nhất đã được ghi tên trong lịch sử không? có phải có một phụ nữ độc nhất đã là đối tượng của tình yêu trinh trong của nhiều quân tử không? có phải có một bà độc nhất đã nhận bao nhiêu lời cầu khẩn của nhiều ông trong cơn quẫn bách đã chạy đến cùng bà và nhận được an ủi không?

Không, người ta không ngừng chiêm ngắm mầu nhiệm lạ lùng này, đã hoàn toàn đặt vào thiện tâm thiện chí của một phụ nữ trẻ, vào lời đáp ngắn gọn: “Fiat Voluntas tua”. Xin vâng ý Ngài. Và đồng thời những vui mừng được làm người mẹ, đặc biệt cùng với thảm kịch bi đát nhất trong suốt lịch sử: Sinh hạ Con Thiên Chúa, và cái chết trên thánh giá.

Cần phải có một đức tin sâu xa để tin nhận những biến cố như thế và đừng thử giải nghĩa theo lý trí loài người. Một đức tin sâu thẳm như đức tin của Ma-ri-a để thư xin vâng.

Và nếu người ta nghĩ ra rằng Thiên Chúa đợi chúng ta đáp cùng lời như thế, thì sao? Nếu Thánh Thần chỉ đợi chúng ta xin vâng để Ngài ngự đến và biến đổi đời sống chúng ta, thì sao? Nếu Thánh thần chỉ đợi chúng ta hết lòng xin vâng để làm cho chúng ta tiến tới trong đường lối của Ngài, thì chúng ta nghĩ sao?

Xin vâng đôi khi dễ dàng vì nó gợi lên những niềm vui sâu xa như niềm vui mà Thánh Phaolô ở trong tù viết thư cầu chúc cho giáo đoàn Philip.

Xin vâng khó hơn đối với một cuộc đời đầy những giờ phút khó khăn, đôi lúc được hạnh phúc an ủi.

Xin vâng khó nhất, lúc đứng dưới chân thập giá, lúc tất cả hình như mất hết. Sự xin vâng của thiếu nữ Ma-ri-a kéo dài không ngừng trong đời sống đau khổ làm Mẹ như thế.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống xin vâng như vậy.

------------------------------

 

Suy niệm 16. Hai cuộc truyền tin


--‘Cùng Nhau Suy Niệm’

--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Ðột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động - Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Ðấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: "Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô". Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.

Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.

Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.

Ðiểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.

Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: "Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau". Ðiều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.

Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen.

 ------------------------------

 

Suy niệm 17. Cám ơn Mẹ đã sinh con ra


--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?

Có một người con gọi về cho mẹ:

– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, C đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.

Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.

Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà  quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.

Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.

Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết... Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen

------------------------------

 

Suy niệm 18. Yêu cuộc đời, yêu con người


--Lm Nguyễn Hữu An

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.

Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1,14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"

Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Ðiều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26-38: Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Ðoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Ðức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong ngày hôm nay muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.

Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Ðức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.

Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên”không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Ðức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Ðức Ma-ri-a, nơi Ðức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Ðức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Ðức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Ðức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Ðức Ma-ri-a tạo nên hình hài Ðức Giê-su. Ðức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Ðức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.

Qua lời "Xin Vâng”của Ðức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Ðức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4,4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Ðó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.

Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết” (Ga 15, 15).

Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Ðức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.

Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người.

Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.

Xin Mẹ Maria giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.

------------------------------

 

Suy niệm 19. Đức Mẹ, mẫu gương đức tin


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.

Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28). "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, "tình thương nhập thể của Thiên Chúa" (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phước, Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabriel đến báo tin và thỉnh ý ngài tại làng quê Nazareth.

Sứ thần cung kính bái chào vì thấy Đức Mẹ cao trọng và trong sạch hơn các thiên thần. Tước hiệu “Bà đầy ơn phước”xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”,vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông.

Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài đáp tiếng “xin vâng” cách tự do và từ đó Đức Mẹ trở nên thầy dạy tuyệt vời cho nhân loại.

1/ Đức Mẹ đựơc Thiên Chúa tuyển chọn.

Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người nữ hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nổi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nổi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen. Ai cũng ước mong như thế.

Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:

• Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.

• Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.

• Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.

• Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.

Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”.

Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ đựơc quyền năng Thiên Chúa  bao phủ.

Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.

Thánh Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Thánh sử so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.Quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm, cùng với máu thịt của mình, Đức Maria đã tạo nên hình hài Đức Giêsu.Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Mẹ và Ngài vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.

Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavit muốn xây cho Ngài; nhưng trái lại Thiên Chúa hứa cho Đavit một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavit (2 Sm 7,1-16). Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa,nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó chính là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong (Rm 16,25-27).

2/ Đức Mẹ đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”.

Thiên Chúa không chọn lựa cách độc đoán. Ngài tôn trọng tự do của người đựơc chọn. Ngài sai Sứ Thần đến và muốn Đức Mẹ hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nổi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa nhân loại, thực hiện chương trình cứu độ. Giây phút Đức Mẹ tự do đáp lời  “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.

Nếu như Nguyên Tổ bị con rắn cám dỗ bằng lờinghi nan, lừa lọc dối trá, gây cuộc nổi loạn, và Adam và Evà đã sa ngã, đau khổ sự chết tràn vào thế gian; thì Sứ thần Gabriel đề nghị một sự tự do ưng thuận. Đức Maria thưa “Xin vâng”, lời ấy đã làm cho Ngôi Hai làm người. Từ đây, nhờ Đức Maria, tin tưởng và vâng phục, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.

Thái độ “Xin vâng” của Mẹ hoàn toàn khác với Ađam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Ađam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).

3/ Đức Mẹ là nhà giáo dục tài giỏi.

Thư chung HĐGM Việt Nam năm 2008, với chủ đề "Giáo dục Kitô giáo"có viết: “Thánh Cả Giuse và Đức Maria là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín”.(Thư HĐGMVN 2008, số 20).

Thiên Chúa đã tín nhiệm Mẹ khi để Con Một là Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth dưới sự dìu dắt và dạy dỗ của Mẹ. Như thế chúng ta có thể nói rằng Đức Maria là nhà giáo dục tài giỏi và trở thành gương mẫu cho tất cả mọi nhà giáo dục.

“Giáo Hội ước mong mỗi gia đình Kitô giáo phải là trường học đầu tiên để thông truyền, dạy dỗ và bảo dưỡng cho con cái về đời sống đức tin, đức ái, đời sống cầu nguyện, tình liên đới, vị tha, hài hòa, quảng đại, những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. Các môi trường khác như giáo xứ hay học đường chỉ tiếp tay với gia đình chứ không thể thay thế gia đình trong vấn đề giáo dục đức tin, đức ái. Cha mẹ phải là những nhà giáo dục tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển hài hoà và bền vững của đời sống đạo đức cho mọi người trong gia đình.Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp”. (Thư HĐGMVN 2008); “Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức. Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp này của gia đình công giáo. Hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương. Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta”. (Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin mời gọi Dân Chúa hướng lòng về Đức Mẹ như mẫu gương Đức Tin: “Mẹ có phúc hơn mọi người nữ vì đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện (x. Lc 1,42). Trong ngày Truyền Tin, Mẹ dạy chúng ta sống đức tin khiêm tốn và vâng phục: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều thiên sứ truyền” (Lc 1,38). Bằng những bước chân vội vã lên đường thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ thúc đẩy chúng ta sống đức tin dấn thân loan báo Tin Mừng, đem niềm vui cứu độ đến cho mọi người. Dưới chân thập giá, Mẹ nêu gương cho chúng ta về đức tin chứa chan hy vọng”.

Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa Nước Trời.

Đức Maria đã hiện diện trên núi Calvariô vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Ga19,25) và trong nhà Tiệc Ly vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv1,14), chắc hẳn Mẹ cũng là một chứng nhân ưu tuyển của Chúa Kitô Phục sinh; như vậy là hoàn tất việc tham dự vào hết các giai đoạn chính yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Ngoài ra, khi đón tiếp Đức Kitô Phục sinh, Đức Maria là dấu hiệu và điểm chỉ tiên báo cho một nhân loại đang hy vọng vào sự hoàn thành sung mãn của mình với việc kẻ chết được sống lại.

Trong mùa Phục sinh, cộng đoàn Kitô hữu khi hướng về Thân mẫu của Thiên Chúa, đã mời Người hãy vui mừng: “Lạy Nữ Vương Thiên đàng, hãy vui mừng, alleluia!”. Họ nhắc lại niềm vui của Đức Maria vì cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, kéo dài qua lời mời gọi của thiên sứ vào lúc Truyền tin “hãy vui lên”, ngõ hầu Mẹ trở thành “nguyên nhân vui mừng” cho toàn thể nhân loại.

Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.

 ------------------------------

 

Suy niệm 20. Đối thoại Truyền Tin


-- Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.

– Thể văn báo tin việc sinh hạ: *Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. *Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25). *Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.


– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng: *Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. *Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) *Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.

– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).

Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin. Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.

– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).

– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.

– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược. Thái độ của Thiên sứ: * Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ. * Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng “

– Công trạng và ân huệ * Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước. * Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.

– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh “ ( 1Cr 1, 27). Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc. 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng “. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại “. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh ” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống “. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ. Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).

Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai. Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường. Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.

Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường. Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Marialà mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.

------------------------------

 

Suy niệm 21. Niềm Vui Kitô Hữu


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.

– Thể văn báo tin việc sinh hạ: *Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. *Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25). *Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.

– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng: *Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. *Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) *Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.

– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).

Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin. Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.

– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).

– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.

– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược. Thái độ của Thiên sứ: * Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ. * Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng “

– Công trạng và ân huệ * Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước. * Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.

– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1, 27).

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc. 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện diện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng “.

Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại “. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh ” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống “.

Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ. Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Một lời thật ngắn nhưng âm vang cả đời. Một lời vừa biểu lộ sự hiến dâng cộng tác tích cực, vừa thể hiện niềm yêu mến tin tưởng phó thác. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).

Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai.

Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường.

Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình. Là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại, để từ đó một cách thường hằng, Mẹ nên Hiền Mẫu chuyển cầu che chở nâng đỡ ủi an mọi người trên đường lữ thứ trần gian. Và một cách đặc biệt, Mẹ nên nguồn cậy trông cho tất cả những ai, không phân biệt lương giáo, đang gặp phải những nỗi đau trong đời như đau đớn xác thân vì bệnh tật, đau khổ tinh thần vì thất vọng thử thách, đau buồn vì cảnh gia đình tan tác hay đau thương vì nỗi vĩnh quyết chia xa hoặc đau điếng mãn tính cấp tính vì tình đời đen bạc… Hãy bền lòng cậy trông ký thác, phần còn lại là kiên tâm làm theo hướng dẫn của Mẹ.

Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường.

Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.

------------------------------

 

Suy niệm 22. Được truyền tin để truyền tin


--tonggiaophanhanoi.org
“Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.” (Lc 1,26-27)

Suy niệm: "Tin” mà thiên sứ Gáprien "truyền” cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa để cứu độ con người. "Tin” ấy Thiên Chúa "đã nhiều lần nhiều cách ”truyền dạy qua các ngôn sứ (x. Dt 1,1) mà giờ đây được hiện thân qua chính Người Con nhập thể trong lòng trinh nữ Maria. Đức Maria đã cộng tác bằng việc đón nhận "tin” này với niềm vâng phục của đức tin (x. GLHTCG, 148).

"Được truyền tin” rồi, Mẹ lại tiếp tục "truyền tin” mà Mẹ đã nhận bằng cách ban tặng Đức Giêsu Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta, như Mẹ đã nói: "Người bảo gì, anh em cứ làm theo” (Ga 2,5).

Mời Bạn: Xã hội hôm nay tràn ngập thông tin: tin lành, tin dữ, tin vui không vui, tin thật, tin giả.... Muốn hay không, chúng ta đều "bị” nghe hoặc "được” nghe". Để khỏi là nạn nhân của sự bùng nổ thông tin ấy, chúng ta phải:

 - biết sàng lọc thông tin và phân định để nhận ra tin lành đến từ Thiên Chúa;

 - và trở thành tác nhân truyền tin lành của Ngài đến với tha nhân.

Chia sẻ: Bạn đã dùng các phương tiện truyền thông hiện đại để loan truyền Tin Mừng cho tha nhân chưa?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn thực hiện sứ mạng "truyền tin” bằng một lời nói hoặc hành động để chuyển thông tin lành của Chúa đến cho tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con luôn nhận ra mình "được truyền tin”  để biết sống "truyền tin” như Đức Maria. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 23. Giảng Lễ Truyền Tin


--Lm. Giuse Đỗ Văn Tuyến

Sau tuần bát nhật Phục sinh, Tin Mừng Chúa phục sinh vẫn còn đang vang vọng trong lòng mỗi người chúng ta. Nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giêsu, ân sủng và niềm vui đang trào tuôn trên toàn thể nhân loại; ân sủng ấy hệ tại việc Thiên Chúa nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa, khi Ngài cho Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, sống lại từ cõi chết. Từ nay, với Đức Giêsu, nhân loại được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Đó là đích điểm của một hành trình, được khởi đầu với biến cố truyền tin Thiên Chúa nhập thể làm người mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Đây là lễ của việc Thiên Chúa đi bước trước trong sáng kiến cứu độ nhân loại; Đây cũng là lễ của sự hợp tác của nhân loại với Thiên Chúa trong công trình cứu độ của Thiên Chúa.

Nhìn từ phía Thiên Chúa, phụng vụ của ngày lễ hôm nay làm sáng lên tình yêu cứu độ đối với nhân loại. Khi sai thiên sứ đến truyền tin cho Mẹ Maria, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng trung tín với lời đã hứa. Khi vâng phục thánh ý Chúa Cha đi vào trong nhân loại, Ngôi Lời Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã chấp nhận từ bỏ địa vị Thiên Chúa để trở thành một người như chúng ta giữa lòng nhân loại. Với mầu nhiệm nhập thể, Con Một Thiên Chúa đã khai mở con đường cứu độ bằng chính sự vâng phục của Ngài: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giê su phán: Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa. Vì thế Lễ truyền Tin còn là lễ tưởng niệm bước đầu công cuộc cứu chuộc, khi thiên tính kết hợp mật thiết với nhân tính trong ngôi vị độc nhất của Ngôi Lời Thiên Chúa.

Hóa ra, từ mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa đến mầu nhiệm Vượt qua của Ngài, chúng ta nhận ra đây chính là việc Thiên Chúa thực hiện giấc mơ của nhân loại: Con người muốn trở thành thần linh, muốn biết lành biết dữ. Không những thế, với Con Thiên Chúa làm người, con người còn được trở thành con Thiên Chúa. Là giáo lý viên, chắc chắn chúng ta nắm rõ chân lý này: mọi khát vọng sâu xa của con người đều do chính Thiên Chúa đặt để trong sâu thẳm tâm hồn con người để nhờ đó, dẫn đưa họ đến với Ngài. Thế nhưng chúng ta tự hỏi: Vậy tại sao con người từ thuở khi thiên lập địa đã trở thành tội đồ và rồi kéo theo toàn thể giống nòi phải liên lụy trong kiếp tội lỗi lầm than khi muốn thực hiện giấc mơ thành thần linh. Và vẫn xẩy ra như thế mỗi khi con người muốn thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của mình. Vậy đâu là sự khác biệt giữa tội lỗi và hạnh phúc được cứu độ? Ánh sáng dẫn chúng ta đến câu trả lời đầy thuyết phục đến từ Mẹ Maria: Phúc cho Mẹ vì Mẹ đã tin.

Vâng, tin là thái độ hoàn toàn trái ngược với thái độ bất tuân tội lỗi của nguyên tổ muốn tự mình thỏa mãn những khát vọng của con người. Ở đây, chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa tội và phúc. Tội là muốn từ chối Thiên Chúa, là gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, để tự mình định đoạt và lấy mình làm tiêu chuẩn để xác định thiện và ác. Trái lại, phúc là tình trạng ân sủng trong Thiên Chúa dành cho những kẻ tin, đón nhận tất cả từ Thiên Chúa như là ân ban của Ngài.

Sự hợp tác của con người với Thiên Chúa bằng lòng tin

Thật vậy, nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn vâng phục và thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Vì tin, Mẹ xác tín vào Lời của Thiên sứ Gabriel: Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể đối với loài người, đã trở thành có thể nhờ quyền năng Thiên Chúa. Vì tin, Mẹ đã thưa tiếng xin vâng để chương trình cứu độ của Thiên Chúa được khởi sự. Như thế, nhờ tin, Mẹ biết rằng, quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ thật của loài người. Đức trinh nữ Maria đại diện cho dân tộc của mình và cho toàn thể nhân loại hợp tác với sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa bằng thái độ tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ đã thưa tiếng xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời.

Chắc chắn trước khi nói tiếng xin vâng, Mẹ đã suy nghĩ nhiều. Mẹ biết mình được Thiên Chúa mời gọi bước vào một cuộc phiêu lưu của lòng tin. Quả vậy, khi thưa tiếng xin vâng, không biết điều gì sẽ xẩy ra nếu Mẹ mang thai bây giờ khi chưa về chung sống với Giuse? Giuse sẽ nghĩ sao? Ai sẽ tin chuyện Mẹ được thụ thai bới Thánh Thần? Khi nói tiếng xin vâng, cũng không phải Maria đã thấy rõ con đường Chúa muốn, nhưng xin vâng là phó mặc để Chúa dẫn đi giữa đêm đen. Mẹ yên tâm thưa tiếng xin vâng không phải vì mẹ làm chủ được tương lai, nhưng yên tâm vì tin rằng tương lai nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Xin vâng là để cho những dự tính và ước mơ của riêng mình tan biến để hòa mình vào chương trình của Thiên Chúa. Hơn nữa, khi thưa tiếng xin vâng, Maria đã dám chấp nhận mọi hậu quả sẽ xẩy đến. Trên hết, khi nói: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin hãy thực hiện cho tôi theo như lời Người đã nói, Mẹ Maria đã cho Con Thiên Chúa có lối để đi vào các nẻo đường của nhân loại, để nhân loại có cơ may duy nhất để trở thành thần linh, được trở thành con Thiên Chúa. Sau cùng, Mẹ Maria đã thưa tiếng xin vâng không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong suốt cuộc đời Mẹ. Với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Mẹ đã luôn luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Chúa. Mẹ đã đáp lời không phải là trong sự nhẹ nhàng dễ dãi, nhưng là trong đau khổ và nước mắt. Sự vâng phục trong đức tin của Mẹ là mẫu gương cho sự hợp tác giữa Thiên Chúa và nhân loại để ơn cứu độ được thực hiện. Đúng như lời thánh Augustino; “Để dựng nên con, Chúa không cần con; nhưng để cứu độ con, Chúa cần đến con’. Ngài cần sự ưng thuận và sự hợp tác của con người. Niềm tin của mẹ còn ngời sáng, lan tỏa sang những người đã gặp gỡ mẹ. Nhờ tin, Mẹ đã nói với các gia nhân trong tiệc cưới tại Cana: Hễ người bảo gì thì hãy làm theo. Và kết quả là một phép lạ đã xảy ra.

Kính thưa cộng đoàn, các thầy cô và anh chị em giáo lý viên thân mến,

Mừng lễ Truyền tin hôm nay, chúng ta tự hỏi: chúng ta có xác tin vào tình yêu và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, khi chúng ta giảng dạy Giáo lý và làm chứng cho Tin mừng không? Theo gương Mẹ Maria, chúng ta cũng là những người có phúc, khi chúng ta tín thác vào Chúa như Mẹ và sẵn sàng thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Nhờ tiếng xin vâng của anh, của chị của tôi, Đức Giê su đi vào cuộc đời của tôi, đi vào thế giới hôm nay. Nhờ sự quyết tâm vâng phục thi hành ý muốn của Thiên Chúa qua Giáo hội, mỗi giáo lý viên chúng ta hợp tác để Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn nhiều người. Sau cùng, tôi có biết noi gương Mẹ Maria kiên nhẫn cưu mang Chúa Giêsu trong đời tôi để Ngài lớn lên cứng cáp, trước khi sinh Ngài cho môi trường tôi đang sinh sống không?

------------------------------

 

Suy niệm 24. Chúng ta có để cho Thiên Chúa "truyền tin” cho mình không?


--Lm Lê Quang Uy, CsSr

Trước tiên, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy cô thiếu nữ Ma-ri-a không hề ngu ngơ khờ dại, nhắm mắt vâng lời một cách thiếu suy xét. Cô đã có một phản ứng tức thì khi nghe thiên sứ báo tin cô sẽ thụ thai, cô ngỡ ngàng thắc mắc: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"

Xin lưu ý là: cô Ma-ri-a đã phản ứng ngỡ ngàng, chứ không phải là phản đối, phản kháng. Cô chỉ băn khoăn thắc mắc rằng: bằng cách nào mà Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người, sẽ đầu thai để trở thành một bé trai sinh ra từ cung lòng mình? Lý do thắc mắc ngỡ ngàng của cô thật quá rõ ràng: cô chỉ mới đính hôn với ông Giu-se cơ mà?

Thiên sứ liền trấn an cô: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà". Thiên sứ còn quả quyết: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".

Đến đây thì cô Ma-ri-a đã vui mừng và mạnh dạn thốt lên lời Xin Vâng tuyệt vời: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".

Trong phút chốc, cô Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đức Giê-su Ngôi Hai Thiên Chúa. Tất cả chỉ nhờ một lời ngắn gọn, một thái độ vâng phục chan chứa lòng Tin Cậy Mến. Có thể nói, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn quyết định hướng đi cuộc đời Mẹ, hầu Mẹ được cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạ

Lời Xin Vâng của Mẹ trở thành một mẫu mực tuân phục Thiên Chúa cho chúng ta noi theo. Nói mạnh hơn, lời Xin Vâng ấy là một lời chất vấn, một thách đố hùng hồn trước thảm kịch bất tuân phục Thiên Chúa của con người trong thời đại của chúng ta.

Tự do ly dị, phá thai vô tội vạ, cướp bóc bạo lực, đua xe bạt mạng, nghiện ngập xì-ke ma túy, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng, cha mẹ độc đoán hoặc ghẻ lạnh với con cái, con cái nhục mạ hoặc thờ ơ bỏ rơi cha mẹ, học trò đánh đập thầy cô, vợ chồng xô sát với nhau và chiến tranh khủng bố bạo tàn khắp nơi trên thế giới... Hình như con người quá kiêu hãnh về mình, muốn gạt bỏ Ý Thiên Chúa để tự quyết lấy đời mình! Phần chúng ta thì sao? Chúng ta được gọi là Ki-tô hữu, tức là chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, là môn đệ của Thầy Giê-su chí thánh, đã và luôn tin cậy phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Vậy chúng ta có mở ngỏ cuộc đời mình cho ý định yêu thương của Thiên Chúa không?

Chúng ta có bao giờ nghĩ rằng chính mình cũng đang được mời gọi: Hãy để cho Thiên Chúa "truyền tin”cho mình ngay giữa cái thế giới hôm nay đang bùng nổ về thông tin. Và Thiên Chúa sẽ gửi đến cho chúng ta một bản tin như thế nào? Phải chăng đó chính là "Tin Mừng", "Tin Vui", "Tin Lành", "Tin Tốt Đẹp", "Tin Bình An", "Tin Hy Vọng”cho mảnh đời đã có quá nhiều "tin buồn, quá nhiều "tin... tức”của chúng ta? Và một khi nhận được một "Tin Mừng”như thế, chúng ta có sẵn sàng mau mắn thưa Xin Vâng trước mọi biến cố, nhất là những nghịch cảnh trong cuộc sống hôm nay được lồng vào trong, được ẩn dấu trong một nội dung Tin Mừng kỳ diệu của Sự Sống Yêu Thương chăng?

Chúng ta hãy bắt chước Đức Ma-ri-a để luôn tìm đọc Lời Chúa, để nhẫn nại cầu nguyện trong niềm xác tín rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".

Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: "Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ... Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi... Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ..."

Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ...

Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác...

Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử Đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy...

Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.

Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những "sứ giả", những "thiên thần”được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta...

Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời "Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một "sứ giả", một "thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".

Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà".

------------------------------

 

Suy niệm 25. Xin Vâng


--Logos năm B

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An”.

Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An”. Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.

Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.

Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, sứ thần Gabriel đã được sai đến để báo tin vui cho Mẹ Maria: Mẹ sẽ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đứng trước một biến cố quá bất ngờ, một sứ mệnh quá lớn lao, Mẹ Maria bối rối và xao xuyến trong lòng. Sứ thần Gabriel đã giải thích để Mẹ Maria thấu hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria đã thưa lời xin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.

Lời”xin vâng”của Mẹ Maria

Lời xin vâng của Mẹ Maria chính là khởi đầu cho Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Thật vậy, Chúa Giêsu không đến trần gian như một thiên thần, hay như một vị thần siêu việt. Và Chúa cũng không muốn cứu chuộc trần gian mà không đổ một giọt máu nào. Trái lại, Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc loài người. Chúa thực sự là người như mọi người chúng ta. Chúa đã tiếp nhận bản tính nhân loại nơi cung lòng Mẹ Maria.

Lời”xin vâng”của Mẹ Maria cũng là khởi đầu cho địa vị cao cả của Mẹ: đó là được trở thành Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”cũng gắn liền với những ân huệ khác của Mẹ: trọn đời đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác về trời.

Như thế, nhờ lời”xin vâng”, Mẹ Maria thực sự”có phúc hơn mọi người nữ”. Lời”xin vâng”đã mang đến một”Tin Mừng”lớn lao cho toàn thể nhân loại. Và đặc biệt là cho mỗi người chúng ta: qua lời”xin vâng”, không những Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà Mẹ còn là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người chúng ta. Chính lời”xin vâng”đã làm nên tình mẫu tử thiêng liêng giữa Mẹ Maria và nhân loại. Lời”xin vâng”như nhịp cầu đưa chúng ta bước vào cung lòng hiền mẫu của Mẹ Maria.

Lời”xin vâng”của người tín hữu hôm nay

Mẹ Maria đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau lời”xin vâng”, Mẹ Maria đã phó thác tất cả đời mình trong bàn tay từ ái của Thiên Chúa, để Người toàn quyền định đoạt số phận của mình. Mẹ Maria chỉ còn biết vâng theo ý Chúa hoàn toàn.

Mẹ Maria cũng là người như chúng ta. Mẹ cũng có những ước vọng riêng mong đạt tới. Mẹ cũng có những chương trình cá nhân cần hoàn thành. Nhưng đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã từ bỏ chính mình để đáp lại bằng lời”xin vâng”. Mẹ đã sẵn sàng từ bỏ con đường riêng của mình để đi vào con đường Thiên Chúa sắp đặt. Đó chính là nét đẹp tuyệt vời của hai chữ”xin vâng”.

Hôm nay, Chúa vẫn đang cần những lời”xin vâng”của chúng ta, đang cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục những gì Ngài làm còn dang dở. Ngài muốn dùng chúng ta như những khí cụ trong bàn tay Ngài. Chúa vẫn muốn nhìn bằng đôi mắt của ta, yêu thương bằng trái tim của ta, làm việc bằng đôi tay của ta và bước đi bằng đôi chân của ta.

Trong ngày lễ Truyền Tin, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu để chiêm ngưỡng lời”xin vâng”tuyệt hảo của Ngài. Là một vị Thiên Chúa cao cả, nhưng Ngài đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hủy bỏ mình ra không, đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 6-8).

Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Do Thái, cũng nhắc đến sự vâng phục của Chúa Giêsu trước thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu chính là một lời”xin vâng”kéo dài: từ hang đá Bêlem đến đỉnh Núi Sọ, Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha trong mọi giây phút của cuộc đời. Ngài chấp nhận uống chén đắng hơn là khước từ ý Cha.

Chớ gì lời”xin vâng”của Mẹ Maria sẽ dẫn đưa chúng ta đến lời”xin vâng”của Chúa Giêsu, và từ đó giúp ta cũng bắt chước các Ngài để luôn thưa lời”xin vâng”trong cuộc sống hằng ngày, thay cho những lần chúng ta”nói không”trước Thiên Chúa và anh em mình.

Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:

– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?

Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:

– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.

Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:

– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.

Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.

Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời”xin vâng”của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con đường”xin vâng”là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.

 ------------------------------

 

Suy niệm 26. Xin Vâng


--Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành trọng thể lễ Truyền Tin. Trước đây, vào thời Trung cổ và Cận đại, vì lòng yêu mến Đức Maria, người ta nhấn mạnh đến việc Truyền Tin cho Đức Maria, và cho rằng lễ này là lễ trọng về Đức Maria. Đây là một sự lầm lẫn làm biến dạng ý nghĩa ban đầu của ngày lễ. Chính vì thế, phụng vụ canh tân sau Công đồng Vatican 2 đã quay trở lại ý nghĩa nguyên thuỷ của ngày lễ, đó là ngày lễ được Giáo Hội lập ra để kính nhớ một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo chúng ta, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa như câu xướng trước Phúc Âm nói rõ: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.

Nếu như mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta bài học về sự hiệp nhất trong tình yêu, và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô ghi khắc vào tâm trí chúng ta hình ảnh sống động về một tình yêu tự hiến, thì mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay là một mẫu gương cho chúng ta về sự vâng phục.

Sự vâng phục của Đức Kitô:

Trước hết, đó là sự vâng phục của Đức Kitô. Đây là một sự vâng phục căn bản và nền tảng để nhờ đó công trình cứu độ được khởi đầu. Sự vâng phục này đã được thánh Phaolô tóm tắt rất hay trong một ca vãn gởi tín hữu thành Philip: “Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá!” (Pl 2, 6-8). Như thế, người con mà Đức Maria sắp sinh ra không những là con của Mẹ trong tư cách là một con người, nhưng còn là Con Thiên Chúa như lời thiên sứ truyền tin: “Đấng Bà sẽ sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Hay nói theo cách nói của phụng vụ qua các lời nguyện trong Thánh lễ hôm nay, thì người con đó vừa là”Thiên Chúa thật và là người thật”. Như thế, việc Nhập Thể của Ngôi Hai là kết quả một sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Con đối với Thánh ý Chúa Cha.

Đây không phải là một sự vâng phục miễn cưỡng nhưng là một sự vâng phục hoàn toàn trong tự do như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với các môn đệ tại bờ giếng Giacóp cũng đã tuyên bố: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34). Và tác giả thư Do thái còn khẳng định: chính nhờ sự vâng phục này, Đức Kitô trở thành một của lễ có giá trị tuyệt đối đến muôn đời trước mặt Thiên Chúa, tác giả viết: “nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ”. Vâng, Đức Kitô chỉ hiến dâng thân mình một lần là đủ đem lại ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ”của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiệu và của lễ đền tội, Chúa không muốn, cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật”.

Sự vâng phục của Đức Maria:

Kế đến là sự vâng phục của Đức Maria. Thật vậy, dù trọng tâm của ngày lễ hôm nay là việc Nhập Thể của Ngôi Hai, chúng ta cũng không thể không nói đến sự cộng tác tích cực của Đức Maria. Mẹ chính là”thiếu nữ Sion”, là”người trinh nữ”, người được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để làm Mẹ Con Thiên Chúa. Điều này được thánh sử Luca diễn tả cách khéo léo qua lời chào của sứ thần: ‘Kính chào Bà đầy ơn phước”. Bởi vì, theo bình thường, đúng ra sứ thần phải chào: “Kính chào bà Maria”, nhưng ở đây, tên Maria đã được thay bằng”đầy ơn phước”. Như thế, Mẹ đã được đổi tên, mà việc đổi tên trong Thánh Kinh là dấu chỉ cho thấy một người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt để làm công việc của Ngài. Hơn nữa ở đây, sứ thần còn thêm: “Thiên Chúa ở cùng Bà”. Mẹ được đầy ơn phước, vì luôn có Chúa ở cùng. Mẹ là”thiếu nữ Sion”được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân cũ là Israel để sinh ra Đấng Messia, khởi đầu cho một dân mới là Giáo Hội.

Mặc dù được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn từ đời đời, nhưng qua việc gởi sứ thần đến báo tin, cho thấy Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài chờ đợi nơi Mẹ một lời đáp trả trong tự do. Và Thiên Chúa đã không uổng công chờ đợi. Sau khi nghe lời giải thích của sứ thần: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”, mặc dù chưa hiểu hết Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhưng trong niềm tin, Mẹ đã cất lời thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền”. Mẹ đã thưa hai tiếng”Xin vâng”trong tư cách của một con người tự do. Và với lời thưa”xin vâng”này, Mẹ Maria đã gắn chặt cuộc đời mình với Con Thiên Chúa qua việc thụ thai. Mẹ xứng đáng với tước hiệu là”Đấng hiệp công cứu chuộc”.

Tóm lại, nhờ sự vâng phục của Ngôi Hai Thiên Chúa và Mẹ Maria, việc Nhập Thể đã được thực hiện. Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại, ở cùng nhân loại, để nhờ đó, con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa như lời chúng ta kêu xin trong lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để cứu độ loài người… Xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người”. Như thế, với mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa cách đó hơn 700 năm mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia: “Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Và chúng ta hôm nay:

Lắng nghe lời Chúa trong ngày mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay, mời gọi từng người chúng ta cũng biết sống tinh thần vâng phục như Đức Giêsu và Mẹ Maria đã sống khi xưa. Hai chữ”Xin vâng”mới nghe qua thật dễ, nhưng thực hiện lại không dễ chút nào. Nó đòi hỏi từng người chúng ta phải bỏ ý riêng, nghĩa là, từ bỏ chính con người mình,để thực hiện thánh ý Thiên Chúa.

Mặt khác, con người thời nay cũng thường bị dị ứng khi nói đến hai chữ”vâng phục”. Bởi lẽ, chúng ta thường nghĩ rằng, vâng phục làm mất tự do. Nhưng thực ra, chính khi vượt thắng những đam mê tội lỗi, và những dục vọng của bản thân, để sống vâng phục theo Thánh Ý Chúa, chúng ta mới thực sự là người tự do. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1731, 1733 khẳng định: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi”“ (SGL. 1733) (x. Ga 8, 34).

Đối tượng đầu tiên chúng ta cần vâng phục đó là Thiên Chúa. Chúng ta hãy can đảm tuân giữ các giới răn của Người, nhất là giới răn bác ái. Chúng ta hãy tuân giữ các giới răn không phải như một người nô lệ, nhưng như một phương thế để biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Kế đó, chúng ta hãy vâng phục cha mẹ, và những người hướng dẫn mình trong chân lý, để làm được việc đó, mỗi người chúng ta cần bỏ đi những tự ái, kiêu căng và cả những mặc cảm tự ti. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta xứng đáng đón Con Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể nhờ việc hiệp lễ. Rồi khi trở về nhà, chúng ta hãy can đảm sống những gì Chúa đã dạy bằng cách sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Sống được như vậy, chúng ta đã cùng với Mẹ Maria góp phần làm cho mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp tục kéo dài và trở nên hiện thực trong đời sống hàng ngày. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 27. Sự khiêm nhường của Thiên Chúa


--PM Cao Huy Hoàng

Thiên Chúa không chấp nhận Satan, và Satan luôn chống lại Thiên Chúa, vì Satan cực kỳ kiêu căng, còn Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường.

Tình yêu và đức khiêm nhường là sự thánh thiện hằng hữu của Thiên Chúa toàn năng, toàn ái, giàu có, chí thánh.

Biến cố Truyền Tin cho thấy tình yêu và lòng khiêm nhường vô cùng sâu thẳm của Thiên Chúa.

Thiên Chúa Cha, Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật, mà bằng lòng cúi mình xuống để”hỏi ý kiến”của một cô thôn nữ về việc có chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa làm người không. Với quyền năng của Ngài, chỉ cần Ngài phán một lời là xong đấy chứ! Nhưng không, Ngài trung thành giữ nguyên ý định ban đầu khi tạo dựng con người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (STK 1,26). Thiên Chúa tự do, và con người giống hình ảnh Ngài cũng được Ngài tôn trọng tự do đúng mức. Thiên Chúa quyền năng có thể sai Con của Ngài xuống thế không qua lòng dạ một con người, hoặc Ngài có thể đặt ngay Con của Ngài vào cung lòng Trinh Nữ Maria, nhưng Ngài đã không làm như thế. Việc”thỉnh ý một người phàm”vẫn luôn là quan trọng đối với Ngài, vì đó là bản tính khiêm tốn và là chương trình tình yêu của Ngài.

Thánh Luca trình bày rõ: “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1, 26).

Qua lời chào của Sứ Thần Thiên Chúa – có thể nói là tiếng nói chính thức của Thiên Chúa với một cô thôn nữ quê mùa – cho thấy, Thiên Chúa còn khiêm tốn hơn nữa..”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28). Thiên Chúa đã khen tặng Đức Maria là người đầy ơn phúc, mặc dầu Ngài biết, ơn phúc ấy của chính Ngài thương ban, ơn phúc ấy chính là”Thiên Chúa luôn ở cùng Bà”. Việc khen tặng, chúc tụng của Thiên Chúa dành cho Đức Maria, chắc chắn phát xuất từ chương trình và lòng yêu thương chân thành của Ngài. Lời chúc tụng của Thiên Chúa chân thật, không thể nói là đầu môi chót lưỡi giả dối như những lời khen tặng của loài người. Sự chân thật ấy minh chứng cho sự khiêm tốn của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa đáng chúc tụng, đáng tôn thờ trong khắp cả và thiên hạ lại chúc tụng một tạo vật của mình mang thân phận tơ liễu mong manh!

Cuộc hội đàm thiên địa trở nên ý vị hơn nữa, khi Thiên Chúa lắng nghe ý kiến của Đức Maria và khiêm tốn chịu khó giải thích ý định của Ngài với minh họa rõ nét, đầy sức thuyết phục:

-“Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

-“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

-“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Đúng là”đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được”. Và bằng cách khiêm tốn tự hạ rất thẳm sâu, Ngài đã làm được điều Ngài muốn nơi Mẹ Maria, là sự đồng ý để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể.”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

Mẹ Maria xin vâng để Chúa Thánh Thần thành sự ý định của Thiên Chúa. Lời xin vâng có tính trọn hảo, vì có thể nói, Mẹ Maria tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ không thể biết, và cũng không nhất thiết phải biết chuyện gì sẽ xảy đến với người con mà mình sẽ sinh ra. Một lời xin vâng khiêm tốn vì chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, để Thiên Chúa thực hiện chương trình Ngài, xin vâng không đặt điều kiện.

Từ ấy, Chúa Con xin vâng để nhập thể theo lệnh của Chúa Cha. Lòng khiêm tốn của Thiên Chúa Cha được thực hiện nơi Chúa Con – làm thai nhi con người thật trong lòng một người nữ. Là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, nhưng phải theo kế hoạch của Cha là”làm con người thật, con người sinh bởi lòng mẹ thế gian”.

Mừng lễ Mẹ Truyền Tin, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy là tình yêu và đức khiêm tốn luôn hằng hữu nơi Ngài. Sáng kiến của tình yêu cứu chuộc nơi Thiên Chúa là không kể đến sĩ diện, là từ bỏ ngôi vị, là tự hạ thẳm sâu. Tình yêu đáp lại tình yêu nơi Mẹ Maria là xin vâng tuyệt đối, là phó thác hoàn toàn.

Đức khiêm nhường của Trời và Đất gặp gỡ nhau trong ngày Truyền Tin, làm thành một cuộc hạnh ngộ cứu chuộc, khai sinh sức mạnh chiến thắng lòng kiêu căng của satan và tội lỗi.

Thiên Chúa vẫn trung thành kế hoạch cứu chuộc của Ngài. Ngài đang hỏi ý kiến bạn, hỏi ý kiến tôi về việc có bằng lòng để cho ơn cứu chuộc nhập thể. Ngài tôn trọng tự do của bạn, của tôi, nhưng vì yêu, Ngài đã khiêm tốn giải thích cặn kẻ bằng Lời Tin Mừng, bằng Lời đã hóa thành nhục thể, bằng Lời đã tự hạ thẳm sâu cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài muốn cứu chuộc bạn, cứu chuộc tôi. Ngài vẫn kiên trì hỏi ý kiến, giải thích…

Lạy Mẹ Maria, xin nguyện giúp cho chúng con ơn khiêm nhường sâu thẳm, để chúng con nhận ra rằng: chúng con cần ơn cứu chuộc, cần Chúa Giêsu Nhập Thể trong lòng. Xin cho chúng con lòng tin yêu phó thác để có thể thưa lời Xin Vâng như Mẹ: “Nầy tôi là tôi tá Chúa. Xin hãy thành sự trong tôi, như lời Sứ Thần truyền”.

------------------------------

 

Suy niệm 28. Này tôi là nữ tỳ của Chúa


--Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB

Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹvà xin cho được ‘Ở khiêm nhường’. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?

Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn.

Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người  đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nên Thân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ. Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lạicho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũng phú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay ‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữ không bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.

Sự đáp trả tự do.

Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng - Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phải chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đãhoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta: “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựa tự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách ‘Confessio’). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộc được thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trời ơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.

Thầy dạy đức tin.

Bà Elizabeth đã nói về Mẹ: “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì màThiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37).Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lýluận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹkhông phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạogiống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹlà thụ tạo toàn hảovì đã đặtniềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy(xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượngthai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá,hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọitín hữu.

Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi.

Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa,chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúalà cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôilà ai, chứ không phải muốn tôilàm gì. Chúa đã muốn Đức Mariatrở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹquyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khámphá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếuvào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.

Kết luận

Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắcgiăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiệnnhững gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng  trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy họclấy tư thế nội tâm giống như Mẹ đểluôn thưa lên: “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.

------------------------------

 

Suy niệm 29. Truyền Tin


--Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp

Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông đã đụng trần rồi hay chưa…

Ai nghĩ sao và có thêm những cố gắng gì hơn nữa…thì  không biết, nhưng bản thân người viết…thì nghĩ như thế đấy: về mặt tốc độ tin tức…thì khó có thể nhanh hơn được nữa…Những mặt khác và những tiện dụng khác…thì không dám nói, nhưng về mặt tốc độ…thì … là như thế…

Tuy nhiên “nhanh” … chưa hẳn là “tốt”…và nhanh không có nghĩa là thoát khỏi tình trạng “vấp phải đá” và “quàng phải giây” …

Đi đâu mà vội mà vàng

Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây (Ca dao)

Thú thật mỗi buổi sáng, cái  khoái của tuổi hưu là còn có thể lướt mạng, lang thang vùng này vùng khác với trăm ngàn những mẩu chuyện vui buồn ở mọi nơi và trong mọi lúc: những việc người ta làm, những điều người ta nói, những góc khuất ở đây đó…Cả đống rác rến truyền thông được quăng lên… Người viết may mắn lắm mới vớ được đôi ba mẩu chuyện đời đáng kể để làm vốn cho những bài viết của mình… Còn lại là những thứ để mà “xóa”…thế thôi…Nhưng vẫn phải lướt…vì không có gì buồn cho bằng tuổi hưu mà không có việc chi đó để mà làm…

Đừng nói đến cầu nguyện…Không ai cầu nguyện suốt cả ngày chứ đừng nói chi đến tuần, đến tháng, đến năm…

Đừng nói đến “đọc sách”…vì cũng chẳng can đảm lắm để mà đọc ngày này qua ngày khác: nào là bệnh mắt, nào là bệnh cột sống, nào là bệnh đau đầu…

Khoái trá vẫn là chuyện lướt mạng…và khoái  trá hơn nữa vẫn là chuyện còn đủ đầu óc để mà sàng, mà lọc hầu có thể gom lượm được đôi ba điều hay, điều tốt – hữu ích cho mình và có thể chia sẻ với người…

Cho nên – dù sao thì vẫn tạ ơn Thiên Chúa đã cho thế giới con người những bộ óc tìm tòi và cám ơn những sáng kiến cải thiện đời sống con người nơi những bộ óc đặc biệt – quý vị có thể là không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng chi  tiết và tỷ mỷ với hàng vạn, hàng ngàn những giây nhợ li ti trong não bộ của quý vị… để quý vị suy nghĩ, thử nghiệm…và chào hàng…Bản thân người viết…thì…vẫn hết sức khâm phục sự siêu việt của Thiên Chúa qua những công trình của con người…

Thế nhưng những người sử dụng thành quả của những bộ óc kiệt suất…thì lại quá tệ…

Cả những người có đầu óc…lẫn những cô cậu trẻ người non dạ…

Người ta nói đến thứ quyền lực thứ 4: quyền lực của truyền thông…Và khi đề cập đến quyền lực của truyền thông…thì người ta nghĩ ngay đến những “mặt trái” của thứ quyền lực này: lèo lái quần chúng cứng hay mềm theo ý mình muốn và mang lại lợi ích cho mình hay cho những người thuê mướn mình – nghĩa là ngòi bút bị bẻ cong…Bút viết thì hết thời rồi, nhưng bàn phím cũng là một thứ bút, bởi vì cũng hình thành những giòng chữ…

Lớp trẻ “tự sướng”…thì ưng chi nói nấy, nói bằng thứ ngôn ngữ mà những người ở tuổi của người viết phải mất cả giờ đoán già đoán non mới mò hết một hàng chữ viết của chúng…Và bản thân lớp trẻ “tự sướng” này cũng chẳng hiều chi về những kiểu nói, những cụm từ của thế hệ người lớn tuổi…Đã đôi ba lần người viết  được yêu cầu giải thích “gấp” về những cụm từ như Hội Nhập Văn Hóa, Phúc Âm Hóa, Tân Phúc Âm Hóa, Tái Phúc Âm Hóa…để kịp đi làm bài thi…Cho thấy không mấy người trẻ hiểu gì, và không hiểu – dĩ nhiên – cũng không sống…Mong rằng các đấng bậc có trách nhiệm quan tâm hơn về phương diện này: khi người ta không hiểu được ý nghĩa của các cụm từ thì người ta cũng sẽ mù tịt về sứ điệp mà cụm từ muốn trình bày…Mà mỗi cụm từ  chuyên biệt như trên – muôn rõ ràng – thì chí ít cũng ba bốn tiết học…chứ “gấp” chỉ là giải pháp vá đắp…

Đi đâu mà vội mà vàng

Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây

Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ vội vàng trong công việc của Người, vì Người trân trọng con người…

Giáo Hội mừng Lễ Truyền Tin và giới thiệu với con người mô-típ truyền tin của Thiên Chúa thực hiện với con người vì ơn cứu rỗi và hạnh phúc của con người…Chúng ta thấy được gì qua sự kiện Truyền Tin này?

Thứ nhất: Thiên Chúa cực kỳ kiên nhẫn khi chuẩn bị một tin quan trọng vào bậc nhất cho con người chúng ta – một sự kiên nhẫn trải dài suốt lịc sử của Cựu Ước, không phải vì Thiên Chúa, nhưng là vì con người và để cho con người được chuẩn bị đủ hầu có thể đón nhận tin vui ấy…Đây cũng là bài học cho những người làm công việc truyền tin: không phải cho mình và vì mình, nhưng là cho người và vì người…nên phải cẩn trọng, phải kiên nhẫn…

Thứ hai: Thiên Chúa tuyệt vời  trong thái độ trân trọng đối tượng được chọn để loan tin…Trong sự kiện là Đức Maria và – qua Đức Maria – là toàn thể nhân loại…Một cô bé chỉ khoảng độ trên dưới 16 tuổi, vô danh tiểu tốt trong một làng quê cũng chẳng có danh tiếng gì…Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy con người ấy, Thiên Chúa nhận ra khuôn mặt của nhân loại nơi con người ấy: một khuôn mặt đẹp và đáng để được  làm cho rạng rỡ hơn nữa…Thiên Chúa cũng muốn những người làm công tác truyền thông biết trân trọng đối tác mình nhắm tới và đưa ra những gì làm cho khuôn mặt nhân loại ngày càng rạng rỡ hơn…Bởi vì mỗi một con người là một tuyệt tác phẩm có một không hai của Tạo Hóa…Làm hư hoại đi thì quả thực là…không biết nói sao!!!

Thứ ba: người đưa tin là một “nhân vật” có uy tín và đáng tin cậy: trong sự kiện là sứ thần Ga-bri-el…Truyền tin thời @ là mạng…và trên mạng là những tin tức: thượng vàng hạ cám, thậm chí  dẫy đầy những thứ bẩn thỉu trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, bẩn thỉu cả trong lãnh vực thông thường lẫn địa chính trị của phe nhóm, của  chủ thuyết…Ông bạn lão thành “trà dư tửu hậu” với người viết một nhận định về những trùm quyền lực thế giới: bọn họ là những tay nghiện games không thua gì bọn trẻ!!! Nghĩa là cuộc thế sự được coi như một thứ  “Game Show”… Không lạ gì mà chỉ thấy lửa khói và chém giết khắp mặt đất dễ thương này…Buồn da diết ở chỗ phần đa số con người bị coi như những “đối tượng” phải tiêu diệt…để có được bàn thắng!!!

Thứ tư: Thiên Chúa tuyệt đối trân trọng chọn lựa của con người đứng trước đề nghị của Người…Không có chuyện áp đặt…Không có chuyện cưỡng bức…Thông tin của con người  khi được quăng lên một phương tiện truyền thông nào đó thì – nhiều hay ít – cũng có những “ý đồ” nhằm khuynh loát  đám đông…Đấy không phải là đường lối của Thiên Chúa và không là cách “ truyền thông” của Người…Dĩ nhiên không có thứ truyền thông nào trong thế giới con người mà không nhắm một mục đính, nhưng truyền thông có lương tâm buộc chúng ta cố gắng khách quan tối đa để trân trọng “đối tượng” của mình…Không phải mèo khen mèo dài đuôi, nhưng phải nói thẳng là những người tin Chúa làm truyền thông tương đối có nhân văn…Phải chăng cũng là nhờ Tin Mừng Chúa…

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô – trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội làn thứ 50 – ngày 24/10/2016 – có nói:

“Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp  cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn. Tôi cầu xin cho Năm Thánh này, khi được sống với lòng thương xót, “ giúp chúng ta cởi mở hơn trong đối thoại, để có thể hiểu biết và cảm thông nhau nhiều hơn…Mong sao Năm Thánh sẽ giải tỏa mọi thái độ khép kín và thiếu tôn trọng, cũng như loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” ( Misericordiae Vultus, 23). Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không  nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng…Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia.”

Và Ngài kết luận:

“Truyền thông – dù ở đâu và bằng cách nào – cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đấy là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh của truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót…có nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất.”

Nhân ngày lể kính sự kiện thiên sứ Ga-bri-el vâng lới Thiên Chúa đến gặp gỡ Đức Maria để thông báo và xin ý kiến Đức Maria về việc việc Thiên Chúa muốn chọn Ngài cộng tác với Thiên Chúa hầu phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho con người qua tạo dựng mới nơi Đức Ky-tô Thương Khó – Tử Nạn – Phục Sinh, xin được chia sẻ một đôi suy nghĩ về Truyền Thông.

------------------------------

 

Suy niệm 30. Đấng đầy ơn phúc


--P. Trần Đình Phan Tiến

“Kính chào bà, đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà!”. Nghe lời ấy, Đức Mẹ thật bối rối, vì trong lúc cầu nguyện, sứ thần hiện đến cùng Mẹ và thưa cùng. Thật vậy, lời chào ấy là một lời chào” trần đầy ân phúc”, bởi vì chưa có một thụ tạo nào cao quý, trọng vọng như Mẹ. Có thể nói từ cổ chí kim, vô tiền khoáng hậu, chưa có nhân vật nào được diễm phúc nhận lời chúc mừng của sứ thần như Mẹ. Vâng, chính Mẹ cũng lấy làm bối rối.Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, “ … Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Nhưng, Đức Mẹ càng ngạc nhiên hơn, vì: “ tôi không biết đến việc vợ chồng”. Vâng, chúng ta thấy sự đối đáp giữa sứ thần Gapriel và Đức Maria là một sự đối đáp rất “tự nhiên “ và chân thành. Vì, không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con?! vâng, một sự đối đáp rất hiển nhiên, không một chút do dự. Nhưng, sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (c 35).

Vâng, sự đối đáp giữa sứ Thần và Đức Trinh Nữ Maria đến đây được kết thúc, vì không còn gì để trao đổi nữa, sau khi sứ thần nói tiếp: “Kìa người chị họ của Trinh Nữ, người mà thiên hạ vẫn chê cười vì không có con, mà nay đã mang thai được sáu tháng. Vì, không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.(c 36 -37)

Vâng, bởi đâu, Đức Trinh Nữ Maria đạt được điều diễm phúc như vậy? Vâng, chúng ta suy tư về Mẹ nhé!

Thứ nhất: Đặc tính khiêm nhường thẳm sâu.

Bởi vì, Mẹ là một kiệt tác như được uốn nắn, gọt giũa, tô điểm, và trân quý nhất trong bàn tay Thiên Chúa, một thụ tạo thấp hèn, nhưng chiếm được “Thánh Ý “, nói cách khác là đẹp lòng Thiên Chúa. Đến đây chúng ta có thể hiểu được Mẹ HOÀN TOÀN không tỳ vết cả thể xác lẫm tâm hồn, Mẹ thánh khiết vẹn tuyền, mà các thánh ví như “bình pha lê” dưới ánh sáng mặt trời. tiếp đến Mẹ được Chúa Thánh Thần ban tràn ân sủng, và Ngôi Hai ngự xuống. Như vậy, cung lòng vẹn sạch không tỳ ố trước và sau khi nhận “TRUYỀN TIN “ của Mẹ thật là một “diễm phúc”, và như vậy, Giáo Hội tuyên tín Mẹ là ” ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TÔI” là như vậy.

Thứ Hai: Mau mắn tín trung vào Mầu Nhiệm Truyền Tin.

Do nhận được một đăc ân trọng đại là sự khiêm nhường thẳm sâu, Đức Trinh Nữ Maria như ngập tràn ân sủng bởi Trời cao. Linh hồn và thể xác của Mẹ hoàn toàn thánh thiện như pha lê trong suốt, vì vậy, Sự thánh thiện nầy, ngày nay, như người Kitô được sạch tội trọng và được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vậy. Và từ tận sâu thẳm tâm hồn Mẹ, Mẹ đã cất lên bài ca Ngợi Khen ( Magnificat) tuyệt vời vô song.

Thứ ba: Đáp lại và cộng tác vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa.

Vâng, Mẹ đã gánh vác trọng trách là Mẹ Đấng Cứu Chuộc, có nghĩa là Mẹ cưu mang và ôm trọn mầu nhiệm làm Người, đau khổ, Tử nạn và Phục Sinh của Con của Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vậy, Mẹ đã được kêu mời để trở nên một “thụ tạo” tuyệt hảo, tham dự vào công cuộc “khổ hình sinh ơn cứu độ” của Đức Kitô.

Như vậy, Mẹ mang lấy cuộc đời Chúa Cứu Thế không những phần nhân tính mà còn phần siêu nhiên của Chúa Giêsu, nếu không mầu nhiệm cứu độ không hoàn tất được. Và, những nỗi khổ đau cảu Mẹ, gọi là ”sầu bi” là những đau thương bởi cuộc đời Chúa Cứu Thế, và như thế, Mẹ được gọi là: “Người Nữ Thánh Thể”.

Vâng, Mẹ được diễm phúc vì Mẹ được đi trọn cuộc hành trình cứu độ tại thế trần của Ngôi Hai Thiên Chúa. Rõ ràng, từ giây phút nhập thể, là ngày Mẹ nhận ơn truyền tin, đến hành trình Nhập Thế, và kết thúc ngày Chúa Phục Sinh. Có thể nói, mầu nhiệm Mẹ nhận được ơn Truyền Tin, mà sứ thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc “ không phải hiểu như thế gian, mà là đước gắn liền với mầu nhiệm Làm Người, rao giảng, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.

Theo đó, hành trinh thiêng liêng của Đức Mẹ, ngày mà Mẹ nhận sứ vụ cưu mnag, sinh hạ Đấng Cứu Thế, ngày mà Mẹ được gọi là diễm phúc, không phải là ngày bắt đầu hưởng “ vinh hoa phú quý”., mà ngày mang lấy “trọng trách” Thập giá, và quả thật, Mầu Nhiệm thập giá nơi Mẹ thật “ âm thầm” nhưng không kém phần đau thương. Nỗi đau của một người Mẹ có một Người Con đền thay tội lỗi nhân gian là một nỗi đau “ khôn tả”, nhưng “TRÀN ĐẦY DIỄM PHÚC”.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người ơn cứu chuộc, nhưng Cha đã kêu mời những con người cách riêng như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Cả Giuse là người cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. Xin Cha thương ban cho những ai tiếp bước Người được nhờ lời chuyển cầu của Ba Đấng mà ban ơn cứu độ cho chúng con, và cho chúng con xứng đáng bước theo Người./. Amen.

 ------------------------------

 

Suy niệm 31. Đức tuân phục


--Trầm Thiên Thu

Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Lễ Truyền Tin nói lên điều đó. Đức tuân phụclà một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.

Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỉ Tínkhông chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin biếtSỐNG KHIÊM NHƯỜNG.

Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!

Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.

Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh”, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng kỳ diệu!

Từ ngàn xưa, Đức Chúa đãnóivới vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7:11). Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Đó là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.

Ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).

Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!

Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao? Đúng như thế!Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sựở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.

Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).Quả thật, im lặng là vàng!

Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:11). Đây cũng phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện,là đem Chúa đến với người khác để họ khả dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.

Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Vì vâng lời, cậu bé Sa-mu-en đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt” (1 Sm 3:18). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!

Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”.

Qua trình thuật Lc 1:26-38,Thánh sử Luca cho biết: Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.Nghe lời ấy, Thôn nữ Mariarất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.

E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC”.

Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi ngờ vàcũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).Một câu nói đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn.Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng “xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.

Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó.Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos).Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).

Lạy Thiên Chúatoàn năng,xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 32. Sứ điệp vĩ đại


--Trầm Thiên Thu

Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Lễ Truyền Tin là Sứ Điệp từ Thiên Chúa trao cho Đức Maria, là tin mừng, là hỷ tín, nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề.

Dù sợ, nhưng khi hiểu ra vấn đề, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không so đo, không tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, vàNgười đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14ab).

Trình thuật Is 7:10-14 ngắn gọn nhưng chứa một sứ điệp tuyệt vời. Ngày xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, vì có những lần chúng ta đã từng thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.

Ông I-sai-a đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.

Là thục nữ và được giáo dục đạo đức của Cha Mẹ – ông Gioakim và bà Anna, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ thánh thiện mà còn khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đãmở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Cả cuộc đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).

Vì khiêm nhường mà người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng lắm, và luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Thánh Phaolô chứng minh và đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).

Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễxá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.

Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng.

Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, dâng lễ đền tội cho chính mình và cho người khác.

Thánh sử Luca cho biết về việc Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Sự kiện này chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứthần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Rất rõ ràng các chi tiết!

Cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng có vẻ rất tự nhiên, như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.

Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối vì “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Lạ thế nhỉ! Nhưng Sứ thần liền nói một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chịđẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽrợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bịmang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳcủa Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.

Xin vâng là tuân phục Thánh Ý Chúa, dù biết rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), nhưng chắc chắn không là điều dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.

Xin tạ ơn Thiên Chúa, vì thương xót nhân loại mà Ngài lập Kế Hoạch Cứu Độ rất kỳ diệu. Xin cảm ơn Đức Maria, nhờ lời xin vâng của Mẹ mà chúng con diễm phúc được Chúa Giêsu đến ở cùng và chia sẻ vui buồn với chúng con, đồng thời chúng con cũng được làm con cái Mẹ.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh ÝNgài, xin giúp chúng con luôn can đảm “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

 ------------------------------

 

Suy niệm 33. Xin vâng như Mẹ Maria


--J.B Lê Đình Nam

Đối với một người phụ nữ, khoảnh khắc làm mẹ thật cao cả và thiêng liêng. Hạnh phúc biết bao trong giây phút đầu tiên cưu mang trong cung lòng đứa con của mình. Tuy nhiên hoàn cảnh làm mẹ đến với Mẹ Maria theo cách rất đặc biệt. Hành trình làm mẹ của Mẹ Maria đến trong một khung cảnh vừa kỳ lạ nhưng cũng thật đơn sơ, vừa bất ngờ nhưng lại rất thánh thiêng và sâu sắc.

Lời Chúa trong ngày lễ Truyền tin đưa chúng ta đến một viễn cảnh thật thiêng liêng trong giây phút làm mẹ của Đức Maria. Đó là một hành trình thật cao cả và tuyệt vời. Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.

Nếu không có lòng quảng đại thì Mẹ đã khước từ đau khổ của bóng thập giá ngay từ giây phút truyền tin.

Nếu không có một đức tin mạnh mẽ thì Mẹ không thể đủ can đảm để đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt trên hiểu biết của con người.

Nếu không tín thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa thì Mẹ đã không đáp lời xin vâng trước biến cố quá lớn lao ấy.

Mẹ xin vâng cho dẫu Mẹ chưa hiểu. Mẹ xin vâng cho dẫu phải đối diện với nguy nan. Lời xin vâng khiêm hạ nhưng chứa chất một sự cậy trông lớn lao. Mẹ tin tưởng phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đã tuyển chọn Mẹ. Lời thưa xin vâng ấy đã đưa Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của mỗi người chúng ta.

Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.

Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những  nặng nề của thể xác dằn vặt.

Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.

Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.

Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế. Có Mẹ chúng ta sẽ vượt qua được mọi thăng trầm của trên dòng đời lắm nổi trôi hôm nay, để một ngày không xa chúng ta sẽ cùng Mẹ chung hưởng vinh phúc trên Nước Trời.

------------------------------

 

Suy niệm 34. Lễ Truyền Tin


--Lm. Anthony Trung Thành

Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Vì yêu thương nên Ngài đã đặt con người sống trong vườn Địa Đàng với biết bao ân huệ. Thế nhưng, con người nghe theo lời xúi giục của ma quỷ đã sa ngã phạm tội, nên bị Thiên Chúa tước mất mọi ân sủng, đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.

Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người. Ngài đã nói với con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ, Người Nữ sẽ đạp giập đầu mày” (St 3,15).

Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Thiên Thần đến gặp Đức Mẹ và loan báo ý định của Ngài. Sau khi nghe Thiên Thần loan báo, Đức Mẹ bối rối vì không hiểu lời Thiên Thần, hay nói đúng hơn, Đức Mẹ phân vân giữa chức vụ làm mẹ Thiên Chúa và việc giữ mình đồng trinh, nên Mẹ thưa với Thiên Thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thiên Thần đã giải thích cho mẹ biết, việc Mẹ thụ thai và sinh con là do Chúa Thánh Thần. Để thuyết phục Đức Mẹ, Thiên Thần còn đưa ra dẫn chứng về việc thụ thai trong tuổi già của bà Êlizabet cách đây 6 tháng. Cuối cùng Thiên Thần kết luận: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

Sau khi nghe Thiên Thần giải thích, Đức Mẹ đã thưa xin vâng: “Này tôi là tôi tới Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1,38). Nhờ tiếng thưa “Xin Vâng” của Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thể Làm Người, lịch sử Cứu Độ đã bắt đầu sang trang và biến Mẹ từ một thiếu nữ Do thái trở thành Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Khi nói về tầm quan trọng hai tiếng xin vâng của Mẹ, công đồng Vatican II đã lặp lại lời của các Giáo Phụ xưa rằng: Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (x. Lumen gentium, số 56). Thánh Bênađô thì kêu lên rằng: “Ôi trinh nữ, Adam đang khóc lóc cầu khẩn Mẹ trả lời, Đavit cũng khẩn cầu, các tổ phụ cũng không ngớt nài xin. Câu trả lời ấy cả thế giới này đang phủ phục dưới chân Mẹ và chờ đợi nó. Bởi việc giải thoát cho những ai đang đau khổ, chuộc lại kẻ giam cầm, trả tự do cho người bị kết án và sau cùng là phần rỗi của mọi con cái Adam, của toàn thể dòng dõi Mẹ đều tùy thuộc vào lời thưa của Mẹ”.

Đối với Mẹ, để thưa xin vâng, Mẹ phải chấp nhận hy sinh, hy sinh vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhân loại. Lời thưa xin vâng của Mẹ, thể hiện sự phó thác tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Bởi vì, lời thưa xin vâng không chỉ thực hiện trong biến cố truyền tin mà còn kéo dài trong suốt cuộc sống của Mẹ. Sau biến cố truyền tin là cả hành trình dài đầy gian nan đau khổ. Từ việc bị Thánh Giuse hiểu nhầm, đến việc sinh con trong hang đá nghèo hèn, lạnh lẽo. Việc bà Anna loan báo về sự đau khổ của Hài Nhi khi Mẹ đưa Chúa Giêsu dâng trong đền thờ. Việc đưa con trốn sang Ai cập khỏi Hêrôđê lùng bắt. Suốt ba mươi năm tại làng quê Nazaret, Mẹ sống âm thầm cùng với Thánh Giuse nuôi Chúa Giêsu khôn lớn. Sau đó, Mẹ đã đồng hành với con suốt ba năm trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Đặc biệt, khi Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của con mình trên thập giá… Qua những biến cố đau thương như vậy, để thưa xin vâng, Mẹ phải có một niềm phó thác và một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Chính bà Êlizabeth đã xác nhận điều đó khi nói với Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Như vậy, để cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu rỗi nhân loại, Mẹ Maria đã thực hiện lời xin vâng một cách trọn vẹn bằng cả cuộc sống.

Đối với chúng ta hôm nay, sự vâng lời luôn luôn cần thiết: Người dưới vâng lời người trên, con cái vâng lời cha mẹ, học sinh vâng lời thầy cô, vợ chồng lắng nghe nhau… Đó không chỉ là nét đẹp của cuộc sống hằng ngày và để gia đình, xã hội có tôn ti trật tự mà còn là điều kiện để gia đình hạnh phúc và xã hội bình yên. Chúng ta thử hình dung: Nếu trong một gia đình mà con cái không vâng lời cha mẹ, vợ chồng không biết lắng nghe nhau; ở nhà trường, học sinh không vâng lời thầy cô; xã hội không có trên dưới… thì gia đình, nhà trường, xã hội đó sẽ như thế nào? Thực tế cho chúng ta thấy, vì không biết vâng lời cho nên con cái hư hỏng, trò đánh thầy, hỗn loạn nhiều nơi trong xã hội chúng ta đang sống.

Trong lĩnh vực tôn giáo, “Đức Vâng Lời” lại còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đức vâng lời được thể hiện qua việc lắng nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa qua Lời Chúa và các giới răn. Thực hành lời Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa một cách trọn vẹn là chúng ta đang giữ nhân đức vâng lời.
Đức vâng lời còn được thể hiện qua việc vâng nghe sự dạy bảo của các vị bề trên coi sóc linh hồn chúng ta. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục hay cha mẹ anh chị của chúng ta. Đối với các cộng đoàn dòng tu, vâng lời các vị bề trên không chỉ là nhân đức mà còn thực hiện một trong ba lời khấn.

Việc tuân giữ đức vâng lời không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi không hiểu ý bề trên (như trường hợp của Đức Mẹ) hay khi sự vâng lời đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, thậm chí là phải đổ máu (như trường hợp các thánh tử đạo). Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng luôn và trong mọi hoàn cảnh hãy thưa với Thiên Chúa như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

Nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, nhân loại đã bước sang một trang sử mới là trang sử Cứu Thế. Ngày hôm nay, để viết lên những trang sử đẹp, rất cần nhiều tiếng thưa xin vâng trong gia đình, Giáo Hội và xã hội. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta biết noi gương Mẹ, chấp nhận hy sinh để luôn thưa xin vâng trong những điều đẹp ý Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 35. Lễ Truyền Tin


--Mỗi ngày một tin vui

Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà". Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.

Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môisen hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.

Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.

Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ Maria ngày xưa.

Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi suy niệm về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.

---------------------------------

 

Suy niệm 36. Xin Vâng


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Chín, SVD

Ngày hôm nay Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng, làm biến đổi toàn thể nhân loại và mở ra một chương mới trong lịch sử cứu độ, đó là biến cốthiên thần báo tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng kể lại: sự kiện truyền tin xảy ra tại làng Nadarét, thuộc miền Galilê, nước Do Thái. Sứ Thần Gáprien được Thiên Chúa sai đi, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria. Lúc đó, Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse, nhưng chưa chung sống.

Sứ thần báo cho Đức Maria biết một tin vui rất trọng đại: Thiên Chúa muốn Đức Maria làm mẹ Đấng Cứu Thế. Sau phút giây do dự, suy nghĩ và tìm hiểu, Đức Maria tin rằng đây là thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ an tâm mà thưa tiếng “xin vâng”: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói”(Lc 1,38).

Truyền tin mầu nhiệm nhập thể

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện sứ thần Gáprien truyền tin cho Đức Maria. Tiếng “xin vâng” của Mẹ đã đưa Mẹ đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thánh Luca tường thuật một cách nhẹ nhàng, gây một niềm vui khôn tả: và đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng Tối Cao.

Sự kiện trọng đại này đã được tóm tắt thành Kinh Truyền Tinmà các Kitô hữu đạo đức vẫn đọc lên hàng ngày: “Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin cho rất thánh Đức Bà Maria, và rất thánh Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời. Tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền”. Lời kinh ngắn gọn, nhưng gói gém toàn bộ chân lý đức tin của Kitô giáo. Vì thế, khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô mà còn nguyện xin ơn được thông hiệp vào mầu nhiệm ấy nữa.

Qua biến cố truyền tin, Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người và ở cùng chúng ta, để cứu độ chúng ta. Vì thế, trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng niềm tin về biến cố này như sau: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã xuống thế làm người…”. Để có thể cứu độ con người, Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận thân phận thấp hèn của con người, để từ đó nâng phẩm giá con người lên.

Đức Maria đón nhận mầu nhiệm

Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Mẹ đã lắng nghe Thiên Thần đưa tin, rồi tìm hiểu trước khi đón nhận một cách khiêm tốn. Thật vậy, Mẹ đã chất vấn sứ thần Gáprien: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Sau khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã chấp nhận với một tâm hồn cởi mở, tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mẹ quả thật là người biết lắng nghe lời Chúa và cất giữ những lời ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng. Đồng thời, Mẹ đã nói lên tiếng thưa “xin vâng” trong niềm tín thác, biểu lộ một đức tin và lòng tuân phục chân thành.

Vì thế, đối với Đức Maria, chức làm mẹ thuần túy chưa phải là niềm vinh dự lớn lao nhất, mà là niềm tín thác mẹ đặt nơi Chúa, như lời thánh Augustinô đã dạy:“Đức Maria có đức tin vào Đức Kitô hơn là vì Mẹ cưu mang nhục thể Đức Kitô… mối quan hệ mẫu tử của Mẹ có thể chẳng ích lợi gì đối với Mẹ nếu Mẹ chẳng vui sướng cưu mang Đức Giêsu trong trái tim hơn là trong dạ Mẹ. Mẹ đã thụ thai Đức Kitô trong đức tin trước khi Mẹ thụ thai Ngài trong dạ…Chính qua đức tin, Mẹ đã sinh hạ Ngài”.

Chính vì vậy, Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội gọi Đức Maria là mẫu gương phi phàm cho Giáo Hội trong đức tin và đức mến. Di sản ngàn đời của Mẹ để lại cho chúng ta là đức tin và đức mến. Đức tin phải có một địa chỉ đi về đó là đức ái. Mà đức ái là việc lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.

Đến lượt chúng ta

Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào cảm nghiệm được hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ. Nhờ việc sùng kính Đức Mẹ cách sốt sắng, đặc biệt noi gương Mẹ nói tiếng “xin vâng” để chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta sẽ đón nhận nhiều ơn lành qua tay Đức Mẹ. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, chúng ta là con người yếu đuối và tội lỗi, nênchúng ta không xứng đáng đón nhận nguồn ân sủng nơi Ngài. Vậy nên chúng ta cần có Mẹ như là chiếc cầu nối để chuyển thông ân sủng cho chúng ta. Như thánh Bênađô đã nói: “Tội nhân ạ, chính vì bạn không xứng nhận ơn Chúa, mà Chúa đã ban mọi ơn cho Mẹ, để bạn đến nhận lấy từ tay Mẹ”.

Chuyện kể rằng: một hôm có hai mẹ con được vào diện kiến nhà Vua. Nhà Vua đã bảo người hầu đưa ra rất nhiều kẹo. Rồi nhà vua bảo đứa bé ngửa bàn tay ra và nói: “Bây giờ trẫm chỉ cho con vừa đủ trong hai bàn tay thôi”. Khi đó, đứa bé rất khôn ngoan đã nói rằng: “Thưa Đức Vua, vậy thì con sẽ nhờ mẹ của con lấy dùm, vì bàn tay của mẹ to hơn”. Nhà vua đã khen đứa bé khôn ngoan và đã thưởng cho nhiều kẹo và những phần thưởng có giá trị khác.

Trong cuộc sống đức tin của chúng ta hôm nay cũng thế, nếu chúng ta biết tin tưởng, sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, thì Đức Mẹ sẽ che chở, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, và chúng ta sẽ nhận được rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Chúng ta có rất nhiều hy vọng vì Đức Mẹ rất thương yêu và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Thánh Bênađô đã nói: “Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”. Với niềm hy vọng đó, những khi gặp khó khăn thử thách, đau khổ, chúng ta hãy đến với mẹ và cùng với Đức Mẹ hát lên bài ca xin vâng: Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng”.

---------------------------------

 

Suy niệm 37. Đón nhận quà tặng của Thiên Chúa


--Lm. Đỗ Đức Trí

Vào các dịp sinh nhật hoặc các dịp đặc biệt chúng ta thường có thói quen tặng người thân những món quà và đồng thời cũng đã từng nhận được những món quà dễ thương. Tặng quà là thể hiện tấm lòng yêu thương quý mến của người tặng dành cho người nhận, qua món quà người trao như muốn trao tặng tình cảm và cả con người mình cho người nhận. Còn người nhận khi đón nhận món quà thường rất vui không phải vì giá trị của món quà, mà vì thấy rằng mình có một vị trí đặc biệt trong trái tim của người tặng. Tuy nhiên ngày nay với thời buổi con người đáng giá tình cảm của nhau trên thang giá trị vật chất, và lối suy nghĩ thực dụng đã khiến việc trao tặng và nhận quà bị mất đi vẻ đẹp và ý nghĩa ban đầu, nhiều người đã đánh giá tình cảm của nhau theo giá trị của món quà hơn là tấm lòng và tình yêu thương của người trao.

Hôm nay mừng lễ Đức Mariia được truyền tin, chúng ta nhận ra tấm lòng của Thiên Chúa khi trao tặng cho nhân loại một món qua vô giá là Đức Giêsu Con của Ngài, và Trinh nữ Maria là người đại diện đã đón nhận với một sự trân trọng cung kính và khiêm tốn.

Bài đọc một cho thấy vợ chồng vua Akhat đã từ chối đón nhận món quà của Thiên Chúa. Lúc đó nhà vua không có con trai nối dòng, vua và hoàng hậu lại sa đà vào lối sống của dân ngoại, chay theo việc cúng bái thần Baal. Nhà vua đã lập đàn cúng bái để xin có con nối dõi, trước việc làm sai trái và gây gương xấu này, tiên tri Isai đã cảnh cáo nhà vua và nói với nhà vua: Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi ban cho một dấu dưới âm phủ hoặc trên chốn trời cao. Nhưng vua Akhat đã nhất mực không xin Chúa, ông lấy lý do là không dám thử thách Thiên Chúa.

Trước sự cứng đầu của vua Akhat, tiên tri Isai đã nói, dù vua không xin thì Thiên Chúa cũng sẽ cho một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên Người là Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lời tiên báo này thật lạ lùng: Một trinh nữ sẽ mang thai. Điều này vượt quá sức tưởng tượng của con người, tuy nhiên đó không phải lá điều khó khăn đối với Thiên Chúa.

Đến thời đã định, Thiên Chúa đã thực hiện lời tiên báo này và cô trinh nữ được tuyển chọn để đón nhận lời hứa, đón nhận món quà đặc biệt này chính là Đức trinh nữ Maria. Câu chuyện trong Tin Mừng cho thấy, với sự tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa đã cho sứ thần Gabriel đến để hỏi ý kiến Đức Maria. Thiên thần vào nhà Đức maria và chào rằng kính chào bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà. Lời chào hết sức trân trọng và lạ lùng khiến cho Đức Maria bối rối vì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng thiên thần đã trấn an và giải thích: Maria Đừng sợ, này đây nàng sẽ mang thai và sinh hạ một con trai… Con Trẻ sẽ được gọi là con Đấng tối Cao. Một món quà hết sực bất ngời và hết sức lớn lao, Maria cảm thấy mình nhỏ bé thấp kém trước quyền năng của Thiên Chúa. Maria cũng chẳng hiểu thế nào là: Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bà .. Đấng thánh bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Mặc dù không thể hình dung điều gì sắp xãy ra cho mình, nhưng với lòng khiêm tốn và biết ơn, Maria đã thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.

Khác với sự kiêu ngạo của Eva ngày xưa, và khác với sự cứng lòng của vợ chồng vua Akhát, Đức Maria đã trở thành người phụ nữ đại diện cho cả nhân loại ngoan ngoãn, khiêm tốn cúi đầu, để đón nhận món quà tình yêu của Thiên Chúa, Mẹ thưa tiếng xin vâng để trao phó trọn cuộc đời mình cho chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đo là chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa và đã chuẩn bị từ ngàn xưa.

Với lời Thưa vâng này, Đức Maria đã mở rộng tâm hồn để cho Ngôi Hai Con Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình, và qua Mẹ Ngài bước vào thế giới này và Mẹ trở thành một cộng tác viên nhiệt thành, trung tín của Người trong chương trình mà Thiên Chúa Cha đã thực hiện. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, và Đức Giêsu chính là món quà của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại. Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhật trút bỏ vinh quang, để mang lấy thân phận con người trở nên giống phàm nhân để cứu chuộc nhân loại chúng ta.

Chúa Giêsu đã không đến trần gian bằng một cách thức nào khác, mà đã đến trong thân phận của con người, đầu thai trong cung lòng của một người trinh nữ. Là Đấng tạo dựng muôn loài, giờ đây, Đức Giêsu lại chấp nhận mang thân phận của tạo vật và còn làm con của con người. Với sự hạ mình thẳm sâu và vâng phục hoàn toàn như thế, Đức Giêsu đã trở thành một người con hiếu thảo của Chúa Cha. Điều mà mọi người cha mong đợi đó là sự ngoan ngoãn vâng lời của con cái, thì cũng vậy Thiên Chúa vui lòng đón nhận sư ngoan ngoãn vâng lời của Đức Giêsu con của Ngài, chấp nhận mang thân phận thụ tạo, và còn vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.

Mừng lễ Đức Maria được truyền tin hôm nay, chúng ta cảm tạ và khâm phục tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một Thiên Chúa trung thành với lời đã hứa, trung thành với tình yêu dành cho con người. Con người có là chi, vũ trụ này có là gì trước mặt Thiên Chúa, thế mà Ngài chấp nhận đánh đổi con của Ngài, trao tặng người con ấy cho trần gian.

Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa đã thương cho Đức Maria được cộng tác vào trong chương trình lớn lao này của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho con người cộng tác vào công việc của Ngài, và Đức Maria đã cộng tác hết mình với công việc lớn lao này. Thiên Chúa đã vô cùng quảng đại đã trả lại cho Mẹ bằng nhiều đặc ân vô cùng cao trọng mà không ai trong nhân loại có được những đặc ân ấy.

Cùng với tiếng xin vâng của Đức Maria, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta, sử dụng chúng ta cho chương trình cứu chuộc của Ngài. Sẵn sàng dâng trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa đang muốn chúng ta cộng tác với Ngài để đem Đức Giêsu đến trong gia đình trong xóm ngõ và mọi môi trường sống của chúng ta. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 38. Nữ tỳ của Chúa


Đức Maria vừa được sứ thần Chúa đến báo tin là được chọn làm Mẹ Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và sau khi đã nghe sứ thần giải đáp những điều còn thắc mắc, Mẹ chỉ vắn tắt thưa cùng sứ thần: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.

Là Mẹ của con Thiên Chúa, tức là Mẹ của Thiên Chúa, nhưng Đức Maria vẫn chỉ coi mình là nữ tỳ. Cũng như Đức Kitô, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng cũng khẳng định là mình đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người. Nói cách khác, tuy thực sự là Thầy và là Chúa, nhưng Đức Kitô muốn sống giữa anh em nhân loại của mình như một người tôi tớ chứ không như một ông chủ. Và Ngài cũng muốn cho cộng đoàn Dân Chúa, mà Ngài lập ra, phải luôn tôn trọng nguyên tắc Ngài đã ấn định: Vua Chúa các dân thì lấy quyền mà thống trị và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em thì phải nên  người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.

Trong xã hội phong kiến ngày xưa, vua quan được coi như cha mẹ của dân: dân chi phụ mẫu. Ngày nay, tuy phần lớn các quốc gia đã trở thành dân chủ và nhiều người lãnh đạo chính quyền vẫn tự xưng mình là "công bộc", là "đầy tớ”của nhân dân. Nhưng trong thực tế, thì chỉ thấy người ta đón tiếp, chào hỏi long trọng và hết lòng phục vụ các người đầy tớ ấy, mà chẳng ai đón tiếp, chào hỏi người dân, nhất là những người nghèo và những kẻ làm tôi thực sự.

Còn Đức Maria và Chúa Giêsu thì vẫn trước sau như một. Chỉ biết sống vì mọi người và cho mọi người, hay nói cách khác, lấy sự phục vụ mọi người làm phương châm. Chúa Giêsu thì chủ tâm thực hiện sứ vụ người tôi tớ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã phác hoạ, còn Mẹ Maria thì chỉ thích sống như một người nữ tỳ của Chúa.

Giáo Hội, một mặt là nhiệm thể Đức Kitô, một mặt cũng là hình ảnh nối tiếp của Đức Maria, nên cũng phải thể hiện vai trò làm tôi tớ và nữ tỳ của Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, người mẹ nào cũng trước hết làm mẹ, làm tôi tớ rồi mới làm thầy dạy con cái mình. Con càng nhỏ dại, mẹ càng phải vất vả hầu hạ và nhất là con càng đau yếu, thì mẹ càng pảhi chăm sóc tận tình. Giữa chức vụ làm mẹ và làm thầy thì có bổn phận làm tôi tớ. Người ta phải yêu mến cha mẹ, phải sống trọn chữ hiếu. Người ta phải tôn kính thầy mình. Nhưng không ai có bổn phận phải biết ơn tôi tớ. Trái lại kẻ làm tôi thường bị khinh rẻ và cư xử bất công. Người ta đã bất công như thế nào đối với Chúa Giêsu chỉ vì Ngài đã không dùng quyền năng để áp đặt trên họ một quyền thống trị, mà lại chỉ muốn hầu huyện mọi người như tôi tớ. Vậy nếu ngày hôm nay Giáo Hội có bị coi thường, bị ngược đãi, thậm chí có bị bách hại, thì âu cũng là lẽ thường, bởi chính Đức Kitô cũng đã từng bị ngược đãi và bị giết. Cũng chính Người đã báo trước cho các môn đệ biết trước số phận đang chờ đón họ. Thà chúng ta tự coi mình như những đầy tớ vô dụng, làm tất cả những gì Chúa dạy phải làm, rồi sau đó có bị quên ơn, ngược đãi, còn hơn là tự tôn mình làm thầy, làm chúa thiên hạ, rồi sau bị người ta nguyền rủa và lên án: Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chính vì chỉ muốn làm nữ ty của Chúa, nên Đức Maria đã được chọn làm Mẹ Thiên Chúa và được mọi đời khen ngợi là người diễm phúc.

---------------------------------

 

Suy niệm 39. Từ lúc Mẹ nói lời ’’Xin Vâng’’


--Huệ Minh

Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.

Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.

Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.

Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.

Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.

Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.

Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.

Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.

Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.

Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.

Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.

Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.

Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.

Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.

Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu: tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.

Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.

Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.

Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.

-------------------------------

 

Thứ 3:

Ðược Sống Muôn Ðời.
Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh.
"Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".

 

Lời Chúa: Ga 3, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Ai tin được sống muôn đời


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Con người hôm nay vừa bị hấp dẫn bởi cái chết,
vừa bị lôi kéo bởi cuộc sống đời này.
Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi thoải mái.
Nó mời chúng ta hưởng thụ, mua sắm, tiêu dùng.
Luôn luôn xuất hiện những mẫu mã mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn.
Con người vất vả làm việc để có thể mua được món hàng do mình chế tạo.
Cuộc sống vừa dễ chịu hơn, vừa mệt mỏi hơn bởi vô số những nhu cầu.
Con người hôm nay có hạnh phúc hơn xưa không?
Những thức ăn trần thế có đủ làm con người mãn nguyện không?
Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này,
nhưng họ hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó.
Như Đức Giêsu, họ cũng phải đi qua cuộc sống đời này,
nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố,
trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.
Thiên đàng, Nước Thiên Chúa hay sự sống vĩnh cửu
là những từ diễn tả hạnh phúc đang chờ đợi người Kitô hữu sau cái chết.
Họ biết mình từ đâu đến và biết mình sẽ đi đâu.
Họ biết phân biệt những ga xép với đích đến cuối cùng.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu khẳng định
chẳng ai được vào Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi Thần Khí.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khẳng định:
“Ai tin vào Con Người thì có sự sống vĩnh cửu” (c.15).
Vào Nước Thiên Chúa đồng nghĩa với có sự sống vĩnh cửu.
Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc để ai nhìn lên thì được khỏi,
Con Người cũng phải được giương cao để ai tin thì được sự sống vĩnh cửu.
Sự sống vĩnh cửu là hoa quả của mầu nhiệm được giương cao.
Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá,
được giương cao khi được Cha phục sinh,
và được giương cao khi được Cha đưa về trời.
Chính vì Đức Giêsu bị đóng đinh, được phục sinh và về trời
nên chúng ta được sinh lại từ trên nhờ Thần Khí,
được vào Nước Thiên Chúa và có sự sống vĩnh cửu.
Kitô hữu là người đang trên đường về quê hương đích thật.
Đấng từ trời xuống nay đã lên trời (c. 13),
và lôi kéo chúng ta lên với Ngài (Ga 12, 32).
Làm thế nào chúng ta thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất?
Làm thế nào chúng ta sống nhẹ nhàng hơn để kéo thế giới quanh ta bay lên?
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Sống theo Thần Khí tự do


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Ki-tô Phục sinh không còn thuộc thế giới phàm trần. Không có gì ngăn chặn được Người. Ngôi mộ có phiến đá to không thể nhốt kín Người. Cửa nhà đóng chặt không ngăn chặn được Người. Vì Người đã trở về thượng giới.

Người ra đi mở đường cho ta. Người được treo lên cũng kéo ta lên với Người. Những ai tin vào Người sẽ được sinh lại trong Thần Khí vào một đời sống mới. Đời sống thượng giới. Đời sống tự do.

Ta có thể đoán trước đường đi nước bước của người phàm. Nhưng ta không biết được đường đi của Thần Khí. Đó là đường đi của gió. Không ai biết gió từ đâu, đi đâu. Cũng thế ta không đoán được đường đi của những người sống theo Thần Khí tự do.

Những tín hữu đầu tiên sống theo Thần Khí tự do. Nên có những suy nghĩ và hành động khác thói trần gian. Không bị vật chất ràng buộc nên họ bán hết nhà cửa đem tiền đặt dưới chân các tông đồ. Không bị ý riêng, tự ái cá nhân ràng buộc nên họ sống hài hòa với nhau, một lòng một ý. Không còn bị thói đời trói buộc. Họ đã bay lên thế giới thần linh. Họ đã thuộc về thượng giới. Trái tim họ hoàn toàn trong sạch. Sống theo Thần Khí, họ là những con người hoàn toàn tự do.

Thật nghịch lý. Khi bon chen chỉ biết vun quén cho mình sẽ rơi vào nghèo nàn, tàn lụi. Khi quên mình, quảng đại cho đi, lại trở nên phong phú và làm cho cộng đoàn phát triển. Vì họ không còn sống cho đời tạm chóng qua. Họ sống cho sự sống đời đời.

Chúng ta đang sống trong một thời đại tục hóa. Thói trần gian xâm nhập vào những nơi linh thiêng nhất. Xâm nhập cả vào não trạng, vào những ước muốn thâm sâu trong con người. Vì thế ta bị ràng buộc, mất tự do.

Ta hãy thoát khỏi những ràng buộc của não trạng trần tục. Được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Được trở nên như gió. Được Chúa Giê-su trên thánh giá kéo ta lên. Để chúng ta được tự do. Để chúng ta được thuộc về thượng giới. Để chúng ta làm chứng cho Nước Trời.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðược Sống Muôn Ðời


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chúng ta chiêm ngắm hai vị thầy gặp nhau trong đêm thanh vắng để trao đổi điều quan trọng mà không bị phiền phức. Ông Nicôđêmô là vị thầy của người Do Thái, một nhà thông thái muốn biết nhiều hơn nữa về Chúa Giêsu và ông đã nhìn nhận như Người đến từ Thiên Chúa, và nhất là có Thiên Chúa ở cùng, vì những dấu lạ được thực hiện, những dấu lạ chưa có ai làm được như vậy.

Ông Nicôđêmô là vị thầy trên trần gian này, còn Chúa Giêsu là vị Thầy từ trên cao xuống, từ cung lòng Thiên Chúa Cha mà đến: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống". Hơn nữa, Chúa Giêsu còn xác nhận cho ông Nicôđêmô rằng: "Thật, tôi bảo thật ông. Chúng tôi nói những điều chúng tôi đã thấy", đó là uy tín của Chúa Giêsu Kitô, vị Thầy đến từ Thiên Chúa Cha. Lời quả quyết của Chúa với ông Nicôđêmô làm cho chúng ta nhớ lại lời quả quyết nơi đầu sách Phúc Âm theo thánh Gioan như sau: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1,18).

Ông Nicôđêmô đến với Chúa Giêsu với khả năng trí khôn của ông, muốn hiểu biết sự thật. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi ông làm một điều khác. Ðừng ỷ lại vào khả năng trí khôn của mình nữa mà hãy nhờ đến sức mạnh từ trên cao của Chúa Thánh Thần. Ông phải sinh ra lại và sinh ra từ ơn trên và tin vào Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. Như con rắn của Môisen, Con Người cũng sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."

Ðược sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Chúa Giêsu không ngừng mời gọi nơi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết những việc trên trời. Xin hãy nói cho con biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người. Xin hãy tái sinh con trong Thánh Thần cho con được trở nên Thánh, để giống Chúa mỗi ngày một hơn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Thánh Thần dẫn tới đâu?


Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói:
Các ông cần sinh ra lại bởi ơn trên.
Gió muốn thổi đâu thì thổi;
Ông nghe tiếng gió,
Nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra cũng vậy.” (Ga. 3, 7-8)

Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, sau khi mở cho ông thấy niềm hy vọng được sinh vào đời sống mới, Đức Giêsu đã tự tỏ mình ra, tỏ cuộc sống đã từng trải của Người ra cho ông và nói với ông rằng: “Ai bởi Thánh Thần mà sinh ra thì cũng vậy”.

Chính Người đã sinh ra bởi Thánh Thần, nghĩa là Người sống hoàn toàn dưới ảnh hưởng của hoạt động của Thiên Chúa, của động lực Thiên Chúa. Đức Giêsu nói điều mình biết. Điều Người biết về Thiên Chúa thì Người nói ra, nên chứng của Người là chân thật.

Đức Giêsu cũng nói những dự tính về sứ mệnh tương lai của Người. Nên ai sinh ra bởi Thánh Thần không phải chỉ được sống mà còn lãnh một sứ mệnh như Đức Giêsu. Ai sinh bởi Thánh Thần còn được kêu gọi lên cao.

Điều Đức Giêsu dự tính, chính là sứ mệnh cứu chuộc bằng dấu Thánh giá: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người đã từ trời xuống”, hay như thánh Phao-lô nói: “Người đồng phận với Thiên Chúa mà đã không nắm lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Người đã hủy mình đi, hạ mình xuống làm thân phận loài người”.

Tiếp nối cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, Đức Giêsu nói để được tái sinh, nghĩa là sống dưới ảnh hưởng của Thánh Thần tái tạo, thì phải theo đường lối Thánh Thần đề ra. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần đều phải bắt tay hành động theo đường lối lên cao, con đường treo lên thập giá, hay nói cách khác, con đường hiến mạng sống mình cho người khác.

Cử hành Thánh lễ là chúng ta sẽ sống cuốn hút vào của lễ Đức Kitô hiến dâng mình cho muôn người, trong khiêm tốn vâng lời Đức Chúa Cha và ngoan ngoãn theo Chúa Thánh Thần. Nhận biết ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần đối với Đức Kitô có thể là lý do chính chúng ta dâng lễ tạ ơn và tiếp rước cũng một Thánh Thần đến trên của lễ chúng ta xin ơn hôm nay.

C.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Điều kiện căn bản: "niềm tin"


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Một tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình "sống đạo" mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà thờ: "Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết". Ngược lại, người vợ là một tín đồ ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.

Suốt ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không vì thế mà bà quên cầu nguyện.

Bỗng một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: "Em yêu dấu! Ðây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài".

Anh chị em thân mến!

Trong lúc tưởng chừng như sự việc không còn cách gì để cứu vãn, thì lòng tin bền bỉ của người đàn bà được Thiên Chúa đáp lời. Một lời đáp thật bất ngờ dưới con mắt người đời: "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió nhưng chẳng biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi đâu". Những câu hỏi: nơi nào, khi nào, và thế nào đã được con người đặt ra cho Thiên Chúa chắc chắn là những câu hỏi chẳng bao giờ con người được thỏa mãn vì những sự việc dưới đất họ chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu được những việc trên trời.

Tuy nhiên, dù cho đang lần mò trong tăm tối của hiểu biết như thế, con người vẫn không bị thất vọng, lạc lối, vì luôn luôn Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ một lối đi dẫn tới vĩnh cửu. Ðường lối ấy do chính Con Một Thiên Chúa từ trời cao xuống vạch ra cho tất cả loài người. Hết thảy mọi người đều được kêu mời đến.

Như ngày xưa, Môisen đã treo con rắn đồng trên sa mạc để cho dân được chữa lành thì hôm nay Con Một Thiên Chúa cũng được treo trên cao để mọi người được cứu thoát. Ngài được treo trên cao cho hết mọi người nhìn thấy, Ngài mở lối cho tất cả bước vào nhưng rồi không phải hết thảy đều đạt mục đích.

Một nhân vật thông thái của hội đường Do Thái là Nicôđêmô đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn vào lối sống, thế mà ông vẫn chưa tìm được lối vào chỉ vì ông thiếu một điều kiện căn bản: "niềm tin".

Thiếu "niềm tin" mọi hiểu biết đều dẫn đến sai lạc vì mọi vận hành trong vũ trụ này không riêng lẻ độc lập nhưng liên hệ với Ðấng đã tạo thành nó. Niềm tin là chiếc cầu cho phép con người bước từ cõi đất lên cõi trời. Niềm tin là ngọn đèn soi tỏ ý nghĩa của mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến. Mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến không đơn thuần chỉ là những gì con người có thể cảm biết, còn có những ý nghĩa tàng ẩn đàng sau mà chỉ niềm tin mới vén mở cho con người trọn vẹn ý nghĩa của chúng.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra được những thiếu sót trong vốn hiểu biết mà bấy lâu nay như Nicôđêmô, con vẫn hằng tự mãn bằng lòng. Xin cho con biết rằng chỉ có niềm tin mới ban cho con một sự hiểu biết trọn vẹn ý nghĩa của con. Một cuộc sống không hạn hẹp trong cõi đất nhưng được bắt nguồn từ cõi trời. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tin để hiểu


Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua, vì thế, vẫn trong bối cảnh giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô xoay quanh câu chuyện tái sinh và sự sống đời đời.

Thật vậy, vấn đề sự sống đời đời là một chủ đề lớn và vấn nạn ấy khiến cho con người ở mọi thời không ngừng suy tư!

Thấy được Nicôđêmô là một người chân chính, lòng dạ ngay thẳng, không có gì gian dối, nên khi ông chân thành đến với Đức Giêsu và tin tưởng Ngài là vị thầy tâm linh sẽ giúp ông đạt được điều mà ông hằng thao thức! Đức Giêsu đã không ngần ngại để mặc khải cho ông biết phải làm gì và phải làm như thế nào để đạt được sự sống ấy. Ngài nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời”. Nói như thế, Đức Giêsu đã mặc khải thiên tính của Ngài cách cụ thể, để như một con đường và mời gọi Nicôđêmô đi trên con đường ấy thì được cứu độ.

Tiếp theo, Đức Giêsu muốn củng đức tin thêm cho ông, nên Ngài khẳng định: “Thật, tôi bảo thật ông: ‘Chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy”.

Con đường cụ thể mà Đức Giêsu đề ra cho Nicôđêmô là con đường sinh lại từ ơn trên, nghĩa là cần được tái sinh, đổi mới nhờ Thần Khí. Ai đi trên con đường ấy là đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà đường lối của Chúa Thánh Thần chính là đường lối từ trên cao, con đường Gongotha, con đường thập giá, con đường cứu độ bằng cái chết...

Qua cách thức của Đức Giêsu, Ngài đã dẫn Nicôđêmô từ chuyện cố hiểu để tin, sang tình trang tin để hiểu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để Lời Chúa được thấm vào trong tâm hồn của mình. Bởi vì nếu không khiêm tốn, thì hồng ân đức tin không thể đến với những người kiêu ngạo.

Sự sống đời đời được trao ban là do phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không phải do kiến thức mà ta có được. Vì thế, cần phải sám hối để đón nhận mạc khải của Chúa và trung thành đi theo đường lối ấy thì mới mong được cứu độ.

Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người, đó là: hiểu biết điều nào phải tin; hiểu biết điều nào phải ước ao; và hiểu biết điều nào phải thực hiện. (Thánh Thomas Aquinas)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sẵn sàng đi trên đường lối cứu chuộc mà Chúa mạc khải cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi hằng ngày để được trở nên con người thánh thiện nhờ được ơn Chúa thanh tẩy. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời xuống để mặc khải những sự trên trời cho ta. Người còn chịu treo trên Thánh giá để ta được sống đời đời. Ta hãy khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ bí tích Rửa Tội, Chúa đã cho con được sống lại với Chúa. Chúa đã đưa con vào thế giới mới, Chúa đã nâng con lên cuộc sống trên cao, cuộc sống của Chúa.

Không phải ai cũng thấy được cuộc sống trên cao, không phải ai cũng tin được những chuyện trên trời. Con thường chỉ tin những chuyện dưới đất và ham thích cuộc sống trần gian. Những chuyện dưới đất thì dễ hiểu hơn, dễ thấy hơn. Cuộc sống trần gian dù có lắm khổ đau, nhưng đối với con, vẫn lôi cuốn hơn, hấp dẫn hơn. Dù là những người trí thức và đạo đức như ông Ni-cô-đê-mô cũng chẳng thể hiểu hết những điều dưới đất, và càng không thể hiểu được những chuyện trên trời.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết khiêm tốn và mở lòng mình ra để đón nhận những sự trên trời. Xin cho con được hết lòng tín nhiệm vào Chúa. Càng tự phụ mình trí thức và đạo đức, con lại càng khó đón nhận Chúa. Xin cho con được sinh lại bởi Chúa Thánh Thần, cho con mãi mãi là một trẻ thơ để dễ vào Nước Chúa hơn.

Con khao khát xin Chúa cho con được mỗi ngày mỗi hiểu biết Chúa hơn, yêu mến những sự trên trời nhiều hơn. Con không thể xao lãng bổn phận dưới đất, nhưng nhờ hiểu biết và yêu mến những sự trên trời, con sẽ hiểu những sự dưới đất đúng đắn hơn và chu toàn bổn phận dưới đất tốt đẹp hơn. Xin Chúa dẫn con đến với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa Kitô được giương cao


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa Kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào cuối phi đạo. Đây là một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống đường bay, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn neon lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống đường bay vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tàu cập bến an toàn.

Suy niệm

Chúa Kitô được giương cao, đã được loan báo trước bằng hình ảnh của rắn đồng trong sa mạc, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên đó thì được cứu khỏi chết (x. Ds 21,9tt). Nicôđêmô đàm đạo, biết và tin vào Chúa Kitô, Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ… Ai không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,17-18).

Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha khi nhìn lên Chúa Kitô, Đấng được giương cao và tin vào.

Người tin được thông phần sự sống của Thiên Chúa, và bước vào một cuộc sống mới. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ. Giữa đêm tăm tối của cuộc đời, người tin nhận ra ánh sáng tình thương của Thiên Chúa và bước tới, nhưng nếu khép kín lòng sẽ mãi là con cái bóng tối như Chúa Giêsu đã nói: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19).

Chiêm ngắm Đấng được giương cao, tác động chúng ta tin vào hành trình của Đức Kitô ở trần gian: Sứ mạng của Đức Giêsu đến thế gian là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), làm cho tội nhân tin vào Ngài và nên thánh thiện (x. Rm 6,22), hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,3) khi chiêm ngắm Đấng được giương cao: Giương cao để chết cho nhân loại, nhưng giương cao bên hữu Chúa Cha trong mầu nhiệm phục sinh.

Tin vào con Thiên Chúa - Đấng giương cao chết treo trên thập tự, Đấng đã được giương cao bên hữu Chúa Cha qua phục sinh, như là nội dung của giao ước mới: sự sống đời đời của Thiên Chúa được trao ban như Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong buổi gặp gỡ mạc khải về niềm tin vào Con Người, Đấng được giương cao: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Chính trong niềm tin vào Đấng được giương cao, sau này thánh Phaolô tuyên tín: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”.

Ý lực sống:

Đấng được giương cao - treo thập tự,
Trần gian cứu độ, được nhờ Người,
Ai tin sức sống muôn đời có,
Giương cao cùng với Đấng Phục Sinh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Tiếp tục nói về việc tái sinh


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục kể lại cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông đã để ý nghe Chúa giảng và được thấy phép lạ Chúa làm, ông bắt đầu tin Chúa, ông có nhiều thắc mắc, và hôm nay ông tới gặp Chúa để xin Chúa giải đáp. Chúa cho ông biết: muốn được tái sinh để được vào Nước Trời thì:

- Phải nhờ tác động của Thánh Linh: “Gió muốn thổi đâu thì thổi... mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”.

- Nhờ tin vào Đức Giêsu: “Không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con  Người vốn ở trên trời”.

2. Đức Giêsu cho ông biết: “Nếu ông muốn vào Nước Trời, ông phải tái sinh, phải sinh lại trong nước và Thánh Thần”. Dĩ nhiên Chúa không bảo ông phải chui vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa, Chúa có ý bảo ông phải lãnh nhận phép Rửa tội. Phép rửa tội là bí tích tái sinh  làm cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, tức là qua dòng nước đổ trên đầu, đó là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong. Nói rõ hơn, nhờ bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đến với linh hồn chúng ta, Ngài cải hóa và đổi mới con người chúng ta.

3. Theo Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta có thể cắt nghĩa chữ “tái sinh” như sau: Tái sinh có nghĩa là người gia nhập Giáo hội Chúa qua bí tích rửa tội mà vẫn giữ nguyên bản ngã của mình. Bản chất con người đó không hề bị tiêu tan nhưng được chữa lành và bồi bổ trong ân lộc của Ba Ngôi Thiên Chúa, và cuối đời họ được sống viên mãn với chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Cho nên chữ tái sinh “bởi trên cao”có nghĩa là sinh lại bởi Thiên Chúa, trở nên con cái Thiên Chúa, chấp nhận nguyên tắc sống siêu nhiên, một bản tính mới như nâng hẳn chúng ta lên, vượt khỏi điều kiện tầm thường nhân loại: Từ thân phận tội lỗi đáng trầm luân mà được nâng lên làm con Thiên Chúa cùng được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.

4. Được sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Đức Giêsu không những mời gọi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa.

Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Đức Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Đức Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

5. “Như ông Maisen  đã giương cao con rắn trong sa mạc...”

Để tin nhận Đức Giêsu, con người không chỉ phải  thấy những việc làm cả thể của Ngài, mà còn phải nhìn Ngài trên Thập giá nữa. Đây là cái nhìn mà Đức Giêsu ám chỉ đến khi nhắc lại sự kiện Maisen treo một con rắn đồng trong sa mạc, để những ai bị rắn cắn nhìn lên sẽ được chữa lành. Với hình ảnh con rắn đồng chịu treo lên cao để được nhìn ngắm, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Ngài trên Thập giá. Như vậy, biết Ngài và tin nhận Ngài là có thể nhận ra vinh quang của Ngài khi Ngài bị treo trên Thập giá, đó là chân dung đích thực của Ngài mà con người cần phải nhận ra và chiêm ngắm (Mỗi ngày một tin vui).

6. Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh. Hay nói khác đi, tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ tự  cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.

7. Truyện: Câu chuyện hai hạt giống.

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất mầu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất... Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cành hoa của tôi”.

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập... Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị  bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở”.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn một cách ngon lành, và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.

David L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tim cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. Vì người nào càng trốn tránh thử thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Sinh lại như thế nào


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chúa Giêsu tiếp tục đối thoại với Nicôđêmô về việc tái sinh. Đại ý bài Tin Mừng hôm nay: Sinh lại như thế nào.

Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?”

Chúa Giêsu lại trả lời nhờ tác động của Thánh Linh (“Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”) và nhờ tin vào Chúa Giêsu (“không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là con người vốn ở trên trời”).

B...Nẩy mầm.

1. “Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình” (Mỗi ngày một tin vui).

2. Mục sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất), đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ”. Ông kể ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:

Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.

Lấy đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.

Biết ngạc nhiên trước màu nhiệm của cuộc sống.

Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước trời”. (trích “Chờ đợi Chúa”).

3. Thực ra biết bao nhiêu lần tôi muốn sinh lại thành con người mới, nhưng lực bất tòng tâm. Đó bởi vì việc sinh lại không chỉ bởi do sức riêng của tôi mà còn phải nhờ ơn Chúa.

4. Một bài thơ:

“Cảm thấy mình hoàn toàn mới
Được làm mới lại
Như mùa Xuân
Nghị lực tôi bừng tỉnh dậy
Nhuệ khí mới hứa hẹn
Tôi đã ra khỏi mùa Đông
Trở thành trẻ lại
Trở thành nhỏ lại
Để có thể lớn lên(…)
Trở thành không không
Để có thể tái sinh thành người khác.
Nhưng muốn thế, trước tiên phải chết cho con người cũ
với những suy nghĩ cũ và những lề thói cũ
điều này thực khó khi mình đã già
Nhưng rất đáng làm
Phải cởi mở lòng mình như cho thứ men mới:
Đó là Thánh Linh Thiên Chúa, nguồn sống Thần linh…” (Góp nhặt).

5. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào người thì được sống đời đời”.

Chuyện kể về hai cậu bé người An độ, một theo đạo Hin-đu và một theo đạo Công giáo. Cậu bé theo đạo Hin-đu thì luôn tìm các chê bai Thiên Chúa của cậu bé Công giáo. Một ngày kia, cậu ta lại dở giọng ra và nói: “Thiên Chúa của tôi thì quyền thế, mạnh mẽ, giàu có, chứ đâu nào như Thiên Chúa của bạn?”

Cậu bé Công giáo lắng nghe và ôn tồn đáp lại: “Nhưng Thiên Chúa của bạn thì không chết cho bạn còn Thiên Chúa của tôi thì chết cho tôi!”.

Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại, để từ đây con không còn chết vì lối sống ích kỉ, kiêu căng thường gây ra chiến tranh. Nhưng được sống dồi dào nhờ biết cho đi, cảm thông và tha thứ. Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa đã chết và sống lại vì con. (Epphata).

6. Mầm khác.

A. Ngày xửa ngày xưa có một con búp bê bằng muối. Một hôm, búp bê muốn học hỏi, khám phá thêm về thế giớ bên ngoài, cô ta quyết định làm một chuyến du lịch. Cô đi khắp nơi và học hỏi được nhiều điều hữu ích. Ngày kia, búp bê muối lần mò đến một bờ biển, đứng trước đại dương nhưng không biết đại dương là gì. Tò mò cô ta liền lên tiếng hỏi:

- Ngài là ai vậy?

Đại dương trả lời:

- Tôi không thể nói cho cô biết tôi là ai.Nhưng nếu muốn biết thì cô hãy bước vào trong tôi, lập tức cô sẽ biết.

Tuy hơi sợ nhưng vì tò mò nên búp bê muối từ từ bước vào lòng biển. Càng vào sâu, thân thể búp bê càng từ từ tan biến. Cho đến khi chỉ còn là một hạt muối bé tí, cô mới bắt đầu la lên:

- A! bây giờ tôi mới thực sự biết tôi là ai.

B. Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.

Hạt giống thứ nhất tâm sự:”Tôi muốn lớn lên. tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏcứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cía nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên mặt tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nề rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăn kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sén sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể dẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành.

(Jack Canfield and Mark Victor Hansen, Chicken Soup for the Soul)

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Nhờ tác động của Thánh Linh


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Hôm qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi phải tái sinh. Hôm nay, Chúa giải thích tái sinh hay sinh lại là sinh như thế nào.

Khi Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?” (Ga 3,9).

Chúa Giêsu trả lời là nhờ tác động của Thánh Linh “Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy” và nhờ tin vào Chúa Giêsu “không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3,13).

“Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình”. (Mỗi ngày một tin vui)

Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh.

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.

Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên. Tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu hiện báo hiệu một mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”.

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng, mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nào đó nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành và nuốt ngay vào bụng. Thế là hết đời một hạt giống.

David L. Weatherford đã nói rất hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. (Jack Canfield and Mark Victor Hansen, chicken)

2. Phải nói là con đường làm cho mình trở nên một con người mới là một con đường rất khó đi, nhưng chỉ khó với những ai thiếu niềm tin và thiếu ý chí, còn đối với những người có đức tin mạnh và một chí khí can cường, thì nhất định sẽ thành công.

Một hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:

- Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?

Người ấy trả lời:

- Phải muốn được như thế.

Vâng! Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.

Khi thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xaviê được phong thánh. Ngài nói:

- Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.

Và người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.

Phải muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường theo Ngài là con đường hẹp!

Ông François Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm. Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:

- Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.

Gần hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa đến trần gian vì chúng ta


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa nói với ông Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3, 13). Điều ấy có nghĩa là sau khi ông Nicôđêmô tin Chúa là Thiên Chúa rồi thì Chúa cho ông biết, chỉ có mỗi một mình Chúa là người biết chắc chắn nhất con đường để dẫn con người chúng ta về với Chúa Cha. Con đường đó là Chúa chấp nhận chết trên thập giá để kéo con người chúng ta lên với Chúa Cha: “Cũng như ông Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 15).

Như vậy, để được Chúa cứu, con người chúng ta phải được tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta biết được ơn tái sinh qua bí tích Thánh Tẩy là nhờ  Chúa. Chúa thiết lập bí tích này bởi cái chết và sự phục sinh của Chúa. Và cũng như gió, một vật thể trong không gian vũ trụ do Chúa dựng nên, chúng ta chẳng biết nó từ đâu đến và đi đâu, muốn thổi đâu thì thổi, nhưng chúng ta nghe được tiếng gió, biết được tác động của nó đang xảy ra chung quanh chúng ta (Ga 3, 8). Còn bí tích Thanh Tẩy, chúng ta biết được nguồn gốc và chúng ta biết được kết quả là chúng ta được nhận làm con Chúa khi chúng ta lãnh nhận. Chính Chúa Thánh Thần làm nên hiệu quả này cho chúng ta: “Mọi kẻ sinh ra bởi Thần Linh cũng vậy” (Ga 3, 8b). Như vậy, ơn tái sinh là do Chúa ban, còn hiệu quả của ơn ấy là do Chúa Thánh Linh.

Thật sự, Chúa đang nói ơn tái sinh bởi trời cho ông Nicôđêmô và cho con người chúng ta nghe. Ơn này có liên quan đến đời sống đức tin của chúng ta, phần rỗi của chúng ta qua hình ảnh Chúa minh chứng trong cuộc sống, đó là “Gió” mà ai trong chúng ta cũng hiểu cũng biết. Khi trời có gió thì chúng ta mát mẻ, thoải mái, sảng khoái. Nhưng khi trời không có gió, chúng nóng nực, bực bội, khó chịu. Nếu chúng ta không nhận lãnh ơn tái sinh, chúng ta không được vào nước trời. Còn khi chúng ta nhận lãnh, chúng ta được vào nước trời. Chúa cho hiểu thì chúng ta mới hiểu, mới lãnh nhận và mới sống được: “Nicôđêmô hỏi lại rằng: Việc ấy xảy ra thế nào được? Chúa Giêsu đáp: Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được?” (Ga 3, 9 – 12). Do đó, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn thì chúng ta mới hiểu và sống được ơn tái sinh cao trọng này.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, chúng con biết ơn Chúa vì Chúa đã cứu chúng con khỏi hư mất đời đời. Giờ đây, trong con người chúng con có mầm móng ơn phục sinh của Chúa, xin Chúa cho chúng con biết lấy cả cuộc đời này để chúng con sống ơn ấy khi chúng con gia tăng làm các việc lành phúc đức từ thiện bác ái yêu thương cứu giúp mọi người, đồng thời chúng con cũng biết sống khổ chế, hy sinh, hãm mình, chừa tội, luyện tập các nhân đức để làm gương sáng cho mọi người noi theo mà tin vào sự phục sinh của Chúa để họ được Chúa cứu chữa và ban cho sự sống đời đời sau này. Amen.   

---------------------------------



 

Thứ 4:

Đi rao giảng Tin Mừng.
Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.
"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".

 

Lời Chúa: Ga 3, 16-21


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thiên Chúa yêu thế gian


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Khi nghĩ về Thiên Chúa, người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt.
Có khi Thiên Chúa giống một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt,
hay như một quan tòa cứ theo pháp luật mà kết án nghiêm minh.
Có khi Thiên Chúa giống một nhà buôn, tính toán sòng phẳng,
chỉ ban ơn khi nhận được một lợi lộc nào đó, có qua có lại.
Có khi Thiên Chúa giống một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người,
không cho con người được tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn.
Có khi Thiên Chúa như một thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn,
hay như một sản phẩm của người bị áp bức tự ru ngủ mình.
Có bao nhiêu hình ảnh méo mó về Thiên Chúa như vậy.
May mắn đó không phải là khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu.
Ngài chẳng phải là cảnh sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài.
Ngài cũng chẳng phải là người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn.
Đơn giản Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8).
Và Tình Yêu vô lượng ấy được thể hiện bằng hành động:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16).
Tình yêu của Thiên Chúa Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ.
Như Abraham yêu quý đứa con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa,
Thiên Chúa Cha cũng yêu quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu,
và đã trao ban người Con ấy cho thế gian.
Cha trao ban Con khi sai Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14).
Cha còn trao ban Con cho thế gian qua cái chết của Con trên thập giá.
Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi đồi Sọ,
ta thấy Cha đưa hai tay ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người.
Và Cha chờ con người đáp lại bằng cách đưa hai tay đón nhận.
Con người vẫn có tự do để đón nhận hay từ chối món quà ấy
qua việc tin hay không tin Đức Giêsu.
Đứng trước Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa,
là đứng trước một chọn lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người.
Ai tin vào Ngài thì có ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19).
Tiếc thay có kẻ ghét ánh sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng.
Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa,
bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu.
 
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.

Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.

Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng
vào những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Ánh sáng sự sông


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sự sống là quí nhất. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống thì không có gì hết. Không có linh hồn. Không có thiên đàng, hay nói đúng hơn ta chẳng thể hưởng hạnh phúc thiên đàng vì ta không có mặt ở đời.

Thiên Chúa yêu thương ta biết bao khi ban cho ta được hiện hữu ở đời này. Yêu thương hơn nữa khi ban cho ta chính Con Một yêu dấu để chuộc lại sự sống đã mất. Vì sự sống của ta nên Con Chúa phải chịu chết. Tình yêu của Thiên Chúa thật khôn lường. Sự sống của ta quả thật quí giá.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ánh sáng sự sống cho ta được thấy cõi đời. Ánh sáng hi vọng cho ta được thấy định mệnh cao quí. Ánh sáng hạnh phúc được làm con Chúa.

Ta thường sai lầm khi không biết quí trọng những gì là chính yếu trong đời sống. Bị mê hoặc bởi những gì phụ thuộc, chóng qua. Đó là những giá trị lừa đảo dẫn đến sự chết. Sự sống là quí nhất. Nhưng ta đi tìm những gì phụ thuộc là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Sự sống lại là quí hơn. Nhưng ta lại bám víu vào sự chết đời này.

Chối từ ánh sáng là tự lên án mình. Từ chối sự sống thật ta chìm vào bóng tối chết chóc. Từ chối hi vọng thật, ta lâm vào bóng tối tuyệt vọng. Từ chối hạnh phúc thật, ta rơi vào bóng tối bất hạnh. Tự lên án mình khi ta từ chối vĩnh cửu để gắn bó với phù vân. Khi ta không nhìn lên Nước Trời mà chỉ gắn bó với mặt đất.

Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại. Vì thế họ tìm ngăn cản sự sống và bịt miệng những người rao giảng sự sống. Nhưng họ luống công vô ích. Cửa sắt kiên cố không giam giữ được sự sống. Lính canh thường trực không cản được đường đi của sự sống. Sự chết không làm cho người rao giảng Lời Ban Sự Sống sợ hãi.

Vì các tông đồ đã được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Nên chẳng còn sợ chết. Đã cảm nhận được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Nên vượt qua hận thù ghen ghét. Đã nhìn thấy ánh sáng nên tránh xa bóng tối. Đã nếm cảm hạnh phúc nên chẳng còn bị những ảo ảnh hão huyền mê hoặc.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Đi rao giảng Tin Mừng


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Câu đầu tiên của đoạn Phúc Âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại tình trạng tinh thần của các tông đồ lúc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến và trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Chúa. Tình trạng đó là tinh thần của nhóm mười một trước và liền sau biến cố Vượt Qua. Các ông chậm hiểu hay chưa hiểu gì về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu.

Hơn nữa, sau khi Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho một số đồ đệ để những người này loan báo tin vui Chúa sống lại cho các ông, thì các ông còn cứng lòng không tin, đến độ bị Chúa khiển trách. Phúc Âm ghi lại cho chúng ta như sau: "Sau cùng, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng. Bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người phục sinh". Các tông đồ còn có thái độ tiêu cực như vậy. Mặc dù đã theo Chúa ngay từ đầu và đã được Chúa huấn luyện đặc biệt hơn dân chúng trong suốt thời gian sống bên cạnh Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không thất vọng, không bỏ đi chương trình cứu rỗi nhân loại, không rút lại những gì Chúa muốn các ngài thực hiện, vì thế, Chúa ra lệnh cho các tông đồ và cho những ai tiếp tục sứ mạng của Ngài trong dòng thời gian:

"Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Hãy làm chứng cho Chúa khắp nơi", đây là sứ mạng quan trọng nhất liên quan đến tương lai của Giáo Hội Chúa trong lịch sử nhân loại. Sứ mạng được cô đọng lời Chúa Giêsu cho các tông đồ như sau: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin thì sẽ bị kết án". Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại trao phó cho những con người bất toàn một sứ mạng rất cao cả. Chúa tỏ cho thấy Người cần đến sự cộng tác của con người phàm trần, có và còn rất nhiều khuyết điểm để thực hiện sứ mạng cứu rỗi. Những khuyết điểm của những con người đã được tuyển chọn, không thể làm hư chương trình của Người.

Nơi các Phúc Âm khác, chúng ta biết thêm là Chúa ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ để biến đổi các ông thành những con người mới, xứng đáng hơn với sứ mạng. "Các con sẽ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sẽ làm chứng cho Thầy". Phần thánh sử Marcô, thì ngài tóm gọn thái độ đáp trả của các tông đồ nơi câu cuối cùng của sách Phúc Âm của ngài như sau: "Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng".

Hiện tại và tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên kinh nghiệm sống căn bản trên. Chúa luôn hoạt động với các ông, với những ai Người đã chọn và trao cho sứ mạng. Chúng ta hãy tin tưởng, vâng phục và ra đi chu toàn sứ mạng theo Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, nhờ lời khẩn cầu của thánh sử Marcô mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay, xin thương biến đổi mỗi người chúng con trở thành những tông đồ, những cộng tác viên xứng đáng và trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Án xử của Thiên Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cách đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.

Vụ án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô tội và anh được tha bổng.

Nhà hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế. Chính vì vậy ở thời đại nào, nỗi khao khát công lý trong lòng người vẫn không bao giờ được toả mãn. Người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng khao khát công lý: Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi sẽ là một quan toà khôn ngoan, có khả năng xoá bỏ bất công, trừng trị kẻ gian ác và tái lập công lý. Các tín hữu tiên khởi phát xuất từ Do thái giáo cũng tiếp tục nuôi dưỡng một niềm mong đợi đó.

Nhưng một cuộc phán xử như thế đã không diễn ra khi Chúa Giêsu đến. Thay cho một quan toà nghiêm khắc, người ta chỉ thấy một vị mục tử tốt lành. Thay cho những phán quyết thẳng thừng, người ta chỉ nghe được những lời tha thứ dịu ngọt. Quả thật như Chúa Giêsu đã giải thích cho Nicôđêmô: Thiên Chúa sai Con Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của ngài mà được cứu độ. Chúa Giêsu không xét xử và luận phạt con người. Chính con người tự xét xử mình bằng cách chọn lựa hay khước từ Chúa Giêsu. Mỗi hành động xấu tự nó đã là một bản án cho con người. Sự phán xét do đó không là một biến cố bên ngoài con người, mà chính là thái độ đáp trả của con người với lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nếu tôi bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, tôi được bình an thư thái; trái lại, khi tôi chọn lựa bóng tối của ích kỷ, thì tôi đã tự ký bản án, tự đày đoạ chính mình rồi.

Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm vốn được thêu dệt bởi biết bao hình ảnh thần thoại. Đó là những thực tại vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm đều gắn liền với cuộc sống tại thế này. Con người có thể hưởng nếm Thiên đàng ngay từ cuộc sống này khi nó bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu. Cũng ngay trong cuộc sống này, mỗi khước từ đối với Ngài đã là một thứ hoả ngục mà con người tự giam mình vào, và ngày chung thẩm cũng đã diễn ra trong con người qua từng chọn lựa của mình.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài. Ngài sai Con Một Ngài đến thế gian không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Đó phải là niềm xác tín thúc đẩy chúng ta luôn sống tin tưởng và yêu thương.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Yêu? Phán xét? Án phạt?


Thiên Chúa đã yêu thế gian
Đến nỗi đã ban Con Một,
Để ai tin vào Con của Người
Thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Quả vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian
Không phải để lên án thế gian,
Nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người
Mà được cứu độ. (Ga. 3, 16-17)

Giáo lý dạy chúng ta biết rằng: Những ưu phẩm của Thiên Chúa là tốt lành vô cùng, đáng mến vô cùng, toàn thiện vô cùng, thương xót vô cùng, công bằng vô cùng … Nhưng những ý niệm đó đôi khi có vẻ mâu thuẫn nhau: Làm sao Thiên Chúa thương xót và đáng mến vô cùng lại ra án phạt người ta?

Bài Tin mừng hôm nay cho biết: tình yêu phán xét, hình phạt, cứu độ. Chúng ta hãy chú ý đến lời Chúa Giêsu nói như thế nào.

Điều quả quyết thứ nhất của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Bằng chứng của tình yêu này là hiến Con Một Ngài cho chúng ta. Không phải ơn ban thụ động, mà ơn ban một con người sống động đến thực hiện cho loài người điều này là ban cho mỗi người sống đời đời. Trong thái độ Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, có tình yêu và sự tốt lành vô cùng là Con Một Ngài đã không đến để ra án phạt.

Nhưng tuy nhiên, như thánh Gio-an trưng dẫn quả quyết của Đức Giêsu là chính người ta tự phán xét và tự kết án mình. Người ta tự loại mình khỏi ơn cứu độ khi họ từ chối Đức Kitô, từ chối ảnh hưởng của Ngài, vì họ không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế.

Nhưng chúng ta lại đặt vấn đề này: Người ta là kẻ tội lỗi vì từ chối Chúa, có phải là Thiên Chúa đã không ban đức tin cho họ sao? Câu hỏi này thuộc phạm vi thần học, không thuộc chương trình của Đức Kitô. Người chỉ nói đến vấn đề hành động chối bỏ của người ta như sau: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, sợ rằng các việc họ làm sẽ lên án chê trách họ”.

Người ta rất khôn khéo đổ tội từ chối Đức Kitô đó cho Thiên Chúa vì sợ lời Người tố giác, chỉ có sự phán xét do Thiên Chúa, hệ tại ở chỗ Thiên Chúa nhận biết hoàn cảnh người ta làm và tôn trọng sự lựa chọn của người ta.

C.G

------------------------------

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa là tình yêu


Khi yêu nhau, người ta có thể làm mọi việc vì nhau và cho nhau. Họ sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu của người mà họ thương để mong sao người yêu được hài lòng. Như vậy, yêu là chấp nhận tất cả vì người mình yêu.

Thiên Chúa cũng vậy, Người yêu thương con người bằng một tình yêu trọn vẹn. Vì thế, Người chấp nhận tất cả để cho con người được hạnh phúc.

Điều này đã được Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta biết khi nói:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đây là một mạc khải quan trọng, cốt lõi, vì nó tóm gọn nội dung của Tin Mừng.

Mạc khải này vượt lên trên những suy tư triết học hay lý luận của con người, bởi vì chỉ nhờ mạc khải của Đức Giêsu, Ngài là Con Một Thiên Chúa, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và là hiện thân của tình yêu mới giúp cho chúng ta hiểu thấu được.

Thật vậy, thế gian là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, vì thế, Người không chỉ yêu thương có một lần trong quá khứ, nhưng Ngài vẫn còn yêu thương luôn mãi, Qua cuộc đời nhập thể làm người của Đức Giêsu, nhất là nơi cái chết và sự phục sinh của Ngài, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cách trọn vẹn. Nhưng không chỉ có thế, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện với con người trong suốt dòng lịch  sử, nhất là qua các Bí tích, để làm bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ước gì chúng ta luôn cảm nhận và tin tưởng vào tình thương của Chúa, và sẵn sàng đi trên cùng một con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã đi.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa, để chúng con sống và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống của chúng con hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho nhân loại


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đón nhận hay chối từ Chúa Con, chính là đón nhận sự sống hay bị kết án. Chỉ vì tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi con yêu quý một số vật dụng cách quá đáng, trong lúc ấy lại xem thường những gì đáng quý. Con chăm lo bộ ghế, chiếc xe, tivi, đồng hồ, quần áo, v.v… Thế mà có những điều rất đáng quý nhưng đôi khi con lại xem thường. Con lao thân vào cơn say sưa chè chén, mà bất kể đến hậu quả tổn hại cho sức khoẻ bản thân và làm hại gia đình. Con không biết quý trọng sự ấm êm trong gia đình, con chưa ý thức rằng có được một người cha đức độ, có một người mẹ đảm đang, có một người con ngoan ngoãn… là con đã có được một hồng phúc cao cả. Con chưa biết rằng có một sức khoẻ tốt là ơn Chúa ban, có một công ăn việc làm ổn định là ơn Chúa ban, có được ăn no mặc ấm là ơn Chúa ban. Nhất là vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Chúa Giêsu cho chúng con, Người là nguồn mạch sự sống của chúng con, và cho chúng con được mang danh Kitô hữu. Ôi! phải chi con “nhận ra ơn huệ Chúa ban”.

Đôi khi trong thực tế hằng ngày, con thấy ngại cầu nguyện, thấy sao nặng nề mỗi khi đến nhà thờ, mỗi khi gặp gỡ Chúa. Lạy Chúa, con đã thích bóng tối hơn ánh sáng, đã muốn chìm vào trong thế gian này mà không muốn mở rộng đôi tay đón nhận ơn cứu độ, đón nhận Con Một, đón nhận tình thương quá to lớn của Chúa.

Lạy Chúa, xin mở đôi mắt của con, xin nhóm lên trong lòng con nguồn sáng của Chúa, đốt lên trong con ngọn lửa tình yêu Chúa, để con trở nên con cái sự thật, và nên con cái của Chúa là Cha chúng con. Amen.

Ghi nhớ: “Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.

------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bà cụ 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời”.

Bà đáp: “Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài”.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925”.

Suy niệm

Sự ân cần của Thiên Chúa với con người được biểu hiện tuyệt vời qua Con Ngài được gửi đến thế gian mà chính Người Con đó - Đức Giêsu Kitô đã mạc khải cho nhân loại khi Ngài nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17). Tình yêu dâng hiến Con của Thiên Chúa trở nên nguyên mẫu của tình yêu như Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Tuy tình yêu không thấy được cụ thể, sờ mó cảm nghiệm như vật chất nhưng thánh Hilariô de Poitiers đã nói: “Tình yêu được thấy, được tính bằng những sự hiến tặng của chính tình yêu”.

Thật thế, chúng ta thấy được nguyên mẫu tình yêu bằng việc dâng hiến vĩ đại như thánh Hilariô de Poitiers nhấn mạnh: “Tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ bằng sự dâng hiến của chính Con Một Ngài” để cho nhân loại sống. Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh sự dâng hiến bằng chính Người Con Một để nói về một tình yêu vĩ đại không gì có thể so sánh: “Ngài đã dâng hiến không phải là người tôi tớ, cũng không là một thiên thần, Ngài đã cho chính Con Ngài, Con duy nhất”. Tình yêu này đã được hé mở và báo trước bằng hình ảnh tổ phụ Abraham dâng hiến con mình là Isaac theo thiên ý của Thiên Chúa (x. St 22,1-19).

Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính Con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại có được sự sống. Tình yêu này mời gọi tôi và bạn là những người con cũng biết cho đi làm quà tặng của nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta, người con thực thi như Chúa Giêsu hiến thân vì mạng sống, vì người mình yêu.

Ý lực sống: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

------------------------------

 

Suy Niệm 9: Tin Chúa sẽ được trường sinh


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng tiếp tục nói về việc sinh lại. Đây là hậu quả của việc chịu hoặc không chịu sinh lại:

- Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu thì phải hư mất.

- Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn luận phạt thế gian, mà chỉ muốn cứu thế gian.

- Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con thì được cứu, kẻ không tin thì bị luận phạt.

- Sự luận phạt ấy là do chính những người ấy tự chọn cho mình.

2. “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Con Một mình...”

Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào  trong Thánh Kinh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15).

Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.

3. Ai tin thì sẽ được sống.

Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ, Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,20). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.

Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đùng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa” (Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ (R Veritas).

4. “Ai tin vào Con của Ngài thì không bị xét xử...”

Tình yêu vốn là tiêu chuẩn để con người được xét xử. Trong cuộc thẩm xét chung cuộc, Đức Giêsu chỉ tra vấn con người về một điều duy nhất, đó là nó có sống yêu thương không? Người Kitô hữu do đó không lo sợ về một cuộc chung thẩm trong ngày sau hết; họ lại càng không phải bận tâm về bức tranh mà trí tưởng tượng con người  đã tô vẽ cho ngày ấy, bởi lẽ họ biết rằng sự phán xét diễn ra  ngay trong hiện tại qua từng lựa chọn của họ. Mỗi khi họ sống yêu thương thì lương tâm sẽ không luận phạt họ, trái lại, khi họ để thù hận xâm chiếm tâm hồn và thúc đẩy họ khước từ tình yêu, thì đó là lúc họ bị xét xử. Thật thế tâm hồn họ sẽ không có bình an, nếu họ không sống yêu thương.

5. Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại  có được sự sống. Tình yêu này mời gọi chúng ta là những người con  biết cho đi làm quà tặng cho nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta – người con thực thi như Đức Giêsu hiến thân vì mạng sống vì người mình yêu.

6. Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế đang ban phép lành.

Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng đau khổ.

Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng  những tội nặng y như những lần trước. Vị Linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị Linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Đức Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.

Kể từ đó, bàn tay phải của Đức Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đi theo ánh sáng


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hậu quả của việc chịu sinh lại hay không chịu sinh lại.

Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất (“bị luận phạt).

Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa cũng không hề muốn “Luận phạt” thế gian (để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian)

Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con (chịu sinh lại bởi đức tin) thì được cứu; kẻ không tin (không chịu sinh lại) thì “bị luận phạt” (hư mất).

Sự hư mất ấy (luận phạt) là do chính những người ấy tự chọn cho mình, cũng giống như một nguồn sáng đã đến trong màn đêm tối tăm, ai muốn sáng thì tới với nguồn sáng đó, kẻ không tới thì phải ở mãi trong bóng tối.

B...Nẩy mầm.

1. Dĩ nhiên được cứu thì tốt hơn là bị hư mất, trong ánh sánh thì hạnh phúc hơn trong tăm tối. Thế nhưng cũng giống như một người đang chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng. Chúa Giêsu chỉ cho ta thấy một thực trạng đó là những người “yêu tối tăm hơn sự sáng”, đó là những người “hành động xấu xa”, họ “không đến cùng sự sáng vì sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Và Chúa Giêsu khuyên ta hãy can đảm yêu sự sáng và bước ra sự sáng “để hành động của họ được sáng tỏ”.

Trong tôi cũng có bóng tối. Đó là những “hành động xấu xa”. Tự nhiên tôi muốn che dấu, tôi sợ bước ra ánh sáng. Nhưng như thế tôi không bao giờ được cứu, như thế là tôi tự luận phạt mình, tự để mình bị hư mất. Hãy yêu sự sáng hãy cam đảm bước ra sự sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại: không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng

2. Chú bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ, bóng đên trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi! chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá”. Bố đáp: “Con ạ! Anh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường”.

Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cấn bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến cuối đường đời.(Góp nhặt).

3. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cứu chúng ta. Ngài ban đủ mọi phương tiên cho ta sử dụng để được cứu. Kẻ hư mất là kẻ thiếu cương quyết rời bỏ bóng tối để bước ra ánh sáng.

4. “Ánh sáng đã đến gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa”.

Một chiếu thứ bảy, anh đưa tôi dạo phố. Chúng tôi đang lặng lẽ rảo bước trên bờ hồ Xuân hương, bỗng nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên: “Con chào Cô!”. Như một phản xạ, tôi quay lại. Trước mặt chúng tôi là một em bé rách rưới, bẩn thỉu, học trò của tôi ở trung tâm Bảo Trợ Xã hội. Em vui mừng, chạy lại ôm chầm lấy tôi. Nhưng vì sợ “quê” với anh, tôi đã vờ như không quen biết nó…và để lại sau lưng, sự hụt hẫng pha lẫn tủi hờn của đứa bé mồ côi đáng thương.

Bây giờ tôi mới rõ, tôi làm việc từ thiện chỉ vì chính mình!

Lạy Chúa, xin soi sáng và mở rộng lòng con, để con nhận ra đâu là sự sáng đích thực của Chúa và can đản theo Ngài. (Epphata)

 ------------------------------

 

Suy Niệm 11: Hiệu quả của việc sinh lại


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúng ta tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hôm nay nói về hậu quả của việc sinh lại.

Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất tức là “bị luận phạt”.

Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn “Luận phạt” thế gian “để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian”.

Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con tức là chịu “sinh lại bởi đức tin” thì được cứu; kẻ không tin tức không chịu sinh lại thì “bị luận phạt” (hư mất).

Dĩ nhiên, được cứu thì tốt hơn là bị hư mất. Sống trong ánh sáng thì hạnh phúc hơn sống trong tăm tối. Thế nhưng, cũng giống như một người đang bị chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng.

Tại Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ được ghép kính.

Kiến trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.

Người ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng snh lầy.

Trong ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ lối cho con người.

Thế nhưng, theo như lời của Thánh Gioan, thì thế gian đã không chịu tiếp nhận ánh sáng đó, mà trái lại còn xua đuổi. Lý do nào khiến thế gian ghét ánh sáng thì Thánh Gioan đã cho biết trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Vì họ sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Tại sao lại sợ ? Thưa, vì việc làm ấy xấu xa. Giống như ánh sáng mặt trời dọi xuống xuyên qua lỗ hổng, chiếu xuống miếng bạc được bố trí trên nền nhà thờ, làm cho người ta nhận ra được độ nghiêng của ngôi nhà thờ như câu chuyện kể trên, thì ánh sáng Giêsu chiếu dọi vào thế gian cũng làm cho con người thấy được những sai quấy của mình như thế.

Ngạn ngữ Trung Hoa có câu:”Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp thôi.

2. Điều còn lại ở đây là chúng ta có đủ nhạy cảm để nhận ra ánh sáng đó hay không.

Một nhà thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã cạn khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh, trong thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:

- Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này ?

Nhưng người bạn kia lắc đầu giải thích:

- Ông ta là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Có nhiều người trong chúng ta cũng như vậy.

Hẳn anh chị em còn nhớ câu chuyện người mù ở trong Tin Mừng. Đứng trước một sự thật rõ ràng như ban ngày vậy mà những người Pharisêu vẫn tìm cách bẻ cong sự thật. Chúa Giêsu đã phải rất buồn về thái độ ấy nên Ngài đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9,39).

  Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9,40-41).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết yêu sự sáng và hãy cam đảm bước đi trong ánh sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại: không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng.

------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa đến để ta được sống


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Ngày xưa trong sa mạc, Chúa yêu thương dân Chúa, dân xin điều gì Chúa cũng cho, dân xin bánh ăn hàng ngày thì Chúa cho manna, dân thèm thịt thì Chúa cho chim cút bay đến rợp trời để dân bắt mà làm thịt ăn, dân khát nước, Chúa cho nước chảy ra từ tảng để dân uống, ban ngày dân kêu nắng thì Chúa cho cột mây che mát, ban đêm tối tăm thì Chúa cho cột lửa soi sáng…Ấy thế mà dân cứ kêu la trách móc Chúa, họ ăn thịt cút chưa trôi vào miệng mà đã kêu nài oán than Chúa rồi. Do đó, Chúa cho rắn rửa bò ra cắn chết họ. Nhưng rồi họ khiếp sợ và kêu cầu Chúa thì Chúa lại sai ông Môsê đúc con rằn đồng treo lên để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì sẽ được cứu (Ds 21, 4 – 9).

Đó là chuyện của ngày xưa, còn ngày hôm nay, Thiên Chúa không làm như vậy nữa. Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian là vì Chúa Cha yêu thương con người chúng ta và Chúa đến trần gian cũng vì Chúa vâng phục Chúa Cha và Chúa xót thương con người tội lỗi, trầm luân hư vong đời đời của chúng ta.   Chúa nói: ”Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến” (Ga 8, 42), để rồi Chúa chịu chết trên thập giá và sống lại để cứu chúng ta, cho chúng ta được sống đời đời. Như vậy, Chúa mới nói: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 16 – 17).

Chúa yêu chúng ta như vậy đó, và Chúa không bao giờ trừng phạt chúng ta khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Chúa. Nhưng để được hưởng lòng thương xót của Chúa, Chúa mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa: “Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa” (Ga 3, 18 – 21). Tin vào Chúa thì chúng ta phải nghe lời Chúa dạy, mà lời Chúa dạy không ở đâu xa, khiến chúng ta phải đi tìm kiếm để rồi than thở trách móc là khó khăn quá, mất thời gian quá, nhưng lời Chúa ở ngay gần bên chúng ta, trên môi miệng chúng ta, ngay trong lòng chúng ta: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 8 – 10). Khi chúng ta thực hiện lời Chúa, chúng ta sẽ đi trong ánh sáng của Chúa. Chúng ta sẽ yêu ánh sáng chứ không yêu sự tối tăm. Chúng ta tránh đi sự xấu xa tội lỗi, và như vậy, chúng ta sẽ được ở trong Thiên Chúa của chúng ta và những việc làm của chúng ta sẽ là gương sáng cho người khác tin vào Chúa.

Lạy Chúa hằng sống của chúng con, Chúa đã chịu chết và sống lại để rồi Chúa phục hồi chức phận làm con Chúa của chúng con mà chúng con đánh mất khi phàm tội bất tuân lời dạy của Chúa. Xin Chúa nghe lời chúng con cầu xin trong thung lũng nước mắt này mà chúng con gặp biết bao nhiêu khổ đau, nghịch cảnh để chúng con sống và làm sáng danh Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5:

Tình yêu thương.
Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh.   
"Đức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".

 

Lời Chúa: Ga 3, 31-36


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật.
Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Đấng từ trên cao mà đến


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?
Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.
Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).
Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.
Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.
Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).
Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.
Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?
Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).
Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.
Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.
Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa
và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.
Nhưng họ không phải là Con như tôi.
Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.
Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).
Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu ơi! Ngài là ai?
Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).
Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.
Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.
Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.
Tôi chẳng làm điều gì tự mình,
tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).
Tôi chẳng nói điều gì tự mình,
tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).
Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?
Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.
Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),
Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).
Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).
Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).
Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).
Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).
Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. Amen. (Charles de Foucauld)
 
------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đấng từ trên cao


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su cho biết Người đến từ trên cao. Nên trổi vượt trên mọi người.

Chúa từ trên cao vì xuất xứ. Chúng ta sinh ra từ bụi đất. Người sinh ra từ trời cao. Chúng ta từ đất mà ra. Người từ Chúa Cha mà đến. Tuy Người tự nguyện sống như loài người. Chẳng ai nhận ra vì Người cũng giống như mọi người. Và còn trở thành bác thợ mộc tầm thường lao động vất vả. Nhưng nguồn gốc Người vẫn vượt trên mọi người.

Chúa từ trên cao vì khôn ngoan. Chúng ta thuộc hạ giới nên kiến thức hạn hẹp. Chỉ biết những gì thuộc về trần gian. Tầm nhìn hạn hẹp không quá chân trời. Còn Chúa là Ngôi Lời toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Người nghe và biết mọi sự trên trời từ Chúa Cha. Tầm nhìn của Người trải rộng vô biên. Sự khôn ngoan của Người khôn dò khôn thấu.

Chúa từ trên cao vì quyền lực. Chúa Cha đã “giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người thì được sự sống đời đời”. Trọng thưởng hay trừng phạt. Được sống hay phải chết. Tất cả thuộc quyền lực của Người. Vì thế vận mạng của mọi người tùy thuộc nơi Người. Vận mạng không phải nhất thời như loài người tưởng nghĩ. Nhưng số phận đời đời.

Chúa từ trên cao vì tình yêu. Thánh Phê-rô, trước mặt Thượng hội đồng, đã mạnh mẽ rao giảng. Sở dĩ Chúa Giê-su được tôn vinh trổi vượt mọi loài vì Người yêu thương nên sẵn sàng hi sinh chịu chết. Chính vì thế Chúa Cha đã tôn vinh Người. “Thiên Chúa của cho ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và tha tội”.

Ý thức được điều đó, nên thánh Phê-rô dạy ta “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Thượng hội đồng là người phàm, từ đất thấp, có tầm nhìn hạn hẹp. Nên bắt bớ, cấm đoán các Tông đồ rao giảng chân lý Nước Trời. Nhưng Phê-rô và các tông đồ đã nhận được chân lý Nước Trời. Các ngài đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của trần gian. Sẵn sàng từ bỏ mọi sự trần gian. Kể cả chấp nhận mất mạng sống. Để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tình yêu thương


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời".

Ðó là một sự thật quan trọng được Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô trong cuộc đối thoại ban đêm, được ghi lại nơi chương 3, Phúc Âm thánh Gioan. Lời quả quyết trên về tình thương của Thiên Chúa đối với con người được Chúa Giêsu lập lại một lần nữa trong bữa Tiệc Ly như sau: "Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã yêu thương các con vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến" (Ga 16,27).

Thử hỏi, có ai có uy tín hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, để mạc khải cho chúng ta biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với thế gian, đối với toàn thể tạo vật đã được dựng nên và nhất là đối với tất cả mọi người đã được dựng nên giống hình ảnh của Ngài?

Lý trí tự nhiên của con người qua những suy tư triết học khó có thể, nếu không muốn nói là không bao giờ có thể đạt đến kết luận chắc chắn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu thương con người đến mức độ cho đi điều quí nhất là chính Con Một Thiên Chúa, để cứu chuộc con người khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi phải chết. Chỉ nhờ mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, con người chúng ta mới nghe được sự thật đầy an ủi này, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, Thiên Chúa Cha hằng yêu thương con người. Lý do thôi thúc hành động của Thiên Chúa cứu rỗi con người chính là tình yêu thương, và Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người biết và cho cả ông Nicôđêmô, là người có đủ uy tín để nói như vậy, bởi vì Người từ nơi Thiên Chúa Cha mà mạc khải cho chúng ta biết.

Những lời tâm sự trên xác nhận căn cứ và nguồn gốc của Chúa Giêsu từ trên cao, từ Thiên Chúa Cha. Những lời này nhắc cho chúng ta nhớ lại những suy tư cao sâu của tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan, nơi khởi đầu sách Phúc Âm của ngài như sau: "không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu Kitô". Làm cho những sự thật được Chúa mạc khải cho con người có được giá trị trỗi vượt hơn mọi lý thuyết, hơn mọi lẽ khôn ngoan do trí khôn con người nghĩ ra. "Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Ðấng từ trên trời mà đến thì ở trên mọi người". Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe trực tiếp từ Thiên Chúa Cha, vì Người hằng ở cùng Thiên Chúa Cha, được sai xuống trần gian để mạc khải cho con người biết.

Ðáp lại mạc khải của Chúa Giêsu, con người cần khiêm tốn, vâng phục và kính tin. Ðây là điều Chúa mời gọi ông Nicôđêmô ngày xưa và mọi người ngày nay hãy thực hiện: "Ai tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời".

Chúng ta đã đáp lại mạc khải của Thiên Chúa như thế nào?

Thảm trạng của con người bắt đầu khi con người tin không có Thiên Chúa và nếu có Thiên Chúa thì họ vẫn lãnh đạm thờ ơ không tin vào Thiên Chúa, và cũng không tin, không quí trọng sự thật được Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mạc khải nữa. Nhưng thử hỏi, con người có thể dập tắt khát vọng hướng về Thiên Chúa đã ăn rễ sâu trong tâm hồn của mình hay không?

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô để chỉ cho chúng con biết con đường sống như những con cái Cha, và trở về cùng Cha an toàn. Xin thương giúp cho chúng con trưởng thành trong đức tin mỗi ngày một hơn. Xin củng cố đức tin chúng con trước những thách đố của môi trường xã hội trần tục, không ngừng tìm cách chối bỏ Chúa cũng như cố ý làm méo mó và cười nhạo những sự thật do Chúa mạc khải.

Lạy Cha, xin thương củng cố đức tin của chúng con.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Hướng nhìn lên cao


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tạp chí Time số tháng 4/95 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam, ông Avares. Là một phi công Hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 5/8/1964. Ông đã bị giam tại Hoả lò trong vòng 8 năm rưỡi. Năm 1993, một nhà sản xuất phim mời ông và một nhóm cựu tù binh Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu. Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam, điều duy nhất ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn. Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông về với gia đình và đã ban cho ông ơn biết tha thứ và quên đi.

Chứng từ của Avares cho thấy khi con người biết nhìn lên cao, con người sẽ cảm nhận được ơn Chúa trong cuộc sống của mình. Đó có lẽ là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy giả. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Và thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”. Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, người ta có thể đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được ơn Chúa ngay những lúc như bị bỏ rơi và đánh mất tất cả; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được tình thương và tha thứ ngay giữa nơi chỉ có hận thù và chết chóc.

Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tâm tình ấy.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Trời và đất bất hòa sao?


Đấng từ trên cao mà đến,
Thì ở trên mọi người;
Kẻ từ đất mà ra,
Thì thuộc về đất
Và nói những chuyện dưới đất.
Đấng từ trời mà đến,
Thì ở trên mọi người;
Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe,
Nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người.
Ai nhận lời chứng của Người
Thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. (Ga. 3, 31-33)

Từ Công đồng Vatican 2 đã cho chúng ta ý thức lại giá trị và tự trị của những thực thể trái đất thuộc dự tính của con người. Trái đất không phải là thung lũng nước mắt, vật chất và thân xác không là đồ bỏ. Ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô phải ảnh hưởng tới tất cả mọi thực thể. Thánh Phao-lô đã nói: “Toàn thể tạo vật đang rên xiết mong chờ sự giải thoát”.

Kitô hữu không thể núp mình trong phạm vi hoàn toàn tinh thần và trong thế giới bên kia. Marx đã tố cáo loại người này, họ lãnh đạm trước đau khổ trên trái đất để đi tìm chỗ tốt hơn nơi cao xa, họ còn chẳng làm gì trước bất công và tàn ác, vịn lẽ rằng Thiên Chúa sẽ phạt kẻ giàu và thưởng kẻ nghèo.

Thực ra, rất khó phân lìa và liên kết đất và trời, cũng như những giá trị đất và trời. Hôm nay, Đức Kitô phân biệt một cách như sau: Người nói rằng trời và đất có ngôn ngữ riêng của nó.

Tiếng nói của đất dễ giải nghĩa, vì nó thuộc giác quan của ta. Nhờ đó chúng ta nhận được kiến thức và thông truyền kiến thức.

Tiếng nói của trời khá khó lãnh hội, đó là thứ tiếng chứng từ: Chỉ có Đấng từ trời xuống làm chứng về điều đã thấy, đã nghe, chứng nhận, xác quyết về sự này, điều kia là thực. Còn ngay cả những người được nghe những lời chứng đó cũng không thấy được, biết được sự này, Đấng kia thế nào. Họ cũng không được sống trong diễn biến đó.

Đức Giêsu là chứng nhân của Thiên Chúa, Người đã kể lại những gì đã tồn tại trong Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta, chúng ta trở nên chứng nhân của Thiên Chúa, nếu chúng ta là thành phần trong thân thể của Đức Kitô.

Tiếng nói trong Thánh lễ là tiếng làm chứng rằng: Đức Kitô hiện diện trong cộng đồng, chứng thực Thiên Chúa đang hành động qua các dấu chỉ của Thánh lễ. Và người ta sẽ không hiểu gì về những dấu chỉ này trong Thánh lễ hàng ngày và Chúa nhật, nếu người ta không đón nhận tiếng nói của chính Thiên Chúa.

C.G

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Giữ lấy bản sắc của mình


Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!

Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!

Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!

Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì không phù hợp với bản chất của mình.

Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34 - 35).

Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36).

Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Tin vào Chúa Giêsu sẽ trở thành người bất tử


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tin hoặc không tin, điều ấy tuỳ thuộc tự do của con người. Nhưng kẻ tin vào Chúa Giêsu sẽ trở thành người bất tử, vì họ sống chính sự sống của Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, con cảm tạ Chúa về hồng ân cao cả là đã được gia nhập Giáo Hội, nghĩa là con đã có đức tin. Chính niềm tin vào Chúa đã tạo cho con một cuộc sống phong phú và đầy hy vọng. Niềm tin ấy đã thắp sáng cuộc đời con.

Lạy Chúa, con tin Chúa đã phục sinh. Ánh sáng Phục Sinh trở thành đuốc sáng hướng dẫn đời con. Chúa đã phục sinh để dẫn đưa con vào nẻo đường sống. Con sẽ trở thành kẻ bất tử nếu biết nuôi dưỡng và phát triển đời sống đức tin. Vậy lạy Chúa, cây đức tin cần được lớn lên mỗi ngày, bằng cách chấp nhận đổi mới, biết thay con người cũ, tâm tình cũ, bằng một con người mới với tâm tình mới. Xin giúp con biết thắp sáng và dưỡng nuôi đức tin bằng những giây phút cầu nguyện, gặp gỡ Chúa, tham dự các bí tích. Như một cục than chỉ có thể rực sáng khi nằm cạnh những cục than khác, con cũng muốn nuôi dưỡng đời sống đức tin con trong đời sống sinh hoạt của Giáo Hội, cùng với anh em con. Xin đừng để con tách riêng ra, kẻo con lâm vào tình trạng èo uột và có thể bị giết chết.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn con biết sử dụng tự do Chúa ban bằng cách chọn lựa con đường thực hành Lời Chúa. Xin giúp con biết sống điều Chúa dạy để cây đức tin lớn lên mỗi ngày. Xin dạy con biết hy sinh chính mình để cây đức tin đơm bông kết trái. Amen.

Ghi nhớ: “Ðức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Đấng đến từ trời – Thiên Chúa làm người


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người ta kể rằng: Tin Mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật Bản từ hồi thế kỷ XVI do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật Bản đã bị xóa sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa: “Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá!”.

Suy niệm

Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, ghi lại lời Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô biết về nguồn gốc của Ngài, Đấng đến từ trời cao, Ngài là vị Thiên Chúa làm người như Gioan đã mở đầu Tin Mừng thứ tư bằng việc xác định cội nguồn của Ngài: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) và Giáo hội đã tuyên xưng: “Người đã từ trời xuống thế…”. Ngài đã trở nên người trưởng tử của nhân loại (x. Cl 1,15-18), dẫn đưa con người trở về với cội nguồn trời. Ngài trở nên đường dẫn về với Thiên Chúa, về với sự sống đời đời, chính là trời (x. Ga 14,6). Bởi cái chết, sự phục sinh và lên trời, Ngài đã khai thông lối về thiên quốc cho nhân loại. Ngài là trung gian nối đất trời như là chiếc thang mà tổ phụ Giacóp đã thấy trong giấc mộng (x. St 28,12). Trung gian như chiếc thang nối đất trời mà chính Chúa Giêsu cũng nói tới: Trời rộng mở, các thiên sứ lên lên xuống xuống trên Con Người (x. Ga 1,51).

Cho nên, thánh Phaolô không ngừng mời gọi các tín hữu: “Quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Ai tin vào Chúa Kitô thì thuộc về trời cao và được sự sống đời đời. Qua bí tích rửa tội, Ðức Giêsu dẫn chúng ta đến ơn cứu độ: Là được làm con Thiên Chúa. Thật thế, Ngài được Chúa Cha sai đến thế gian, để ai tin vào Ngài thì được sự sống đời đời. Chúa Cha đã giao mọi sự trong tay Ðức Giêsu. Thế nên, sứ mạng của Ngài là bảo vệ và cứu vớt những gì Cha đã ban cho Ngài.

Kitô hữu - người tin vào Chúa Kitô, thuộc về Ðức Giêsu, được tiếp nhận sức sống của Thiên Chúa, chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa. Xin cho chúng ta ý thức rằng cuộc sống của chúng ta trong mọi hành vi, suy nghĩ, lời nói biểu lộ niềm tin và yêu mến Ðức Giêsu Con Cha qua Ngài, chúng ta tin và yêu mến Cha.

Ý lực sống: “Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn” (H. Spurgeon).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Hãy tin để được sống


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn tiếp tục câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Chúa nói cho ông cũng như cho mọi người biết sứ mạng của Ngài đến trần gian là để cứu chuộc mọi người, và bổn phận của mỗi người là phải biết lựa chọn: tin hay không tin Ngài. Tin thì được sống, không tin thì sẽ bị trầm luân.

2. “Đấng từ trên cao mà đến...”.

Qua câu này, chủ đich thánh sử Gioan là làm nổi bật sự tương phản:

- Đức Giêsu thuộc về thiên giới, Ngài đến để thiết lập Nước Thiên Chúa: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Ngài thiết lập Hội thánh trần gian và qui tụ mọi người vào Hội thánh để được ơn cứu độ và được sự sống Nước Trời mai sau.

- Dân Do thái tượng trưng bởi Nicôđêmô trong cuộc đàm thoại với Đức Giêsu, đến với Đức Kitô  trong một nhãn giới nhân loại “nói những chuyện dưới đất”. Người Do thái cho rằng Nước Thiên Chúa như một thực tại trần thế, vừa tầm tay họ.

3. “Người làm chứng về những gì...”.

Đức Giêsu đến thế gian để làm chứng về Chúa Cha: “Ai thấy Thầy thì cũng thấy Cha Thầy”. Người Do thái, cũng như những ai từ chối Đức Giêsu, đã không nhận lời chứng của Ngài (lời chứng qua lời giảng dạy, các phép lạ). Đức Giêsu mạc khải Ngài đồng bản tính với Chúa Cha, nếu ai không tin nhận Ngài, thì không thấy Chúa Cha được.

4. Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, ghi lại lời Đức Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô biết về nguồn gốc của Ngài – Đấng đến từ trời cao, Ngài là vị Thiên Chúa làm người như Gioan đã mở đầu Tin Mừng bằng việc xác định cội nguồn của Ngài: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) và Giáo hội đã tuyên xưng: “Người đã từ trời xuống thế...”. Bởi cái chết, sự Phục sinh và lên Trời, Ngài đã khai thông lối về thiên quốc cho nhân loại. Ngài là trung gian nối đất trời như chiếc thang mà tổ phụ Giacóp đã thấy trong giấc mộng (x. St 28,12). Trung gian như chiếc thang nối đất trời mà chính Đức Giêsu cũng nói tới: Trời rộng mở, các thiên sứ lên xuống trên Con Người (x.Ga 1,51).

5. Đức Giêsu đã xác nhận Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc nhận loại. Như vậy, vấn đề còn lại là bổn phận của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống và hạnh phúc cho chúng ta, đón nhận hay từ chối là tùy mỗi người. Thiên Chúa là ánh sáng, ai từ chối ánh sáng là tự đọa đầy mình vào tối tăm, ai từ chối là nhận lấy cái chết, Thiên Chúa không cần tuyên án nữa. Đón nhận ánh sáng hay từ chối là một lựa chọn tự do và tự nguyện của mỗi người. Cũng thế, ai chọn sự thiện  thì ở trên đường đến với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là nguồn mọi sự thiện, ai chọn sự dữ thì ở trên đường lìa xa Thiên Chúa, vì nơi Thiên Chúa không có sự dữ.

6. Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người”. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại’ lần thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn” (Trích “Sự hiện diện khiêm hạ).

Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm bà và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.

Bà đáp:

- Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (góp nhặt).

7. Truyện: Chứng từ của Avares.

Tạp chi Time số tháng 4, 1995 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam.

Ông Avares là một phi công hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 05/08/1964. Ông đã bị giam tại Cửa Lò trong vòng 8 năm rưỡi.

Vào năm 1993, một nhà sản xuất phim đã mời ông và một nhóm cựu binh sĩ Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu về chiến sự thời Mỹ ở Việt nam.

Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam cầm, điều duy nhất trong ký ức ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện mỗi khi thất vọng. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn.

Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông trở về với gia đình và đã ban cho ông biết tha thứ và quên đi.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Trách nhiệm của con người: Tin hay không tin.


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”.

B...Nẩy mầm.

1. Từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại như thế nào, ích lợi của việc sinh lại và tai hại của việc không sinh lại… Hôm nay, tôi phải quyết định và chịu trách nhiệm về sự quyết định của mình: Tôi có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không?

2. Trở lại với ý tưởng của Maurice Zundel: “Chúng ta không sinh ra đã thành người (…) Con người có bổn phận phải thành người (…) Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”. Có một lần sinh thứ hai, đó là sinh con người, sinh phẩm cách, sinh tính bất khả xâm phạm, sinh sự trường tồn bất tử, lần sinh mà không có nó không thể thành người”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).

Nếu tôi không can đảm sinh lại thì mãi mãi tôi sẽ không thành người. Điều đó là điều Tin Mừng Gioan gọi là “Hư mất”, là “không thấy được sự sống”.

3. Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”. Bà đáp: “Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài”. Cuộc trở lại của bà được tạp trí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).

4. “Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời”.

Nếu có người hỏi tôi: Tại sao bạn tin Chúa?

Hồi nhỏ tôi đã trả lời: Vì ba mẹ bảo tôi phải tin; nếu tin Chúa, tôi sẽ được vào Thiên Đàng đời sau.

Còn bây giờ, tôi đáp: Tôi tin, và tôi biết Chúa yêu tôi . Tôi tin để được Thiên Đàng ngay đời này.

Lạy Chúa, ước gì trong mọi lúc, con luôn biết đáp lại: “Con tin vì con yêu Chúa”.(Epphata).

5. Mầm khác.

Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật là nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế nhưng ông ta không chỉ nghe để mà nghe. Hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:

- Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.

Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.

Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá.Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.

- Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.

Chúa Giêsu hoỉ con:

+ Con đang làm gì đó?

- Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.

+ Sao con không mới ta hút thuốc?

Con vội vã trả lời:

- Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!

Chúa ôn tồn bảo con:

- Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống tôi Ta. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?

Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đả quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.

------------------------------

 

Suy Niệm 11: Sinh lại thành con người mới hay không?


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Đây là phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: “Ai tin vào Người Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Người Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”. (Ga 3,36)

 Như vậy, từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại làm sao, ích lợi của việc sinh lại thế nào và tai hại của việc không sinh lại ra sao… Hôm nay, Chúa đòi mỗi người phải quyết định và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: Chúng ta có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không?

Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khỏe. Thế nhưng, ông ta không chỉ nghe để mà nghe mà hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:

- Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.

Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.

Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá. Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.

- Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.

Chúa Giêsu hỏi con:

+ Con đang làm gì đó?
- Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.
+ Sao con không mời ta hút thuốc?

Con vội vã trả lời:

- Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!

Chúa ôn tồn bảo con:

- Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống Ta chứ. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?

- Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng, Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đã quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.

Đó là một cuộc tái sinh, sinh lại rất đẹp.

2. Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại” lần sinh thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).

Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.

Bà đáp:

- Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).

3. “Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời”(Ga 3,36). Muốn sống đời đời phải biết gìn giữ ơn tái sinh.

Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.

Những người thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố…

Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.

Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…

Lạy Chúa, Chúa đã thương cho chúng con được trở nên con của Chúa. Xin cám tạ ơn Ngài mãi mãi. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa Cha trao quyền cho Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Trong bài Tin Mừng của Chúa theo thánh Gioan hôm nay, Chúa muốn nói với ông Nicôđêmô ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay rằng Chúa là Thiên Chúa thật, Chúa từ Chúa Cha mà đến: “Chúa nói: Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến” (Ga 8, 42). Chúa thuộc thế giới linh thánh, ở trên cao, nghĩa là Chúa sang trọng, cao cả, vượt trên tất cả những gì hiện hữu trong thế giới hữu hình và vô hình: “Đấng từ trên cao mà đến thì vượt  trên hết mọi người” (Ga 3, 31a). Do đó, Chúa nhắc nhở chúng ta:

- “Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất” (Ga 3, 31b). Như vậy, chúng ta là loài thụ tạo của Chúa. Một loại thụ tạo bất toàn, tội lỗi, lì lượm, ngang bướng, hay làm phiền, làm khổ Chúa rất nhiều, thích giả dối, không chấp nhận sự thật: “Nhưng lời chứng của Chúa không ai chấp nhận” (Ga 3, 32b). Con người chúng ta yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì các việc chúng ta làm điều xấu xa (Ga 3, 19)

- “Chúa là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6a). Nghĩa là, Chúa là Chúa của sự thật: “Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấn nhận” (Ga 3, 32). Nơi Chúa, không có sự gian dối, giả hình, vì Chúa là Đấng chân thật vô cùng, khôn ngoan vô cùng, thông minh vô cùng….: “Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường” (Ga 3, 34).

- “Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời” (Ga 3, 35 - 36), nghĩa là: “Ai chấp nhận lời chứng của Chúa, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật” (Ga 3, 33). Khi chúng ta tin vào Chúa là Đấng chân thật: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8, 32), và chúng ta làm theo lời Chúa dạy, Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, chúng ta sẽ được tự đo để làm việc phụng thờ Chúa.

- “Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy” (Ga 3, 36). Như thế, không tin, không làm theo thánh ý Chúa, chúng ta sẽ bị thiệt thòi về bản thân mình là chúng ta không được hưởng sự sống đời đời, chúng ta không thể trách móc Chúa được sau này.

Lạy Chúa phục sinh, Chúa luôn gần gũi với chúng con là những kẻ bị tội lỗi thống trị, đè nén, bị rất nhiều những thương tích trong cuộc chiến đấu chống ba thù, cho nên khi chúng con kêu cứu, xin Chúa xót thương nhận lời chúng con và mở mắt chúng con để chúng con thấy được những ơn lành dồi dào mà Chúa ban xuống cho chúng con và chúng con cũng xin Chúa cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho những ơn đó sinh hoa kết quả tốt đẹp trong cuộc đời chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6:

Năm chiếc bánh và hai con cá.
Thứ Sáu tuần 2 Phục Sinh.
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

 

Lời Chúa: Ga 6, 1-15


Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút".
Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Ăn bao nhiêu tùy ý


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,
chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,
mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian
không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,
mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.
Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,
và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.
Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,
bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.
Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.
Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.
Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu:
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.
Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).
Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.
Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.
Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.
Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.
Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,
Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.
Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.
Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.
Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.
Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.
Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.
Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.
Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.
Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.
Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ
như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ
giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thật và giả


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ga-ma-li-en thật là người khôn ngoan. Ông chưa tin Chúa. Nhưng ông có phân định sâu sắc. Đừng vội kết luận. Vội vã kết luận có thể sai lầm chống lại Thiên Chúa. Đó là lỗi lầm trầm trọng. “Nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Qua phép lạ bánh hoá nhiều, ta có thể thấy một vài dấu chỉ của tiên tri thật.

Tiên tri thật quan tâm đến con người, đặc biệt người nghèo. Tiên tri giả chỉ quan tâm đến bản thân. Chúa Giê-su quan tâm đến những người đến với Chúa. Biết họ đói cần được ăn. Không chỉ quan tâm suông. Nhưng cụ thể bằng hành động. Thúc giục các tông đồ lo cho họ ăn. Tìm bánh. Và làm phép lạ.

Tiên tri thật làm việc vì nhu cầu. Tiên tri giả làm để phô trương. Chúa Giê-su chưa bao giờ muốn phô trương. Người hoá bánh ra nhiều vì dân đói đang cần được ăn. Chữa người bệnh vì họ đau khổ cần được cứu chữa.

Tiên tri thật tiết kiệm, trân trọng những gì nhỏ bé. Tiên tri giả hoang phí, chỉ chuộng những gì hoành tráng. Nên Chúa dạy các tông đồ đi thu lượm những mẩu bánh thừa.

Tiên tri thật không tôn vinh bản thân. Cũng không muốn người ta tôn vinh mình. Tiên tri giả luôn tìm nâng mình lên. Muốn được người ta ca tụng. Vì thế Chúa trốn đi khi họ muốn tôn Chúa làm vua.

Chính vì thế người dân tin nhận Chúa: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Chính vì thế các tông đồ xác tín. Sống chết với Chúa. “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”.

Xin cho con nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật. Và xin cho con trở thành chứng nhân thật sự của Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Đấng cứu rỗi thế gian


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều là phép lạ duy nhất được tường thuật trong cả bốn Phúc Âm. Ðiều này chứng minh cho chúng ta biết tầm quan trọng của dấu lạ này trong toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu, cũng như trong sinh hoạt của cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các tông đồ. Những người Kitô đầu tiên thường dùng dấu hiệu bánh và cá để nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi thế gian, và là của ăn ban sự sống đời đời. Chúa Giêsu sẽ giải thích điểm này rộng rãi hơn trong bài giảng tiếp sau biến cố phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều. Chúng ta sẽ lần lượt Suy Niệm về những lời giảng dạy này trong những ngày tới.

Trong những phút Suy Niệm hôm nay, chúng ta hãy chú ý đến thái độ của dân chúng đối với dấu lạ Chúa thực hiện. Có thể nói rằng dân chúng đã hiểu lầm ý định của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng dân chúng đã trần tục hóa biến cố, họ hiểu biến cố trong lăng kính vụ lợi vật chất cho bản thân. Phúc Âm theo thánh Gioan ghi lại chi tiết này: "Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua", có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ. Thay vì biến đổi con người mình trở nên sẵn sàng hơn để lắng nghe sứ điệp của Chúa muốn nói với họ. Hãy cố gắng để được ăn của ăn không hư nát, để được sống đời đời, thì dân chúng lại giới hạn dấu lạ trong chiều kích trần tục của cơm bánh để nuôi sống thể xác mà thôi. Ðây có thể nói là một trong những cám dỗ thường hằng của con người qua mọi thời đại, cám dỗ bắt buộc Thiên Chúa phải và chỉ phục vụ cho những nhu cầu vật chất trần tục mà thôi.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi làm nô lệ cho những tham vọng trần tục. Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những dấu lạ trong đời sống của con, để mời gọi con luôn nâng tâm hồn lên mà nhìn nhận và tôn vinh Chúa hằng ngày. Xin cho con được luôn sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dạy và sống thực hành trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con biết đến gặp Chúa trong bí tích Thánh Thể để được Chúa soi sáng và bổ dưỡng thêm sức mạnh và chu toàn trọn vẹn hơn sứ mạng Chúa đã trao phó cho con.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Sự cộng tác của con người


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Kể từ năm 1891, sau khi Đức Lêô XIII ban hành thông điệp Tân sự, đã có nhiều thông điệp khác về vấn đề xã hội được công bố nhằm đánh dấu sự phát triển và đào sâu giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Năm 1931 có thông điệp kỷ niệm năm thứ 40 do Đức Piô XI ban hành; năm 1961 có thông điệp Mẹ và Thầy của Đức Gioan XXIII; năm 1981, Đức Gioan Phaolô II kỷ niệm 90 năm thông điệp Tân sự bằng Thông điệp về lao động; năm 1987 ngài ban hành thông điệp “Mối quan tâm về vấn đề xã hội” nhằm kỷ niệm 20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI; năm 1991 ngài ban hành thông điệp kỷ niệm năm thứ 100 thông điệp Tân sự.

Tuy với những hoàn cảnh cụ thể và dưới những góc độ khác nhau, những văn kiện trên của các Giáo Hoàng đều đề cập đến những vấn đề của thời đại, đó là tương quan giữa lao động và phát triển. Giáo Hội không đề cao bất cứ một thứ chủ nghĩa chính trị và kinh tế nào. Giáo Hội không ngừng cổ võ sự phát triển dựa trên công lý và tình liên đới. Theo giáo huấn của Giáo Hội, nếu trên thế giới còn có các quốc gia nghèo khổ, là vì những nước giầu còn quá ích kỷ chưa muốn san sẻ tài nguyên và sự phát triển của họ. Nếu trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lúc càng tăng, là bởi vì người giầu không muốn chia sẻ của cải mình cho người nghèo.

Tin mừng hôm nay là một trong những trang từ đó Giáo Hội mức lấy giáo huấn của mình về vấn đề xã hội. Chúa Giêsu là Đấng toàn năng, Ngài chỉ cần phán một lời thì đám đông hơn 5.000 người đi theo Ngài có thể ăn no nê. Nhưng chúa Giêsu đã không làm thế. Phép lạ Ngài thực hiện xem chừng chỉ có thể diễn ra nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. 5 chiếc bánh và 2 con cá không là gì so với một đám đông như thế; vả lại trong xã hội Do thái thời đó, em bé vốn cũng chỉ là một con số không trong bậc thang xã hội; vậy mà từ con số không ấy, từ một sự đáp trả khiêm tốn ấy, đám đông hơn 5.000 người đã được ăn no nê.

Bài học mà Giáo Hội đón nhận từ phép lạ ấy thật rõ ràng: lòng quảng đại, sự san sẻ của con người là chìa khoá giúp giải quyết vấn đề nghèo đói. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, vào Giaó Hội tin rằng Ngài vẫn tiếp tục nhân bánh và cá ra nhiều cho những người nghèo đói. Qua bao nhiêu thế kỷ, với những đóng góp và chia sẻ của các tín hữu, đã có biết bao người được ăn uống no nê. Những hoạt động từ thiện, những chương trình trợ giúp phát triển của Giáo Hội là những phép lạ mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện cho những người nghèo đói. Những mẹ Têrêxa Calcutta, những cha Pierre, những nữ tu Emmanuel và bao nhiêu gương mặt âm thầm khác trong Giáo Hội, đó là những em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá đã đóng góp vào việc thực hiện phép lạ.

Một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá, chỉ với một đóng góp ít ỏi đó cũng đủ để Chúa Giêsu làm một phép lạ cả thể. Ngày nay liệu chúng ta có đủ lòng tin để tin rằng với một ít san sẻ do lòng quảng đại của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn đó có thể làm phép lạ để bao người đói khổ chung quanh chúng ta được ăn no nê không?

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Dự tính tương lai


Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no nê rồi thì Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiế bánh lúa mạch người ta đã ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga. 6, 11-14)

Đã bao giờ chúng ta Suy Niệm về điểm quan trọng này chưa? Giáo lý thuở ban đầu đã dạy về phép lạ bánh hóa nhiều bằng sáu câu chuyện tương tự được Tin mừng kể lại. Những câu chuyện này chắc chắn có một số nét chung. Hai lần Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều: Một lần từ năm chiếc bánh và hai con cá và thu được mười hai thúng còn dư. Một lần từ bảy chiếc bánh và vài con cá, còn thu được bảy thúng còn dư.

Sự dư thừa dồi dào còn được đối chiếu với câu chuyện Cựu ước trong sách Các Vua từ tám thế kỷ trước Đức Giêsu: Ngôn sứ Ê-li-sê đã làm cho hai mươi tấm bánh hóa ra nhiều cho một trăm người ăn, Chúa cũng đã nói với ngôn sứ: “Họ ăn và còn dư”. Cùng đề tài dồi dào dư thừa do lòng quảng đại của Chúa đã được thể hiện lại trong Tin mừng thánh Gio-an ở tiệc cưới Ca-na: Phép lạ nước biến thành rượu, dồi dào đầy những chum nước lớn chứ không chỉ đầy các chai trên bàn tiệc.

Chắc hẳn, việc Đức Giêsu ban dồi dào dư thừa đó không chỉ là rượu, bánh, của ăn vật chất, nhưng chính là Người nữa, vì Người đã nói: “Ta là cây nho thật” và “Ta là bánh ban sự sống”. Tất nhiên chúng ta phải nghĩ đến phép Thánh Thể. Toàn thể mầu nhiệm về Đức Kitô hàm chứa trong những câu: “Ta là” đã được Tin mừng thánh Gio-an ghi lại: “Ta là … ánh sáng thế gian, là mục tử tốt lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và sự sống, là đường, là sự thật và sự sống”. Phải là tất cả những gì chúng ta cần: bánh, rượu, ánh sáng, sự sống, che chở, hướng dẫn, Đức Giêsu là tất cả thứ đó. Thánh Gio-an thêm một định nghĩa nữa Đức Giêsu là Ngôi Lời, nghĩa là Lời Hằng Sống. Với Gio-an, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng nói với chính Gio-an và với thế nhân, Đấng đã tự nói ra qua các tín hữu của mình … Như thánh Phao-lô đã gọi: Đức Kitô toàn diện, Đức Kitô phục sinh đã nhập thể vào tất cả các kẻ tin nhờ Thánh Thần.

Chúng ta cần phải sống với Đức Giêsu, Đấng đã nuôi dưỡng và tái tạo chúng ta trong Thánh Thần, Đấng đã ban Thánh Thần cho chúng ta, đổi mới chúng ta luôn mãi, Đấng là nguồn mạch sự sống không ngừng, đó là nguồn suối trường sinh khôn lường. Con người mới mà thánh Phao-lô nói với chúng ta, phải thanh tẩy không ngừng, làm việc không ngừng để phụng sự Thiên Chúa. Đấng là nguồn suối chặn đứng mọi cơn khát và mọi già nua, suy thoái của chúng ta.

L.P

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Phép lạ do tình thương


Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.

Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’" (Ga 6, 5).

Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).

Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.

Bên cạnh đó, chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu mời gọi, chờ đợi sự đóng góp của con người


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống trên năm ngàn người ăn no nê, Chúa Giêsu cần đến sự đóng góp nhỏ nhoi của con người. Ngài mời gọi ta góp phần của mình trong công cuộc cứu độ nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, dù biết việc mình sẽ làm, Chúa vẫn hỏi ông Phi-líp-phê tìm đâu ra bánh. Chúa muốn các tông đồ cộng tác với Chúa. Và ông An-rê đã tìm được một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá. Đây là thức ăn của người nghèo, nhưng cậu bé cũng đã quảng đại dâng tất cả cho Chúa.

Lạy Chúa, với năm chiếc bánh và hai con cá đó, Chúa đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi sống trên năm ngàn người ăn no nê. Quyền năng của Chúa có thể làm được tất cả mọi sự, không cần ai góp sức. Thế nhưng Chúa vẫn mời gọi, vẫn chờ đợi sự đóng góp của con người, và sự đóng góp dù rất tầm thường nhỏ bé, Chúa vẫn nhận và làm phát sinh hậu quả dồi dào tốt đẹp.

Lạy Chúa, ngày nay, xuyên qua những biến cố trong cuộc sống hằng ngày, trong một thế giới còn rất nhiều người đang đói khát vật chất và tinh thần, con biết Chúa vẫn đang chờ đợi con đóng góp phần của mình để xoa dịu những cơn đói khát khổ đau ấy: có thể là một ly nước lã cho người đang khát, một chén cơm cho người đang đói, hay một chiếc áo cho người đang lạnh, có thể là một lời ủi an cho người đang đau khổ, một nụ cuời thân ái cho người bất hạnh, và ngay cả một lời thứ tha cho kẻ thù. Xin cho con luôn thiết tha cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ nhân loại. Và xin cho con luôn ghi nhớ mỗi ngày ít ra con phải làm một việc thiện nào đó để góp phần xây dựng thế giới hoà bình hôm nay. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Thiên Chúa cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tại góc đường của một thành phố lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng xa ăn xin với đứa con trai nhỏ gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi qua đường phố, có một người đàn ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng nào, cũng chẳng giúp đỡ gì.

Nhưng khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn với đủ mọi thứ cao lương mỹ vị, ông liên tưởng đến thằng bé còm nhom và người mẹ khốn khổ của nó. Càng nghĩ về họ ông càng tức giận Thiên Chúa.

Rồi ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm sao Ngài lại có thể để cho sự khốn khổ như thế này xảy ra cho được? Tại sao Ngài lại không làm gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó?”. Và từ một nơi nào đó, rất sâu tự bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm. Ta đã dựng nên ngươi” (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr. 216).

Suy niệm

Dân Chúa đứng trước sự đói khát về nhu cầu thân xác, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn (lương thực cho năm ngàn người). Người bảo các ông: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”, có nghĩa là sửa soạn ăn, ngả lưng là tư thế để ăn, như là tư thế sẵn sàng để lãnh nhận hồng ân. “Cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn”. Bánh trao ban dư đầy thu được mười hai thúng đầy, ý muốn chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước Trời (Mt 8,11-12; 22,1.10). Hành động trung tâm của nước Trời và mọi người đều ăn no. Sự dư dật là một dấu chỉ được báo cho thời kỳ của Đấng Mêssia trong Kinh Thánh (x. Đnl 6,11; Tv 132,15; Is 65,10).

Phép lạ bánh hóa nhiều của Chúa Giêsu gợi cho chúng ta sự việc: Tiên tri Êlisê ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi mang hai mươi chiếc bánh nuôi cả trăm người (x. 2V 4,42-44). Các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Qua đó, cho chúng ta thấy Ngài yêu thương con người. Ngài cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.

Ðược chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều, người Do Thái cho rằng Ðức Giêsu là vị ngôn sứ của thời cuối cùng được sai đến để giải phóng dân tộc và phục hồi sức mạnh nước Israel. Họ muốn tôn Ðức Giêsu làm vua với mục đích để Ngài bảo đảm đời sống cho họ bằng những phép lạ tương tự. Nhưng Ngài được Thiên Chúa sai đến thế gian không phải để làm chính trị mà để cứu vớt con người, dẫn đưa họ về với Thiên Chúa. Cho nên, Ðức Giêsu trốn lên núi một mình.

Xin cho chúng ta lòng khao khát tìm đến bên Chúa, lắng nghe Lời, được Ngài chạnh lòng thương và ban phát của ăn tinh thần là Thánh Thể, cũng như cả lương thực nuôi thân xác như Ngài ra tỏ tình thương qua phép lạ bánh hóa nhiều.

Ý lực sống: “Hãy tin tưởng những lời thầm thì của Thiên Chúa trong tâm hồn các con”. (Chân phước Mary MacKillop)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi thân xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói: “Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Phép lạ làm cho bánh hóa nhiều trong bài Tin Mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyên năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của con người và sự quan phòng của Thiên Chúa.

2. Dân chúng đứng trước sự đói khát về nhu cầu thể xác, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ta mua đâu được bánh cho những ngjười này ăn”? Các môn đệ thưa lại rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn (lương thực cho năm ngàn người). Ngài bảo các ông: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Chúa cho họ ăn uống no nê mà còn thu lại được 12 thúng đầy những mảnh vụn còn lại.

3. Đứng trước phép lạ này, chúng ta nên để ý đến thái độ của dân chúng. Có thề nói rằng dân chúng đã hiểu lầm ý định của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng dân chúng đã trần tục hóa biến cố trong lăng kính vụ lợi vật chất cho bản thân. Phúc âm thánh Gioan ghi lại chi tiết này: “Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua”, có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ, thay vì biến đổi con người mình trở nên sẵn sàng hơn để lắng nghe sứ điệp của Chúa muốn nói với họ.

4. Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên, nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Israel khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học hữu ích.

Trong lời giới thiệu cuốn sách “5 chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y FX Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên Hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: “Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi  một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa, Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (tr 5).

5. Một người đàn ông nghèo còn đúng 50 xu. Sáng Chúa nhật đi lễ, người lắc giỏ đi tới, ông bỏ hết vào giỏ. Tan lễ, ông được tin một xí nghiệp đang tuyển công nhân, nhưng phải đi xe lửa tới đó mất 1 đô. Không còn tiền, ông đi bộ tới xí nghiệp khác gần nhà thờ. May thay, ông tìm ngay được việc làm. Cuối tuần, ông lãnh được số tiền gấp 10 lần mà ông đã cho đi. Người đàn ông đó là chủ một thương hiệu giầy da nổi tiếng, tên là W.L. Douglas.

Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát lương thực, áo quần, thuốc men và sâu xa hơn nữa, đói khát sự sống đích thực mà chỉ có Thiên Chúa mới làm no thỏa. Thiên Chúa biết hết mọi điều thầm kín, bí ẩn trong tâm can con người, cũng như biết rõ những nhu cầu thiết yếu của họ.

6. Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ  Ngài đã làm trong Thánh Kinh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin Mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.

7. Truyện: Biết cảm tạ và cộng tác với Chúa.

Việc tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen rất tốt, vì chúng ta bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.

Một gia đình nọ có thói quen tốt, khi mọi người đã ngồi vào bàn ăn, ai nấy đều cúi đầu và đứa bé út trong nhà có nhiệm vụ đọc lời cầu nguyện. Hôm ấy nó đọc: “Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.

Mỗi lần đứa con cất lên lời cầu nguyện như thế, người cha đều cảm thấy sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt.

Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: Trên thế giới có 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.

Ông liền suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách, bần cùng? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn, vì gia đình ông được Thiên Chúa thương hơn những con người khác?

Và hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Phép lạ hóa bánh ra nhiều


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Từ hôm nay sang bài giáo lý thứ hai về Bí tích Thánh Thể, dựa trên đơn vị phép lạ hóa bánh ra nhiều, bài trích Phúc Âm hôm nay tường thuật phép lạ ấy. Phép lạ này được cả 4 quyển Phúc Âm tường thuật. Nhưng bài tường thuật của Gioan có những chi tiết riêng biệt như sau:

- Xác định rõ nơi xảy ra là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “đám đông dân chúng theo Người”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.

- Nhưng Gioan còn ghi thêm “vì họ đã thấy những phép lạ Người làm” chứng tỏ dân theo Ngài vì lòng vị lợi chứ không phải do đức tin thật.

- Các bài trình thuật trong Phúc Âm nhất lãm, các môn đệ nói cho Chúa Giêsu biết dân chúng đói bụng. Còn trong Gioan, chính Chúa Giêsu hỏi các môn đệ làm sao có bánh cho dân ăn.

- Trong nhất lãm, Chúa Giêsu bảo các môn đệ phân phát bánh và các cho dân. Còn trong Gioan chính Chúa Giêsu phân phát.

- Khác biệt quan trọng nhất là Gioan coi phép lạ này là dấu chỉ giúp người ta hiểu về mầu nhiệm bản thân Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Trước sứ mạng Chúa giao, ai cũng thấy rằng mình không đủ khả năng. Không bao giờ chúng ta ngang tầm để có thể đáp ứng ý muốn của Chúa. Nhưng cũng như Philipphê và các môn đệ xưa, chúng ta cứ bắt đầu rồi Chúa sẽ tiếp tay cho đến hoàn thành. Thực ra, Chúa không đòi ta làm điều ta không thể, Ngài chỉ muốn chúng ta để Ngài hành động trong và qua chúng ta.

2. Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.

3. Một lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, trong tay chúng con, Chúa là bánh
Trong tay chúng con, Chúa là sự sống.
Xin hãy mở rộng tay chúng con, để ban bánh cho người khác
Xin hãy mở rộng chúng con, để ban sự sống cho người khác.

4. “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”.

Hồi nhỏ, mỗi khi nghe đoạn Phúc Âm này tôi tự hỏi: nếu em bé kia cứ khư khư giữ lấy phần thức ăn ít ỏi của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Chợt tôi nghe như có tiếng đáp lại: “Điều ta muốn là tấm lòng quảng đại của con”.

Từ đó trở đi tôi thực sự mới cảm nhận được rằng: nếu tôi trao ban mà còn so đo tính toán thiệt hơn, nếu tôi không trao ban với tấm lòng quảng đại của mình, thì hành vi kia thật là vô nghĩa.

Em bé trong Phúc Âm Gioan hôm nay lại một lần nữa nhắc bản thân mỗi chúng ta về cách trao ban cho người anh em khác.

 Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại. (Epphata).

5. Một cậu bé nghe nói về Chúa, cậu thắc mắc: “Chúa là ai ?”

Một hôm cậu quyết định một mình đi tìm Chúa. Với cái túi nhỏ đựng ít bánh và nước ngọt, cậu bé đến một công viên gần nhà. Vừa bước vào công viên cậu đã gặp một bà cụ đang ngồi trên ghế đá. Cụ bà đang say sưa nhìn mấy con chim bồ câu đến nhặt thức ăn. Cậu bé liền đến ngồi bên cạnh bà, rồi mở cặp lấy bánh và nước ngọt ra.

Nhận thấy bà cụ như có vẻ như thiếu ăn, cậu bèn lấy bánh mời bà cụ. Bà cụ vui vẻ đón nhận và mỉm cười với cậu. Sau đó cậu lấy nước ngọt ra và cũng mời bà như thế. Một lần nữa bà lại đón nhận và mỉm cười. Chưa bao giờ cậu bé cảm thấy hân hoan như vậy. Cả buổi chiều hôm đó, bà cháu ngồi bên nhau, chia sẻ từng miếng bánh, từng hớp nước ngọt, mỉm cười với nhau mà không cần phải nói với nhau lời nào.

Chiều đã muộn, sợ cha mẹ sốt ruột, cậu bé đứng lên ra về. Vừa đi được một quãng, cậu lại quay lại bá cổ bà cụ, rồi hôn vào má bà cụ. Cụ bà đáp lại cái hôn ấy bằng một nụ cười đẹp như chưa bao giờ có. Khi cậu bé vừa mở cửa bước vào nhà, người mẹ nhận ra ngay trên gương mặt con mình một niềm vui mà bà chưa từng thấy bao giờ. Bà liền hỏi con:

- Hôm nay con làm gì mà vui thế ?

Cậu bé đáp:

- Hôm nay con ăn uống với Chúa.

Người mẹ ngỡ ngàng chưa hiểu gì thì cậu bé nói tiếp:

- Mẹ biết không, con chưa bao giờ thấy ai có nụ cười đẹp bằng nụ cười của Chúa.

Còn bà cụ, với một niềm vui rộn rã trong tâm hồn, bà thong thả trở về nhà. Vừa bước chân vào cửa thì người con út đã nhận ra ngay sự bình thản khác thường trên gương mặt mẹ mình cho nên cậu hỏi ngay:

- Hôm nay mẹ làm gì mà vui thế.

Bà cụ trả lời:

- Mẹ đã ăn bánh với Chúa.

Trước sự ngỡ ngàng của người con, bà giải thích:

- Con biết không. Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ rất nhiều.

6. Một tác giả vô danh đã tưởng tượng ra một câu truyện sau:

Khi Thiên Chúa tạo dựng xong vũ trụ cũng như muôn người muôn vật thì Ngài gọi các sứ thần lại để hỏi xem nên đặt cái bí ẩn của sự sống - tức là cái quí giá nhất trong chương trình sáng tạo của Ngài - ở đâu ?

Một sứ thần góp ý: “Nên chôn vùi nó dưới đất”

Một sứ thần khác: “Nên đặt nó dưới đáy biển”

Một vi nữa lại đề nghị: “Đặt nó trên núi cao là thượng sách”

Thế nhưng Thiên Chúa không đồng ý với những giải pháp kể trên. Ngài nói: “Phải làm thế nào để cho bất cứ người nào cũng có được cái bí ẩn của sự sống mới được”

Cuối cùng một sứ thần liền nói: “Nên đặt cái bí ẩn ấy nơi trái tim con người”

Thiên Chúa nhận thấy đó là điều tốt đẹp, Ngài liền đặt cái bí ẩn của sự sống vào trái tim con người. Và từ đó con người luôn thấy mình có một sức sống tuyệt vời hơn hẳn các loài thụ tạo khác.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Biết quảng đại trao ban như Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Vâng! Sau khi Chúa đã giúp chúng ta tìm lại được địa vị làm con Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, bắt đầu từ hôm nay chúng ta được Chúa nói cho chúng ta về lương thực Ngài ban cho chúng ta. Tôi muốn nói đến Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội dựa trên bài tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều để nói về vấn đề này.

Phép lạ này được cả 4 quyển Tin Mừng ghi lại. Nhưng bài tường thuật của Gioan có nhiều chi tiết đặc biệt hơn:

Trước hết, Gioan xác định rõ nơi xảy ra phép lạ. Đó là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “dân chúng theo Người đông lắm”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.

Gioan đã coi phép lạ này như một dấu chỉ giúp người ta hiểu về mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.

2. Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.

Vâng, chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được những khát vọng, nhất là những khát vọng sâu xa và thầm kín nhất nơi con người, vì Chúa là chính sự sống mà con người hằng mong đợi.

Tấm lòng của Chúa Giêsu thật lớn lao, thật không có gì sánh kịp. Chúa ban phát và ban phát không có giới hạn. Ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Tất cả được ăn no nê mà vẫn còn dư.

“Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý”. (Ga 6,11)

Đọc lịch sử các thánh, tôi thấy thánh Gioan Don Bosco là một vị thánh có lòng sùng kính Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể một cách đặc biệt. Ngài đã rút ra được rất nhiều bài học từ bí tích này. Có lần ngài đã kể câu chuyện này cho các thiếu niên, con cái ngài yêu thương:

Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.

Dọc đường, Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:

- Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?

Chúa Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.

Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.

Rồi một lần khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông. Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:

- Nào chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!

Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:

- Đúng là Thầy đã chơi khăm con!

Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:

- Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ từ “5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé dâng cho Ngài”. Phải nói rằng, em bé trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho mọi người về lòng quảng đại. Đúng là em đã không tính toán một chút nào khi em dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá. Em đã dâng cho Chúa tất cả, chẳng giữ lại cho mình chút nào. Và Chúa Giêsu làm phép lạ biến bánh và cá ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá đó. Sau đó, mọi người đã được ăn no nê và thu lại được cả 12 thúng bánh vụn!

Công việc của Chúa quả là hết sức đặc biệt và ở đây chúng ta phải nhận rằng, việc Chúa làm còn quảng đại hơn nhiều, không phải chỉ với phép lạ hôm nay mà còn trong suốt lịch sử của loài người.

Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban.

Với Chúa, xin cho chúng con biết dâng trọn tấm lòng vâng phục, phó thác tri ân.

Với mọi người, xin cho chúng con luôn biết sống quảng đại, hy sinh, cảm thông, và tha thứ để chúng con hiểu được rằng, biết quảng đại trao ban như Chúa là một niềm hạnh phúc cho chúng con.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa ban của ăn cho dân chúng


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Lời Chúa trong Thánh Vịnh đã nói: “Khi Ngài rông mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144, 16) đã được minh chứng qua bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, khi mà Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé trai mang theo để ăn khi nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, và rồi nuôi dân chúng theo Chúa ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy các miếng bánh vụn. Những chi tiết thánh Gioan đề cập đến trong bài Tin Mừng này làm cho chúng ta phải dừng lại để nghĩ suy và khám phá ra những ý nghĩa rất thiết thực cho cuộc sống ngày hôm nay.

- Địa điểm là ở miền Galilêa: “Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (Ga 6, 1 – 3). Đây là cùng dân ngoại, mà còn ở trên núi cao nữa, cho nên quá vắng vẻ, xa cách làng mạc của dân chúng. Vì vậy, về phương diện tự nhiên không thể giải quyết được về vấn đề của ăn thức uống cho dân chúng. Vì thế, phép lạ Chúa làm đây quá vĩ đại và cho lương dân biết tình yêu và quyền năng của Chúa.

- Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút” (Ga 6, 5 – 7). Điều ấy cho chúng ta thấy dân Do Thái lẽ ra phải lo chuẩn bị cho ngày lễ trọng đại bậc nhất của họ, thế mà họ vẫn theo Chúa đông đảo để chứng tỏ rằng Chúa là lễ Vượt Qua mới của họ, là Chiên Vượt Qua mới của họ, chỉ nơi Chúa họ mới tìm được chân lý, lẽ sống, nguồn vui, hạnh phúc của họ, cho nên họ khao khát Chúa là vậy.

- “Philipphê thưa: Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (Ga 6, 7 – 10). Ở đây chúng ta thấy có thánh Philípphê mà lúc trước có giới thiệu và dẫn thánh Batôlômêô đến gặp Chúa (Ga 1, 45 – 51) và thánh Anrê đã ở với Chúa rồi sau đó dẫn thánh Phêrô, em ngài đến gặp Chúa (Ga 1, 35 – 45). Như vậy, Chúa chọn một ai thì Chúa luôn trung thành với người ấy. Chúa luôn tin tưởng giao phó sứ mạng và luôn tạo cho người ấy cơ hội cộng tác với Chúa mà lập công phúc cho mình.

- “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người . Chúa Giêsu nói: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư” (Ga 6, 9 – 13). Chúa có thể làm phép lạ từ không có bánh thành có bánh ăn, nhưng Chúa cần sự đóng góp của con người chúng ta, người thì có công, người thì có của để Chúa làm nên phép lạ cho người khác được nhờ. Chúa dạy chúng ta biết chia sẻ cho anh chị em theo khả năng của mình, dù là rất nhỏ bé, chúng ta không phải nghĩ ngợi gì về kết quả, vì có Chúa giúp đỡ cho chúng ta và cho anh chị em chúng ta rồi.

Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi ăn dân chúng theo Chúa để rồi Chúa báo trước phép lạ Thánh Thể Chúa sẽ ban cho chúng ta, nuôi hồn chúng ta. Như vậy, Chúa là Đấng nuôi chúng ta cả hồn lẫn xác và hướng chúng ta đến bàn tiệc thiên quốc sau này, khi chúng ta từ giã đời này mà về với Chúa.

Lạy Chúa là Đấng sống lại từ cõi chết, chúng con được hưởng biết bao ơn lành Chúa ban qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết chia sẻ cho anh chị em chúng con những gì mình có để rồi từ đó Chúa tiếp tục làm phép lạ dưỡng nuôi anh chị em của chúng con, cho anh chị em của chúng con vượt qua sự túng thiếu mà sống an vui hơn. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 7:

Bến bờ bình an.
Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh.
"Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển".

 

Lời Chúa: Ga 6, 16-21


Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.
Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.
Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chính Thầy đây


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Ítraen khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Ítraen,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)

-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thầy đây, đừng sợ


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Các tông đồ một phen hoảng sợ. “Trời đã tối mà Chúa Giê-su chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh”. Không có Chúa đời sống thật dễ sợ. Vượt biển là nguy hiểm. Đi lúc trời tối còn nguy hiểm hơn. Lại còn thêm sóng gió. Thập phần nguy hiểm. Đó là tình hình tâm hồn thiếu vắng Chúa. Vắng Chúa tâm hồn chìm trong bóng đêm. Bóng đêm chỉ nói những lời đe doạ. Khiến tâm hồn lo âu xao xuyến. Vắng Chúa tâm hồn bất an. Biết bao sóng gió nổi lên. Thế lực sự dữ thét gào muốn nhấn chìm và nuốt trửng con người. Con người phải vất vả chèo chống mà không đi đến đâu. Chèo mãi mới đi “được chừng năm hoặc sáu cây số”.

Nhưng khi có Chúa, mọi sự đi vào ổn định.”Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ”. Sức con người thật yếu ớt. Chèo mãi mới đi được chừng năm hoặc sáu cây số. Nhưng Chúa vừa xuất hiện thì thuyền đã đến bờ. Có Chúa bóng đêm bị xua tan. Sóng yên biển lặng. Và chẳng cần vất vả chèo chống thuyền đã đến nơi. Đến một cách nhanh chóng. Vượt sức loài người. Vượt trí tưởng tượng của loài người.

Sau khi Chúa phục sinh, sự hiện diện của Chúa càng mãnh liệt hơn. Các tông đồ tràn đầy xác tín. Vì tin Chúa đang ở với các ngài. Các tín hữu cử hành phụng vụ với niềm tin sâu xa. Vì sự hiện diện của Chúa quá mãnh liệt.

Vì thế quyền năng Chúa càng cụ thể hơn. Các tông đồ làm được những điềm thiêng dấu lạ. Thánh Phê-rô đã chữa người què từ thuở mới sinh. Và cho kẻ chết sống lại.

Phép lạ hằng ngày. Đó là chỉ với một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, thất học. Nhưng “Lời Chúa vẫn lan tràn và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Càng với những người yếu đuối, bé nhỏ, thấp hèn, quyền năng Chúa càng hiển hiện.

Xin cho con luôn có Chúa. Để đời sống con được an vui. Xin cho con biết mình bé nhỏ yếu đuối. Để quyền năng Chúa hiển hiện. Đem lại nhiều hoa trái cho Giáo hội.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Bến bờ bình an


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước cũng được Phúc Âm theo thánh Matthêu và thánh Marcô mô tả nhưng với vài chi tiết khác nhau. Sự khác nhau này làm cho chúng ta thấy được chủ ý khác nhau của mỗi tác giả Phúc Âm. Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan không nói đến chi tiết Chúa Giêsu đến để trợ giúp cho các tông đồ đang gặp khó khăn, cũng không nói gì đến việc làm cho sóng gió im lặng, nhưng lại nhắc đến chi tiết khác là thuyền của các tông đồ tới bến tức thì. Ðọc lại bài tường thuật về biến cố, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điểm này, là tác giả chú ý và muốn cho người đọc như chú ý đến Chúa Giêsu nhiều hơn.

Tác giả bài tường thuật cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng thần linh và không tùy thuộc vào những định luật giới hạn của thiên nhiên. Thường tình, con người tự nhiên không thể nào đi trên mặt nước mà không bị té ngã. Trong cuộc sống, rất nhiều khi người Kitô chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ mặc cho bão táp phong ba xô đẩy. Thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sóng gió cuộc đời. Có thể đến khi thuyền cập bến, chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xảy ra và những gì Ngài sẽ làm.

Lạy Chúa, giữa những phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó, chúng con an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Tin tưởng vào Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của địch. Ông xác quyết với toàn thể binh sĩ rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng. vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện vào gieo thử một quẻ: nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua”. một lúc sau từ trong nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này”. Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng. Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được bàn tay của số mệnh”. Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy”. Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.

Một trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. chỉ một thoáng bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để đối thủ chiếm được ưu thế.

Tin mừng hôm nay cũng nói đến sự sợ hãi bối rối nơi các tông đồ. Có lẽ chẳng phải do tình cờ mà các thánh sử đặt phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt biển liền sau phép lạ bánh hoá nhiều. cả hai phép lạ đều có chung một chủ đề là quyền năng củaChuá Giêsu trên thiên nhiên và trên những vật vô tri giác, và trước mỗi phép lạ các môn đệ đều bị đẩy vào tình trạng lo sợ. thương xót đoàn dân theo Ngài, Chúa Giêsu bảo các môn đệ kiếm bánh cho họ ăn, nhưng giữa nơi oang địa làm sao có đủ bánh cho chừng ấy người. sau đó ngài lại giục các ông sang bờ bên kia trước, trong khi ngài ở lại giải tán dân, và rồi thueỳ6n các ông gặp cơn bão táp. Làm như thế, không phải Chúa có ý bỏ rơi các ông, nhưng chỉ muốn các ông có cơ hội củng cố niềm tin. “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Ngài vẫn ở gần và quan tâm đến các ông.

Trong cuộc sống, rất nhiều khi người kitô hữu chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chuá bỏ mặc cho bão táp xô đẩy. thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sống gió cuộc đời. có thể đến khi thuyền cập bến chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xẩy ra và những gì Ngài sẽ làm.

Giữa phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng ta luôn tìn tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Đừng sợ, Thầy đây.


Chiều đến các môn đệ xuống Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu còn chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga. 6, 16-19)

Sau ngày làm phép lạ bánh hóa nhiều đáng ghi nhớ, các môn đệ lại xuống thuyền vượt biển trở về Ca-phác-na-um. Còn Đức Giêsu ở lại cầu nguyện tới khuya như thói quen mọi ngày. Các tông đồ vất vả chèo thuyền vượt bão biển.

Đó cũng là những kinh nghiệm thường xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống, sau những cảm nghiệm sống đức tin mạnh mẽ, chúng ta lại cảm thấy cô đơn bắt tay vào công việc chẳng thấy tiến bộ gì.

Bao nhiêu thắc mắc vùng dậy: tại sao Đức Giêsu không đến với chúng ta, đồng hành với ta, nâng đỡ ta?

Cần phải nhận biết rằng Đức Giêsu muốn để chúng ta đi một mình, vì chúng ta là tạo vật có trách nhiệm. Đức tin vào Người không san bằng những khó khăn, không dẹp tan giông tố. Đức tin không nhổ sạch các chông gai, trở ngại. Kitô hữu đừng lầm tưởng đạo Chúa Kitô là một đạo dễ dãi, một đạo xây nhà trú ẩn khỏi mọi nỗi lo sợ chiến đấu.

Hơn nữa, nếu Đức Giêsu để các môn đệ đi một mình, chính là chỉ cho ta biết phải lo hành động, phải tập bước, phải cố gắng tự làm một mình, không lười biếng, ỷ nại vào Thiên Chúa. Đó là những thái độ quyết định và giải đáp của con người có nhân bản.

Có thể chúng ta sợ thiếu vắng Đức Giêsu vì chúng ta đã quá quen với những sự bao che của gia đình, của trường học và xã hội. Nay đã đến thời tất cả các thể chế đó không còn nói gì đến Đức Giêsu nữa, nên chúng ta bơ vơ lạc lõng không dám tự đi, không dám tiến lên, không dám tự động hành đạo. Chúng ta sợ không thấy Đức Giêsu đứng chờ bên kia chướng ngại vật, sau cơn bão tố nữa.

Tin mừng cho chúng ta thấy lý do cần phải chúc tụng Thiên Chúa vì biết rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có tự do và trách nhiệm để chúng ta biết quyết định và thăng tiến.

Nhưng chúng ta phải biết luôn luôn cầu nguyện xin Chúa nối kết, đồng hành và tiếp sức cho chúng ta tới bến bờ bên kia, cầu nguyện để tăng thêm lòng trông cậy tin tưởng Ngài ở đó để ban sức mạnh cho chúng ta đạt tới đích muôn đời.

C.G

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Thầy đây, đừng sợ”


Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!

Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố, cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau bằng gang tấc!

Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên... mạng sống của con người lúc này được ví như:  “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.

Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.

Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên làm vua theo ý của họ.

Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong. Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà họ không biết... Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng sợ”.

Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.

Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay. Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.

“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho chúng con hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Có Chúa là có bình an


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Có Chúa là có bình an. Hãy giữ Chúa trong lòng, giữ Chúa trong gia đình…, để mỗi người, mỗi gia đình được an vui.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con mường tượng cảnh các tông đồ giữa biển khơi cô đơn trên con thuyền tròng trành vì gió bão. Sức lực con người nhỏ bé quá so với sức mạnh thiên nhiên. Nếu lúc đó có Chúa trên thuyền, chắc chắn các tông đồ sẽ không hoảng sợ. Các tông đồ đã từng chứng kiến Chúa phán một lời khiến gió bão lặng yên. Có Chúa là có bình an. Không có Chúa, các tông đồ phải vất vả chèo chống. Sức người quá nhỏ bé so với cuồng phong biển cả. Giữa lúc khốn khó ấy, Chúa đã xuất hiện để uỷ lạo đoàn con nhỏ bé của Chúa: “Thầy đây, đừng sợ”. Có Chúa là có bình an.

Lạy Chúa, đời con như chiếc thuyền nan nhỏ bé lắm so với cuộc đời, yếu đuối lắm trước những cám dỗ của trần gian. Nghĩ lại, có nhiều lần con đã mất bình an trong tâm hồn, cuồng phong đã nổi lên trong lòng con. Đó là lúc con không có Chúa trong tâm hồn. Mỗi khi con cố tình lỗi phạm một điều luật nặng là con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn con. Lúc đó, lương tâm áy náy đã đưa đẩy đôi chân con đi tìm quên lãng trong những đam mê trần thế: trong chén rượu, giữa canh bạc…, để rồi sau đó lại thêm chán chường thất vọng hơn.

Xin Chúa thêm sức cho con để mỗi lần con lỗi phạm, đánh mất Chúa, con biết can đảm trở về với Chúa qua cánh cửa bí tích giao hoà để lấy lại bình an. Mỗi lần con trở về như thế, con rước Chúa ngự vào lòng con. Chẳng những con được an vui, mà Chúa còn tỏ cho con biết cả Chúa cũng mừng vui, cả triều thần thiên quốc cũng hân hoan. Và chính lúc đó, gia đình con cũng được hoà thuận yên vui.

Xin Chúa ở lại với con và ở lại với gia đình con, để khi con vui, niềm vui của con được trọn vẹn, khi con buồn, nỗi buồn được vơi nhẹ nhờ sức Chúa đỡ nâng. Amen.

Ghi nhớ: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chính Thầy đây, đừng sợ


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nhà truyền giáo Moody kể: “Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Đức Giêsu Kitô, như một người con của Chúa”.

Suy niệm

Ban đêm, như Tin Mừng xác định: “Trời đã tối”. “Đêm tối” (Mt 14,25), là giờ của thử thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Ban đêm giữa đêm tối, biển nổi sóng. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). “Biển” ở đây mang hình ảnh là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu. Còn cuồng phong là biểu tượng cho tất cả những gì ngăn cản con người tiến bước trong hành trình đức tin. Các môn đệ phải nỗ lực băng qua biển, mệt mỏi chống chọi lại cuồng phong là biểu tượng của người theo Chúa đang vất vả chiến đấu với mọi thế lực bóng tối muốn tiêu diệt chúng ta…

Đức Giêsu tỏ quyền năng mình là Thiên Chúa đi trên biển chế ngự biển và phong ba? Ngài cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển và mọi người bình an về tới bến. Như thế, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).

Con thuyền là biểu tượng của Giáo hội (x. Mt 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó. Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn thiếu tự tin. Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn dông trên biển giữa đêm tối. Con thuyền lênh đênh chèo chống vất vả trước phong ba cũng là biểu tượng của mọi người chúng ta lênh đênh trên biển đời giữa phong ba bão tố của thử thách, mịt mù. Đức Giêsu không có ở trên thuyền, nhưng Ngài không vắng mặt, Ngài đến với các môn đệ hầu như đang tuyệt vọng...

Trước sự sợ hãi cực độ, Đức Giêsu đã trấn an các môn đệ “Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Chúa Giêsu muốn khẳng định với các môn đệ và cùng nhắn nhủ chúng ta tin tưởng vào sự hiện diện yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa. Nhất là Ngài luôn can thiệp đúng thời đúng lúc để không còn sợ hãi trước những mối hiểm nguy của phong ba, của đêm tối trong cuộc sống và dẫn đưa chúng ta vào bến bờ bình an.

Ý lực sống: “Giữa mênh mông biển đời..., trước phong ba, con sợ hãi...

Với niềm cậy trông, con kêu cầu: “Lạy Chúa, xin cứu vớt con”. (Mt 14,31)

-------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu đi trên mặt biển


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan ghi lại việc Đức Giêsu đi trên mặt biển đầy sóng gió và dẹp yên sóng gió để tỏ bày uy quyền của Ngài trên thiên nhiên và sự dữ.

Câu chuyện Đức Giêsu đi trên mặt biển có gió to sóng lớn và biển lặng như tờ khi có sự hiện diện của Ngài gây ấn tượng không nhỏ đối với nhiều người và ghi dấu đậm nơi tâm hồn của những người có lòng tin. Thiên Chúa là Đấng tạo nên vũ trụ, trái đất và dựng nên con người. Ngài có toàn quyền trên vũ trụ, và ngay cả trên sinh mạng con người. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay là một trong những bằng chứng để quả quyết điều đó.

2. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân ăn no, dân chúng tin Ngài là một tiên tri đầy quyền năng và muốn tôn Ngài lên làm vua. Nhưng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia tức Capharnaum, còn Ngài thì lên núi cầu nguyện, lúc đó trời đã về đêm.

Khi đã ra giữa biển, sóng to gió lớn nổi lên làm cho các môn đệ phải nỗ lực chống đỡ. Nhìn thấy cảnh các môn đệ chèo chống khó khăn, từ trên núi Đức Giêsu đi xuống và Ngài đi trên mặt biển mà đến với các ông. Trong ánh trăng mờ, các ông tưởng đấy là ma, nên hoảng sợ. Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Và ngay lúc đó gió im và biển lặng như tờ.

3. “Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”!

Đức Giêsu trấn an các môn đệ bằng lời nói quen thuộc của Ngài: “Hãy yên tâm”. Hội thánh và cuộc đời của mỗi người chúng ta nhiều khi cũng có những sóng gió mà chúng ta không chống cự nổi, nhưng Chúa luôn bảo vệ Hội thánh và bảo vệ mỗi ngưởi chúng ta tin vào Ngài.

Đôi khi Chúa để chúng ta gặp phải các tai ương, bệnh tật, đau khổ là Ngài muốn thử thách đức tin của chúng ta. Cũng như dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giêsu vẫn dõi mắt theo con thuyền của các môn đệ đang lênh đênh trên biển cả, và Ngài đã đi trên mặt nước để đến cứu giúp các ông, thì ngày nay, Ngài vẫn quan tâm đến con thuyền Hội Thánh trong cơn phong bà bão táp hầu kịp thời ứng cứu khi cần. Nếu thực sự tin vào quyền năng của Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ không hoảng sợ khi phải đương đầu với những nghịch cảnh, vì tin rằng Chúa vẫn luôn dõi theo chúng ta và sẽ kịp thời cứu giúp chúng ta khi cần. Hãy luôn ý thức: “Có Chúa cùng đi với chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ chi, và chắc chắn sẽ đạt bến bình an”.

4. Đối với tác giả Matthêu, con thuyền là biểu tượng của Hội thánh. Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái. Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược. Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối”, là giờ của thử thách, của quyền lực bóng tối. Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Ngài còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Ngài vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách  không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Ngài. Ngài đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.

5. Biển cả ở đây không chỉ là biển đời như đã nói ở trên mà còn là biểu trưng cho nơi ẩn náu của ma quỉ. Đức Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng trong cơn gian nan hoạn nạn, Ngài luôn hiện diện: “Thầy đây, đừng sợ”. Một lời trấn an bảo đảm mạnh mẽ rằng  Ngài luôn đồng hành với họ trên bước đường loan báo Tin Mừng, mặc dầu sóng biển ầm ầm, thủy triều sóng nước dâng cao... con thuyền có bị sóng đánh dập vùi, nhưng hãy yên tâm vì có Ngài ở bên.

Con thuyền của các môn đệ ngày xưa cũng chính là con thuyên cuộc đời của mỗi người chúng ta hôm nay. Giữa bao sóng gió cuộc đời của kiếp người trong cuộc lữ hành đức tin. Khi Chúa chưa đến thì bóng tối, sóng dữ hoành hành, nhưng khi Chúa đến thì là bến bờ là đích đến của môn đệ. Nếu trên cuộc đời của mỗi người chúng ta có Đức Giêsu, thì sự dữ, ma quỉ sẽ bị đẩy xa. Bởi khi sáng tới, thì tất yếu bóng tối sẽ bị đẩy lui.

6. Truyện: Tin tưởng vào Chúa.

Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của quân địch. Nhưng ông vẫn xác quyết với toàn thể binh sĩ của ông rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng.

Vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện và gieo thử một quẻ: Nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua”.

Một lúc sau từ nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này”. Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng.

Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật, trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được số mệnh”. Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy”. Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu là Êlia mới, Êlisê và Môisê mới


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Một câu chuyện nhỏ được cho xen vào sau phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.

Câu chuyện xảy ra khi bóng chiều đã phủ xuống. Trong Thánh Kinh, đêm tối là thời gian thuận tiện để Chúa mặc khải. Vậy chuyện này muốn mặc khải cho các môn đệ biết thêm về mầu nhiệm của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đi trên mặt nước, và khi các môn đệ gặp Ngài, Ngài nói “Chính Thầy đây, đừng sợ”: trong Thánh Kinh, chỉ có Thiên Chúa và những người được Thiên Chúa ban quyền đặc biệt mới có thể đi trên mặt nước (như Êlia, Êlisê, phần Môisê thì cho nước biển tách đôi).

Như thế, chuyện này mặc khải rằng Chúa Giêsu là Êlia mới, Êlisê và Môisê mới. Ngài có uy quyền của Thiên Chúa, Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên.

B. Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Chúa Giêsu để các môn đệ hành trình trên biển một mình lúc trời tối. Khi đó cuồng phong lại nổi lên và biển động mạnh. Các môn đệ hoảng sợ. Chính lúc đó, Ngài đến với họ và nói “chính Thầy đây, đừng sợ”. Nghĩa là Ngài dạy họ một lúc hai điều: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần có Chúa che chở.

2. Câu chuyện này tiếp liền theo phép lạ hóa bánh ra nhiều muốn dạy cho các môn đệ biết rằng Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho dân chúng ăn, mà còn ban sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho các môn đệ.

3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi ngày trong suốt một năm.

4. Nhà truyền giáo Moody kể: Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống được bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung suớng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Chúa Giêsu Kitô, như một người con của Chúa. (Góp nhặt).

5. Người nói với họ: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.

Mọi người vẫn đi qua như không có gì xảy ra. Vài người đứng lại, đứng lại để xem một người bị giựt kinh phong nằm ngay trên đường, trông thật tội nghiệp!

Có người nói: “vắt chanh vào miệng anh ta”; nhưng mọi người vẫn im lặng, không ai động tĩnh gì cả.

Tôi cũng thấy ngại, ngại ánh mắt dòm ngó bao nhiêu người xung quanh. Tôi có cảm giác sợ sợ như thể sắp làm việc gì sai quấy vậy. Tại sao thế? Tôi chợt nhớ lại lời Chúa nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” và tôi đã mạnh dạn bước ra vắt chanh vào miệng anh ta.

Tôi cảm thấy thật vui khi nhận ra tác động của Lời Chúa trên tôi, giúp tôi mở lòng ra với người anh em bên tôi.

Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata).

-------------------------------

 

Suy Niệm 11: Sự che chở an toàn của Chúa Giêsu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Một chuyện nhỏ được xen vào đơn vị hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.

Chúa Giêsu để các môn đệ thực hiện một cuộc hành trình trên biển một mình lúc trời tối. Đang lúc họ chơi vơi ở giữa biển thì cuồng phong nổi lên và biển động mạnh. Các môn đệ hoảng sợ. Và chính lúc đó, Ngài đến với họ. Gặp họ, Chúa nói ngay “Chính Thầy đây, đừng sợ” (Ga 6,20). Khi nói thế, Chúa muốn dạy họ một lúc hai điều: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần sự che chở của Chúa.

Chúa cho câu chuyện này xảy ra ngay sau phép lạ hóa bánh nhiều nhằm dạy cho các môn đệ biết rằng, Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho con người, mà còn ban cả sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho con người nữa.

2. Trong Thánh Kinh, câu “đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi ngày trong suốt một năm.

Nhà truyền giáo Moody kể: Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết nói rằng, hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống được bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng, mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Chúa Giêsu Kitô, như một người con của Chúa. (Góp nhặt).

Khi Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” (Ga 6,20). Chúa muốn mọi người hãy biết tin tưởng vào Chúa.

Một ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật chung quanh.

Thấm thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói

- Đã đến lúc các con phải tập bay.

- Bay như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:

Chim mẹ trả lời:

- Các con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các con lên.

Ba chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.

Ngày hôm sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:

- Đã đến lúc các con phải tập bay.

Một chú chim con sợ hãi nói:

- Vực thẳm sâu quá!

Con khác tiếp lời:

- Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.

Và con thứ ba thú nhận:

- Chúng con sợ quá, mẹ ơi!

Nhưng chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:

- Hãy đi ra bờ vực thẳm!

Thấy đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:

- Hãy đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!

Theo lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời cao rộng.

* Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ”. Hôm nay Chúa cũng muốn nói với chúng ta như thế.

Đây là một cuộc đối thoại được trích trong tác phẩm “Về Miền Đất Hứa” của Léon Uris trang 356-357, xuất bản tại Sàigòn 1975 kể lại:

Năm 1884, Josi Rabbinsky, 16 tuổi và em là Yakov 14 tuổi, có ý định đi bộ từ Nga về Palestine. Họ trình bày kế hoạch cho vị Rabbin:

- Kế hoạch của chúng con như sau: Chúng con sẽ đi thẳng xuống phía Nam, băng qua xứ Caucase để sang Thổ Nhĩ Kỳ.

Vị Rabbit giơ hai tay lên trời:

- Điên rồ! Không thể thực hiện được! Các con quả thực nghĩ tới việc đi bộ ba ngàn cây số giữa mùa đông, leo qua những ngọn núi cao năm ngàn thước, không một chút giấy tờ, qua những vùng hoàn toàn chưa bao giờ biết, và với cảnh sát đuổi theo sau lưng sao?

Yakov tiến lên một bước, nhìn vị Rabbit bằng con mắt đầy cuồng nhiệt và cất tiếng đọc:

- Con đừng sợ hãi gì cả vì Ta ở với con. Ta sẽ cho gieo mầm của con về phía Tây, về phía Đông. Ta sẽ truyền cho miền Bắc giải phóng con, truyền cho Miền Nam không được giữ con, để sau cùng Ta đưa các con dân của Ta ở tận các miền xa, ở tận cùng thế giới, trở về”.

Bài giảng đầu tiên khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô cũng được mở đầu bằng hai từ “Đừng sợ”.

Vâng, kính thưa anh chị em. Chúa của chúng ta đã chiến thắng tất cả rồi. Không còn một lý do nào để chúng ta phải sợ nữa. Hãy can đảm sống và làm chứng cho Ngài. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa đi trên mặt biển


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng ăn no nê khi theo Chúa nghe Chúa rao giảng lời Chúa (Ga 6, 1 – 15). Lúc này, các tông đồ, dân chúng ngày xưa và cả chúng ta ngày hôm khi đọc xong bài Tin Mừng này, tất cả chúng ta đều thấy Chúa của mình  đầy lòng thương xót và quyền uy, cho nên chúng ta vui mừng, hãnh diện, tự hào được làm con Chúa, được ở trong Giáo Hội của Chúa, được Chúa nuôi dưỡng cả hồn lẫn xác và mai kia được cho vào nước trời dự tiệc vui muôn đời cùng với những người Chúa chọn. Quả vậy, ngày ngày chúng ta sẽ: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thật như mắt của gia nhân hướng nhìn ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng con, tới khi Ngài xót thương chút phận” (Tv 123, 1 – 2). Các tồng đồ đang sống trong tâm trạng hân hoan như thế thì chiều đến, Chúa bảo các ngài hãy xuống bờ biển. Rồi lên bờ, sang bờ bên kia, trẩy về hướng Caphanaum (Ga 6, 16). Lúc này là đêm tối rồi.

Đã bao đời nay, chúng ta thường hiểu rằng “ Biển “ là biểu hiện cho sự hiểm nguy, gian nan, trắc trở. Nếu những sự hiểm nguy này có xẩy ra trên đất liền thì chúng ta có thể còn xoay xở được, còn mà xẩy ra trên biển thì chúng ta không thể làm được gì, vì nó không có điểm tựa, bởi biển chỉ toàn là mênh mông thăm thẳm nước. Lúc này, các tông đồ đang chèo thuyền trên biển, đang đối diện hiểm nguy, lại còn ban đêm nữa, cho nên lại càng hiểm nguy hơn nhiều gấp bội. Hơn nữa, quan trọng nhất là không có Chúa thì các ngài chẳng biết đâu mà lần, chẳng biết nơi đâu là bến bờ để con thuyền neo đậu: “Chiều tối, Chúa vẫn chưa đến với họ” (Ga 6, 17). Và thật sự là đúng như vậy: “Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh” (Ga 6, 18), và lúc này con thuyền cũng đang chênh vênh tròng trềnh giữa biển khơi cho nên các ngài đang đối diện với cái chết là chắc. Niềm hân hoan, tự hào biến mất. Giữa những những hiểm nguy đó, Chúa xuất hiện, đi đến với các ngài, các ngài không còn tâm trí để nhận ra Chúa nữa, các ngài hoảng sợ. Chúa đã trấn an các ngài là đừng sợ. Chúa lên thuyền với các ngài và thuyền đã đến nơi họ định tới (Ga 6, 19 – 21). Như vậy, chúng ta khám phá ra các bài học như sau:

-Những lúc thành công, chúng ta hãy nhớ đến những khi thất bại. Những lúc vui, chúng ta hãy nhớ đến lúc buồn. Những lúc giàu, chúng ta hãy nhớ đến lúc nghèo khổ, đói khát…..để lúc nào cũng biết sống trong tâm tình cậy trông, tri ân, cảm tạ Chúa và biết thương yêu, nâng đỡ, cứu giúp anh chị em của mình.

-Chúa luôn luôn ở với chúng ta, đừng bao giờ chúng ta thất vọng buông xuôi khi gặp đau khổ, bệnh tật, thất bại, nợ nần, gian nan, chua cay ….trong cuộc sống. Càng gặp trắc trở, càng bám vào Chúa, cầu xin Chúa cứu chúng ta.

-Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Chúa sẽ ban ơn, nâng đỡ chúng ta, giúp chúng ta vượt qua được và sống trung thành với Chúa: “Vì Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa” (Tv 132, 4 – 5).

Lạy Chúa phục sinh đầy lòng thương xót của chúng con, xin Chúa lấy tình thương của một người cha mà Chúa vẫn có từ thuở đời đời đối xử với chúng con, lại nữa, vì chúng con tin vào Chúa, xin Chúa nâng đỡ đức tin còn quá yếu kém của chúng con bằng lời Chúa và Mình Thánh Chúa chúng con nhận lãnh mỗi ngày để chúng con vượt qua thử thách và đáng được Chúa cho hưởng gia nghiệp nước trời sau này. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây