Tin mừng của Chúa Giêsu. 02/09 – Thứ Hai tuần 22 thường niên. "Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16), Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23), nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét. Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài. Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia. Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35), và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22), Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ. Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…) Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen, nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc. Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu? Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm. Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ. Đó là những người nghèo sức khỏe, họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16), Đó là những người nghèo đời sống tâm linh, họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn. Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức. Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ. Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui. Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20). Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác, đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ. Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về. Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh. Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục. Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm. Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng. Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23). Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27). Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa. Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri. Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi. Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa. Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản. Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu, hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình. Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có. Cầu nguyện:
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong... Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Có gì đó cay đắng và đau xót. Bao năm mòn mỏi đợi chờ Đấng Cứu Thế, nhưng khi Chúa Giê-su đến thực hiện lời hứa, ứng nghiệm những tiên báo trong Lề Luật và các Tiên Tri thì người Do thái không những không tin, thậm chí còn chối bỏ và muốn giết Người. Còn gì đau đớn hơn khi: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Chúa Giê-su đã dành hết tâm huyết cho quê hương. Loan báo lời I-sai-a ứng nghiệm. Loan báo chương trình cứu nhân độ thế khởi đầu. Công bố chương trình hành động của việc cứu độ. Nhưng chuyến trở về quê hương thật bẽ bàng. Có lẽ vì họ có thiên kiến Người xuất thân nghèo hèn, trong gia đình bác thợ mộc Giuse. Và họ đã lỡ cơ hội. Đánh mất niềm hi vọng.
Họ có ngờ đâu chính sự nghèo hèn, sự thất bại của Chúa Ki-tô, đặc biệt cái chết nhục nhã trên thánh giá của Người chính là cơ hội cho một đức tin chân thực hoàn toàn khác biệt với niềm tin dựa trên những giá trị trần gian. Chính vì thế, với giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Đó là một sứ điệp thô nhám, mộc mạc, không trau chuốt, tô vẽ. Nhưng đó là chân lý, là niềm hi vọng. Để những ai tin Chúa có một đức tin nguyên tuyền không dựa vào sự khôn ngoan của người đời. “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì hác ngoài Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá…Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (năm chẵn).
Chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô chịu chết và sống lại mà ta có niềm hi vọng. Vì ta cũng sẽ được sống lại với Chúa. Và cả những người thân yêu của chúng ta cũng thế. Vì thế thánh Phao-lô an ủi dân Tét-xa-lô-ni-ca: “Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su…. Rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (năm lẻ).
Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho chúng ta. Đó chính là niềm an ủi, là động lực giúp ta vượt qua quãng đường trần thế đầy chông gai thử thách. Đó cũng chính là đích tới của chúng ta những người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Quả thật Thiên Chúa đã dùng sự yếu hèn mà thắng vượt những sự hùng mạnh của thế gian. Dùng sự điên rồ của thánh giá mà thắng sự khôn ngoan của con người.
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi Suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian. Nhưng những người Do thái đồng hương với Chúa đã từ chối tiếp nhận Ngài, vì Ngài đã không thỏa mãn những tham vọng trần thế của họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con nhớ trong đoạn mở đầu Phúc âm thứ tư, Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ngài đến nhà mình nhưng người nhà đã chẳng chịu tiếp đón Ngài”.
Lạy Chúa, điều ấy đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi những người đồng hương với Chúa tại Na-da-rét, và ngày hôm nay cũng đúng với chính con nữa.
Vâng lạy Chúa, con đã không tiếp nhận Chúa. Con quên rằng Chúa là bạn của người nghèo, của người bệnh tật, của kẻ khổ đau. Vì thế con đã xua đuổi Chúa đi khi con hất hủi anh em, khi con nhẫn tâm từ chối giúp đỡ những người nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau, sa chân lỡ bước. Con đã không tiếp nhận Chúa, vì trong lời nguyện hằng ngày, con chỉ đòi hỏi Chúa ban ơn theo ý con mà không bao giờ xin cho con biết vâng theo Ý Chúa trong mọi nghịch cảnh cuộc đời. Con đã không nhìn ra Chúa thật gần gũi với con qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Con đã xô đẩy Chúa xuống vực thẳm khi con nhào xuống vực sâu tội lỗi.
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho con. Xin cho con nhận ra những ân huệ mà Chúa đã yêu thương phủ đầy đời con. Xin ban thêm đức tin, để con tin thật Chúa là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian và Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Xin cho con được sống mãi trong nhà Chúa, được luôn kết hợp với Chúa qua các bí tích, để con xứng đáng là người nhà và là người môn đệ trung thành của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”.
Một linh mục truyền giáo tại Uganđa ở châu Phi, kể chuyện việc đi dự thánh lễ ngày Chúa nhật một cách kỳ lạ như sau: Hai vợ chồng Benedetto và Filomena bị mù. Họ sống cạnh một thiếu nữ bị bại hai chân, tên là Formosa. Mỗi sáng Chúa nhật, ba người này đi dự thánh lễ tại nhà thờ cách xa hai cây số.
Cách họ đi dự lễ như sau: Formosa thấy đường nhưng không đi được, nên phải bò hai tay. Filomena đui, đi sau Formosa, cầm chân của Formosa lên. Còn Benedetto thì vừa vịn vào vai vợ, vừa đi. Cả ba người, hai đui, một bại, giúp nhau đi dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật như vậy!
Suy niệm
Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử đã không đem lại sự tự do, công bằng hoàn toàn cho con người, có một người đã vượt lên trên tất cả, vượt trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại, đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn. Đức Giêsu với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại mà thánh sử Luca đã trình bày với lời của ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).
Ðức Giêsu được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo: những kẻ nghèo tiền nghèo bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói, nghèo cả trong thân phận cùng đinh của họ. Đức Kitô cũng được sai đến với những kẻ bị giam cầm: giam cầm bởi cảnh tù đày áp bức do chính anh em đồng loại gây nên, giam cầm trong chính bản thân mình do sự tự ti mặc cảm và loay hoay mãi để tìm lối thoát mà vẫn không tìm ra. Ngài đến trong đời để giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh tù đày: tù đày bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam. Ngài đem đến cho người mù niềm tin, người mù hy vọng, mù lý trí và ý chí được thấy ánh sáng trong tâm linh với niềm tin. Đức Kitô đem lại tự do cho người bị áp bức và cả người gây áp bức bóc lột bằng tinh thần hối cải trong đức ái. Những trang Tin Mừng đã chỉ cho ta thấy rõ sứ mạng giải thoát của Ngài, cùng với những lời rao giảng là những dấu lạ: người què đi được, người mù được thấy, kẻ tội lỗi được ơn trở lại…
Như Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21). Từ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại qua muôn thế hệ. Tác động giải thoát không phải trong bạo lực như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng mà là trong tác động của Thánh Thần.
Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác. Như thế, chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Ý lực sống:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tối tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”. (Lc 1,78-79)
Đức Giêsu về thăm quê hương với tình cảm thân thiện, chân thành; Người vào hội đường chia sẻ Kinh thánh với anh em đồng hương của Người. Qua đoạn sách tiên tri Isaia, Ngài thẳng thắn tuyên bố: lời sấm này đã ứng nghiệm nơi Người. Dân thành Nazareth rất thán phục ân sủng và sự khôn ngoan của Đức Giêsu với lời tuyên bố kia. Nhưng thực tế họ khó chấp nhận vì thân thế Người quá bình thường, hơn nữa khó do điều khiển được Người làm những điều họ mong muốn, họ đầy căm phẫn và định thủ tiêu Người.
Người đời vẫn nói: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương” hoặc “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn chứng minh rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương của mình, yêu nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương.
Còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu nói trong Tin mừng: “Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài, tại quê hương Nazareth của Ngài (Lm. Phạm Văn Phượng).
Sau hơn một năm đi giảng dạy nhiều nơi, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã vang đi khắp nơi và về tới cả quê hương mình, Chúa Giêsu trở về thăm quê hương là Nazareth. Theo thói quen Ngài vào hội đường cầu nguyện và nghe Sách thánh. Ngài được mời đọc Sách thánh và mở đúng đoạn sách tiên tri Isaia nói về vai trò và sứ mạng của người Tôi tớ Thiên Chúa... Ngài gấp sách lại và tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”.
Theo câu nói đó, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình một cách xa xa: Ngài là ai, là người được Thiên Chúa sai đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà mọi người đang trông đợi. Ngài hơn cả tiên tri Êlia và Elisê. Nghe Chúa nói vậy dân làng Nazareth hết sức tức giận, kéo Ngài ra khỏi hội đường, đưa Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết đi, nhưng giờ Ngài chưa tới, nên họ không làm gì được Ngài.
Tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giêsu, nhưng người Nazareth chỉ nhìn thấy một phương diện của Đức Giêsu là con ông Giuse, họ không thể nhận ra nơi Người, vị tiên tri cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ, tức là họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi lẽ họ đã có thành kiến với Ngài. Thánh Luca đã mô tả thái độ thành kiến của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Câu hỏi đó chứng tỏ bắt đầu họ hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ấy ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu mà lạ.
Hiểu rõ tâm trạng mù tối của dân nơi quê hương, Đức Giêsu đã diễn tả tâm tình ấy bằng kiểu nói vấn nạn: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình... Đòi hỏi này sẽ được lặp lại ở chân thánh giá rằng: “Nếu ông là Đấng Messia thì hãy tự cứu mình đi”. Đáp lại yêu sách này, Đức Giêsu trả lời bằng một câu tục ngữ: “Không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình”. Ý tưởng này cũng đồng nghĩa: “Bụt nhà không thiêng”.
Thành kiến được định nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn khó thay đổi về việc gì đó. Khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi”, lại còn úp lên đó cái khung cứng nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác như họ là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông”. Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính đen, để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những người đồng hương đương thời với Đức Giêsu đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà, chứ không thể đẻ ra công được. Với cái nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giêsu, mà họ vẫn tưởng là con bác thợ mộc Giuse lại là Con Thiên Chúa được (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Tránh thành kiến với người khác
Một hôm cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh tỏ vẻ khinh và nói: “Dở lắm”. Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bĩu môi nói: “Thơ mày là thơ thẩn”.
Tagore mới nghĩ ra kế sách. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích trong cuốn thơ cổ. Cậu ta lại quên đề tên của cuốn thơ cổ đó. Nhưng lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt! Tuyệt!” Rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này”.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt báo của ông... Bấy giờ ông anh cũng như thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia, để đối chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng báo.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cách dàn cảnh bịa đặt của cậu Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với ánh mắt thán phục và hối hận cho thái độ thành kiến của mình.
Bắt đầu từ hôm nay, Phụng vụ chọn đọc Tin Mừng theo Thánh Luca
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:
1. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
2. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
3. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Sứ mạng của chúng ta nối tiếp sứ mạng Chúa Giêsu, là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho mọi người. Nếu có ưu tiên cho ai, thì đó là những người nghèo khổ chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, chứ không phải là những người bà con bạn bè thân thuộc của chúng ta.
2. Thế nào là “loan Tin Mừng cho người nghèo khổ”? Những người nghèo khổ quanh tôi là ai? Tôi có quan tâm ưu tiên đến việc loan Tin Mừng cho họ chưa?
3. Hai chuyện Cựu Ước cho thấy các ngôn sứ Êlia và Êlisê ưu ái những người ngoại. Chúa Giêsu cũng thế. Còn tôi, hình như tôi xa lánh người ngoại, tôi e dè với họ, tôi còn giữ nhiều thành kiến về họ, tôi có thái độ tự tôn coi mình hơn họ v.v.
4. Đối với Chúa Giêsu, người dân Nadarét chỉ mong Ngài nể tình đồng hương mà ưu tiên ban cho họ nhiều đặc ân. Khi ước muốn đó không đạt thì họ quay mặt phản đối và trục xuất Ngài. Đó là một thái độ hoàn toàn vụ lợi. Phải chăng thái độ của tôi đối với Chúa cũng vụ lợi như thế?
5. Bài Tin Mừng này làm tôi nhớ đến quê hương, cha mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè v.v. Những người này thực sự là một nguồn an ủi và trợ lực cho tôi. Xin Chúa thay tôi đền ơn vì những điều họ đã làm cho tôi. Xin cho họ luôn là trợ lực chứ đừng bao giờ là trở lực cho sứ mạng Tin Mừng của tôi.
6. Trợ lực và trở lực: Hai thanh niên lớn lên trong gia đình với một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.
Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”
Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?” (Góp nhặt)
7. “Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19)
Tôi lênh đênh trên chiếc xuồng máy vào các xã vùng sâu của miền Đồng Tháp đã được nửa ngày. Là thành viên của đoàn công tác xã hội cứu trợ lũ lụt, hơn chục lần tôi phải leo lên bờ đất trơn tuột, sình lầy để vào những căn chòi phong phanh cũ nát. Không khí oi nồng và cảm giác chênh vênh trên mặt nước làm tôi nuốt không trôi mẫu bánh mì ăn trưa. Còn nửa trái quít, cảm thấy ăn không nổi nữa, tôi lén nhét vào tay một cậu bé ốm nhách, đen thui như cục than. Không hiểu vì vị ngọt không thể tìm thấy ở vùng đất khắc nghiệt ấy hay vì điều gì khác mà ánh mắt em nhìn tôi vui vui, thật lạ.
Một niềm vui bé con được thắp lên chỉ từ một hành động vô tình. Niềm vui ấy có lẽ sẽ được nhân lên gấp đôi trong tôi nếu tôi biết san xẻ cho em phần ăn với tất cả tấm lòng yêu thương, nhân ái.
Lạy Cha, xin cho con biết luôn luôn đem niềm vui đến mọi người, để niềm vui được nhân lên và trở thành hồng ân Chúa tuôn tràn trên nhân loại trong từng phút giây. (Hosanna).
Bắt đầu từ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc Tin Mừng của thánh Luca.
1. Hôm nay, thánh Luca kể lại việc Chúa Giêsu trở về Nazareth để rao giảng cho những người đồng hương như một biến cố đầu tiên trong cuộc đời công khai của Ngài.
Theo thánh Luca, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và với việc chiến thắng sự cám dỗ của ma quỉ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại miền đất Galilê, sau đó Chúa mới về Nazareth để rao giảng Tin Mừng tại đó. Ngài về đó đúng vào ngày nghỉ Sabat và rao giảng nơi hội đường của làng.
Trong biến cố này chúng ta có thể để ý đến hai điều:
* Trước hết là là thái độ nội tâm của Chúa. Chúa ý thức rất cao về sứ mạng truyền giáo của mình.
* Thứ đến là những phản ứng của những người nghe Chúa rao giảng. Có thể nói đây là những khó khăn tiêu biểu trong việc truyền giáo của Chúa cũng như của các tông đồ sau này.
Chúng ta hãy nhìn lại những chi tiết thánh Luca dùng để mô tả lại những người Nazareth nghe Chúa giảng nơi hội đường của họ.
+ Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc đoạn sách của Isaia, theo lời thánh Luca thì mọi người chăm chú nhìn Chúa. Chi tiết “chăm chú nhìn” nói lên thái độ nội tâm đầu tiên của những người nghe Chúa hôm đó. Chăm chú nhìn có nghĩa là thích nghe Chúa nói. Nếu không thích nghe thì chắc chắn họ sẽ chẳng cần phải chăm chú nhìn người nói chuyện với mình. Chúa Giêsu đã gặp được thái độ khá sẵn sàng nơi dân chúng tại Nazareth.
+ Rồi sau khi nghe Chúa tuyên bố đoạn trích sách tiên tri Isaia ấy được ứng dụng nơi Ngài, dân chúng đã có thái độ hồ hởi. Từ thái độ chăm chú nhìn và lắng nghe Chúa nói, dân chúng đã tiến thêm một bước nữa là rất hồ hởi. Một bước tiến bộ thật đẹp.
+ Thế nhưng, thái độ hồ hởi này đã không kéo dài được lâu. Dân chúng không đủ kiên nhẫn và can đảm. Họ đã bị vấp phạm bởi khía cạnh nhân loại của Chúa Giêsu. Thánh sử Luca đã mô tả thái độ thụt lùi của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Họ bảo: ông này không phải là con ông Giuse hay sao?”(Lc 4,22) Ông ta không phải là con ông Giuse đó sao? Câu hỏi đó chứng tỏ họ bắt đầu hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: “Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu!”
Họ tưởng họ biết rõ Chúa, nhưng thật ra họ chẳng biết gì cả. Họ mới biết cái bề ngoài là con ông Giuse, nhưng họ chưa biết Ngài còn là Con Thiên Chúa.
Và rồi từ thái độ nghi ngờ này chẳng mấy chốc nó đã biến thành thái độ tức giận chống đối và cuối cùng là muốn thủ tiêu Ngài.
2. Còn Chúa thì sao?
Chúng ta hãy thử xem thái độ ứng phó của Chúa ra sao trước sự khước từ của những người đồng hương. Chúa đã không nao núng. Thánh sử Luca kết thúc bằng một nhận định gọn ghẽ nhưng rất ấn tưọng: “Chúa băng qua họ mà đi”(Lc 4,30). Cách nói băng qua giữa họ mà đi không có nghĩa như một sự tàng hình biến đi, nhưng nó nói lên một thái độ đáng nể phục: Chúa bình tĩnh tiếp tục chương trình của Ngài, không để cho những chống đối thù ghét cản trở công việc của Chúa.
Một tín đồ Ấn giáo xuống dòng sông Hằng để thanh tẩy và cầu nguyện.
Ông đang ngụp lặn giữa dòng sông, thì bỗng đâu rác rưởi tụ đến. Trong đống rác có con bò cạp đang chao đảo, chơi vơi giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung, ông chìa tay ra để cứu vớt con vật. Cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật chích. Nhưng ông không mất kiên nhẫn. Con vật càng hung hăng, ông càng chịu đựng để nó chích liên tiếp, miễn là cứu sống được nó.
Có người theo dõi cảnh tượng đó mới trách ông:
- Ông thật là mất thời giờ vô ích. Nó là con bò cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích thôi.
Người tín đồ Ấn giáo điềm nhiên trả lời:
- Bản chất của con bò cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất con người là cứu vớt.
Vâng, Chúa đã không ngã lòng trước sự khước từ của người dân. Nơi này không đón nhận, Chúa đi nơi khác và tiếp tục rao giảng. Như chúng ta biết, theo Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu đã xuống thành Capharnaum thuộc xứ Galilê để giảng dạy ở đó vào các ngày Sabat.
Chúng ta hãy đến với Chúa để học lấy sự kiên nhẫn của Ngài.
Shiela Murray Bethel nói: “Một trong những điều đáng khích lệ nhất mà bạn có thể làm là tự xác định chính mình - biết mình là ai, tin vào cái gì và muốn đi tới đâu”.
Xin Chúa cho chúng ta đừng quá thất vọng mỗi khi gặp khó khăn.
Xin cho chúng ta luôn biết vuợt qua những khó khăn để tiếp tục những nhiệm vụ mà Chúa trao phó.
Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Chúa, nhất là khi gặp những trở ngại trên con đường rao giảng Tin Mừng. Amen.
Sứ mạng của Chúa ở trần gian đã được tiên tri Isaia loan báo hàng bao thế kỷ trước và mọi người đang khao khát mong chờ. Và hôm nay, lời ấy được ứng nghiệm ngay trước mặt dân chúng làng quê hương của Chúa. Chúa đang ở đây với họ, đang giảng dạy họ, đang làm các phép lạ xua trừ ma quỷ và chữa lành các chứng bệnh khác nhau trong dân chúng mà họ chứng kiến, thế mà họ vẫn không chịu tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế. Sở dĩ họ không chịu tin nhận Chúa là vì họ thấy Chúa không giống như Đấng Cứu Thế trong suy nghĩ của họ mà họ mong đợi. Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi phải là một Đấng đầy quyền uy danh giá, là vua, là vị thống lĩnh binh hùng tướng mạnh, bách chiến bách thắng, đánh đuổi ngoại bang, mở rộng biên cương đất nước của họ…. Nhưng ở nơi Chúa không có những điều như họ suy nghĩ mà họ mong đợi, cho nên, họ mới moi móc gốc tích của Chúa, gia đình của Chúa, Chúa là con bác thợ mộc Giuse. Họ nói như thế với ý là gia đình của Chúa đang sống ở làng này mà ai cũng biết. Đó là một gia đình nghèo, lao động, chuyên đi làm thuê, làm mướn cho người khác. Vì thế mà Chúa không phải là Đấng Cứu Thế.
Thái độ khước từ Chúa của họ đã khiến cho Chúa phải lấy lại những biến cố xảy ra thời xưa trong lịch sử của họ, để rồi Chúa nói cho họ biết, để họ rút kinh nghiệm đừng có thái độ như vậy, kẻo họ thua bà hóa Sarépta hoặc là tướng Naaman, người Syria, mà mang tiếng với đời, với con cháu sau này. Bà góa Saréptavà tướng Naaman là những người ngoại giáo, thế mà họ được ơn, đang khi đó những người có đạo lại không được ơn. Họ được ơn là vì họ tin vào Chúa, nghe lời Chúa qua tiên tri Êlia và Êlisêô. Riêng bản thân tiên tri Êlia thì bị hoàng hậu Dêzaben rượt đuổi, phải trốn đi lánh nạn, tiên tri Êlisêô là một người đi cày ruộng được Chúa quaÊlia chọn ngài làm tiên tri. Các ngài đâu có thế giá gì trong xã hội lúc bây giờ, thế nhưng bà góa ở Sarépta tin vào tiên tri Êlia, bà làm cho tiên tri một cái bánh để tiên tri ăn và rồi từ đó hủ bột không cạn, bình dầu không vơi cho đến khi mưa rơi xuống mặt đất trở lại. Còn tướng Naaman tin lời tiên tri Êlisêô nói ôngxuống tắm bảy lần ở sống Giođan và ông đã lành bệnh cùi. Bề ngoài của hai tiên tri như vậy nhưng họ vẫn tin và được ơn. Ở đây dân chúng cũng nhìn bề ngoài của Chúa như thế, Chúa cũng chẳng có gì để chứng tỏ Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, nhưng qua lời giảng dạy và các phép lạ Chúa làm minh chứng Chúa là Thiên Chúa mà họ không tin thì so với bà góa và tướng Naaman xưa, họ nặng tội, họ cứng lòng, họ cố chấp.
Dân làng quê của Chúa đã không chấp nhận Chúa rồi mà họ còn phẫn nộ Chúa, trục xuất Chúa ra khỏi hội đường, dẫn Chúa lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ để xô Chúa xuống vực thẳm, giết chết Chúa. Họ dẫn Chúa đến nơi mà họ xây cất thành trì của họ để cho Chúa thấy là họ vẫn thành công trong cuộc sống. Họ vẫn sống tốt, nên Thiên Chúa mới cho họ được như vậy. Họ không cần Chúa đâu. Họ đã đủ rồi. Họ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Chúng ta xem đây là một hành động quá rõ ràng về sự chối bỏ Chúa của họ.
Chúa không trách mắng và trừng phạt họ, Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho họ. Chúng ta tin chắc Chúa sẽ cầu nguyện rất nhiều cho họ để họ suy nghĩ lại các hành động của mình mà ăn năn sám hối, và mộtngày nào đó gần nhất, Chúa sẽ trở lại với họ và họ sẽ đón nhân Chúa, nghe Chúa giảng dạy mà sửa đổi cuộc sống để Chúa ban ơn cho họ.
Lạy Chúa, nhiều lúc chúng con phạm tội, chúng con cố chấp chai lỳ trong tội, xin Chúa thương đừng bỏ chúng con mà hãy kéo chúng con ra khỏi vũng lầy tội lỗi và ban ơn giúp chúng con đi trong đường lối của Chúa. Amen.
Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám. 03/09 – Thứ Ba tuần 22 thường niên. – Thánh Ghêgôriô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
* Thánh nhân sinh quãng năm 540 tại Rôma. Người theo con đường công danh, nhưng đã từ chối chức thái thú Rôma. Người gia nhập đan viện và sau khi làm phó tế, người nhận nhiệm vụ sứ thần Công-tăng-ti-nốp. Ngày 3 tháng 9 năm 590, người được chọn làm người kế vị thánh Phêrô suốt mười bốn năm phục vụ Hội Thánh (590-604). Dầu sức khỏe không dồi dào, người đã tận tụy chu toàn bổn phận, giúp đỡ người nghèo, củng cố và truyền bá đức tin. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm về luân lý và thần học. Hoạt động của người được nuôi dưỡng nhờ chiêm niệm. Người qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó.
Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ, diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31). Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài, bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32). Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài, vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập. Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?” Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện. Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức. Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai. Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu. Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét, mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34). Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền. Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35). “Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này!” Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài, vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá. Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra. Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa. Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh. Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ, nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36). Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe. Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế. Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người. Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi. Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách, chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người. Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay. Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại. Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng. Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt. Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu. Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui. Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta. Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài. Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do. Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám. Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ. Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được tự do như Chúa. Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát. Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật. Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng. Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao. Amen. ---------------------------------
Ô nhiễm đang là một vấn đề lớn và nan giải. Từ ô nhiễm môi trường sống với nước thải, khói xăng, khí độc đến ô nhiễm thực phẩm với chất bảo quản, với phân bón và với cách chế biến thực phẩm. Nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự ô uế nơi tâm hồn con người. Đừng tưởng thần ô uế chỉ có thời Chúa Giêsu. Nó vẫn hiện diện thời chúng ta và đang tác oai tác quái. Con người bị ô uế từ trong tư tưởng với những ý đồ xấu xa trục lợi. Ô uế thấm vào cả trái tim với những ước muốn tội lỗi. Con người đang hít thở bầu khí ô uế, đươc nuôi dưỡng bằng những món ăn ô uế và còn dự tính mở rộng môi trường ô uế. Những nỗ lực ngăn chặn ô uế, thanh tẩy môi trường đạo đức hầu như vô hiệu. Con người bất lực. Chỉ còn trông chờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Có hai điều đáng sợ do ma quỉ lừa gạt. Điều thứ nhất ma quỉ trấn an chúng ta: “Không can gì đâu”. Ô uế không sao đâu. Tội lỗi không sao đâu. Điều thứ hai nó thấm nhập và trở thành một phần không thể thiếu của đời ta. Khi Chúa trục xuất thần ô uế, người bị quỉ ám ngã vật xuống như chết đi. Có những sự xấu như tiền bạc, danh vọng, chức quyền, lạc thú trở thành nhu cầu. Ta tưởng sẽ chết nếu thiếu chúng.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Tét-xa-lô-ni-ca hãy vào cuộc chiến đấu. Thần ô uế là bóng tối. Con cái Chúa là ánh sáng. Đi theo thần ô uế là ngủ mê. Đi theo ánh sáng của Chúa phải tỉnh thức. Sống theo thần ô uế là chiều theo dục vọng. Sống theo ánh sáng của Chúa là tiết độ: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (năm lẻ).
Đó chính là cuộc chiến giữa xác thịt và Thần khí. Ai sống theo xác thịt thì có sự khôn ngoan của trần gian để chiếm đoạt danh, lợi, thú của trần gian. Ai sống theo Thần Khí thì trước mặt thế gian bị coi là điên rồ, nhưng thực ra họ có sự khôn ngoan của Nước Trời: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (năm chẵn).
Cuộc chiến rất khốc liệt. Để dứt lìa thần ô uế ta phải đau đớn như chết đi, giống như người bị quỉ ám ngã vật xuống. Chúng ta chỉ thắng được nhờ sức mạnh của Chúa Ki-tô. Nhưng chúng ta chỉ có Chúa khi sống trong ánh sáng, khi đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Khi Giáo Hội sống đúng ơn gọi và sứ mệnh của mình, Giáo Hội là một sức mạnh tinh thần khiến cho các chế độ chính trị phải trọng nể hay lo sợ. Sức mạnh ấy không tới từ thế giới hay những phương tiện Giáo Hội có trong tay.
Giáo Hội múc lấy sức mạnh từ chính uy quyền của Ðấng sáng lập là Chúa Kitô. Thật thế, Chúa Kitô đã hứa ngay cả cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúa Giêsu đã phú bẩm cho Giáo Hội uy quyền của chính Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi họ lắng nghe lời giảng dạy của Ngài và nhất là khi Ngài trừ quỉ. Họ thán phục vì Ngài giảng dạy như Ðấng có uy quyền.
Trong cách đánh giá thông thường, một người xem là có uy tín khi tài năng hay đức độ của người đó được nhìn nhận, lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác, việc làm có uy tín của một người có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo. Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Ðây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu khi Giáo Hội sống và rao giảng những gì Ngài đã sống và rao giảng. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình khi sống phục vụ mà thôi. Càng thể hiện được bộ mặt thật ấy, Giáo Hội càng tỏ ra là một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và sự dữ và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu có nghĩa vụ phải bày tỏ bộ mặt đích thực của Giáo Hội. Sức mạnh và uy quyền của Giáo Hội được thể hiện không phải qua con số các tín hữu hay qua các biểu dương của số đông mà thiết yếu qua cuộc sống có tính thuyết phục của các tín hữu. Giữa một xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức, các tín hữu Kitô phải thể hiện một niềm tin có sức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Giữa một xã hội băng giá về ích kỷ, các tín hữu Kitô cần phải sống một tình mến có sức sưởi ấm tâm hồn con người. Giữa một xã hội chao đảo về thiếu định hướng, các tín hữu Kitô phải bày tỏ một niềm hy vọng có sức soi rọi vào tăm tối của cuộc sống mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta.
Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: - Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
Vị ẩn sĩ trả lời: - Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật. Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: "Từ khởi thủy đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể". Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: "Câm đi, hãy ra khỏi người này", thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi".
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
Trong hội đường có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”quỷ vật người ấy xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. (Lc. 4, 33-35)
Ngay từ buổi đầu cuộc giảng đạo công khai, Đức Giêsu tỏ ra một người đầy uy lực. Lời và hành động của Người biểu lộ quyền bính phi thường.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đức Giêsu đã tỏ ra là bậc thầy dạy một giáo lý vững chắc có sức đáng động và gây ấn tượng mạnh ngay tại những người Do-thái chịu ảnh hưởng của nhiều trường luật sĩ giảng dạy rất đông đệ tử. Dân chúng say mê nghe lời Người. Không phải chỉ nhờ lời nói hay. Người còn liên kết sứ điệp của Người với quyền phép trừ quỷ bằng một sức mạnh làm những người chứng kiến kinh ngạc.
Từ hai ngàn năm, Đức Giêsu không bao giờ ngừng tạo thế lực vừa bằng đạo lý, vừa bằng hành động giải phóng nhân loại, không chỉ cứu thân xác bệnh hoạn mà nhất là cứu tâm trí con người được hạnh phúc. Ngày nay hơn bao giờ hết, Người lôi cuốn mọi người khám phá về Người. Không bao giờ người ta nói về Người nhiều như ngày nay, hoặc để thử loại bỏ Người, chối không có Người hoặc bảo vệ Người rất nhiệt tình. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách vở, nghệ thuật âm nhạc, quảng cáo đã thấm nhập về Đức Kitô và tuyên truyền làm cho người ta hiểu biết về Đức Kitô một cách tiêu cực hay tích cực.
Dù người ta nói gì, Người vẫn là một bậc Thầy vĩ đại trong các bậc Thầy cho mọi người trên trái đất phải suy nghĩ. Đúng như câu kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay:
“Tiếng đồn về Người lan ra khắp mọi nơi”. Và như ông Si-mê-on đã nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en, vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà,thì một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (Lc. 2, 34-35)
Trong xã hội hôm nay, nạn nói dối đã trở thành “đại dịch” và không ít người đang trong tình trạng “nan y”. Trước diễn biến đó, nhiều người đã phải gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh tới mọi thành phần trong xã hội... Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đã “bó tay”, bởi vì nạn thành tích, hối lộ, gian tham đã trở thành “ung thư” đang dần gặm nhấm làm sói mòn lương tâm con người.
Vì thế, không lạ gì khi người ta chẳng còn tin tưởng lẫn nhau, bởi những món ăn người ta thiết đãi nhau lại toàn là: “Bánh vẽ" lẫn "thịt lừa”. Vì thế, như một hệ lụy, bây giờ tìm được một người tử tế thật thì quả là: “Mò kim đáy biển”!
Hôm nay, Đức Giêsu đã làm cho mọi người bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài giảng dạy không giống các Kinh Sư và Pharisêu. Mọi lời Ngài phát ra đều chân thật. Sự thật trong lời nói và hành động của Ngài đã trở thành một thể thống nhất, vì thế, đã làm cho người tiếp nhận phải suy nghĩ và tự cật vấn lương tâm.
Thật vậy, chỉ có sự thật mới giúp chúng ta trở thành người tự do đích thực. Chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta đối xử với nhau chân tình và mới giải phóng chúng ta cách trọn vẹn. Và, cũng chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta thành con Chúa đúng nghĩa.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa để chỉ cho ma quỷ thấy sự thật của nó là kẻ chuyên gây nên gian dối, đau khổ và chết chóc cho con người. Vì thế, chỉ một lời nói: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xảy ra. Đây là sự khác biệt giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ!
Thật vậy, nhờ sự thật trong quyền năng, Đức Giêsu đã giải phóng con người thông qua hình ảnh của những người bị quỷ câm ám. Qua phép lạ này, Đức Giêsu cho thấy, con người luôn bị sự gian dối cầm buộc. Cần phải giải thoát bằng sự thật, nếu không, con người vẫn mãi bị cầm tù trong những chuyện gian tham xảo quyệt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì phải “ly dị” sự dối trá trong tư tưởng, hành động, lời nói và việc làm. Không được sống tráo trở, dối trá, hai mặt... Nếu cứ an nhiên tự tại để sống trong sự dối trá, thì đương nhiên, chúng ta thuộc về thế giới của những kẻ gian dối, mà thủ lãnh của trong thế giới này là ma quỷ.
Điều mà chúng ta cần nhận ra hệ lụy nhãn tiền cho những ai ưa trò cầu thân nịnh bợ và sống giả tạo là: họ không có uy quyền và sức cảm hóa trong lời nói và việc làm. Đôi khi những việc đạo đức, lời nói thánh thiện của họ phát ra lại trở thành gương mù gương xấu và phản tác dụng, chẳng khác gì: “Gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”; hay như: “ngửa mặt... và nhổ nước miếng, đương nhiên nước miếng rơi chúng mặt mình???”. Mặt khác, lại là cớ cho người khác khinh bỉ, bởi vì họ đang ngu ngơ diễn xuất màn kịch vụng về đến nỗi trở nên lố bịch trên một “sân khấu ảo”.
Mỗi khi chúng ta sống như thế, hẳn chúng ta trở nên vô nghĩa với Thiên Chúa và vô dụng với tha nhân, bởi lẽ đây là hệ quả của con cái ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự thật mới đem lại cho chúng con hạnh phúc, bình an và có giá trị thực sự, bởi vì sự thật thuộc về Thiên Chúa. Gian dối thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng quyền năng. Người đến giải thoát con người khỏi ách thống trị của quỷ dữ. Ta hãy để cho Chúa giải thoát ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không ai trong chúng con muốn đau khổ, nhưng nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình để được Chúa giải thoát, lại là một điều khó. Chúa nhìn thấy con đau khổ, tội lỗi, và Chúa muốn giải thoát con. Nhưng cũng như người bị quỷ ám xưa, con lại không muốn chấp nhận để cho Chúa giải thoát, con muốn cắt đứt mọi liên hệ với Chúa. Chính quỷ dữ lôi kéo con chạy trốn Chúa, thúc đẩy con xua đuổi Chúa để con ở lì trong tội lỗi và ngụp lặn trong bể khổ.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con mà chẳng cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không muốn. Hôm nay, con nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình, xin Chúa đến giải thoát con. Được thoát ách thống trị của quỷ dữ để phụng sự Chúa, đó là hạnh phúc. Được thoát ách nô lệ tội lỗi để sống đời tự do thánh thiện, đó là niềm vui của con.
Xin Chúa gìn giữ con luôn sống thánh thiện trong ân sủng của Chúa. Khi nhìn thấy Chúa trừ quỷ, người ta đã kinh ngạc và dần dần nhận ra uy quyền của Chúa. Khi nhìn thấy các Kitô hữu chúng con thánh thiện, thế giới hôm nay sẽ nhận ra quyền năng cứu độ của Chúa. Khi con không nô lệ đam mê tội lỗi và quỷ dữ, đó là dấu hiệu ơn thánh Chúa đã chiến thắng nơi con. Xin Chúa giúp con sống thánh thiện, để sự thánh thiện trở thành dấu hiệu chứng tỏ cho thế giới hôm nay nhận ra sự hiện diện quyền năng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Tôi biết Ngài là ai rồi, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu có lập trường rõ ràng khi nghe giảng Lời Chúa: “Chúng ta chỉ có một việc là chăm chú nghe linh mục giảng”.
Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục, Linh mục là những người thay mặt Chúa để giảng Lời Chúa. Vì thế, khi nghe giảng Lời Chúa, chúng ta đừng để ý đến ai giảng, nhưng hãy chú tâm vào việc nghe Lời Chúa được rao giảng mà thôi.
Suy niệm
Lời giảng dạy của Ðức Giêsu luôn có sức mạnh và uy quyền. Dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Ngài chính từ lời Ngài có sức mạnh khiến thần ô uế phải nhào xuống và ra khỏi bệnh nhân. Ngài dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân bị ám. Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khuất phục ma quỷ, tà thần. Lời đó đã làm cho niềm tin của dân chúng đặt vào Ngài, Đấng giảng dạy đầy uy quyền.
Đấng uy quyền đó là người mà sách Đệ Nhị Luật 18,15-20 đã nói về lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân, đó là tất cả niềm hy vọng của họ: Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Thật thế, Người chính là Ðức Giêsu Kitô đã khiến cho người ta phải kinh ngạc.
Lời giảng dạy của Đức Kitô đầy uy quyền vượt trên cả lời giảng dạy của các vị ngôn sứ, thánh Cyrillô thành Giêrusalem cắt nghĩa: “Những vị ngôn sứ khi giảng dạy, nói rằng: “Thiên Chúa phán”, Đức Giêsu không nói như vậy; là chủ của Lề Luật, Ngài đề cập đến những sự việc cao cả của luật: giảng từ những chữ viết luật đến ý nghĩa thật sự của Lề Luật, từ hình thức luật đến thực tế. Lời của Ngài không bao giờ là lời nịnh hót, nhưng là một sự khuyến khích dẫn đến ơn cứu độ. Người ta tin rằng Đấng Mêssia là một vị ngôn sứ, và Ngài sẽ chỉ cho thấy những cao siêu nơi các vị ngôn sứ, cho nên dân chúng ngạc nhiên vì những chủ đề trong lời giảng dạy của Ngài”.
Như Tin Mừng ghi nhận lại, Lời Ngài uy quyền so với lời giảng dạy của các bậc thông thái trong dân, thánh Bède le Vénérable giải thích các bậc thông thái trong dân dựa trên luật và các ngôn sứ còn Ngài từ uy quyền của chính Ngài: “Những người biệt phái hay những vị tiến sĩ luật giảng dạy những gì đã được Môisê và các ngôn sứ ghi chép trong luật. Nhưng Chúa Giêsu giảng dạy như là một người thầy của Môisê và như là vị Thiên Chúa uy quyền, Đấng có thể thêm hay thay đổi luật nếu các điều đó tỏ hiện sự tốt lành”. Ngài uy quyền vì Ngài làm chủ Lề Luật, tạo Lề Luật để con người được hưởng về sự tốt lành, hướng về Cha trên trời.
Ngày hôm nay vẫn còn những thần ô uế và sự dữ. Chúng ta đến bên Ngài, không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, nhưng mở lòng đón nhận Lời quyền uy. Để Lời tác động xua đuổi mọi thần ô uế ra khỏi tâm hồn của chúng ta...
Ý lực sống
“Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát... Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên...” (Tv 91,14-15).
Sau khi rời bỏ quê nhà Nazareth, Chúa Giêsu tới Capharnaum, là thành phố nằm sát bờ biển hồ Tibêria, hôm nay thánh Luca giới thiệu cho chúng ta sức thu hút và lời uy quyền của Đức Giêsu. Trước lời giảng dạy của Đức Giêsu, dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Người. Cũng chính Lời Người có sức mạnh mà thần ô uế phải khuất phục và ra khỏi bệnh nhân. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Lời của Người có sức cảm hoá phi thường.
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân thành Capharnaum khi họ nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến việc Người xua trừ ma quỷ. Trong khi các luật sĩ chỉ nói suông trên toà và đặt gánh nặng lên vai người khác, thì Chúa Giêsu cư xử hoàn toàn khác: Ngài vừa giảng dạy, vừa làm phép lạ, vừa tỏ tình liên đới vừa chia sẻ với tất cả ưu ái, cảm thông. Sứ điệp của Ngài không chỉ là lời tuyên bố từ tòa cao, mà là tất cả con người Ngài. Uy quyền của Ngài phát xuất từ sự duy nhất giữa lời nói và hành động, và đó cũng chính là uy quyền của Thiên Chúa. Ngay từ trang đầu Kinh thánh, Thiên Chúa đã tự mạc khải như Đấng phán một lời liền có trời đất muôn vật. Lời Thiên Chúa là lời hữu hiệu, là lời đưa đến hành động (Mỗi ngày một tin vui).
Trong cách đánh giá thông thường, một người được xem là có uy tín khi tài năng và đức độ của người đó được nhìn nhận. Lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác; việc làm của một người có uy tín có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo.
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền, là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Đây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo hội. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu, khi Giáo hội sống và rao giảng những gì Chúa Giêsu đã sống và rao giảng. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình, khi sống phục vụ. Càng thể hiện được bộ mặt ấy, Giáo hội càng tỏ ra một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và xiềng xích của sự dữ, và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Nhiều người thán phục về những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa Giêsu, nhưng quyền uy đó không đến từ chiêu thức mị dân của các nhà chính trị: tung tiền bạc, cho cơm bánh để mua chuộc sự ủng hộ. Lời Chúa quả thật có sức mạnh xua đuổi được ma quỉ. Lời Ngài phán ra bệnh nhân được chữa lành. Ngay cả khi Chúa cho đám đông hàng nghìn người được ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài cũng đã rao giảng Lời Chúa cho họ, và Ngài còn cảnh báo họ đừng tìm kiếm Ngài để chỉ có của ăn mau hư nát, mà hãy đến với Ngài để lãnh nhận được Lời ban sự sống đời đời. Quả thật, Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Lời đã sáng tạo vũ trụ càn khôn, là Sự thật và là Sự sống dẫn đưa nhân loại đến với Chúa Cha là nguồn mạch của sự sống đời đời (5 phút Lời Chúa).
Một lần nọ, khi đi ăn với vài người bạn ở nhà hàng, tôi làm Dấu Thánh Giá theo thói quen. Hành động của tôi lọt vào mắt của họ. Ngay tức khắc, họ xôn xao bàn tán và hỏi: “Bạn làm gì đó, vẽ bùa hả?” Tôi cười và đáp: “Mình làm Dấu Thánh Giá”. Sau đó, tôi giải thích cặn kẽ ý nghĩa và giá trị cao quí của Dấu Thánh Giá. Thế là họ hiểu ra và không bàn tán nữa. Từ đó, mỗi lần đi ăn với họ, khi tôi làm Dấu Thánh Giá, họ im lặng tôn trọng.
Nhiều người tín hữu hôm nay xem nhẹ những kiểu tuyên xưng đức tin đơn giản như thế. Có lẽ vì họ ngại ngùng trước cái nhìn soi mói của người khác, hoặc sợ bị coi là lạc hậu, cổ hủ, hay mê tín, thậm chí, họ sợ bị “khen” là con chiên ngoan đạo nữa.
Tuy nhiên, với người yêu mến Thiên Chúa đích thực, việc tuyên xưng danh Chúa lại là một niềm tự hào: Tự hào vì có Chúa trong mình, tự hào vì là con cái Chúa (Học viện Đa Minh).
Truyện: Tìm người để phụng sự
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophorô là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất, để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được chủ theo ước nguyện.
Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần. Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỉ nữa, mà đứng lại trước thập giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một linh mục quản xứ nhà quê đi qua, ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh tẩy. Sau này, Christophorô đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách hại đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo, để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thuỷ chung của mình với Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Luca, đây là những hoạt động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, và những hoạt động này chứng tỏ Ngài là Đấng có uy quyền:
- Uy quyền trong lời giảng dạy, vì Ngài giảng dạy chính giáo lý của mình một cách tự tin, chứ không cần dựa vào uy thế của những bậc tôn sư tiến bối nào cả.
- và uy quyền trong hành động: Ngài đã khống chế sức mạnh của ma quỷ một cách rất dễ dàng và nhanh gọn.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng đầy uy quyền. Có lần, thính giả phải thừa nhận “Chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”. Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Con muốn được làm học trò trong trường của Chúa. Xin Chúa ngày ngày dạy dỗ con.
2. “Bấy giờ trong hội đường có một người bị quỷ ám”: người bị quỷ ám là người bị một thế lực xấu khống chế, người đó không còn tự do, người đó không còn là con người trọn vẹn.
Tôi có đang bị khống chế một cách nào đó không: bởi một tính xấu? những thói quen xấu? những đam mê lệch lạc? v.v. Ngày xưa Chúa đã giải thoát cho người bị quỷ ám. Xin Chúa cũng giải thoát con.
3. Nhận thấy rằng rao giảng bằng lời nói suông chưa đủ, Weizemann, thần học gia, mục sư, nhạc sĩ, bác sĩ đã dấn thân phục vụ những người nghèo nhất ở Châu Phi. Làm việc không biết mệt mỏi, trải qua bao nhiêu khó khăn, nhưng Weizemann vẫn không bao giờ mãn nguyện vì những hy sinh của mình. Năm 1952 khi được trao giải thường Nobel hòa bình, ông đã tuyên bố: “Không ai có quyền tự phụ mình đã phục vụ cho hòa bình quá nhiều, cũng không ai có quyền nói rằng mình đã mãn nguyện”. Gương phục vụ của Weizemann là một cố gắng họa lại cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng chỉ bằng lời nói, nhưng luôn kèm theo hành động, gương sáng và cả cái chết nữa. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Ngài xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát Ngài giảng dạy họ. Họ sửng sốt về cách Ngài giảng dạy, vì Lời Ngài có uy quyền” (Lc 4,31-32)
Thánh lễ là nơi tôi gặp gỡ Thiên Chúa, tôi thưa chuyện với Ngài và Ngài giáo huấn tôi. Trong thinh lặng và trong khoảng không gian thánh thiện của giáo đường, Ngài hiện diện một cách sống động và không ngừng tác động trên tôi. Lời Ngài cũng vang lên một cách huyền nhiệm nơi giáo đường. Nhờ Lời, tôi cảm thấy mình được biến đổi. Sự thanh thản, nhẹ nhõm, bình an đến với tôi mỗi khi tôi đến với Ngài. Lo âu, sầu khổ, chán chường, thất bại hay thành công của tôi đều được Ngài chia sẻ, ủi an. Đấy không phải là phép lạ, là uy quyền sao?
Như xưa Ngài đã làm cho dân miền Galilê sửng sốt thì Lời Ngài hôm nay cũng làm cho tôi phải ngỡ ngàng.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được quyền năng của Lời Chúa mỗi ngày một sâu sắc hơn trong đời con. (Hosanna).
Có lần thính giả nghe Chúa đã phải thừa nhận “chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”(Lc 4,32). Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài sống và sống trước những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài.
Người ta thường nói muốn cho lời rao giảng có uy quyền thì nó phải có lửa. Lửa đây chính là cuộc sống.
Uy quyền của Chúa Giêsu là điều hoàn toàn mới mẻ. Khi các Rabbit giảng dạy, họ thường củng cố lời nói bằng cách trích dẫn chứng cớ, họ luôn luôn nói: có lời rằng Rabbit nọ, Rabbit kia nói. Bao giờ họ cũng dựa vào một thẩm quyền nào đó. Khi các tiên tri lên tiếng, họ thường nói: “Chúa phán như vầy”. Uy quyền của họ là một loại uy quyền được ủy nhiệm, nhưng khi Chúa Giêsu phán, Ngài nói “Ta nói cùng các ngươi”, Ngài không cần dựa vào một uy quyền nào khác để nâng đỡ Ngài. Ngài không sử dụng một loại uy quyền ủy nhiệm nào. Chính ngài là uy quyền nhập thể. Đây là một sự mới mẻ. Đây là một người nói điều mình chắc chắn biết rõ.
Trong mọi lãnh vực của đời sống, nhà chuyên môn bao giờ cũng tỏ ra có uy quyền. Một nhạc sĩ kể rằng khi Toscanini bước lên bục chỉ huy, dường như uy quyền toát ra từ ông và cả dàn nhạc cảm thấy uy quyền đó. Khi cần một lời chỉ giáo chuyên môn thì chúng ta tìm đến một chuyên gia và chúng ta tin lời ông ta nói. Chúa Giêsu là một nhà chuyên môn về đời sống. Khi Ngài nói, người ta biết rằng lời Ngài vượt quá sự khôn ngoan của loài người vì Ngài chính là Thiên Chúa.
2. Thứ đến là uy quyền trên ma quỉ.
Ma quỉ có thật. Nhiều lần Chúa Giêsu đã xua trừ ma quỉ. Ma quỉ là một thế lực xảo quyệt tinh khôn, lợi dụng mọi dịp để tấn công chúng ta. Thánh Phêrô bảo: “Ma quỉ sẽ sàng anh em như người ta sàng gạo”. Chúng ta còn nhớ sau khi đã cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc và bị Chúa đánh bại, Tin Mừng nói rõ: chúng rút lui để chờ dịp khác. Ma quỉ không dễ dàng buông tha chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thấy quyền lực của Chúa Giêsu còn mạnh hơn, Ngài đã thắng cả ma quỉ.
Ngày xưa, có lần Napoléon cầm tấm bản đồ, chỉ tay vào nước Anh, nói với đám thủ hạ:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục trọn thế giới rồi.
Ma quỷ cũng chỉ tay vào Thập Giá và nói:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục cả thế giới rồi.
Như vậy, muốn thắng ma quỉ, chúng ta phải chạy đến với Chúa.
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophe là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được minh chủ theo ước nguyện. Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần.
Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập Giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập Giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỷ nữa, mà đứng lại trước Thập Giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một Linh Mục quản xứ nhà quê đi qua, Ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh Tẩy. Sau này, Christophe đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thủy chung của mình với Thiên Chúa.
Ngày nay, Giáo Hội tại một số quốc gia Châu Âu vẫn mừng lễ Thánh Christophe vào ngày 25 tháng 7 hằng năm, để nêu một tấm gương theo Chúa và phụng sự Chúa trọn vẹn cả cuộc đời.
Chúa đến thành Caphanaum, Chúa vào hội đường và rao giảng lời Chúa ở đây vào ngày sabát. Thành Caphanaum là một thành phố tương đối giàu có. Dân cư ở đây không có đạo rất nhiều, họ sống chung với những người Do Thái có đạo. Chúa rất cần sự gần gũi, tiếp xúc để Chúa rao giảng Tin Mừng và dẫn đưa họ trở về với Chúa. Bởi vì Chúa thương xót tất cả mọi người, Chúa không loại trừ một ai, Chúa muốn cứu hết thảy con người chúng ta.
Ma quỷ biết được ý này của Chúa, nó nghĩ rằng nếu Chúa mà đưa hết con người chúng ta về với Chúa, không còn một ai dưới quyền thống trị của nó nữa, nó sẽ thất nghiệp, cho nên nó ra sức quậy phá Chúa. Nó không moi móc được gốc tích gia đình, cuộc sống riêng tư của Chúa để bôi nhọ Chúa (Như dân làng của Chúa đã làm điều này, (xLc 4, 16 – 30), để rồi nó cho là Chúa sống không ra gì, có hơn ai đâu mà đi dạy dỗ mọi người. Nó không làm được chuyện này vì Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, Đức Mẹ và thánh cả Giuse là mẹ và là cha nuôi của Chúa cũng quá thánh thiện. Do vậy mà nó mới tri hô, la lớn cho mọi người có đạo cũng như không có đạo biết Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Lc 4, 34), là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Thế. Mục đích của nó chẳng có tốt lành gì cả. Nó muốn làm lộ Chúa là Đấng Cứu Thế mà muôn dân mong chờ hàng bao ngàn năm qua để rồi một khi dân chúng biết như thế, họ sẽ bắt Chúa tôn lên làm vua, và Chúa sẽ không thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Chúa là Chúa sẽ chịu chết để cứu tất cả con người chúng ta. Đàng khác, nó cũng la lối om sòm để gây ồn ào náo loạn, làm cho mọi người sợ hãi, tâm trí phân tán còn còn nghe Chúa rao giảng Tin Mừng nữa. Và như vậy việc dẫn đưa con người chúng ta về với Chúa sẽ thất bại, sẽ khó khăn hơn, sẽ hạn chế rất nhiều.
Nhưng ma quỷ không qua được Chúa, Chúa trách mắng và đuổi nó ra khỏi người bị nó ám và cũng đuổi nó ra khỏi hội đường (Lc 4, 35). Nó vâng lời Chúa và ra đi một cách âm thầm, không làm hại người bị nó ám, cũng như tất cả mọi người đang hiện diện ở đây với Chúa. Bởi vậy, trước sự việc lạ lùng mà từ xa xưa đến nay, dân Chúa chưa bao giờ thấy: “Lời gì mà lạ lùng thế” (Lc 4, 36), đã làm cho dân Chúa càng thêm tin tưởng vào Chúa, khâm phục Chúa, để rồi lúc họ ra về,họ đi đến nơi đâu, bất cứ chỗ nào, họ dùng lời ăn tiếng nói của họ, cuộc sống của họ, hành động của họ để cao rao danh Chúa, làm sáng danh Chúa trước mặt mọi người.
Lạy Chúa, Chúa nhân ái và từ bi, Chúa thương hết tất cả mọi người chúng con, Chúa không có bỏ sót một ai trong chương trình cứu độ của Chúa. Xin Chúa ban ơn, giúp chúng con nhận ra được tình yêu, quyền năng của Chúa để chúng con sống đạo tốt hơn và chúng con cũng biết dùng khả năng Chúa ban cho mỗi người chúng con mà chúng con cao rao Chúa cho những người anh chị em của chúng con, giúp cho họ biết tình thương, quyền năng và vinh quang của Chúa ngay tại cuộc sống đời này, nhất là giúp họ biết rằng Chúa thánh thiện vô cùng, Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm, Chúa nâng đỡ hết mọi người, Chúa cho những người không may mắn trong cuộc sống được đứng thẳng lên, được vượt qua những trắc trở khắc nghiệt mà sống tốt hơn, đỡ khổ sở hơn. Amen.
Tiếp tục rao giảng Tin Mừng. 04/09 – Thứ Tư tuần 22 thường niên. "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".
Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài. Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô. Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
Sáng ngày sabát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum. Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực. Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37). Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn. Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ. Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này. Ngài đã lại gần và cúi xuống trên bà. Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39). Lập tức cơn sốt phải rút lui. Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ. Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài. Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh. Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người, làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do. Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc. Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sabát là ngày lễ nghỉ, người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh. Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40). Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác. Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ. Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ. Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, để xa đám đông, để gặp gỡ Cha, Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến. Đức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông, Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng. Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh. Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42). Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi, là những điều có thể giữ chân người tông đồ. Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài, Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai. Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới. Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở. Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày. Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43). Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ. Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành… Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới. Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến. Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt. Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Như mặt trời trên bầu trời tỏa sáng trên muôn loài, đem sức sống cho con người và úc vật, cho hoa nở, cho trái chín, cho giòng nước trong xanh. Như mưa từ trời rơi xuống cho khí hậu mát mẻ, cho lúa mọc, cho sa mạc có sức sống. Tình Chúa bao la ấp ủ muôn loài.
Hãy xem một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Người làm việc không biết mỏi mệt. Có giảng dậy trong Hội đường. Có chiến đấu với ma quỉ. Có đám đông mênh mông đến với Người. Nhưng cũng có thời giờ gặp gỡ riêng tư với người thân. Và nhất là có thì giờ tâm sự với Chúa Cha ngay từ sáng sớm. Người đi đến đâu là mở rộng Nước Thiên Chúa đến đấy. Phá tan vương quốc sự dữ. Diệt tan đau khổ, bệnh tật, bất hạnh. Đem đến an ủi, niềm hi vọng. Đem đến sự sống và sự sống dồi dào.
Nhiều người nhìn thấy trong đó mối lợi riêng tư, nên muốn giữ chân Người. Nhưng tấm lòng bao la, Người phải lên đường đi đến với hết mọi người ở khắp mọi nơi. Bao lâu còn khổ đau bước chân Người còn dong duổi. Ở đâu còn bất hạnh trái tim Người còn thổn thức. Tin Mừng chưa đến tận cùng trái đất tâm hồn Người chưa biết đến nghỉ ngơi. Người phải đi khắp nơi vì Nước Trời không biên giới. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa”.
Nhưng có những môn đệ chưa hiểu điều đó, nên vẫn còn cục bộ phân chia. Kẻ theo A-pô-lô. Người theo Phao-lô. Đó là vì họ còn theo tính xác thịt chưa theo Thần Khí. Đó là vì họ còn muốn thiết lập nước trần gian chưa đi vào Nước Trời. Đó là vì họ còn ấu trĩ chưa đủ trưởng thành. “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? Khi người này nói: “Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô” …thì anh em chẳng là người phàm tục sao” (năm chẵn).
Người môn đệ phải có tấm lòng bao la như Chúa. Bao la để đón tiếp và cộng tác với mọi sứ giả của Chúa, dù đó là Phao-lô, Ti-mô-thê hay Ê-páp-ra. Bao la để không chỉ yêu mến người thân, cộng đoàn mà còn yêu mến cả thế giới. Bao la để cho Tin Mừng lớn lên không chỉ ở một địa phương nhưng là toàn cầu. Bao la để cho niềm tin và niềm trông cậy vươn tới Nước Trời: “Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy” (năm lẻ).
Năm 1990, trong chuyến viếng thăm Phi Châu, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến Gia Mô Su Cô, thủ đô nước Qua Tê Ðô Bu A để kính viếng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình do tổng thống nước này cho xây cất và dâng tặng cho Tòa Thánh.
Ðược mô phỏng từ Vương Cung Thánh Ðường ở Rôma, ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa đến tám ngàn chỗ ngồi và mười ngàn chỗ đứng. Người ta không biết rõ kinh phí xây cất ngôi thánh đường này là bao nhiêu, nhưng tổng thống Kufues cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ. Vào giữa lúc dân chúng Qua Tê Ðô Bu A vẫn còn sống trong nghèo nàn lạc hậu, nhiều người đã có lý để chất vấn ông Kufues tại sao không dùng số tiền kếch sù ấy để xây cất trường học và đẩy mạnh công cuộc phát triển có lợi cho dân nghèo. Ðây cũng chính là điều kiện để Tòa Thánh đón nhận món quà của tổng thống nước này.
Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
Rao giảng Tin Mừng không chỉ có nghĩa là công bố những chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn, sống đạo không chỉ có nghĩa là xây cất nhà thờ và chu toàn những việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ. Góp phần phát triển xã hội, tranh đấu cho công bình, nỗ lực mang lại no cơm ấm áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người, đó cũng là thành phần thiết yếu của công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay như hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định không thể xa lạ hay làm ngơ trước những vui mừng và hy vọng, đau thương và sầu khổ của con người thời đại, và những vấn đề sống còn của con người. Giáo Hội hành động như thế là vì tính cách toàn diện của ơn cứu rỗi. Thiên Chúa không chỉ cứu rỗi phần linh hồn mà cả con người với hồn lẫn xác. Giáo Hội loan báo ơn cứu rỗi toàn diện như thế là bởi vì chính Chúa Giêsu đã loan báo và thực hiện một ơn cứu rỗi như thế. Ngài không chỉ rao giảng và hứa hẹn một Nước Trời hoàn toàn xa lạ với những thực tại trần thế. Nước Trời mà Ngài rao giảng đến ngay trong những thực tại trần thế và trong cuộc sống cụ thể của con người. Ngài không chỉ tha tội trừ quỉ, chữa phần linh hồn mà còn dâng bánh và cá cho nhiều người được ăn no nê, cũng như chữa lành mọi thứ tật bệnh của con người.
Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với nhạc mẫu của thánh Phêrô và việc Ngài đặt tay chữa những người bệnh tật ốm đau được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của một tình yêu được trải rộng đến mọi người, từng người, từng nhu cầu của con người mà Chúa Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục trong thế giới ngày nay. Cần có nhà thờ để qui tụ lại, tôn vinh Thiên Chúa và thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của con người, nhưng càng cần có nhà thương và trường học để phục vụ con người hơn. Gặp gỡ Thiên Chúa trong nhà thờ đã đành, nhưng gặp gỡ Ngài trong tha nhân và cuộc sống hàng ngày mới thiết thực hơn. Có những giây phút tĩnh lặng để cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để được tỉnh thức hơn hầu gặp gỡ, yêu thương và phục vụ người anh em trong cuộc sống hàng ngày. Con đường nào cũng phải dẫn tới nhà thờ nhưng nhà thờ nào cũng có lối thông với cuộc đời. Người tín hữu Kitô gặp gỡ Chúa để múc lấy sức sống và trở lại cuộc sống hàng ngày hầu gặp gỡ và yêu thương người anh em của mình nhiều hơn.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thống nhất hai giới răn mến Chúa và yêu người và ý thức rằng cốt lõi của Ðạo là Tình Yêu.
"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ". Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta". Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.
Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Ngài bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng cho thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm, việc đó.” (Lc. 4, 42-43)
Đức Kitô đã nói: “ Tôi còn phải loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cho các nơi khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Người không chỉ đến một thành, là Ca-pha-na-um, hay những vùng lân cận đó, nhưng đến tận cùng thế giới.Chữa những bà mẹ vợ và còn bao nhiêu bà khác nữa!Chữa những người bị quỷ ám và còn phải đuổi bao nhiêu thần ôuế khác nữa!
Đừng nên bóp nghẹt Người vào một chỗ: đừng nên độc quyền nắm giữ sứ điệp nước trời cho riêng mình. Cần phải loan truyền Tin Mừng cho khắp mọi nơi như Người đã muốn, như chính Người đã làm. Chúng ta không thể là những người sở hữu độc nhất và đặc quyền khai thác Tin Mừng. Hiến chế về Giáo Hội của công đồng Va-ti-can II nói với chúng ta: “ Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị của mình, đều phải làm tròn trách nhiệm gieo hạt giống đức tin”. (số 17). Phép rửa tội làm cho chúng ta trở nên những nhà truyền giáo. Chúng ta không chỉ là Kitô hữu cho nơi của mình. Về phần chúng ta phải mang Tin Mừng đi khắp mọi nơi chúng ta đến.
Giáo Hội phát triển nhờ những cuộc bách hại thời sơ khai thúc đẩy các môn đệ Chúa Kitô đi lập cơ sở mới ra khỏi thế giới Do-thái. Những bất mãn hiện thời của nhiều nhóm công giáo lâu đời buộc chúng ta phải cởi mở ra thế giới khác chúng ta, họ khao khát Thiên Chúa, có sức thấm nhuần và thăng tiến lời Chúa mạnh mẽ. Xưa, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: “ Nếu họ từ chối các con, thì các con hãy đi sang làng khác”. Thiên Chúa không còn áp đặt. Con Chúa cũng vậy. Suốt dòng lich sử Giáo Hội, chúng ta đã quên điều đó. Công đồng Va-ti-can II đã nhắc nhở chúng ta trong một tuyên ngôn cách mạng về tự do tôn giáo.
Thật chính đáng khi nhận biết rằng: tất cả là ơn Chúa, tất cả là sự quan phòng của Chúa, tất cả qui hướng về vinh quang cao cả của Chúa. Những người bị bỏ rơi đã được Chúa chọn, khiến chúng ta phải hiểu ơn gọi của người Kitô chúng ta là: Hãy đi đến với mọi người không trừ ai, vì không có một người nào mà Chúa không ghé mắt đoái nhìn. Còn chúng ta, phải nói gì với họ.
“Ông là Con Thiên Chúa”. Đây là lời tuyên xưng của ma quỷ khi bị Đức Giêsu trục xuất khỏi những người mà chúng làm hại. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà truyền cho chúng phải câm miệng.
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Đức Giêsu biết rất rõ trong tâm thức thực dụng của các môn đệ và những người Dothái thời bấy giờ là mong muốn và hy vọng về một Đấng Messia theo kiểu trần tục. Họ khát mong Đấng đó phải là người: giải phóng dân tộc Israel khỏi ách đô hộ của đế quốc Lamã, đem lại tự do, cơm no áo ấm và vinh quang cho đất nước...
Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu không phải đến để giải phóng theo ý hướng của họ, mà là đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, chữa lành bệnh tật và đem lại cho họ niềm hạnh phúc thật sự là được ở với Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu đã cấm ma quỷ nói về Ngài, vì bây giờ không phải là lúc thuận tiện để mọi người hiểu được cốt lõi sứ mạng nơi Đức Giêsu.
Thật vậy, con đường cứu độ của Đức Giêsu là con đường của vâng lời, hy sinh, phục vụ, tự hủy và chịu chết, chứ không phải là con đường nhung lụa, vũ trang, quyền lực, thống lãnh... theo kiểu nhà binh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy sống và chu toàn sứ mạng mà Chúa trao phó trong vai trò và bổn phận của mình cách trung thành. Luôn đứng về phía người nghèo, thấp cổ bé họng, để bênh đỡ họ, vì chính Chúa đã đồng hóa Ngài với những người như thế. Đây phải là đối tượng số một của Tin Mừng và sứ mạng của người Kitô hữu. Mặt khác, đây cũng là thước đo lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tinh thần yêu thương như Chúa khi xưa, hầu nhiều người sẽ nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa khi chúng con biết yêu thương nhau. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã tỏ cho mọi người biết chính mình là ai khi chữa lành các bệnh tật và khử trừ ma quỷ. Ngài không cần ma quỷ tuyên xưng Ngài. Chính việc làm sẽ làm chứng cho Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi đọc Tin Mừng, con thấy các phép lạ Chúa làm được kể lại một cách rất bình thường, lời văn bình dị, đơn sơ, vắn gọn, khác xa với cách tường thuật về một sự kiện lạ lùng, ly kỳ như con thường đọc thấy.
Qua cách diễn tả đó, con nhận ra cách Chúa đang can thiệp vào cuộc sống của chúng con. Phép lạ Chúa làm không chú trọng vào kẻ kỳ dị bên ngoài, mà phép lạ chính là lúc Chúa đến tiếp xúc với con người và để cho con người tiếp xúc, gặp gỡ Chúa. Chúa đã cầm tay bà nhạc mẫu của thánh Phêrô để nâng đỡ bà dậy và bà đã khỏi sốt. Chúa đã gặp gỡ con người để đưa con người đến tình trạng tốt hơn. Phép lạ chính là việc Chúa làm để tác động lên đời sống thường nhật của chúng con.
Lạy Chúa, nhìn vào phương cách Chúa làm phép lạ, con nhận ra Chúa đã thực hiện bao nhiêu phép lạ trong cuộc sống con: những điều may lành con nhận được hằng ngày, các khó khăn nguy hiểm con đã vượt qua, những bất hoà trong gia đình được hàn gắn…, tất cả đều là sự can thiệp lạ lùng của Chúa: lạ lùng nhưng quá bình dị đơn sơ nên nhiều lúc con không nhận ra.
Chúa làm phép lạ không phải vì muốn được nổi danh nhưng chỉ vì thương xót chúng con. Điều Chúa muốn chính là cầm tay bà nhạc thánh Phêrô để bà được khỏi bệnh. Và bà đã chỗi dậy để tiếp đón, mời Chúa và các môn đệ dùng bữa ở nhà mình.
Trong cuộc sống của con, xin Chúa giúp con nhận ra những lần Chúa đến gặp gỡ con, nâng đỡ con, để con biết mau mắn chỗi dậy đón tiếp Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến”.
Soeur Marie Simon Phêrô, dòng Tiểu Muội bảo sanh viện (Công giáo Congrégation des Petites Soeurs des Maternités) tại nước Pháp mang bệnh Parkinson, cùng một loại bệnh mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II mắc phải. Soeur đã không đi đứng được, thân mình đau nhức và hai tay bị run đến nỗi không cầm bút viết được nữa. Mẹ bề trên đề nghị chị hãy cầu nguyện và viết tên của Đức Gioan Phaolô II lên một mảnh giấy, theo bà “vì ngài cũng mắc chứng bệnh Parkinson này, nên soeur cảm thấy có một mối liên hệ mật thiết với ngài”. Soeur đã cố gắng nhưng chữ viết chỉ nguệch ngoạc không đọc được. Các chị em trong dòng đã cầu nguyện không ngừng cho Soeur qua lời bầu cử của Đức Gioan Phaolô II.
Hai tháng sau khi Đức Gioan Phaolô trở về nhà Cha, một buổi sáng chị thức dậy lúc 4h30 sáng, đi ra khỏi giường thì không còn đau đớn. Chị rất ngạc nhiên khi thấy những chữ mình viết ra rất dễ đọc. Buổi sáng hôm sau, Soeur nhảy ra khỏi giường: Bệnh Parkinson đã biến mất, một việc kỳ lạ được kiểm chứng và xác nhận bởi một nhóm các bác sĩ y khoa tại địa phương. Soeur Marie Simon Phêrô, bây giờ đang làm việc tại một bệnh xá ở Paris…
Suy niệm
Chúa Giêsu cầm lấy tay nhạc mẫu của Phêrô đang nằm trên giường vì sốt, nâng bà “trỗi dậy”. “Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”.
Sau khi chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô, khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái là lúc kết thúc ngày cũ và bắt đầu một ngày mới, họ dẫn mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến với Đức Giêsu để Ngài chữa lành những ai đau bệnh và trục xuất thần ô uế trong những ai bị chúng ám. Hình ảnh đó như mang một hy vọng mới trong ngày mới: Được chữa lành, mạnh khỏe đời sống tinh thần và thể xác, nhưng không chỉ mạnh khỏe để sống cho mình mà mạnh khỏe để tiến bước trong tinh thần phục vụ.
Thật thế, trong đời sống hằng ngày, chúng ta đang phải chiến đấu, vật lộn với những thứ bệnh, ngay trong bản thân mình, những căn bệnh của thể xác, những căn bệnh về tinh thần như lo âu, đau khổ như Gióp đã đại diện con người nói lên tâm trạng đó (x. G 7,1-4.6-7). Hơn nữa, do mang thân phận mỏng giòn yếu đuối của kiếp người, chúng ta mang đủ thứ tội lỗi, những tính hư nết xấu, những khuynh hướng xấu, những đam mê, dục vọng mệt mỏi làm chúng ta sống vô vọng như muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta lại đang bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và thiếu hay không chăm chú thực hành những điều răn của Người (x. Tl 28,15.22), đó là căn bệnh tâm linh của mọi thời đại… Con người chỉ có thể được chữa lành và được mạnh khỏe khi nhìn nhận bệnh tình của mình và mang thái độ tin vào Đức Kitô, Đấng luôn yêu thương và sẵn sàng cứu chữa chúng ta như Ngài đã chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô và các người bệnh nhân chạy đến xin Người cứu chữa…
Khi chúng ta được chữa lành, chúng ta mau mắn trỗi dậy ra đi phục vụ anh em, đặc biệt những người bé nhỏ, cô thân cô thế, những người neo đơn, ốm đau tật nguyền… những người trong chính gia đình mình.
Ý lực sống:
Xin chữa lành, đỡ con dậy và con tiến bước phục vụ…
Thánh Luca tiếp tục tường thuật một ngày hoạt động bận rộn của Chúa Giêsu: sau khi giảng và chữa một người bị quỉ ám trong hội đường, Ngài đến nhà nhạc mẫu của ông Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Chiều đến, người ta vẫn còn mang tới rất nhiều bệnh nhân. Chúa Giêsu “đặt tay trên từng bệnh nhân” và cứu chữa họ. Sáng hôm sau dân chúng lại tìm Ngài, nhưng Ngài đành phải ra đi, vì “còn phải rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa cho những thành khác”.
Chúa Giêsu đến nhà nhạc mẫu của Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Ngài xua trừ quỷ dữ ra khỏi nhiều người, và trong rất nhiều trường hợp khác, đối với nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ chứng bệnh, Ngài cũng chữa lành. Tất cả đều chứng tỏ lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu đến trần gian để giải cứu con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn, nhưng Ngài cũng cứu giúp con người về phần xác nữa: Ngài cảm thông với những đau yếu bệnh tật của con người và chữa lành họ.
Chúa Giêsu không bao giờ quên việc chính yếu là phải loan báo một Tin mừng. Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43). Phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, đó là công việc hàng đầu, ưu tiên và số một của Chúa. Sau khi Chúa về trời, các Tông đồ đã tiếp tục thi hành công việc này. Các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao phó một cách rất tốt đẹp.
Rao giảng Tin mừng luôn là một việc cấp bách và liên tục, không dừng lại ở một nơi hay một nhóm người nhất định, mà phải từ nơi này đến nơi khác, cho bất cứ ai chúng ta gặp gỡ và đi đến. Cần ý thức sứ vụ của tất cả Kitô hữu chúng ta là truyền giáo, truyền giáo trong cả lời nói và hành động thiết thực qua đời sống yêu thương, bác ái và xả thân phục vụ.
Dân chúng mộ mến Đức Giêsu vì Ngài làm cho họ biết bao điều tốt đẹp: chữa bệnh, trừ quỷ, rao giảng. Thật dễ hiểu khi họ muốn giữ Ngài ở lại với họ. Điều đó không sai. Nhưng Chúa Giêsu không chấp nhận một tầm nhìn hạn hẹp như vậy. Ngài nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Để thắng cơn cám dỗ đi sai lệch trọng tâm của sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn luôn kết hợp với Chúa Cha qua đời sống cầu nguyện: Từ sáng sớm, Người đi ra một nơi hoang vắng để cầu nguyện, để sống thân mật với Chúa Cha, để lắng nghe Chúa Cha và nói lại cho dân chúng. Cầu nguyện trước đã rồi mới loan báo Tin mừng, hai thực hành này hoà quyện với nhau trong con người và hoạt động của Chúa Giêsu (5 phút Lời Chúa).
Nhiều lần các Tin mừng kể việc Chúa Giêsu cầu nguyện, chẳng hạn như: “Sau khi giải tán đám đông, Người đi lên núi mà cầu nguyện, chiều đến Ngài vẫn ở đó một mình” (Mt 14,23), hoặc: “Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35). Chúng ta để ý đến hai chi tiết: sáng sớm thức dậy Chúa Giêsu đi cầu nguyện và chiều đến sau khi giải tán đám đông, Chúa Giêsu đi cầu nguyện.
Cầu nguyện đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Mọi người có thể cầu nguyện mọi lúc mọi nơi với nhiều phương cách. Tuy nhiên, nơi mỗi xứ đạo chúng ta từ xưa đến nay vẫn giữ được thói quen tốt là đến nhà thờ vào lúc khởi đầu và kết thúc mỗi ngày: ban sáng dâng Thánh lễ và buổi tối đọc kinh chung, nhất là kinh Mân Côi.
Theo như đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có viết trong cuốn sách Đường Hy Vọng như sau: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa”.
Dù là Con Thiên Chúa, với thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn không bỏ qua việc cầu nguyện. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỷ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô; chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng, để cầu nguyện và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
Truyện: Phải cộng tác với Chúa
Đức cha Tihamer Toth kể: Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn, nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi được hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã, người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là khác. Ông nói: Thiên Chúa yêu thương vô cùng, Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu dư đầy.
Luca tiếp tục tường thuật một ngày hoạt động bận rộn của Chúa Giêsu: sau khi giảng và chữa một người bị quỷ ám trong hội đường, Ngài đến nhà nhạc mẫu của Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Chiều đến, người ta vẫn còn mang tới rất nhiều bệnh nhân, Chúa Giêsu “đặt tay trên từng bệnh nhân” và cứu chữa họ. Sáng hôm sau dân chúng lại tìm Ngài. Nhưng Ngài đành phải ra đi vì “còn phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho những thành khác”.
B.... nẩy mầm.
1. Khi có người nào đó giống Chúa Giêsu biết quan tâm cứu giúp những người đau khổ, thì những người đau khổ vây quanh bám lấy người ấy như một đám đông gần chết đuối bám lấy chiếc phao duy nhất.
Tội nghiệp cho nhân loại khốn khổ. Xin cho có nhiều người mang tâm hồn bao la như Chúa, trong số đó cũng có con.
2. Phần cuối của bài Tin Mừng này khiến tôi hơi thất vọng: những người khốn khổ vẫn bám theo Chúa Giêsu, “họ cố cầm giữ Ngài lại”, nhưng Ngài bỏ họ mà đi, vì “còn phải rao giảng Tin Mừng cho những thành khác”.
Nhưng tôi đã hiểu: Chúa không nhắm cứu hết tất cả những đau khổ phần xác (bởi vì đã mang thân xác tất phải chịu khổ đau. Trần gian là thế!), nhưng Ngài nhằm đem cho nhân loại Tin Mừng, một thứ thuốc tiên giải thoát những đau khổ tinh thần.
3. “Đến sáng ngày, Ngài ra đi vào hoang địa”: đó là lúc Chúa Giêsu múc lấy nguồn lực cho tất cả những hoạt động rộn rịp suốt cả ngày. Ngài múc lấy nguồn lực từ việc cầu nguyện. Nơi Chúa Giêsu, cầu nguyện và hoạt động được phối hợp rất quân bình. Không phải vì bận việc mà Ngài bỏ cầu nguyện. Trái lại, càng làm việc nhiều thì Ngài càng cầu nguyện nhiều hơn.
4. “Chúa Giêsu nói với dân chúng: Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43)
Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông ngoài 50 tuổi bị chứng bất toại. Chân không đi đứng gì được và hai tay cũng không làm gì được hơn. Suốt ngày ông chỉ biết than thân trách phận. Mặc dù ông không phải là người công giáo nhưng cha sở thỉnh thoảng đến thăm ông và mời gọi nhiều người đến thăm, chia sẻ và giúp đỡ ông. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện đến chăm sóc ông. Mỗi chúa nhựt có một thiếu nhi đến đọc truyện cho ông nghe, kể chuyện vui cho ông bớt cô đơn. Sau một thời gian, ông xin lãnh bí tích Thánh Tẩy. Ông nói: “Thưa cha, trước đây con không tin có Chúa, nhưng từ ngày con được cha đến thăm, được bác sĩ giúp đỡ, các em giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, và chính Chúa đã gởi cha, bác sĩ và các em đến với con và bày tỏ tình thương đối với con. Con tin như thế”.
Lạy Chúa, xin cho con biết đem niềm vui của Tin Mừng đến với mọi người, luôn cảm thấy được thôi thúc, được sai đi. Xin cho con biết sẵn sàng lên đường khi được Chúa mời gọi. (Hosanna).
1. Chúa Giêsu không phải chỉ quan tâm đến vấn đề tinh thần mà Người còn quan tâm đến cả những vấn đề rất cụ thể của con người như bệnh tật, đói nghèo, đau khổ v.v…
Việc Chúa quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến toàn bộ cuộc sống của con người, nhắc cho Giáo Hội hôm nay phải biết luôn nhớ đến bổn phận trần thế của mình.
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội có nói: “Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa.”
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm thủ đô San José của Costa Rica để thánh hiến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình do Tổng thống nước này xây cất và dâng tặng Toà thánh. Vương cung Thánh Đường này được mô phỏng theo mô hình Vương cung Thánh Đường Thánh Phêrô ở Rôma. Ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa được 8000 chỗ ngồi và 10.000 chỗ đứng. Người ta không biết để xây cất ngôi thánh đường này kinh phí phải tốn bao nhiêu? Nhưng Tổng thống cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ.
Nhiều người ca tụng gia đình ông là hào hiệp đạo đức nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: giữa lúc dân chúng Costa Rica sống trong cảnh nghèo nàn lạc hậu như thế mà gia đình ông giàu có đến như vậy thì việc làm của gia đình ông có đúng hay không? Thậm chí còn có người chất vấn ông:
- Tại sao không dùng số tiền ấy để xây trường học, đẩy mạnh công cuộc phát trển có lợi cho dân nghèo?
Rao giảng Tin Mừng không chỉ là chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn và sống đạo không chỉ là xây cất nhà thờ, chu toàn các việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường của nhà thờ, mà còn phải là góp phần nỗ lực vào công tác xã hội, mang lại cơm no manh áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người. Giáo Hội luôn ý thức điều đó. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến để thánh hiến Thánh Đường Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình, nhưng đồng thời Ngài cũng kêu gọi Tổng thống quan tâm đến công tác xã hội và giáo dục cho dân nghèo. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha đã lập tức được hưởng ứng. Tổng thống đã tặng ngay cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã thánh hiến ngôi thánh đường, nhưng đồng thời ngài cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
2. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ quên việc chính yếu là phải loan báo một Tin Mừng. “Chúa Giêsu nói với dân chúng: tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt là để làm việc đó”. (Lc 4,43).
Phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Đó là công việc hàng đầu, ưu tiên và số một của Chúa.
Sau khi Chúa về trời, các tông đồ đã tiếp tục thi hành công việc này. Các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao phó một cách hết sức tốt đẹp.
Ngày nay, Chúa cũng muốn cho chúng ta cộng tác với Người.
Một buổi họp mặt sống động được tổ chức trong một ngôi nhà thờ làng. Qua những buổi họp mặt, nhiều người đã được ơn giải thoát.
Một lần kia, sau khi giảng, vị linh mục nói:
- Ở đây có người nào gây ảnh hưởng nhất cho anh chị em trong việc giúp người khác thành một người Kitô hữu không? Có thể đó là bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Tôi mong rằng, bây giờ anh chị em sẽ đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hưởng nhất đối với anh chị em trong việc nhận ra Đức Kitô như là Đấng cứu Độ của mình.
Ngồi bên phải vị linh mục là một bà cụ đã ngoài 75 tuổi. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi.
Thế mà cả một chuỗi dài người cứ nối tiếp nhau tiến đến bắt tay cụ, họ nói:
- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Đức Kitô đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Dộ.
Thật là một đời sống tươi đẹp, thánh thiện, mà nhờ đó qua bao năm tháng, người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất
Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, qua đời sống yêu thương của chúng con. Amen.
Chúa rao giảng Tin Mừng, Chúa làm các phép lạ để xua trừ ma quỷ và cứu chữa bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng, Chúa đi đến đâu, dân chúng ta theo Chúa đến đó. Chúa rời hội đường, Chúa vào nhà mẹ vợ ông Simon Phêrô, dân chúng cũng đi theo Chúa và lúc này họ gắn bó với Chúa như cá với nước, như hình với bóng. Sở dĩ như thế là do Chúa thương yêu dân Chúa và dân Chúa cũng đã nhận ra tình yêu này.
Khi chấm dứt ngày sabát và bước sang đầu ngày mới, dân Chúa hết kiêng việc xác, cho nên lại kéo đến với Chúa càng đông đảo hơn. Chẳng những vậy mà họ còn đem đến với Chúa nhiều người bệnh với đủ các chứng bệnh khác nhau. Họ tin Chúa đến nổi dù người bệnh đó đau nặng, nằm liệt lào, hoặc có những bệnh nhân không đi được, họ cùng tìm cách như khiêng, như cõng những người bệnh đó đến với Chúa. Chúa đặt tay trên từng người bệnh, nghĩa là Chúa quan tâm đến từng người một, Chúa thương xót từng người một cụ thể chứ không có chung chung, ai cũng giống nhau, và tất cả được chữa lành, đều nhận được các ơn lành của Chúa ban. Trong đó có bà nhạc gia của thánh Phêrô, bà được Chúa cầm tay chữa cho hết cơn sốt và bà biết ơn Chúa, bà đã chỗi dậy để phục vụ Chúa. Chúng ta cũng trộm nghĩ rằng, tất cả dân chúng đến với Chúa hôm nay, cách riêng là những người đau bệnh được Chúa chữa lành, họ cũng biết ơn Chúa và họ tỏ lòng biết ơn đó bằng cách ở lại bên Chúa nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, phục vụ, giúp đỡ Chúa khi Chúa cần đến họ.
Tuy Chúa rất bận bịu với công việc rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu chữa dân chúng, nhưng Chúa vẫn luôn luôn sống gắn bó với Chúa Cha mọi nơi mọi lúc. Trước khi rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ, Chúa cầu xin Chúa Cha ban ơn cho Chúa để Chúa thi hành. Sau khi rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ, Chúa dâng lời tạ ơn Chúa Cha vì đã thương ban cho Chúa những điều tốt đẹp như vậy. Nhất là sáng sớm, khi trời còn tối, vạn vật vẫn còn chìm trong giấc ngủ đêm, hoặc có thức dậy thì cũng chưa tỉnh hẳn, Chúa đã thức dậy rồi, Chúa ra đi đến nơi thanh vắng để Chúa cầu nguyện với Chúa Cha trong không gian tĩnh mịch khởi đầu cho một ngày mới, để Chúa hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha, để Chúa Cha chúc lành cho Chúa, thêm ơn giúp sức cho Chúa mà Chúa có tinh thần, có nghị lực chu toàn các công việc Chúa Cha trao phó cho Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại. Vì thế mà Chúa đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.
Nhất nữa, Chúa quá thương dân Chúa như thế, cho nên mọi người đều muốn giữ chân Chúa lại với họ, không muốn Chúa đi nơi khác, không muốn chia sẻ Chúa cho người khác. Nhưng Chúa thì muốn dân chúng ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay sống tinh thần anh chị em, đại đồng, yêu thương chia sẻ, giúp nhau. Chúng ta cần có Chúa như thế nào, thì người anh chị em của chúng ta cũng cần có Chúa như thế. Vì như Chúa đã nói: “Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa” (Lc 4, 44).
Lạy Chúa, chúng con rất hạnh phúc vì được làm con của Chúa và có Chúa là Chúa của chúng con. Chúa biết tất cả mọi người chúng con. Chúa quan tâm đến mọi công việc chúng con làm để Chúa trợ giúp và bảo vệ chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn tin tưởng nơi Chúa và hân hoan ca khen, chúc tụng Chúa trong suốt cuộc đời của chúng con. Amen.
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Ghênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”. Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm. Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng. Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom. Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu. Ðức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơn. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39). Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Ðấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.” Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình. Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông. Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không? Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó. Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen. ---------------------------------
“Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Trong đời sống ai càng chiếm hữu được nhiều và biết dùng mọi cơ hội để có thêm được coi là khôn ngoan. Thánh Phê-rô và các bạn hôm nay chắc chắn bị nhiều người cho là dại dột. Đang mệt mỏi cần đi nghỉ, nhưng đã sẵn sàng cho Chúa mượn thuyền và còn cất công chèo thuyền cho Chúa rao giảng. Các ngư phủ chuyên nghiệp đánh cá suốt đêm không đuợc gì lại vâng theo lệnh Chúa, một người thợ mộc, tiếp tục ra khơi. Và sau một mẻ lưới phi thường, tưởng có thể là cơ hội phát triển công ăn việc làm, lại bỏ tất cả đi theo Chúa. Các ngài đã từ bỏ nhiều thứ và sau cùng từ bỏ tất cả. Bỏ cả gia đình vợ con. Bỏ cả nếp sống quen thuộc với nghề nghiệp vững vàng. Bước vào hành trình phiêu lưu. Theo đuổi một công việc mới: “thu phục người ta”. Không có gì bảo đảm. Không biết đích điểm. Không thấy tương lai. Có dại dột quá không?
Thánh Phao-lô cho biết đó là những người khôn ngoan nhất. “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa”. Nên “nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật”. Khôn ngoan thật là biết rằng “tất cả thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki tô, và Đức Ki tô lại thuộc về Thiên Chúa”. Bỏ hết mọi sự, dâng hết mọi sự cho Chúa chính là đi vào nguồn mạch sự phong phú, là kho tàng của mọi kho tàng, là chiếm được tất cả. Vì Chúa là tất cả (năm chẵn).
Tất nhiên để đạt đến sự khôn ngoan trong Thiên Chúa, ta phải trải qua rất nhiều thử thách. Chính vì thế thánh Phao-lô luôn cầu nguyện để chúng ta “được am tường thánh ý Thiên Chúa với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khi ban cho”. Khi đó ta sẽ biết sống như Chúa đòi hỏi, sinh nhiều hoa trái và ngày càng hiểu biết Chúa hơn. Khi đó Chúa sẽ ban sức mạnh để ta kiên trì vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhờ đó ta sẽ xứng đáng đạt tới vinh quang của Thiên Chúa trong cõi đầy ánh sáng. “Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả. Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Như vậy tuy yếu đuối trước mặt thế gian, ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Điên dại trước mặt thế gian ta sẽ nên khôn ngoan. Nghèo khó trước mặt thế gian ta vô cùng giầu có vì được hưởng gia nghiệp của Chúa. Và gia nghiệp ấy bền vững mãi mãi (năm lẻ).
Lạy Chúa, xin cho con biết điên rồ, nghèo hèn và dại dột trước mặt thế gian. Để được sáng suốt, giầu sang và khôn ngoan trong Nước Trời.
Triết gia hiện sinh Pháp Albert đã có lần nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận là mình". Ông có ý nói rằng con người không chấp nhận những giới hạn và bất toàn của mình.
Con người luôn muốn nổi loạn để vượt qua chính mình. Sự nổi loạn ấy rõ ràng nhất là trong lĩnh vực khoa học. Những khám phá khoa học và những ứng dụng kỹ thuật ngày càng làm cho chính con người chóng mặt. Chúng ta thử nhìn vào dự tính sản sinh con người theo phương pháp vô tính mà hiện một số nhà khoa học đang muốn lao mình vào. Những hệ lụy của một cơn cám dỗ như thế là vô cùng khủng khiếp. Chính tính cách không dự đoán và không lường trước được ấy của những hệ lụy là cho thấy những giới hạn và bất toàn của trí khôn cũng như khả năng của con người. Con người càng tiến bộ lại càng nhận ra giới hạn của mình. Ðây phải là thái độ tự nhiên của con người. Muốn hay không, con người không thể chối cãi được những giới hạn của mình.
Con người chỉ là người khi nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận chính mình. Tin Mừng không ngừng lập lại chân lý ấy. Càng khiêm hạ, con người càng được nâng cao. Càng nhận biết những giới hạn của mình, con người càng nhận ra mối giây liên kết và lệ thuộc của mình với Ðấng Tạo Hóa, con người càng thấy được sự cao cả đích thực của mình. Ðây là lý tưởng mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta.
Sau một đêm vất vả, các môn đệ không bắt được một con cá nào. Hơn ai hết, những người đánh cá có kinh nghiệm về thời tiết, về sóng nước và có lẽ cũng hơn ai hết, lênh đênh giữa đại dương mênh mông, họ dễ cảm nhận được thân phận nhỏ bé bất toàn của con người. Nhưng thánh Phêrô chỉ thực sự ý thức được thân phận ấy khi chứng kiến mẻ cá lạ do Chúa Giêsu thực hiện. Ði sâu vào thân phận ấy, thánh nhân không chỉ thấy những giới hạn và bất toàn của mình về phương diện nghề nghiệp hay nhân bản, mà còn nhận ra một sự bất lực khác của bản thân, đó là bất lực trong ơn thánh. Thật thế, thánh Phêrô khám phá ra thân phận tội lỗi của mình.
Con người có thể nhận ra những giới hạn, bất toàn, và ngay cả lầm lỡ của mình, nhưng để thấy mình là người tội lỗi, con người phải nhận ra mối giây liên kết với Ðấng Tạo Hóa. Tội lỗi thiết yếu nói lên mối liên kết với Ðấng Tạo Hóa mà con người đã cắt đứt. Mẻ cá lạ vừa cho thánh Phêrô thấy quyền năng của Ðấng Tạo Hóa, vừa là phơi bày con người tội lỗi yếu hèn của mình. Phản ứng của thánh Phêrô là mẫu mực cho cuộc sống đức tin của người tín hữu Kitô. Phản ứng này cũng là hằng số trong cuộc đời của vị Giáo Hoàng tiên khởi này. Sau này, kinh nghiệm chối Chúa lại càng cho thánh nhân ý thức được thân phận tội lỗi của mình và đồng thời cảm nhận được quyền năng của Thiên Chúa.
Một thi hào người Ðức đã nói: "Ai biết chấp nhận những giới hạn của mình, người đó đang đi gần đến sự hoàn hảo". Thánh Phêrô được nên cao trọng có lẽ không do tài lãnh đạo hay chính sự thánh thiện cá nhân của mình mà trước tiên là ở tấm lòng khiêm tốn sám hối và tin tưởng ở quyền năng và tình yêu của Chúa. Tựu trung, đó cũng chính là tâm tình tôn giáo đích thực của con người. Có tôn giáo thiết yếu là ý thức được thân phận thụ tạo, bất lực và tội lỗi của mình, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu và sự tha thứ của Chúa.
Ý nghĩa của mẻ cá và ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay sẽ được sáng tỏ, nếu chúng ta nắm bắt được quan niệm của người Do thái về biểu tượng của nước, nhất là của biển cả. Người Do thái tin rằng biển cả là nơi cư ngụ của Satan và những lực lượng chống đối Thiên Chúa. Trong niềm mong đợi chung, người Do thái tin rằng chỉ có Ðấng Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến mới có đủ uy quyền để chế ngự biển cả và giải thoát tất cả những ai đang bị chôn vùi trong đó.
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được quyền năng giải thoát của Ngài khi thực hiện mẻ cá lạ lùng trước mặt các ông. Chiếc lưới được thả vào lòng biển khơi để vớt cá lên, đó là hình ảnh của công cuộc cứu thoát mà Ngài đang thực hiện. Ngài đến là để lôi kéo con người khỏi vực sâu của tội lỗi và sự dữ. Chính trong ý nghĩa ấy, Chúa Giêsu dùng kiểu nói "đánh lưới người" mà Ngài sẽ trao phó cho các môn đệ và Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập; trở thành ngư phủ đánh lưới người có nghĩa là tham dự vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu.
Qua mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng tự sức họ, họ không thể làm được gì. Thánh Phêrô đã ý thức được điều đó: "Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Thánh Phêrô không chỉ nói lên cái giới hạn bất toàn của con người, mà còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: "Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Ý thức về thân phận ấy và sống cho đến cùng thân phận ấy là cả một cuộc chiến đấu cam go. Hơn ai hết, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được sự yếu đuối mỏng giòn của con người khi chối Thầy; cả cuộc đời ngư phủ đánh lưới người của Phêrô chỉ trở thành hữu hiệu với ý thức ấy. Càng thấy mình yếu hèn, con người càng sống gắn bó với Chúa; càng thấy mình vô dụng, con người càng trở nên hữu hiệu trong quyền năng của Chúa. Ra đi tản mát khắp nơi để trở thành ngư phủ đánh lưới người, tất cả các môn đệ đều nhớ lại bài học của mẻ cá lạ ấy và tâm niệm lời Chúa Giêsu: "Không có Thầy, các con không làm được gì".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng nhìn vào tác động của Chúa qua Giáo Hội. Ngài vẫn hiện diện trong con thuyền Giáo Hội, và ngoài mọi suy nghĩ, tính toán của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thực hiện những điều cả thể, ngay cả những lúc Giáo Hội tưởng mình bị bó tay không làm được gì. Lời nhắn nhủ của Ðức Hồng Y Etchegaray đáng cho chúng ta suy nghĩ: Người ta dễ chú ý đến tiếng động của cây rừng ngã đổ, mà lại quên đi âm thanh nhỏ bé của những mầm non đang mọc lên.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm tin vững vào sự hiện diện và tác động của Chúa trong Giáo Hội. Xin Ngài ban cho chúng ta đôi mắt tinh tường bén nhạy để nhận ra biết bao điều cả thể Ngài đang thực hiện trong những biến cố âm thầm, mất mát, thua thiệt của Giáo Hội.
Thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tấ cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà đi theo Người. (Lc. 5, 9-11)
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông Phê-rô tốt lành đã từ kinh ngạc này sang kinh ngạc khác.
Trước hết, Đức Giêsu đã chọn thuyền của ông như là thứ ngai tòa để Người ngồi giảng cho dân trên bờ chú ý nghe Người. Có thể tưởng tượng xem anh ngư phủ này hãnh diện, vinh dự chừng nào được Thầy mà mọi người đã hăm hở đi tìm.
Tiếp theo là một mẻ cá lạ lùng! dẫu bao nhiêu bạn bè với mình suốt đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì. Chẳng ăn gì, chẳng có gì ăn! và này đột nhiên, thật lạ chỉ một lời phán của Đức Giêsu, họ đi kéo lưới. Thật vững chắc, Phê-rô đã làm một cử chỉ đẹp để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu đầy quyền năng. Ông không do dự, lần nữa ông đã thử thời vận ra khơi thả lưới, lưới gần rách, thuyền gần chìm vì cá đầy lưới. Lạ thay phần thưởng lớn lao dành cho một hành động vâng lời nhỏ bé! Phê-rô kinh sợ. Ông té xuống chân Đức Kitô và van nài Ngài xa ông vì ông chỉ là kẻ tội lỗi, quá bất xứng đối với một vị tôn sư cao cả.
Tuy nhiên, Phê-rô không phải kinh sợ đến tận cùng. Đức Kitô chẳng những không lìa bỏ ông mà còn tuyên bố làm thay đổi đời của ông mãi mãi: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi chài lưới cứu sống người ta”. Quả thực anh là hạng người vô danh tiểu tốt thất học lại được Đức Kitô trao phó nhiệm vụ lớn lao bao quát cả biển người, anh đã cùng với Ngài và các bạn tông đồ khác không ngừng thực hiện nhịêm vụ cứu vớt người đời cho tới tận thế.
Tại sao có sự chọn lựa này! Tại sao không trao nhiệm vụ lớn lao đó cho người học thức, cho người tiến sĩ các khoa học tôn giáo đương thời của Đức Giêsu. Sự phong ban trao phó nhiệm vụ lớn lao này thật ngược đời, gây quá nhiều bối rối, khúc mắc: Một mầu nhiệm của Đức Giêsu, mầu nhịêm của Giáo Hội. Lý lẽ đức tin, nghịch hẳn lại lý lẽ của lý trí loài người. Đấng Cứu Thế bắt đầu lôi cuốn tất cả về Ngài ngay cả lúc tất cả như xa lánh Ngài như ông tiên tri báo về Ngài. Có thể Ngài đã cho phép xảy ra thách đố như thế.
Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu gọi và chọn bốn môn đệ đầu tiên. Ngài gọi các ông không phải các ông xứng đáng. Cũng không phải các ông thuộc thành phần vai vế trong xã hội. Lại càng không phải là người tài giỏi...
Nhưng khi gọi các ông, Đức Giêsu chú trọng đến sự giản dị, bình thường, đơn sơ, chất phát và biết phó thác nơi các ông. Ngài gọi các ông từ trong công việc đời thường của họ, bởi Đức Giêsu nhận ra “chất tố” môn đệ nơi sâu thẳm tâm hồn các ông.
Thật vậy, sự quảng đại là yếu tố đầu tiên mà chúng ta có thể nhận thấy nơi Phêrô trong quá trình đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương của Đức Giêsu. Phêrô đã quảng đại cho Đức Giêsu mượn thuyền của mình. Ông cũng không ngại khó khi sẵn sàng trèo thuyền cho Đức Giêsu giảng dạy dân chúng.
Tiếp theo là sự vâng lời. Đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì! Ấy thế mà, khi được lệnh của Đức Giêsu, các ông sẵn sàng thi hành. Nếu không có sự tùng phục, hẳn không ai lại đi làm chuyện ngược đời như vậy, bởi lẽ ngư dân chuyên nghiệp, hẳn họ biết giờ ấy và chỗ nước đó không thể có cá vào lúc này...!!!
Thứ ba, phải mang trong mình tâm tình khiêm tốn. Khi nhận ra mình yếu đuối và tội lỗi, Phêrô đã phục lạy Đức Giêsu. Khiêm tốn là điều kiện rất quan trọng để trở thành môn đệ. Nếu không khiêm tốn, hẳn chúng ta không có nguồn năng lượng từ Chúa để đủ nghị lực thi hành sứ vụ. Khiêm tốn là thái độ của người thuộc về Đức Giêsu như Ngài thuộc về Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa, các ông sẵn sàng đón nhận và lên đường.
Thật vậy, chính nhờ những đặc điểm đó, mà Đức Giêsu đã chọn Phêrô và các môn đệ khác.
Lần giở lại trong tâm tưởng, lịch sử ơn gọi của chúng ta, dù đi tu hay ơn gọi gia đình, chúng ta đều được Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy theo Thầy”.
Theo Thầy để đáp lại lời mời gọi làm tông đồ, yêu thương và phục vụ.
Theo Thầy để phản ánh tình yêu của Thầy cho mọi người.
Theo Thầy để trở thành chứng nhân cho Thầy.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta giả điếc làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa như:
Đang sống một cuộc sống dễ dãi, hẳn không muốn đi vào con đường của thiếu thốn. Đang sống trong sự an nhàn thư thái, yên thân, hẳn không muốn ra “chỗ nước sâu” là những thử thách, nguy hiểm để tác nghiệp... Hay đang sống trong quyền lực, không dại gì lại trở nên người hiền lành, khiêm tốn... Và, không dại gì lại phải lên đường để đến nơi chẳng muốn...!
Tất cả những lý do trên, khiến hồn tông đồ của chúng ta bị héo úa tàn phai, và rất khác với các môn đệ khi xưa, bởi chúng ta vẫn còn ích kỷ theo kiểu được - thua.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy phó thác mọi sự trong tay Chúa, luôn tin tưởng cậy trông nơi Ngài. Nếu có đức tin, chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng hậu hĩnh, hơn cả sự tưởng tượng của chúng ta. Mẻ cá lớn đã chứng minh cho chúng ta điều đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vâng theo Lời Chúa, biết dựa vào Lời Chúa và thực thi Lời Ngài trong cuộc sống. Amen.
Sứ điệp: Trong đời sống đức tin, Thiên Chúa thường đòi ta thực hiện những việc làm có vẻ kỳ dị và vô lý. Nhưng nếu làm theo Thánh Ý Chúa, chắc chắn ta sẽ đạt được nhiều kết quả thật bất ngờ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín rằng tất cả mọi nỗ lực, cố gắng của con đều trở thành vô ích nếu không có ơn Chúa phù trợ. Chúa đã trở thành điểm tựa vững chắc cho đời sống con.
Nhưng Chúa thường đòi con làm những việc có vẻ kỳ dị vô lý, như các tông đồ lại ra khơi đánh cá khi không bắt được con nào suốt một đêm vất vả. Chúa muốn con tin vào Chúa, chứ không tin vào những suy luận của riêng con.
Đối với con hôm nay, việc có vẻ kỳ dị và vô lý là sống hy sinh giữa thế giới đang lao mình vào hưởng thụ sung sướng, hoặc chấp nhận bị thiệt thòi giữa một xã hội mà ai cũng lo thu quén cho chính mình. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là tự chủ khước từ những đam mê cờ bạc, để dùng tiền của và thời giờ mà phục vụ lợi ích gia đình và xã hội. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là đi đến với bạn bè lối xóm để thăm viếng, nối lại tình thân ái yêu thương.
Lạy Chúa, khi thực hiện những công việc ấy, con cảm thấy e ngại và do dự. Nhưng con muốn cương quyết như thánh Phêrô: “Vì vâng lời Thầy, con xin thả lưới”.
Lạy Chúa, con cũng muốn thực hiện điều ấy trong các giờ kinh lễ hằng ngày. Ước gì những giờ kinh lễ ấy không trở thành những việc “cực nhọc suốt đêm mà không được gì”. Trái lại nhờ thánh lễ, xin Chúa giúp con sáng suốt nhận ra và thực hiện Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để có thể đạt được những thành quả quá lòng ước mong. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất.
Ông bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Cô bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời: “Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do? Tự do để làm gì?”, cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời: “Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói: “Cháu sẽ đi theo ông”.
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài (Theo cha Giuse Đinh Lập Liễm).
Suy niệm
Phêrô và các môn đệ theo lệnh Chúa, ra khơi thả lưới… lưới đầy cá… Phêrô đã sụp xuống và sợ hãi khi chứng kiến phép lạ tỏ tường, ông thưa: “Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi” (Lc 5:8) và Chúa đã kéo ông ra khỏi sự mặc cảm: “Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5:10). Đức Giêsu đã đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông, trở nên thuyền trưởng cho sứ vụ “chài lưới người”. Các tông đồ ra khơi trong sứ mạng chài lưới người như Đức Kitô đã nói. Ra khơi, các ông đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài để mang những con người tội lỗi về cho Chúa Kitô
Thật thế, các môn đệ mệt mỏi vật lộn với biển khơi thả lưới với một đêm thức trắng, nhưng thất bại chua cay không một con cá. Tâm trạng các ông thất vọng và chán nản. Chúa Giêsu lại bảo các ông hãy ra khơi một lần nữa. Ra khơi, đi vào biển lúc này với các ông là cả một sự cực hình vì vừa sống trong kinh nghiệm thất bại dù đã làm việc và thả lưới suốt đêm, nhưng vâng lời thầy, các ông vẫn ra khơi đi thả lưới.
Biển theo văn hóa Semit là nơi đáng sợ, theo chú giải của Noel Question Chúa Giêsu bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ra chỗ nước sâu bản dịch chính xác hơn: “Ra chỗ nước trên vực thẳm - eis to bathos” tiếng Hy Lạp. Từ “bathos” có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp “bathiscaphe”: Nơi xuất phát quyền lực sự dữ, biển sâu là biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật trong hỏa ngục (x. St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1). Ra khơi, thực hành nghề đi biển, đối diện với hiểm nguy. Nhiều thủy thủ, thuyền trưởng “bị nuốt chửng, bị nhận chìm” trước cơn giận của biển cả!.
Chúa gọi các mộn đệ ra khơi, tìm chỗ sâu thả lưới, tức là phiêu lưu đi vào nơi sóng gió. Ngài muốn người môn đệ phải liều lĩnh đối diện với hiểm nguy. Đó là sẵn sàng ra đi như Chúa Giêsu ví như chiên con vào giữa hang sói (x. Lc 10,3). Ra đi cho cuộc sống mới, cho một sứ mạng mới.
Ra khơi, bỏ lại đất liền nơi có nhiều mối quen biết, an toàn, bao bọc, để mạo hiểm lênh đênh trên biển cả. Lên đường ra khơi là bỏ lại tất cả: Gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ nghề chài lưới cá để thành kẻ chài người.
Ra khơi là ra khỏi chính mình, ra khỏi những mặc cảm, khiếm khuyết bất toàn, để sống con người mới cho sứ mạng mới...
Đức Kitô hôm nay vẫn đi dọc theo bờ biển của cuộc đời chúng ta, Ngài nói với tôi và bạn, những người đang lắng nghe lời Ngài giảng dạy: “Hãy ra khơi”, ra khơi tiến vào biển cả, đối diện với phong ba bão tố. Ra khơi với tinh thần như các môn đệ năm xưa: “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa” (Lc 5:11).
Ra khơi vào biển cả cuộc đời, nơi có bão tố gian nan mà con người phải đối diện, chúng ta mang những tâm tình cam đảm vượt khó với niềm tin vào Thầy như Theodore Roosevelt chia sẻ: “Chịu xây xát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại”. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng. Như Phêrô cọ xát với thất bại trong đêm trường thả lưới dù với tất cả sự cố gắng, nhưng chiến thắng trong ban ngày thả lưới, lưới đầy cá vì ông đã làm theo ý Thầy: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5:5).
Ý lực sống:
Vâng lời thầy, con quyết ra khơi, Đi vào biển cả - giông tố nhiều Tâm tư vững dạ con tung lưới Cá tôm ngập tràn thuyền đời con.
“Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”
Lời Phêrô đã thốt lên khi thấy phép lạ Chúa Giêsu thực hiện quá nhiệm mầu. Phêrô và mọi người vừa sung sướng, vừa kinh ngạc trước mẻ cá lạ lùng ấy. Ông thấy con người mình thấp hèn và giới hạn, không thể xứng với tình thương của vị Thiên Chúa quyền phép. Nhưng, Đức Giêsu hiền từ an ủi: “Đừng sợ, từ nay con sẽ thành kẻ lưới người”. Thiên Chúa không chê bỏ sự thấp hèn của con người. Ngài luôn tin tưởng, kêu gọi con người công tác với Chúa, trở thành những môn đệ chân chính của Ngài.
Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là nơi sinh sống thường ngày của họ. Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là gọi họ đang lúc họ làm công việc hằng ngày của họ.
Chúa bắt đầu câu chuyện bằng cách “xin” ông Phêrô một việc rất nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra khỏi bờ một chút để Ngài giảng. Và cuối câu chuyện, Ngài “ban” cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá và một ơn còn lớn gấp bội là được làm môn đệ Ngài. Chính ông đã trả lời Chúa khi Chúa muốn ông đẩy thuyền ra xa một chút để thả lưới khi nói: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
Một lời quả quyết rất đẹp lòng Chúa. Nếu Phêrô đã không nghe Lời Chúa, thì sau đó ông sẽ chẳng nhận được những ơn ban to lớn kia. Như vậy chúng ta thấy, sự vâng lời Chúa đã đem lại những kết quả thật bất ngờ.
Bức tranh trên bờ hồ Giênêxarét thật đẹp, khi những người nghe Chúa Giêsu giảng chen lấn nhau để đến gần Chúa, Ngài đã làm cho các môn đệ chứng kiến mẻ cá lạ, khi các ông thả lưới bên phải mạn thuyền như lời Chúa truyền. Trước mẻ cá lạ như thế, các môn đệ đã không khỏi ngạc nhiên, và đã bỏ thuyền, lưới mà theo Chúa. Giờ đây các ông đi trên con thuyền rao giảng Tin mừng, mà người chủ thuyền là Chúa Giêsu.
Hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng ta bước theo Chúa trên hành trình rao giảng Tin mừng, quảng đại đáp lại lời mời gọi làm chứng cho Chúa. Ngài chỉ cần chúng ta thả lưới, và Ngài sẽ thực hiện những mẻ cá lạ trong cuộc đời chúng ta. Vậy còn lý do gì mà chúng ta không thả lưới?
“Không thầy đố mày làm nên”. Phêrô rất ý thức sự thật này qua lời tuyên bố đầy xác tín: “Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà chẳng được gì, nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Ông gác qua kinh nghiệm đánh cá dày dạn của mình và nghe theo lời Thầy trong chính chuyện... đánh cá! Phêrô đã thể hiện cái tâm “tầm đạo” của ông bằng thái độ cởi mở, hoàn toàn phá chấp, sẵn sàng lắng nghe. Và ông trúng đậm: một mẻ cá đầy đến gần rách cả lưới! Nhưng đó mới chỉ là “khúc dạo đầu” có tính tượng trưng thôi; từ đây Phêrô bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu để trở thành một tay “đánh lưới người”. Từ đây, ông lấy lời của Thầy làm động lực và điểm tựa cho cả cuộc đời ông (5 phút Lời Chúa).
Chúng ta hãy mạnh dạn và tin tưởng khởi đầu và Chúa tiếp tục làm việc. Sau khi huấn luyện 16 anh em tiên khởi được một năm, thánh Đa Minh đã sai họ đi rao giảng Tin mừng. Đây là điều lạ lùng, vì theo lẽ thường, để trở thành một nhà giảng thuyết, người ta cần được đào tạo trong nhiều năm. Tin vào lời Chúa hứa sẽ ban ơn giúp đỡ, thánh nhân vẫn sai anh em ra đi. Kết quả là, họ đã giảng thuyết thành công và đem được nhiều người về với Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, dù biết ông Phêrô đã vất vả suốt đêm mà không được con cá nào, Đức Giêsu vẫn bảo ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Đây là điều lạ lùng, khó hiểu đối với một ngư phủ lâu năm như Phêrô, nhưng ông vẫn tin tưởng và thực hiện. Nhờ vậy, ông đã thu được một mẻ cá lớn lao.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta làm những việc xem ra lạ lùng. Trong khi người đời cho rằng có nhiều tiền của, nhiều người hầu hạ thì hạnh phúc; còn Đức Giêsu lại dạy hãy sống yêu thương, phục vụ thì mới có hạnh phúc đích thực. Chúng ta có tin tưởng và thực hiện lời Đức Giêsu không?
Truyện: Ngài đã chọn ngươi
Trong tập lễ nhận chức của Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giáo phận Sài Gòn, người ta đọc được bài thơ này:
“Khi Thiên Chúa cần người cha cho dân tộc của mình, Ngài đã chọn một cụ già. Thế là cụ Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn cho mình, Ngài lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát, lại vừa có tật nói ngọng. Thế là ông Maisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Ngài lại chọn cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền tảng cho ngôi nhà Giáo hội của mình, Ngài đã chọn một anh chàng chối đạo. Thế là thánh Phêrô đã đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình yêu thương của Ngài cho nhân thế, Ngài lại chọn một cô gái điếm. Đó là cô Maria Mađalena.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Ngài lại chọn một kẻ bắt bớ đạo của mình. Đó là ông Phaolô, gốc thành Tắcxô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Ngài được qui tụ và đi đến với những người khác, Ngài đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không dám đứng lên đáp lại lời của Ngài”.
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:
- Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.
- Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nể lời Ngài nên ông thả lưới.
- Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.
- Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là ở nơi sinh sống thường ngày của họ; Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là trong công việc thường ngày của họ.
Chúa cũng gọi tôi trong sinh hoạt thường ngày và ở môi trường sống quan thuộc. Những tiếng gọi “Hãy theo Ta” thường xuyên vang lên trong khung cảnh bình thường mọi ngày. Nhưng tôi có nghe thấy hay không?
2. Bắt đầu câu chuyện, Chúa Giêsu “xin” Phêrô một chuyện nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa một chút. Cuối câu chuyện, Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá; và một ơn còn lớn gấp bội, là được làm môn đệ Ngài. Nếu như ban đầu Phêrô đã ích kỷ không “cho” Chúa, thì sau đó ông đâu có được “nhận” những ơn ban to lớn kia.
3. “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”: mẻ cá lớn là kết quả của sự vâng lời Chúa.
4. Một trung sĩ đang huấn luyện các tân binh: “Các đồng chí hãy nhớ khi một sĩ quan trao cho công việc dù nặng nề đến đâu, bổn phận dù khó khăn đến đâu, các đồng chí luôn phải nhớ tiếng nói cuối cùng.”
Trong lúc các lính mới còn đang ngơ ngác nhìn, ông thêm: “Tiếng đó là: Tuân lệnh.” (Góp nhặt)
5. Khi Phêrô nhận ra thân phận tội lỗi mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Ngài gọi ông đi theo Ngài. Chúa không chê và không xa lánh người tội lỗi. Ngược lại Chúa còn gọi đến gần Ngài những người ý thức thân phận tội lỗi của mình.
6. “Ông Simon nói: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không ắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5)
“… Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên”. Nếu như Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao tôi lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Chúa Giêsu, Đấng đã dám hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì tôi cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi tôi biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là sức riêng của mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết vâng theo lời Chúa, biết dựa vào lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống. (Hosanna).
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là nơi sinh sống thường ngày của họ. Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là gọi họ đang lúc họ làm công việc hằng ngày của họ.
Chúa bắt đầu câu chuyện bằng cách “xin” ông Phêrô một việc rất nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa bờ một chút. Và cuối câu chuyện, Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá và một ơn còn lớn gấp bội là được làm môn đệ Ngài.
“Ông Simon nói: Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
Một lời quả quyết rất đẹp lòng Chúa.
Nếu như Phêrô đã không nghe Lời Chúa, thì sau đó ông sẽ chẳng nhận được những ơn ban to lớn kia. Như vậy chúng ta thấy, sự vâng Lời Chúa đã đem lại những kết quả thật bất ngờ!
Trong tập truyện các thánh ẩn tu Ai Cập vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, người ta đọc được giai thoại sau:
Có một người đàn ông kia đến xin gia nhập một tu viện. Tu viện trưởng cho người đó biết luật cơ bản nhất của đời tu là vâng lời. Người đàn ông hứa sẽ vâng theo tất cả những gì bề trên truyền lệnh. Để thử lòng người đó, tu viện trưởng dẫn ông ra vườn và cắm một cây gậy xuống đất. Ngài bảo người đàn ông hãy múc nước tưới cho đến khi nào cây gậy đó đâm chồi nảy lộc trổ bông trở lại.
Vâng lời bề trên, mỗi ngày người tu sĩ đi bộ hai dặm ra bờ sông Nil gánh nước tưới cho cây gậy khô ấy. Một năm qua rồi mà cây gậy vẫn còn trơ trơ. Lại một năm nữa qua đi, cây gậy vẫn là cây gậy khô. Nhưng người tu sĩ không nản lòng. Sang năm thứ ba, lạ lùng thay, cây gậy khô tự nhiên đâm chồi để rồi trở thành một cây tươi tốt trong vườn.
2. Khi Phêrô nhận ra tội lỗi của mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Chúa gọi ông. Sự việc đó chứng tỏ Chúa không chê trách và xa lánh người tội lỗi. Ngược lại, Chúa còn gọi những ai biết ý thức thân phận tội lỗi của mình.
Trước mặt Chúa lúc này là một con người Chúa muốn kêu gọi. Chúa không cần biết trước đây Phêrô như thế nào.
Vào dạo tháng 12 năm 1987, Đức Hồng Y Jean Marie Lustiger cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề: “Sự chọn lựa của Thiên Chúa”. Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình ơn gọi của ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbit uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Đức Tin Công giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie Lustiger dĩ nhiên đi ngược lại, với xác tín của gia đình, nhất là mẹ của cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở qua trại tập trung Đức quốc xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: “Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công giáo. Đây là một cơn bệnh hiểm nghèo”.
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Jean Marie Lustiger đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy vào một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính toà Orleans. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng… Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Đức hồng y Jean Marie Lustiger tuyên xưng rằng “Ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Đấng Cứu Thế trong nhân loại là một mầu nhiệm của lòng thương xót”. Thiên Chúa yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó, theo Đức hồng y Lustiger, hy vọng, chính là tin rằng, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Nói như thi sĩ Paul Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong. Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ lời với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi biến cố, mỗi cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung gian của biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội trong lòng người.
Chúng ta biết rằng, cuộc đời của mỗi người trong chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi… Trong muôn ngàn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: “Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang yêu thương tôi”.
Hôm nay, bốn tông đồ đầu tiên đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Đó là thánh Phêrô, thánh Anrê, ngài là anh của thánh Phêrô, thánh Giacôbê, thánh Gioan, ngài là em của thánh Giacôbê.
Các ngài theo Chúa trong bối cảnh vào buổi sáng của một ngày mới. Có lẽ buổi sáng ngày hôm ấy, các ngài sẽ không bao giờ quên được, một buổi sáng khắc ghi dấu ấn trong lòng các ngài để rồi mỗi lúc nhớ lại, các ngài luôn tạ ơn Chúa vì đã chọn gọi các ngài làm tông đồ cho Chúa.
Buổi sáng này khác với những buổi sáng khác, những người thương lái buôn cá vẫn có mặt ở đây như bao ngày để mua cá của những ngư phủ đánh cá ban đêm, sáng sớm thuyền cập bờ để bán cho họ. Thế nhưng hôm nay các tông đồ suốt đêm buông lưới mà không bắt được một con cá nào, các ngài thất bại hoàn toàn, các ngài sẽ không có tiền. Nếu các ngài có của ăn của để thì có lẽ không sao, nhưng nếu các ngài đi làm ngày nào, xào ngày đó thì chắc các ngài sẽ buồn lắm. Đàng khác, do có Chúa ở đó cho nên người ta theo Chúa quá đông đã làm cho bãi biển này nhộn nhịp hơn, vui hơn, ồn ào hơn. Vì thế, thánh Phêrô cũng chung niềm vui này, cho nên Chúa lên thuyền của ngài và nói ngài chèo thuyền ra xa một chút để Chúa rao giảng Tin Mừng là ngài vâng lời ngay. Kế đó, sau khi giảng xong, Chúa bảo ngài đi ra khơi chài lưới. Có lẽ khi Chúa nói như vậy, thánh Phêrô sẽ nghĩ Chúa đâu phải là một ngư phủ lão luyện như ngài. Đi đánh là phải đi ban đêm chứ ban ngày cá thấy bóng người chiếu xuống nước là nó sẽ trốn hết. Vậy mà ngài vẫn vâng lời Chúa để ra khơi thả lưới đánh cá và Chúa đã thưởng công ngài, cho ngài trúng một mẻ cá đậm mà ngài chưa bao giờ thấy trong thực tế, trong cuộc đời của ngài, dù ngài là một chuyên gia đánh cá. Do đó, nỗi buồn của thánh Phêrô biến mất, thay vào đó là niềm vui, là hạnh phúc, là sự hãnh diện, là niềm tự hào.
Như vậy, những suy nghĩ của thánh Phêrô đều trật với ý Chúa, ngài không hiểu nổi trước ơn ban lạ lùng này, ngài trở về với chính mình, ngài thấy Chúa quá cao vời, quá siêu việt, quá vĩ đại, còn ngài thì quá tội lỗi, quá bất xứng, quá thấp hèn, quá kém cỏi, cho nên ngài hạ mình xuống thẩm sâu đến quỳ trước mặt Chúa, thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5, 8).
Chúa làm phép lạ này vì Chúa thương thánh Phêrô cũng như các tông đồ. Chúa làm phép lạ nhưng không, nhưng chúng ta thấy hàm ý của Chúa là để Chúa kêu gọi thánh Phêrô và ba tông đồ đầu tiên theo Chúa và các ngài đã bỏ mọi sự để theo Chúa. Lúc này khi Chúa nói rằng các con sẽ là kẻ chinh phục người ta, có lẽ các tông đồ chưa hiểu thấu việc chinh phục người ta khó khăn và phức tạp như thế nào đâu. Từ từ các ngài sẽ hiểu. Hiểu rồi các ngài thấy giới hạn của mình và càng phó thác vào Chúa hơn để Chúa giúp các ngài.
Lạy Chúa, tất cả mọi sự hiện hữu ở trần gian này là của Chúa, Chúa có quyền tối thượng trên hết thảy chúng con, vì thế mà chúng con suy nghĩ mai kia chúng con có được Chúa cho vào Nước Chúa hay không? Bởi vì chúng con quá tội lỗi, quá bất xứng, mặc dù Chúa nói là Chúa không bỏ rơi chúng con. Xin Chúa thương ban cho chúng con có lòng khiêm nhường thẳm sâu trước mặt Chúa, biết tin tưởng cậy trông phó thác vào Chúa để Chúa ban ơn, Chúa dẫn dắt chúng đi theo thánh ý Chúa và Chúa cho chúng con vào nước Chúa vĩnh cửu sau này. Amen.
Khi ấy, những người biệt phái và luật sĩ nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao môn đồ của Gioan năng ăn chay và cầu nguyện, cả môn đồ của những người biệt phái cũng vậy, còn môn đệ của Thầy lại cứ ăn uống?” Người đáp lại rằng: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng? Nhưng sẽ đến những ngày mà tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ sẽ ăn chay trong những ngày ấy”. Người còn nói với họ thí dụ này rằng: “Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai. Và không ai đang uống rượu cũ mà lại thèm rượu mới, vì người ta nói: 'Rượu cũ thì ngon hơn'”.
Sau khi Lêvi, người thu thuế, được Thầy Giêsu mời gọi đi theo, ông đã tổ chức bữa đại tiệc khoản đãi Thầy và các môn đệ. Ông còn mời các bạn đồng nghiệp đến dùng bữa để từ giã. Ăn uống vui vẻ, hòa đồng cả với những người bị xã hội tránh xa, đó là một nét đặc biệt của nhóm Thầy Giêsu. Đừng quên chính Thầy cũng bị mang tiếng là tay ăn nhậu (Lc 7, 34). Như thế nhóm của Thầy không có nét khắc khổ, như các nhóm môn đệ của Gioan hay của người Pharisêu. Các nhóm này thường hay ăn chay và cầu nguyện. “Còn môn đệ Thầy thì ăn với uống!” (c. 33). Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo hỏi Thầy về lý do có sự khác biệt đó. Thầy trả lời: vì bầu khí của nhóm Giêsu là bầu khí vui của tiệc cưới. Chú rể chính là Thầy, còn các môn đệ là những khách dự tiệc. Chẳng ai dự tiệc cưới mà lại ăn chay. Chẳng ai buồn khi chàng rể còn đang ở bên cạnh (c. 34). Bởi đó thật là dễ hiểu nếu các môn đệ không ăn chay một tuần hai lần, nếu họ có nét mặt tươi tắn và sẵn sàng chung vui với người khác. Chuyện Thầy Giêsu ăn uống hồn nhiên với những tội nhân cho thấy Thiên Chúa không khinh, nhưng quý họ và mời họ trở về. Thầy cho thấy mình đang rao giảng Tin Mừng, loan báo Tin Vui. Đến với Thầy là gặp được niềm vui cứu độ. Thầy Giêsu và các môn đệ đều mời gọi người ta hoán cải (Mc 1,15; 6,12) Nhưng hoán cải ở đây không phải là chuyện buồn, mà là chuyện vui, bởi lẽ hoán cải là thay đổi tận căn cái nhìn về Thiên Chúa và người khác. Chẳng ai vui bằng người thoát ra khỏi được cảnh nô lệ tội lỗi. Cả thiên đàng cũng mừng vui khi một người hoán cải (Lc 15, 7. 10). Thầy Giêsu đã trao cho các môn đệ niềm vui của chính mình. Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn (Ga 15,11; 16,24; 17,13). Kitô giáo bắt nguồn từ niềm vui phục sinh và sống mãi nhờ niềm vui ấy. Các tông đồ bị đánh đòn mà lại vui, bởi họ chịu vì Đức Giêsu (Cv 5,41). Niềm vui là đặc nét của người Kitô hữu qua mọi thách đố. Niềm vui là quà tặng lớn của chúng ta cho một thế giới muộn phiền. Chàng rể Giêsu đang ở với chúng ta cho đến tận thế và mãi mãi, nên “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4). Chúng ta chỉ có thể là sứ giả của Tin Mừng nếu ta có niềm vui nội tâm. Niềm vui này phải tỏa ra như hương thơm làm mọi người ngây ngất. Ông Nietzsche một triết gia vô thần người Đức viết cho các Kitô hữu: “Nếu niềm tin của các anh làm các anh hạnh phúc, thì hãy cho tôi thấy hạnh phúc ấy trên khuôn mặt của các anh… Nếu Tin Mừng của Sách Thánh được viết trên khuôn mặt của các anh rồi, thì các anh chẳng cần phải cố nhấn mạnh đến giá trị của Sách ấy nữa.” Nietzsche không tin một Kitô hữu buồn, mà bảo mình tin vào sự phục sinh. Chúng ta có bao giờ để ý soi khuôn mặt Kitô hữu của mình không? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. -------------------------------
Chúa Giêsu đến mang luồng gió mới cho tương quan Thiên Chúa – con người. Trong đạo cũ, dù biết bao lần Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương, sự gần gũi, nhưng con người vẫn cảm thấy Thiên Chúa không những xa cách mà còn hà khắc và hay trừng phạt. Vì thế đạo cũ mang nặng mầu sắc sợ sệt, buồn bã. Chúa Giêsu giáng trần làm cho con người được gần gũi Thiên Chúa. Hơn nữa Người còn mặc khải cho ta biết đạo mới là đạo tình thương. Thiên Chúa yêu thương gần gũi con người. Thiên Chúa cưới lấy con người. Chúa Giê-su chính là chàng rể đem đến hạnh phúc làm cho đời sống vui tươi. “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ”? Thiên Chúa ở với con người. Thiên Chúa nên một với con người. Quả là một hạnh phúc mà con người từng mơ ước từ ngàn đời. Thiên Chúa biến đổi thân phận con người. Đó là một đạo mới. Đó là thứ rượu mới. Rượu đem lại vui tươi phấn khởi cho người mới. Rượu mới phải chứa trong bầu da mới. Đạo mới phải có con người mới. Có cung cách mới.
Nếu đạo cũ cần nhiều luật lệ thì đạo mới chỉ cần Chúa Ki-tô. Chỉ cần ở trong Chúa Ki-tô là đủ. Chúa Ki-tô là tất cả. Người là nguồn mạch mọi hiện hữu, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành”. Người là nguyên lý tồn tại của mọi loài: “Người có trước muôn loài môn vật, tất cả đều tồn tại trong Người”. Và tuyệt vời hơn nữa nay Người qui tụ chúng ta thành một thân thể mà Người là Đầu: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh”. Là đầu để đưa các chi thể đến vinh quang. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng tiến đến đấy. Người đã sống lại nên chúng ta cũng sẽ được sống lại: “là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại”. Người đã đạt tới tầm vóc viên mãn để chúng ta cũng được viên mãn với Người: “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (năm lẻ).
Người nên một với ta. Người trở thành vận mệnh của ta. Vận mệnh đó tuỳ thuộc ta có kết hợp chặt chẽ với Người hay không. Có trung thành với Người hay không.. Thánh Phao-lô ao ước được trở nên “người đầy tớ của Đức Ki-tô”. Nghĩa là hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Sống cho Chúa. Chết cho Chúa. Sự trung thành từ đáy thâm tâm sẽ được tỏ lộ vào ngày sau cùng: “chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng”. Lúc đó niềm vui của những kẻ trung tín trong một kết hợp trọn vẹn với Chúa Ki-tô sẽ nên hoàn hảo (năm chẵn).
Theo sách Giảng Viên: "Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời, một thời để chào đời, một thời để lìa thế, một thời để khóc lóc, một thời để vui cười, một thời để than van, một thời để múa nhảy". Trong Tin Mừng hôm nay khi giải thích về lý do tại sao Ngài và các môn đệ của Ngài không ăn chay, có lẽ Chúa Giêsu cũng muốn lặp lại lời dạy của sách Giảng Viên: "Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Có một thời không ăn chay và một thời để ăn chay". Thời gian của Giáo Hội là thời gian vừa ăn chay vừa không ăn chay. Ðúng hơn, thời gian của Giáo Hội là thời gian của cử hành.
Khi chúng ta nói về cử hành, chúng ta thường dễ nghĩ đến lễ lạc, trong đó chúng ta có thể quên đi những khó khăn của cuộc sống và hòa mình vào đàn ca múa nhảy, ăn uống, cười vui. Thật ra, trong ý nghĩa Kitô giáo, cử hành hoàn toàn xa lạ với bầu khí ấy. Trong Kitô giáo, cử hành chỉ có thể có được khi chúng ta ý thức một cách sâu xa rằng sự sống và cái chết là hai thực tại không bao giờ tách lìa nhau. Cử hành chỉ thực sự đến khi nào tình yêu và nỗi lo sợ, niềm vui và nỗi buồn, nước mắt và nụ cười, có thể hiện hữu chung với nhau. Cử hành chỉ có thể đến khi nào chúng ta ý thức được rằng sự sống là điều quí giá vô cùng. Và sự sống quí giá không những vì nó có thể được thấy, được sờ, được cảm nghiệm, mà còn ngay cả khi nó mất. Khi chúng ta cử hành một đám cưới, chúng ta cử hành sự kết hợp và chia tay cùng một lúc; khi chúng ta cử hành cái chết, chúng ta cử hành một tình bạn đã mất nhưng đồng thời cũng cử hành một sự tự do và có được. Có thể có nước mắt sau đám cưới và những nụ cười đám tang. Thật thế, chúng ta có thể làm cho những nỗi buồn cũng như niềm vui của chúng ta trở thành một phần của cuộc cử hành cuộc sống với ý thức sâu xa rằng sống và chết không phải là hai điều đối nghịch nhau mà là bạn hữu thân tình với nhau trong mỗi một phút giây của cuộc sống chúng ta. Khi chúng ta chào đời, chúng ta được tự do để hít thở khí trời, nhưng chúng ta lại đánh mất sự an toàn trong lòng mẹ. Khi chúng ta đi học, chúng ta được tự do để đi vào một xã hội rộng lớn hơn nhưng lại đánh mất một chỗ đặc biệt trong gia đình chúng ta. Khi chúng ta lập gia đình, chúng ta tìm được một người bạn đường nhưng lại đánh mất mối liên kết đặc biệt với cha mẹ chúng ta. Khi chúng ta tìm được công ăn việc làm, chúng ta có được sự độc lập để làm ra tiền, nhưng lại đánh mất khung cảnh vô tư của trường học. Khi chúng ta có con cái, chúng ta khám phá ra một thế giới mới, nhưng lại đánh mất đi một phần tự do đi lại. Khi chúng ta được thăng cấp trong công việc, chúng ta trở nên quan trọng hơn trước mắt người khác nhưng lại đánh mất những cơ may khác. Khi chúng ta về hưu, cuối cùng chúng ta có cơ may làm điều chúng ta muốn nhưng lại đánh mất niềm vui trong công việc. Khi chúng ta có thể cử hành sự sống trong mọi giây phút quyết liệt, trong đó cái được và cái mất quyện lấy vào nhau, lúc ấy chúng ta có thể cử hành ngay cả cái chết của chúng ta, bởi vì chúng ta đã học được từ cuộc sống rằng ai mất sẽ tìm thấy.
Trong mọi sự, lời của thánh Phaolô trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê 4,4 đáng được chúng ta lấy làm kim chỉ nam cho cuộc sống: "Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa ở gần chúng ta".
Kỷ luật hay cách sống của Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ Ngài khiến nhiều người khó chịu. Ngài và các môn đệ sống theo một lề lối hoàn toàn khác với những tuân giữ của những người Biệt phái và ngay cả với Gioan Tẩy giả: trong khi Gioan Tẩy giả và các người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh trong tuần, thì các môn đệ Chúa Giêsu xem chừng không biết thế nào là chay tịnh.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn để biện minh cho thái độ ấy. Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của Tân Lang: bao lâu Tân Lang còn đó, thì việc chay tịnh được miễn chuẩn. Trong Cựu Ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Ðấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi. Gioan Tẩy giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và của các môn đệ. Như vậy khi miễn chước cho các môn đệ của Ngài khỏi chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, họ không còn phải mong đợi gì nữa; thời cứu thế đã đến, con người không còn phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ.
Dụ ngôn thứ hai Chúa Giêsu đưa ra để giải thích tại sao các môn đệ Ngài không phải giữ chay, đó là hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới: Không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ. Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý bảo rằng cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ; Ngài không có ý so sánh cho bằng đưa ra một sự bất tương hợp. Bài học thật rõ ràng: không nên có thái độ nước đôi hoặc thỏa hiệp, mà phải dứt khoát tận căn. Bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để vào Nước Trời: "Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta", "Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa", "Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta". Tựu trung, vì Ngài, con người phải chấp nhận hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại niềm tin cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Thỏa hiệp vốn là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống đạo của chúng ta: Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, nhưng lại đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng; đi theo Chúa Kitô, nhưng lại không muốn sống theo giáo huấn của Ngài; muốn là thành phần của Giáo Hội, nhưng lại chống báng Giáo Hội. Thỏa hiệp để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân mà thôi. Lời sách Khải huyền đáng được chúng ta suy nghĩ: Thà ngươi nguội lạnh hay nóng hẳn đi; nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta mửa ngươi ra khỏi miệng.
Xin Chúa nâng đỡ đức tin chúng ta để chúng ta tiến bước theo Chúa, làm môn đệ Chúa với một đức tin tinh tuyền và làm chứng cho mọi người xung quanh.
Họ nói với Người: “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó họ mới ăn chay.” (Lc. 5, 33-35)
Mỗi thời mỗi khác!
Câu nói đó xưa như trái đất. Những luật sĩ và biệt phái hình như quên đi khi họ trách các môn đệ của Đức Kitô không ăn chay như môn đệ của Gio-an và không cầu nguyện như họ.
Mỗi thời mỗi khác, có thời để vui, có thời để hy sinh. Có thời để làm việc, có thời để nghỉ ngơi. Người ta đến đám cưới không phải để khóc! Đức Giêsu nói: lúc này là tiệc cưới của tôi. Vậy phải vui mừng. Buồn sẽ đến lúc tôi ra đi các ông sẽ không bao giờ tìm thấy tôi.
Mỗi thời mỗi khác. Có thời cho quần áo mới. Nhưng quần áo mới không luôn mới. Chúng đẹp khi mới dùng. Dùng lâu, chúng sẽ thành đồ phế thải. Chúng rách khó vá, nên không ai lấy vải mới vá vào áo rách.
Bình cũ không còn có thể chứa được rượu mới, rượu mới sẽ làm bể bình cũ. Đừng quên rằng rượu mới không bao giờ ngon như rượu cũ.
Sự so sánh đó có thể rút ra bài học rất tế nhị. Đức Kitô không muốn xúc phạm đến họ, nhưng Người không ưa những thứ quá khích. Đối với kẻ thù khích bác và cố chấp, họ không thể hiểu được sự khẩn thiết về những đổi mới. Người thử giải thích bằng hình ảnh hôn nhân để thấy sự không thể thích nghi của con người cựu ước với thời tân ước của Ngài. Ngài không chối bỏ họ, nhưng họ có thời của họ. Ngài thiết lập thời tân ước như Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân tộc xưa và nay cho mọi người.
Không phải chỉ có luật sĩ và biệt phái xưa, cả những Kitô hữu ngày nay cũng không biết nhận ra sự cần thiết phải tái sinh lòng mộ đạo theo Thánh Thần Thiên Chúa và công đồng Va-ti-can II hướng dẫn. Không phải tái sinh là chấp vá, nhưng là công việc lâu dài, kiên nhẫn đôi khi phải chịu đau khổ để thêu dệt nên một tấm áo mới không có đường may. Một hy vọng sống lại chan hòa vui mừng.
Trong truyền thống của người Dothái, việc ăn chay luôn mang ý nghĩa là chờ mong Đấng Cứu Thế. Vì vậy, ta thấy các người Pharisêu và Luật Sĩ lên tiếng thắc mắc khi thấy môn đệ của Đức Giêsu không ăn chay.
Khi được hỏi, Đức Giêsu đã nói: "Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng?”.
Tại sao Đức Giêsu lại nói như vậy? Thưa! Vì Đức Giêsu chính là Tân Lang, Ngài là Đấng Cứu Thế đã đến và hiện diện với các môn đệ rồi, nên không cần phải ăn chay nữa.
Vì thế, tinh thần của người đi dự tiệc cưới là không được rầu rĩ, thiểu não, mà thay vào đó là thái độ hân hoan vui mừng, để cùng hòa vào với những tiếng đàn ca nhẩy múa trong những ngày diễn ra tiệc cưới.
Như vậy, tiệc cưới là một trong biến cố làm thay đổi đời sống thường ngày của người Dothái và người môn đệ. Tiệc cưới cũng làm cho việc ăn chay phải tạm ngưng. Đây là một lựa chọn hợp lý và khôn ngoan. Sự khôn ngoan này lại được cụ thể hóa qua hai ví dụ: vải mới, áo cũ; rượu mới, bầu da cũ.
Ở đời, không bao giờ người ta lại đi lấy vải mới để vá vào áo cũ cả. Cũng không nên rót rượu mới vào bầu da cũ.
Qua những thí dụ này, Đức Giêsu muốn nói đến đặc tính mới của Nước Trời và của Giáo Hội.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mặc lấy tâm tình mới là sự hoán cải tận căn chứ không chỉ những thứ bề ngoài. Sẵn sàng biến đổi nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Dẹp bỏ những cái cũ rích không thể hợp với cái mới trong tinh thần của Thiên Chúa. Đồng thời cần phải có một tinh thần mới, lối sống đạo thực tâm chứ không phải hình thức bề ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm để bỏ qua những thứ không phù hợp với Tin Mừng. Xin cũng cho chúng con biết thể hiện tinh thần mới là bác ái, yêu thương trong khi thi hành sứ vụ. Amen.
Sứ điệp: Trở thành môn đệ Chúa Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến sống giữa chúng con. Có Chúa là có hạnh phúc viên mãn. Có Chúa là có niềm vui đích thực. Chúa đã yêu mến từng người chúng con, nên Chúa đã hy sinh chết và sống lại vinh hiển để cứu độ con, để thông ban cho con đời sống mới chan chứa tình thương.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay mạc khải cho con biết, Chúa không chấp nhận lối sống nửa vời: vừa muốn thờ Chúa lại vừa thờ mình; vừa muốn được cả trần gian lại vừa muốn thiên đàng. Giữa hai cách sống ấy, con phải chọn một. Con phải đấu tranh với chính mình, phải bỏ hết đời sống cũ, bỏ lối sống cũ để trở thành con người mới, thành một Kitô khác giữa đời. Tuy nhiên, con lại thường dễ chiều theo những khuynh hướng tự nhiên, dễ dãi. Vì thế, đời sống con vẫn vật vờ, vá víu, không đẹp mắt Chúa.
Lạy Chúa, xin tha cho con vì nhiều lúc con chưa dứt khoát bước theo Chúa. Xin giúp con đổi mới cuộc sống, hoàn toàn sống theo đường lối Phúc âm. Xin giúp con sống đạo vì lòng yêu mến Chúa. Con tin rằng Chúa luôn hiện diện bên con. Xin đốt lên trong con lòng khao khát Chúa, mong được sống với Chúa. Xin cho con biết vượt qua những hình thức bề ngoài giả dối, để cách sống của con được phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng. Amen.
Ghi nhớ: “Khi tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ ăn chay”.
Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quý. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc đó cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?”. Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Suy niệm
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế đến như tân lang trong tiệc cưới, tiệc cứu độ tình yêu đem niềm vui đời đời cho chúng ta. Các môn đệ của Ngài là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang, nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế - Tân lang, vì theo truyền thống, ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Do đó, các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Thời của Ðấng Cứu Thế - Tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…
Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các đồ đệ, những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là Tân lang mang Tin Mừng, niềm vui ơn cứu độ, nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc. Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).
Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự tiệc cưới nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế - Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ…
Xin cho chúng ta sống thời đại mới phải có tinh thần mới, vì rượu mới phải đổ vào bầu da mới. Chúng ta được phúc làm con Cha, Ngài luôn lo lắng chăm sóc cho chúng ta. Cuộc sống phải luôn bình an và phấn khởi trong Chúa là cha, tinh thần tự do của người con.
Ý lực sống:
“Khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay” (Mt 9,15).
Đức Giêsu bị kêu trách vì môn đệ Người cứ ăn uống. Việc ăn chay, cầu nguyện theo cái nhìn của biệt phái, chứng tỏ mình là con người thánh thiện, đạo đức. Vì các môn đệ của Đức Giêsu không ăn chay, nên họ đã đặt vấn đề với Người.
Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc ăn chay, cũng không trách việc ăn uống. Ăn chay hay ăn uống đúng lúc thì mới hợp lý. Các môn đệ của Chúa cũng sẽ ăn chay, khi Người là chàng rể được cất đi. Còn bây giờ, Người còn ở với họ, niềm vui đầy tràn sao bắt họ ăn chay?
Theo luật của người Do thái thì buộc mọi người phải giữ chay những ngày quốc tang và những ngày sám hối, tuy vậy, những người Do thái đạo đức như các biệt phái và môn đệ của Gioan, muốn noi gương đời sống khắc khổ của thầy mình, còn giữ chay một số ngày khác. Nhóm biệt phái còn ăn chay ngày thứ 2 và thứ 5 mùa thu, nếu trời không mưa. Những người sốt sắng cũng ăn chay vào các ngày đó quanh năm (Lc 18,22).
Lời Chúa hôm nay nói đến những người luật sĩ và biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về các môn đệ của Ngài không ăn chay và cầu nguyện. Theo quan niệm Do thái thời đó, mục đích của việc ăn chay là để mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Thế nhưng, những người biệt phái và các môn đệ của Gioan chỉ biết ăn chay, mà không để ý đến ý nghĩa của việc ăn chay. Họ ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Đó là điều Chúa Giêsu đã khiển trách họ.
Chúa Giêsu đã dựa vào mục đích việc ăn chay của người Do thái, để nói đến việc miễn chuẩn ăn chay: “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ” (Lc 5,34). Hay nói đúng hơn, Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận ra rằng: Ngài chính là Đấng Cứu Thế và họ không cần mong đợi gì nữa. Giờ đây là thời của niềm vui, nên con người không còn phải chay tịnh với vẻ mặt ủ rũ héo tàn, nhưng phải vui mừng vì Chúa đã đến.
Và để giải thích cho điều Ngài dạy, Chúa Giêsu đã đưa hai dụ ngôn sự hiện diện của chàng rể trong đám cưới và dụ ngôn chiếc áo mới và bình rượu mới.
Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của chàng rể: bao lâu chàng rể còn đó, thì việc chay tịnh phải được miễn chuẩn. Trong Cựu ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Đấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi đó. Gioan Tẩy giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và cũng như các môn đệ của ông. Như vậy, khi miễn chuẩn cho các môn đệ của Ngài khỏi phải chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng: Ngài chính là chàng rể, là Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi, vì thế mà họ không cần phải chay tịnh để mong chờ nữa. Thời Cứu thế đã đến rồi. Con người không cần phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ, vì những gì họ mong đợi bây giờ đã được toại nguyện rồi.
Tiếp theo là dụ ngôn về chiếc áo mới và bình rượu mới.
Khi nói dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn cắt nghĩa cho mọi người hiểu, “lý do” tại sao Chúa không bắt các môn đệ của Ngài phải giữ chay. Chúa muốn cho các môn đệ khi sống trong thời đại cứu thế, thì phải sống theo tinh thần mới. Chúa bảo: “Không nên lấy áo cũ mà vá áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ” (Lc 5,37). Nói thế Chúa không có ý nói cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ. Ở đây rõ rệt Ngài không có ý so sánh mà chỉ có ý nói rằng, lối sống với tinh thần mới và lối sống với tinh thần cũ không thể tương hợp với nhau.
Truyện: Tiên trách kỷ, hậu trách nhân
Những người biệt phái, luật sĩ nói với Chúa Giêsu rằng: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người biệt phái cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống” (Lc 5,33).
Cổ nhân chúng ta và các nhà khôn ngoan thường dạy người ta cách cư xử ở đời là: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”: hãy trách mình trước, rồi trách người sau. Hôm nay Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta cách cư xử với nhau như vậy:
Nếu cha giảng lâu quá 10 phút thì họ bảo cha chỉ thao thao bất tuyệt.
Nếu cha nói về mầu nhiệm Thiên Chúa thì họ bảo cha nói trên mây trên gió.
Nếu cha đề cập đến các vấn đề xã hội, cha sẽ bị kết án là khuynh tả.
Nếu cha đi làm việc ở nhà máy, họ nghĩ ngay là vì cha không có việc làm.
Nếu cha ở lại trong giáo xứ, có người sẽ nói cha xa rời quần chúng, cắt liên lạc với thế gian.
Nếu cha hay mỉm cười: cha quá dễ dãi!
Nếu vì đãng trí hay bận tâm, cha không nhìn thấy, người nào đó sẽ nói: cha khinh người!
Nếu cha còn trẻ: cha thiếu kinh nghiệm!
Nếu cha có tuổi: cha nên về hưu thì vừa!
Giêsu ơi! Không thua gì các luật sĩ và biệt phái, con vẫn thường nhìn anh em con bằng con mắt dò xét, khe khắt và hẹp hòi. Con luôn muốn họ phải như con nghĩ, chứ không được như họ là. Nếu con cảm thấy thật khó sống với họ và đôi khi thì không thể bắt tay làm việc với họ được. Xin cho con nhìn với đôi mắt của Chúa: nhìn và yêu (Hosanna).
Chuyện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu gọi một người thu thuế là Lêvi làm môn đệ Ngài và còn ngồi ăn cùng bàn với nhiều người thu thuế khác trong bữa tiệc do Lêvi khoản đãi để ăn mừng.
Những người pharisêu và luật sĩ thấy thế rất khó chịu và trách Chúa Giêsu cùng các môn đệ Ngài không lo ăn chay cầu nguyện mà chỉ lo ăn uống!
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ta thấy ý nghĩa thực của việc ăn chay và cách sống trong thời Tân Ước:
- Thời Cựu Ước, việc ăn chay đi kèm với sự chờ đợi ơn giải thoát. Việc ăn chay như muốn nói: thời buổi xấu xa quá, chúng tôi không thỏa mãn, chúng tôi không thiết sống nữa, nguyện xin Chúa mau đến giải thoát chúng tôi.
- Việc Chúa Giêsu đến khai mở thời Tân Ước, thời của Tin Mừng, thời vui sống với Đấng Messia như dự tiệc cưới với chàng rể.
- Khi Chúa Giêsu được đem đi (ám chỉ việc Ngài chết, sống lại và lên trời), các môn đệ sẽ lại ăn chay đề xin Ngài mau trở lại.
B.... nẩy mầm.
1. Chúng ta đang sống trong thời Tân Ước, thời của vui mừng hoan lạc. Tại sao ta thường ảo não, buồn rầu và lo lắng. Cuộc sống không vui tươi của chúng ta làm sao hấp dẫn được người khác?
2. Biệt phái và luật sĩ ăn chay, nhưng họ lại kết án các môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay. Họ lấy họ làm tiêu chuẩn, mẫu mực và buộc người khác phải theo họ. Chưa chắc gì tôi đọc kinh cầu nguyện mà đã là tốt đến nỗi tôi có quyền lên án người khác không đạo đức bằng tôi.
3. “Không ai lấy vải mới vá vào áo cũ… Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu cũ”: ý Chúa Giêsu muốn nói phải sống thời Tân Ước với tâm tình của thời Tân Ước. Tâm tình thời Cựu Ước là sợ hãi, tâm tình của thời Tân Ước là yêu thương. Vậy tâm tình thường xuyên của tôi đối với Chúa là gì: rán làm lành tránh dữ vì sợ Chúa phạt hay vì yêu thương Chúa?
4. “Những người pharisêu và những kinh sư nói với Chúa Giêsu rằng: ‘Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” (Lc 5,33)
Nếu cha giảng lâu quá 10 phút thì họ bảo cha chỉ thao thao bất tuyệt.
Nếu cha nói về mầu nhiệm Thiên Chúa thì họ bảo cha nói trên mây trên gió
Nếu cha đề cập đến các vấn đề xã hội, cha sẽ bị kết án là khuynh tả
Nếu cha đi làm việc ở nhà máy, họ nghĩ ngay là vì cha không có gì làm
Nếu cha ở lại trong giáo xứ, có người sẽ nói cha xa rời quần chúng, cắt liên lạc với thế gian.
Nếu cha hay mỉm cười: cha quá dễ dãi!
Nếu vì đãng trí hay bận tâm, cha không nhìn thấy, người náo đó sẽ nói: cha khinh người!
Nếu cha còn trẻ: cha thiếu kinh nghiệm!
Nếu cha có tuổi: cha nên về hưu thì vừa! …
Giêsu ơi! Không thua gì các kinh sư và biệt phái, con vẫn thường nhìn anh em con bằng con mắt dò xét, khe khắt và hẹp hòi. Con luôn muốn họ phải như con nghĩ chứ không được như họ là. Nên con cảm thấy thật khó sống với họ và đôi khi thì không thể bắt tay làm việc với họ được. Xin cho con nhìn với đôi mắt của Chúa: nhìn và yêu. (Hosanna).
1. Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ Ngài một lối sống khiến nhiều người khó chịu. Ngài và các môn đệ sống theo một lề lối nhiều khi khác với những lối sống của những người Pharisêu và ngay cả với Gioan Tẩy Giả: trong khi Gioan Tẩy Giả và các người Pharisêu tuân giữ một số ngày chay tịnh trong tuần, thì các môn đệ Chúa Giêsu xem chừng không để ý đến vấn đề đó.
Để biện minh, cắt nghĩa cho người ta hiểu được ý nghĩa của lối sống khác với cách sống của những người Pharisêu và ngay cả với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã dùng hai dụ ngôn:
1. Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của tân lang: bao lâu tân lang còn đó, thì việc chay tịnh phải được miễn chuẩn. Trong Cựu Ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Đấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi đó. Gioan Tẩy Giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và cũng như các môn đệ của ông. Như vậy, khi miễn chuẩn cho các môn đệ của Ngài khỏi phải chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng, Ngài chính là tân lang, là Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi, chính vì thế mà họ không cần phải chay tịnh để mong chờ nữa. Thời Cứu Thế đã đến rồi. Con người không cần phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ vì những gì họ mong đợi bây giờ đã được toại nguyện rồi.
Tiếp theo là dụ ngôn về chiếc áo mới và bình rượu mới.
Khi nói dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn cắt nghĩa cho mọi người hiểu, lý do tại sao Chúa không bắt các môn đệ của Ngài phải giữ chay. Chúa muốn cho các môn đệ khi sống trong thời đại Cứu Thế thì phải sống theo tinh thần mới. Chúa bảo: “Không nên lấy áo cũ mà vá áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ” (Lc 5,37). Nói thế Chúa không có ý nói cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ; Ở đây rõ rệt Ngài không có ý so sánh mà chỉ có ý nói rằng, lối sống với tinh thần mới và lối sống với tinh thần cũ không thể tương hợp với nhau.
Bởi vậy thái độ cần có là thái độ dứt khoát tận căn, không nên có thái độ nước đôi hoặc thỏa hiệp. “Ai cầm cày mà còn ngó lại đàng sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62), “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”(Mt 10,37). Tựu trung, vì Ngài, con người phải chấp nhận hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống mình.
2. Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại niềm tin cơ bản trong cuộc sống hàng ngày của mình. Thỏa hiệp vốn là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống đạo của chúng ta:
Hai cha con một bác nhà quê dắt con lừa đi ra tỉnh. Mới đi được một quãng thì gặp một người hỏi:
- Chà, sao ông không để cho con ông cỡi con lừa?
- Ồ! tôi chưa nghĩ tới điều đó.
Nói xong, ông bồng con cho ngồi lên lưng lừa. Đi được một lát lại gặp người khác nói:
- Sao mày ngồi trên lưng lừa mà để cho ông già đi bộ? Mày xuống ngay đi cho cha mày cỡi
- Phải đấy.
Đứa con vội nhảy xuống đất đỡ cha mình lên lưng lừa. Đi thêm một đỗi nữa họ gặp một mụ bán cá, mụ kêu lên.
- Ông không mắc cỡ à, sao lại để thằng bé phải đi bộ dưới trời nắng như thế?
- Chị nói phải đấy.
Ông già xuống khỏi lưng lừa và hai người tiếp tục đi bộ như trước. Khi sắp vào thành phố, có mấy người nhìn chăm chăm và nói:
- Sao hai cha con không biết cỡi lên lưng lừa mà đi cho khỏe?
Hai cha con nghe nói chí lý liền leo lên. Nhưng con lừa mới đi được mấy bước đã quị xuống vì không chịu nổi sức nặng. Hai cha con lại vội vã xuống đi bộ và dắt lừa đi như trước...
Vâng, cần phải có sự dứt khoát. Tùy ở sự chọn lựa mà chúng ta được hạnh phúc hay bất hạnh. Nhưng chắc một điều là đi theo Chúa thì chúng ta không thể sống theo kiểu “Bắt cá hai tay”.
Đức Cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Giáng Sinh, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh”.
Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh”. Bossuet nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt. Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh”.
Tuy nhiên, khi vừa mở cuốn sách ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng xem niềm vui của ông và nỗi hối tiếc của ba người kia như thế nào.
Việc ăn chay là một việc đạo đức, cho nên con người chúng ta rất cần thực hiện để kêu xin Chúa thương xót chúng ta. Ngày xưa, những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, họ ăn chay, nhưng là để khoe khoang, để biễu diễn, để người khác trông thấy mà khen ngơi. Chúa không cho các tông đồ và chúng bắt chước họ như thế, mà phải ăn chay trong kín đáo, một mình Chúa biết là được rồi (xMt 6, 16 – 17).
Trước câu hỏi của những người biệt phái, luật sỹ là tại sao môn đệ của Chúa không ăn chay? Họ chỉ thấy các môn đệ của Chúa ăn với uống mà thôi (Lc 5, 36). Dường như qua câu hỏi này, họ có vẻ soi mói, bới móc Chúa rằng môn đệ nào thì thầy nấy, nghĩa là Chúa không ăn chay, cho nên Chúa không dạy các môn đệ của Chúa ăn chay luôn.
Chúa cho họ biết rằng Chúa không bao giờ bãi bỏ việc ăn chay đâu, Chúa vẫn duy trì và khuyến khích con người chúng ta thực hiện. Nhưng phải làm trong tinh thần khiêm nhường, kín đáo, chỉ có mỗi một mình Chúa biết là được rồi, không nên khoe khoang, khoác lác. Đàng khác, tuy Chúa khuyến khích thực hiện việc ăn trong cuộc sống, nhưng giờ đây có Chúa đang ở với con người chúng ta, Chúa chỉ ở có ba năm, Chúa không có thời gian ở lâu với chúng ta, do đó chúng ta phải tận dụng tất cả thời gian này để nghe Chúa dạy bảo, để thực hành Lời Chúa càng nhiếu càng tốt, trong đó có việc chạy tịnh nữa. Sau đó Chúa lên trời về với Chúa Cha, lúc đó chúng ta còn ở trần gian, chúng ta hãy ăn chay.
Chúng ta ăn chay là để chúng ta đền tội, để chúng ta góp phần hy sinh của chúng ta tuy nhỏ nhoi vào công cuộc chịu nạn, chịu chết của Chúa mà chúng ta xin Chúa ơn phần rỗi. Chúng ta đang ở trong thời đại mới, giao ước mới, là rượu mới, chúng ta trở phải trở thành con người mới, tức là con người luôn làm theo thánh ý Chúa. Do vậy, rượu cũ, bầu da cũ, áo rách cũ là con người cũ tội lỗi của chúng ta, giờ phút này Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, Chúa cứu chuộc chúng ta và Chúa ban ơn cho chúng ta (Tức rượu mới, vải mới), qua cái chết và sự phục sinh của Chúa. Vì thế, chúng ta phải từ bỏ con người cũ tội lỗi cùng với những hành vi xấu xa của nó mà làm theo lời Chúa dạy, tức là rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì lúc đó chúng ta mới giữ được ơn Chúa ban và mới cộng tác với Chúa làm cho ơn Chúa lớn mạnh trong cuộc đời chúng ta, trong đó có việc chúng ta ăn chay theo lời Chúa dạy nữa. Nhất nữa, những người biệt phái, luật sỹ, họ không tin Chúa, họ đang ở trong tình trạng nô lệ cho tội lỗi, họ đang uống thứ rượu cũ là những đam mê xác thịt, tham sân si. Chúa mà có làm điều tốt, họ vẫn nghĩ xấu cho Chúa, không chịu theo Chúa, họ cho rằng rượu cũ thì ngon hơn để rồi họ chai lì trong tội lỗi (Lc 5, 39).
Lạy Chúa, chúng con trông cậy vào Chúa, chúng con phó thác cuộc sống chúng con cho Chúa, chúng con tin tưởng vào Chúa. Xin Chúa thương nghe lời chúng con cầu nguyện mà giúp chúng con làm các điều lành thánh đẹp lòng Chúa và xa tránh các điều ác hại để sau này Chúa cho chúng con được nương tựa vào Chúa, được cư ngụ mãi mãi trong nhà Chúa. Amen.
Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi”. Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat”.
“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?” “Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?” Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát?” Câu chuyện đơn giản như sau. Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín. Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn. Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26). Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm. Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21). Nhưng truyền thống đã dựng thêm một hàng rào bảo vệ, bằng cách coi bứt lúa cũng là một hình thức gặt lúa. Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát. Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình. Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh. Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao. Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”, khi họ đến đền thờ Nốp, gặp tư tế Akhimêléc (1 Sm 21, 2-7). Vị tư tế này đã cho họ ăn thứ bánh đặt trước nhan Đức Chúa (Xh 25, 30) mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9), khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát. Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn. Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật. Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài, dù nó không liên quan gì đến chuyện giữ ngày sabát. Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật. Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5). Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài. Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa. Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu. Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó, sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe. Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột. Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13). Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7). Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời. Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó. Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người. Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn? Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu? Cầu nguyện
Lạy Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lã Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran vì bên con còn có người đang khát Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi vì bên con còn có người phiền muộn. Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm vì bên con còn có người mù tối Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi. vì bên con còn có người trần trụi Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức, vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn. (Myrtle Householder) ---------------------------------
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa, phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.
Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra Suy niệm và thực hành:
"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau:
Một hôm, có một quận công hỏi ông: - Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Ðavít Hume trả lời: - Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công hỏi lại: - Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia đáp: - Số lớn nhất là số một.
Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.
Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: “Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?” (Lc. 6, 1-2)
Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.
Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.
Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.
Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc môn đệ Đức Giêsu bứt lúa và ăn trong ngày Sabát. Thời điểm này vào khoảng tháng tư trong năm và rơi vào cuối mùa hạ.
Câu chuyện những người Pharisêu hôm nay lên tiếng khiển trách thầy trò đã đến mức căng thẳng. Họ cảnh cáo Đức Giêsu và các môn đệ không giữ Luật. Lý do:
1) Một là đi qua đồng lúa, tức vi phạm luật chỉ được đi 100 mét ngoài thành vào ngày hưu lễ;
2) Hai là bứt lúa rồi chà trấu trong tay để ăn, một hành vi tương đương với viêc gặt lúa, vậy là vi phạm luật cấm việc xác.
Khi cảnh cáo như thế, ngầm hiểu rằng họ đã ra “tối hậu thư” cho thầy trò Đức Giêsu, nếu còn vi phạm thì sự việc sẽ bị coi là cố tình trước mặt các nhân chứng và đáng chịu tử hình, vì coi thường ngày hưu lễ.
Đáp lại, Đức Giêsu đã lật ngược vấn đề và đặt ra cho họ câu hỏi: "Các ông chưa đọc điều Ðavít đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Hay như các tư tế trong đền thờ. Khi hưu lễ trùng với một đại lễ, các tư tế và các phụ tá phục dịch phải giết chiên nhiều hơn, thế mà vẫn không bị buộc tội vi phạm hưu lễ!
Khi nói như thế, Đức Giêsu mặc khải cho họ rằng: Ngài chính là đền thờ mới, là Con Thiên Chúa, có một quyền bính tự Trời ban cho. Vì thế, Ngài đến để lập lại trật tự nguyên thủy của Lề luật. Lề luật không thể có vai trò tuyệt đối. Nó chỉ được lập ra vì con người, chứ không được trở thành gánh nặng áp bức con người. Ngài đến với tư cách là Chủ của Lề Luật, có quyền ngang với Thiên Chúa, để hoàn chỉnh Lề Luật hoặc sửa đổi nó, một khi không còn thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy giải thoát khỏi tâm trí chúng ta một thứ ý thức hệ vụ hình thức, chuộng cơ cấu, cứng nhắc làm tê liệt tình yêu đối với Chúa và lòng nhân ái đối với tha nhân. Nếu cứ bán vào Luật thuần túy, hẳn không thể có một trái tim biết yêu thương nhạy bén với ơn Chúa và sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống cốt lõi của Luật. Biết dùng Luật như là phương tiện để giúp nhau sống tốt hơn chứ không phải dùng Luật để cưỡng ép nhau. Amen.
Sứ điệp: Theo gương Chúa Giêsu, hãy có lòng thương xót và biết nhìn bằng tinh thần cảm thông, tha thứ. Đừng nhìn nhau kiểu “bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì tội nguyên tổ mà tội lỗi đã tràn vào thế gian. Từ đó, lòng người trở nên nhỏ mọn, hay ghen tị và thích đè bẹp kẻ khác. Ca-in vì ghen tị mà nhẫn tâm giết em là A-ben. Con cái của Gia-cóp cũng vì ghen ghét mà bán em là Giu-se sang Ai-cập. Vua Sau-lê rắp tâm hãm hại Đa-vít cũng vì ghen tức. Các biệt phái theo Chúa và các môn đệ như một cái bóng để tìm cách bắt lỗi cũng vì ghen ghét Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã đến khai mở con đường yêu thương. Chúa đi tiên phong trên con đường đó và dạy con bước theo. Ai cũng có ưu điểm và có cả khuyết điểm. Chúa đã nhìn vào ưu điểm của mỗi người mà cứu vớt họ. Chúa đã gọi một Phê-rô chân thành, Chúa đã chọn một Mát-thêu dứt khoát. Chúa không ngần ngại đến nghỉ tại nhà ông Gia-kêu, Chúa không lầm khi tha tội cho người phụ nữ ngoại tình… Xin cho con có cái nhìn như Chúa. Xin cho con mạnh dạn bước theo Chúa trên con đường yêu thương.
Xin Chúa thanh luyện đôi mắt con để con nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em con. Xin Chúa hướng dẫn đôi tay con để con đối xử tử tế với mọi người. Xin uốn nắn miệng lưỡi con, cho môi miệng con bớt chua ngoa, chì chiết người khác, và thay vào đó bằng lời khích lệ nâng đỡ tha nhân.
Xin Chúa dìu con đi bằng ơn thánh của Chúa, để con đủ sức đi trọn con đường yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Trên đường trốn sự truy bức của vua Saulê, Đavít và các thuộc hạ đói không có gì ăn đã ăn bánh tiến (x. 1Sm 21,1-6), điều không được phép làm…, bánh tiến gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh (x. 1Mcb 2,34-38).
Suy niệm
Người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu và môn đệ Ngài, khi các môn đệ vì đói mà bứt bông lúa ăn trong ngày Sabát. Chúa Giêsu trả lời buộc tội của họ khi dẫn chứng vua Đavít đã vào đền thờ lấy bánh dành cho thượng tế để ăn cho đỡ đói. Qua đó, Chúa Giêsu nhấn mạnh giá trị cao cả nhất là hướng dẫn hành vi của con người vì con người chứ không cứng nhắc luật vì luật.
Như thế, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật như người biệt phái thường kết án Ngài, nhất là vi phạm ngày Sabát. Vào mỗi ngày Sabát, Ngài vẫn đến hội đường Do Thái đọc Kinh Thánh, như thế Ngài vẫn tuân giữ ngày Sabát, nhưng Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa cao cả. Vì thế với ngày Sabát, Chúa Giêsu đưa ra ba viễn tượng sâu sắc hơn luật về ngày Sabát của người Do Thái:
Chúa Giêsu xác nhận sự tôn trọng luật ngày Sabát. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh: Phải vượt trên cách thực thi luật pháp cứng nhắc của người Pharisiêu, khi chú ý đến ý nghĩa nhân văn của ngày Sabát. Trình thuật các môn đệ bứt bông lúa trong ngày Sabát mà Chúa Giêsu bảo vệ, giải thích Lề Luật dưới ánh sáng của thánh ý Thiên Chúa: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát”. Ngày Sabát nhắm đến sự sống viên mãn của con người (Mc 3,4; Mt 12,11-12).
Chúa Giêsu hoàn thành ý nghĩa ngày Sabát như Ngài đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17): Đó là ngày của tình thương và giải thoát con người khỏi sự dữ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sứ mạng của Chúa Giêsu được hoàn tất trong việc trao ban cho nhân loại ân sủng để thực hiện ơn gọi của mình, bởi ơn gọi đó mà Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy đã tạo dựng con người. Ân sủng được ban trước hết cho những người bị tổn thương nơi thân xác và linh hồn, đó là: Những người đau yếu bệnh hoạn, những người tàn tật, những người đui mù, những người tội lỗi. Đối với Chúa Giêsu, ngày Sabát là ngày của hành động giải thoát.
Chúa Giêsu là “Chúa” của ngày Sabát vì Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn, qua đó Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn, là cùng đích của giới luật ngày Sabát.
Trong ý nghĩa đó của ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bộc lộ sự tự do và cứu chữa trong ngày Sabát đến mức dường như các phép lạ thường tập trung vào ngày này: Sau việc bứt bông lúa trong ngày Sabát (x. Mc 2,23-28; Mt 12,1-8; Lc 6:1-5); Chúa chữa lành người bị bại tay (x. Mc 3,1-6; Mt 12,9-14; Lc 6:6-11), Chúa chữa lành người phụ nữ còng lưng (x. Lc 13,10-17) và người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Chúa chữa người bị bại liệt ở hồ nước tại Bếtdatha (x. Ga 5,1-18) Chúa cho sáng mắt người mù từ khi mới sinh cũng trong ngày Sabát (x. Ga 9,1-41).
Xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu biết tính tích cực của Lề Luật. Thực thi luật Chúa không phải là gánh nặng, nhưng với tất cả tình yêu thương như thánh Phaolô dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10)
Ý lực sống
“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Ngày sabát nghỉ việc là để ghi nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi sau khi tạo dựng nên thế giới (Xh 20,8-11). Đồng thời nó cũng loan báo việc dân Thiên Chúa khi kết thúc thời gian, đi vào nơi yên nghỉ và bình an của Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát. Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án. Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay nói lên sự dị biệt của Chúa Giêsu và người biệt phái về ngày sabát, ví dụ như việc các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa ăn khi đi qua cánh đồng. Mọi sự việc tầm thường không đáng kể, nhưng cái tính hay ghen tương nghi ngờ, cái tính hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của những người biệt phái đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabát. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Ngày sabát, bứt mấy bông lúa như thế chẳng có lỗi gì, luật chỉ cấm cày cấy hay gặt hái, nhưng những người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm làm trong ngày sabát. Đây là tính hay xét nét, khắt khe, quét nhà ra rác... để sinh ra mất lòng nhau.
“Đức Giêsu trả lời: Các ông chưa đọc...”
Đức Giêsu bênh vực các môn đệ bằng cách giải thích cho họ nhớ lại những trường hợp được miễn giữ luật. Và Đức Giêsu đã rút ra từ Thánh kinh hai trường hợp được miễn giữ luật để minh chứng: 1Sm 21,1-6 và Ml 12,5-6. Ở đây Luca chỉ ghi lại trường hợp thứ nhất về câu chuyện vua Đavít cùng với thuộc hạ vì đói quá, nên đã ăn bánh trưng hiến trong đền thờ, thứ bánh mà chỉ dành riêng cho tư tế mới được ăn.
Nại đến bằng chứng này, Đức Giêsu muốn nêu lên rằng: được miễn giữ luật khi có việc tối cần, mà ở đây là trong lúc quẫn bách không có gì ăn cho đỡ đói ngoài thứ bánh trưng hiến (Lm. Trần Hữu Thành).
Đức Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5).
Trả lời phỏng vấn trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại Kohn, nước Đức, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 cho biết Ngài sẽ nói với các bạn trẻ khắp thế giới rằng: được làm người Kitô hữu thật tốt đẹp biết bao, bởi vì đây đó vẫn phổ biến một quan niệm rằng Kitô giáo chỉ gồm những luật lệ cấm đoán mà ta phải tuân giữ. Vị Đại Diện Đức Kitô cho thấy đời sống Kitô hữu có những luật lệ, nhưng đó là đôi cánh để đưa ta lên cao.
Hôm nay lời Chúa nói với chúng ta rằng Ngài là chủ của ngày sabát, nghĩa là Ngài có quyền qui định luật lệ cho ngày lễ nghỉ nói riêng và mọi luật lệ tôn giáo. Chính những luật lệ ấy nâng chúng ta lên cao khỏi những khuynh hướng thấp lè tè của bản năng, để đến gần và nên giống Đức Kitô hơn.
Đức Giêsu vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương; nếu không, việc giữ luật chỉ là việc đạo đức ở bên ngoài, mà bên trong không có thực chất. Giữ luật là thể hiện tình thương, không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Truyện: Giữ luật một cách máy móc
Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát:
- Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án.
- Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái đã quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày Chúa nhựt, nếu tôi chỉ biết nghỉ làm việc và đi dự lễ thì chưa chắc là tôi đã “thánh hóa” ngày đó theo đúng ý muốn của luật Giáo Hội. Tôi còn phải yêu mến Chúa nhiều hơn và quan tâm đến anh em tôi hơn.
2. Nếu tôi giữ luật chỉ vì đó là luật thì việc giữ luật của tôi không đem lại lợi ích thực nào cho tôi mà lại thêm nặng nề khó chịu. Nếu tôi buộc người khác giữ luật chỉ vì đó là luật thì cũng chẳng ích lợi gì cho người khác, trái lại càng làm cho người khác khổ sở thêm.
3. “Con Người là chủ của ngày hưu lễ”: Chúa Giêsu là chủ của ngày Chúa nhựt. Ngày Chúa nhựt tôi có quy hướng mọi sự về Chúa Giêsu không?
4. “Con Người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5)
Hồi bé, tôi luôn phải nghe đi nghe lại điệp khúc: “nghỉ chơi đi lễ, lễ xong về chơi chẳng muộn”. Vâng, tôi đã đi lễ, nhưng đi một cách miễn cưỡng. Giáo Hội thật “ác”, đặt ra bao điều phải theo.
Bây giờ tôi đến với thánh lễ không phải vì những luật lệ, những “điệp khúc” hồi bé, nhưng bằng chính tấm lòng, bằng sự khao khát của con tim, của tâm hồn muốn có được sự bình an vĩnh cửu. Nghĩ lại, tôi thầm cám ơn Chúa vì những luật lệ trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con đến với Chúa không phải vì lề luật đòi buộc, nhưng với cả tấm lòng của một người con. (Hosanna).
1. Những người luật sĩ và Pharisêu bề ngoài xem ra có vẻ rất tôn trọng luật pháp nhưng bên cạnh việc giữ luật như thế hỏi còn có một hậu ý gì khác nữa không? Chắc là phải có một cái gì đó, cho nên chúng ta mới thấy Chúa không ca tụng họ.
Một hôm, quận công Ressen hỏi triết gia David Hume:
- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Triết gia David Hume trả lời:
- Là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công Ganh Ressen hỏi lại:
- Vậy thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia liền trả lời:
- Số lớn nhất là số một.
Thực tế trong rất nhiều quốc gia, chúng ta thấy luật pháp được làm ra là chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Số lớn nhất thường là số một, chỉ là một thiểu số. Một thiểu số thủ lợi còn những người khác thì phải è cổ ra mà chịu. Luật pháp là của Chúa nhưng nhiều khi họ giải thích rồi thêm vào những qui định quá đáng để phục vụ quyền lợi cho phe nhóm, cho một thiểu số của họ.
Như vậy thì muốn việc giữ luật cho đúng thì phải giữ theo tinh thần của luật.
2. “Con người là chủ của ngày hưu lễ” (Lc 6,5)
Chúa vẫn là chủ của luật pháp. Vậy phải giữ ngày Sabat hay hưu lễ thế nào?
Có người kia lúc sinh thời rất tự hào về đời sống luân lý, liêm sỉ, chính trực của mình. Rồi một hôm ông bị bệnh nặng và qua đời, linh hồn ông bay thẳng đến trước cửa Thiên Đàng và xin được trình diện trước tòa Chúa.
Tới nơi, ông phủ phục thưa:
- Lạy Chúa, Chúa quá biết rõ đời con, suốt đời con luôn trung thành tuân giữ luật Chúa, không hề bỏ sót hoặc lỗi phạm điều gì bất lương bất chính cả. Này đây con xin Chúa thương nhìn xem bàn tay trong trắng của con.
Thiên Chúa nhân từ nhìn ông và nói:
- Con ơi, con nói đúng, hai bàn tay con trong sạch, không vướng mắc tội gì cả. Nhưng đáng tiếc con chỉ có hai bàn tay trắng, còn ngoài ra thì không có một việc lành phúc đức nào cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trong mỗi cộng đồng tôn giáo, bao giờ cũng có những người đạo đức rất khắt khe trong vấn đề giữ luật đạo. Họ lo giữ luật đạo một cách chặt chẽ chi li sao cho đúng việc, đúng thời gian, đúng truyền thống. Đối với họ giữ đạo là giữ lề luật.
Chính vì thế nên khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ luật như họ, thì coi đó là một điều thiếu sót đáng trách.
3. Chúng ta thấy, Đức Kitô không bao giờ chủ trương phá hủy lề luật: “Ta đến không phải để phá hủy luật pháp” – “Ta bảo thật các ngươi cho dù trời đất có qua đi nhưng một chấm một phết trong luật cũng không được bỏ qua”(Mt 5,18). Ngài vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương nếu không, việc giữ luật sẽ chỉ là việc đạo đức ở bề ngoài, mà bên trong không có thực chất.
Giữ luật là thể hiện tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Một người thợ xây đang ở trên giàn giáo cao bị xảy chân rơi xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”(Mt 5,38) của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa vốn từ lâu đã thấy những cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ rằng: Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta đúng bằng cách ấy, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn giáo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phán xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.
Mẹ Têrêsa nói: “Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối. Tình yêu Chúa Giêsu yêu chúng ta đã đưa Ngài đến chỗ chết.
Thiên Chúa quan tâm đến tình yêu của chúng ta.
Chúa chẳng cần ai, Ngài có cách làm được tất cả, Ngài có thể làm luôn cả công trình của những người tài năng nhất.
Chúng ta có thể làm việc đến cùng kiệt, có thể làm việc tới tuyệt mức. Nhưng nếu công việc chúng ta không gắn kết với tình yêu, sẽ là vô ích dưới mắt Chúa”.
Việc Chúa dẫn các tông đồ đi băng qua đồng lúa chín và các tông đồ bứtbông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn (Lc 6, 1) là một việc rất cỏn con, quá bé nhỏ, có gì to tát đâu mà những người biệt phái, luật sỹ tri hô cho thật lớn tiếng nói rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làmtrong ngày sa bát” (Lc 6, 2). Phải chăng họ đang hậm hực trong lòng vì ghen tức Chúa, thua sút kém cỏi Chúa đủ điều, cho nên họ tận dụng tối đa mọi cơ hội để bắt bí Chúa, thậm chí họ cũngdựa luôn vào những thiếu sót của các tông đồ mà bắt bẻ cả Chúa vì chính họ cho rằng trò nào thì thầy nấy.
Thực sự họ tận dụng mọi cơ hội để bắt bẻ, làm giảm uy tín của Chúa trước mặt dân chúng, cho nên họ đi theo Chúa mọi nơi, mọi lúc, ngay cả nơi đồng lúa vắng vẻ như thế mà họ cũng có mặt. Họ theo Chúa mọi nơi mọi lúc không phải để nghe lời Chúa mà để thực hiện mưu đồ theo dõi, hãm hại Chúa một khi có thể. Lúc mà các tông đồ bứt bông lúa ăn, họ muốn Chúa lên tiếng la rày các tông đồ là các ngài phạm luật ngày sa bát, không tuân hành luật Chúa để rồi họ sẽ hả hạ rằng Chúa cũng chẳng ra gì, Chúa không phải là một vị tôn sư dạy dỗ mọi người. Thế nhưng Chúa không nói gì về việc này của các tông đồ mà Chúa nói các ông là những người am hiểu Kinh Thánh, là những người lãnh đạo dân Chúa mà các ông quá máy móc, làm khổ người khác, khi các ông bịa ra các khoản luật rồiđặt lên vai dân chúng, còn các ông chẳng thèm đụng ngón tay vào lay thử, xem nó nặng hay nhẹ. Do đó, đạo của Chúa đâu có nghiêm khắc, gò bó con người như vậy, đạo Chúa là đạo tình thương, Chúa nâng đỡ, Chúa bảo vệ, Chúa chở che, Chúa cứu giúp con người, chứ không phải như các ông suy nghĩ đâu: “Các ông chưa đọc điều Đavít đã làm khi ông và các người tùy tùng đã bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và còn cho các người bạn tùy tùng ăn, bánh đó không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi” (Lc 6, 3 – 4).
Điều mà Chúa kết luận trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với các người biệt phái, luật sỹ và tất cả chúng ta rằng: “Con Người làm chủ cả ngày sa bát” (Lc 6, 5). Nghĩa là Chúa có quyền trên tất cả mọi sự, Chúa có quyền định đoạt số phận con người chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết vâng nghe lời Chúa dạy, đi theo sự hướng dẫn của Chúa, Chúa đối xử nhân hậu với mọi loài Chúa dựng nên thì chúng ta cũng phải biết sống nhân hậu, cảm thông cho nhau, nâng đỡ cứu giúp nhau thì mới đúng ý của Chúa muốn.
Lạy Chúa, Chúa gần gũi với chúng con, Chúa yêu thương chúng con, vì thế mỗi lần chúng con khẩn cầu Chúa với lòng chân thành , nhất là những lúc chúng con gặp khốn khó nguy nan trong cuộc sống, xin Chúa thương xót nhậm lời chúng con, cùng ban ơn, gìn giữchúng con, chúng con nguyện ngợi khen, chúc tụng Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.