Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 6-2025 (Năm lẻ) Thường Niên

Thứ sáu - 21/02/2025 04:24
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 6-2025 (Năm lẻ) Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 6-2025 (Năm lẻ) Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
được xếp gọn trong Tuần 6-2025 (Năm lẻ) Thường Niên
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mc 8, 11-13. 3
Suy Niệm 1: Tìm một dấu lạ từ trời 3
Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ. 5
Suy Niệm 3: Đức Tin. 7
Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương. 8
Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài 9
Suy Niệm 6: Cần có đức tin để đón nhận tình thương. 10
Suy Niệm 7: Cần phải có lòng tin. 11
Suy Niệm 8: Một dấu lạ từ trời 12
Suy Niệm 9: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời 13
Suy Niệm 10: Ý nghĩa và giá trị của phép lạ. 15
Suy Niệm 11: Phép lạ từ trời 17
Suy Niệm 12: Thế hệ cứng lòng. 19
Suy Niệm 13: Đức Giêsu chính là dấu lạ. 21

Thứ 3: 22
Lời Chúa: Mc 8, 14-21. 22
Suy Niệm 1: Không nhớ sao?. 23
Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?. 24
Suy Niệm 3: Men Biệt phái 26
Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa. 27
Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh. 28
Suy Niệm 6: Anh em chưa hiểu ư?. 29
Suy Niệm 7: Hiểu đúng và đón nhận sứ mạng của Chúa. 30
Suy Niệm 8: Men Pharisiêu và Hêrôđê. 30
Suy Niệm 9: Hãy tránh men biệt phái 32
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu cảnh giác men pharisêu và men Hêrôđê. 34
Suy Niệm 11: Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. 36
Suy Niệm 12: Tránh xa lối sống giả hình. 38
Suy Niệm 13: Coi chừng men Pharisêu và Hêrôđê. 39

Thứ 4: 41
Lời Chúa: Mc 8, 22-26. 41
Suy Niệm 1: Anh có thấy gì không?. 41
Suy Niệm 2: Sáng tạo mới 43
Suy Niệm 3: Ðôi mắt đức tin. 43
Suy Niệm 4: Một sự chữa lành công phu. 45
Suy Niệm 5: Ánh sáng của niềm tin. 46
Suy Niệm 6: Cần được Chúa mở con mắt tinh thần. 47
Suy Niệm 7: Đức Giêsu-ánh sáng thế gian. 48
Suy Niệm 8: Chúa chữa người mù ở Betsaiđa. 49
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu chữa một người mù. 51
Suy Niệm 10: Epphata. 53
Suy Niệm 11: Chúa chữa người mù. 55
Suy Niệm 12: Niềm hy vọng đích thực. 56

Thứ 5: 58
Lời Chúa: Mc 8, 27-33. 58
Suy Niệm 1: Tư tưởng của loài người 58
Suy Niệm 2: Tư tưởng của Thiên Chúa. 60
Suy Niệm 3: Ngài là Ðức Kitô. 61
Suy Niệm 4: Một cuộc thăm dò dư luận “bỏ túi”. 62
Suy Niệm 5: Cần xác lập mối tương quan cá vị 64
Suy Niệm 6: Tuyên xưng về Chúa. 65
Suy Niệm 7: Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. 66
Suy Niệm 8: Đức Giêsu là ai vậy?. 67
Suy Niệm 9: Câu hỏi về Chúa Giêsu. 69
Suy Niệm 10: Tuyên tín về Chúa Giêsu. 71
Suy Niệm 11: Chúa là Con Thiên Chúa. 73
Suy Niệm 12: Nói lời của Thiên Chúa. 74

Thứ 6: 76
Lời Chúa: Mc 8,34-9,1. 76
Suy Niệm 1: Từ bỏ chính mình. 76
Suy Niệm 2: Đức tin và hành động. 78
Suy Niệm 3: Theo Chúa Giêsu. 79
Suy Niệm 4: Sống đúng là Kitô hữu. 80
Suy Niệm 5: Tin và đi theo. 81
Suy Niệm 6: Con đường Thánh Giá. 82
Suy Niệm 7: Thập giá Đức Kitô. 83
Suy Niệm 8: Điều kiện để theo Chúa. 84
Suy Niệm 9: Ai theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. 86
Suy Niệm 10: Vác Thập Giá mình hằng ngày mà theo. 88
Suy Niệm 11: Hy sinh vì Chúa. 91
Suy Niệm 12: Liều mạng vì Chúa. 92

Thứ 7: 22/02 Lập Tông Toà thánh Phêrô. 93
Lời Chúa: Mt 16, 13-19. 94
Suy Niệm 1.Trên tảng đá này. 94
Suy Niệm 2. Nền tảng đức tin của thánh Phêrô. 96
Suy Niệm 3. Ngai tòa thánh Phêrô. 97
Suy Niệm 4. Hiểu biết về Chúa Giêsu. 98
Suy Niệm 5. Lập Tông tòa Thánh Phêrô. 100
Suy Niệm 6. Sứ mệnh Chúa giao phó cho Phêrô. 103
Suy Niệm 7. Lập tông tòa thánh Phêrô. 105
Suy Niệm 8. Công trình Hội Thánh. 106
Suy Niệm 9. Lập Tông Tòa thánh Phêrô. 107
Suy Niệm 10. Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã. 108
Suy Niệm 11. Lập Tông Tòa thánh Phêrô- 110
Suy Niệm 12. Con là đá, Ta sẽ trao cho con chìa khoá nước trời 111
Suy Niệm 13. Đức tin đá tảng. 112
Suy Niệm 14. Phêrô, con người trong sáng. 114
Suy Niệm 15. Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ. 115
Suy Niệm 16. Kính tông tòa thánh Phêrô. 116
Suy Niệm 17. Lòng tin của Phêrô. 118
Suy Niệm 18. “Abba”. 119
Suy Niệm 19. Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ. 119
Suy Niệm 20. Lập Tông Tòa Thánh Phêrô. 121

----------------------------------

 

Thứ 2:

Xin điềm lạ.
17/02 – Thứ Hai tuần 6 thường niên.
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?".

 

Lời Chúa: Mc 8, 11-13


Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tìm một dấu lạ từ trời


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,
các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.
Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.
Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó
không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.
Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).
Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột
và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:
thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).
Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.
Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:
“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).
Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:
“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).
Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),
dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.
Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.
Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,
nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.
Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.
Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại
thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.
Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,
con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình
Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.
Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.
và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).
Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,
nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa
và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.
Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).
chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.
Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,
vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.
Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,
chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.
Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,
chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,
chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.
Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.
Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 3: Đức Tin


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.

Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.

Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).

Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,... Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).

Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.

Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.

Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.

Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.

Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.

Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài


Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)

Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.

Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.

Một thái độ cự tuyệt

Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.

Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Cần có đức tin để đón nhận tình thương


Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.

Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Cần phải có lòng tin


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để được Chúa Giêsu làm phép lạ, cần phải có lòng tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Pha-ri-siêu đòi hỏi Chúa một dấu lạ từ trời nhưng Chúa đã thở dài não ruột và Chúa bỏ họ mà đi.

Con nhìn thấy họ có thái độ thử thách Chúa. Họ không khác ma quỷ thử thách Chúa nơi hoang địa. Họ còn giống những người ở Na-da-rét thách thức Chúa làm phép lạ như đã xảy ra ở Ca-phác-na-um. Họ thử thách Chúa như những thượng tế và luật sĩ thách thức Chúa xuống khỏi thập giá để cứu lấy mình.

Những thái độ trịnh thượng dù ở thời đại nào và dù ở đâu đi nữa cũng đều là những thái độ bất tín và tự cao. Con biết Chúa không thích những thái độ đó. Vậy mà, lạy Chúa, con dễ tự cao tự đại. Con cũng dễ thử thách Chúa lắm. Những khi cầu nguyện, con hay đặt điều kiện cho Chúa. Con thường đòi hỏi Chúa phải ban theo ý con. Rất hiếm khi con cầu nguyện như người con thảo khiêm cung phó thác…

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đầy lòng từ bi và thương xót, xin Chúa cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện. Để sống trên đời này, cần phải tin nhau, huống nữa là sống đời làm con Chúa. Xin cho con hoàn toàn tin Chúa. Con muốn tin vào Chúa để có thể nói chuyện với Chúa và thực sự gắn bó với Chúa. Khi ấy Chúa chẳng còn tiếc gì với con. Có gì buồn cho bằng con thử thách Chúa để Chúa phải bỏ con mà đi ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin cho con mỗi ngày càng yêu mến Chúa hơn. Xin cho con biết trọn vẹn tin yêu phó thác nơi Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ ?”

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Một dấu lạ từ trời


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Suy niệm

Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.

Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.

Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.

Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám  ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.

2. “Người thở dài não nuột mà nói...”

Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói  sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .

Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho  những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.

3. Vấn đề phép lạ - dấu lạ.

Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.

Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.

Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.

4. Những phép lạ kể trên  đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.

Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang...) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.

5. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.

6. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.

Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách  thức ấy.

Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo  cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.

Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.

Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?

Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Ý nghĩa và giá trị của phép lạ


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chuyện này xảy ra sau phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35—5,43 dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay họ lại thách Ngài làm một "dấu lạ từ trời" nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Thực ra những phép lạ Ngài làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ chứng minh Ngài là Đấng có quyền phép "từ trời". Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa cả. Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm những phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người pharisêu ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người pharisêu cứng lòng.

B.... nẩy mầm.

1. Bài Tin Mừng này cho ta thấy rõ phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (Lộ Đức, Fatima, Cha Diệp v.v) chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

2. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả những việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tấm thường nhất.

3. Bà nội và cháu trai 5 tuổi buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.

Bà ngạc nhiên, nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh: "Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả cảnh đó".

Cháu đồng ý: "Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài".

- Cháu muốn nói gì?

- Ồ, vào ngày Chủ nhật, chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang ngồi bên tay hữu Thiên Chúa. (Góp nhặt)

4. "Chúa Giêsu nói: ”Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả" (Mc 8,12)

Sáng nay, lời của ông thấy dạy chính trị làm mình rất khó chịu: "Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa, có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ con cái mình sao?" Và mọi người bàn tán xôn xao.

Khi người ta tôn thờ vật chất và tôn vinh con người cách quá đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và dễ trở thành những con người độc tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.

Dứt khoát tôi không thể chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.

Lạy Chúa, xin cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để với niềm tin này con sẽ giúp người khác nhận ra Chúa. (Epphata)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Phép lạ từ trời


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Chuyện này xảy ra sau khi phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó, Ngài cũng làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn như dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một người đàn bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại (Mc 4,35.5,43) vậy mà những người Pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay, họ lại thách thức Ngài làm một “phép lạ từ trời”.

Thực ra những phép lạ Chúa làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể đã đủ chứng minh Ngài là đấng có quyền phép “từ trời” rồi. Thế nhưng, họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.

Phép lạ Chúa làm chỉ có ý nghĩa và có giá trị cho những người thành tâm thiện chí chứ không cho những người Pharisêu cứng lòng.

1. Như vậy, theo bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta thấy, phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, cha Diệp) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tầm thường nhất.

Bà nội và cháu trai 5 tuổi, buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.

Bà ngạc nhiên nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh:

- Hãy nhìn xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả các cảnh đó.

Cháu đồng ý:

- Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài.

- Cháu muốn nói gì?

- Ồ! Vào ngày Chúa nhật, chúng con được dạy rằng: Chúa Giêsu đang ngồi bên hữu Thiên Chúa.(Góp nhặt)

Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo ngược. Ngày kia, ông bỗng nảy ra một ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị ông chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn được đòi hỏi càn dở của nhà vua đây? Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.

Biết được nỗi lo âu của vị lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các ngài cho phép để anh ta được chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo không tin tưởng ở anh ta, nhưng trong hoàn cảnh đang bế tắc, cũng chẳng biết làm sao hơn được.

Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói:

- Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn.

Nhà vua tức giận quát lớn:

- Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào mặt trời chói chang như vậy?

Lúc ấy, người chăn chiên liền quỳ xuống trước mặt vua mà nói:

- Muôn tâu bệ hạ, với một vật Thiên Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?

Ngay lúc ấy nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa, không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng đức tin.

2. Vũ trụ muôn màu muôn vẻ, vạn vật muôn sắc muôn hương. Tất cả là hình ảnh rạng ngời của Thiên Chúa. Mỗi vật diễn tả một nét đẹp của Đấng tạo thành. Mỗi hữu thể là một chứng từ về Đấng Hiện Hữu tối cao.

Thế nhưng, còn biết bao người chưa nhìn ra được Thiên Chúa.

Thiên Chúa hiện diện giữa muôn loài và trong từng tạo vật Ngài đã dựng nên. Thế mà đa số nhân loại không nhận ra Ngài. Có người lại cố ý làm ngơ, coi như không hề có Thiên Chúa. Người khác lại muốn tìm Thiên Chúa ở mãi đâu xa xôi.

Chúng ta không thể nào quên được Lời Chúa Giêsu quả quyết: “Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu thương và chúng ta sẽ đến cư ngụ trong người ấy”

Thánh Augustinô không ngừng than thở: “Lạy Chúa, Chúa ở trong con, và con lại cứ đi tìm Chúa bên ngoài”.

Khi xác tín vào sự hiện diện của Chúa nơi mình và gặp được Chúa trong nội tâm, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra Chúa khắp nơi, trong mọi tạo vật.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Thế hệ cứng lòng


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa bỏ họ đi nơi khác: “Rời bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia” (Mc 8, 13). Chúa xuống thuyền sang bờ bên kia, nghĩa là các người biệt phái đang ở bờ bên này của biển hồ, còn Chúa bỏ họ sang bờ bên kia. Giữa họ với Chúa cách nhau hai bờ và ở giữa toàn là nước của biển. Muốn qua biển để đến với Chúa ở bờ bên kia lúc này thật quá khó. Họ cũng chẳng có phương tiện để mà đi. Do vậy, giữa họ và Chúa không thể gặp nhau. Hay nói cách khác là họ không bao giờ gặp được Chúa.

Lý do họ không gặp được Chúa trong đời của họ là vì họ tranh luận với Chúa. Tranh luận không phải để họ nghe lời Chúa dạy để rồi qua đó họ tìm ra chân lý, tìm ra hướng đi cho cuộc sống, mà bỏ đi lối giả hình, tin vào Chúa và rồi được Chúa xót thương cứu họ. Nhưng tranh luận ở đây là để thõa mãn tính tò mò, ích kỷ, kiêu căng, ngạo mạng và rồi Chúa có làm phép lạ đi chăng nữa, họ cũng không tin. Lòng họ ra chai đá theo thời gian năm tháng của đời người: “Khi ấy, những người biệt phái xuất hiện, và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người” (Mc 8, 11). Càng ngày. Sự chai đá của họ càng chồng chất lên, dày lên, không một ai có thể làm xê dịch được đi nơi khác, để cho lòng họ ra mềm dẻo hơn. Chúa không thể làm được thì chẳng một người nào trên trần gian nàythực hiện được. Có cố gắng làm cũng vô ích, vô hiệu, nước đổ lá khoai, đầu vịt.

Chúa không thể làm được, Chúa thở dài, Chúa đau đớn, Chúa thất vọng vì họ.Thái độ của họ có lẽ Chúa không ngờ tới trong cuộc hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa để rồi Chúa phải nói ra một câu hết sức là Chúa chua chát, phủ phàng. Lẽ ra, Chúa không muốn nói đâu, vì Chúa thương họ và đôi khi Chúa còn thương họ một cách đặc biệt, hơn những người khác cùng thời nữa: “Người thở dài và nói: Tại sao thế hệ này xin điềm lạ? Quả thật Ta bảo các ông hay, sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào” (Mc 8, 12). Như vậy, chúng ta thấy họ mất Chúa rồi. Cuộc đời của họ không có Chúa. Không có Chúa là họ mất tất cả: “Không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5b).

Lạy Chúa, Chúa tốt lành và nhân hậu vô cùng. Chúa dạy bảo chúng con những thánh chỉ của Chúa để chúng con không bị lầm lạc, cũng như để chúng con thực hiện mà được Chúa cứu. Trong lúc chúng con thực hiện thánh ý Chúa, chúng con phải hy sinh bỏ ý riêng, chúng con sẽ bị khổ, bị đau đớn như lưỡi dao cắt bỏ những phần ung nhọt trong cơ thể chúng con mà chúng con mới khỏe khoắn, mới hết bệnh được. Xin Chúa ban ơn soi sáng, cho chúng con nhận ra thánh ý Chúa, quý trọng thánh ý Chúa, yêu chuộng thánh ý Chúa hơn mọi thứ có trên trần gian này, hơn châu báu muôn ngàn, và biết Chúa rất có lý mỗi khi Chúa làm gì cho chúng con để chúng con luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Đức Giêsu chính là dấu lạ


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 6 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin Chúa tuôn đổ hồng ân, giúp chúng ta ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết đón nhận lời sửa dạy từ Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Châm Ngôn cho thấy: Phúc thay người tìm thấy Đức Khôn Ngoan. Đáp lại lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan là lời mời gọi của người khôn ngoan. Là vì ai được biết Thiên Chúa thì cũng như người tìm được kho tàng: không được bo bo giữ cho riêng mình. Chớ khinh thường khi Đức Chúa sửa dạy anh em, đừng chán ngán khi Người khiển trách; vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý. Thiên Chúa đối xử với anh em như với những người con, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết không ngừng tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađô nói: Phải tìm kiếm Đức Khôn Ngoan… Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng; cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Từ thời trai trẻ, tôi đã yêu quý và kiếm tìm Đức Khôn Ngoan, và vẻ đẹp của Đức Khôn Ngoan làm tôi say đắm.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết thi hành những gì Chúa truyền dạy, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại: Cain giận lắm, sa sầm nét mặt… Cain xông đến giết Aben, em mình. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 49, vịnh gia cho thấy: Hãy tiến dâng Thiên Chúa lời tạ ơn làm hy lễ. Thánh chỉ của Ta, sao ngươi thường nhắc nhở, mở miệng ra là chữ thánh ước trên môi? Nhưng chính ngươi lại ghét điều sửa dạy, lời Ta truyền, đem vất bỏ sau lưng.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ. Đức Giêsu thở dài não nuột khi họ xin dấu lạ, bởi vì, họ đang đứng trước một Dấu Lạ vĩ đại là chính Người, thế mà, họ cứng lòng, không chịu tin. Đức Giêsu chính là Dấu Lạ, là con đường dẫn đến Chúa Cha. Nếu chúng ta thuộc về đoàn chiên của Đức Kitô, chúng ta phải nghe tiếng của Người: đón nhận những lời lạ lẫm, bước đi trên con đường lạ hoắc, và thi hành những việc thật lạ lùng. Trong thửa ruộng thế gian, chúng ta phải đào bới, để tìm cho bằng được kho tàng khôn ngoan bị chôn giấu là chính Đức Kitô, Đức Khôn Ngoan của thập giá, điều mà thế gian cho là ô nhục, ngu dại và điên rồ. Lời của Đấng Khôn Ngoan ở gần bên, ngay trong lòng và trên môi miệng chúng ta, miễn là chúng ta chân thành tìm kiếm. Thật vậy, chúng ta sẽ tìm được Đức Khôn Ngoan bằng trái tim, và miệng chúng ta sẽ chứa chan sự hiểu biết. Bao lâu còn có thể tìm được Đức Khôn Ngoan và bao lâu Đức Khôn Ngoan còn ở gần, thì chúng ta hãy: không ngừng tìm kiếm và hãy: kêu cầu. Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ. Vì thế, miệng chúng ta sẽ được đầy tràn sự khôn ngoan và hiểu biết, nếu lòng chúng ta đã tin nhận và được lấp đầy bởi những điều mới lạ của khôn ngoan thập giá, khi đó, miệng chúng ta sẽ không ngần ngại xưng thú tội lỗi mình, với lòng tri ân cảm tạ, và chúng ta cũng mong muốn cho tất cả mọi người được hưởng niềm sung mãn trào dâng từ chính Đức Kitô, Đấng Khôn Ngoan: là con đường, là sự thật và là sự sống; và thế là, họ sẽ không còn đòi bất cứ một dấu lạ nào khác, ngoài Đức Kitô, Dấu Lạ vĩ đại, mà Chúa Cha đã gửi đến cho nhân loại. Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, ước gì chúng ta biết ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 3:

Có Chúa hiệp hành.
18/02 – Thứ Ba tuần 6 thường niên.
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".

 

Lời Chúa: Mc 8, 14-21


Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh".
Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng".
Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Không nhớ sao?


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Tin Mừng Máccô kể ba câu chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.
Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng
khiến các môn đệ tự hỏi: Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).
Lần thứ hai, sau khi hóa bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.
Nhưng lòng các môn đệ còn chai đá,
họ không hiểu được chuyện bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).
Bài Tin Mừng hôm nay là lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,
sau khi Thầy Giêsu đã hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).
Có một sự cố xảy ra khiến các môn đệ lo âu.
Các ông quên mang bánh khi vượt biển.
Trên thuyền chỉ có một cái bánh duy nhất (c. 14).
Không rõ tại sao trong bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông
về thứ men xấu làm hư hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),
đó là thứ “men của người Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).
Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).
Nhưng lời cảnh báo của Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.
Các ông tưởng Thầy trách về chuyện họ không mang đủ bánh.
Từ đó xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.
Thầy Giêsu chắc là giận lắm.
Chưa khi nào chúng ta thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.
Tùy lối chấm câu, có thể có từ sáu đến chín câu hỏi.
Qua các câu hỏi, Ngài bày tỏ sự thất vọng về các môn đệ.
Họ chậm hiểu, chậm nắm bắt; tim của họ bị chai (c. 17).
Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe (c. 18).
Trí nhớ và lòng tin của họ khá kém,
vì dù đã chứng kiến hai lần phép lạ bánh hóa nhiều,
một lần, năm chiếc bánh cho năm ngàn người,
lần khác, bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người,
họ vẫn lo âu khi thấy trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.
“Vậy mà anh em vẫn còn chưa hiểu sao?” (c. 21).
Chúng ta cũng nghe Chúa hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo
trước những khó khăn của cuộc sống.
Các môn đệ vượt biển mà không mang đủ lương thực cần dùng.
Họ lo âu vì sợ lỡ ra có bão hay sự cố gì thì làm sao đây.
Thực ra điều họ quên không phải là bánh,
mà là quên Thầy Giêsu đang ở cùng thuyền với họ.
Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,
để sống mỗi ngày trong bình an.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Suy niệm:

Ít khi Đức Giêsu giận các môn đệ đến thế.
Ngài đặt cho họ dồn dập bảy câu hỏi liên tiếp (cc. 17-21),
và Ngài chỉ cho họ hai cơ hội trả lời (cc. 19, 20).
Câu chuyện xảy ra khi Thầy trò đang ở trên thuyền đi qua bờ bên kia.
Các môn đệ quên đem bánh theo,
hay đúng ra trên thuyền chỉ có một chiếc bánh (c. 14).
Hẳn các ông đã cảm thấy lo âu, bất an,
vì lỡ ra cuộc hành trình kéo dài,
một chiếc bánh làm sao đủ ăn cho cả nhóm?
Chính vì thế họ mới bàn tán với nhau về chuyện thiếu sót này (c. 16).
Chẳng rõ cuộc bàn cãi giữa họ có lớn tiếng không,
nhưng chắc chắn Thầy Giêsu đã biết được (c. 17).
“Tại sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh?” (c. 17).
Tại sao anh em lại có vẻ lo sợ, không yên?
Thầy Giêsu rõ ràng không chấp nhận thái độ bất an đó.
“Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao?
Anh em có trái tim cứng cỏi như thế sao?” (c. 17; Mc 6, 52).
Đối với người Do Thái, trái tim là nơi phát sinh mọi suy nghĩ và hiểu biết.
Một trái tim cứng cỏi ắt không còn khả năng thấu hiểu.
Khi đường vào trái tim bị nghẽn, mọi lối vào qua giác quan cũng bế tắc:
“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe sao?” (c. 18).
Người có trái tim cứng cỏi thì trở nên mù lòa và điếc lác.
Để các môn đệ thấy rằng nỗi lo âu của họ là vô lý,
Thầy Giêsu đã gợi cho các ông nhớ lại hai lần Ngài làm bánh hóa nhiều.
“Anh em không nhớ sao?” (c. 18).
Với năm chiếc bánh Thầy bẻ cho năm ngàn người ăn,
anh em còn thu về được mười hai thúng bánh vụn (c. 19; Mc 6, 31-44).
Với bảy chiếc bánh Thầy bẻ cho bốn ngàn người ăn,
anh em còn thu được bảy giỏ đầy (c. 20; Mc 8, 1-9).
Thầy có thể nuôi được số đông người như thế một cách dư dật,
vậy mà anh em còn lo vì thấy cả nhóm chỉ có một chiếc bánh khi qua hồ.
Câu hỏi cuối cùng của Thầy: “Anh em vẫn chưa hiểu sao?”
Con người là con vật hay lo, quay quắt vì lo.
Có khi lo vì dễ quên những gì Chúa đã làm cho đời mình.
Nếu ta dành giờ để suy nghĩ về những kỳ công Chúa làm trong quá khứ,
ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi lo hiện tại chẳng đáng gì.
Hãy để cho trái tim mình mềm lại, trí hiểu được thông suốt,
mắt sáng lên và tai nhạy bén, trí nhớ minh bạch rõ ràng.
Như thế là hãy để cho toàn bộ con người mình mở ra trước Thiên Chúa,
tín thác vào sự quan phòng của Ngài khi ta băng qua biển đời.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn hỏi chúng ta: Anh em không nhớ sao?
Nhớ là hành vi quan trọng trong đời sống thiêng liêng.
Nhớ sẽ làm chúng ta bình an ra khơi với Thầy, dù chỉ có một chiếc bánh.
Nhớ sẽ làm chúng ta dám chia sẻ số bánh nhỏ nhoi của mình cho đám đông.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

-------------------------------
 
 

Suy Niệm 3: Men Biệt phái


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Men kích thước rất nhỏ. Nhưng tác dụng rất lớn. Chỉ một nắm men nhỏ cũng làm dậy lên cả thúng bột. Có men tốt. Nhưng cũng có men xấu. Vì thế Chúa dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê”. Đừng nhiễm một chút nào những thói xấu của họ.

Men Pha-ri-sêu là thói giả hình. Bề ngoài đạo đức. Nhưng bên trong xấu xa. Như mồ mả tô vôi. Là thói kiêu ngạo. Tự cho mình là công chính. Khinh miệt người khác. Là thói duy luật. Thờ kính Chúa bằng môi miệng. Nhưng lòng dạ thì xa Chúa. Câu nệ lề luật. Nên tàn nhẫn với tha nhân.

Men Hê-rô-đê là thói ham quyền. Dùng nhiều thủ đoạn để chiếm ngai vàng. Là thói ham hưởng thụ. Vì sắc dục mà làm điều phi luân. Say sưa yến tiệc và sắc đẹp. Nên bốc đồng hứa quàng. Là thói bất công. Sẵn sàng đàn áp, giết chóc. Cướp vợ của anh trai. Giết hàng loạt hài nhi vô tội. Giết cả vị tiên tri đáng kính.

Men thói đời rất nguy hiểm. Nó làn tràn khắp nơi. Như thời No-e. Khiến Chúa buồn phiền hối hận. “Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng”. Và quyết định rửa sạch trái đất. Chỉ mình No-e, nhờ không nhiễm thói đời, nên được Chúa cứu thoát. “Người hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này” (năm lẻ).

Cám dỗ là một hạt men nhỏ. Phát triển trong dục vọng. Tàn phá trong cái chết. “Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình … Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy kiên trì chiến đấu chống lại men cám dỗ. “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (năm chẵn).

Phải có phân định chính xác. Vì men rất tinh vi. Phải có thanh luyện liên tục. Vì men rất dễ nhiễm. Phải quyết liệt. Vì nếu nhân nhượng sẽ dẫn đến cái chết.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.

Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ "men" để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: "Tất cả đều là hồng ân của Chúa" bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh


Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? Các ông đáp: “Thưa được mười hai.” “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được bảy.” (Mc. 8, 19-20)

Khi thuyền đã ra tới gần giữa Biển Hồ, các môn đệ mới nhận thấy là chỉ có một cái bánh cho bữa ăn. Một cái bánh cho mười hai người mà phần lớn đều là những tay chài thì thật quá ít, chẳng bõ nhét kẽ răng cho mỗi người. Vì thế cuộc cãi vã nổi lên có lẽ để dò tìm cho biết ai là người đã gây nên cớ sự này, ai là người phụ trách lo lương thực cho nhóm? Chẳng lẽ người ấy không có thể mang theo cả thúng bánh thừa sau phép lạ sao? Thấy vậy, Chúa liền can thiệp mạnh mẽ và nghiêm nghị đến độ ta phải ngạc nhiên. Tại sao rầy rà nhau vì đã quên mang bánh theo? Tại sao cãi cọ nhau vì một sự cố tầm thường như thế? Thường khi người ta quên sót một điều chi, thì hay bực bội. Nhưng Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội này để huấn luyện các môn đệ của mình, và qua đó Người cho ta thấy rằng tư chất cuộc sống thưòng ngày bộc lộ cái tâm cúa ta rõ hơn ta tưởng.

Thực ra không phải vì chuyện quên mang theo bánh khiến Chúa Giêsu bực mình mà vì chuyện quên sót này làm cớ cho các tông đồ cãi cọ nhau và gây lo lắng cho các ông; vả lại cuộc cãi cọ này còn cho thấy các tông đồ hiểu biết về bản thân Chúa còn quá ít. Quên bánh đưa các ông tới điều quên Người là Đức Giêsu Kitô.

Căn nguyên của sự quên xót

Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Chúa cảnh báo các môn đệ về căn nguyên sự quên lãng chính bản thân Người, tức là thái độ không tin. Men Pharisiêu và men Hêrôđê chính là những ý xấu, những thái độ từ chối và thù địch đối với Chúa Giêsu và là sự cố chấp không chịu tin các dấu lạNgười làm. Những tâm hồn cứng cỏi này có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Đã hẳn các tông đồ không phải là những con người như vậy: các ông đã không đòi hỏi những dấu lạ từ trời, không tích cực tỏ ra không tin. Tuy nhiên các ông đã không nắm bắt được ý nghĩa việc Chúa làm trước mắt các ông, và do đó có nguy cơ dẫn đến thái độ không tin. Bởi lẽ các ông sống và suy nghĩ như thể đã không được nhìn thấy phép lạ hóa bánh vậy. Chúa bảo các ông phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisiêu là có ý như vậy. Quên Đức Giêsu Kitô nơi tư chất sống của Người có thể dẫn đến việc công kích Đức Giêsu Kitô vậy.

Chúng ta sợ hãi gì? Sợ thiếu những sự cần, sợ phải rủi ro xui xẻo, sợ ốm đau, sợ chết. Sợ những điều đó là chuyện thường tình của con người … người tín hữu đâu phải là siêu nhân. Nhưng khi ta sợ hãi như vậy, chẳng phải là đã có sự quên lãng Chúa ư, và thậm chí đã không tin Chúa một cách nào đó sao?

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Anh em chưa hiểu ư?


Qua những ngày làm việc mệt nhọc với đám đông dân chúng và sau khi Đức Giêsu bị những người Pharisêu đòi hỏi về dấu lạ..., Đức Giêsu đã không những không làm mà Ngài đã bỏ họ mà đi nơi khác.

Thánh Máccô kể: Đức Giêsu và các môn đệ đã trèo thuyền để ra đi hướng về Betsaiđa. Khi Ngài và các ông đang ở trên thuyền, thì đây là lúc riêng tư để thầy trò tâm sự. Đức Giêsu đã lên tiếng căn dặn các môn sinh của mình: “Anh em phải coi chừng, hãy đề phòng men Pharisêu và Hêrôđê!”. Tại sao Đức Giêsu lại cẩn trọng nhắc các môn đệ như vậy? Thưa là vì Ngài thấy rõ sự mù quáng do thành kiến và xuất phát từ thói kiêu ngạo, ghen tỵ, hình thức gây ra cho hai nhóm này, nên lòng họ khô cứng, trai lỳ, không còn nhạy bén với lương tâm nữa. Chính vì thế mà Đức Giêsu cảnh báo các môn đên dừng đi vào vũng lầy đó của họ.

Mặt khác, qua những lời thầm thì thể hiện sự lo lắng của các môn đệ về chuyện các ông không mang bánh theo, Đức Giêsu đã khiển trách các môn đệ và Ngài tiếp tục dạy cho các ông bài học về sự phó thác. Đức Giêsu đã dùng phương pháp hồi tưởng để gợi lại cho các môn sinh về sự quan phòng của Thiên Chúa khi con người tin tưởng vào Ngài qua hai phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhắc lại như thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn để củng cố lòng tin của các ông vào chính Ngài, đó là: có Chúa là có tất cả. Chúa là kho báu mà không gì có thể sánh bằng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.

Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che trở và đỡ nâng chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con phó thác cuộc đời của mình vào bàn tay từ ái của Chúa để được Ngài yêu thương. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Hiểu đúng và đón nhận sứ mạng của Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Các dấu lạ Chúa làm cho thấy Chúa hằng quan tâm và đủ quyền năng thực hiện cho ta những ơn lành hồn xác. Điều Chúa mong đợi nơi ta là hiểu đúng và đón nhận sứ mạng của Chúa, đừng để mình bị ảnh hưởng xấu của những kẻ cứng lòng và gian ác.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tuyển chọn và tách con khỏi thế gian để con trở thành dân riêng của Chúa. Chúa muốn con dù vẫn sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

Thế mà lạy Chúa, con lại rập theo lối sống trần gian. Con đang chịu ảnh hưởng của thứ men xấu. Nếp sống thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, nếp sống hưởng thụ và ích kỷ, những chất men ấy đang thấm dần nơi người Kitô hữu. Con còn đang chịu ảnh hưởng tác hại của men dâm ô qua sách báo phim ảnh xấu. Con cũng thấy có cả men Pha-ri-siêu và men Hêrôđê của thời đại mới. Đó là sự cứng lòng, thù nghịch, dửng dưng, lãnh đạm với chuyện tôn giáo.

Lạy Chúa, Chúa muốn con là men tốt trong rá bột trần gian. Đáng lẽ con phải biến đổi thế giới nên tốt đẹp và thánh thiện hơn, nhưng con lại để cho men xấu của thế gian ảnh hưởng trên con. Cái xấu như nắm men đang từng ngày thấm dần vào đời sống con, nó kín đáo âm thầm lặng lẽ nhưng lại rất mãnh liệt và làm biến chất đời sống người Kitô hữu.

Con xin Chúa cho tất cả mọi người Kitô hữu ý thức lại sứ mạng của mình. Xin Lời Chúa và Thánh Thể Chúa gìn giữ con khỏi men xấu và giúp con sống thánh thiện giữa đời. Xin Chúa ở lại với con và sống trong con. Con sẽ luôn nhớ lời cảnh giác và báo động của Chúa. Xin cho con luôn biết tỉnh thức. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Men Pharisiêu và Hêrôđê


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.

Người giả hình cũng tương tự như vậy.

Suy niệm

Trước phép lạ hóa bánh ra nhiều và các phép lạ của Chúa Giêsu, người biệt phái giả hình cố chấp vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (x. Mc 8,11-13). Những người phái Hêrôđê thì lo chuyện quyền bính chính trị và quyền lợi vật chất nên cũng không lưu tâm đến giáo lý Chúa Kitô. Họ cứng lòng cố chấp. Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ phải tránh men giả hình của biệt phái và men quyền bính và ham vật chất của phái Hêrôđê. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại do kiêu ngạo và thành kiến, làm cho người Pharisiêu và Hêrôđê cố chấp mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.

Chính các môn đệ lòng trí hẹp hòi, con mắt thiển cận, chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục nên dễ bị nhiễm thứ men này. Cho nên, Ðức Giêsu cảnh giác các đồ đệ, Ngài hướng các ông đến sự khát khao thần thiêng: Cuộc sống vĩnh cửu mới, đòi hỏi sự cố gắng mỗi ngày. Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của các phép lạ Chúa làm. Ðiều đó cũng có nghĩa khẳng định tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài.

Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thái độ vô vị lợi, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra tình yêu của Ngài, tình yêu vĩ đại vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.

Ý lực sống: “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Anh em phải coi chừng,

phải đề phòng men Pharisiêu và men Hêrôđê”(Mc 8,15).

 -------------------------------

 

Suy Niệm 9: Hãy tránh men biệt phái


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.

2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaiđa; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông  về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.

Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.

3. Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.

Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men”. Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê (5 phút Lời Chúa).

4. “Anh em phải coi chừng, phải đề phong men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8,150.

Khi xuống  thuyền vội vàng, các ông quên mang bánh theo, trên thuyền chỉ có một chiếc thì không đủ cho mọi người. Các ông bàn tán việc đi mua bánh. Nhân dịp này, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ hãy dè giữ cho khỏi men người biệt phái và men Hêrôđê.

Như chúng ta đã biết “Men” là hình ảnh những gì gây nên tình trạng biến chất, làm hư hại các chất hữu cơ). Các rabbi coi đó là những những hướng chiều xấu nơi con người. Ngày nay men biệt phái và men Hêrôđê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại của chúng ta. Đó là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, men dâm ô, qua sách báo phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Người. Vậy chúng ta đang “say” thứ men nào, “men trần tục” hay “men Kitô”?

5. “Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư”?

Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hóa nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.

Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu  tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không?

6. Truyện: Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành”.

Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng”.

Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại (Mỗi ngày một tin vui).

 -------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu cảnh giác men pharisêu và men Hêrôđê


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Câu chuyện này có liên quan tới phép lạ bánh hóa nhiều mà Mc vừa tường thuật phía trước (Mc 8,1-10)

- Phép lạ ấy đã chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu Ngài là một ông Môsê mới, ban lương thực dư dật không những cho người do thái mà còn cho cả lương dân.

- Nhưng những người pharisêu vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (Mc 8,11-13). Còn những người phái Hêrôđê thì chỉ lo chuyện chính trị và bảo vệ quyền lợi vật chất của họ. Phép lạ hóa bánh ra nhiều (và cách chung là tất cả những phép lạ của Chúa Giêsu) chẳng giúp cho họ hiểu gì cả.

- Bởi đó Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ mình: "Anh em phải coi chừng men pharisêu và men Hêrôđê". Hình ảnh "men" chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại. Do đó ý Chúa Giêsu muốn bảo các môn đệ đừng vì thành kiến như pharisêu hay vì sự thù nghịch như phái Hêrôđê mà mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.

- Cũng chính vì thế nên một lần nữa Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của chúng.

B.... nẩy mầm.

1. Thành kiến làm cho người ta ra mù quáng. Người có sẵn thành kiến giống như một người đã mang kính râm nên nhìn cái gì cũng thấy tối đen theo màu kính.

2. Khi còn nhỏ, J. Dillinger phải ra tòa vì một tội vụn vặt. Được tha về, cha mẹ dẫn anh đến trường. Một số phụ huynh khác thấy thế, đến làm áp lực với thấy giáo nếu thầy để Dillinger ở đây, chúng tôi sẽ đem con đến trường khác. Ông thầy bối rối không biết làm thế nào cho các phụ huynh an tâm. Ông đành nói thật cho Dillinger nghe. Anh bỏ học, không bao giờ bước chân tới trường nữa. Ít năm sau, anh trở thành một tội phạm nguy hiểm nhất Hoa kì trong thập niên 30. (Góp nhặt)

3. Sau phép lạ bánh hóa nhiều, điều còn vương vấn lại trong trí các môn đệ chỉ là… bánh, không có gì hơn! Các ông không biết đi từ dấu chỉ ấy để vươn lên tới chỗ nhận ra uy quyền của Chúa Giêsu.

Chúng ta cũng thế, đầu óc chúng ta cũng nông cạn như thế. Nhiều khi Chúa ban cho ta một ơn lành, chẳng hạn một thành công, một sự an ủi v.v. Sau đó điều duy nhất chúng ta còn nhớ chỉ là sự thành công và an ủi đó. Chúng ta không thể vươn xa hơn một chút để thấy đó là những dấu chỉ về tình thương của Ngài. Chúng ta phải tập nhìn những sự việc xảy ra như những dấu chỉ tới những điều cao hơn.

4. Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ "Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối". Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên "Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?". Nhưng người bạn lắc đầu giải thích "Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Thảm trạng của con người thời đại con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đây ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại." (Trích "Mỗi ngày một tin vui")

5. "Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men pharisêu và men Hêrôđê" (Mc 8,15)

Lên Sài gòn học tiếp đại học, tôi và một anh bạn "chúa ghét" thuốc lá. Nhưng rồi cũng phải hút, là để ngoại giao, xin việc, vì kẻ nào đến xin việc cũng làm như vậy và họ đã được đưa đón ân cần hơn. Bằng không, cứ thấy chiếc xe đạp dựng trước cơ quan là y như rằng lại vào ra không, tí khói lửa liền được chào mời tử tế… Lâu ngày, cứ hễ nhạt miệng là chúng tôi lại mồi thuốc, bất kẻ những người xung quanh là ai già trẻ, trai, gái, người đau, kẻ ốm… và bất kể nơi nào, thậm chí ngay trên xe khách chật ních người.

Tệ hơn nữa, bây giờ chúng tôi lại mắc chứng "nổ" hết xảy, nói dóc không "gớm miệng". Oái oăm thay, người đời lại thích vậy, nên chúng tôi có thêm tài "ngoại giao" và kiếm việc làm.

Vâng, chắc chắn cả hai chúng tôi đã nhiễm, không những "mùi thuốc lá" mà còn mắc phải cả "men lãnh đạm" trước những nhu cầu của tha nhân, một thứ men làm cho lương tâm ra chai lì, không còn nhạy bén với chân lý nữa.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và cho con can đảm lội ngược dòng, để con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể. Xin mau đến, lạy Chúa, kẻo con "lên men" mất. (Epphata)

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11: Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Câu chuyện này có liên quan tới phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Marcô vừa tường thuật trước (Mc 8,1-10).

Phép lạ ấy đã chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu: Ngài là Môisen mới, ban lương thực dư dật không những cho người Do Thái mà còn cho cả lương dân nữa.

Thế nhưng, những người Pharisêu vẫn không chịu tin Chúa. Họ còn đòi hỏi dấu lạ từ trời (Mc 8,11-13). Bên cạnh họ chúng ta còn thấy có cả những người thuộc phái Hêrôđê. Những người này chỉ lo những chuyện chính trị và bảo vệ quyền lợi vật chất của họ, cho nên phép lạ hóa bánh ra nhiều (và cách chung là tất cả những phép lạ của Chúa Giêsu) cũng chẳng giúp cho họ hiểu được điều gì.

Chính vì vậy mà Chúa phải khuyến cáo các môn đệ mình: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15).

Vâng, hãy coi chừng men của nhóm Pharisêu và Hêrôđê. Bởi vì, con người thường dễ nhiễm lây những tật xấu hơn là tập được những đức tính tốt. Những cái xấu của những người Pharisêu và Hêrôđê là gì thì chúng ta đã đều biết: giả hình, tội lỗi, bất công, tham lam, khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo, ích kỷ v.v.

Đây là câu chuyện người Thổ Nhĩ Kỳ thường kể cho nhau nghe:

Một chàng trai trẻ kia, con của một gia đình giàu có, danh giá, sống buông thả với đủ loại tật xấu, đặc biệt là cờ bạc. Cha mẹ đã làm đủ mọi cách để giáo dục anh, nhưng không thành. Ngày kia, có một người đến khuyên ông bố rằng:

- Hãy tụ tập 80 người trẻ tốt lại và để cho học sống chung với chàng trai trẻ xấu nết kia. Gương sáng của họ rồi sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến anh ta, và chẳng bao lâu đâu anh ta sẽ từ bỏ tật xấu để trở thành người mẫu mực.

Người Cha rất hài lòng với lời khuyên này. Ông cho đi tìm ở khắp nơi đủ 80 người anh em trẻ tốt lành và hứa sẽ trọng thưởng cho họ, nếu họ cộng tác giúp con ông.

Ông để cho 80 người này sống chung với con ông trong một ngôi nhà tách biệt, ngoài họ ra thì không ai khác được vào. Các bữa ăn được bên ngoài phụ giúp đưa vô.

Sau 80 ngày, người cha của cậu ta mở cửa ra xem cái gì đã xảy ra, thì ông thấy cậu con trai của ông đang ngồi chơi bài, chung quanh cậu, 80 cậu con trai nhà lành kia cũng đang mê đánh bài không kém gì cậu! Sự nghiêm chỉnh của 80 cậu con trai nhà lành kia không những đã không ảnh hưởng gì trên chàng trai nọ; mà ngược lại, chính họ đã tiêm nhiễm tật xấu của anh ta!

2. “Anh em phải coi chừng” (Mc 8,15). Hãy coi chừng kẻo bị nhiễm.

Cũng như người bị nhiễm vi trùng Hensen làm tê liệt cả hệ thống thần kinh khiến họ mất hết cả cảm giác. Hay như những người nhiễm HIV sẽ không còn khả năng đề kháng, thành thử con vi trùng nào cũng có thể tấn công và tác oai tác quái trên con người của họ. Một con người không còn mẫn cảm với những vẻ đẹp Chúa ban cho trong cuộc sống cũng như thế! Quả thật là rất đáng thương.

 Một trong những thảm trạng của con người thời đại hôm nay là: Tuy con người có nhiều kiến thức hơn, nhiều phương tiện để học biết hơn, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình mà che mất ánh sáng và màu nhiệm. Con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại và những dấu chỉ yêu thương mà Thiên Chúa ban cho họ mỗi ngày. Chính vì thế mà họ đã đánh mất rất nhiều niềm vui cho cuộc sống của mình. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

Thế giới của chúng ta đang sống là thế giới đầy ánh sáng và màu nhiệm. Nhưng, nhiều khi con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình mà che đậy chúng lại.

Đây là những lời khuyên được loan đi từ Internet:

“Bạn chớ thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim của bạn. Bạn hãy nắm chắc lấy như thể chúng là những phần trong cuộc sống của bạn. Bởi vì nếu như không có chúng, cuộc sống của bạn sẽ mất đi ý nghĩa.

Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ, hoặc ảo tương về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.

Bạn chớ khóa kín lòng mình lại với tình yêu bằng cách nói bạn không có thời gian yêu ai.

Cách nhanh nhất để nhận được tình yêu là hãy cho đi. Cách chóng nhất để đánh mất tình yêu là níu giữ thật chặt.

Còn phương thế tốt nhất để giữ được tình yêu là bạn hãy chắp cho nó đôi cánh”.

Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy đến và giúp cho chúng con can đảm dám lội ngược dòng,
để chúng con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể.
Và nhất là giúp chúng con biết nhận ra những dấu chỉ
tình thương Chúa gửi đến cho chúng con mỗi ngày
để chúng con cảm nghiệm được niềm vui
cũng như hạnh phúc của một người có Chúa ở cùng. Amen. (Epphata).

--------------------------------

 

Suy Niệm 12: Tránh xa lối sống giả hình


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Men biệt phái là sự giả hình, đánh lừa người khác, men Hêrôđê là sự ỷ quyền cậy thế, làm phiền toái, ức hiếp người khác, làm oan sai người khác: “Các con hãy coi mình và giữ mình cho khỏi men biệt phái, và men Hêrôđê” (Mc 8, 15). Nếu vướng vào sự giả hình, sự cậy quyền ỷ thế thì cuộc đời này của con người chúng ta sẽ xuống cấp về đạo đức, băng họa về các mối quan hệ, suy đồi về cách sống, xã hội sẽ biến thái: “Nhưng mỗi người bị dục tình cám dỗ, bị nó xúi dục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội lỗi đã phạm rồi, thì sinh ra sự chết” (Gb 1, 14 – 16). Chúa đã cảnh báo nhiều lần về điều này với các tông đồ và con người chúng ta. Thế nhưng các tông đồ không hiểu, tưởng Chúa nói như thế là vì các ngài quên đem bánh, chỉ có một chiếc bánh trong thuyền: “Các môn đệ nghĩ ngơi nói với nhau rằng: Tại mình không có bánh” (Mc 8, 16). Chúa nói một đàng mà các ngài lại hiểu một nẻo, vì vậy mồi lần chúng ta nghe lời Chúa, hay tự đọc lời Chúa, chúng ta cần xin Chúa ban ơn soi sáng, giúp đỡ thì chúng ta mới hiểu được, chứ tự sức mình chúng ta như các tông đồ hồi đó, chúng ta không hiểu đâu.

Chúa không có nói về chuyện các ngài không có bánh: “Tại sao các con lại nghĩ, tại các con không có bánh” (Mc 8, 17), để rồi Chúa mới nói đến chuyện đã xảy ra lúc trước đó là hai phép lạ hóa bánh ra nhiều Chúa làm để nuôi dân chúng theo Chúa, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, sau khi ăn no nê, các ông thu lại mười thúng bánh vụn. Phép lạ thứ hai cho bốn ngàn người ăn, còn thu lại bảy thúng đầy. Các ông trả lời rất chính xác vì các ông nhớ rất rõ, không thể nào quên các phép lạ của Chúa (Mc 8, 18 – 20). Thế nhưng, các ông chẳng hiểu men biệt phái và men Hêrôđô: “Các con chưa hiểu, chưa biết ư. Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao” (Mc 8, 17. 21).

Thậy vậy, các tông đồ của Chúa theo Chúa nghe Chúa giảng lời Chúa, làm các phép lạ cứu chữa bệnh hoạn bật nguyền cho dân, vậy mà các ngài chưa hiểu về lòng thương xót của Chúa, chưa hiểu về quyền năng của Chúa, chưa hiểu về kinh nghiệm sống của Chúa mà Chúa truyền đạt cho các ngài để các ngài khi gặp phải thì tránh đi mà sống tốt hơn. Điều quan trọng là khi Chúa dạy bảo những người biệt phái, luật sỹ, , họ không chịu nghe để bỏ đi tính hư tật xấu, tội lỗi của mình mà sống tốt. Vì đối với Chúa, Chúa thương hết tất cả mọi người, Chúa không muốn con người chúng ta hư vong. Do đó khi các tông đồ và chúng ta hiểu điều Chúa dạy để rồi làm theo ý Chúa thì Chúa sẽ hài lòng và chúng ta sống đẹp lòng Chúa hơn.

Lạy Chúa, Chúa luôn dạy bảo chúng con, khi chúng con thực hiện đúng như ý Chúa, thì những thử thách, những buồn đau có xảy đến, chúng con vẫn bình tĩnh, thảnh thơi trong những lúc như vậy, chúng con sẽ không bị vấp ngã, không hoang mang lo lắng, vì ân sủng Chúa ban cho chúng con rất nhiều để làm chúng con vui sướng, chúng con không bị Chúa bỏ rơi. Amen.

--------------------------------

 

Suy Niệm 13: Coi chừng men Pharisêu và Hêrôđê


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 6 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin Chúa tuôn đổ hồng ân, giúp chúng ta ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, đáng là tác phẩm đầu tay của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Châm Ngôn cho thấy: Một lần nữa, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa lại lên tiếng mời gọi, nhưng lần này không nhằm khuyên nhủ, cho bằng, tự mặc khải. Tất cả những gì sau này thánh Gioan nói về Ngôi Lời đều đã tiềm tàng ở đây. Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người, từ thời xa xưa nhất. Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, xứng đáng là môn đệ và là bạn hữu của Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Athanaxiô nói: Nhờ Đức Khôn Ngoan sáng tạo và trở thành nhục thể, mà ta nhận biết Chúa Cha… Như anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì anh em hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể. Anh em chỉ có một Thầy là Đức Kitô.

Trở nên đền thờ của Chúa, đáng được Chúa xót thương và tuôn đổ phúc lành, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại: Đức Chúa phán: Bảy ngày nữa Ta sẽ đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 28, vịnh gia cho thấy: Xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho dân hưởng bình an. Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em phải coi chừng men Pharisêu và men Hêrôđê. Men có công dụng làm dậy bột, men nào làm dậy bột nấy. Men Pharisêu là men giả hình: Nói mà không làm; Men Hêrôđê là men giả bộ: Nói một đàng làm một nẻo. Men Kitô, men của Đấng Khôn Ngoan: Nói là làm, giao ước đã lập ra muôn đời, muôn đời Chúa nhớ mãi, lòng thành tín của Người vượt ngàn mây thẳm. Thật vậy, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta là tác phẩm đầu tay của Người, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là môn đệ, là bạn hữu của Đức Kitô. Nếu ta tuân giữ những gì Chúa dạy, thì phúc lành của Chúa sẽ tuôn đổ xuống trên ta. Nếu ta phản nghịch bất tuân, thì “đại hồng thủy” sẽ hủy diệt ta như thời ông Nôê. Thiên Chúa đã muốn các thụ tạo của Người: không chỉ hiện hữu, mà còn, hiện hữu một cách tốt đẹp, Thiên Chúa đã muốn cho Đức Khôn Ngoan của Người khuôn mình theo thụ tạo, mà in vào tất cả và vào từng vật: dấu ấn, mang hình ảnh của Người; nhờ thế, chúng ta thấy rõ các thụ tạo được tô điểm, cách khôn ngoan, và xứng đáng là những công trình của Thiên Chúa. Nhờ sự khôn ngoan Thiên Chúa ban cho đó, ta có khả năng nhận thức và hiểu biết, đồng thời, cũng có khả năng đón nhận Đấng là Đức Khôn Ngoan, và nhờ Người, mà ta nhận biết Chúa Cha. Thế gian đã không dùng sự khôn ngoan, mà nhận biết Thiên Chúa, ở những nơi, Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người, cho nên, Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ, để cứu những người tin. Quả thế, Thiên Chúa muốn cho Đức Khôn Ngoan nhập thể làm người, và chịu chết khổ hình thập giá, để từ nay, tất cả những ai tin, thì sẽ được cứu độ. Yêu mến Chúa, thì sẽ tuân giữ lời Chúa, chứ không giả hình giả bộ: nói mà không làm, hoặc nói một đàng làm một nẻo. Ước gì chúng ta biết tránh xa men Pharisêu và men Hêrôđê, mà tuân giữ những gì Chúa dạy, để trở nên đền thờ của Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 4:

Người mù Bếtsaiđa.
19/02 – Thứ Tư tuần 6 thường niên.
"Người mù khỏi hẳn và thấy được mọi vật rõ ràng".

 

Lời Chúa: Mc 8, 22-26


Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: "Ngươi có thấy gì không?" Anh nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi".
Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: "Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Anh có thấy gì không?


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong phong trào hướng đạo có ngành Ấu.
Các em thuộc ngành này được gọi là sói con.
Các em sói con qua hai giai đoạn huấn luyện: mở một mắt, rồi mở hai mắt.
Sau khi được mở hai mắt, các em đã tiến bộ về kỹ năng hơn trước nhiều.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Thầy Giêsu đã phàn nàn về sự mù lòa của môn đệ:
“Anh em có mắt mà không thấy sao?” (Mc 8, 18).
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa anh mù ở vùng Bếtsaiđa.
Chuyện này có một số nét giống chuyện Chúa chữa người câm điếc (Mc 7, 31-37).
Cả hai anh đều được người ta đem đến cho Đức Giêsu và xin Ngài đụng đến.
Cả hai anh đều được dẫn đến một nơi riêng và được chữa lành bằng bôi nước iếng.
Chỉ mình Máccô kể lại hai câu chuyện lý thú trên.
Đức Giêsu đã không chữa người mù khỏi ngay lập tức.
Ngài phải chữa lần thứ hai anh mới thấy rõ hẳn.
Đây là chuyện lạ, vì nơi các sách Tin Mừng, chẳng bao giờ có chuyện như thế.
Đặc biệt nơi Tin Mừng Máccô, mọi sự đều xảy ra rất nhanh.
Trong chương 1, có 8 từ lập tức (euthus) ở các câu 12, 18, 20, 23, 28, 29, 30, 42.
Sau khi được Đức Giêsu bôi nước miếng trên mắt và đặt tay lần đầu
anh mù mới chỉ thấy lờ mờ, thấy người ta như những cái cây biết đi (c. 24).
Sau khi được Đức Giêsu đặt tay lần thứ hai trên mắt
anh mới thấy tỏ tường mọi sự (c. 25).
Đức Giêsu phải chữa đến hai lần, chắc không phải vì trường hợp này khó hơn.
Nhưng vì chuyện anh mù được sáng mắt ở đây
tượng trưng cho hành trình mở mắt đức tin của các môn đệ.
Họ sẽ phải đi từng bước một để nhận ra con người của Thầy Giêsu.
Lúc đầu họ chỉ thấy một phần con người Ngài, thấy không rõ như anh mù.
Phải đợi sau này, khi Thầy Giêsu được phục sinh, họ mới thấy Ngài trọn vẹn.
“Anh có thấy gì không?”
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta như vậy.
Hãy để tay Ngài nắm lấy tay ta mà dắt vào chỗ riêng tư kín đáo.
Hãy để Ngài chạm đến sự mù lòa của ta để ta được sáng mắt,
nhờ đó ta thấy được Ngài, thấy được sự thật về mình và về tha nhân.
Nhưng ta cũng cần kiên nhẫn vì con đường giác ngộ là con đường dài.
Chỉ mong hôm nay tôi sáng hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
 
Cầu nguyện:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Sáng tạo mới


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Việc Chúa chữa anh mù thật kỳ công. Đưa anh riêng ra khỏi làng. Trộn bùn và nước bọt. Xức vào mắt anh. Cử chỉ này khiến ta liên tưởng cảnh sáng tạo con người. Thiên Chúa lấy bùn đất nặn nên con người. Thổi hơi vào lỗ mũi. Và con người có sự sống.

Anh mù chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng. Chưa bao giờ nhìn thấy thế giới. Hôm nay là lần đầu tiên anh thấy ánh sáng và anh thấy thế giới. Anh được thực sự có sự sống. Anh được tái tạo.

Nhưng ánh sáng trong anh tiệm tiến. Khởi đầu anh thấy lờ mờ. Sau này mới thấy rõ ràng. Ánh sáng chói lọi nhất là anh nhận biết Chúa là sự sáng. Và là sự sống. Anh sống trong một thế giới mới. Thế giới tự nhiên rực rỡ chan hoà ánh sáng. Và hơn nữa thế giới siêu nhiên trong Thiên Chúa tươi sáng hơn bội phần.

Tổ phụ No-e cũng đã có thứ ánh sáng đó. Bốn mươi ngày chìm trong bóng tối. Mưa gió đen tối. Cửa tầu đóng kín trong tăm tối. Chỉ khi chim bồ câu tha nhành ô-liu về tổ phụ mới thấy ánh sáng. Ánh sáng là trái đất có sự sống. Đây là sự sống mới. Tất cả sự sống cũ đã bị huỷ diệt. Tổ phụ tràn đầy niềm vui vì được sinh lại. Được sống một đời sống mới. Bắt đầu một thế giới mới. Tổ phụ ý thức sâu xa chính Thiên Chúa là ánh sáng ban sự sống. Trong thế giới mới được tái tạo, No-ê trở thành tổ phụ mới. Của mọi sự sống trên thế giới mới. Đó là năm 601. Và đó là tháng thứ nhất. Bắt đầu một lịch sử mới. Lịch sử đó do Thiên Chúa làm chủ. Nên No-e đã dâng lễ vật cho Chúa để tạ ơn và bắt đầu một thời kỳ mới. Thời kỳ của lòng thương xót. Vì Chúa sẽ không bao giờ trừng phạt thẳng tay như thế nữa (năm lẻ).

No-e sở dĩ tồn tại và trở thành tổ phụ cho thời kỳ mới vì ông không nói năng gì. Chỉ nghe và tuân giữ Lời Chúa truyền. Đó là điều thánh Gia-cô-bê dạy ta. Đừng ham nói. Hãy nghe. Và thực hành Lời Chúa. Nghe Lời Chúa mới chỉ hiểu biết lờ mờ. Như anh mù nhìn thấy người ta như cây cối đi đi lại lại. Chỉ tuân giữ Lời Chúa mới nhìn thấy rõ ràng. Vì hiểu biết thực sự về Chúa. Về vũ trụ. Về con người. Và về bản thân. Nghe và giữ Lời Chúa sẽ biến ta nên con người mới. Giúp ta xây dựng thế giới mới. Hài hoà. Yêu thương. Đức hạnh (năm chẵn).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðôi mắt đức tin


Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết. Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai. Thế là ngày hôm sau, người đàn bà dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn để đón vị khách quý. Thế nhưng suốt buổi tối người đàn bà chờ đợi vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:

- Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta"

Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài ở trước cổng nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.

Thế là cả ngày hôm sau, người đàn bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Ðêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ, Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:

- Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy qua yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi.

Con người chỉ có thể thấy Chúa bằng đôi mắt của quả tim, và đôi mắt này chính là đôi mắt đức tin mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho con người.

Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.

Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Một sự chữa lành công phu


Người cầm lấy tay anh mù đưa ra khỏi làng, và nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và nói: “Anh có thấy gì không?” Anh ngước mắt lên và thưa: “Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối đi đi lại lại.” (Mc. 8, 23-24)

Trang Phúc âm này của Maccô là độc nhất. Không có một thánh sử nào đã kể lại phép lạ được thực hiện từng giai đoạn này. Thực vậy, phần lớn các phép lạ của Phúc âm đều xảy ra ngay tức khắc; một số khác đòi hỏi một tiến trình từ phía những người được hưởng phép lạ, như trường hợp mười người phong hủi được lành khi đang trên đường đi trình diện với tư tế. Ở đây, trái lại, trình thuật nhấn mạnh đến vẻ từ từ, tiệm tiến và hơi công phu của việc làm cho anh mù dược sáng mắt. Bước đầu, Chúa nhổ nước miếng vào mắt người mù và đặt tay trên anh. Đoạn Chúa hỏi anh cho biết tình trạng mắt thế nào, thì được anh trả lời khoái chí: “Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối đi đi lại lại”. Khi thấy cái nhìn của anh còn lờ mờ và không rõ nét, Chúa làm lại cử chỉ đặt tay trên mắt anh, tức thì anh được khỏi hẳn và trong rõ.

Khía cạnh biểu tượng của phép lạ

Việc khỏi bệnh này cũng nêu lên một khía cạnh biểu tượng, vì ngoài sự việc nhãn tiền, không gì thực hơn, nó còn để cho thấy một ý nghĩa kín đáo. Nói khác đi, ở đây không chỉ đơn thuần là việc làm sáng mắt người mù, mà chính là một mạc khải về Chúa Giêsu: Người là Đấng ban ánh sáng, giải thoát con người khỏi cảnh tối tăm. Thánh sử nhấn mạnh đến khía cạnh kín đáo của phép lạ này: Chúa Giêsu đưa anh mù ra khỏi làng, ở một nơi riêng, chữa anh khỏi mà không để cho những con mắt tò mò dòm ngó, và một khi anh đã thấy rõ rồi, Người dặn anh đừng có vào làng. Người không khua chiêng gõ mõ để phô trương như những kẻ làm được đôi ba điều lạ và những pháp sư. Việc chữa khỏi được diễn ra từ từ còn làm nổi bật tính thận trọng và kín đáo này. Âu đó cũng là một cách để nói không cho những người đòi được xem những dậu lạ từ trời. Đừng kêu gọi con mắt, nhưng hãy kêu gọi tâm hồn.

Việc chữa lành người mù một cách công phu cũng là dấu chỉ việc làm sáng mắt thiêng liêng cho các môn đệ, đồng thời làm nổi bật những nỗ lực của Chúa giúp cho các ông mở mắt ra. Chúa Giêsu vừa mới tố cáo các ông có mắt mà chẳng thấy, y hệt như người mù. Chịu khó và mất thời giơ một chút, Người đã trả lại cho người mù này ý thức về thị giác, về sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cũng thế, Người sẽ dẫn đưa các tông đồ tới tin vào Người, mặc dầu trí tuệ các ông lúc này còn kém cỏi. Chỉ cần một điều là chính các ông cũng phải để cho Người cầm tay dẫn đi, và ở một nơi riêng biệt, gặp gỡ Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta thường sống đức tin như những kẻ chỉ nhìn thấy lờ mờ. Cái nhìn và hiểu biết của ta về thế giới mới, về những thực tại siêu nhiên lại lu mờ và không rõ nét, nên càng trở nên xa lạ đối với ta. Ta đừng xao xuyến, đừng ngạc nhiên, cũng đừng quyết định ngớ ngẩn. Đúng hơn ta hãy cố gắng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy để cho Người là Đấng có khả năng làm sáng mắt cầm tay dẫn dắt chúng ta.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Ánh sáng của niềm tin


Nếu bài Tin Mừng hôm qua Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ của mình đừng rơi vào lối sống của những người Pharisêu; đồng thời Ngài củng cố đức tin của các ông và mặc khải cho họ biết rằng: có Chúa là có tất cả.

Hôm nay, sau một chặng hành trình lênh đênh trên biển khơi, và qua những tâm sự của thầy trò. Đức Giêsu và các môn đệ đã đáp bến.

Nghe thấy tin Đức Giêsu đến, dân chúng đã dẫn một người mù đến gặp để xin Ngài chữa lành.

Thực ra thì bệnh mù là một thứ bệnh rất phổ biến tại các nước Đông Phương. Kinh Thánh cũng thường xuyên nhắc tới bệnh mù. Riêng Tân Ước là 52 lần và toàn bộ Kinh Thánh là 80 lần. Nhưng điều quan trọng là ý nghĩa của sự kiện này.

Tình thương của người dân qua việc dẫn anh mù đến với Đức Giêsu và nhất là sự tín thác của chính anh vào Ngài cho thấy một thái độ hoàn toàn khác với những người Pharisêu. Sự khác biệt này đã là điều kiện cần và đủ để phép lạ xảy ra. Thật vậy, thấy được lòng tin mạnh mẽ nơi dân chúng và anh mù, Đức Giêsu đã chữa cho anh ta được sáng mắt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta một điều quan trọng: Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để đem lại cho con người ánh sáng ngõ hầu họ nhận ra chân lý và tình thương của Ngài. Ai nhận ra Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống thì được nhìn thấy tình thương của Ngài trên cuộc đời của mình và được ơn biến đổi.

Mặt khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương, cảm thông như Đức Giêsu và những người có lòng tốt dẫn anh mù đến gặp Ngài. Hơn nữa, qua đó, Lời Chúa mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa như anh mù.

Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con sáng mà lại thành mù vì không nhận ra tình thương của Chúa. Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi tình trạng mù tâm linh và cho chúng con ánh sáng của niềm tin và ân sủng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Cần được Chúa mở con mắt tinh thần


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu chữa cho người mù được trông thấy. Tất cả mọi người môn đệ đều cần được Chúa mở con mắt tinh thần để có thể hiểu và chấp nhận đi theo Chúa trên con đường đau khổ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thật gần gũi với chúng con, Chúa hòa nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa ở bên chúng con và chữa trị cho chúng con. Chúa chữa lành cho người mù là Chúa đưa người ấy từ cõi tối tăm trở về cõi sáng, từ nơi đau khổ về với niềm vui. Chúa cho anh nhìn thấy chính mình và vạn vật.

Lạy Chúa, đôi mắt của các tông đồ và của con không mù tối, nhưng linh hồn của các ngài và của con mù tối. Chúa cho chúng con biết Chúa phải chịu đau khổ để cứu độ chúng con, và Chúa dạy chúng con bước theo Chúa trên con đường đau khổ và thánh giá.

Lạy Chúa, điều ấy đối với con thật bất ngờ và khó chấp nhận. Các tông đồ không hiểu, con cũng không hiểu. Nói đúng hơn, con không muốn hiểu. Con sợ khổ đau và thánh giá. Con luôn tìm cách tránh né và than phiền về những khổ đau con gặp. Không mấy khi con tự nguyện vác thánh giá hoặc tự ý bỏ mình, tự ý làm vài việc hy sinh. Con chưa hiểu được thánh giá và đau khổ cần thiết để cứu độ con và nhân loại. Chỉ có mình Chúa hiểu mà thôi.

Vì vậy, lạy Chúa, xin Chúa mở mắt linh hồn con để con nhận ra đường lối kỳ diệu của Chúa, tuy khó hiểu nhưng hiệu nghiệm. Xưa Chúa đã cầm tay người mù và dẫn anh đi. Xin Chúa cũng cầm tay con mà dắt con đi. Bàn tay con nằm trong bàn tay Chúa, thật hạnh phúc biết bao. Con cảm tạ và phó thác nơi Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Người mù khỏi hẳn và thấy được mọi vật rõ ràng”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Đức Giêsu-ánh sáng thế gian


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trước đại chiến năm 1914, có một người đã từng viết nhiều bài báo công kích và nhạo báng đạo Công giáo. Ông tên là Lavedan. Nhưng sau này, khi gặp nguy hiểm sắp chết, ông liền viết một bài cải chính lại tất cả những gì ông đã viết trước đây.

Trong bài này, có đoạn ông viết rằng: “Từ trước đến nay, tôi vẫn nhạo cười chế giễu người Công giáo và tôi tin rằng mình khôn ngoan, giỏi giang, song thật ra, tôi đã lầm và những ai đọc những tác phẩm và văn thơ của tôi cũng lầm nữa. Tất cả những gì tôi làm xưa nay, đều lầm lạc, say sưa và mơ hồ. Bỏ Thiên Chúa, tức là tự sát. Không biết ngày mai tôi có còn sống nữa chăng, nên giờ đây, tôi phải nói cho mọi người biết điều này là: tôi không dám chết trước lúc chối Chúa. Hỡi linh hồn tôi, hãy vui mừng và bây giờ tới lúc ngươi có thể quỳ gối xuống và xưng rằng: “Con tin, lạy Chúa, con tin!”.

Suy niệm

Đức Kitô là ánh sáng soi chiếu vào đêm tối. Anh mù đã được tình thương của Thiên Chúa chạm vào anh: Đức Giêsu phun nước miếng vào người mù (x. Mc 8,23). Tác giả J. Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu, Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Chúa Giêsu lấy nước miếng là phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.

Ánh sáng tỏa tình thương của Thiên Chúa cho muôn dân như mặt trời của hừng đông chiếu rạng ngời:

“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,77).

Anh mù cũng là hình ảnh của chúng ta trong thực tại mà Chúa Giêsu đã từng cảnh tỉnh các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40). Thật thế, chúng ta mù khi: “Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân. Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân. Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình. Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình. Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật. Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh. Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng. Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án”. Hay cũng có thể chúng ta là những người sáng mắt như các biệt phái và luật sĩ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt, tự hào với sự sáng của mình để rồi không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết… Họ sáng nhưng trở nên mù…

Như anh mù, chúng ta tiếp nhận Đức Giêsu - ánh sáng thế gian, được chữa lành và sáng mắt bước vào một hành trình khẳng định đức tin mình vào Đức Giêsu: “Thiên Chúa quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10).

Ý lực sống: “Tin là gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa” (Giáo lý Công giáo).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa chữa người mù ở Betsaiđa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau những lời khiển trách các môn đệ và trước lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của Phêrô, Đức Giêsu chữa bệnh cho một người mù. Khi ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Betsaiđa, người ta dẫn người mù  đến xin Chúa cứu chữa. Chúa dẫn người đó ra ngoài làng rồi lấy nước miếng xức vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi anh có thấy gì chưa? Anh thưa mới thấy lờ mờ. Chúa lại đặt tay trên anh một lần nữa, thế là anh được thấy rõ ràng.

2. Đặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và nhóm biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thấy được ý nghĩa các phép lạ của Đức Giêsu. Chữa lành cho người mù, Đức Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chính mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.

3. Để chữa anh mù hôm nay, Đức Giêsu đã làm một loạt các hành động: “cầm tay”, “đưa đi”, “nhổ nước miếng”, “đặt tay” và “hỏi”, thế mà hiệu quả là  anh ta chỉ thấy lờ mờ. Tại sao Đức Giêsu phải vất vả như vậy? Ở các lần chữa bệnh khác, Chúa chỉ cần nói một lời là đem lại hậu quả tức thì: kẻ què đi được, kẻ chết sống lại... Phải chăng vì ca bệnh hôm nay quá khó khiến Ngài phải đật tay trên mắt anh một lần nữa? Hẳn là không. Nhưng hành động như thế, Chúa muốn cho các môn đệ thấy hành trình mở mắt đức tin của họ cũng diễn ra như vậy. Họ đã theo Chúa bao năm nhưng con mắt đức tin của họ vẫn mù tối. Trước khi chữa lành cho anh mù, Chúa đã nặng lời trách các ông: “Lòng anh em ngu muội thế sao? Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư” (Mc 8,17-18)? Quả thế, các ông chỉ thực sự thấy và biết Chúa cách tỏ tường khi Ngài từ cõi chết sống lại  (5 phút Lời Chúa).

4. Việc khỏi bệnh này cũng nêu lên một khía cạnh biểu tượng, vì ngoài sự việc nhãn tiền, không gì thực hơn, nó còn để cho thấy một ý nghĩa kín đáo. Nói khác đi, ở đây không chỉ đơn thuần là việc làm sáng mắt người mù, mà chính là một mạc khải về Đức Giêsu: Ngài là Đấng ban ánh sáng, giải thoát con người khỏi cảnh tối tăm. Thánh sử nhấn mạnh đến khía cạnh kín đáo của phép lạ này. Đức Giêsu đưa anh mù ra khỏi làng, ở một nơi riêng, chữa anh khỏi mà không để cho những con mắt tò mò dòm ngó, và một khi anh đã trông thấy rõ rồi, Ngài dặn anh mù đừng vào làng. Ngài không khua chiêng gõ mõ để phô trương như những kẻ làm được đôi ba điều lạ và những pháp sư. Việc chữa khỏi được diễn ra từ từ còn làm nổi bật tính thận trọng và kín đáo này. Âu đó cũng là một cách để nói không cho những người đòi được xem những dấu lạ từ trời. Đừng kêu gọi con mắt, nhưng hãy kêu gọi tâm hồn.

5. Việc chữa lành người mù một cách công phu cũng là dấu chỉ việc làm sáng mắt thiêng liêng cho các môn đệ; đồng thời làm nổi bật những nỗ lực của Chúa giúp cho các ông mở mắt ra. Đức Giêsu vừa mới tố cáo các ông có mắt mà chẳng thấy, y hệt như người mù. Chịu khó và mất thời giời một chút, Ngài đã trả lại cho người mù này ý thức về thị giác, về sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cũng thế, Ngài sẽ dẫn đưa các môn đệ tin vào Ngài, mặc dầu trí tuệ các ông lúc này còn kém cỏi. Chỉ cần một điều là chính các ông cũng phải để cho Ngài cầm tay dẫn đi, và ở một nơi riêng biệt, gặp gỡ Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta thường sống đức tin như những kẻ chỉ nhìn thấy lờ mờ. Cái nhìn và hiểu biết của ta về thế giới mới, về những thực tại siêu nhiên lại lu mờ không rõ nét, nên càng trở nên xa lạ đối với ta. Ta đừng xao xuyến, đừng ngạc nhiên, cũng đừng quyết định ngớ ngẩn. Đúng hơn ta hãy cố gắng gặp Đức Giêsu. Hãy để cho Ngài là Đấng có khả năng làm sáng mắt cầm tay dẫn dắt chúng ta (Trích Xây nhà trên đá).

7. Truyện: Đôi mắt của quả tim.

Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời  chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết.

Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai, thế là ngày hôm sau, người đàn bà chờ đợi mà vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:

- Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta?

Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài trước công nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi nghe Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.

Thế là cả ngày hôm sau, bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Đêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:

- Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy quá yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi (Mỗi ngày một tin vui).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu chữa một người mù


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Muốn hiểu ý nghĩa phép lạ này (Chúa Giêsu chữa một người mù), ta phải đọc nó trong văn mạch những chuyện phía trước. Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mc 8,1-10), nhưng các người pharisêu chẳng những không tin vào quyền năng của Ngài mà lại còn thách Ngài làm một dấu lạ từ trời (Mc 8,11-13). Chính các môn đệ cũng không thấy được điều gì cao hơn là những miếng bánh (Mc 8,14-21). Họ đúng là những người mù không đọc ra ý nghĩa những dấu chỉ.

Người mù trong chuyện này là hình ảnh của những người không hiểu (pharisêu, các môn đệ, và chúng ta ngày nay)

- Việc làm cho họ hiểu rất là khó. Vì thế Chúa Giêsu phải đặt tay vào mắt anh mù tới hai lần thì anh mới thấy.

- Tuy nhiên phép lạ này cũng khuyến khích chúng ta nếu kiên trì tìm hiểu Chúa thì cuối cùng cũng sẽ thấy được Ngài: người mù ban đầu không thấy gì cả, sau khi được Chúa Giêsu sờ vào mắt thì anh thấy mờ mờ, sau khi Ngài đặt tay lần thứ hai thì anh hoàn toàn thấy rõ.

B.... nẩy mầm.

1. Ngày chúng ta được rửa tội, Linh mục cũng thay mặt Chúa nói với chúng ta "Epphata" nghĩa là hãy mở ra. Nhưng đức tin của chúng ta chỉ như một con mắt mới mở hé, cho nên phần nào đó chúng ta cũng còn giống như người mù. Hôm nay chúng ta hãy xin Chúa một lần nữa đặt tay Ngài trên mắt chúng ta, để cặp mắt đức tin của chúng ta được mở ra trọn vẹn để nhìn thấy Ngài.

2. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận "Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả." Vợ ông bước ra tiếp lời "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông". Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).

3. Hai ông cháu đi dạo trên hè phố. Họ đến cạnh hàng rào hoa hồng rất đẹp. Cô bé thở nhẹ nói "Nội ơi, nội có thể ngửi những bông hồng này? Chúng rất thơm phải không?" Rồi hai ông cháu nghe giọng nói của một bà từ trong mái hiên vọng ra "Cứ làm tất cả những gì các bạn muốn".

Hai ông cháu ngắt một bông hoa rồi cám ơn bà và khen luống hoa thật đẹp. Bà nói "Tôi trồng những bông hồng này mục đích là để những người khác được hạnh phúc. Tôi không thấy họ. Tôi mù" (Góp nhặt)

4. "Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bétsaiđa. Người ta dẫn một người mù và xin Chúa Giêsu sờ vào anh ta… Người đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn" (Mc 8,22-25)

Tối 14-12-1995, hàng triệu người Việt nam hồi hộp đón xem trận đấu giữa Việt Nam và Mianma để tranh vào vòng chung kết Cúp vô địch Bóng đá Sea Games 18. Khoảng 22g30, đội tuyển VN đã làm nên một giây phút lịch sử khi ghi được tỉ số 2-1, thắng đội Mianma. Ngay lập tức, hàng vạn thanh niên thành phố đã tràn xuống đường trong niềm vui sướng tột độ. Họ diễn hành thành từng đoàn, cùng hô vang những khẩu hiệu "Việt nam vô địch. Việt nam chiến thắng".

Sài gòn một đêm tuyệt vời, một đêm không ngủ. Tuyệt vời vì những con người vốn xa lạ bỗng trở nên gần gũi thân quen. Muôn người như một hiệp nhất trong niềm vui. Hạnh phúc tưởng đâu xa, hóa ra thật gần khi con người yêu thương nhau.

Vậy mà đôi mắt con, vì bị che khuất bởi những tham vọng, bởi lòng hẹp hòi ích kỷ nên đã không nhận ra được hạnh phúc quanh mình.

Lạy Chúa, xin cho con có cái nhìn bao dung để có thể nhận ra những cái hay cái tốt nơi kẻ khác và cùng họ xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. (Epphata)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Epphata


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Người mù trong câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của những người không thấy cũng như không hiểu được những gì xảy ra chung quanh mình.

Có một người kia sinh ra là đã bị mù. Sống trong một gian phòng, nhưng bởi anh không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi không thấy”.

Một vị lương y đem lòng thương hại, đi tìm cho ra một thứ linh dược trên Hy Mã Lạp Sơn về trị lành bệnh, anh ta sung sướng tự phụ bảo: Giờ đây, tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi!

Nhưng, có kẻ bảo với anh ta: Bạn ơi! Bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi: Có là bao. Ngoài kia, người ta còn thấy được mặt trời, mắt trăng cùng các vị tinh tú hằng hà đa số. Còn biết bao vật xấu, đẹp, lộng lẫy màu sắc huy hoàng mà bạn chưa thấy.

Anh chàng không tin. “Làm gì có được những cái đó! Tôi chưa thấy những cái đó. Cái gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”.

Một vị y sĩ khác bèn lên tận núi cao gặp được sơn thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ấy được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn những vật chung quanh trong căn phòng của anh.

Bấy giờ, anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú trên không trung, mừng quá, và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm. “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế, giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy chẳng biết. Đâu còn ai hơn tôi được nữa!”

Nhưng, lại có một hiền giả có cặp mắt thần, bảo với anh ta: “Cậu ơi! Cậu vừa hết mù, nhưng cậu vẫn chưa biết gì cả. Tại sao quá tự phụ như thế? Cũng như khi cậu ở trong phòng và tầm mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây, tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường, thấy được nhiều vật xa hơn, nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai của cậu, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm sao mà nghe thấy được. Cậu có thấy những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát ở sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: Tôi thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.

Xét về phương diện nào đó thì mọi người chúng ta đều mắc bệnh mù, nhất là về phương diện tâm linh.

 2. Cách thức Chúa chữa anh mù tại Bethsaiđa thật đặc biệt: thay vì phán một lời hoặc làm một việc gì đó để phép lạ xảy ra, Chúa Giêsu lại đưa anh ra khỏi làng, Ngài bôi nước miếng vào mắt anh, Ngài đặt tay trên mắt anh và mắt anh mù được sáng lại.

Chúng ta thấy Chúa không chữa ngay cho anh mù, nhưng Chúa cho anh được thấy từ từ.

Báo Tuổi trẻ, số 144/91, ngày 7.12.91, tr.6 có đăng một câu chuyện với tựa đề “Nhân vật năm 91 của nước Anh”

Câu chuyện có liên quan đến một cô gái tên là Yuen Har Tsé, một cô gái mù người Trung quốc. Năm lên hai tuổi, Yuen đến nước Anh. Hơn 20 năm sau, cả nước Anh đã phải sửng sốt trước người con gái phương Đông này. Cô đã tốt nghiệp kỹ sư với số điểm cao nhất. Bất chấp tình trạng tật nguyền của Yuen, hãng Rolls-Royce nổi tiếng thế giới đã mời chị phụ trách một khâu quan trọng của hãng: vẽ bản thiết kế các bộ phận bên trong của máy. Công trình đầu tiên của Yuen là thiết kế động cơ nổ cho chiếc trực thăng quân sự mang tên “Con Hổ” sắp đưa vào sử dụng ở Châu Âu thời đó.

Ở vị trí này, công việc của Yuen đòi hỏi tính chính xác cao, nhưng chị đã hoàn thành xuất sắc các đồ án của mình, hoàn hảo đến từng chi tiết nhỏ.

Hiện nay, Yuen có thể phân biệt những hình thể lờ mờ qua một màn ảnh bằng kính lúp và vẽ bằng một loại mực nổi. Để phác thảo những bản vẽ, những đồ án trên từng milimét, Yuen đã phải tập trung cao độ, phải nhìn thấy sự vật bằng tâm trí.

Để tưởng thưởng cho một người công dân xuất sắc này, chính công nương Diana, đại diện hoàng gia Anh đã trao tặng cho Yuen Har Tsé, một cô gái mù danh hiệu “Người phụ nữ năm 1991”, một trong những danh hiệu cao quí nhất của nước Anh.

Vâng, sự kiên trì đã giúp người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thành công. Sự kiên trì cũng đã giúp người con gái mù thành đạt được những ước vọng cao quí nhất của cuộc đời mình.

Xin Chúa cho chúng ta kiên trì trên con đường tập luyện cho đôi mắt được sáng ra, hầu có thể nhận ra được những hồng ân Chúa ban tặng mỗi ngày. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa chữa người mù


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa cầm tay người mù và dắt ra ngoài khỏi làng. Chúa phun nước miếng vào mắt anh ta và đặt tay trên anh và hỏi: “Ngươi có thấy gì không? “Anh ta nhìn lên và trả lời “Con thấy người ta, như những cây cối đang đi” (Mc 8, 22 – 23). Dường như khi đọc đến đây, đã gợi lại trong chúng ta những hình ảnh của buổi đầu sơ khai Thiên Chúa tạo dựng con người chúng ta. Thời ấy, vũ trụ trống không mông quạnh, Thiên Chúa lấy bùn đất, Thiên Chúa nhào nắn, nặn thành con người chúng ta, lúc đó con người chúng ta chưa có sự sống, nó như một cái xác bất động, và rồi Chúa thổi hơi phú linh hồn vào thì con người mới có được sự sống như ngày hôm nay (xSt 1, 2). Chúa phun nước miếng và đặt tay lần thứ nhất, lúc đó chưa có kết quả gì, mới chỉ là khởi đầu của công trình tác tạo mới. Lần thứ hai Chúa đặt tay thì anh ta mới thấy được rõ ràng như một người khỏe mạnh bình thường: “Chúa là đặt tay trên mặt anh mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, và thấy được mọi vật rõ ràng” (Mc 8, 24 – 25). Đây là kết quả của công trình tạo dựng mới của Chúa.

Qua phép lạ chữa lành cho người mù, chúng ta thấy Chúa là nguồn gốc của sự sống, là Đấng ban phát sự sống, phục hồi sự sống, trả lại những gì mà con người chúng ta đã làm hư họa do tội lỗi con người chúng ta đã phạm, đã gây nên. Do đó, phúc cho chúng ta là chúng ta được làm con Chúa, được ở trong nhà Chúa, ở trong Giáo Hội của Chúa để Chúa yêu thương bảo vệ, gìn giữ chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn luôn sống đạo đức, kèm chế miệng lưỡi, tính nóng nảy, giận hờn, khử trừ mọi thứ dơ bẩn và lòng chất chứa những gian ác, hiềm khích, lừa dối, luôn mở rộng tâm hồn để lời Chúa đi vào trong cuộc đời của chúng ta để rồi chúng ta biết dùng miệng lưỡi mà ca ngợi Chúa, đồng thời biết làm nhiều điều tốt lành có lợi cho anh chị em của chúng ta, mang hạnh phúc cho anh chị em của chúng ta.

Chúa chữa anh xong, Chúa bảo anh về nhà. Ai trong chúng ta cũng có một ngôi nhà để ở. Ngôi nhà là nơi chúng ta đi về mỗi khi chúng ta gặp gian nan thử thách và mệt mỏi khi tiếp xúc với đời. Anh về nhà đi, nghĩa là bao năm tháng bị bệnh, anh sống xa gia đình, xa mặt cách lòng, mọi người cũng không dám tiếp xúc anh, vì anh bị bệnh mù lòa là do tội, con người anh không thanh sạch, con người của anh bẩn thỉu, dơ nhớp làm ảnh hưởng đến người khác, cho nên mọi người xa tránh. Giờ này, anh đã hết bị bệnh mù lòa rồi, Chúa bảo anh về nhà, về nơi anh được sinh ra, về với tình yêu gia đình, về nơi anh nương tựa trong cuộc đời mà bao năm anh mới mơ quay về nhưng không được vì bệnh của mình. Và khi anh về nhà, đi vào làng, anh đừng nói cho ai biết. Qua đó, chúng ta thấy Chúa muốn anh anh về với gia đình, sống với gia đình trước, và nền tảng gia đình vẫn là quan trọng hơn hết trong giờ phút này, để rồi từ đó nó mới là đòn bẩy để thực hiện sứ mạng rao giảng lời Chúa cho người khác.

Lạy Chúa, tất cả chúng con đang ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, tới khi Chúa xót thương chút thân phận chúng con. Thân phận chúng con như bèo dạt mây trôi, như bồ nông miền sa mạc, kêu gào hoài mà chẳng ai hay biết, nên chúng con không chỗ để được nương tựa. Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết thương yêu anh chị em của chúng con, nhất là những anh chị em bệnh tật, rủi ro, hoạn nạn, thiếu thốn, nợ nần bằng cách giúp đỡ, chia sẻ, ủi an, không làm điều bất lợi cho anh chị em của chúng con. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Niềm hy vọng đích thực


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 6 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin Chúa tuôn đổ hồng ân, giúp chúng ta ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, bằng cách cảnh giác trước lời dụ dỗ của Mụ Điên, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Châm Ngôn cho thấy: Đức Khôn Ngoan kêu gọi: Hãy bỏ tính ngây thơ khờ dại. Không phải chỉ khuyên nhủ và giáo dục thôi, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa còn dọn cho con người một bữa tiệc, Mụ Điên lại muốn con người lơ đi bữa tiệc này, mụ bày ra những thức ăn chỉ gạt gẫm người ta thay vì nuôi sống. Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi mời quan khách đến. Vì cỗ bàn đã sẵn, hãy đến mà ăn bánh của tôi và uống rượu do tôi pha chế.

Trở nên đền thờ của Chúa, bằng cách mau mắn đến dự bữa tiệc của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Đức Cha Pơrơcôpiô nói: Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã chế rượu và dọn tiệc cho chúng ta… Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, và chế rượu dọn bàn. Hãy đến mà ăn bánh của tôi và uống rượu do tôi pha chế. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.

Trở nên đền thờ của Chúa, bằng cách nhận ra và đáp lại tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại: Ông Nôê dỡ mái tàu ra và thấy mặt đất đã khô ráo. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 115, vịnh gia cho thấy: Lạy Chúa, con sẽ dâng lễ tế tạ ơn Ngài. Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Xin Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta.

Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại: Anh mù khỏi hẳn và thấy tỏ tường mọi sự. Cần có ơn Chúa soi trí mở lòng, chúng ta mới thấy rõ đâu là niềm hy vọng đích thực của chúng ta. Anh mù đã được Đức Giêsu chữa khỏi bệnh để nhìn thấy tỏ tường mọi sự. Chúng ta thường bị mù tối trước những lời dụ dỗ đường mật của Mụ Điên, khiến chúng ta đến dự bữa tiệc của mụ, mà khước từ bữa tiệc của Đức Khôn Ngoan. Ông Noê và gia đình đã được cứu sống, khi ông không để cho mình và gia đình mình nghe theo tiếng gọi của thế gian. Ông đã nhìn thấy rõ tình yêu và lòng thương xót của Chúa và đã dâng hy lễ tạ ơn. Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình và dựng bảy cây cột, chúng ta là ngôi nhà, là đền thờ của Thiên Chúa, được uốn nắn theo hình ảnh Đức Kitô, được Đức Khôn Ngoan ban cho bảy ơn Thánh Thần, để có thể tin vào Đức Kitô và giữ các điều răn của Người. Nhờ các ơn đó, khi chúng ta càng hiểu biết, thì càng ham tập tành nhân đức, và ngược lại, càng nhân đức thì càng biểu lộ sự hiểu biết, và một khi được củng cố vững chắc trong đời sống siêu nhiên, nhờ đức tin hoàn hảo, chúng ta đạt tới mức thiện toàn. Đức Khôn Ngoan chế rượu trong chén và dọn bàn ăn. Trong Đức Kitô, chén cứu độ: có pha lẫn thần tính và nhân tính, Đức Khôn Ngoan đã kết hợp: sự hiểu biết vạn vật, với, sự hiểu biết Đức Khôn Ngoan, là Đấng tác thành vạn vật. Sự hiểu biết đó làm cho trí khôn của ta say, như say rượu: say những sự thuộc về Thiên Chúa. Ước gì chúng ta biết chạy đến với Đức Giêsu, để Người chữa lành đôi mắt mù lòa của chúng ta, hầu, chúng ta được soi trí mở lòng, nhìn thấy rõ đâu là niềm hy vọng đích thực, để chúng ta mau mắn đến dự bữa tiệc mà Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta. Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, ước gì chúng ta biết ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 5:

Tuyên xưng của Phêrô.
20/02 – Thứ Năm tuần 6 thường niên.
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".

 

Lời Chúa: Mc 8, 27-33


Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô".
Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tư tưởng của loài người


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Không rõ tại sao Thầy Giêsu lại chọn lúc đi đường với các môn đệ
lên vùng cao phía bắc xứ Paléttin, gần chân núi Khécmôn,
để thăm dò xem dân chúng nghĩ Thầy là ai.
Quan trọng hơn, Thầy muốn biết các môn đệ nghĩ gì về Thầy:
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Thầy Giêsu đã sống bên các môn đệ từ mấy năm qua.
Họ đã được gọi, được chọn, được theo,
đã được thấy, được nghe, được chạm đến.
Bao nhiêu là kinh nghiệm gần gũi!
Nhưng Thầy Giêsu chẳng nói rõ cho họ biết mình là ai.
bây giờ Thầy lại đặt câu hỏi cho họ.
Ông Phêrô đại diện cho anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.”
Đấng Kitô là Đấng Mêsia, Đấng được Thiên Chúa xức dầu thánh hiến.
Vì thế người ta thường coi Ngài là Đấng giải phóng hùng mạnh.
Nhiều người Do Thái mong Đấng Kitô đến
để đánh đuổi quân Rôma và đem lại thái bình cho đất nước.
Câu trả lời của Phêrô cơ bản là đúng.
Thầy đúng là Mêsia, nhưng lại không phải là Mêsia như Phêrô nghĩ.
Bởi lẽ Thầy là một Mêsia phải chịu nhục nhã và thất bại,
chịu mang thân phận đau khổ của Người Tôi Trung (Is 52-53).
Để vào ánh sáng, Thầy phải vượt qua bóng tối của hố thẳm.
Dù sao câu trả lời của Phêrô đã mở ra một giai đoạn mới.
Từ nay Thầy sẽ chia sẻ nhiều hơn cho các ông về định mệnh tương lai.
Thầy sẽ nói rõ chứ không nói bóng gió bằng dụ ngôn nữa (c. 32).
Thầy Giêsu biết rõ đau khổ và cái chết đang đe dọa mình
đến từ phía các nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng Thầy cũng tin rằng Cha ở với Thầy và sẽ không bao giờ bỏ Thầy.
Lần đầu tiên Thầy chia sẻ cho môn đệ chuyện riêng tư,
niềm đau và hy vọng, cái chết sắp đến và niềm tin vào sự sống lại,
dù chắc Thầy đã không nói nguyên văn như ta thấy ở câu 31.
Phêrô không thể chấp nhận được định mệnh mà Thầy mới gợi lên (c. 32).
Ông không hiểu được chuyện Đấng Kitô mà phải chịu khổ đau, nhục nhã.
Ông không biết rằng chữ phải ấy đến từ Thiên Chúa,
và thất bại cũng như cái chết có chỗ trong chương trình của Ngài.
Phêrô thương Thầy, và tình thương lại trở thành một cám dỗ lớn.
Ông muốn Thầy đổi ý, ông muốn đi trước dẫn đường cho Thầy.
Thầy Giêsu đòi ông trở lại đằng sau, đi sau Thầy như môn đệ (c.33).
Chúng ta cũng sợ như Phêrô, sợ cùng với Thầy Giêsu đi con đường hẹp.
Chúng ta cũng dễ nghĩ theo kiểu người phàm,
chứ không nghĩ theo kiểu Thiên Chúa (c. 33).
Xin được uốn lối nghĩ khôn ngoan của mình
theo sự điên dại của Thiên Chúa (1 Cr 1, 25).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Tư tưởng của Thiên Chúa


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau cơn đại hồng thuỷ, Chúa xót xa khi thấy con người bị tiêu diệt, cỏ cây và súc vật biến mất khỏi địa cầu. Cả một cảnh tượng tang thương chết chóc. Chúa chạnh lòng thương. Nên ra lệnh bảo vệ vũ trụ. Truyền con người phải sinh sản cho lan tràn trên mặt đất. Cấm đổ máu con người. và thật cảm động. Chúa ký kết giao ước với cả vũ trụ. Không chỉ với con người. Mà còn với cả súc vật cỏ cây. “Đây ta lập giao ước của Ta với các ngươi, vói dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tầu đi ra, kể cả dã thú”. Ký kết chưa đủ. Chúa còn thề hứa: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau…” (năm lẻ).

Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lên đến cực điểm. Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa không trừng phạt con người khi con người tội lỗi. Nhưng lại sai chính Con Một xuống trần chết thay cho loài người. Đền tội con người. Cứu sống con người. Ôi lòng Thiên Chúa bao la ai nào hiểu thấu! Tình thương yêu của Thiên Chúa cao sâu ai nào dò thấu!. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt mọi hiểu biết, tính toán, lô-gích của con người. Để bảo vệ sự sống của con người. Con Chúa phải chịu chết. Để cứu sống con người, Con Chúa phải chịu trừng phạt. Vì thế Phê-rô khuyên can liền bị Chúa trách mắng nặng lời: “Xa-tan! Lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Theien Chúa, mà là của loài người”.

Vì Thiên Chúa quá yêu thương mọi người. Yêu thương cả súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải có tấm lòng của Chúa. Yêu thương mọi người mọi vật. Vì Thiên Chúa trân trọng sự sống của cả con người lẫn súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải trân trọng con người. Không phân biệt giầu nghèo. Vì ‘Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giầu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (năm chẵn).

Xin cho con có tấm lòng của Chúa. Để con yêu thương mọi người, kính trọng mọi người. Trân trọng cả thiên nhiên, súc vật, cỏ cây. Xin cho con có tư tưởng của Chúa. Để con đi vào con đường của Chúa. Hiến thân. Phục vụ. Quên mình.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ngài là Ðức Kitô


Ðoạn Tin Mừng hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín tại địa hạt Cêrarê thuộc quyền Philip.

Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbi Do thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài: người thì bảo là Gioan Tẩy giả đã sống lại, kẻ thì cho là Êlia hay một Tiên tri nào đó. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng về con người và sứ mệnh của Ngài: cứ sau mỗi phép lạ, Ngài thường bảo kẻ được thi ân giữ kín tông tích của Ngài.

Nhưng đã đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy, Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: "Ngài là Ðức Kitô", nghĩa là Ðấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ của ông, thì Ðức Kitô mà các ông mong đợi là Ðấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Ðức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập giá của Ngài, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập giá; vì thế, khi Phêrô vừa can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là Satan.

Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại. Ðấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài, Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình; tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập gía mỗi ngày mà theo Ta". Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong những hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm Thập giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ảy mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thập giá mình. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một thập giá nặng hơn đôi vai chúng ta.

Có rất nhiều cách để chúng ta khước từ thập giá: chúng ta từ khước thập giá bằng cách không tiếp nhận cuộc sống như một ân ban; chúng ta khước từ thập giá khi chúng ta chỉ nhìn một cách bi quan về các biến cố và con người; khi chúng ta bán đứng lương tâm vì một chút lợi lộc vật chất; khi chúng ta đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ, trong bốn bức tường nhà thờ, mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng giây phút của cuộc sống.

Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có một Chúa Kitô và là Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập giá". Ước gì niềm tin của chúng ta luôn được soi sáng bằng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, và được thể hiện bằng một thái độ chấp nhận thập giá trong từng giây phút cuộc đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Một cuộc thăm dò dư luận “bỏ túi”


Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc. 8, 28-29)

Chuyến đi truyền giáo của Chúa Giêsu gần tới giai đoạn chót. Trong hai năm, Người đã rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Giờ đây, Người muốn kiểm điểm một chút ảnh hưởng hoạt động của Người tới đâu, đồng thời tìm biết quần chúng có dư luận thế nào về Người. Đây là thời điểm quan trọng để Người có thái độ và lập trường mới, bởi lẽ từ trước đến nay, Người vẫn giữ kín và bắt người ta giữ kín không cho ai biết Người là ai. Một mình với các môn đệ, Người liền hỏi các ông: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là Ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Tuy ý kiến khác nhau, nhưng dư luận nói chung đều đồng ý coi Người là một người có sứ mạng của Thiên Chúa. Điều này không thể bị coi thường: quần chúng xếp Người vào hàng những bậc vĩ nhân của lịch sử, là một sứ giả của Thiên Chúa loan báo Đấng Mê-si-a sẽ đến.

Chúa Giêsu muốn đẩy cuộc thăm dò của Người đi xa hơn nữa. Nói lại điều người khác nghĩ thì dễ. Như thế có lẽ là một lối tránh né, một cách che dấu tư tưởng riêng của mình, một cách không muốn dấn thân. Người liền hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời thay cho tất cả: “Thầy là Đấng Kitô”. Vậy là cuộc sống chung của các ông với Chúa Giêsu đã sinh hoa kết trái.

Bộ Thầy “muốn dỡn mặt!”

Các môn đệ đã diễn tả các ông nhận định về Chúa Giêsu như thế nào. Còn Chúa Giêsu lại muốn dẫn các ông đi xa hơn vào mầu nhiệm bản thân Người. Người sắp nói cho các ông hay Người ý thức về chính mình như thế nào: phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết, rồi được sống lại. Người không phải là Đấng Thiên sai mang tính cách chính trị, có nhiệm vụ giải phóng và giành lại nền độc lập cho dân tộc, nhưng là một người tôi tớ đau khổ. Phêrô thấy quá quắt, không chịu nổi rồi. Ông cho Chúa Giêsu là con người suy nhược và quá bi quan. Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách móc: “Bộ Thầy muốn dỡn mặt!”. Lời nói này của Phêrô chứng tỏ nhiều về tình thầy trò thân mật, tính bình dị và cởi mở của Chúa Giêsu. Phêrô tin mình có quyền trách móc Thầy mình. Tới nước này, Chúa Giêsu không thể nhân nhượng được nữa, Người liền nặng lời khiển trách ông: “Satan, lui lại đằng sau Thầy!” Với tư cách là môn đệ, Phêrô đi theo Chúa Giêsu, phải ở vị trí đứng đàng sau Người, nhưng ở đây, ông đã muốn rời chỗ đó, trèo lên đàng trước làm vai trò người chỉ huy. Có nghĩa là ông đã không đi theo Người mà đã đi vào con đường khác với ý của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa coi ông như Satan là kẻ gây cản trở cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Cả chúng ta nữa, Chúa Kitô đều đặt cho chúng ta một câu hỏi quan trọng: Phần con, con bảo Thầy là ai? Thầy có quan trọng đối với con không? Quan trọng không phải chỉ trong suy nghĩ cúa con, mà cũng cả trong đời sống của con nữa? Lời của Ta có được con tuyệt đối tham khảo để biết và thực hành không? Cách chúng ta trả lời những câu hỏi này, sẽ chỉ cho ta biết những ý nghĩ của ta có phải là ý và đường lối của Chúa không.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Cần xác lập mối tương quan cá vị


Trong nghi thức Thánh Tẩy cho người lớn, Giáo Hội mời gọi đương sự tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài cách xác quyết. Chính trong niềm tin mạnh mẽ như thế, mà người anh chị em của chúng ta được gia nhập Giáo Hội của Đức Giêsu để được sự sống đời đời.

Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một cuộc tuyên tín cá vị được diễn ra tại địa hạt Cêsarê thuộc quyền Philiphê.

Khởi đi từ việc dân chúng có nhiều nhận định về Đức Giêsu sau khi đã chứng kiến những lời giảng dạy khôn ngoan và quyền năng cũng như những phép lạ cả thể Ngài đã làm.

Thấy vậy, Đức Giêsu muốn làm một bài trắc nghiệm các môn đệ về nhận định của dân chúng về Ngài, Ngài hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các ông nhanh nhảu trả lời rằng: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Đức Giêsu đã bất ngờ hỏi trực diện các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Quá ngỡ ngàng vì không ai nghĩ Đức Giêsu lại hỏi cụ thể như thế! Tuy nhiên, đây là điều cần thiết trong cuộc đời môn đệ, bởi nếu không có niềm xác tín mạnh mẽ, cá vị vào Đấng mà họ tin theo thì e rằng họ sẽ chạy theo hiệu ứng đám đông và đặt ra cho mình những lợi lộc thực dụng thấp hèn.

Phêrô đã thay lời anh em tuyên xưng cách xác quyết: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên tín xác định căn tính Thiên Sai của Ngài. Tuy nhiên, Phêrô và các môn đệ khác cũng chỉ hiểu theo nghĩa giải phóng chính trị mà không để ý hay không hiểu sứ vụ cứu chuộc của Thầy mình, nên ngay lập tức, Đức Giêsu cấm các ông không được loan báo điều này cho ai.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tín niềm tin của mình vào Chúa như thánh Phêrô và can đảm đi theo Đức Giêsu khi sẵn sàng trở nên môn đệ trung tín của Ngài.

Dù có gặp phải khó khăn, thử thách và những trào lưu dễ dãi, giảm thiêng và thượng tục, chúng ta vẫn vững tin và trung thành với sứ vụ

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khi đã tin theo Chúa thì cũng sẵn sàng và trung thành đi đến cùng con đường mà Chúa đã mời gọi chúng con đi theo. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tuyên xưng về Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa hỏi chúng ta cũng như đã hỏi các tông đồ: “Anh em bảo Thầy là ai?”. Mỗi người phải tự trả lời cho Chúa. Ước gì ta nói lên lời tuyên xưng chính xác như thánh Phêrô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ở thời nào cũng có những người hiểu Chúa một cách mơ hồ, và đôi khi còn hiểu cách lệch lạc nữa. Mỗi người nói một kiểu, nhưng chẳng ai nói đúng sự thật về Chúa cả. Chỉ có mình thánh Phêrô là người đã theo Chúa, được sống với Chúa bao tháng ngày, và là người có đức tin mạnh mẽ, nên mới nói được Chúa là Đức Kitô.

Còn con, con cũng theo Chúa bao nhiêu tháng ngày, con cũng có những kinh nghiệm sống với Chúa. Thế mà con lại biết Chúa cách sơ sài nông cạn. Con chưa xác tín Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Con chưa thể cảm nghiệm được chân lý ấy trong sâu thẳm của lòng con, chưa để cho chân lý ấy thấm nhuần vào toàn thể đời sống con. Hôm nay, một lần nữa Chúa hỏi con: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”.

Vâng, lạy Chúa Giêsu, Chúa thật là Đức Kitô. Không những con tuyên xưng điều ấy nơi môi miệng, mà hơn nữa con tuyên xưng cả trong cuộc sống, lúc vui tươi nhàn hạ và cả những lúc vất vả khổ đau. Xin thêm đức tin cho con, để con tuyên xưng Chúa cho những người khác: cho những người chưa nhận biết Chúa, những người hiểu Chúa cách mơ hồ, những người hiểu Chúa cách sai lạc, và ngay cả những người chống đối Chúa nữa.

Lạy Chúa, như thánh Phêrô, con vẫn chưa hiểu hết sứ mạng đau khổ của Chúa. Xin Chúa cho con được hiểu biết Chúa mỗi ngày một đầy đủ chính xác hơn. Xin Chúa giúp con thay đổi nếp suy nghĩ của con bằng những tư tưởng của Chúa, để con bước theo Chúa trên con đường khổ đau, và nhờ đó con đạt đến ơn cứu độ. Amen.

Ghi nhớ: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Lavallière Lepaux là một thành viên Thượng Hội đồng Quốc gia Pháp, rất ghét đạo Công giáo và luôn tìm cách công kích. Ông lập một đạo mang tính trí thức mới bao gồm những triết thuyết có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học thức, có huấn luyện, đào tạo mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học mà cả thế giới theo ông?”

Barras trả lời: “Thưa ngài, nếu ngài muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ngài để cho người ta đóng đinh ngài vào ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật ngài cố sống lại đi”.

Suy niệm

Chúa Kitô đã đi vào cõi chết và phục sinh khải hoàn như Ngài đã loan báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Lời tiên báo cuộc thương khó với thập giá, sự chết và phục sinh ngay sau khi lời giải đáp về sự việc dân chúng nhìn nhận Ngài là ai. Trong khi dân chúng nghe lời Ngài giảng dạy cùng với việc chứng kiến phép lạ phi thường. Họ coi Đức Giêsu chỉ là một ngôn sứ có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Êlia hay một tiên tri nào đó.

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” khi họ đã ở với Ngài đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14). Nhóm Mười hai mà thánh Phêrô đứng đầu trả lời: “Thầy là Đấng “Christos” nghĩa là Kitô”, “Mêssia” trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng mà mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”, được các ngôn sứ đã báo trước.

Dù tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Đấng Mêssia, Phêrô chưa hiểu hết được mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong sứ mạng Mêssia. Theo ông, Đấng Mêssia phải vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do Thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu. Cho nên, với Phêrô, Đức Kitô phải được tôn vinh như: Thiên Chúa hùng mạnh, danh Ngài lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (x. Tv 11; Tv 12). Chính vì thế, không thể có việc Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã như Thầy vừa loan báo, nên Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: “Satan! đi!”. Vì tư tưởng của Phêrô không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Qua việc sửa trị Phêrô, Chúa Giêsu muốn những suy tưởng viển vông, thụ động của con người cần phải được dẹp bỏ và thanh tẩy trong mầu nhiệm cứu độ.

Đấng Kitô đối diện với thập giá, trên thập giá, Ngài chấp nhận chết để tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, đó là hy sinh vô bờ bến để cứu chuộc nhân loại: “không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chính vì thế, Đấng hy sinh trên thập tự đã làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa được cứu độ.

Xin cho chúng ta ý thức được mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống của chúng ta.

Ý lực sống: “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô,

mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”(1Cr 2,2).

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Đức Giêsu là ai vậy?


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Khi đi đến làng Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu hỏi các tông đồ xem dân chúng cho Ngài là ai. Các ông thưa dễ dàng: người ta cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hay một tiên tri nào đó. Nhưng khi Ngài hỏi chính các ông cho Ngài là ai, thì Phêrô đã nhanh nhảu tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô”. Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô, lời tuyên xưng này rất đúng. Nhưng người ta có thể hiểu sai về sứ mệnh chân chính của Ngài. Họ hiểu sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu theo nghĩa chính trị: giải phóng đất nước, dành lại tự do cho dân tộc. Vì thế, ngay sau khi ông Phêrô tuyên tín, Ngài liền báo cho họ con đường Thương Khó và Phục sinh của Ngài.

2. Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta. Câu hỏi đã được đặt ra  không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách... nói về Chúa Giêsu.

3. Theo dư luận quần chúng.

Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai”? Các ông đáp liền: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó” (Mc 8,28).

Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả... Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

4. Theo ý kiến các môn đệ.

Đức Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bỏ Thầy là ai”? Ông Phêrô đã nhanh nhảu trả lời ngay: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8,29).

Tước vị “Christos”, “Messiah” trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”. Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho con người một ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, thịnh vượng hơn thời Salômôn.

5. Theo tiết lộ của Đức Giêsu.

Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: “Thầy là Đức Kitô”, thì Đức Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan niệm của Thiên Chúa. Đức Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Đấng Kitô theo hình ảnh của người tôi tớ Giavê như được nhắc đến trong sách tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Đấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Giavê và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra  phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ.

Phêrô đã đại diện các tông đồ để tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô”, nhưng chỉ tiếc  liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Đức Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô (Mỗi ngày một tin vui).

6. Truyện: Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.

Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras:

- Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?

Ông Barras trả lời:

- Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày chủ nhật, đồng chí cố sống lại đi.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Câu hỏi về Chúa Giêsu


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:

a/ Chúa Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: "Thầy là Đức Kitô".

b/ Sau đó Chúa Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Satan.

B.... nẩy mầm.

1. "Người ta nói thầy là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu muốn những kẻ tin Ngài phải có một suy nghĩ riêng về Ngài. Người ta nói Ngài là một Đấng hay làm phép lạ, tôi cũng nghĩ theo họ và chạy đến với Ngài để xin phép lạ. Người ta nói Ngài chỉ biết dạy những điều siêu nhiên xa vời nhưng không thể làm cho cuộc sống đời này được hạnh phúc, tôi nghe thế và đức tin bị chao đảo theo. Không, tôi không nên dựa theo dư luận, mà phải có một suy nghĩ riêng của mình và một lập trường riêng của mình. Theo tôi, Chúa Giêsu là ai? Ngài có vai trò nào trong đời tôi?

2. "Con Người phải chịu đau khổ nhiều….." Chúa Giêsu mà tôi tin tưởng là một Chúa Giêsu đi trên con đường thập giá. Tin Ngài thì tôi cũng phải theo Ngài trên con đường thập giá ấy.

"Lạy Chúa, xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi".

3. Phêrô vừa mới được ơn trên soi sáng cho biết Chúa Giêsu là Đức Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ Kitô như thế nào, do đó ông lên tiếng ngăn cản Ngài bước vào con đường thập giá. Điều này có thể thông cảm được. Nhưng tôi đã được biết Đức Kitô từ lâu, thế mà tôi vẫn không chấp nhận con đường thập giá. Tôi nói tôi tôn thờ thập giá nhưng tôi than thở khi phải vác thập giá. Tôi nói tôi theo Đức Kitô, nhưng tôi muốn dừng chân khi Ngài bắt đầu dẫn tôi lên Núi Sọ.

4. "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ lão, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau 3 ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31)

Anh ấy đến với tôi, ồn ào, kiêu hãnh. Và tôi đã thực sự bị chinh phục bởi sự phong lưu sang trọng của anh. Chiều thứ bảy, anh đón tôi đi chơi. Ngồi bên nhau trong quán nước quen thuộc, chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn từng giọt mưa đang rơi nhanh ngoài phố. Một đứa bé ăn xin rách rưới và ướt sũng đến bên anh, chìa đôi tay tím ngắt run rẩy ra trước mặt anh. Anh thản nhiên lắc đầu. Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của đứa bé khuất dần sau làn mưa, tôi chợt nghe như có một cái gì đó đang đổ vỡ trong tâm hồn mình.

Thiên Chúa đến với ta, âm thầm, lặng lẽ, nghèo hèn, giản dị, nhưng chan chứa tình thương. Tôi và các bạn có sẵn sàng đón nhận Người hay còn chờ đợi một Thiên Chúa khác, oai nghi và quyền quý, để rồi lại chợt thấy ngỡ ngàng và hụt hẫng như tôi.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được mầu nhiệm Thánh giá như nhạc sĩ Văn Cao đã hiểu và nói: "Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá. Ngài không có gì nhưng lại có tất cả" (Epphata).

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Tuyên tín về Chúa Giêsu


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Đoạn Tin Mừng hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín tại địa hạt Cêsarê thuộc quyền Philipphê.

1. Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbit Do Thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng.

Nhưng rồi đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy. Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8,29), nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và theo giấc mơ của các ông, thì Đức Kitô mà các ông mong đợi là Đấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã cản ngăn Ngài. Tuyên xưng một Đức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập Giá của Ngài, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập Giá; vì thế khi Phêrô vừa cản ngăn Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập Giá, Chúa đã gọi Phêrô là Satan.

2. Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại. Đấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập Giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài.

Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mỗi ngày mà theo Ta” (Mt 16,24). Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chúa không bảo chúng ta đi tìm Thập Giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ải mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy Thập Giá mình. Mỗi người một Thập Giá, mỗi ngày một Thập Giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một Thập Giá nặng hơn đôi vai của chúng ta.

Truyền thuyết thuật lại rằng, một trong ba nhà đạo sĩ gặp được Chúa ở Bêlem lúc Chúa sinh ra khi về già lại tìm đến Nước Do Thái xem cậu bé năm nào bây giờ ra sao.

Tại Jêrusalem, những vị kỳ lão vẫn còn nhớ đến ngôi sao lạ, nhưng hỏi ra thì không ai còn biết gì đến em bé được sinh hạ dưới ánh sao đó là ai. Ông lại tìm đến Bêlem. Khi hỏi về tông tích của cậu bé thì mọi người đều lắc đầu, ngoại trừ có một cụ già. Cụ bảo ông:

- Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nazareth, một người nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử án thập hình rồi.

Với tâm hồn đầy thất vọng, vị đạo sĩ già nhập đoàn với những khách hành hương trở lại Jêrusalem vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần. Chen lẫn vào đoàn người đang tạ ơn sau mùa gặt, vị đạo sĩ chú ý đến những người đang vây quanh một nhóm người. Tò mò, ông tiến gần và nghe có kẻ nói:

- Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm phào

Nhưng rồi ông lại nghe thấy một người trong nhóm nói về ông Giêsu Nazareth đã bị đóng đinh trên Thập Giá và đã được Thiên Chúa Phục Sinh từ cõi chết.

Như bị thúc đẩy bởi sức mạnh vô hình, vị đạo sĩ già lên tiếng hỏi:

- Vậy bây giờ ông Giêsu ấy ở đâu?

Đại diện nhóm người là Simon Phêrô trả lời:

- Ngài đang ở giữa chúng tôi, ở trong chúng tôi, chúng tôi là tai mắt, môi miệng của Ngài.

Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió mạnh, và hình lưỡi lửa một lần nữa đổ tràn xuống mọi người. Vị đạo sĩ bỗng thấy lại ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia thành nhiều ánh sao khác rơi xuống từng người. Trong tâm hồn, nhà vua chợt hiểu: mỗi người phải trở thành hang Bêlem, mỗi người phải trở nên máng cỏ cho Hài Nhi Giêsu nằm, mỗi người phải mang Ngài đến cho người khác.

Chúa đã chết và đã Phục Sinh. Ngài đã phải kinh qua Thập Giá rồi mới bước vào cõi vinh quang. Tin Chúa Giêsu hôm nay cũng là đi theo con đường của Ngài. Và mỗi ngày chúng ta phải trở nên tai mắt, môi miệng của Đức Kitô, để Tin Mừng của Ngài được đến với mọi người.

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner).

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa là Con Thiên Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa đến trần gian, Chúa sống với chúng ta, các lời rao giảng Tin Mừng cũng như các việc làm phép lạ chữa lành bệnh hoạn tật nguyền ốm đau, cả những người bị quỷ ám được lành mạnh, để rồi qua đó, con người chúng ta chỉ biết Chúa là một con người nổi tiếng về từ tâm, nhân ái, cho nên khi Chúa hỏi các tông đồ về đân chúng cho Chúa là ai. Sở dĩ Chúa hỏi các tông đồ như vậy là vì các ngài sống gần gũi với dân chúng, với bà con thân thuộc, họ hàng, bạn bè thân quen và tất cả mọi người khi các ngài tiếp xúc, nói chuyện trong cuộc sống hàng ngày, để rồi khi các ngài nghe họ nói về Chúa, dư luận về Chúa và các ngài trả lời cho Chúa biết những suy nghĩ của họ về Chúa là một người như thế nào: “Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: Người ta bảo Thầy là ai? Các ông đáp lại rằng: Thưa là Gioan Tẩy Giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri” (Mc 8, 27 – 28). Chúa hỏi như vậy không phải là để Chúa thăm dò dư luận và rồi chỉnh đốn lối sống của Chúa cho phù hợp với những đồn đãi về Chúa. Chẳng hạn nếu như người ta bảo Chúa nóng tính thì Chúa phải hiền lành lại, hoặc là người ta nói Chúa hay ăn nhậu với người tội lỗi, quân thu thuế thì Chúa sẽ xa lánh người tội lỗi, quân thu thuế đi và không được làm như vậy nữa….Không phải như thế đâu, vì Chúa là Đấng thánh vô cùng rồi, nơi Chúa không hề có tội lỗi gì cả. Như vậy, chẳng qua Chúa muốn các tông đồ hãy sống chan hòa, thân cận với tất cả mọi người, vì tất cả là anh chị em với nhau trong gia đình của Chúa để rồi hãy lắng nghe tâm tư của họ về Chúa, để cảm thông, chia sẻ, rao giảng Lời Chúa trong môi trường mình sống. Ngày hôm nay là người trần gian suy nghĩ gì về Chúa, về Giáo Hội của Chúa, về các chủ chăn trong Giáo Hội…. Và rồi khi họ suy nghĩ còn chưa sâu, còn nông cạn về Chúa, về Giáo Hội thì chúng ta là con cái Chúa, phải biết giúp đỡ anh chị em mình hiểu sâu sắc về Chúa, về Giáo Hội hơn để rồi họ sống tốt hơn, vì vô tri thì bất ngộ.

Nhưng muốn giúp anh chị em chúng ta hiểu về Chúa cách sâu sắc thì trước tiên, chúng ta phải biết Chúa là ai, chúng ta sống với Chúa trước đã, rồi chúng ta mới có kinh nghiệm về Chúa, mới có thề thông truyền cho anh chị em của chúng ta được. Giả sử chúng ta thường xuyên đi lễ, đọc kinh cầu nguyện thì chúng ta mới giúp anh chị em chúng ta cố gắng sắp xếp công việc để đi lễ, để kinh nguyện trong gia đình, hoặc là chúng ta thường hy sinh giúp người khốn khó thì chúng ta mời kêu mời anh chị em chúng ta cũng hãy làm như vậy…do đó, Chúa mới nói: “Còn các con, các con bảo Thẩy là ai? Phêrô lên tiếng đáp: Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Chúa mà chúng ta học biết, sống và bước theo là Chúa chịu đóng đinh, chịu chết, là Chúa chịu đau khổ và sống lại, chứ không phải chúng ta theo Chúa là một vị Thiên Chúa sung sướng, giàu sang, phú quý, ăn trên ngồi trốc, lúc nào cũng ngồi chỗ nhất trong hội đường, đám tiệc, lúc nào cũng thích phải được xưng hô là thầy, là người chỉ đạo trước mặt mọi người: “Con Ngưởi phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Thánh Phêrô vừa tuyên xưng Chúa xong và khi Chúa nói đến tương lai cuộc đời của Chúa thì ngài lại can ngăn Chúa: “Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người” (Mc 8, 32). Thánh Phêrô chưa hiểu về Chúa, vì trong suy nghĩ của ngài lúc này, Chúa mà các ngài bước theo phải là Thiên Chúa uy quyền giàu sang, sung sướng, ban tước quyền cho các ngài chứ không phải là một Thiên Chúa khổ đau, bất hạnh, cho nên Chúa nói: “Satan, hãy lui đi, vì anh không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Lạy Chúa, chúng con đi theo Chúa, chúng con hãy bằng lòng vác thập giá theo Chúa mỗi ngày. Xin Chúa đừng để chúng con phàn nàn trách mách Chúa, vì như vậy, Chúa sẽ trách chúng con như trách thánh Phêrô ngày xưa là “ Satan “, nếu chúng con bị như vậy là chúng con phải từ bỏ ý riêng mình ngay để mà hoàn toàn làm theo ý Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Nói lời của Thiên Chúa


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 6 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin Chúa tuôn đổ hồng ân, giúp chúng ta ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết dùng miệng lưỡi nói điều khôn ngoan chính trực, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Châm Ngôn cho thấy: Tình yêu khỏa lấp mọi lỗi lầm. Đừng mất công phân tích các phương châm tinh tế sau đây. Mỗi câu tự nó đều đủ nghĩa, và có thể được xem như một lời nhận xét tế nhị về phong tục đương thời, hay như một lời khuyên, giúp đạt tới hạnh phúc, tránh những rủi ro của số phận. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những mảnh vụn của bữa tiệc linh đình Đức Khôn Ngoan hứa sẽ khoản đãi. Miệng người công chính niệm lẽ khôn ngoan, và lưỡi họ nói lên điều chính trực. Luật Thiên Chúa, họ ghi tạc vào lòng. Thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân. Họ không lo phải nghe tin dữ.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết dùng miệng lưỡi nói lời Thiên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Amrôxiô nói: Hãy mở miệng ra để nói lời Thiên Chúa… Đức Kitô Giêsu trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết dùng miệng lưỡi nói lời kết ước tình yêu, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại: Thiên Chúa phán: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 101, vịnh gia cho thấy: Từ trời xanh Chúa đã nhìn xuống cõi trần. Chư dân sẽ sợ uy danh Chúa, mọi đế vương hoàn cầu úy kính Ngài vinh hiển. Vì Chúa sẽ xây dựng lại Xion, sẽ xuất hiện quang vinh rực rỡ. Người đoái nghe dân bị bóc lột kêu cầu, chẳng khinh thường lời họ nguyện xin.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời.

Trong bài Tin Mừng, ông Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô. Đức Giêsu nói: Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Đức Giêsu là Đấng Kitô, Người đã trải qua nhiều đau khổ, mới đạt đến vinh quang, Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa: Lời thần khí,  lời sự sống đem lại cho chúng ta sự sống đời đời. Chớ gì lòng trí chúng ta luôn suy gẫm sự khôn ngoan của thập giá, và nói về Đức Kitô, vì chính Người là sự khôn ngoan, là Lời của Thiên Chúa. Ông Phêrô đã dùng Lời của Thiên Chúa, mà tuyên xưng Đức Kitô, nhưng, ngay sau đó, ông lại dùng lời của thế gian mà ngăn cản Đức Giêsu. Chớ gì khi mở miệng ra, là chúng ta nói Lời của Thiên Chúa. Chính Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta cất tiếng ngợi khen Người và suy gẫm Lời của Người. Chớ gì chúng ta luôn luôn nói về Người: nói về đức khôn ngoan là nói về chính Người, nói về nhân đức là nói về chính Người, nói về sự bình an là nói về chính Người, nói về chân lý, về sự sống, và ơn cứu độ là nói về chính Người. Chớ gì chúng ta luôn nói những gì thuộc về Đức Kitô và thập giá của Người, khi ngồi trong nhà, ngôi nhà nội tâm của chúng ta, cũng như lúc đi đường, con đường Giêsu; khi đi ngủ, khi đã thỏa lòng chợp mắt khép mi, vì đã tìm được một nơi cho Chúa ngự, cũng như khi thức dậy, khi có tiếng người tôi yêu gõ cửa… Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, ước gì chúng ta biết ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 6:

Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình.
21/02 – Thứ Sáu tuần 6 thường niên.
"Ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình".

 

Lời Chúa: Mc 8,34-9,1


Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.
Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh". Và Ngài nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Từ bỏ chính mình


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trên con đường đi ngang giáo phận Xuân Lộc,
có ngôi nhà thờ mặt tiền mang một dòng chữ to: “Sống là chọn.”
Câu này dễ làm ta nghĩ đến câu kế tiếp: “mà chọn là bỏ.”
Bỏ là điều, dù muốn dù không, ai cũng phải làm nhiều lần trong đời.
Thai nhi phải bỏ bụng mẹ ấm êm, cô gái bỏ gia đình để về nhà chồng.
Bỏ khi chọn việc, chọn trường, chọn nhà, chọn ơn gọi…
Bỏ thường làm ta đau đớn, nhưng ta không thể chọn tất cả.
Tuy nhiên, có khi từ bỏ đem lại niềm vui, đến nỗi ta không biết mình đang bỏ.
Một vận động viên, một nhà khoa học hay một tu sĩ đã tự ý bỏ nhiều điều.
Nhưng họ rất vui khi nghĩ đến kết quả của việc từ bỏ đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ và đám đông
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài (c. 34).
Từ bỏ chính mình là không coi mình như trung tâm nữa,
không coi danh dự, quyền lợi, dự tính, của cải là điều mình phải nắm chặt.
Vác thanh ngang của thập giá là việc mà người sắp bị đóng đinh phải làm.
Như thế vác thập giá đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết sắp xảy ra.
Đức Giêsu đã sống những điều này trước khi mời chúng ta sống.
Ngài đã vác thập giá Cha trao cho Ngài.
Ngài đã từ bỏ chính mình hoàn toàn khi bị treo trên thập giá.
Đời sống người Kitô hữu mãi mãi không bao giờ dễ dàng,
vì đó là hành trình vác thập giá của riêng mình theo chân Thầy Giêsu.
Thập giá ghi dấu ấn trên bất cứ ai dám sống thật sự ơn gọi kitô hữu.
Nhưng thập giá lại không phải là kết thúc của Kitô giáo.
Kitô giáo kết thúc bằng sự sống và sự sống lại của Đức Giêsu.
Tất cả nghịch lý nằm ở chỗ ai dám mất thì lại được,
còn ai cố giữ cho được thì lại mất.
Mà cái được và cái mất không như nhau.
Cái mất chỉ là mạng sống tạm bợ ở đời này,
còn cái được là sự sống vĩnh hằng ở đời sau (c. 35).
Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này, kinh nghiệm được và mất.
Ngài mời chúng ta dám sống kinh nghiệm ấy cùng với Ngài.
Được cả thế giới này mà mất sự sống đời đời thì có ích chi?(c.36).
Đức Giêsu hôm nay vẫn muốn nhắc nhở chúng ta như thế.
 
Cầu nguyện:

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đức tin và hành động

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nền tảng của đức tin là Chúa. Tin Chúa là tất cả. Đó phải là chân lý điều hướng cả con người và cuộc đời chúng ta. Vì thế tin là phó thác toàn thân cho Chúa. Chỉ đi tìm Chúa. Để đạt tới cùng đích là chiếm hữu được Chúa. Được sự sống đời đời. Một niềm tin chân chính phải biến thành hành động.

Trước hết phải từ bỏ thế giới này. Thế giới này là vật chất. Ta phải tìm những gì cao hơn vật chất. Thế giới này là chóng qua. Ta phải tìm điều vĩnh cửu. Thế giới này là thung lũng nước mắt. Ta phải tìm hạnh phúc đích thực. Thế giới này sẽ chết. Ta phải tìm sự sống đời đời. Như Lời Chúa dạy: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình”?

Còn sâu xa hơn nữa, phải từ bỏ chính mình: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Cái tôi luôn chống lại Chúa. Muốn được Chúa phải từ bỏ cái tôi. Để Chúa chiếm hữu tôi. Tôi sẽ chiếm được Chúa: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

 Về đức tin chúng ta phải noi gương tổ phụ Áp-ra-ham. Đó là một đức tin sống động. Dám từ bỏ cả cuộc đời. Dám hi sinh cả đứa con duy nhất. Chỉ cần Chúa. Chỉ đạt tới Chúa là đủ. Đó là đức tin có việc làm. Là đức tin hoàn hảo. “Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo. Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính…. Thật thế, đức tin không có hành động là đức tin chết” (năm chẵn).

Khi có đức tin như thế, con người sẽ hợp nhất với chính mình, với nhau. Và tất cả qui về Thiên Chúa. Khi không có đức tin, con người tự phân hoá. Trong bản thân có nhiều mâu thuẫn. Trong xã hội có nhiều tranh chấp. Và thế giới phân hoá. Đó chính là hậu quả của tháp Ba-ben. Con người kiêu ngạo muốn chống lại Chúa, sẽ chống lại nhau. “Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xác trộn tiếng nói cua rmoij người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. Phải chăng Ba-ben là Ba-by-lon, đại diện thế lực trần gian chống lại Thiên Chúa? (năm lẻ).

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Theo Chúa Giêsu


Khi nhìn về hoạt động của Giáo Hội giữa thế giới hôm nay, có người ghi nhận rằng Giáo Hội hiện tại rất đa năng đa dạng, Giáo Hội có thể có mặt một cách khéo léo và hiệu quả trong hầu hết mọi lãnh vực của đời sống con người; nhưng đôi khi Giáo Hội đã bỏ quên một sở trường có thể là quan trọng nhất, đó là làm người phát ngôn bảo vệ các giá trị tuyệt đối của Tin Mừng và bảo vệ cho đến cùng như được nhắc lại trong Tin Mừng hôm nay.

Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: "Thầy là Ðức Kitô", thì Chúa Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan điểm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Ðấng Kitô theo hình ảnh của Người Tôi Tớ Yavê như được nhắc đến trong sách Tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Ðấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Yavê và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ. Phêrô đã đại diện các Tông đồ để tuyên xưng: "Thầy là Ðức Kitô", nhưng chỉ tiếc liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Chúa Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô.

Chúa Giêsu chẳng những quở trách Phêrô, Ngài còn đưa ra một giáo huấn quan trọng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Từ nay cả Phêrô lẫn những ai muốn làm môn đệ Chúa đều phải sống thân phận tôi tớ như Chúa. Nhưng Ngài còn thêm: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Làm tôi tớ Thiên Chúa, từ bỏ chính mình, vác thập giá, đồng nghĩa với chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng. Nếu có bao giờ con người cảm thấy ngại ngùng với những yêu sách đó, thì cần phải nhớ một lời cảnh giác của Chúa cũng như trong bối cảnh đó: "Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang Cha Ngài với các thánh thiên thần."

Ðành rằng con đường của Chúa là cả một đoạn trường, nhưng đã là môn đệ Chúa và muốn thi hành số mệnh của mình, chúng ta không còn một chọn lựa nào khác. Xin Chúa cho chúng ta can đảm sống đúng tư cách môn đệ của Chúa, mạnh dạn thực hiện những đòi hỏi của Tin Mừng, để ngày nay Danh Chúa được mọi người nhận biết và mai sau chúng ta được Chúa đón nhận vào Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 -------------------------------

 

Suy Niệm 4: Sống đúng là Kitô hữu


Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; Còn ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc. 8, 34-35)

Trong bài Phúc âm hôm qua, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu cho các môn đệ hiểu đúng về bản thân và sứ mạng của Người: sứ mạng của Đấng Mê-si-a phải chịu đau khổ. Phêrô đã bực mình và không phải là không có lý do, bởi lẽ chuyện đó kéo theo hậu quả cho người môn đệ là ông. Điều tuyên bố này của Chúa có liên hệ tới ông. Có được một ông thầy là một đấng Mê-si-a quyền uy chiến thắng và có một người thầy là một Mê-si-a phải chịu đau khổ và bị người ta giết chết, đâu phải là chuyện như nhau. Chúa Giêsu biết rõ như vậy. Nên Người liền giải thích ngay làm môn đệ một Mê-si-a phải chịu đau khổ hệ tại ở sự gì: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”

Đảo lộn giá trị

Phải vác thập giá, phải từ bỏ mình, nguy cơ to lớn như vậy không phải là sự thiệt thòi, mất mát đâu. Trái lại, đó chính là một mối lợi. Thật là điều nghịch lý: người môn đệ lấy Đức Kitô làm con bài chủ trong cuộc chơi của mình, người ấy là kẻ thắng cuộc. Mất, chính là được với điều kiện là sự mất mát này là vì Chúa Giêsu và vì Phúc âm. Một cuộc sống chịu thiệt thòi ví Chúa Giêsu và vì Phúc âm như thế được coi như một sự thất bại xét về mặt hoàn toàn trần thế giống như cuộc đời của Chúa Giêsu vậy; nhưng nó lại là một sự hoàn bị, đạt tới mức tròn đầy, bởi lẽ đó là một cuộc đời hoàn toàn quy hướng về Chúa. Trong chiều hướng ngược lại, con người chỉ tìm tán dương, tâng bốc, đề cao cái “tôi” của mình, chỉ muốn giữ mạng sống mình cho riêng mình thôi, người ấy có thể chắc chắn đánh mất cuộc sống ấy, không đạt được đích là sự thăng hoa đích thực. Và cho dù có giầu sang bạc ngàn bạc triệu, người ấy cũng sẽ không có thể dùng tiền mua được cho mình sự sống của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đặt nét chấm phá cho bức họa chân dung người môn đệ bằng một câu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chứng từ: không hổ thẹn vì Chúa Giêsu. Lòng tin của người môn đệ không phải là một chuyện riêng tư; đức tin ấy đòi hỏi được biểu lộ và khẳng định công khai cho dù gặp phải những khó khăn. Lòng tin không phải là chiếc áo, vui thì mặc vào, còn khi gặp phiền hà rắc rối thì rũ bỏ.

Chúng ta có là môn đệ của Chúa Kitô không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tự hỏi mình xem ta cảm nghĩ thế nào, có tâm tình gì khi người ta nói đến đạo Chúa, Giáo hội, Chúa Kitô… khi ta đang làm việc, ở trong gia đình, hay trong mối quan hệ xã hội bạn bè. Chúng ta có dám đứng về phía Chúa Giêsu Kitô, không ba hoa. khoa trương, nhưng kiên quyết và xác tín? Đối với người môn đệ, việc bày tỏ và khẳng định niềm tin của mình không phải là chuyện tùy tiện.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 5: Tin và đi theo


Sau khi Phêrô thay lời anh em tuyên xưng niềm tin, Đức Giêsu đã ngay lập tức loan báo về cuộc khổ nạn của mình để các ông hiểu rõ về căn tính “Đấng Kitô” theo ý định của Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê trong Cựu Ước mà Isaia đã nhắc tới, đó chính là hình ảnh tiên trưng về Ngài. Quả thật, Đức Giêsu đến không phải là làm theo ý riêng, nhưng hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha trong tư cách là người Tôi Tớ.

Sau khi tỏ cho các ông về cuộc khổ nạn mà Đấng Kitô – Thiên Sai sẽ phải chịu, thì cũng ngay lập tức Ngài mời gọi các ông: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Thật tiếc thay cho Phêrô! Ông tuyên tín thì mạnh mẽ, nhưng khi nói đến sự vâng phục và con đường khổ giá mà Thầy sẽ đi để cứu chuộc nhân loại, thì ông đã thất vọng và lên tiếng can ngăn Ngài. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Đức Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô theo thánh ý Thiên Chúa Cha.

Như thế, ông đã lộ rõ tính thực dụng của mình khi đặt niềm tin vào một Đấng Thiên Sai đến giải phóng dân tộc theo nghĩa chính trị. Vì thế, ông đã bị Đức Giêsu quở trách thật nặng nề: “Satan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thên Chúa mà là của loại người”.

Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi không khác gì Phêrô. Có những cơn sốt sắng nổi lên thì thề sống chết với Chúa và trung thành đến cùng với Ngài, nhưng sau đó, khi thử thách hay những khó khăn gặp phải, chúng ta bắt đầu suy xét lại và đem so sánh thiệt hơn với đời. Những lúc như thế, chúng ta đã lập lờ và nhùng nhằng, so đo tính toán...

Nên nhớ quy tắc căn bản của sứ điệp Lời Chúa hôm nay:

Thiên Chúa không bao giờ cất khỏi đau khổ cho con người. Nhưng ngược lại, Ngài sẽ tiếp tục gửi đau khổ đến cho những ai Ngài thương mến. Cũng như chính Ngài, Đức Giêsu luôn luôn mời gọi chúng ta đón nhận đau khổ và chiếu dọi yêu thương vào đó thì đau khổ sẽ có ý nghĩa và nở hoa cứu độ. Nếu không có yêu thương thì thập giá mãi mãi đè bẹp chúng ta, nhưng chúng ta đón nhận và vác lấy trong tình yêu thì nhờ thập giá sẽ trở thành con đường dẫn đến vinh quang, đau khổ sẽ thành biểu tượng tình yêu.

Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn can đảm để lựa chọn và sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Để ngang qua lòng mến, chúng ta được ơn cứu chuộc. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Con đường Thánh Giá


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu đều phải bước lại cùng một con đường của Chúa, đó là đường thập tự, chất chứa sự từ bỏ và khổ đau.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì vâng theo ý Chúa Cha mà Chúa đã tự bỏ mình, chấp nhận thân phận tôi tớ, chịu mọi sự khổ đau cùng cực nhất, bị phỉ nhổ, khinh chê, bạc đãi và chết trên thập giá, hầu mang lại sự sống cho con. Và Chúa cũng đã mời gọi con bước theo Chúa. Sống với Chúa, để trở nên môn đệ của Chúa, nghĩa là cùng với Chúa vác thánh giá, cùng với Chúa đi vào con đường đau thương đang trải dài khắp các nẻo đường trần gian.

Lạy Chúa, hành trình theo Chúa nhiều khi đã trở thành gánh nặng đè lên đời con. Lắm lúc con mệt mỏi, chán nản, buồn phiền, so đo tính toán. Một đàng con biết rằng theo Chúa là phải hy sinh, phải dấn thân dứt khoát. Nhưng đàng khác con lại không chịu từ bỏ chính bản thân mình, con ham thú vui, thích thoải mái, hưởng thụ, thích của cải vật chất hơn là sống như Chúa đòi hỏi.

Lạy Chúa, xin ban cho con một trái tim luôn hướng về Chúa, bởi vì con cảm nhận được rằng, con không thể sống với Chúa, nếu con không yêu mến Chúa. Xin dạy con biết hy sinh, biết từ bỏ những quyến rũ lệch lạc của trần gian, vì chúng ngăn cản con đến với Chúa.

Xin cho con biết quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình. Lạy Chúa, con đi tìm sự sống chứ không đi tìm cái chết. Nhưng để cứu mạng sống con, xin cho con luôn biết nhìn lên thánh giá Chúa để học biết thế nào là yêu thương, là hy sinh, thế nào là sự sống đích thực. Amen.

Ghi nhớ: “Ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình”.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 7: Thập giá Đức Kitô


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích”.

Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vứt cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng xù xì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá...

Và rồi đêm nào cũng thế, cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích “Phúc”).

Suy niệm

Người môn đệ Chúa Kitô tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô, với tâm tư con người đó là nghịch lý: Ngài đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua khổ nạn và cái chết, theo chương trình của Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia loan báo về tư thế của người tôi tớ đau khổ (Is 50,5-9a).

Cho nên, ai tự nhận mang danh môn đệ của Chúa Kitô, là “Kitô hữu”, được mời gọi bước vào sống mầu nhiệm nghịch lý thập giá của Đức Kitô, chấp nhận đau khổ vì Đức Kitô. Như tông đồ Phaolô đã trải nghiệm và gợi mở sống mầu nhiệm vác thập giá của người môn đệ Chúa Kitô: “Hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ” (Cl 1,24-25).

Khi hiểu được ý nghĩa cao quý của thập giá, chúng ta bước theo Thầy với thập giá hằng ngày và hãnh diện như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: “Tôi chẳng hãnh diện điều gì ngoài thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14).

Lạy Chúa Giêsu, trên bước đường thập giá Ngài đi, trong tư cách là môn đệ của Chúa:

“Xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang”.

Ý lực sống: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2Tm 2,11).

 -------------------------------

 

Suy Niệm 8: Điều kiện để theo Chúa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau khi khiển trách Phêrô đã ngăn Ngài đi vào con đường Thập giá, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Thập giá của Ngài: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Mc, 8,34). Xem ra từ bỏ và vác thập giá là đi vào con đường chết, nhưng thật ra đó là con đường dẫn đến sự sống thật: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).

2. Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai: ”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16), Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Đức Giêsu mở ra  một giai đoạn mới, trong  giai đoạn mới này Ngài muốn mạc khải về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã tuyên bố rõ ràng cho các môn đệ và những người đang theo Ngài giảng: “Ai muốn đi theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34).

3. THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải là chỉ mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào  có thể làm cho họ lìa bỏ nhau:

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Trong lời mời gọi của Đức Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai chữ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, “điều kiện sine qua non”, không có không được. Như vậy, muốn theo Chúa thì phải thực hiện hai  điều kiện ấy.

4. Từ bỏ chính mình.

Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật... và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi...

Đức Thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11/03/1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.

Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 và 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.

5. Vác thập giá mình.

Theo Chúa là phải nỗ lực, cố gắng trong việc chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng trong sự chịu đựng và kiên trì trong việc vác thập giá hằng ngày. Thập giá là những gian nan thử thách, những đau khổ cả tinh thần lẫn thể chất... trong cuộc sống hằng ngày mà mỗi người phải chịu.

Trong đời sống Kitô hữu, ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc của chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta  và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề. Tuy nhiên, Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.

6. Truyện: Thánh giá vừa sức mình.

Câu truyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:

- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh giá vừa sức con.

Ông ta mang thánh giá của mình  ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:

- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.

Thiên thần yên ủi:

- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 9: Ai theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Sau khi khiển trách Phêrô đã ngăn Ngài đi vào con đường thập giá, Chúa Giêsu dạy các môn đệ:

- Làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường thập giá như Ngài "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo".

- Xem ra, từ bỏ và vác thập giá là đi vào con đường chết, nhưng thực ra đó là con đường dẫn tới sự sống thật "Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng ống ấy".

B.... nẩy mầm.

1. Ta hãy nghe lại lời Chúa Giêsu nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta".

Có lẽ từ trước tới nay, tôi theo Chúa là để "được" (được an ủi, được che chở, được đời này, rồi lại được đời sau). Nhưng Chúa Giêsu dạy muốn "được" thì trước hết hãy "bỏ" (bỏ tất cả những gì cản trở việc đi theo Ngài, bỏ ý riêng, bỏ chính bản thân mình…). Có "bỏ" thì mới "được".

2. Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích "Phúc")

3. "Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì người ta nào có lợi ích gì?" Câu này đã khiến Phanxicô Xaviê bỏ mọi sự để đi theo Chúa, thành một nhà truyền giáo nhiệt tình.

Mỗi người chúng ta hãy duyệt lại xem mình đang tìm kiếm những tôi gì ở đời này (quyền lợi, thú vui, danh vọng…). Rồi nghĩ tới ngày mình nhắm mắt ra đi. Lúc đó mình sẽ mang theo được những gì?

4. Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ  ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người  bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những  trắng án mà còn được thưởng nữa.

Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta,  chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích "Phúc")

5. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta".

Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế  chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (John Newton).

6. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35)

"Chúng tôi muốn lựa chọn một giai cấp thống trị mới, xa lạ với thứ đạo đức thương người, một giai cấp ý thức rằng, dựa trên cơ sở là giống nòi ưu việt nhất, nó có quyền đô hộ; một giai cấp biết thiết lập và duy trì không một chút do dự quyền thống trị của nó đối với quảng đại quần chúng" ("Những bí mật của Chiến tranh thế giới II" – Grigôri Đêbôrin)

Dựa trên thuyết phân biệt chủng tộc, Hítle đã xây dựng một bộ máy chính quyền tôn thờ chiến tranh. Họ coi chiến tranh là "một hoạt động cao quý nhất của những con người thuộc giống nòi ưu việt". Một đất nước của trại lính và nhà giam đã lôi kéo cả thế giới rơi vào lửa đạn.

50 năm đã trôi qua, chủ nghĩa phát xít đã bị chôn vùi. Nhưng trên thế giới vẫn còn biết bao ý tưởng điên rồ của con người, khiến nhân loại phải điêu đứng vì chiến tranh, đói nghèo và lạc hậu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy "không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu". Xin giúp con biết hy sinh vì tình yêu đồng loại. (Epphata)

 -------------------------------

 

Suy Niệm 10: Vác Thập Giá mình hằng ngày mà theo


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Sau khi khiển trách Phêrô đã ngăn Ngài đi vào con đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: muốn làm môn đệ, thì cũng phải đi theo con đường Thập Giá của Chúa: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ mình đi vác Thập Giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Mc 8,34).

Ta hãy nghe lại lời của Chúa nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình”. (Mt 8,34)

Tại một viện bảo tàng được lát bằng những phiến đá cẩm thạch tuyệt đẹp, trưng bày giữa đại sảnh là pho tượng mỹ nữ cũng bằng đá cẩm thạch. Từng dòng người từ khắp nơi trên thế giới đến đây chiêm ngưỡng pho tượng tuyệt mỹ này. Một đêm, phiến đá cẩm thạch nói với pho tượng với một giọng gay gắt:

- Này, cô bạn mỹ nữ, thật chẳng công bằng tí nào! Tại sao mọi người đổ dồn về đây cứ bước trên người tôi để mà chiêm ngưỡng bạn? Thật là bất công quá đáng!

Pho tượng mỹ nữ từ tốn nhắc:

- Bạn còn nhớ chúng ta cùng sinh ra từ một mỏ đá không?

Phiến đá cẩm thạch tiếp tục càu nhàu:

- Chúng ta sinh ra trong cùng một mỏ đá, vậy mà giờ đây mỗi bên lại được nhận một cách đối xử khác nhau đến thế này. Thật chẳng công bằng chút nào!

Pho tượng mỹ nữ vẫn bình thản:

- Nhưng này, chắc bạn còn nhớ cái ngày mà nhà điêu khắc chạm những nhát đục đầu tiên lên người bạn chứ? Và bạn đã chống cự quyết liệt như thế nào!

Phiến đá cẩm thạch phát xẳng:

- Dĩ nhiên là nhớ! Tôi căm ghét hắn. Hắn ghè, hắn đẽo lên người tôi. Ôi, đau đến chết khiếp!

Pho tượng mỹ nữ thủng thẳng tiếp:

- Thế rồi ông ta không thể tiếp tục tạc tượng trên mình bạn nữa, vì bạn chống cự dữ dội quá.

Phiến đá cẩm thạch chống chế:

- Ừ, thế thì sao nào…

Pho tượng mỹ nữ tiếp lời:

- Khi ông ấy quyết định từ bỏ bạn và quay qua đục đẽo trên người tôi, ngay lúc ấy tôi biết rằng mình sẽ biến thành một cái gì khác hơn là những khối đá thô kệch, nơi chúng ta cùng sống chung trước đó. Tôi đã không chống cự lại ông ta, và cố gắng chịu đựng tất cả những đau đớn mà ông ta đang cố đục đẽo trên người tôi.

Phiến đá cẩm thạch ầm ừ.

2. “Vác Thập Giá mình mà theo” (Mc 8,34)

Ngày nọ, trại giam của cha Maximilien Kolbe có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh thấy thiếu mất một người, viên sĩ quan áp dụng ngay luật lệ của Phát-xít Đức: hễ một tù nhân trốn thoát, mười người tù khác phải đền mạng.

Trên sân nhà tù, ai nấy đều thinh lặng và khiếp đảm.

Viên sĩ quan coi tù vừa giận dữ rảo bước, vừa đưa tay chỉ định: tên này... tên này... Ai lâm vào số đoạn trường thì phải sang sắp hàng một bên. Chợt có tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ”.

Giữa bầu khí thinh lặng rùng rợn ấy, một tù nhân bước ra khỏi hàng, đứng nghiêm trang im lặng. Viên sĩ quan Đức quát hỏi:

- Mi là ai?

- Maximilien Kolbe, Linh mục Công Giáo.

- Mi muốn gì?

- Tôi xin tình nguyện chết thay cho anh bạn tù này (ngài đưa tay chỉ người vừa la thất thanh), vì anh còn con thơ vợ dại.

- Muốn ngu thì cho ngu? Vào sắp hàng thế, còn thằng kia được tha!

Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngẩn, ngạc nhiên, thán phục... Viên sĩ quan Đức hô lớn: “Sắp sẵn! Đi!” Mười người lặng lẽ đi vào phòng giam đói. Theo lời các tù nhân thuật lại, thường những kẻ bị giam đói khóc lóc, chửi rủa cho đến khi tắt hơi. Nhưng lần này thì khác. Cha Kolbe luôn miệng khuyến khích thúc giục mọi người cầu nguyện. Các tù nhân bên ngoài nghe tiếng họ hát và đọc kinh, ban đầu lớn, càng về sau càng yếu dần đi, rồi đến một lúc thì hoàn toàn im lặng. Ngày thứ 12, cửa phòng giam đó được mở ra. Mọi người đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân hình đã tàn rũ. Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết ngay. Họ đưa xe đến xúc xác ngài và các bạn tù đổ vào lò đốt.

Mấy chục năm sau, vào năm 1971, Toà Thánh đã tôn phong ngài lên bậc Chân phước, sau khi cứu xét kỹ lưỡng các nhân đức anh hùng của ngài. Giây phút cảm động nhất trong thánh lễ tôn phong do Đức Phaolô VI chủ tế là lúc dâng lễ vật: một đoàn người tiến lên mang bánh, rượu, nến và hoa hồng trắng đỏ: hoa hồng trắng chỉ sự khiết trinh, hoa hồng đỏ chỉ sự hy sinh tử đạo. Đoàn dâng lễ gồm có người Balan, đồng hương của ngài, và vài thiếu nữ mặc quốc phục Nhật Bản, nơi ngài đã đến truyền giáo. Cảm động hơn cả là lúc Đức Thánh Cha ôm hôn ông già bưng chén thánh tiến lên: đó chính là tù nhân đã được cha Kolbe thế mạng. Trong lúc ấy, toàn thể cộng đoàn hát vang khúc tình ca: “Không có tình yêu nào cao quí bằng chết thay cho bạn hữu”. Mọi người tham dự buổi lễ hôm ấy không ai cầm nổi giọt lệ.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11: Hy sinh vì Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Điều quý trọng nhất của con người chúng ta là sự sống. Con người chúng ta chỉ sinh ra có một lần, sống một lần, và chết cũng một lần ở trên dương gian này chứ không có lần thứ hai. Giả sử có mất tiền tài, danh vọng, chức quyền…thì có thể tìm lại được, nhưng không thể tìm lại được mạng sống khi bị đánh mất.

Hiện tại, có rất nhiều người suy nghĩ theo chiều hướng này, cho nên họ ăn vội, sống vàng, yêu cuồng, sống nhiệt, sống ảo… Bởi vậy mà sinh ra sống để hưởng thụ, ích kỷ, chỉ biết sống cho mình mà thôi, sống theo suy nghĩ của mình, không cần quan tâm những người xung quanh suy nghĩ như thế nào, đôi khi là sống buông thả.

Kết quả sống theo ý mình, sống theo thỏa mãn của mình thì sẽ mất mạng sống, sống hư vong: “Vì chúng, được lời lãi cả thế gian, mà mất mạng sống mình thì nào được ích gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình?” (Mc 8, 36 – 37).

Khi chúng ta sống theo ý Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập gí mà theo Ta. Quả thật, ai muôn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta, và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34 – 35). Nghĩa là chúng ta sống bỏ ý riêng, sống hy sinh hãm mình, sống khổ chế, sống chừa tội, chấp nhận tất cả những gì bất trắc xảy ra trong cuộc sống xem như là thập giá Chúa gởi đến trong tinh thần vâng phục đơn sơ, bé nhỏ, phó thác…Chúa sẽ cứu chúng ta khỏi vong thân, cho chúng ta được sống đời đời sau này.

Một trong những điều mà chúng ta chấp nhận hy sinh sống vì Chúa, vì phần rỗi của chúng ta là: “Ai hổ thẹn vì Ta, và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khước từ nó, khi người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh” (Mc 8, 38 – 39). Thật sự giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, đó là một thế hệ bẩn thỉu, dơ nhớp, hôi tanh chẳng đáng mà chúng ta phải sợ hãi đến nỗi phải chối Chúa là cùng đích đời chúng ta, thì quả chúng ta quá bần tiện, quá xấu xa, chẳng đáng để được Chúa thương xót cho nên Chúa phải chối bỏ chúng ta sau này thì chúng ta phải ráng chịu chứ không đổ thừa cho ai được cả.

Lạy Chúa, thật là một hạnh phúc quá lớn lao khi chúng con sống và làm theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa đã sống và làm theo thánh ý của Chúa Cha nên Chúa được Chúa cha yêu quý và Chúa rất hạnh phúc, cho nên Chúa dạy chúng con hãy cố gắng sống hy sinh, hãm mình, chừa tội, giữ đạo Chúa và chuyên cần làm các việc lành phúc đức giúp đỡ anh chị em mình thì Chúa sẽ thương chúng con hơn, và sẵng sàng ban ơn khi chúng con kêu xin. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 12: Liều mạng vì Chúa


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 6 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin Chúa tuôn đổ hồng ân, giúp chúng ta ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết kính sợ Chúa và yêu thương nhau, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Châm Ngôn nói về: Sự minh mẫn của con người, và nghĩa huynh đệ. Đề tài được nhấn mạnh khá nhiều: đó là những mối tương giao giữa người với người. Ở đây nổi bật hai nét chính: khôn ngoan và quảng đại. Anh em đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Aicập; chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ, anh em phải phụng thờ. Lòng kính sợ Đức Chúa là trường dạy khôn ngoan, khiêm nhu là đường dẫn đến vinh dự.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết khao khát và tìm nương ẩn nơi Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Thiên Chúa là niềm khát vọng của tâm hồn… Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.

Trở nên đền thờ của Chúa, khi biết khiêm nhường, quy phục, tín thác vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại: Đức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 32, vịnh gia cho thấy: Hạnh phúc thay dân nào, Chúa chọn làm gia nghiệp. Chúa đảo lộn chương trình muôn nước, Người phá tan ý định chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền vững, ý định của lòng Người vạn thuở trường tồn.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Chúng ta là bạn hữu của Chúa, bởi vì, được Chúa cho biết điều mà một người đầy tớ không được phép biết. Nếu ta liều mất mạng sống mình, để đạt cho bằng được điều Chúa hứa, thì ta sẽ cứu được mạng sống ấy. Thiên Chúa đã hứa cho ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Chúa Thánh Thần, là Đấng dạy ta trong nội tâm: điều ta không thể nói ra, và không thể nhìn thấy ở hiện nay, nên, bổn phận của ta là phải khao khát. Thật vậy, đối với người Kitô hữu đích thực: sống, không có nghĩa gì khác hơn, là khao khát Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Đấng ta khao khát, thì ta chưa thấy, nhưng, chính nhờ khao khát, mà ta trở nên xứng đáng: được mãn nguyện, khi Người ngự đến. Khi ta muốn đổ đầy một vật chứa nào đó, như cái bao, cái vò hay cái gì khác, và biết cái sẽ đổ vào, nhiều bao nhiêu, thì chúng ta phải nới rộng dung tích của vật chứa ấy. Cũng vậy, khi Thiên Chúa trì hoãn là Người đang nới rộng lòng khao khát của ta, để làm cho tâm hồn ta có khả năng đón nhận Người. Đời sống của chúng ta là để cho lòng khao khát thanh luyện mình. Chúng ta càng để cho lòng khao khát thánh thiện thanh luyện mình, thì càng đoạn tuyệt với các vương vấn trần gian. Muốn đổ đầy, thì phải dốc cạn đã. Chúng ta muốn được đầy điều tốt, thì phải dốc hết cái xấu đi. Thử nghĩ xem nếu Thiên Chúa muốn đổ đầy mật ngọt cho ta, mà lòng ta lại đầy giấm chua, thì ta đựng mật ngọt ở đâu? Phải dốc hết những gì đang đựng trong bình, phải rửa bình cho sạch; phải rửa cho sạch dù phải vất vả, phải kỳ cọ, để cho bình xứng hợp với đồ đựng bên trong. Ước gì ta biết can đảm, kiên nhẫn chịu đựng, và sẵn sàng liều cả mạng sống mình, vì Chúa. Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, ước gì chúng ta biết ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 7: 22/02 Lập Tông Toà thánh Phêrô

Tảng đá Phêrô.

22/02 – Thứ Bảy tuần 6 thường niên.
  – LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ. Lễ kính.
"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

* Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục.

Lễ kính Tông toà thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 16, 13-19


Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1.Trên tảng đá này


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai. Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích?
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 2. Nền tảng đức tin của thánh Phêrô


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh trên nền tảng đức tin của thánh Phêrô. Ngài được Chúa đặt làm thủ lãnh của Hội Thánh. Hiệp thông cùng Hội Thánh có nghĩa là phải hiệp thông với thánh Phêrô và người kế vị là Đức Thánh Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với thánh Phêrô, con tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Chúa Cha hằng sống. Con thấy mình thật có phúc vì được biết Chúa, tin Chúa và đi theo Chúa, thật có phúc vì được sống trong Hội Thánh của Chúa. Con cảm tạ Chúa.

Lạy Chúa, trải qua hai ngàn năm, Hội Thánh Chúa bước đi giữa muôn ngàn bách hại, cám dỗ, thử thách và đau thương. Có những lúc Hội Thánh tưởng chừng như tiêu tan, hoặc sa lầy hay quỵ ngã. Nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh của Chúa vẫn còn đó giữa lòng thế giới để trở nên dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa. Con tin Chúa vẫn hiện diện và nâng đỡ Hội Thánh như lời Chúa đã hứa. Xin Chúa làm cho Hội Thánh luôn vững tin vào sức mạnh của Chúa.

Con xác tín rằng Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống. Chỉ mình Chúa có đủ quyền năng cứu độ thế giới, chỉ có Phúc Âm Chúa là ánh sáng dẫn dắt nhân loại tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, xin Chúa giúp con trung thành với Chúa, với Hội Thánh, bằng cách tuân theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha là người thay mặt Chúa trên trần gian. Con đường của Chúa và Hội Thánh thật khác với lối đi của trần gian, nhưng con tín nhiệm vào Chúa và vào giáo huấn của Hội Thánh. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho Đức Thánh Cha niềm tin sắt đá, lòng cậy trông vững vàng. Amen.

Ghi nhớ: “Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khóa nước trời”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3. Ngai tòa thánh Phêrô


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Mộ phần của vị tông đồ trưởng Phêrô ở ngay dưới bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Truyền tụng từ xưa vẫn tin như thế, và mới đây đã được xác định nhờ các cuộc điều tra khảo cổ. Ngôi mộ này như một biểu tượng bền vững cho chân lý: Simon Phêrô theo sự ưu tuyển của Thiên Chúa, đã là nền móng của Giáo hội. Tiếng nói của Đấng Cứu Thế vẫn được lắng nghe suốt các thế kỷ, qua lời giáo huấn của các Đức Giáo hoàng.

Ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô, đại diện Chúa Kitô ở trần gian hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Trước kia, Giáo hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia (trước khi Ngài đến Rôma) và một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo hội chỉ cử hành một thánh lễ: “Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.

Có ba bản văn Kinh Thánh là nền tảng về ngai tòa của Thánh Phêrô: “Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo hội… Ta sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời…” (Mt 16,13-19). “Con hãy làm cho các anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22,31-32). “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-19).

Suy niệm

Sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Thầy là Đấng Kitô - Mêssia, là “Con Thiên Chúa”, Đấng Mêssia (tiếng Hy Lạp Christos - Kitô) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Con của Thiên Chúa”, ông khẳng định nguồn gốc thần linh của Ngài… Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô đứng lên để cùng cộng tác trong công trình xây dựng Giáo hội của Ngài: “Phêrô! con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh Cựu ước chỉ có Chúa là Đá Tảng: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 72,3), và sau này trong Tân ước, Đức Giêsu là Thiên Chúa Phục Sinh cũng là nền tảng. (x. 1Pr 2,4-5), nhưng Phêrô cũng được Chúa Giêsu đặt làm đá tảng, là nền cho Giáo hội. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài. Simon như tên căn cước được đặt bởi cha mẹ, nhưng Chúa Giêsu gọi ông là Đá - Phêrô, sau này biệt danh Phêrô luôn gắn liền với ông và theo Kinh Thánh Tân ước, ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kêphas - Phêrô - nghĩa là đá tảng (x. 1Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14). Trong Kinh Thánh về việc đổi tên và với tên mới, ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Ngài.

Chúa Giêsu trao cho Phêrô chìa khóa, sách Khải huyền nhấn mạnh chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7), chìa khóa là hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống về cai quản (x. Is 22,22). Cho nên, người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó. Chìa khóa tượng trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm…

Phêrô được trao chìa khóa nước Trời, nghĩa là được tham dự vào quyền bính trách nhiệm của Chúa Giêsu, chính vì thế, Phêrô đại diện Chúa Kitô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Giáo hội, nhằm mục đích là phục vụ dân Chúa. Các Đức Giáo hoàng sau này kế vị thánh Phêrô và là đại diện Chúa Kitô ở trần gian mang trọng trách cùng quyền bính của Phêrô. Thánh Augustinô đã chú giải đoạn Phúc Âm Matthêu (16,13-23) như sau: “Chúc tụng Chúa, Đấng đã đoái thương đặt thánh Phêrô Tông Đồ trên toàn thể Giáo hội. Nền tảng này được tôn kính thật xứng hợp bởi vì đó là phương thế để chúng ta có thể được lên thiên đàng”.

Cho nên, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Vì thế, ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Chúng ta thần phục và lắng nghe giáo huấn của Ngài, cũng như cầu nguyện cho Ngài trong sứ vụ lèo lái con tàu của Giáo hội …

Ý lực sống: “Thánh Phêrô giữ quyền tối thượng để chứng tỏ Giáo hội của Chúa Kitô là duy nhất, và Tòa của ngài là duy nhất. Thiên Chúa là duy nhất. Đức Kitô là duy nhất. Giáo hội là duy nhất. Tòa được Chúa Kitô thiết lập cũng duy nhất” (Thánh Cyprianô vào thế kỷ III).

---------------------------------

 

Suy Niệm 4. Hiểu biết về Chúa Giêsu


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Tin Mừng cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:

1. Mức độ của dân chúng: Nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.

2. Mức độ của Phêrô: Được ơn Chúa soi sáng, thánh Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa.

3. Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ: Hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.

Tôi hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào?

- Coi Ngài là một ngôn sứ. Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn?

- Coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ?

- Sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài?

“Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”

Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.

Chúng ta có nhiều cách để khước từ thập giá: khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi chỉ bị quay nhìn về các biến cố và con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng phút giây cuộc sống.

Ngày kia, Hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.

Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, Hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi Hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.

Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.

Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi: kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo... Tôi chỉ biết suy nghĩ tìm hết cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng, vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.

Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa ba lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết!

Khi xưa Chúa nói với Phêrô: “Anh là Tảng Đá”. Hôm nay nghe lại đoạn Tin Mừng này tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi. Mỗi viên đá đều góp phần tạo nên nền móng cho ngôi nhà.

Bé nhỏ, yếu hèn và bất lực, tôi lo sợ viên đá của mình có lúc sẽ vỡ tan. Đó là lúc tôi đánh mất chính mình trong bổn phận hằng ngày.

Thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng trọn cả tấm lòng của một con người đã từng đi theo Chúa, sống gắn bó với Chúa. Niềm tin được diễn tả bằng trải nghiệm chứ không bằng lời nói suông, bằng con tim cảm mến chứ không bằng trí hiểu. Giờ này nếu Chúa đến hỏi bạn và tôi cũng một câu tương tự, chúng ta sẽ trả lời ra sao?

---------------------------------

 

Suy Niệm 5. Lập Tông tòa Thánh Phêrô


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của toà phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.

Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.

Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.

Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.

Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hoà đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là quy luật chính yếu của sự tồn tại con người”.

Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.

Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng. Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết suông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng: đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết. Điều đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy” (Vinh Sơn).

Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta một chân lý tuyệt diệu: là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.

Chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.

Truyện: Tìm thấy Chúa trong tha nhân

Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:

- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?

- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.

Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:

- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.

Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”.

Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6. Sứ mệnh Chúa giao phó cho Phêrô


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

I. Hôm nay Giáo Hội kính nhớ việc Lập Tông Tòa Thánh Phêrô.

Việc này làm cho chúng ta nhớ đến sứ mệnh Chúa Kitô đã giao phó cho Phêrô. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội là để củng cố niềm tin của chúng ta đối với vị Chủ Chăn. Phụng Vụ hôm nay làm nổi bật lên đức tin mạnh mẽ của Phêrô. Chính đức tin này đã khiến cho Phêrô trở thành đá tảng để trên đó Chúa xây dựng Giáo Hội của Ngài.

Đàng khác, qua Phêrô Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Bằng Lời hằng sống Chúa tiếp tục xây dựng sự hiệp nhất giữa các kitô hữu, làm sao cho mọi người đã chịu phép Rửa Tội cùng được tham dự vào việc chia sẻ với nhau một bánh thánh và cùng uống chung với nhau một chén thánh.

Đây cũng chính là sứ mệnh của các vị kế tiếp Phêrô trên ngai tòa giám mục của thành Roma. Bởi vậy mừng lễ hôm nay chúng ta cùng cầu xin Chúa cho đức giáo hoàng nên “nguyên lý và nền tảng hữu hình hợp nhất toàn dân kitô hữu trong một đức tin và cùng một mối hiệp thông”.

II. BÀI HỌC

Dựa vào tâm tình và ý nghĩa của ngày lễ mà chúng ta vừa nói trên, chúng ta thấy:

1. Người kitô hữu là người có phước vì được vinh dự làm con Chúa qua bí tích Rửa tội.

Idaho người Ấn Độ mới trở lại công giáo và đã được chịu phép rửa tội. Lần kia có người vô thần hỏi:

- Anh là người Kitô hữu, vậy anh có biết gì về Đức Kitô không?

Người tân tòng trả lời tôi có biết.

Người vô thần hỏi thêm:

- Đức Kitô sinh vào năm nào?

Người tân tòng trả lời ấp úng. Người vô thần lại hỏi thêm:

- Đức Kitô chết lúc bao nhiêu tuổi?

Người tân tòng cũng trả lời trật lơ. Nghe thế người vô thần mới bảo:

- Như vậy thì anh có biết gì về Chúa Giêsu đâu?

Anh tân tòng thưa:

- Tôi biết ít lắm, nhưng tôi biết chắc điều này, là hai năm trước đây tôi say xỉn, cờ bạc, nằm đường nằm chợ, lười biếng làm việc. Hai năm trước đây, vợ tôi rất ít mỉm cười, con cái sợ sệt khi gặp tôi. Nhưng ngày nay, tôi là người đàn ông tiết độ, chịu khó làm việc, nên đã nuôi sống gia đình, lại còn đủ tiền mua một căn nhà mới. Ngày nay vợ tôi tươi cười, con cái vui vẻ quấn quít tôi. Chính đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Như vậy mà ông bảo tôi không biết rõ Đức Kitô là Chúa Cứu thế sao. Ngài đã chữa thế gian cho khỏi tội, và Ngài đã cứu chính tôi trước.

Hãy nhớ đến ngày lãnh bí tích rửa tội của mình, để cảm tạ Thiên Chúa đã đoái thương nhận chúng ta, nhận chúng ta vào số những người con cái của Chúa và đồng thời hãy ôn lại lời hứa từ bỏ mà chúng ta đã hứa với Chúa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội để biết sống xứng đáng với ơn Chúa mỗi ngày.

2. Chúa đã trao quyền cai trị Hội Thánh cho Phêrô. Chúng ta hãy tin tưởng vào những việc Chúa làm.... chúng ta hãy tỏ bày lòng kính mến và vâng phục các vị bản quyền bằng cách thực thi mọi giáo huấn của Hội Thánh và góp phần mình vào việc xây dựng Hội Thánh địa phương cũng như hoàn cầu.

3. Và cuối cùng phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội. Trên Phêrô và trên đức tin của ông, Chúa Giêsu xây Hội Thánh của Người, không một quyền lực nào có thể phá nổi, cho đến khi Con Người lại đến. Vậy phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội trong những lúc thịnh vượng cũng như những lúc bị bách hại hay gặp khó khăn.

Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Đức ông Polgallo:

- Đức ông là người thân cận Đứa Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông hơn cả?

- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám đông ở Bombay, ở Manila chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá với muôn ngàn lo âu, thức khuya dậy sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha giữ gìn sứcc khỏe cho”. Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “Tất cả vì Hội thánh! Vì Hội thánh!”  Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của ngài, chúng tôi phải vươn lên theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến ngài hơn!

---------------------------------

 

Suy Niệm 7. Lập tông tòa thánh Phêrô


--Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 16.18). Giáo Hội hôm nay cử hành lễ kính tông tòa thánh Phêrô và cũng là lễ để tôn vinh Đức Giáo Hoàng, vị kế nhiệm thánh Phêrô dưới trần gian, cai trị, điều khiển Giáo Hội hoàn vũ.

LỄ LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ:

Khi cử hành thánh lễ kính tông tòa thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với vị thủ lãnh Hội Thánh tiên khởi: ”Phêrô, Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” hay ”Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho những anh em khác vững tin” (Lc 22, 32). Chúa Giêsu đã trao trách nhiệm nặng nề cho Phêrô là chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài. Do đó, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu.

Vì thế, thánh lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nhưng lại rất long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh. Trước kia, Giáo Hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt, một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia, và một để kính tòa thánh Phêrô ở Roma. Tựu trung hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo Hội chỉ cử hành một thánh lễ là: ”Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.

HÃY CẦU NGUYỆN CHO ĐỨC THÁNH CHA:

Ngày lễ lập tông tòa thánh Phêrô là lời mời gọi toàn thể dân Chúa trên hoàn vũ hãy cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện liên lỉ cho vị Cha chung của Giáo Hội, trước một trọng trách nặng nề mà Chúa và Giáo Hội trao phó cho Ngài. Trước muôn vàn thách đố của một thế giới luôn luôn biến chuyển, Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với muôn vàn khó khăn của Hội Thánh, của thế giới. Chính vì vậy, Ngài cần có đầy đủ ơn Chúa và sự soi sáng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thầnh để Ngài chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phêrô. Xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan (Lời nguyện nhập lễ, lễ lập tông tòa thánh Phêrô).

---------------------------------

 

Suy Niệm 8. Công trình Hội Thánh


--giesu.net

Đức Giê-su hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)

Suy niệm: Khi xây nhà, ai cũng thừa biết phải bắt đầu từ nền móng, và là một nền móng được gắn vào đá vững chắc, chứ không ai khờ dại xây nhà hờ hững trên nền cát.

Để xây Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng muốn xác định tính vững chắc của những tảng đá Ngài sẽ dùng để làm nền móng cho Hội Thánh là các tông đồ. Phép thử của Ngài là một câu hỏi. Cần phải biết “Thầy là ai?” để hiểu mục đích mà Thầy nhắm đến khi thiết lập Hội Thánh. Cần phải biết Thầy để biết được giới hạn của mình cũng như để lường trước sức nặng của Hội Thánh mà Thầy sẽ đặt lên vai mình. Qua phép thử này, Chúa Ki-tô cho biết tính vững chắc của Hội Thánh không hệ tại những đầu óc thông thái mà là một niềm xác tín vững vàng vào Đấng mà mình đang đi theo. Với niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống thì Hội Thánh có sức đứng vững trước mọi thách thức, chống phá, dù là quyền lực của ác thần Sa-tan.

Mời Bạn: Qua hơn hai mươi thế kỷ, biết bao vương quyền hay thể chế trần gian đã sụp đổ, nhưng Hội Thánh Chúa Ki-tô vẫn kiên vững; sự thật này minh chứng cho một nền móng vững chắc của tòa nhà Hội Thánh. Mời bạn tiếp nối lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” để góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian nay.

Sống Lời Chúa: Nhiệt thành tham gia vào đời sống của Giáo Hội địa phương, là bạn đang góp phần xây dựng Hội Thánh Chúa Ki-tô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, chúng con tin rằng Hội Thánh Chúa luôn vững bền. Xin gìn giữ chúng con trong Hội Thánh để chúng con thuộc về Chúa luôn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9. Lập Tông Tòa thánh Phêrô


--Lozi

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Quyển lịch cổ nhất của Rôma (Depositio martyrum) có từ năm 354, xác nhận Thánh Lễ “Ngai Tòa Thánh Phêrô – Chaire de Saint Pierre” được mừng kính ngày 22.02, ngày dân Rôma nhớ đến những người quá cố. Nhưng sau đó, vì các Giáo Hội xứ Gaule không cử hành trọng thể các lễ trong Mùa Chay, nên Thánh Lễ này được dời vào ngày 18.01, trong khi Giáo Hội Rôma vẫn giữ ngày cũ. Ngày lễ cũng khác và chủ đề cũng khác: trong xứ Gaule, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Rôma”; tại Rôma, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Antiochia”. Cuối cùng hai lễ nhập lại làm một và được xác định vào ngày 22.02, dưới một chủ đề: Ngai Tòa Thánh Phêrô.

Tại Rôma, trong đại thánh đường thánh Phêrô, người ta còn giữ được ngai toà (tiếng La Tinh cathedra) của vị giáo hoàng tiên khởi, có nghĩa là ngai toà, theo truyền thống, thánh Phêrô đã sử dụng. Nó là biểu trưng cho uy quyền của Đức Giáo Hoàng như là Thầy dạy, Thượng Tế và mục tử của Hội Thánh toàn cầu.

2. Thông điệp và tính thời sự

Thánh lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô giúp chúng ta đào sâu sứ vụ của vị Tông Đồ Phêrô và các đấng kế vị trong Hội Thánh, nhờ phong trào đại kết, tìm cách kết hợp mọi Kitô hữu.

a. Ngai Tòa Thánh Phêrô trước tiên nhắc nhớ đến sứ vụ Đức Giêsu trao phó cho Simon-Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Mặc cho thử thách mà đức tin các Tông Đồ phải chịu (Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo), đức tin của thánh Phêrô giữ vai trò nền tảng trong Hội thánh tiên khởi. Thánh Phaolô xác nhận Chúa Giêsu đã hiện ra với Céphas (Phêrô), sau đó cho nhóm Mười Hai (1 Cr 15,5); cũng thế, Phúc Âm thánh Luca xác nhận trong câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: “Nhóm Mười Một và các bạn hữu nói với họ: Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34)

Phụng Vụ nhấn mạnh việc “đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô” là đá tảng, trên đó Chúa đã xây dựng chúng ta. Phúc Âm Thánh lễ soi rọi niềm tin này của thánh Phêrô (Mt 16,13-19), trong lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Mêssias, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp: “Anh là đá, trên đá này Tôi sẽ xây Hội Thánh của Tôi” (c 18). Lời tuyên bố của Đức Giêsu là nguồn gốc sứ vụ cao vời thánh Phêrô thực hiện trong cộng đoàn tiên khởi, và theo truyền thống Công Giáo, là nguồn gốc Tối Thượng Quyền mà tất cả các Đức Giáo Hoàng được lãnh nhận từ thánh Phêrô.

b. Sứ vụ của thánh Phêrô, công bố niềm tin đích thực và chân chính vào Đức Giêsu Kitô, cũng là xác nhận niềm tin của anh em và khuyến khích những người có trách nhiệm trong Hội Thánh (Các kỳ mục hay trưởng lão). Vì thế, trong bài đọc một (1 Pr 5,1-4) thánh Phêrô nhắc nhở các kỳ mục, có nghĩa là những người đứng đầu các cộng đoàn, trách nhiệm của họ: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng vì lòng nhiệt thành... Đừng lấy quyền mà thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”

Đoạn Công Vụ Tông Đồ đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh nhắc đến việc những người đã cắt bì tranh luận với Phêrô. Sau khi thánh Tông Đồ “nhắc lại câu chuyện từ đầu và trình bày từng điểm một cho họ, các thính giả bình tĩnh trở lại và ca ngợi Thiên Chúa”. Như thế thánh Phêrô đã củng cố đức tin cho anh em và kết hợp mọi người trong Hội Thánh. Đá góc là Đức Kitô, nhưng Đức Giêsu nói với Phêrô: “Con là đá, có nghĩa là: Ta là đá không thể lay chuyển... còn con, con cũng là đá, con cũng vững vàng nhờ sức mạnh của Ta” (thánh Lêô Cả, Phụng Vụ Giờ Kinh).

---------------------------------

 

Suy Niệm 10. Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã


--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu như Thánh Phaolô có ngày té ngựa để làm lại cuộc đời, thì thánh Phêrô có mẻ cá kỳ diệu nhờ vâng lời để đứng dậy làm lại cuộc đời

Hôm nay lễ lập tông tòa thánh Phê-rô, là dịp chúng ta tưởng nhớ việc Đức Kitô chọn Phêrô làm người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.

Người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu huỷ sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một con người mang đậm tính chất phác, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy tuy đã rút gươm chém đứt một bên tai của người lính. Có lẽ ông đã phản ứng bởi tự nhiên, bởi tự vệ và cũng có thể vì ông nghĩ rằng giờ của Chúa đã đến. Ông sẽ cùng Thầy khôi phục lại nhà Israel. Nhưng ông đã lầm. Chúa Giêsu không những đã không hoan nghênh lại còn oán trách ông là hành động hồ đồ. Dùng gươm sẽ chết vì gươm. Đó không phải là cách Thiên Chúa dùng để thâu nạp muôn dân vào trong Nước của Ngài.

Thất vọng ông đã bỏ chạy trong đêm tối. Đêm tối của đức tin. Đêm tối của tuyệt vọng. Tưởng rằng sau đêm đó người ta sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Ông đã bỏ chạy cao xa, để mặc Thầy bị những con người cuồng nhiệt, nhân danh tôn giáo để giết hại Thầy mình. Nhưng rạng sáng hôm đó, người ta lại thấy ông xuất hiện chen lẫn giữa đám người còn đang cuồng nhiệt đòi giết Thầy mình. Một hành động quá chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Thế mà, ông lại một lần nữa vấp ngã trước sự dữ. Ông đã chối Chúa đến ba lần trong một đêm vì một đứa tớ gái đã vạch mặt chỉ tên là đồng bọn với tử tội Giêsu.

May mắn cho cuộc đời của ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm thức tỉnh lòng ông. Ông lấm lét nhìn lên Chúa và bắt gặp ánh mặt đầy nhân từ, cảm thông của Thầy. Chúa không nói lời nào với ông và ông cũng không còn lời nào để nói. Nhưng qua ánh mắt đầy nhân từ của Chúa, ông tin rằng Chúa biết rõ con người của mình. Chúa biết ông yêu mến Ngài.

Ông đã đứng dậy, bước ra ngoài sự dữ. Dứt bỏ nơi chốn nên cớ cho ông vấp phạm và khóc lóc ăn năn.

Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, Đức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó”. Họ về nhà. Đầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).

Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần". Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, về những vấn đề cấp bách của Giáo hội.

Thánh Phêrô được chọn làm đại diện của Chúa không phải vì Ngài hoàn hảo, cũng không phải vì Ngài tài trí hơn người, mà điều quan yếu hệ tại ở lòng thánh nhân luôn yêu mến Thầy chí thánh Giêsu. Xin cho chúng ta biết học nơi thánh nhân. Biết chỗi dậy sau những vấp ngã. Biết tin tưởng, phó thác cuộc đời trong tình thương quan phòng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, biết kính trọng vâng phục các người đại diện Chúa nơi trần gian, vì các ngài là hiện thân của Chúa đang dẫn dắt chúng ta. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11. Lập Tông Tòa thánh Phêrô-


-GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

Mừng kính lễ thiết lập ngai toà của thánh Phêrô, chúng ta không tôn thờ chiếc ghế như dấu chỉ của quyền cai quản Giáo Hội mà Chúa đã trao phó cho thánh Phêrô và những người kế vị ngài là các Đức Giáo hoàng. Nhưng chúng ta được mời gọi tôn vinh một tình yêu sẻ chia của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.

Quả thế, Chúa Giêsu đã có lần dạy các môn đệ rằng: “Anh em biết những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạnh sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 42-43).

Như thế, khi thiết lập ngai toà thánh Phêrô, Chúa muốn thông chia quyền bính cai trị dân Chúa cho con người, cụ thể là cho thánh Phêrô và các Tông tồ và những người kế vị các ngài là Giáo hoàng và Giám mục. Và những người lãnh nhận nhiệm vụ ấy sẽ phải hành xử theo cung cách của thầy Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” hay “Ta đến để cho chúng được sống dồi dào”.

Như thế, chia sẻ quyền bính cai trị cho con người là Thiên Chúa muốn mời gọi con người đi vào con đường phục vụ trong yêu thương. Và càng phục vụ trong yêu thương như Chúa, chúng ta sẽ tiếp tục làm cho ngai toà tình yêu ấy ngày một triển nở trong xã hội trần thế này. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy một thế giới yêu thương trong hiệp thông với nhau và phục vụ lẫn nhau. Và như vậy chúng ta sẽ đẩy lùi sự hận thù và gian trá, loại bỏ sự bất công và ghen ghét trong cuộc sống này.

Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương và chia sẻ quyền bính cai trị dân Chúa trong yêu thương và phục vụ cho chúng con. Xin cho các Đức Giáo hoàng, các Giám mục và tất cả chúng con biết đón nhận hông ân này trong tin yêu và phó thác, để chúng con có thể làm cho nước Chúa được vinh hiển trong cuộc đời này. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12. Con là đá, Ta sẽ trao cho con chìa khoá nước trời


--Lm. Micae Võ Thành Nhân

Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên nền đá là lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô tông đồ vào Chúa: “Chúa lại hỏi: Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Ông Simon Phêrô thưa: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 15 – 16).

Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Nghĩa là, Chúa chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Một Đức Chúa Cha và cùng là Chúa chúng ta. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi bà Maria đồng trinh…(Kinh Tin Kính).

Mặt khác, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô vào Chúa, Chúa liền nói: “Còn Thầy, Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Tức là, Chúa là Đá tảng của Chúa Cha. Vì thế, lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô vào Chúa,cũng trở thành đá, vững chắc không gì lay chuyển nổi trước những gian nan thử thách. Bởi đó, chúng ta suy ra rằng, thánh Phêrô không phải là Tảng Đá mà ngài chỉ là chia sẻ đá tảng của Chúa và được Chúa dùng để xây dựng Hội Thánh của Chúa trên trần gian này. Thế nhưng, Đá Tảng này bị thợ xây loại bỏ, nhưng đã trở nên tảng đá góc tường: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên tảng đágóc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta(Tv 117, 22 - 23). Đây là công trình kỳ diệu mà Chúa đã làm cho con người chúng ta để con người chúng được hưởng nhờ. Đó là một khi chúng ta sống bám vào Chúa, chúng ta sẽ không bị gian nan, thử thách, cay nghiệt quật ngã: “Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này” (Tv 117, 13).

Chúa xây dựng Hội Thánh trên nền đá là thánh Phêrô, nghĩa là Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đức tin, mà đức tin là ơn Chúa ban, cho nên đức tin thì kiên vững, cửa hỏa ngục sẽ không thắng được. Vì thế, Hội Thánh sẽ bền vững qua muôn thế hệ.

Suốt hơn hai ngàn năm qua, Hội Thánh Chúa luôn bị bách hại, bị khủng bố, bị đánh đập, bị tù đày, bị nhục hình, bị giết chết, nhưng Hội Thánh vẫn tồn tại, vẫn kiên vững, vẫn phát triển, vẫn lớn lên qua từng năm tháng, không có một thế lực nào phá hủy Hội Thánh được, đụng vào Hội Thánh thì có chết mà thôi “ Đụng vào Hội Thánh chẳng khác nào như trứng ném vào đá” (Napôlêông đại đế).

Hôm nay, toàn thể Hội Thánh mừng lễ kính Lập Tông Tòa Thánh Phêrô. Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ lại sứ mạng cao cả mà Chúa đã trao phó cho thánh Phêrô cũng như các thánh tông đồ: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16, 19), để rồi chúng ta biết Hội Thánh của Chúa không thể sai lầm trong việc cầm giữ đức tin cho chúng ta, nhất là trong việc tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Nhờ đặc ân không sai lầm của Hội Thánh (Ơn vô ngộ), mà tất cả con người chúng ta, qua muôn ngàn đời, đều vững tin vào Chúa, vào Hội Thánh và bước đi theo sự hướng dẫn, dạy dỗ của Hội Thánh để chúng ta đạt đến hạnh phúc đời đời sau này.

Lạy Chúa, hàng ngày chúng con vẫn lặp lại lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô ngày xưa: “Lạy Chúa, Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Chúng con không những tuyên xưng trên miệng lưỡi mà chúng con còn sống lời tuyên xứng này khi chúng con sốt sắng giữ đạo Chúa, xa lánh các tội lỗi, sống bác ái yêu thương phục vụ, tha thứ, nổ lực cầu nguyện, truyền giáo, góp công, góp của để xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian này. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13. Đức tin đá tảng


--Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Kính Tông Tòa Thánh Phêrô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô, xin Chúa gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan. Được đặt trong nhà thờ chính tòa của giáo phận, tòa của một Vị Giám Mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục. Lễ Kính Tông Tòa Thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho Vị Thủ Lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ Đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó, Chúa đã xây Hội Thánh của Người.

Khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách, khi biết ơn cứu độ của Chúa là cho tất cả mọi người, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách  Công vụ Tông Đồ cho thấy: Ông Phêrô thuật chuyện dân ngoại ăn năn trở lại. Này Phêrô, Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh. Không phải phàm nhân đã mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.

Khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách, khi biết bám chặt vào niềm tin đá tảng của thánh Phêrô như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói: Đức tin của thánh Phêrô là nền tảng vững vàng của Hội Thánh… Này anh Simon Phêrô, Thầy đã biết anh trước khi gọi anh ra khỏi thuyền, và đã cắt đặt anh làm người lãnh đạo dân của Thầy. Thầy đã trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi.

Khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách, khi biết đặt hết niềm tin tưởng cậy trông vào sự dẫn dắt của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phêrô nói: Tôi thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 22, vịnh gia cho thấy: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh là Phêrô, Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô chính là đá tảng, bởi vì, chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng, nhưng không phải ân sủng chung chung, mà là, ân sủng của Đức Kitô; Chúng ta được cứu độ nhờ đức tin, nhưng không phải đức tin chung chung, mà là, đức tin vào Đức Kitô. Chính Đức Kitô là đường, là chìa khóa mở cửa Nước Trời cho chúng ta, và Người đã trao chìa khóa ấy cho thánh Phêrô. Thánh Phêrô được chọn làm người đứng đầu, để kêu gọi muôn dân đến lãnh nhận ơn cứu độ, đồng thời, làm thủ lãnh tất cả các Tông Đồ và tất cả các Giáo Phụ. Giả như Thiên Chúa muốn ban cho các vị thủ lãnh khác một ơn nào, như đã ban cho thánh Phêrô, thì bao giờ Người cũng ban qua trung gian của thánh Phêrô. Không phải Đức Giêsu đã chọn thánh Phêrô, nhưng đúng hơn là, chính Chúa Cha đã chọn thánh nhân, khi Người mặc khải cho thánh nhân biết về Đức Giêsu, Con Một của Người, để rồi, trên nền đức tin vững vàng ấy, Hội Thánh của Đức Kitô sẽ vươn cao đến tận trời. Quyền lực tử thần không chế ngự được lời tuyên xưng ấy, vì đó là lời đưa đến sự sống, đưa những người tuyên xưng lên tới Thiên Quốc. Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô, ước gì Chúa giữ gìn Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Suy Niệm 14. Phêrô, con người trong sáng


Người ta nhớ rằng trong Tin Mừng người được nghe thấy luôn luôn chính là Phêrô. Ngài còn để lại hai bức thư, rất ngắn, trong công vụ tông đồ 14 chương đầu nói về Phêrô. Sau công đồng Giê-ru-sa-lem, Luca không nói về Phêrô nữa, phần còn lại dành cho Phaolô.

Biết Đức Giê-su...

Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.

Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.

Nhưng Phêrô còn những hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế, Đấng tế lễ và ngôn sứ, Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.

Ngài là lời, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô.

Tất cả vì Đức Ki-tô...

Đó là sức mạnh con người tự nhiên! Ngài đã theo Đức Ki-tô trong cuộc đời công khai với tất cả bản năng tự nhiên, còn do dự về Đức Ki-tô và về chính mình, thường hay đòi hỏi cho mình làm xúc phạm đến một người cùng làng quê với mình!

Sau lễ hiện xuống thì thật trong sáng, thật vững chắc, Phêrô đã có đức tin sao? chẳng nhưng tin mà còn biết bằng tai nghe, mắt thấy, tay sờ, và lòng mến được những hương vị ngạt ngào êm dịu trước sự hiện diện của Đức Ki-tô cháy đến từng thớ thịt toàn thân.

Ngài có thể nói với chúng ta như Đức Ki-tô nói: “hãy tin tôi đi, tôi đã thấy, đã nghe Người”. Với thánh Phêrô, chúng ta có thể thêm: “Tôi đã chối Chúa, nhưng Người vẫn yêu tôi”.

J.M

---------------------------------

 

Suy Niệm 15. Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ


Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.

Sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: "... Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Ga 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).

Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần" (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.

Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần -- trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.

Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: "... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm..." (Gl 2:11b, 14a).

Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn" (Ga 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.

Lời Trích

Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết..." (1 Pr 1:3a).

---------------------------------

 

Suy Niệm 16. Kính tông tòa thánh Phêrô


Cuộc tuyên tín của Thánh Phêrô tại địa hạt Philipphê Cêsarê là một bất ngờ lớn. Khi Phêrô được soi sáng để tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Trước lời tuyên xưng tuyệt vời của Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), Chúa liền hứa: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người được Chúa chọn để lãnh đạo Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Đặc biệt hơn, sức mạnh chống được sự dữ không phải là sức mạnh của cá nhân Thánh Phêrô, nhưng là chính quyền năng của Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các đấng kế vị ngài.

Lúc nào cũng vậy, Phêrô là con người nhanh mồm nhanh miệng, luôn nhiệt tình mau mắn để đại diện anh em để tỏ bày tâm tư thay cho anh em như khi Chúa Giêsu nói về Bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ đã bỏ đi. Nhưng Phêrô đã tỏ bày thật dễ thương “Bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.” Rồi trong đêm Chúa bị bắt Phêrô cũng bộc trực thề thốt: “Con thề sống chết với Thầy.” Nhưng rồi Phêrô đã vấp ngã khi chối Thầy ba lần.

Tưởng chừng là dấu chấm hết cho cuộc đời Phêrô. Những giọt nước mắt ăn năn tuôn chảy trước cái nhìn thân thương của Thầy Giêsu. Phêrô vẫn được Chúa Giêsu tín nhiệm trao trách nhiệm đứng đầu Hội Thánh sau lời tuyên xưng ban đầu: “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18) bằng lời thân thương: “Phêrô Con có yêu mến Thầy không... Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy.”

Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Đá Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Giáo Hội. Sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi ta sống trong Hội Thánh của Chúa.

Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.

Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ. 

Khi cử hành lễ kính Tông Tòa Thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), đồng thời trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt. Do đó ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu. Vì thế ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh.

Ngày lễ lập Tông tòa thánh Phêrô cũng nhắc nhở mỗi người cầu nguyện thật nhiều cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Thời đại nào cũng vậy, con thuyền Giáo hội vẫn luôn gặp những sóng gió của thử thách. Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với những khó khăn của Hội Thánh. Chính vì thế ngài luôn phải có ơn Chúa, sự soi sáng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con chiên mẹ của Chúa.

Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.

---------------------------------

 

Suy Niệm 17. Lòng tin của Phêrô


"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)

Suy niệm: Chúng ta nhìn vào đức tin của thánh Phêrô, hầu rút ra bài học cho mình. Phêrô vừa biết Chúa Giêsu thì đã tin vào Ngài, trở nên một trong bốn môn đệ đầu tiên. Ông được nghe lời giảng dạy của Chúa và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Tưởng chừng như lòng tin của ông kiên vững lắm.

Nhưng ta chưng hửng biết bao khi thấy ông tỏ ra yếu tin, ngã lòng, thất đảm, thậm chí chối bỏ đức tin nữa. Các trình thuật về việc Phêrô đi trên mặt nước rồi bị chìm (Mt 14,22-33), chối Chúa ba lần (Mc14,66-72), trốn chạy khi Chúa chịu nạn... cho thấy lòng tin của ông như thế nào! Cuối cùng, sau những lần yếu đuối, Phêrô đã kiên vững trong lòng tin cho đến chết. Gương của Phêrô cho thấy đức tin là một ơn của Chúa, con người khó mà có được lòng tin vững mạnh nếu Chúa không nâng đỡ (Lc 22,31-32). Về phần Chúa, ta thấy Ngài luôn lạc quan, tin tưởng vào Phêrô, dù biết rõ con người của ông.

Mời Bạn: Hẳn bạn không thể tự mãn về lòng tin của mình, dù bạn vẫn giữ đạo tốt, vẫn tin vào Chúa. Bạn cũng chẳng dám cho rằng mình có đức tin "lớn bằng hạt cải" (Lc 17,6). Đức tin của bạn phải trải qua thử thách thì mới là đức tin thật và mạnh mẽ.

Sống Lời Chúa: Khiêm tốn nài xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của bạn, trong sự xác tín rằng đức tin của bạn sẽ được củng cố nhờ cầu nguyện, nhờ Lời Chúa và bí tích Thánh Thể.

Cầu nguyện: Tâm sự với Chúa bằng lời Phúc Âm: "Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con" (Lc 17,5); "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin nâng đỡ lòng tin yếu kém của con" (Mc 9,24).

---------------------------------

 

Suy Niệm 18. “Abba”


Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)

Suy niệm: Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: "Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà Ngài lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ công rèn đúc phải rỉ sét ư?"

Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài quả thật là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng. Thế nhưng, là người Con hiếu thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế mà ý Cha là sai Con mình đến, không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và để thế gian nhờ đó được sống dồi dào.

Mời Bạn: Bạn không tin Thiên Chúa cách chung chung như những tín đồ tốt lành của các tôn giáo khác. Bạn tin và đến với Thiên Chúa qua người Anh Cả Đức Giêsu, Đấng là Thiên-Chúa-thần-linh, nhưng đồng thời cũng là con-người-xương-thịt như bạn. Nhờ sống trong tương quan thân thiết với người Anh Cả Thiên-Chúa-con-người này, bạn gặp được Thiên Chúa và dám mở miệng gọi Thiên Chúa: "Abba!" ("Cha ơi").

Sống Lời Chúa: Xem lại cách tôi sống với Đức Giêsu như thế nào: gắn bó thân thiết như nên "một" với Ngài hay hờ hững qua loa? Và tìm mọi cách để có thể như Ngài sống trong tôi mỗi ngày.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

---------------------------------

 

Suy Niệm 19. Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ


Hằng năm, vào ngày 22 tháng 2 tại Rôma, trong Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, Ngai tòa Thánh Phêrô do Berlini xây năm 1656 được thắp nến sáng.

Ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma là chiếc ngai khổng lồ, bên trong dựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của Thánh Phêrô, được bốn Thánh Tiến sĩ nâng trên tay: Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Atanasiô và Thánh Gioan Kim Khẩu. Bên trên có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch giả, chính giữa có hình chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.

Bên phải Ngai tòa Phêrô là đài kỷ niệm ÐGH Urbanô VIII và hai tượng biểu trưng cho nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Bên trái là đài kỷ niệm ÐGH Phaolô III do G. della Porta tạc: phía trên có tượng của ÐGH, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Cẩn Trọng và Công Bằng. Trên đường sang cánh trái của gian ngang, bên phải là đài kỷ niệm ÐGH Alessanđrô VIII do E. di S. Martino tạc năm 1725, bên trái là bức tranh Thánh Phêrô chữa người bất toại được khảm đá mầu của F. Mancini.

Chữ “Cathedra” có nghĩa là chiếc ghế hay giảng tòa và có nguồn gốc từ chữ “Cathedral”, nơi một vị giám mục có giảng toà để ngài giảng dạy. Một từ khác được dùng cho “Cathedra” là “sedes” từ chữ “See” nghĩa là Tòa nơi một vị giám mục điều hành giáo phận của mình. Như thế từ “Holy See” nghĩa là Tòa Giám mục Rôma, nơi Ðức Giáo Hoàng ngự trị, hay được gọi là Tòa Thánh.

 Trong suốt dòng lịch sử, Ngai tòa Thánh Phêrô mang theo hai nghĩa: Ðó là chiếc ghế như một biểu tượng (biểu tượng quyền tối thượng của Thánh Phêrô); trong thời cổ chiếc ghế hay “cathedra” là một biểu tượng quyền giảng dạy và như thế chiếc ghế được coi như một vật thể (ngai tòa của Charles de Bald được Đức Giáo Hoàng Gioan VIII sử dụng và các vị Giáo Hoàng kế nhiệm).

Lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô được kỷ niệm hằng năm vào ngày 22 tháng 2. Vào thời kỳ phụng vụ Rôma còn chịu ảnh hưởng của Giáo Hội Gallica, ngày mừng của Phụng Vụ Gallica, là ngày 18 tháng 1, nhưng ngày 22 tháng 2 vẫn được cử hành với tước hiệu “Lễ lập Tông tòa Phêrô tại Antiôkia”. Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV đã truyền vào năm 1558 phải mừng cả hai lễ trọng. Bộ luật Chữ Ðỏ năm 1960 chỉ giữ lại ngày 22 tháng 2 là “Ngày lập Tông tòa Phêrô tại Rôma” cho giáo hội toàn cầu.

Hôm nay, chúng ta cũng tưởng nhớ đến việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.

Sau những ngày sống trong đau khổ, hồ nghi và dằn vặt vì chối Thầy, và nhất là phải chứng kiến cảnh Thầy bị đóng đinh, bị chết và được an táng, thì ngày thứ ba, Phêrô đã được nghe Tin Mừng Phục Sinh. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô”. Thánh Gioan tường thuật lại: khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ nhanh chân hơn vị tông đồ lớn tuổi kia, đến mộ Thầy trước, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “... Họ không hiểu rằng theo Kinh Thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (x. Ga 20,1-10). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: “Bình an cho các con,” và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20,21b).

Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (x. Cv 2,1-12)

Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22,32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần - trước giới thẩm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước Thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. (x. Cv 9,32-42) Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành. (x. Cv 5,12-16)

Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với dân ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của Phúc âm...” (Gl 2,11b.14a).

Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải dang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21,18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nerô, trên đồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô hữu khác.

Mừng lễ kính Ngai tòa Thánh Phêrô là một dịp Giáo Hội kêu mời các tín hữu hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Giáo Hoàng trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.

---------------------------------

 

Suy Niệm 20. Lập Tông Tòa Thánh Phêrô


“Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc …”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Câu hỏi này thật dễ với những người nhạy tin tức như các tông đồ. Các ông đua nhau trả lời: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị tiên tri”. Các câu trả lời cho thấy dân chúng nhìn nhận Đức Giêsu là người được Thiên Chúa sai đến, là một tiên tri, nhưng vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.

Câu hỏi Đức Giêsu là ai, không chỉ là vấn nạn cho những người cùng thời, thắc mắc này cũng mang đến sự hoài nghi ngay giữa các môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Khi Người hỏi: “Còn anh em bảo thầy là ai?” Chúa Giêsu đọc thấy được sự im lặng cách bị động từ phía các tông đồ. Các ông không còn tranh nhau nói nữa. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu ròng rã gần 3 năm, là những người thân thiết nhất của Ngài, nhưng họ cũng không có câu trả lời xác đáng cho chính mình. Chỉ một mình Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đấng Kitô”.

Và Đức Giêsu bảo Phêrô: “Anh thật là có phúc”. Thật là phúc cho Phêrô vì không phải tự ông cảm nghiệm và biết được mầu nhiệm Đấng Kitô đã làm người. Phúc cho ông khi điều ông vừa tuyên xưng được chính Chúa Cha mặc khải cho. Đây là một hồng ân lớn lao dành cho Phêrô. Phêrô không thuộc hàng học giả chuyên nghiên cứu Kinh Thánh như nhóm Pharisêu hay tư tế. Cũng không nằm trong số những bậc trưởng lão đáng kính có tư tưởng cao siêu trong dân. Phêrô chỉ là một anh đánh cá nhà quê ít học, sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, việc Phêrô được chọn, được mặc khải là một ơn ban cách đặc biệt.

Chúa đã chọn gọi và trao cho Phêrô sứ vụ xây dựng Hội Thánh của Chúa. Phêrô đã đáp trả bằng hành động tuyên xưng và tin vào Đức Kitô. Vì tin, Phêrô dám bỏ tất cả để theo Thầy. Vì tin, Phêrô dám quay trở lại sau khi chối Thầy. Vì tin, Phêrô đã hiến trọn cuộc sống còn lại ở trần gian vì thập giá của Thầy. Và vì tin, Phêrô dám chết trên cây gỗ như Thầy, nhưng xin treo ngược vì vẫn cảm thấy không xứng đáng với Thầy. Tin nghĩa là yêu. Và yêu tức là tin. Phêrô đã diễn tả niềm tin và tình yêu của mình một cách mạnh mẽ và mãnh liệt nhất để bù lại những yếu đuối và bất xứng của ông.

Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương thánh Phêrô. Biết dâng trọn những yếu đuối và bất toàn của con trong bàn tay quan phòng của Chúa, để con được Chúa thánh hóa và trở nên công cụ hữu dụng của Chúa. Xin cho con biết tin yêu Chúa trong mọi hành động, trong mỗi giây phút của cuộc đời con. Amen!

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây