Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna. Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”. Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.
Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, các Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến các phụ nữ Galilê. Họ chỉ đứng nhìn Thầy từ xa (Mt 27,55; Mc 15,40; Lc 23,49). Còn Tin Mừng Gioan lại mô tả nhóm phụ nữ đứng gần thập giá. Người phụ nữ đầu tiên được kể tên là thân mẫu Đức Giêsu. Mẹ đã theo Con đến tận núi Sọ, dám chứng kiến và cảm nghiệm mọi nỗi đau của Con. Mẹ can đảm nhận mình là mẹ của người tử tội, đang ở trong giây phút cuối đời, đang đối diện với cái chết. Người gần chết thường hay trối trăng một điều quan trọng, một điều cần phải làm sau khi họ nhắm mắt. Đức Giêsu trên thập giá cũng muốn để lại một lời trối. Từ trên cao, Ngài nhìn thấy thân mẫu của mình và người môn đệ mình yêu dấu đứng kề bên, Ngài muốn tạo một tương quan thân thiết giữa họ. Ngài nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26-27). Hai người không ruột thịt máu mủ, bây giờ thành mẹ con. Có người nghĩ chuyện Đức Giêsu làm ở đây cũng thường thôi. Vì biết mình sắp chết, nên Ngài giao phó Mẹ cho môn đệ, để anh này thay mình chăm sóc Mẹ cho tròn chữ hiếu. Thật ra lời trăng trối của Đức Giêsu mang tầm vóc lớn hơn nhiều. Chúng ta không rõ khi Ngài lên đường đi sứ vụ, ai đã lo cho Mẹ. Ngài để lại Mẹ ở nhà, và Ngài đòi các môn đệ cũng làm như thế. Không rõ lúc cuối đời, Ngài có thấy cần người chăm sóc Mẹ không? Dù sao trước khi Ngài nói với anh môn đệ: “Đây là mẹ của anh” thì Ngài đã giới thiệu anh với Mẹ: “Đây là con của bà.” Ngài xin Mẹ nhận anh này làm con và chăm sóc anh. Sau đó Ngài mới giới thiệu Mẹ với anh: “Đây là Mẹ của anh.” Người môn đệ đã nhận bà làm mẹ, và đã đón bà về nhà mình. Đức Giêsu đã làm xong chuyện cuối cùng mà Ngài phải làm, đó là tạo lập một tương quan mẫu tử giữa Mẹ và anh môn đệ. Với sự bình an thanh thản của người đã hoàn thành sứ mạng, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất !” (Ga 19,28.30). Có người nghĩ rằng Thầy Giêsu trên thập giá chỉ muốn nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài mến thương. Đó là chuyện thuần túy riêng tư giữa hai người. Anh môn đệ này không đại diện cho các kitô hữu, nên cũng chẳng có tương quan nào giữa Mẹ Maria và chúng ta. Truyền thống Công giáo nghĩ không nghĩ như thế, nhưng coi cử chỉ trăng trối cuối cùng này của Đức Giêsu đã kết nên mối dây giữa Mẹ Ngài với mọi kitô hữu. Đức Giêsu đã chia sẻ tương quan làm con của Mẹ cho chúng ta. để chúng ta cũng có thể coi Mẹ Maria là Mẹ của mình. Đây là món quà quý giá Ngài ban cho ta lúc gần kề cái chết. Chẳng thấy Mẹ hay anh môn đệ nói gì sau lời của Đức Giêsu, nhưng chúng ta biết cả hai đã sống tương quan mới sau đó. Đức Maria đã trở nên mẹ của từng kitô hữu. Mẹ đã là môn đệ trung tín theo Con mình đến tận thập giá. Người môn đệ Chúa yêu đứng gần cũng theo Thầy đến cùng. Cả hai làm nên một gia đình thiêng liêng. Khi vào một nhà thờ Công giáo, chúng ta thấy lòng ấm lại, vì có sự hiện diện cảm thông của một Người Mẹ, Người đã ở với Đức Giêsu hơn ba mươi năm, đã sinh dưỡng, dạy dỗ, chở che, và làm cho Ngài lớn lên. Đức Maria là thành viên và là Mẹ của Hội Thánh, là người đứng dưới chân thập giá với nhóm phụ nữ ở Galilê, nhưng cũng là người có phúc hơn mọi phụ nữ, là người cầu nguyện với các môn đệ chờ Thánh Thần đến, nhưng cũng là người được Thánh Thần ngự từ lúc truyền tin. Chúng ta mong Chúa Giêsu cứ nói với Mẹ: “Đây là các con của Bà.” Và nói với chúng ta: “Đây là Mẹ của anh chị em.” Và chúng ta cũng mong Mẹ nhắc nhở chúng ta nhiều lần: “Hãy làm những gì Người bảo!”
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, Chúng con tạ ơn Chúa Giêsu đã ban cho chúng con một người mẹ như quà tặng vô giá lúc Người sắp lìa đời. Mẹ được chọn làm thân mẫu của Chúa và được ban đầy ân sủng siêu phàm, khiến muôn thế hệ phải ngợi khen chúc tụng. Nhưng Mẹ cũng là tỳ nữ mọn hèn luôn mau mắn thi hành ý định của Thiên Chúa, dù Mẹ chẳng hiểu hết được mầu nhiệm cao sâu. Chúng con tưởng Mẹ sẽ đi trên con đường đầy hoa, nhưng thật ra Mẹ đã đi con đường của Chúa, con đường gập ghềnh và trắc trở, với lưỡi gươm sắc đâm thấu tâm hồn. Trong đời Mẹ có bao tiếng xin vâng trên môi, từ tiếng xin vâng đầu tiên đến tiếng xin vâng trên núi Sọ. Những tiếng xin vâng này hợp với tiếng xin vâng của Con Mẹ để Người đem ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria, là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con. Mẹ đã sống trọn phận người như chúng con, và đã chiến thắng sau khi kết thúc cuộc đời trần thế. Mẹ hiểu chúng con cần lời cầu bàu của Mẹ biết bao đang khi phải chiến đấu giữa trần gian đầy sóng gió. Ước gì chúng con cũng có phúc vì đã tin như Mẹ, có phúc vì đã làm cho Con của Mẹ được sinh ra, và được lớn lên trong thế giới hôm nay. Amen. ---------------------------------
Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định: “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”
Trích diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, dịp kết thúc khóa III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964:
Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.
Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.
Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lễ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.
Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.
Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.
Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quảng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống :
‘‘Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Trích Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.
Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối với Đức Mẹ.
Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc”.
Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được cử hành theo cùng thể thức ấy”.
Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)
“Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19, 25-27).
Chính đoạn Tin Mừng này chỉ cho thấy tước hiệu Đức Maria, Mẹ Hội Thánh. Ở đây, Chúa Giêsu ủy thác thánh Gioan cho Đức Mẹ như người con được tái sinh vào đời sống thiêng liêng mà chỉ có Mẹ mới làm được. Như thế đây không phải đơn giản là lòng sùng kính Mẹ, cầu nguyện với Đức Trinh Nữ với tước hiệu này, nhưng là tuân theo ý muốn của Chúa Giêsu, vì điều này được truyền lại cho chúng ta từ Kinh thánh: Chúa Giêsu, với những lời tuyên bố ngay lúc cận kề cái chết, xin Đức Maria chăm sóc mỗi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đòi hỏi mỗi người phải cảm thấy được ở trong mối tương quan tình con thảo với Mẹ.
Đức Maria trung tâm giáo lý về ơn Cứu độ
Lòng sùng kính đối với Đức Maria - giống như tôn kính Thánh giá và Bí tích Thánh Thể - luôn luôn là một trụ cột cơ bản của đức tin, nhưng với lễ nhớ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được thiết lập vào năm 2108, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm nhiều hơn nữa. Trước hết, ĐTC muốn làm thế nào để lòng sùng kính này có thể là điều tốt cho Giáo hội và có thể làm gia tăng ý nghĩa vai trò làm Mẹ trong Hội Thánh của Đức Maria, nhưng trên tất cả là đặt Đức Maria ở trung tâm giáo lý về ơn cứu độ. Thực tế, trong mối tương quan với Chúa Kitô, lòng đạo đức đối với Đức Maria xuất phát trực tiếp từ đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Bởi vì Chúa muốn Mẹ, một người phụ nữ, là Mẹ của Con Thiên Chúa, qua mẹ, con người có thể đạt tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Vai trò làm mẹ của Đức Maria bắt đầu bằng việc Truyền tin: Với lời xin vâng, Đức Mẹ ưng thuận để Chúa đi vào lịch sử. Và vì thánh ý Thiên Chúa, việc làm mẹ của Đức Maria không kết thúc dưới chân Thánh giá, mà trở nên vĩnh cửu. Hơn nữa, trong ngày Lễ Ngũ Tuần Mẹ còn hiện diện cùng với các tông đồ - các tín hữu đầu tiên chờ đợi Chúa Thánh Thần: đây là mối liên kết giữa việc kính nhớ Mẹ Hội Thánh với Lễ Chúa Thánh Thần mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn nhấn mạnh.
Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ trong giáo huấn của các Giáo hoàng
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Hội Thánh có nguồn gốc xa xưa và đã hiện diện trong Giáo Hội thời của Thánh Augustinô và Thánh Leo Cả. Trong nhiều thế kỷ, lòng sùng kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu, nhưng với tước hiệu Mẹ Hội Thánh xuất hiện trong một số văn bản của các tác giả thiêng liêng và trong giáo huấn của ĐTC Benedict XIV và Leo XIII. Tuy nhiên, phải đợi đến ĐTC Phaolô VI mới có bước ngoặt; đó là ngày 21 tháng 11 năm 1964, khi kết thúc phiên thứ ba của Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ Hội Thánh”, nghĩa là của mọi Kitô hữu". Với quyết định này, ĐTC Phaolô VI lấy nội dung chủ yếu trong Tín điều của Công đồng Nicea năm 325 và trên hết là các quyết định của các giáo phụ Công đồng Êphêsô (430), xác định Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa". Trong Năm Thánh (1975), có Thánh lễ tạ ơn sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, sau đó lễ này được đưa vào Sách lễ Rôma, nhưng chưa phải là lễ nhớ bắt buộc trong lịch phụng vụ. Tuy nhiên, ở một số quốc gia - ví dụ Ba Lan và Argentina - và trong một số hội dòng, lễ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được đưa vào lịch riêng. Vào năm 1980 ĐTC Gioan Phaolô II đưa lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh vào trong kinh nguyện. Và đến ngày 11 tháng 02 năm 2018, kỷ niệm 160 năm lần đầu tiên Đức Trinh Nữ hiện ra tại Lộ Đức. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ấn định lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, được ghi vào Lịch Rôma và được cử hành hàng năm, vào thứ hai sau Chúa Thánh Thần hiện xuống.
WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”
Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.
Vai trò của Đức Maria
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.
Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô – Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.
Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô… những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu… Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.
Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.
Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội
Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất… và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).
Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).
“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.
Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).
Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.
Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ – Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.
Ngược dòng lịch sử các biến cố trong Giáo Hội, chúng ta nhận thấy từ ngày mồng 01 tháng 11 năm 1953 tới ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, Giáo Hội Công Giáo đã cử hành Năm Thánh Đức Mẹ nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Đức Thánh Cha Pi-ô IX công bố Tín Điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vào ngày mồng 01.11.1954 (là ngày bế mạc Năm Thánh Đức Mẹ) Đức Pi-ô XII đã công bố việc thiết lập ngày Lễ Đức Mẹ, Trinh Nữ Vương, và ấn định Giáo Hội Công Giáo sẽ cử hành lễ này vào ngày 31 tháng 05, ngày cuối cùng trong Tháng Hoa kính Đức Mẹ. Sau đó, Đức Thánh Cha Phaolô VI vào năm 1969, chuyển lễ này sang ngày 22 tháng 08, đúng 8 ngày sau Đại Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, và được cử hành trong Giáo Hội với bậc Lễ Nhớ. Khi thực hiện việc thay đổi này, Giáo Hội đã có một lời giải thích như sau: “Để sự liên kết giữa phẩm hàm Trinh Nữ Vương của Đức Maria với việc Mẹ được cung rước về Thiên Đàng trở nên rõ ràng hơn.”
+ Ngày 01 tháng 11 năm 1954, đúng bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng tôn vinh Đức Trinh Nữ là: ”Sự cứu rỗi của dân thành Rôma và toàn thế giới”. Đức Thánh Cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Chúa Giêsu và Mẹ Maria kèm với lời nguyện: ”Xin Mẹ cai quản trên Giáo Hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia. Trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, trên mặt đất và cả biển khơi”. Ngài còn nói: ”Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập vào mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử”. (tổng hợp internet)
+ Trong truyền thống và lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy xuất hiện những lời kinh cổ xưa nhất ca ngợi Mẹ, và cũng thể hiện niềm tin Mẹ là Nữ Vương Vũ Trụ : ”Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông” (Salve Regina). Rồi, lời kinh “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng…” (Regina caeli)… Niềm tin Mẹ là Nữ Vương phát xuất từ Mặc Khải Kinh Thánh. Lời Kinh Thánh mang tính thần bí của thánh Gioan trong Sách Khải Huyền 12,1 cho chúng ta thấy rõ phẩm vị nữ hoàng vũ trụ của đức mẹ: ”Một điềm lạ xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Và như một lẽ tất yếu, Triều Thần Thiên Quốc đồng thanh tung hô: ”Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10); Thánh Vịnh 44 diễn tả: ”Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy” (Tv 44, 10).
+ Trong Bài Đọc II (Gl 4, 4-7) thánh Phaolô xác định:
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ". Và trong Bài Tin Mừng (Lc 1, 26-38), “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao”. Chúng ta xác tín trong đức tin tông truyền: Mẹ chính là nữ hoàng vì Mẹ là Mẹ của Con Thiên Chúa, Chúa Cứu Thế.
- Mừng Lễ Đức Mẹ - Trinh Nữ Vương hôm nay, người tín hữu Ki-tô thánh hiến cần phải NHÌN LẠI quá khứ và NHÌN TỚI tương lai để thể hiện một lối sống hiện sinh với Mẹ: tràn đầy niềm vui và tình yêu.
+ Mừng Lễ Mẹ,Trinh Nữ Vương trong đời sống thánh hiến
* Cần phải NHÌN LẠI:
- Nhìn Lại > Nhìn về phía bên trong – Kiểm Điểm đời sống.
- Mừng Lễ Mẹ, tôi có vui không? “Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa”. (BĐ I: (Is 9, 2-4. 6-7) Mức độ niềm vui nội tâm của tôi như thế nào? - mãnh liệt? phôi pha - nhạt nhòa? Tình yêu của tôi đối với Mẹ như thế nào? Trong mối tương quan đối với Mẹ, niềm vui và tình yêu nội tâm của tôi ra sao? (đòi hỏi của tình yêu là kết hiệp nên một với người yêu, Mẹ đáng yêu vô cùng) …tôi đã đạt tới trình độ kết hiệp thần bí nào (unio mystyca / mystical union / union mystique) với Chúa, với Mẹ, là Nữ Vương các thánh đồng trinh? Tôi là người vô cảm? Tôi không thể nhạy cảm, rung động trước vinh quang và tình yêu của Chúa và Mẹ? Chỉ số trí tuệ cảm xúc của tôi (EQ = emotional quotient) thế nào? [thấp= dưới 84 / trung bình = từ 85 – 115 (68% quần thể người) / cao = từ 116 – 130 / xuất sắc = từ 130 trở lên (2%)]. Nhờ Ơn Chúa và tập luyện linh thao … – con người có thể đạt tới chỉ số trí tuệ cảm xúc cao, dạt dào tình yêu … Cần phải NHÌN LẠI, nhìn về phía bên trong để chấn chỉnh, để làm mới lại (refresh) tình yêu của tôi đối với Chúa, đối với Mẹ.
* Cần phải NHÌN TỚI:
- Nhìn Tới > Nhìn về phía đằng trước – Định hướng cuộc đời.
- Cùng với Mẹ tạ ơn Chúa: ”linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.
- Tái thánh hiến đời sống thánh hiến cho Mẹ mỗi ngày: “Lạy Mẹ Maria là Mẹ của con, toàn thân con thuộc về Mẹ”.
- Từ nay, mời Mẹ hiện diện trong mọi sinh hoạt thường ngày: Mẹ ơi, mời Mẹ đọc kinh với con, dâng lễ với con, mời Mẹ làm việc với con, ăn cơm với con, xin Mẹ vui với con, khổ với con, hạnh phúc với con = một sự hiện diện nồng nàn, ấm áp tình Mẹ - tình con…rất hiện sinh-huyền nhiệm, vô cùng mãn nguyện!
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Đức Maria – Mẹ Hội Thánh, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Maria, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng ta. Nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, xin cho Hội Thánh được vui mừng: vì đoàn con thánh thiện, và vì muôn dân quy tụ về nên một trong Chúa.
Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Maria, bởi vì, chính Mẹ đã sinh hạ Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh, và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phaolô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này, trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Vaticanô II ngày 21/11/1964, và quyết định: Toàn dân Kitô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất dịu ngọt này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.
Nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra rằng: chỉ có Chúa là bền vững, còn mọi sự đều mau qua chóng tàn, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên đã cho thấy: Thú vui không đem lại hạnh phúc thật: hoạt động của con người, dưới bất cứ hình thức nào cũng thế. Cái chết kết liễu cả hai. Cái chết làm cho chính cuộc sống nên đáng ghét, đối với người Sêmít, đây là nghịch lý, lời nói không diễn tả hết được. Trong khung cảnh đổ vỡ này, chỉ còn một thực tại duy nhất đứng vững, đó là Thiên Chúa và kế hoạch Người muốn thực hiện cho con người: Ai đẹp lòng Thiên Chúa, thì Người ban cho trí khôn ngoan, sự hiểu biết và niềm vui; ai có tội, thì Người bắt phải vất vả gom góp và tích trữ để trao lại cho kẻ đẹp lòng Người. Điều ấy cũng chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát.
Nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, xin Chúa cho chúng ta biết bắt chước các nhân đức của Mẹ, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Đức Phaolô VI đã nói: Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Kitô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Kitô rao giảng. Vì thế, khi quảng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Kitô cách hoàn hảo.
Nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, xin Chúa cho chúng ta biết vững tin vào lời hứa cứu độ của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế tường thuật lại, Chúa nói với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 86, vịnh gia cũng cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ của Người: Thành của Thiên Chúa hỡi, thiên hạ nói bao điều hiển hách về thành! Chúa ghi vào sổ bộ các dân: “Kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó.” Và ai nấy múa nhảy hát ca: “Xion hỡi, mọi nguồn gốc của tôi ở nơi thành.”
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Đức Nữ Trinh diễm phúc, Đấng đã sinh hạ Chúa Trời. Lạy Thân Mẫu hồng phúc của Hội Thánh, Đấng giữ nơi chúng con lửa Thần Khí của Đức Giêsu Kitô, Con lòng Mẹ. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật lại biến cố dưới chân thập giá: Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: Thưa Bà, đây là con của Bà. Rồi, Người nói với môn đệ: Đây là mẹ của anh. Đức Maria đã vâng lời Thiên Chúa cho đến cùng dưới chân thập giá, cho nên, Mẹ đã trở thành Mẹ của Hội Thánh, Mẹ của toàn thể nhân loại. Ước gì chúng ta cũng biết mau mắn vâng lời Chúa như Mẹ, để cũng như Mẹ, chúng ta cưu mang và sinh hạ Chúa cho thế giới hôm nay. Ước gì được như thế!
Một nhà văn kể lại rằng, trong cuộc chiến tranh trước đây, nhiều người chạy loạn, phải ẩn náu trong một trường học. Một hôm người ta ngửi thấy mùi hôi nồng nặc, họ sục sạo và phát hiện ra một người đàn bà ngồi ở một góc phòng đang ôm xác đứa con ba tuổi của bà. Người ta giằng lấy xác đứa trẻ đem đi chôn, nhưng bà mẹ gào lên: nó chết thì chết nhưng nó là con tôi, hãy trả lại con cho tôi.
Đây có thể coi là hình ảnh đại diện cho tình mẫu tử, bà mẹ Việt Nam thương con vô cùng. Từ hình ảnh này, ta nhìn lên Đức Maria, Mẹ của Hội Thánh, Mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ đã đứng dưới chân thánh giá thông phần trọn vẹn vào công cuộc cứu độ nhân loại với Chúa Giêsu con Mẹ. Mẹ cũng mang tâm tình như bà mẹ Việt Nam thương con, và còn hơn thế nữa, Mẹ Maria là mẫu gương cho mọi tình mẫu tử. Mẹ chấp nhận bao cái nhìn, cùng những lời khinh bạc người ta đổ lên đầu con mình. Bởi dù sao chăng nữa, người con Giêsu đã được Mẹ sinh thành dưỡng dục, và cho dù người ta có chống đối có đóng đinh như tội nhân thì Giêsu vẫn là con chí ái của Mẹ.
Tuy nhiên, ta không chỉ dừng lại ở tình cảm tự nhiên ấy, dù đấy là tình cảm đáng trân trọng và quý mến. Nhưng ta hãy nhìn lên Mẹ như ánh sao đức tin, ánh sao hy vọng. Bởi thực, Mẹ là người môn đệ của Chúa, Mẹ đã đi cho đến cùng cuộc lữ hành đức tin, khởi đầu với lời “xin vâng” và trung tín trong mọi hoàn cảnh.
Mẹ thực là Mẹ của chúng ta về phương diện đức tin. Mẹ thực là mẹ Hội thánh, qua lời trăn trối của Chúa Giêsu với Mẹ: “Này là con bà” và với Gioan: “Này là mẹ con”, và thánh Gioan đã đại diện cho các môn đệ đón rước Mẹ về nhà. Cho nên, suốt dọc dài lịch sử Mẹ luôn đồng hành, dẫn dắt và nâng đỡ con cái Mẹ trong cuộc lữ hành đức tin thường ngày.
Năm 1917, trước nạn vô thần và chiến tranh lan tràn khắp thế giới, Đức Mẹ đã hiện ra 6 lầm với 3 trẻ: Lucia, Francisco, và Jancinta tại làng Fatima – Bồ Đào Nha. Mẹ làm phép lạ chữa lành nhiều bệnh nhân. Mẹ nhắn nhủ mọi người: Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều rồi! Các con hãy cầu nguyện và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại và cầu nguyện cho thế giới được hòa bình.
Ngay trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, vào năm 1789, thời vua Cảnh Thịnh cấm đạo, các tín hữu phải chạy vào rừng núi La Vang – Quảng Trị để ẩn náu. Đức Mẹ đã hiện ra âu yếm an ủ con cái kiên trì qua cơn bách hại, Mẹ dạy hái lá quanh đó nấu uống sẽ chữa được nhiều bệnh.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng nhận được muôn phúc lành nơi Chúa vòng tay từ ái của Mẹ.
Lạy nữ vương, Mẹ gia đình Mẹ ở đây với chúng con, vui buồn sướng khổ, Mẹ con cùng nhau chia sẻ, xa Mẹ chúng con biết cậy trông ai, đời chúng con gian nan khổ sở lắm, gia đình chúng con long đong tối ngày, nhưng có Mẹ ở bên chúng con thấy quyên hết ưu phiền vui sống qua kiếp lưu đày, mong ngày sau sung sướng cùng Mẹ trên thiên đàng. Amen.
Với Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Đức Mẹ Lộ Đức truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh. Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh cử hành với niềm vui khôn tả, khởi đi từ: “Khi đón nhận Lời Chúa với tâm hồn trong trắng, Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời trong cung lòng khiết trinh, và khi hạ sinh Đấng thiết lập Hội Thánh, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Khi đứng bên thập giá, Mẹ đón nhận lời trối đầy yêu thương của Con Chúa, và đã nhận tất cả mọi người làm con, những người được tái sinh vào đời sống siêu nhiên nhờ cái chết của Đức Kitô” (Kinh Tiền tụng: Đức Maria là khuôn mẫu và là Mẹ của Hội Thánh).
Trong ngày này Hội Thánh dâng lời ngợi khen tung hô Chúa, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Ðẹp “Tota Pulchra”, vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Chúa Con. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ Adong và Evà phạm tội.
Thiên Chúa là Cha nhân từ
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ Hội Thánh
Đức Maria đã được Thiên Chúa tiền định từ muôn thủa trong yêu thương và chọn Mẹ làm Đấng cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và đồng hành cùng Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc loài người, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Trong tình thương, Ngài đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Ngài, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5). Do đó, Đức Maria là Mẹ chúng ta.
Thật hiển nhiên: “Lúc bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu nói với môn đệ Người yêu: Này là Mẹ con” (Ga 19, 26-27). Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Đức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu” (Sắc Lệnh về việc cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh). Vì thế, Mẹ là Mẹ Hội Thánh.
Hội Thánh cùng với Mẹ tiến bước
Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh”.
Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.
Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.
Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh với niềm vui khôn tả.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, “đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4), và Người Con đó “đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” (Kinh Tin Kính).
Đức Mẹ Chúa Kitô
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không?Chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Chúa Kitô?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria được gọi là Mẹ Chúa Kitô.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Đức Mẹ Hội Thánh
Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 53 của Công Đồng Vatican ô II viết: Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đã dâng Con lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta” (LG 61).
“Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh.” 525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh” (x.GLHTCG số 963).
Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người Mẹ hiền.
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Giáo Hội lễ kính Mẹ
Việc sùng kính Mẹ vào thứ Hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ “giữa một đàn em đông đúc” của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Đức Mẹ cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu” (Cv 1,14). Hơn nữa: “Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin” (LG 59), và “ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. Mẹ ở trên trên vẫn tiếp tục thiên chức làm mẹ bằng việc chuyển cầu cho tới khi Hội Thánh đạt tới quê trời (LG 62).
Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. Mẹ là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (GH 63). Là hình ảnh của Hội Thánh tại thế “Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng” (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. “Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10).
Lạy Mẹ Hội Thánh, trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới vì đại dịch, chúng con cầu xin Mẹ, chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan khốn khó, xin giải thoát chúng con khỏi mọi hiểm nguy.
Đức Maria luôn là Mẹ khả ái của Giáo Hội, là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta:
Dù ta đi suốt cuộc đời,
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Dù ta đi trọn kiếp người,
Cũng không đi hết những lời mẹ khuyên.
Mẹ hằng cầu xin tuôn đổ tràn đầy ân sủng Chúa Thánh Thần và hướng dẫn nhắn nhủ các môn đệ và dân Chúa tới gần Chúa Giêsu hơn.
Công Đồng Vaticanô II trong hiến Chế Lumen Gentium sau khi tuyên bố Đức Maria là “thành viên trổi vượt” là “kiểu mẫu” và ‘gương sáng” của Giáo Hội, Công Đồng dạy tiếp: “Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu (LG 53).
Khi mô tả những tình cảm con thảo của mình, Giáo Hội nhìn nhận Đức Maria là người Mẹ yêu quý nhất của mình, gián tiếp tuyên bố người là Mẹ Giáo Hội, vì những lý do sau:
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi nhận làm Mẹ Chúa Giêsu: “Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đức Kitô cũng là Mẹ của tất cả mọi tín hữu và các chủ chăn, nghĩa là Mẹ Giáo Hội” (Đức Phaolô VI).
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô: “Đây là con Bà… Đây là mẹ con” (Ga 19,26-27).
- Mẹ là Mẹ Giáo Hội khi ở nhà Tiệc Ly, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: "Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?" Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria". Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...". Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
Tước hiệu này ít được sử dụng trong quá khứ, nhưng mới đây trở nên phổ biến hơn trong những công bố của huấn quyền Giáo Hội và trong sự sùng kính của dân Kitô hữu. Đầu tiên, người tín hữu kêu cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ tín hữu” hay là “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh tới tương quan với từng đứa con của mình.
Về sau, do sự chú ý nhiều hơn tới mầu nhiệm Giáo Hội và mối tương quan của Đức Maria với Giáo Hội, nên Đức Trinh Nữ Rất Thánh bắt đầu được kêu cầu thường hơn là “Mẹ Giáo Hội”.
Trước Công Đồng Vat. II, kiểu nói này được huấn quyền Đức Lêo XIII sử dụng, quả quyết rằng Đức Maria “đúng thật là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau được sử dụng nhiều lần trong các bài giảng của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI.
Cho dù tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” được gán cho Đức Maria mới đây thôi, nhưng tước hiệu ấy lại diễn tả tương quan mẫu tử giữa Đức Trinh Nữ Rất Thánh và Giáo Hội như nhiều bản văn Tân ước đã chứng minh.
Khởi từ ngày Truyền Tin, Đức Maria đã được kêu mời thuận ý khai mở Vương quốc cứu thế mà sau này sẽ xuất hiện với sự hình thành của Giáo Hội (Lc 2, 26-35).
Tại Cana (Jn 2, 2-11), khi xin Con mình thi hành quyền năng cứu thế của Người, Đức Maria đã góp phần cơ bản vào việc ghi dấu đức tin trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên và hợp tác trong việc khai mở Nước Chúa, một nước đặt “mầm giống” và “khởi điểm” nơi Giáo Hội (LG 5).
Trên Núi Sọ (Jn19, 27-27), Đức Maria kết hợp với hy lễ của Con và đã góp phần hợp tác mẫu tính của mình vào công trình cứu chuộc dưới hình thức của cơn đau đẻ, sinh ra nhân loại mới.
Khi nói lời: “Thưa Bà, nầy là con Bà” Đấng chịu đóng đinh tuyên bố Người là Mẹ không những đối với tông đồ Gioan mà còn với tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng, khi nói Chúa Giêsu chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), đã chỉ rõ sự sinh ra Giáo Hội như là hoa quả của hy lễ cứu chuộc mà Đức Maria đã kết hợp với mẫu tính.
Về điểm này chúng ta cùng nhau chiêm ngắm sâu hơn về mẫu tính của Mẹ dưới chân Thập giá.
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Thánh sử Luca nhắc tới sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 1, 14; 2, 3-4). Như vậy Thánh sử nhấn mạnh vai trò người mẹ của Đức Maria trong Giáo Hội mới sinh; bằng cách so sánh vai trò đó với vai trò của Người khi sinh ra Đấng Cứu Thế. Chiều kích Mẹ như thế trờ thành một yếu tố cơ bản trong tương quan của Đức Maria với Dân mới được cứu chuộc.
Căn cứ theo Kinh Thánh, giáo huấn của các giáo phụ nhìn nhận chức làm Mẹ của Đức Maria trong công trình Chúa Kitô và do đó, trong công trình của Giáo Hội.
Theo thánh Irênê, Đức Maria “trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho toàn dòng giống loài người” (PG 7, 959), và lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ “tái sinh người ta trong Thiên Chúa” (PG 7, 1080). Điều đó được thánh Ambrôsiô lặp lại: “Một Trinh Nữ đã sinh ra Đấng cứu rỗi cho thế gian, một Trinh Nữ đã mang đến sự sống cho mọi sự” (PL 16,1198), và nhiều giáo phụ khác cũng lập lại khi gọi Đức Maria “Mẹ của sự cứu rỗi”.
Thời trung cổ, thánh Anselmô thưa với Đức Maria thế này: “Mẹ là Mẹ của sự công chính hoá và cả những kẻ được công chính hoá, là Mẹ sự hoà giải và cả những kẻ được hoà giải, là Mẹ sự cứu rỗi và cả những kẻ được cứu rỗi” (PL 158, 957), còn nhiều tác giả khác lại gán cho Người tước hiệu “Mẹ ân sủng” và “Mẹ sự sống”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội”
Như thế tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.
Kết Luận :
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
Có hai bộ lạc là kẻ thù truyền kiếp của nhau. Một sống ở đồng bằng và một ở trên núi cao. Một hôm, những người ở trên núi cao bất ngờ đổ xuống tấn công bộ lạc ở đồng bằng. Họ không chỉ cướp bóc của cải, lương thực mà còn bắt một em bé ba tuổi mang đi. Những người sống ở đồng bằng không biết cách vựơt qua những ngọn núi cao để tìm ra nơi kẻ thù giam giữ em bé . Họ không thể lần theo dấu vết của đối phương . Tuy nhiên, bộ lạc cũng cử một nhóm người, họ là những chiến binh xuất sắc nhất đi cứu em bé mang về. Những người đàn ông này đã cố gắng hết sức nhưng họ cũng chỉ leo lên được lưng chừng ngọn núi hiểm trở sau khi đã tìm đủ mọi cách. Cảm thấy mỏi mết và tuyệt vọng, họ đành quyết định bỏ cuộc và quay đầu trở về. Khi đang loay hoay thu dọn hành lý, họ kinh ngạc nhìn thấy người mẹ mất con đang từ trên đỉnh núi cao đi xuống. Và họ như không tin vào mắt mình khi thấy đứa bé bị bắt cóc đang được người mẹ cõng trên lưng! Làm sao điều đó có thể xảy ra?Những chiến binh đón chào người mẹ và hỏi:
Làm cách nào mà bà thực hiện được điều đó, trong khi chúng tôi, những người khoẻ mạnh gan dạ nhất của bộ lạc đã không thể làm được?.
Người mẹ ôn tồn trả lời:
Bởi vì đứa trẻ này không phải là con của các anh!
Bên Tây phương, người ta chọn ngày Chúa nhật thứ hai trong tháng Năm để làm ngày Của Mẹ. Trong ngày ấy những đứa con tặng mẹ những món quà, mời mẹ đi dự tiệc… Nói chung ngày của Mẹ là để những người con tôn vinh, báo hiếu các bà mẹ vì những công lao vất vả, sinh thành dưỡng dục con cái, và cũng trong ngày này người ta cài cho những ai còn mẹ một bông hoa hồng để chúc mừng những người may mắn còn có song thân trong cuộc đời.
Trong Hội Thánh Công Việt Nam, có hai tháng, phụng vụ dành ra để dặc biệt kính Đức Mẹ Maria; Đó là tháng Năm, còn gọi là tháng Hoa, trong tháng này những người con bày tỏ lòng thảo kính và biết ơn Mẹ bằng cách dâng lên Mẹ những bó hoa tươi thắm đủ màu sắc, tượng trưng cho nhưng bông hoa lòng là những hy sinh những việc lành, bác ái… dâng tiến Mẹ.
Tháng Mười còn gọi là tháng Mân Côi, trong tháng này các tin hữu siêng năng đọc kinh lần hạt để dâng lên Mẹ theo lệnh truyền của Mẹ là: Hãy siêng năng lần hạt Mân Côi.
Tin Mùng hôm nay, theo thánh sử Gio-an ghi lại là lúc sắp sinh thì trên cây Thánh Giá, trong lúc đau đớn tột cùng của nhưng đòn roi và chịu đóng đanh trên cây Thập Giá. Đức Giê-su vẫn nhớ đến nhân loại mà đại diện là Thánh Gio-an, và nói lời trăn chối là: “Đây là Mẹ con”. Và Phúc Âm ghi lại: “Kể từ giờ đó môn đệ đưa Bà về nhà mình”. Đưa Bà về nhà mình ở đây có nghĩa là: Ngay tức khắc Thánh Gioan đã đón nhận Mẹ vào trong tâm hồn của mình để Đức Mẹ có một chỗ ngự trong trái tim của Ngài, và đối đãi Mẹ bằng tâm tình của người con chí hiếu.
Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn bênh cạnh mỗi người chúng ta để săn sóc, che chở và bầu chữa cũng như chuyển cầu cho chúng ta để chúng ta được những điều tốt đẹp. Theo dòng lịch sử thì từ xưa đến nay Đức Mẹ vẫn âm thầm hoạt động che chở bảo vệ cho con cái loài người. Đức Mẹ đã hiện ra nhiều nơi. Điển hình là vào ngày 13/05/1917, tại Bồ Đào Nha Đức Mẹ đã hiện ra cùng ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Giacinta. Ở Việt Nam thì có Đức Mẹ La vang, Đức Mẹ Tà pao…
Có Mẹ là điều hạnh phúc thật lớn lao cho chúng ta, điều quan trọng là chúng ta có biết “Rước Mẹ về nhà mình không?” có biết thảo kính với Mẹ không? Có biết luôn chạy đến cùng Mẹ để Mẹ bảo vệ chở che hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người phải tự vấn lương tâm để trả lời.
“Xưa nay chưa từng ai chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ chẳng nhận lời”. Sống bên Mẹ là hạnh phúc của đời chúng ta và những ai biết vâng nghe lời Mẹ là: Cải thiện đời sống, Tôn sùng Trái Tim Mẹ và siêng năng lần hạt Mân Côi, thì chắc chẵn sẽ được cùng Mẹ hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, xin ban cho chúng con lòng kính mến Mẹ nhiều hơn, xin cho chúng con luôn thảo hiếu và vâng lời Mẹ, để từ Mẹ chúng con đến được với Đức Giê-su Con Mẹ. Xin Mẹ chuyển cầu cho chúng con và những người con yêu mến, những ơn lành hồn xác, để chúng con luôn sống trong bình an và hạnh phúc bên Mẹ. Amen.
Sống lời Chúa: Mỗi tối trước khi đi ngủ nhớ đọc kinh dâng mình cho Đức Mẹ.
Sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mừng long trọng vào Chúa nhật sau lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mừng lễ Mẹ Hội Thánh. Việc phụng vụ Hội Thánh mừng lễ này liền kề với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho thấy Hội Thánh nhận thức được vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội.
Từ sau Công đồng Vatican II, hạn từ Mẹ Hội Thánh được sử dụng rộng rãi, không chỉ vì đây là gợi ý của Đức Phaolô VI, mà còn là một kinh nghiệm đức tin được soi dẫn qua dòng lịch sử Hội Thánh. Điều này cũng mặc nhiên nói cho các tín hữu về một viễn kiến đầy hy vọng mà sách Khải huyền đã nêu lên, trong một cuộc chiến không khoan nhượng giữa con rồng và người nữ. Người nữ ấy chính là hình ảnh Đức Maria, tượng trưng cho Hội Thánh.
Cơ sở cho kinh nghiệm đức tin này là đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đọc và hôm nay. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu thiết lập. Đã được khai sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng, từ đó máu và nước chảy ra. Nhiều nhà thần học đã cho đây là hình ảnh tượng trưng cho giây phút Hội Thánh được sinh ra giống như trẻ sơ sinh được sinh ra từ cung lòng người mẹ. Máu và nước tượng trưng cho sự sống. Đó cũng là hình ảnh mang tính Thánh Thể của mầu nhiệm Hội Thánh, mà từ Thánh Thể, Hội Thánh được nuôi sống do chính Mình và Máu Chúa. Hội Thánh lại tiếp tục mọi ngày làm cho hình ảnh của hy tế Chúa Kitô được sống động qua việc hiện tại hóa mầu nhiệm yêu thương này trong mỗi thánh lễ cử hành.
Thế nên, một Hội Thánh non trẻ được Chúa Giêsu sinh ra và cưu mang, rồi trong giây phút Người chết trên thập giá đến việc trao phó thánh Gioan làm con Đức Mẹ, gợi lên cho chúng ta đầy hình ảnh mang tính biểu trưng về Hội Thánh. “Này là con Bà” và “Đây là mẹ con”, hai câu nói này hàm chứa một nội hàm sâu xa. Rằng Hội Thánh thực sự là con của Mẹ Maria. Chúa Giêsu chuyển giao Hội Thánh non trẻ và nhỏ bé ấy cho Đức Mẹ trông nom. Và “Đây là mẹ con”, đây thực sự là lời căn dặn, Hội Thánh chính là mẹ của chúng ta, Hội Thánh đó bao hàm tất cả mọi người chúng ta, những kẻ tin và cử hành mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô Con Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và Mẹ của mỗi chúng con. Xin ban ơn nâng đỡ Hội Thánh Chúa trong mọi cơn nguy khó, và cũng xin nâng đỡ đức tin cho mỗi người chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay xác nhận vai trò làm mẹ trong bình diện cứu độ của ân sủng đạt tới đỉnh cao, đó là lúc hy tế thập giá của Đức Kitô, cũng là mầu nhiệm vượt qua của Người, được hoàn tất.
Đọc kỹ đoạn tường thuật, thoạt đầu chỉ thấy đó là một sự lo lắng của Đức Giêsu dành cho mẹ mình, người mẹ mà Người để lại trong một nỗi đau khổ tận cùng. Thế nhưng, ý nghĩa bản tường thuật này có thể đi xa hơn vì hai lý do:
Thứ nhất “môn đệ thương mến” ở đây còn là một ẩn số, không chắc chắn là Gioan, theo các nhà Thánh Mẫu Học thì có thể là một biểu trưng (symbol): người được Chúa Giêsu yêu là nghe và tuân giữ Lời (x. Ga 14,21). Mặt khác, nếu trên thập giá, Đức Giêsu chỉ coi Gioan là một cá nhân, thì Đức Giêsu không phải lo, vì Gioan vẫn còn đầy đủ cha mẹ là ông bà Dê-bê-đê. Chính vì vậy, có thể hiểu hình ảnh “người môn đệ được Chúa yêu” là đại diện cho loài người nhận Đức Maria làm mẹ.
Thứ hai, trong thứ tự của lời trối, rõ ràng mang ý nghĩa Đức Giêsu chính thức đặt Đức Maria làm mẹ nhân loại hơn là một sự nhờ cậy “người môn đệ thương mến” nhận chăm sóc Đức Maria. Đức Giêsu nói với Đức Maria trước rồi nói với môn đệ sau. Theo lẽ thường nếu muốn gởi gắm Đức Maria cho “môn đệ thương mến” thì Đức Giêsu phải nói với “môn đệ thương mến” trước xem môn đệ có đồng ý không. Như vậy, nghĩa là Đức Giêsu trao cho Đức Maria một sứ mệnh là làm mẹ “môn đệ thương mến” đại diện cho các tín hữu, nghĩa là Đức Maria sẽ là Mẹ của chúng ta.
“Vai trò làm mẹ thật mới mẻ này” của Đức Maria, được thiết lập trong đức tin, là hoa trái của tình yêu “mới mẻ”, một tình yêu thấm sâu vào Mẹ dưới chân thập giá, qua việc Mẹ chia sẻ vào tình yêu cứu độ của Đức Kitô.
1. Giờ hiến tế: đặc trưng của sự hy sinh.
Việc Đức Giêsu ngỏ lời với Đức Maria dưới chân thập giá, đặt trong một hoàn cảnh hết sức rất long trọng được lồng trong cái chết của Đức Giêsu vào giờ Người được tôn vinh. Hôm nay, giờ Đức Giêsu đã đến, đó là “giờ” Người được tôn vinh vì Người đã vâng ý Cha mà chịu hiến tế hy sinh. Đức Maria được liên kết với giờ hiến tế này và trái tim Mẹ cũng chịu hiến tế như lời tiên báo của Simêon là “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ” (x. Lc 2,35). Điều này cũng cho thấy Đức Maria là “thiếu nữ Sion” nên cuộc đời của Mẹ sẽ mang dấu ấn của số phận dân Người. Vì là Mẹ Đấng Messia, Đức Maria nằm trong cuộc chiến, chia sẻ mọi đau khổ với con mình. “Lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” gợi lên lưỡi gươm trong sách ngôn sứ Ezechiel 14,17, cắt đứt Israel, chỉ còn để lại một “số sót”. Lưỡi gươm nói lên sự đau khổ nội tâm của người mẹ, đau khổ ở đây là đau khổ của người mẹ nhìn người ta ruồng bỏ con mình. Lưỡi gươm trong Ezechiel vừa cắt đứt Israel vừa sinh ra số sót; ngay dưới chân thập giá, Đức Maria là “Mater dolorosa” đau xót vì sự phủ nhận của nhân loại đối với Đức Giêsu, nhìn Con chết tức tưởi, sự cắt đứt này cũng làm cho Mẹ buốt xót, sinh ra “số sót” cho nhân loại, đó là những kẻ tin vào Đức Kitô. Lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ để Mẹ luôn chia sẻ khổ đau với Con, vừa đứng về phía những kẻ tin vào Đức Giêsu, ôm lấy tất cả vì Đức Giêsu đã gửi gắm tất cả cho Mẹ: “Này là Con của Mẹ”. Giờ phút hiến tế dưới chân thập giá là đỉnh điểm của lời “xin vâng”, và cả cuộc đời xin vâng của Đức Maria hướng về giờ phút hy sinh này. Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria đã chịu sát tế tâm hồn và làm cho lời “xin vâng” viên mãn khi Đức Giêsu kêu lên: “mọi sự đã hoàn tất”.
2. Đặc trưng hiện diện và hiệp thông cứu chuộc.
Đức Maria rõ ràng đã đóng vai trò trổi vượt trên bất cứ phàm nhân nào trong sự hiệp thông với Đức Giêsu cứu chuộc. “Hiệp thông cứu chuộc” không phải “tự thân cứu chuộc” mà là cộng tác hoặc tháp nhập vào sự cứu chuộc đó. Chỉ có một mình Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, nhưng khi sinh hạ Hội Thánh trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ có một mình, mà Người còn có Đức Maria đứng dưới chân thập giá, để cùng chia sẻ sự đau khổ và giúp Người chấp nhận hiến dâng. Và sau hết là “hiệp thông cứu chuộc” vì Đức Maria đã tham gia vào công trình sinh hạ Hội Thánh.
Thánh Alberto Cả viết: “Đức Maria đã tham dự vào cuộc khổ nạn để cứu nhân loại. Khi mà những Tông Đồ và môn đệ bỏ trốn, thì Người ở lại đứng dưới chân thập giá và chịu trong lòng những vết thương Chúa Giêsu phải chịu ngoài thân; chẳng phải lúc đó lưỡi gươm đã đâm thấu qua tâm hồn Mẹ sao?”
Chính sự liên kết những đau khổ và ý chí Mẹ với những đau khổ và ý chí của Đức Giêsu, và cũng chính nhờ sự từ bỏ những quyền lợi của một người mẹ mà Đức Maria đã cùng với Đức Giêsu cứu chuộc nhân loại: Sự liên kết những đau khổ của Đức Maria với những đau khổ của Đức Giêsu đã làm cho người nên Mẹ đau thương cũng như Đức Giêsu đau khổ. Có thể nói, Đức Giêsu phải chịu những đau khổ nào trong thân xác và linh hồn thì Đức Maria cũng phải chịu những đau đớn ấy trong lòng người. Và cũng như Đức Giêsu đã muốn gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần tới tột độ khả năng chịu đựng của Người, thì cũng như Người, Mẹ Người cũng phải chịu trong lòng tất cả những đau khổ mà trái tim vô nhiễm người có thể chịu được. Mặt khác, ý chí của Đức Maria vốn kết hiệp với ý chí của Con, tức là ý chí của người luôn kết hiệp với ý chí Thiên Chúa. Đức Giêsu nhập thể là để hồi phục vinh quang Thiên Chúa và cứu chuộc thế gian bằng cuộc khổ nạn – chết – phục sinh của Người. Và Đức Maria cũng muốn cho vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi của nhân loại nhờ cùng cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Đó là một sự tuân phục tuyệt đối… Ngoài ra, khi dâng hiến người Con thì cũng đồng nghĩa với việc “từ bỏ” quyền lợi của một người mẹ của người, vì con là lẽ sống của mẹ, lấy mạng sống của con thì chẳng khác nào huỷ lẽ sống của mẹ. Đó là sự dâng hiến cao cả trong việc hiệp thông cứu độ.
Sau cùng, trên thập giá, lúc Đức Giêsu tưởng chừng như đã bị bỏ rơi hoàn toàn, thậm chí Chúa Cha dường như vắng bóng, thì còn đó Mẹ Người đứng dưới chân thập giá như là một động lực cuối cùng nâng đỡ Người – Thiên Chúa Cha giờ này đang ở trong sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Thần vẫn phủ bóng trên Đức Maria để trợ lực Người trong giờ hiến tế…
Lạy Mẹ Maria là Mẹ chúng con, xin cho chúng con biết “xin vâng” như Mẹ trong mọi biến cố của cuộc đời, để cộng tác với Chúa trong việc sinh thêm nhiều con cái cho Giáo hội bằng đời sống chứng nhân truyền giáo của mình. Amen.
(Michael R. Heinlein // Văn Việt chuyển ngữ từ simplycatholic.com)
WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria - Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”
Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.
Vai trò của Đức Maria
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.
Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô - Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.
Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô... những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu... Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.
Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.
Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội
Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất... và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).
Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).
“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.
Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).
Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.
Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ - Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Thần học gia Hugo Rahner cho biết rằng, cách hiểu về Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Giáo Hội như được trình bày ở trên bởi các Đức Thánh Cha, cũng đã có ngay từ thời các Giáo Phụ rồi.
Việc kêu cầu Đức Maria là Mẹ Giáo hội đứng trong mối liên hệ khắng khít với đặc tính nguyên thủy của chính Giáo hội với tư cách là Mẹ (Mater Ecclesia).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – (biên soạn, biên dịch và tổng hợp)
(Trích đoạn từ sách: “Theo Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu: Đức Mẹ là Mẹ, là thầy và là người biện hộ” của Cha Andrew Apostoli, CFR // Chuyển ngữ: Giới trẻ thừa sai Chúa Cứu Thế Miền Nam)
Đức Maria chính là Evà mới để đem sự sống của Chúa Giêsu cho chúng ta, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Mẹ Chúng ta.
Một Evà mới
Như là một “người nữ” ở trung tâm của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đức Maria là “Evà mới”. Từ rất sớm, danh hiệu này được gán cho Đức Maria trong các tác phẩm của các Giáo phụ. Bản thân thánh Phaolô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là một “Ađam mới” (Rm 5,14; 1 Cr 15,45). Đó là logic khi nhìn về Đức Maria như là “Evà mới” bởi vì vai trò của Mẹ là mang lại sự sống cho tất cả những đứa con trong tinh thần của Mẹ. Chúng ta cũng đề cập đến Hội Thánh như một “Evà mới”, bởi vì Hội Thánh chính là tân nương, là hiền thê của Chúa Giêsu, như Evà là hiền thê của Ađam.
Cái tên Evà có nghĩa là “Mẹ của sự sống” (x. St 3,20). Nhưng bởi vì Evà đã phạm tội cùng Ađam, tội lỗi của bà đã truyền lại, không phải sự sống mà là cái chết cho những người con của bà. Cái chết này là cả về thể chất và tâm linh. Cái chết về thể xác có nghĩa là cái chết của cơ thể. Trước khi phạm tội tổ tông truyền, tổ tiên của chúng ta đã được tận hưởng món quà của sự bất tử. Tuy nhiên, cái chết là một hình phạt cho tội lỗi của họ đã được truyền lại cho tất cả con cháu. Linh hồn sẽ lìa khỏi thân xác. Ngay cả sau cái chết của thể xác, linh hồn vẫn giữ hy vọng được tái hợp với thể xác trong Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu. Cái chết linh hồn có nghĩa là chúng ta, với tư cách là con cháu của Evà, được sinh ra mà không có ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể tự chuộc lại ân sủng mà chúng ta đã đánh mất bởi vì cái giá cứu chuộc quá lớn so với chúng ta. Lối vào Thiên Đàng sẽ đóng kín mãi mãi trừ khi có một điều gì đó xảy ra!
Nhưng đối với Đức Maria, Evà mới, mọi thứ đã đảo ngược hoàn toàn, bởi vì Mẹ đã thông phần vào công cuộc cứu độ của Con Thiên Chúa, chính là Ađam mới. Chúa Giêsu đã đến để mang đến cho chúng ta sự sống trọn vẹn: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhờ sự cứu chuộc của mình, Chúa Giêsu đã phục hồi cho chúng ta cuộc sống ân sủng đã mất thông qua Bí tích Rửa tội. Đồng thời, qua sự phục sinh thân xác của mình, Chúa Giêsu hứa rằng Ngài sẽ cho thân xác chúng ta sống lại khi trở lại trong vinh quang vào ngày sau hết. Bởi Đức Mẹ đã tham gia mật thiết vào chương trình cứu độ của Con Thiên Chúa, Mẹ đã mang lại sự sống thần linh cho những đứa con của mình.
Mẹ Hội Thánh
Là Evà mới, thực sự là Mẹ của sự sống, Đức Maria cũng là Mẹ của Hội Thánh. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng, Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Chúa Giêsu là đầu, trong khi chúng ta là những người đã được rửa tội, trở nên chi thể (x. Ep 5,23). Đầu và các chi thể tạo nên thân thể toàn vẹn của thân mình mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ở Bêlem, Đức Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu, đầu của chúng ta.
Trên đồi Canvê, Đức Maria trở thành mẹ một lần nữa. Chúa Giêsu đã chỉ ra cho ta biết khi Người nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Để có thể hiểu được mầu nhiệm này, chúng ta hãy xem xét cách mà Gioan mô tả cuộc khổ hình của Chúa Giêsu. Lúc chạng vạng tối, những tên lính Rôma đã đánh giập ống chân của hai tên trộm bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu. Cách duy nhất để thở được trên thập giá là dùng chân để nâng cơ thể lên, nên việc đánh giập ống chân phạm nhân là để họ chết nhanh hơn. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng để chắc chắn người đã chết, một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Thánh Gioan lúc này cho chúng ta thấy, máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người (Ga 19,31-34).
Từ rất sớm, các Giáo phụ đã nhìn máu và nước như là biểu tượng của việc khai sinh Hội Thánh. Đức Giêsu là Adam mới. Đức Maria, trong tư cách cá nhân là Evà mới, mẹ của các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Hội Thánh cũng là một Evà mới, là hiền thê của Chúa Giêsu. Giống như cách mà tổ tiên Evà được tạo ra từ cạnh sườn Ađam trong vườn địa đàng thì Hội Thánh cũng được sinh ra từ cạnh sườn của Đức Giêsu trên cây thập giá tại đồi Canvê. Sách Sáng thế nói rằng, Chúa đã đưa Ađam vào một giấc ngủ sâu, lấy ra một trong những xương sườn và tạo thành Evà (x. St 2,21-22). Các Giáo phụ đã đối chiếu đến sách Sáng thế trong Kinh Thánh về cái chết của Đức Kitô. Theo quan điểm đó, Đức Giêsu (Ađam mới) đang trong giấc ngủ của tử thần trên thập giá, thì ngọn giáo của người lính đã làm cho máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn Đức Giêsu và trở thành biểu tượng (việc khai sinh) Hội Thánh. Nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội, cho chúng ta bắt đầu cuộc sống mới trong Chúa Kitô; Máu tượng trưng cho Bí tích Thánh Thể, tặng ban cho chúng ta chính mình Người, tác giả cuộc sống mới của chúng ta. Và đây cũng là hai bí tích lớn nhất, Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể diễn tả chính Hội Thánh.
Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen đã nói, Hội Thánh được sinh ra một cách mầu nhiệm từ cạnh sườn Chúa Kitô, đã có một cuộc hạ sinh thì phải có một người mẹ. Đức Maria đã ở dưới chân thập giá và nhận được từ Con một vai trò mới là mẹ sự sống: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Thưa Bà – Chúa Giêsu một lần nữa sử dụng danh hiệu đó để nói với mẹ mình, như cách Người đã làm ở tiệc cưới Cana. Có một lý do sâu xa cho việc Người sử dụng từ “Bà – người phụ nữ” mà chúng ta thấy khi đọc sách Sáng thế. Trong vườn địa đàng, Thiên chúa đã phán với con rắn rằng bởi nó mà Ađam (đầu tiên) và Evà (đầu tiên) đã phạm tội,
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15).
Lúc ở tiệc cưới Cana cũng như ở đồi Canvê, Chúa Giêsu đã gọi Mẹ mình là “thưa Bà”, chúng ta có thể kết luận rằng, Người đã xác nhận Đức Maria sẽ trở nên thù địch với tội lỗi (ma quỷ) và hậu duệ của Mẹ sẽ đối đầu với hậu duệ của tội lỗi (ma quỷ).
Trong cơn hấp hối, khi Đức Giêsu nói với Mẹ của mình rằng, “Thưa Bà, đây là con của Bà”, Ngài cũng đồng thời khẳng định rằng Đức Maria cũng là Mẹ của chúng ta. Khi sinh ra Chúa Kitô, Đấng là đầu của chúng ta, Mẹ Maria cũng ban cho chúng ta sự sống, vì cùng một sự sống trong Chúa Giêsu cũng hiện diện trong chúng ta, những người là chi thể của thân mình mầu nhiệm.
Mẹ chúng ta
Thánh Aelred thành Rievaulx, một tu sĩ dòng Xitô và là người cùng thời với Thánh Bernard thành Clairaux, đã chỉ ra cho chúng ta thấy vai trò thần linh của Đức Maria:
Chúng ta nợ Mẹ Maria sự tôn kính, vì Mẹ là Mẹ của Chúa chúng ta. Ai không tôn kính Người Mẹ thì làm mất lòng Người Con. Ngoài ra, Kinh thánh nói: Hãy tôn vinh cha và mẹ của bạn. . . Như chúng ta đã biết và tin tưởng, khi tất cả chúng ta chết đi trong tội lỗi, bóng tối và đau khổ. Trong cái chết, vì chúng ta đã mất Thiên Chúa; trong tội lỗi, vì sự tham lam của chúng ta; trong bóng tối, vì chúng ta không có ánh sáng của sự khôn ngoan, và do đó đã bị diệt vong hoàn toàn. Nhưng sau đó chúng tôi được sinh ra, tốt đẹp hơn nhiều so với Evà, nhờ Đức Maria, vì Chúa Kitô được Mẹ sinh ra. Chúng ta được phục hồi cuộc sống mới thay cho tội lỗi, sự bất tử thay cho sự chết, ánh sáng thay cho bóng tối. Mẹ là mẹ của chúng ta, mẹ của Nguồn Sống [Chúa Giêsu], mẹ của sự cứu chuộc [Chúa Giêsu], mẹ của ánh sáng [Chúa Giêsu]. Thánh Phaolô tông đồ nói về Chúa của chúng ta: “Người đã trở nên vì chúng ta, nhờ quyền năng của Chúa Cha, sự khôn ngoan và công chính, sự thánh thiện và sự cứu chuộc cho chúng ta. [Mẹ Maria] sau đó, với tư cách là mẹ của Chúa Kitô, là mẹ của sự khôn ngoan và công chính của chúng ta, về sự thánh thiện và cứu chuộc của chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng ta nhiều hơn mẹ của chúng ta. Được sinh ra từ Mẹ là tốt đẹp hơn, vì từ Mẹ sinh ra là sự thánh thiện, sự khôn ngoan, công chính, sự thánh hóa, sự cứu chuộc của chúng ta.
Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô và Mẹ Maria đã thụ thai và sinh ra Người. Chính vì thế, ta có thể nói với Thánh Aelred rằng, cũng chính Đức Maria đã cho ta cuộc sống này, ngay từ lúc ta được chia sẻ sự sống với Đức Kitô từ Mẹ. Trong thân thể người, sự sống của Chúa Giêsu, đầu của chúng ta chảy vào chúng ta là chi thể của Người. Điều này làm cho Mẹ Maria đóng vai trò là một người mẹ của sự sống. Mẹ truyền sự sống cho chúng ta thông qua và trong Chúa Kitô, người sống trong chúng ta.
Ý chính: Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh, Mẹ cũng là Mẹï của toàn thân tức là Mẹ của Hôị Thánh và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu là con rất yêu dấu của Mẹ Maria, chúng con rất vui sướng vì được làm con củaChúa, con của Mẹ. Bài học hôm nay chúng con sẽ được tìm hiểu một số đặc ân Chúa đã ban cho Mẹ, nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con tập trung để học và hiểu về Mẹ như ý Chúa muốn.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Mẹ Maria được nhiều người biết đến, yêu mến, tôn kính hết mực như vậy, đoạn kinh Thánh hôm nay sẽ nói lên điều chúng ta muốn tìm hiểu, chị mời các em đứng lên và lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. Ga 19, 25- 27.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
Câu 1: Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?
- Các em nhớ lại nhé, ngày xưa A-đam và E-và đã phạm tội gì không? (tội không vâng lời Thiên Chúa mà ăn trái cấm).
-Tội đó gọi là tội gì? (tội tổ tông).
- Tội tổ tông có truyền lại cho chúng ta không? (có).
- Gọi là tội gì? (Tội tổ tông truyền).
Tất cả mọi người chúng ta sinh ra đều mắc tội này. Thế nhưng chỉ duy một mình Đức Maria được Thiên Chúa gìn giữ để không mắc tội này.
Đây là đặc ân Vô nhiễm nguyên tội mà Thiên Chúa ban cho Mẹ.(đặc ân này Hội Thánh mừng vào ngày 8 tháng 12).
Rồi khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người nhưng Ngài hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế.
Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria làm mẹ Chúa Giêsu bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Nên Mẹ Maria được Thiên Chúa ban đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. (Tước hiệu này Hội Thánh mừng kính vào ngày 1 tháng 1 dương lịch)
Chúng ta cùng nhớ lại đoạn Tin Mừng Lc 1,26-38 đề cập về biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria.
Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu bởi quyền phép của ai? (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần).
Đây là đặc ân thứ ba mà Thiên Chúa ban cho Đức Maria: đặc ân trọn đời đồng trinh.
Rồi sau khi Mẹ chết Thiên Chúa đã đưa Mẹ cả hồn và xác Mẹ về trời.
Với cuộc sống tuyệt vời của Mẹ ở trần gian, Mẹ đã xứng đáng để được Thiên Chúa đưa về Trời cả hồn lẫn xác, Mẹ được tôn vinh bên cạnh Chúa Giêsu Phục Sinh, Con Mẹ, là Vua vũ trụ.
Câu 2 : Đức Maria đã cộng tác thế nào trong công trình cứu độ?
Với lời “xin vâng” trong ngày truyền tin, Mẹ đã dấn thân cộng tác trọn vẹn vào công cuộc cứu chuộc của Con mình. Mẹ đã chia sẻ cuộc sống với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời của Chúa, Mẹ đã luôn hiện diện để theo dõi từng ngày từng giờ của Chúa, lúc thì Mẹ ở xa xa để theo dõi , lúc thì Mẹ ở ngoài chung với đám đông đến nỗi họ tưởng là Mẹ muốn tìm Chúa. Và đặc biệt những ngày khổ nạn của Chúa, Mẹ không ngớt rời xa, Mẹ luôn xin vâng Thánh ý Thiên Chúa trong suốt cuộc đời, Mẹ kết hợp với tất cả lòng mến yêu của Mẹ trong chương trình cứu độ của con Mẹ, Mẹ dâng lên Thiên Chúa từ niềm vui khi Chúa sinh ra cho đên giây phút cuối đời của Chúa trên Thánh Gía. Mẹ luôn xin vâng trong suốt cuộc đời Mẹ và thông phần xin vâng trong hành trình cứu thế của Chúa Giêsu Con rất yêu dấu của Mẹ.
Câu 3: Đức Maria có vị trí nào trong Hội Thánh?
Các em còn nhớ Hội Thánh được gọi là Dân Thiên Chúa, gồm nhiều người không phân biệt tuổi tác, màu da, trình độ… Trải qua đã hơn 2000 năm, Hội Thánh đã công hiến cho nhân loại rất nhiều vị Thánh để mọi người tôn kính và noi gương - ví dụ như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi ê, Thánh Mô-ni-ca, Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng-Giêsu,….trong đó có cả các Thánh tử đạo Việt Nam nữa đấy các em.
Nhưng có một vị được mọi người vào mọi thời yêu mến, tôn kính và cố gắng noi theo đó là Mẹ Maria. Các em thấy không trong các gia đình, các dòng tu, các nhà thờ công giáo…. Nơi nào cũng có ảnh tượng Đức Mẹ với các tước hiệu khác nhau để tôn kính Mẹ( nào là Mẹ Hằng Cứu Giúp, Mẹ Vô Nhiễm, Mẹ Hồn xác lên trời, Mẹ ban ơn, Mẹ La Vang…)
Vì sao Hội Thánh lại tôn kính Mẹ đặc biệt như vậy? Chính vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh. Suốt cuộc đời Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã cộng tác tích cực vào công trình của Chúa Cứu Thế, Mẹ luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa nên Mẹ trở thành mẫu gương cho mọi tín hữu trong Hội Thánh, chính vì thế Mẹ Maria có chỗ đứng cao nhất trong Hội Thánh.
Câu 4 : Ta có bổn phận nào đối với Đức Mẹ?
Khi em ở nhà có mẹ, em thường vòi mẹ cho em điều này,đáp ứng cho em điều kia, sở dĩ như vậy là em tin tưởng, yêu mến mẹ, mẹ rất yêu thương em và luôn lo lắng cho em, có đúng vậy không nào?.
Chúng ta không chỉ có người mẹ ở trần gian, nhưng chúng ta còn có một người mẹ không ngừng yêu thương ta, luôn muốn điều tốt nơi ta và mãi mãi cầu bầu cùng Chúa cho ta. Do đó ta phải đặc biệt tôn kính, yêu mến, cầu xin với Mẹ.
Còn hơn thế nữa, em phải bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi để được hạnh phúc muôn đời bên Mẹ.
Câu 5 : Mẹ Maria là tấm gương cho Hội Thánh thế nào?
Trong câu 3 chúng ta đã biết Mẹ Maria có chỗ đứng cao nhất trong Hội Thánh vì trong các con cái của Hội Thánh không thể có người con nào có những nhân đức tuyệt vời như Mẹ, không ai có lòng mến Chúa sâu thẳm như Mẹ… Mẹ là tấm gương phản chiếu đời sống Thiên Chúa nơi trần gian, chúng ta là con, chỉ một cách duy nhất đến với Chúa được đó là đi theo con đường Mẹ đi, làm với lòng mến như Mẹ.
CÂU HỎI DÀNH CHO HỌC SINH
Bài 22: ĐỨC MARIA, MẸ HỘI THÁNH
“Này là Mẹ con”. (x. Ga 19, 25-27)
1-H. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?
T. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân này:
- Một là ơn vô nhiễm nguyên tội.
- Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
- Ba là ơn trọn đời đồng trinh.
- Bốn là ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
2-H. Đức Maria đã cộng tác thế nào trong công trình cứu độ?
T. Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.
3-H. Đức Maria có vị trí nào trong hội thánh?
T. Đức Maria là Mẹ của Hội thánh, và của mỗi người chúng ta. Ngài đã làm Mẹ của Đầu là Đức Ki-tô, thì cũng làm Mẹ của toàn thân là Hội thánh. Mẹ là tấm gương hoàn hảo cho Hội thánh về đức tin và đức mến.
4-H. Ta có bổn phận nào đối với Đức Mẹ?
T. Ta phải đặc biệt tôn kính, mến yêu, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ. Nhất là chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi, để được đến nơi Mẹ đã đến.
5-H. Mẹ Maria là tấm gương cho Hội thánh như thế nào?
T. Mẹ Maria là tấm gương hoàn hảo cho Hội thánh, về đức tin và đức mến, trong cuộc lữ hành trần gian hướng về vinh quang Nước Trời.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa, hay đơn giản là người bạn của Ngài. Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ, những người vừa được nghe các Mối Phúc, Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ. “Các con là muối cho trái đất” (c. 13). “Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14). Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu. Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất. Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau. Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi. Muối có nhiều công dụng. Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân. Muối cần cho sự sống thường ngày con người. Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ. Họ cần cho trái đất này, Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất. Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn. Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa. Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46). Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới. Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi. Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có. Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người. Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện. Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng, khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng. Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được. Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại. Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy. Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương. Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình, nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa. Một phần ba thế giới là Kitô hữu, bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo. Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ, nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác. Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ. Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất. Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu: có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra. Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm. Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn. Ước gì một tỉ người công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.
Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.
Phao-lô là muối mặn của Chúa. Là ngọn đèn sáng của Chúa. Nơi ngài rạng ngời hương vị Tin Mừng. Giữa thế giới điên đảo gian dối hỗn độn, ngài làm chứng về một Thiên Chúa chân thật, trường cửu. Không lập lờ vừa “có” lại vừa “không”. Nơi Người chỉ là “có”. Là thực tại. Là sự thật. Là trường cửu. Chúa đã hứa ban hạnh phúc Nước Trời là đúng thật. Lời hứa còn được củng cố bằng việc Chúa xức dầu và ban Thần Khí cho ta: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (năm lẻ).
Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (năm chẵn).
Chúng ta hãy dám sống sự thật của Tám Mối Phúc. Chắc chắn Chúa sẽ thực hiện lời hứa. Ban phúc cho ta. Và ban phúc cho những người nghe và tin vào Lời Chúa. Bấy giờ ta trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)
Thế giới chẳng đẹp gì
Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.
Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.
Lãnh đạm đủ rồi!
Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”
Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.
Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá ươn”.
Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: "Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?".
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.
Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.
Sứ điệp: Người môn đệ Chúa Giêsu phải là muối, là ánh sáng cho trần gian. Đời sống thánh thiện theo Tin Mừng sẽ gìn giữ xã hội khỏi suy thoái và giúp xã hội thăng tiến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hàng ngày con nhìn thấy biết bao tội ác diễn ra quanh con. Đời sống luân lý ngày càng suy thoái. Những trào lưu xấu và những lý thuyết lầm lạc, đang lôi kéo và làm hư hỏng nhiều tâm hồn. Đứng trước thực trạng bi đát ấy, người ta đã báo động, la ó. Nhiều người thiện chí đã cố gắng ngăn chặn điều xấu và làm một cái gì đó tích cực để lôi kéo xã hội thăng tiến. Nhưng trái lại, rất nhiều người vẫn thờ ơ, thậm chí còn gieo rắc tội ác để đẩy xã hội xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con là môn đệ của Chúa. Chúa muốn con hơn ai hết phải tích cực tiêu diệt sự xấu, sự dữ, sự lầm lạc và gieo rắc điều tốt, điều lành, điều đúng. Chúa trao cho con sứ mạng trở thành muối và ánh sáng cho đời. Thế mà nhiều lúc đời sống Kitô hữu nơi con đã xuống cấp. Muối thánh thiện nơi con đã trở nên nhạt nhẽo, ánh sáng nơi con đã lu mờ và đem úp dưới thùng. Thậm chí lắm lúc con đã lôi kéo anh chị em vào con đường tội ác, sai trái.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ướp mặn lại đời con bằng ân sủng và sự thánh thiện của Chúa. Xin Chúa giúp con đừng bao giờ hợp tác với điều xấu, trái lại, xin cho con can đảm tiêu diệt điều xấu bằng cách làm điều tốt, dù có bị thiệt thòi hay bị cười chê. Xin Chúa thúc đẩy con dám nói chân lý, dám sống theo phúc âm, dám lôi kéo người khác đi trên đường ngay nẻo chính. Amen.
Mahatma Gandhi (1869 - 1948), nhà ái quốc và được tôn vinh là vị cha già dân tộc Ấn Độ, cũng là vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động.
Một hôm người ta hỏi ông rằng: “Trước thảm họa nguyên tử, ngài sẽ làm gì?”
Ganhdi trả lời: “Tôi sẽ cầu nguyện”.
Gandhi là người rất yêu mến giáo huấn của Chúa Kitô, nhưng khi được hỏi thêm: “Vì sao ngài không theo đạo Công giáo?”
Ông trả lời: “Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi”.
Sau đó ông còn nói thêm: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”.
Chính vì không sống đúng tư cách người môn đệ Chúa Kitô, người tín hữu đã làm che mờ Chúa Kitô nên Gandhi đã không đến với Đạo Kitô. Câu trả lời của Gandhi làm cho chúng ta cảnh tỉnh nhớ lại Lời Chúa nói trong Tin Mừng Mt 5,13-16: “Các con là muối ướp đời, là ánh sáng cho trần gian”.
Suy niệm
Người môn đệ trở nên như muối, là muối thì luôn có vị, muối không được lạt đi! Tác giả Cl. Tassin chú giải: “Các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ” (Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62). Không chỉ trở nên vị mặn và hữu dụng như tính chất của muối, người môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (x.Pl 2,15; so sánh với Ep 5,8-14), là tham dự vào sự sáng của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Lc 2,32; Ga 8,12; 12,35). Nguồn ánh sáng cứu độ như Thánh Vịnh đã tuyên xưng: “Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1).
Ánh sáng cũng được sử dụng như là một biểu tượng trong Kinh Thánh, thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo, người Tôi tớ Giavê được công bố là “ánh sáng muôn dân” (Is 49,6); và Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (x. Is 42,6).
Giáo lý Công giáo số 1216 xác định: Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Cho nên, thánh Phaolô mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta đều được mời gọi nên như muối và ánh sáng:
Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”và ngài mời gọi chúng ta trong từng lời ăn tiếng nói phải mang vị mặn mà của muối: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4,5-6).
Trong ý nghĩa đó, mỗi hành động của chúng ta cũng phải mang hương vị mặn mà của tình yêu đậm đà sẵn sàng chia sẻ với anh chị em mình. Mỗi khi dấn thân, tham gia gánh vác công việc trong xã hội, Giáo hội cũng phải chan chứa vị mặn muối của trách nhiệm công vụ vì anh chị em.
Khi mang lời mặn mà dễ thương, hành động thắm nồng tình yêu, tinh thần trách nhiệm, người Kitô hữu đã trở nên ánh sáng như Công đồng Vaticanô II đã chỉ rõ: “…Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa”, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).
Tuy nhiên, khi chúng ta đi vào sống ở giữa và trong thế gian, dưới sự ảnh hưởng của các thế lực bóng tối, hương vị của muối trong chúng ta có thể trở nên nhạt, đèn của chúng ta có thể bị hết dầu nên lụi tàn ánh sáng. Để tìm lại được hương vị mặn và dầu cho đèn sáng, cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu tình yêu của Ngài qua các bí tích đặc biệt là bí tích Hòa Giải: Được tha thứ, chữa lành và thêm sức mạnh và bí tích Thánh Thể để được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng sức sống thánh và tình yêu dâng hiến.
Từng bước đi và sống trong dương gian xin cho chúng con luôn tâm niệm như Chúa mời gọi là muối là ánh sáng.
Ý lực sống:
Chọn con là đèn soi giữa thế trần. Làm muối mặn mà ướp đời dương gian…
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính như bài Tin mừng hôm trước để có thể làm công dân Nước trời, Ngài bảo các môn đệ phải làm chứng cho Ngài: phải trở nên muối ướp mọi người cho khỏi hư hỏng; phải trở nên ánh sáng soi cho mọi người nhìn biết Chúa. Nếu các môn đệ là muối, là ánh sáng mà đã lạt, đã bị che khuất đi, nghĩa là không lo làm gương sáng gương lành, thì sẽ không giúp ích được gì cho ai, mà sẽ ra vô dụng bất lợi nữa.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình người. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho sự sống (Carôlô).
“Chính anh em là muối cho đời”
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khoẻ của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng sát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiêm nhường, yêu thương, tự huỷ, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối, vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta (Ngọc Biển).
“Chính anh em là ánh sáng cho thế gian”
“Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5), và chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là Kitô hữu chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian. Vì thế, muốn trở thành ánh sáng như Chúa Giêsu, chúng ta phải ở gần Người và kết hợp với Người, bởi “gần đèn thì ta được tỏa sáng”. Chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian khi phản chiếu vinh quang Chúa bằng đời sống chứng nhân:
Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho người chung quanh biết đường về cùng Chúa.
Ánh sáng Tin mừng của Chúa phải được minh chứng qua lối sống của người Kitô hữu.
Chính đời sống của người Kitô hữu phải là bài giảng Tin mừng cho thế gian: hoạt động của người Kitô hữu phải là dịp cho người ta ca tụng Thiên Chúa; vai trò của người Kitô hữu trong thế gian phải như ánh đèn chiếu sáng chân lý của Chúa, Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian bằng cách nào?
Bằng chứng tá cuộc sống của mình, bằng lời nói ăn khớp với việc làm, không phải vừa có vừa không như thánh tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu thành Côrintô, mà phải luôn rõ ràng, dứt khoát, hoặc có hoặc không, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung tín và chân thật, một khi hiểu được sứ mệnh của mình thì đời sống người Kitô hữu không thể nào là tầm thường hoặc vô ý nghĩa được.
Tất cả mọi công việc dù nhỏ nhặt và tầm thường đến mấy đi nữa cũng không bị mất mát hoặc vô dụng, nhưng sẽ nên như một tia sáng lóe lên xóa tan tăm tối, sẽ như một cây cỏ làm cho mảnh vườn thêm xinh tươi, sẽ như một bông hoa nhỏ làm cho cảnh vườn thêm màu sắc, sẽ như một viên gạch xây dựng toà nhà xã hội và như những giọt nước tụ hợp lại để trở thành biển cả mênh mông.
Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng
Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Hồng y Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh vỡ lọ nước. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thốt lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính toà, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi cái lọ. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ là Đức cha rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha, chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại (Chờ đợi Chúa).
Sau khi Chúa Giêsu cho biết cần phải có 8 đức tính để được vào làm công dân Nước trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy: người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt: Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường xung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
Ánh sáng thì rực rỡ huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụi xuống.
Lý do để tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải vất đi.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu tuy có khác nhau: có người ân thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sánh thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn lu mờ giữa biển khơi, chứng từ của Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, Kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được “khẩu vị” của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống mà đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, Kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi và đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Câu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên bảy tuổi. Trong một phiên giúp lễ tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng đến chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ vào học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức Cha chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về một hướng này, còn Titô đi về hướng ngược lại. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
5. “Chính anh em là muối cho đời”. (Mt 5,13)
Lúc trước tôi có dịp ra Huế. Khi lên đèo hải vân, tôi thấy mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhãi mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi: “Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không?
Có biết bao người trong xã hội đã và đang “ướp mặn” cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa phải là muối, là men cho môi trường mình đang sống.
Lạy Chúa, xin cho con được trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hằng ngày. (Hosanna)
Chúa Giêsu lấy hai hình ảnh muối và ánh sáng để nói lên vai trò của các môn đệ ở trần gian, phải có ảnh hưởng trên kẻ khác.
1. Muối cho đời.
Khi bảo Kitô hữu là muối của đời, Chúa muốn nói gì? Tại sao Chúa lại bảo chúng ta là muối? Ngày nay muối là thứ gia vị rẻ tiền hơn hết, nhưng cũng thiết yếu hơn hết. Chúa không có ý coi thường hay hạ giá chúng ta qua ẩn dụ này. Có lẽ nhiều người trong chúng ta muốn Chúa ví mình như vàng như ngọc. Nhiều bà mẹ thương quí con mình thường nựng con mình như vậy. Còn ở đây Chúa lại ví ta là muối của đất. Khi nói thế, Chúa muốn trân trọng nói đến phẩm chất của cuộc sống qua tính chất của muối. Giá trị của vàng, của ngọc là giá trị tương đối vì đó là những giá trị trao đổi: Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong những cơn đói kém hay như trong sa mạc, đã có nhiều người chết trên đống vàng, chết đói chết khát trong lúc còn rất nhiều của cải. Trong khi đó, giá trị của muối là giá trị tự tại nằm trong vị mặn của nó. Chúa muốn những người tin Ngài phải có tính chất của muối.
Muối có nhiều công dụng trong sinh hoạt của cuộc sống con người. Tuy nhiên, tất cả những công dụng đó đều hàm chứa trong vị mặn của muối. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nếu muối mất mặn thì sẽ chẳng lấy gì làm cho nó mặn lại được. Muối đó không còn dùng được nữa, phải bỏ đi.
Vậy thì vị mặn của muối nơi chúng ta là gì? Thưa là những đức tính tốt trong ta gây được ảnh hưởng tốt cho những người chung quanh: trong gia đình, giữa bạn hữu, nơi làm việc, trong trường học.
Mẹ Têrêsa nói: “Thầy Vinod, người điều hành Gandhiji Prem Nivas, trung tâm người cùi ở Titagarh, Calcutta, hiểu tại sao chúng tôi cố không giảng đạo, nhưng chỉ tỏ cho thấy đức tin của chúng tôi qua hành động và sự phục vụ.
- Mẹ có chứng kiến những người được Mẹ giúp đỡ cải đạo sang Công giáo không?
- Có, một vài người đã cải đạo, nhưng chúng tôi không hề cố khuyến khích họ một cách trực tiếp. Bằng việc rèn luyện đức ái của người Thiên Chúa giáo, chúng tôi đến gần Chúa hơn và chúng tôi cũng cố giúp những người khác đến gần Ngài hơn mà không đặt bất cứ áp lực tôn giáo nào lên họ. Khi họ đón nhận tình yêu tức là họ đón nhận Thiên Chúa và ngược lại.
Một câu hỏi đặt ra cho người Kitô hữu hôm nay: sống giữa người khác, chúng ta đã đóng vai trò muối ướp mặn đến đâu rồi? Hay họ chỉ là muối đã lạt đi rồi? Nếu thế thì họ trở thành vô dụng và chỉ còn việc vất ra ngoài đường cho người ta chà đạp lên thôi.
2. Anh em là ánh sáng thế gian:
Ánh sáng là để cho người ta thấy. Đốt đèn rồi che lại, lấy thùng đậy lại thì ngọn đèn trở nên vô dụng. Ánh sáng cũng có nghĩa là làm chứng. Đèn phải để trên đế cao để cho thiên hạ thấy việc tốt của anh em làm mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời.
Một trong những nhà truyền thuyết giáo xuất chúng nhất của thế kỷ 19 là Đức Hồng Y Mermillotd, Giám mục giáo phận Lausanne (Thụy sĩ). Ngài qua đời năm 1892. Có một lần, sau khi giảng về phép Mình Thánh Chúa trong nhà thờ chính tòa, giáo dân ra về. Còn ngài theo thói quen ở lại chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Khi ngài vừa đứng dậy để đi ra, ngài nghe có tiếng của một bà gọi ngài. Ngài rất ngạc nhiên, vì ngài tưởng không còn ai trong nhà thờ nữa. Người phụ nữ trình bày:
“Kính thưa Đức Cha, con đã nghe Đức Cha giảng. Bài giảng rất thuyết phục. Nhưng những lời Đức Cha nói suông chưa làm con xác tín về phép Thánh Thể. Con biết Đức Cha giống như một luật gia bảo vệ cho đức tin của Giáo hội công giáo. Con còn muốn điều gì hơn thế nữa. Vậy là con nấp và con quan sát. Khi con thấy Đức Cha quỳ gối cầu nguyện hồi lâu và sốt sắng, dù Đức Cha biết trong nhà thờ không có ai, gương sáng ấy đã đánh động con. Con không muốn theo đạo Tin lành nữa. Con muốn trở lại đạo công giáo”.
Mẹ Têrêsa nói: “Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian, và những ai theo Ngài, đều được mời gọi phổ biến ánh sáng này, ánh sáng ban sự sống cho con người”.
Gẫm lại Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cảm thấy không mấy yên tâm trong vai trò truyền giáo của chúng ta. Do phép rửa tội, chúng ta trở thành môn đệ của Chúa Giêsu để được sai đi. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi (Ga 20,21). Sống trong gia đình, xóm giềng, giữa mọi người, mỗi người Kitô hữu đều được Chúa sai đến với những người chung quanh mình. Tuy nhiên, cho đến bây giờ chúng ta chưa ý thức được vai trò môn đệ được sai đi của chúng ta.
Lạy Cha từ ái, Cha muốn chúng con là muối, là ánh sáng cho trần gian. Xin cho chúng con biết hòa nhập để biến đổi môi trường chúng con sống. Amen.
Muối và ánh sáng là hai thực thể vật chất rất cần cho cuộc sống đời này. Muốiphải mặn thì mới dùng để ướp thức ăn cho nó không bị hư, bị thúi. Còn ánh sáng là để soi sáng trần gian, giúp cho con người chúng ta sống và sinh hoạt hàng ngày mà tồn tại trên trái đất đây.
Chúa nói chúng ta là muối, nghĩa là Chúa mong muốn chúng ta phải là một Kitô đích thực, chúng ta phải có chất Chúa trong con người chúng ta, để rồi một khi chúng ta sống ở nơi đâu, hay bất cứ chỗ nào, thời điểm nào, chúng ta cần phải lan tỏa Chúa ra bên ngoài cho anh chị em của chúng ta qua đời sống gương mẫu làm theo thánh ý Chúa của chúng ta. Nhất là những nơi tội lỗi, để người khác thấy các gương lành chúng ta làm mà họ bớt đi tội lỗi để sống tốt hơn. Ngược lại, nếu chúng ta mất Chúa trong con người chúng ta, thay vì chúng ta đem Chúa đến cho anh chị em của chúng, chúng ta lại làm gương xấu cho họ qua cách sống bê tha tội lỗi của chúng ta, đúng chúng ta là muối đã lạt thì trở thành vô dụng, không gì ướp lại được, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp, khạt nhổ, khinh bỉ mà thôi: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó” (Mt 5, 13).
Đàng khác, Chúa còn nói chúng ta là ánh sáng cho trần gian. Chúa chính là ánh trần gian, chúng ta không là ánh sáng, chúng ta chỉ được Chúa ban ánh sáng của Chúa cho chúng ta mà thôi. Như vậy, khi chúng ta sống trong thế gian tối tăm tội lỗi này, các việc lành phúc đức chúng ta làm (Chia sẻ cơm áo của cải vật chất cho người nghèo, thăm viếng những người ốm đau, bệnh tật, tù tội, an ủi những người ưu phiền thất vọng…) nó như là những ngọn đèn sáng xua tan bóng tối tội lỗi để dẫn lối anh chị em chúng ta đến với Chúa: “Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời” (Mt 5, 14 – 17). Như vậy, Chúa muốn chúng ta hãy cố gắng làm càng nhiều việc lành càng tốt cho anh chị em của chúng ta.
Như vậy, muối, ánh sáng có lợi cho cuộc sống, chúng ta là các con cái của Chúa, chúng ta sống ở đâu là có lợi cho anh chị em chúng ta ở đó, chúng ta sẽ là niềm vui, là bình an, hy vọng, là hạnh phúc cho anh chị em của chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa muốn cho chúng con chỉ cho anh chị em đang sống chung quanh chúng con đây các điều thiện hảo, để anh chị em chúng con thực hiện mà được Chúa thương xót hơn, xin Chúa nghe lời chúng con cầu khẩn là đừng bao giờ chúng con say đắm các bã phù hoa mà chúng con đánh mất Chúa, không là gương sáng cho anh chị em chúng con được, xin thương thương nhận lời.
Người con có biệt tài khuyên nhủ. 11/06 – Thứ Tư tuần 10 thường niên –, tông đồ. Lễ nhớ. “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. “Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. “Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu. Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ. Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35), như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a). Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ. Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc. Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1). Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu, và vẫn kéo dài trong Giáo Hội. Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn, đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu. Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ, chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên. Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ, “những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36). Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi, và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép. Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì. Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự. Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không: một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa. Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa. Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa, được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng. Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11). Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng, nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát. Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b). Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi, vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác. Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch, và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a). Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12). Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi, cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ. Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay? Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn. Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm. Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an. Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -------------------------------
Sứ điệp: Nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, người tông đồ phải dùng lời giảng và bằng chứng tá đời sống để loan báo Nước Trời đã đến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, con cám ơn Chúa đã chỉ dạy chân tình và cặn kẽ, cho con biết điều con phải rao giảng và cách con phải sống để làm chứng cho Tin Mừng.
Con nhận thật rằng con chẳng có khả năng gì đặc biệt. Con cảm thấy bất lực trước những đau khổ về thể xác và tâm linh của anh chị em quanh con. Con lại càng bất lực hơn nữa trước sức mạnh của sự dữ, sự ác nơi thế gian này. Nhưng lạy Chúa, con tin vào sức mạnh, vào quyền năng của Chúa. Xin Chúa dùng con như khí cụ tình thương của Chúa.
Giờ đây, con mới hiểu được vì sao mà Chúa muốn con sống đơn giản và siêu thoát. Đó là để con được nên giống Chúa, để con thấy được quyền năng Chúa biểu lộ nơi con. Đó cũng là để giải phóng con, cho con được tự do với thế trần mà thuộc trọn về Chúa, là người của Chúa, mang bình an đến cho muôn người.
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho những lần con xao lãng nhiệm vụ, con đã để lòng quá lo lắng chuyện đời. Cũng không thiếu những lần con chùn bước trước những khó khăn của đời tông đồ.
Cậy vì lời cầu bầu của thánh Ba-na-ba, xin Chúa ban cho con lòng tín trung với Chúa, gắn bó với sứ mạng tông đồ. Xin cho đời con nên dấu chỉ cho mọi người nhận thấy Nước Chúa đang đến. Xin cho con được vào Nước Trời trong ngày sau hết của đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Ba-na-ba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv11,23). Ngài được sách công vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai
Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lê-vi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết lúc nào ngài gia nhập Kitô giáo. Như Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba -nghĩa là con của sự an ủi- một người Lê-vi, người gốc Ky-prô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô mới trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, đã tìm Saolô từ Tar-sô sang An-ti-ô-ki-a làm người cộng sự truyền giáo. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, cả hai đi Ky-prô và mạn nam Tiểu Á. Cả hai đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc người ngoại, một khi gia nhập Ki-tô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật. Sau đấy, có cuộc tranh cãi giữa hai người, chỉ vì Phao-lô không muốn đem theo Mác-cô, bà con của Ba-na-ba, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai. Ba-na-ba đã đem Mác-cô đi với mình đến Ky-prô (Cv 15,39)
Theo truyền thuyết sau này, Ba-na-ba bị ném đá chết tại Sa-la-mít (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu. - Trừ quỷ. - Tinh thần phục vụ quãng đại: Hãy cho cách nhưng không vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó. - Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ. - Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là ðể Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất ðịnh giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng một huớng riêng. Chuyện bất ðồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan ðiểm của Banaba là hợp lý, ðó là ông ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
- Ngài ðã cứu chữa Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài ðã cứu chữa giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc luong dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng ðuợc thúc ðẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
7. Ðừng sắm vàng bạc hay tiến ðồng ðể giắt lung. Ði ðuờng ðừng mang bao bị, ðừng mặc hai áo, ðừng ði giày hay cầm gậy (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan ðã lên ðuờng. Họ tức khắc bỏ chài luới mà lên ðuờng. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh ðồng Galilê.
Quê huong con, bao thế hệ cũng ðã lên ðuờng. Họ kiếm tìm bình ðẳng, bác ái và tự do. Họ ðấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều nguời ðã bỏ mình vì Nuớc Chúa.
Còn con Con cần ðội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc ðẹp. Con muốn xỏ ðôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền nãng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Banaba là một nguời tốt lành, ðầy Thánh Thần và lòng tin (Cv 11,23). Ngài ðuợc sách Công Vụ nhận là Tông Ðồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Muời Hai
Ngài là một nguời Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lêvi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết ngài ðã gia nhập Kitô giáo lúc nào. Nhu Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi, ngài có lòng ðại ðộ: Giuse, nguời ðã ðuợc các Tông Ðồ ðặt tên là Banaba nghĩa là con của sự an ủi một nguời Lêvi, nguời gốc Kyprô, có một thửa ruộng, ông ðã bán ði và ðem bạc ðặt duới chân các Tông Ðồ (Cv 4,36-37)
Ngài là nguời huớng dẫn Saolô sau khi Saulô trở lại ðến gặp các vị Tông Ðồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng nãm 42, Barnaba ðã tìm ðến với Saolô ở Tarsô rồi cùng với Phaolô sang truyền giáo tại Antiôkia. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất này, cả hai ði Kyprô và mạn nam Tiểu Á. Chính các ngài ðã ði Giêrusalem dự Công Nghị Tông Ðồ ðể ðấu tranh cho việc những nguời dân ngoại, khi gia nhập Kitô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật cũ. Sau ðó xẩy ra một cuộc tranh cãi giữa hai nguời. Lý do là vì Phaolô không muốn ðem theo Marcô, bà con của Banaba ði theo mình trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai cho nên Banaba ðã ðem Marcô ði với mình ðến Kyprô (Cv 15,39).
Theo truyền thuyết, sau này Banaba bị ném ðá chết tại Salamít. (Lm Nguyễn vãn Trinh, Phụng vụ chu thánh)
II. CON ÐUỜNG NÊN THÁNH
Phaolô và Banaba ðều là những tông ðồ nhung cá tính và cách ðối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẻo. Bởi thế ðôi khi hai ông ðụng ðộ nhau:
Lần thứ nhất là về vấn ðề ãn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội ðã có quyết ðịnh rằng luong dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ Do thái giáo, trong ðó có tục lệ phân biệt những món ãn nào sạch những món ãn nào do. Bởi ðó các tông ðồ ðều hòa ðồng với luong dân, ãn chung bàn với họ. Nhung một lần kia vì sự có mặt của những nguời Do thái nên và vì muốn tránh không muốn gây khó chịu cho họ, nên thánh Banaba và cả thánh Phêrô ðã tránh ngồi chung bàn ãn với những nguời luong tòng giáo. Lần ðó Phaolô ðã nổi giận ðứng lên công khai trách hai nguời nặng lời. Sách thánh không viết gì về phản ứng nguợc lại của hai vị, tức là hai vị ðã nhịn. Chúng ta nên ðể ý: Lúc ðó Phêrô vị lãnh ðạo Giáo Hội, và Banaba nguời ðỡ ðầu cho Phaolô. Phaolô chỉ là một nguời ðến sau, một nguời cấp duới. Là một nguời ðến sau và nguời cấp duới vậy mà hôm nay Phaolô dám công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng của mình truớc mặt cả nguời Do thái lẫn nguời luong mới tòng giáo. Vậy mà hai Phêrô và Barnaba vẫn nhịn. Ðây phải nói là một tấm guong hết sức sống ðộng về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.
Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc có liên quan ðến Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô rất giận. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô ði theo, có ý là ðể cho Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần vì Banaba thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên nhất ðịnh giữ anh này lại. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng mỗi nguời một huớng. Thật không dè rằng chuyện bất ðồng này lại ðua ðến kết quả tốt. Ðó là việc truyền giáo càng ngày càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Và thêm một kết quả nữa cũng hết sức tốt ðẹp. Nó ðã chứng minh cho quan ðiểm của Banaba là hợp lý. Ðó là Barnaba ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, không những ðã giúp Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành mà sau này còn là tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Tóm lại chúng ta thấy mỗi nguời chúng ta khi sinh ra ðã mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
Ngài ðã cứu giúp Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh cho Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác với nhau một cách vui vẻ.
Ngài ðã cứu giúp giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những ðã hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ lên ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác với nhau.
Ngài cũng ðã hỗ trợ chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trợ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
Cùng với Phaolô, Ngài bênh vực cho các tín hữu gốc luong dân trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc Do thái và Kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
Ngay cả khi có những ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng luôn giữ ðuợc bầu khí huynh ðệ vì việc làm của ngài phát xuất bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: Thí dụ nhu trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây cớ vấp phạm cho các tín hữu gốc Do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có ðuợc tâm hồn giống nhu tâm hồn của thánh Barnaba: Luôn biết ðấu tranh cho lẽ phải nhung với một tấm lòng bao dung và nhất là chỉ vì yêu mến Chúa.
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng ði giảng với ngài. Hai thầy trò cùng ði các ðuờng phố Assisi, cách nghiêm trang, suy tuởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: Thua cha, giảng ở ðâu ạ?
Cha thánh trả lời: Giảng là ðem Chúa ðến bằng guong sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Suy niệm
Lời Thầy không luôn vang mãi mọi thời ðại vì nhu cầu của cánh ðồng truyền giáo thế giới luôn mang tính cấp bách: Các con hãy ra ði .
Ra ði chứ không phải ở lại, ra ði thoát khỏi cái tôi ích kỷ, chỉ quanh quẩn cho chính mình, nhung cất buớc lo cho sứ mạng gieo giống Tin Mừng, làm việc trên cánh ðồng truyền giáo.
Ra ði và nói lớn cho thế giới: Triều Ðại Thiên Chúa ðã ðến gần các ông, ðó là nuớc tình yêu và ân sủng, nuớc công chính và bình an. Cho nên, phải chuẩn bị bằng tâm tình sám hối, nhu Gioan Tẩy giả loan báo (x. Mt 3,3), nhu chính Thầy cũng loan báo (x. Mt 4,12-17; Mc 1,14-15; Lc 4,14-15). Lo việc Nuớc Trời và công chính truớc tiên (x. Mt 6,33).
Ra ði và Hãy chữa những nguời ðau yếu trong thành, môn ðệ nhu thầy chí thánh quan tâm chia sẻ ðến nguời ðau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi nguời. Thật thế, nguời môn ðệ của Chúa luôn quan tâm ðến những nhu cầu ðuợc chữa lành, chia sẻ cho anh em ðồng loại nhu sau này Phaolô ðã cảm nghiệm và chia sẻ: Vui với nguời vui, khóc với nguời khóc (Rm 12,15). Và tại Cửa Ðẹp Ðền thờ, thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và ðã nói với nguời hành khất: Vàng bạc thì tôi không có; nhung cái tôi có, tôi cho anh ðây: nhân danh Ðức Giêsu Kitô nguời Nadarét, anh ðứng dậy mà ði! anh trở nên cứng cáp (Cv 3,6-7).
Ra ði ðừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, nhung tín thác hoàn toàn vào Thầy, sống nghèo khó, thanh thoát truớc các phuong tiện của con nguời... và không lo lắng thái quá về vật chất, nhung luôn chú tâm vào sứ mạng ðuợc sai.
Ra ði và khi vào bất cứ nhà nào, truớc tiên hãy nói: Bình an cho nhà này!. Những nguời mang sứ mạng Tin Mừng luôn mang và quan tâm tới sự an bình và chuyển giao bình an Tin Mừng mà mình sở hữu trong tu cách sứ giả Tin Mừng cho gia ðình, cộng ðồng và những con nguời mà mình gặp. Sự bình an sẽ chiến thắng lo âu, sợ sệt sinh niềm vui tâm hồn Sự bình an nhu ngôn sứ Isaia loan báo bằng hình ảnh: Này Ta tuôn ðổ xuống Thành Ðô on thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chu dân chảy về tràn lan nhu thác vỡ bờ (Is 66,12)
Lời mời gọi ra ði làm việc trên cánh ðồng truyền giáo của Chúa xa xua cũng là lời mời gọi dành cho mỗi nguời chúng ta trong cộng ðoàn tín hữu. Công ðồng Vaticanô II khẳng ðịnh: Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông ðồ. Là một nguời Do Thái sinh truởng tại ðảo Sýp vào khởi ðầu của ðạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem truớc khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân ðuợc các thánh tông ðồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô ðến Giêrusalem, nhung cộng ðoàn tín hữu tại ðây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là nguời ðứng ra bảo ðảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông ðồ, nhung sau ðó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều nãm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông ðồ sai Barnaba ðến Antiokia ðể ðiều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba ðã nhận ra ngay on Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do ðể nối kết hai nguời lại với nhau trong cánh ðồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một nãm. Một trận ðói lớn ðã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô ðã quyên góp ðể mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một nguời bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tuong lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên ðuờng ði ðến ðảo Sýp, quê huong của Barnaba và từ ðó sang Tiểu Á. Tại một trạm ðầu tiên ở Tiểu Á, Marcô ðã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt ðầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một buớc ði là mỗi một lần bị chống ðối và bách hại từ phía những nguời Do Thái. Những nguời này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông ðồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một nguời tàn tật, dân thành xem các ngài nhu những vị thần. Họ ðịnh giết bò ðể tế cho các ngài nhung liền sau ðó bị nguời Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thuong tích. Dù bị chống ðối và bách hại, hai vị tông ðồ vẫn hoán cải ðuợc nhiều nguời cũng nhu tổ chức ðuợc giáo ðoàn. Bị nguời Do Thái và dân ngoại chống ðối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khãn ngay cả từ phía cộng ðoàn Giêrusalem. Vấn ðề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này ðã tranh ðấu và cuối cùng ðã tìm ðuợc giải pháp trong cộng ðoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến ði trở lại ðể viếng thãm các cộng ðoàn, Barnaba và Phaolô ðã chia tay nhau mỗi nguời một ngả. Barnaba ði với Marcô ðến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một nguời môn ðệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những nãm tháng còn lại của Barnaba không còn ðuợc nhắc ðến nữa. Nhung cũng nhu thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô ðã trở thành môn ðệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục ðầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào ði nữa, tất cả mọi truyền thuyết ðều gặp nhau trong cùng một ðiểm là xem Barnaba nhu con nguời ðuợc mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô ðầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con nguời tốt, ðầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái ðộ của ngài ðối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và ðại luợng.
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta ðuợc biết ngài là nguời Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông ðồ ðã ðặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một nguời trong nhóm Muời Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những ðóng góp quan trọng của Barnabas là ngài ðã ðảm bảo cho Saolô, một nguời mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt ðạo của Saolô. Sau ðó, Barnabas ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas ðã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) ðến tiếp tay; cả hai ðã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô Hữu.
Chính trong cộng ðoàn siêng nãng cầu nguyện này mà Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô ðể lo cho công việc mà Ta ðã kêu gọi hai nguời ấy. Sau ðó họ ãn chay cầu nguyện, rồi ðặt tay trên hai ông và tiễn ði. Do ðó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên thực sự ở nuớc ngoài, truớc hết ðến Cyprus (là noi họ hoán cải một quan ðầu tỉnh nguời Rôma) và sau ðó ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Trong một thành phố, nguời Hy Lạp quá mến mộ các ngài ðến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô nhu các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngãn cản ðuợc ðám ðông hiếu khách ấy ðừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnabas ðem Máccô ðến Cyprus. Sau này, ba nguời: Phaolô, Barnabas và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, duờng nhu Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, ðã trở về Cyprus. Ở ðây, theo truyền thuyết, ngài ðã chịu tử ðạo vào nãm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas ðuợc ðề cập nhu một nguời tận hiến cuộc ðời cho Thiên Chúa. Ngài là nguời ðầy tràn Thánh Thần và ðức tin. Do ðó ðã lôi cuốn một số ðông nguời về với Chúa. Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách ðối xử của nguời ðuợc sai ði giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: chữa lành nguời ðau yếu. - Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng ðại: Hãy cho cách nhung không, vì truớc ðó ta ðã lãnh nhận cách nhung không.
- Ðừng quá bận tâm ðến những phuong tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ ðó. - Cũng ðừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ. - Phải ðem bình an ðến cho những nguời mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. Các con hãy rao giảng rằng Nuớc Trời ðã ðến gần: nhiều nguời không tin có Thiên Chúa, nhiều nguời nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho nguời ta tin rằng Thiên Chúa và Nuớc Trời ðang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Chữa lành các bệnh nhân , làm cho kẻ chết sống lại , làm cho những nguời cùi ðuợc sạch trừ quỷ : tông ðồ là một con nguời chuyên làm lành: xoa dịu những ðau khổ, ðem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp ðỡ những nguời bị xã hội khinh chê, giải thoát nguời ta khỏi tội lỗi
3. Các con ðã lãnh nhận nhung không thì hãy cho nhung không: Làm tông ðồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi ðã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho ði.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tuớc ðến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 ðồng vàng ðể ngài giúp những nguời nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một nguời ãn xin ðến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa ðộng lòng thuong, lấy cả số tiền 25 ðồng vàng ðem cho nguời ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tuớc ðích thân ðến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì ðã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông ðua tặng thêm 150 ðồng vàng nữa ngoài số 25 ðồng mà ông xin hoàn lại. Từ ðó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, luong thực và quần áo ðể thánh nhân giúp ðỡ những nguời nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba ðều là những tông ðồ nhung cá tính và cách ðối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế ðôi khi hai ông ðụng ðộ nhau: lần thứ nhất là về vấn ðề ãn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội ðã có quyết ðịnh rằng luong dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong ðó có tục lệ phân biệt những món ãn nào sạch những món ãn nào do. Bởi ðó các tông ðồ ðều hòa ðồng với luong dân, ãn chung bàn với họ. Nhung một lần kia vì có mặt những nguời do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô ðã tránh ngồi chung bàn ãn với những nguời luong tòng giáo. Lần ðó Phaolô ðã nổi giận ðứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhung sách thánh không viết gì về phản ứng nguợc lại của hai vị, tức là hai vị ðã nhịn. Phêrô vị lãnh ðạo Giáo Hội, Banaba nguời ðỡ ðầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ ðến sau, một nguời cấp duới. Thế mà hôm nay nguời ðến sau và nguời cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là ðể Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất ðịnh giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng một huớng riêng. Chuyện bất ðồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan ðiểm của Banaba là hợp lý, ðó là ông ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
- Ngài ðã cứu chữa Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài ðã cứu chữa giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc luong dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng ðuợc thúc ðẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
7. Ðừng sắm vàng bạc hay tiến ðồng ðể giắt lung. Ði ðuờng ðừng mang bao bị, ðừng mặc hai áo, ðừng ði giày hay cầm gậy (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan ðã lên ðuờng. Họ tức khắc bỏ chài luới mà lên ðuờng. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh ðồng Galilê.
Quê huong con, bao thế hệ cũng ðã lên ðuờng. Họ kiếm tìm bình ðẳng, bác ái và tự do. Họ ðấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều nguời ðã bỏ mình vì Nuớc Chúa.
Còn con Con cần ðội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc ðẹp. Con muốn xỏ ðôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền nãng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Dù không phải là một trong số muời hai tông ðồ ðuợc Ðức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhung thánh Barnaba ðuợc thánh ký Luca gọi là tông ðồ trong sách Tông ðồ Công vụ của ngài. Vì nhu tông ðồ Phaolô, Barnaba cũng nhận ðuợc từ Thiên Chúa một sứ vụ ðặc biệt. Thánh nhân là nguời gốc Dothái, sinh tại ðảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba. Danh xung này có nghĩa là con của sự an ủi.
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba ðã bán tất cả những gì ngài có và ðem tiền dâng cho các tông ðồ. Thánh nhân là nguời tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hãng say tin yêu Ðức Chúa Giêsu. Barnaba ðuợc sai ðến thành Antiôkia ðể rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong ðế quốc Rôma thời ấy. Tại ðây, những nguời tin theo Ðức Chúa Giêsu lần ðầu tiên ðuợc gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp ðỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô ðã thực sự ðuợc on trở lại. Chính Barnaba ðã ðứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng ðoàn Kitô hữu; và ðã xin cho Phaolô ðến làm việc với mình. Barnaba là nguời khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ nãng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất ðặc biệt và ngài muốn thánh nhân có co hội ðể trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh ðã chọn Phaolô và Barnaba ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau ðó không lâu, hai vị tông ðồ ðã lên ðuờng thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài ðã phải chịu nhiều ðau khổ và thuờng hay gặp nguy hiểm ðến tính mạng. Nhung giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài ðã thuyết phục ðuợc nhiều nguời trở về với Ðức Chúa Giêsu và Giáo hội của Nguời.
Sau ðó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, nguời bà con với ngài. Họ ði về Cyprô, quê huong của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều nguời ðã trở nên Kitô hữu ðến nỗi Barnaba ðuợc gọi là tông ðồ của ðảo Cyprô. Theo ý kiến chung, nguời ta cho rằng vị ðại thánh này ðã bị ném ðá chết vào nãm 61.
Thánh Barnaba ðã nhận một danh xung biểu hiệu ðúng con nguời của ngài: một nguời tốt luôn luôn khuyến khích nguời khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng ðuợc trở nên những nguời con của sự an ủi nhu thánh nhân.
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một nguời trong nhóm muời hai tông ðồ ðầu tiên của Chúa Giêsu, nhung thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ, vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là nguời gốc Do Thái, sinh tại ðảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản. Danh xung này có nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Ðồng thời, chính ngài là nguời ðã ðứng ra ðảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô truớc mặt cộng ðoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại ðạo. Sau ðó, Barnaba ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia ðể rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba ðã xin Phaolô ðến giúp sức cho mình. Cả hai ðã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại noi ðây. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà "lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần ðã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng, ðó là ðem Tin Mừng ðến cho dân ngoại. Do ðó, hai ông ðã khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên ở nuớc ngoài, truớc hết là ðến Síp và sau ðó là ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã ðuợc Công ðồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những nguời ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tuong lai. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnaba ðem Máccô ðến ðảo Síp. Sau này cả ba nguời là Phaolô, Barnaba và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhung theo truyền thuyết thì thánh Barnaba ðã ðuợc phúc tử ðạo tại Síp vào nãm 61. Ðồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại ðảo Síp. Bên cạnh ðó, nguời ta nói rằng mộ Ngài ðuợc tìm thấy nãm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba ðã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu guong về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nuớc Thiên Chúa, và là mẫu guong về một ðời sống khiêm nhuờng, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi nguời chúng ta, ðể trong ðời sống thuờng ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa ðến cho mọi nguời.
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chuong ðầu của sách Công Vụ Tông Ðồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một nguời Do Thái ðuợc sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội so khai ở Giêrusalem. Chính ở ðịa vị này mà khoảng nãm 39 tân tòng Saolê ðuợc ðón nhận vào cộng ðoàn các tông ðồ (Cv 9-27). Bốn nãm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác huớng dẫn cộng ðoàn Kitô giáo mới ðuợc thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và ðã trở nên trung tâm Kitô giáo của luong dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài ðuợc trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Noi ðây hai nguời lại ðuợc Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba nguời họp thành ðoàn truyền giáo, lên ðuờng khoảng nãm 45 (Cv 13 và 14). Từ ðây Barnaba dần dần ẩn mặt ði. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhung chính Saolê duới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và ðoàn tùy tùng lên ðuờng tới lục ðịa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba ðuợc coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Ðây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tuong của hai ông. Ba nãm sau Phaolô trở về và ðuợc cộng ðồng Giêrusalem phê chuẩn về ðuờng lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Nãm sau, dự ðịnh hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn ðồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô ðã ðuợc hoàn thành và tên Ngài không còn ðuợc nhắc ðến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao ðổi thu từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng nãm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu nãm sau Phaolô xin Marcô ðến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba ðã qua ðời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống ðáng tin hon cho biết Ngài chết vì ném ðá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thu Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhung những tài liệu này không cho biết nhiều hon những ðiều ðã biết ðuợc từ sách Công Vụ các tông ðồ. cuốn gọi là tho thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào tho mục Thánh Kinh, nay nguời ta biết ðuợc là tác phẩm của một nguời Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Nguời ta nói rằng mộ Ngài ðuợc tìm thấy nãm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài ðã chép tay.
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại nguời Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhung các Tông Ðồ ðã ðổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là nguời có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn ðể trở thành thành viên của nhóm Muời Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên ðuợc ðề cử ðể thế chỗ cho Giu-ða Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Ðồ tổ chức rút thãm thì Ngài ðã không trúng, nhung thánh Mát-thi-a ðã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng ðoàn Giáo hội so khai, Thánh Nhân ðã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vuờn của mình ði, lấy tiền ðem ðặt duới chân các Tông Ðồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là nguời có tài khuyên bảo, ðầy Thánh Thần và Ðức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là nguời bảo lãnh ðể Cộng ðoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem ðón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Ðồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì ðuợc các Tông Ðồ cử ðến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba ðã trẩy ði Tác-xô ðể tìm Thánh Phao-lô. Sau ðó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt ðộng truyền giáo tại ðó trong suốt một nãm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng ðồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo ðầu tiên tới ðảo Sýp, cũng nhu tới vùng Tiểu Á. Cả hai ðã cùng tham dự Công Ðồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Ðồng này, các Tông Ðồ ðã thống nhất quyết ðịnh sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở noi nguời Do-thái lẫn noi nguời gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi ðã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan ðến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo ðối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, nguời em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Ðồ ðã chia tay nhau. Sau ðó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô ðã ðến thãm các Cộng Ðoàn tại ðảo Sýp, quê huong của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba ðã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, ðể ðặt lên ðầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn ðến truyền giáo tại Rô-ma, và ðã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này nguời tân tòng ấy ðã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Ðức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài ðến Mi-lan, và ðuợc coi là Giám mục tiên khởi của Giáo ðoàn này. Nhung theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba ðã trở lại ðảo Sýp, và tại ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo thông qua việc bị ném ðá ðến chết.
Một số chuyên gia ðã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thu mang tên của Ngài, nhung nó ðuợc coi là mạo danh, và cũng ðuợc xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thu. Bức thu này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài nhu là sự tuong ứng và hài hòa với Cựu Uớc; trong thời Giáo hội cổ ðại, bức thu này ðôi khi ðuợc coi nhu thành phần của quy ðiển Tân Uớc. Thực tế thì bức thu ðó ðã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào nãm 130, và với cách giải thích Cựu Uớc có tính bài Do-thái của mình, nên bức thu này không ðuợc công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhung tiếc rằng nó ðã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhung mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới ðuợc biên soạn. Theo một truyền thống truớc ðây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba ðuợc coi là tác giả của Thu gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống ðã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn ðệ do ðích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tuong truyền về việc Thánh Bác-na-ba ðuợc huởng phúc Tử Ðạo tại ðảo Sýp xem ra ðáng tin cậy hon. Theo ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo vào khoảng nãm 63 duới thời hoàng ðế Nero, và ðuợc an táng tại ðó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Ðông ðảo Sýp). Một ngôi Thánh Ðuờng của Giáo hội Sýp ðã ðuợc kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh ðạo của Giáo hội Sýp với Ðức Thuợng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính ðộc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Ðồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ ðã ðua ra quyết ðịnh nghiêng về Giáo hội Sýp, nhung Antiochia ðã thu hồi quyết ðịnh ðó.
Theo tuong truyền, vào nãm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba ðã hiện ra với Ðức Tổng Giám Mục Anthemios của ðảo Sýp, và ðã chỉ cho Ðức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau ðó, thi hài của Thánh Nhân ðã ðuợc tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, nguời ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua ðời, nguời bạn ðuờng của Ngài là Thánh Mác-cô, ðã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có ðặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Ðức Tổng Giám mục Anthemios ðã cấp tốc báo cho triều ðình hoàng ðế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua ðó vị Giám mục của Giáo hội Sýp ðã thuyết phục ðuợc nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp ðuợc thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hon Giáo hội Antiochia, và vì thế ðuợc coi là ngang hàng với Giáo hội ðó. Một nguồn suối ðã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này ðuợc cho là có khả nãng chữa lành cũng nhu có khả nãng kỳ diệu, ðặc biệt là ðối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào nãm 1953, một nhà nguyện mới ðã ðuợc kiến thiết ngay trên phần mộ ðuợc cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba ðã ðuợc tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nuớc Ý, và tại một số noi khác nhu Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Ðức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu. "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng. Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17). Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê. Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới. Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội. Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi, cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22). Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn. Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người. Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em, và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa, thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được. Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát. Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương. Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình, rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24). Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha? Để đến được với người đang xích mích với mình, cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy. Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình, đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương. Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ. “Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay, một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng. Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày, những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch. Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết. Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người. “Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình. Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi, những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình. Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ. Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay. Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình? Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống? Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người, trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động . vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen. ---------------------------------
Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”. Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.
Đó là không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Ê-li-a là người sống theo Thần Khí. Ông không để lòng giận ghét ai. Dù ông bị vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven làm hại. Ông chỉ làm theo lệnh Chúa. Xong việc rồi ông lại đối xử tốt với vua A-kháp. Khi Chúa tha tội, ban mưa xuống đất Do thái, Ê-li-a đã chăm sóc cho vua. Lo cho vua ăn uống cho kịp chạy mưa. Và khi mưa xuống ông chạy trước xe để tháp tùng vua theo đúng nghi lễ quân thần. “Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay Đức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en”. Đó quả là con người sống theo Thần Khí (năm chẵn).
Phao-lô cho biết lý do luật mới công chính hơn. Đạo cũ đọc Kinh Thánh qua một tấm màn. Còn đạo mới gặp trực tiếp với Chúa. Chúa là Thần Khí. Thần Khí là tự do. Nên tâm hồn không bị ràng buộc trong sự chết. Nhưng phản chiếu vinh quang Chúa Ki-tô. Tự do yêu thương. Vì thế Tin Mừng Chúa Giê-su bừng sáng lên. Tuy nhiên những ai sống theo xác thịt vẫn không nhìn thấy ánh sáng đó. Chỉ những ai sống theo Thần Khí mới bừng sáng lên. Sống theo Thần Khí. Con người tràn đầy tự do. Và tràn đầy yêu thương. Đó là công chính hơn biệt phái (năm lẻ).
Lạy Chúa xin “làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa, rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô”.
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
“Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)
Làm như mọi người
Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.
Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.
Làm hơn được chăng?
Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.
Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.
Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!
Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: "Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời" (Mt 5,20).
Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình... Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.
Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.
Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.
Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.
Ghi nhớ: “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
Lần đầu tiên một buổi lễ được trực tiếp truyền thanh cho cả thế giới theo dõi là lễ đăng quang của vua George VI của Vương quốc Anh.
Trong lễ đó, có nghi thức Đức Tổng giám mục Canterbury trao cho nhà vua cuốn Kinh Thánh và nói: “Thưa Hoàng đế cao cả, chúng thần xin trình Ngài cuốn sách này. Đây là báu vật cao quý nhất trên thế giới. Sự khôn ngoan ở đây, quy luật của hoàng gia cũng ở đây. Đây là những lời hằng sống của Thiên Chúa”.
Suy niệm
Luật lệ tự nó tốt nhưng không hoàn hảo. Lề Luật luôn là phương tiện chứ không là cứu cánh, như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát” (Mc 2,27). Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, cho nên, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi không dừng lại ở những việc làm hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Trong tinh thần luật vì con người như Chúa Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày Sabát” (Lc 6,9), Chúa Giêsu tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập Luật Mới, khi Ngài dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của Luật Cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ chỉ ở nơi chữ viết ràng buộc nhưng cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’?. Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân: Chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng ‘Không được giết người, … còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22).
Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em thì đã được coi là vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm Luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến để làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).
Đức Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách thổi tình yêu của Ngài vào luật pháp khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế”. Ngài khẳng định giới răn trọng nhất mà toàn bộ Lề Luật và tiên tri đều quy về yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình (x. Mt 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ là chúng ta, kiện toàn Lề Luật khác hẳn việc tuân thủ các giới luật và mệnh lệnh của Chúa Kitô.
Ý lực sống:
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người pharisiêu,
Hôm nay Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: Phải công chính hơn những người biệt phái và luật sĩ. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào cả, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Tại sao Chúa Giêsu đòi các môn đệ Ngài phải công chính hơn người biệt phái?
Thưa bởi vì, theo họ, thánh thiện là chu toàn cách chi li và máy móc những luật lệ đã được qui định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Đả phá quan niệm và cách thực hành của những người biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người biệt phái, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những biệt phái và luật sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước trời”.
Không dùng gươm giáo hay bất cứ vũ khí hoặc phương tiện nào để đổ máu, kết liễu mạng sống người khác, làm như thế, những người luật sĩ và biệt phái cho rằng đã là tuân thủ đúng luật Maisen là “Chớ giết người”. Không sai! Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải công chính hơn thế, khi Ngài dạy giữ luật ngay từ ý hướng bên trong, vì đó là căn cội dẫn đến hành vi biểu hiện bên ngoài: có loại trừ được lòng giận ghét thì mới không mắng chửi người khác, và như thế mới loại trừ được một động cơ quan trọng dẫn đến tội sát nhân. Giận dữ, mắng chửi đã là giết người trong tư tưởng rồi. Đàng khác, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người khác còn gây ra đau khổ nặng nề hơn cả việc làm hại đến thân thể tha nhân (5 phút Lời Chúa).
“Chớ giết người”, chúng ta phải hiểu thế nào?
Luật Maisen qui định kẻ giết người phải bị đem ra toà xử, và tùy nghi luật lấy lại sự công bằng đúng sai xét về mặt xã hội và được áp dụng mắt đền mắt răng đền răng khi phạm nhân đã hành động sai.
Sự kiện toàn của luật Tin mừng không chỉ dừng lại ở hành động cụ thể tay chân mới là tội, và ngay cả việc giận hờn mắng nhiếc nhau đã xứng bị đem ra hội đồng và đáng phải sa hỏa ngục rồi. Thật vậy, giết nhau không chỉ dừng lại ở thể xác, nhưng bằng lời lẽ và hiến kế thâm độc còn đáng sợ hơn biết chừng nào...
Sự kiện toàn không chỉ dừng lại ở tính tương quan con người, mà là thành tương quan đối với Thiên Chúa, xúc phạm đến nhau tức là xúc phạm đến Thiên Chúa và xứng đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
“Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật”
Việc bất bình ở đây hiểu thế nào?
Có thể xảy ra trường hợp một người thù ghét chúng ta mà không vì lỗi chúng ta. Đó không phải là vấn đề ở đây. Chính Chúa Giêsu cũng đã có những kẻ thù hung dữ, tàn bạo, tuy Ngài không hề có lỗi gì với họ. Vậy đừng lo lắng khi mình khám phá ra chung quanh mình có người nào đó cư xử với chúng ta như là có điều gì bất bình với chúng ta , mặc dầu chúng ta không làm điều gì phiền lòng họ. Trong trường hợp này, nếu chúng ta có thể đi bước đầu dàn xếp sự việc thì càng tốt, nếu không thể làm điều đó, hãy giao phó sự việc cho Chúa.
Nhưng điều Chúa Giêsu đòi hỏi là: để đến gần Chúa, chúng ta không được là nguyên nhân phát sinh bất công hay thiếu bác ái làm đau lòng người anh em. Điều này Chúa muốn dạy chúng ta.
Nếu có bất hoà xảy ra, thì phải mau chóng đi làm hoà ngay. Sự làm hoà này cần kíp và cấp bách như một điều kiện cần phải làm trước khi làm việc phụng thờ Thiên Chúa.
Không những không được thù oán, gây bất hoà với ai, mà còn không được là đối tượng cho lòng thù oán mà chúng ta có thể gây ra cho kẻ khác.
Ngay ở đời này, chúng ta phải cố hòa giải với Chúa bằng cách sống hòa thuận với nhau, chớ đợi đến đời sau, kẻo sẽ gặp án phạt rất nghiêm ngặt, vì đời này là chỗ tha thứ, đời sau là nơi thưởng phạt (Trần Hữu Thành).
Truyện: Hoà giải trước vị thần
Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hoà giải loài người với nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà.
Người Rôma xưa coi định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà và như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.
Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh.
Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bày lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần.
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào?
2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích các khoảng luật “chớ giết người” cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi người anh em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nên mới nặng lời như thế. trong lòng tôi “người anh em” kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
3. Nếu Chúa đã chọn việc làm hòa trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hàng ngày chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa?
4. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21)
Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại “giết” mình. Tội ấy có đáng xét xử không? Chúng ta ít hỏi mình như thế bởi vì còn đắm say với men rượu, men tình trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là hủy hoại thân xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)
1. Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người Pharisêu. Công chính của người Pharisêu là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào. Việc giữ luật đó chỉ là máy móc không một chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa phải được thể hiện qua việc giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương.
Sau đó, Chúa Giêsu đưa ra vài thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Thí dụ, luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Hay luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình đã.
2. Như vậy ở đây, theo ý của Chúa, ta thấy có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người Pharisêu là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; còn thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương hay không. Chúng ta thường dùng thứ thước nào?
Trong một làng nọ, có ba người bạn đã quen biết nhau từ lâu:
- Ablin là người thợ rèn. - Ali làm ruộng. - Carin là thầy lang.
Ablin, người thợ rèn có tính nóng nẩy, hay say rượu và lười biếng. Còn Ali thì có lòng kính sợ Chúa và ngày ngày từ sáng sớm đến chiều tối, ông chăm chỉ làm việc trên cánh ruộng để có đủ cơm ăn áo mặc cho gia đình. Người ta thấy đôi lúc Ali cũng nổi sùng với những người hàng xóm chung quanh, nhưng cách chung ai cũng phải công nhận ông là người tốt bụng và không hề lường gạt ai. Và cuối cùng, là Carin, một thầy lang nổi tiếng là thánh thiện. Kẻ ốm đau nhất là những người từ ở nơi xa đến, chỉ cần nhìn thấy gương mặt hiền hậu của ông cũng đủ khỏi bệnh.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cả ba người đều mắc bệnh phong cùi trong cùng một ngày. Dĩ nhiên theo luật pháp và vì lợi ích của dân làng, họ phải bị trục xuất ra khỏi làng và người ta đã dựng cho ba người một túp lều để họ có chỗ che nắng che mưa.
Một hôm, cả ba người nằm ngủ và mơ thấy Chúa. Chúa phán với họ: “Hãy cầu xin cho được lành bệnh”. Sáng thức dậy, họ thuật lại giấc mơ của mình cho nhau nghe và vui mừng vì biết chắc đó là điều Chúa muốn. Họ quyết tâm cùng cầu xin Chúa như Ngài đã phán bảo họ.
Sau ba ngày, người thợ rèn, Ablin, được khỏi bệnh, khỏe mạnh và trở về làng trước. Ông tự nhủ trong lòng: không hiểu vì sao mà mình được Chúa thương nhất trong ba người.
Sau ba tháng, thì đến lượt bác nông phu là Ali, cũng được lành bệnh và trở về làng. Trên đường về ông thầm nghĩ là mình được Chúa yêu thương hơn là ông bạn thầy lang. Ông ấy vẫn còn đang bị bệnh! Thật tội nghiệp. Rồi ông tự nhủ với lòng của mình: phải chăng tiếng đồn về lòng nhân đức của thầy lang đều là sai hay sao! Nếu quả ông ta là người thánh thiện, được Chúa thương thì ông phải được Chúa chữa lành bệnh trước chớ. Còn mình, tại sao mình chính trực hơn tên thợ rèn mà cũng phải chờ đến ba tháng.
Ngày tháng trôi qua, năm này đến năm khác, ông thầy lang vẫn còn bị bệnh phong cùi hành hạ, ngày càng thêm ghê tởm và bác nông phu không sao giải thích được điều thắc mắc đó.
Một hôm, đang nằm ngủ ông nghe tiếng Chúa phán bảo:
- Ali, Ta biết rõ trong lòng con vẫn đang thắc mắc về số phận của Carin. Tại sao một con người tệ hơn con như Ablin lại được khỏi bệnh trước, mà Carin là người thánh thiện hơn con lại bị bệnh lâu như vậy. Hãy nghe đây: Sở dĩ ta nghe lời Ablin mau mắn như vậy chỉ vì sự yếu đuối của hắn. Nếu Ta để lâu hơn hắn sẽ ngã lòng thất vọng, không còn tin tưởng vào Ta nữa. Trong trường hợp của con, nếu Ta để lâu hơn ba tháng nữa thì con cũng ngã lòng thất vọng. Trái lại, lòng tin tưởng của Thầy Carin rất mạnh. Ta có thể làm ngơ như không nghe thấy lời Carin cầu xin, vậy mà Carin vẫn không thất vọng, bởi vì Carin là bạn thân của Ta, nên đã hiểu lòng Ta và vì Ta đã trở thành mọi sự cho Carin rồi”.
Sáng hôm sau, Ali giật mình thức dậy, bên tai vẫn còn nghe rõ ràng Lời Chúa cắt nghĩa và ông tự hỏi: “Biết đến bao giờ Chúa mới trở nên mọi sự, trở nên tất cả cho đời tôi. Tình yêu Chúa thật bao la và mầu nhiệm biết bao. Làm sao con có thể hiểu được Chúa cư xử như vậy với những bạn thân tình của Chúa. Thế mà con cứ ngỡ rằng: họ là những người bị Chúa quở phạt”.
Vâng, người công chính là người biết đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự và trên cà cuộc đời của mình.
Chúng ta thấy xã hội nào cũng vậy, giết người, đó là một trọng tội, cho nên hễ ai phạm tội giết người thì người ấy phải lãnh lấy hậu quả của nó tùy theo cách thức phạm tội, mức độ phạm tội, và cách xử án theo luật pháp của xã hội đấy.
Có những người phạm tội giết người do bộc phát sự nóng giận không kèm chế được, trường hợp này xảy ra ít thôi. Phần lớn giết người, nó là một quá trình tích tụ mưu mô hận thù trong con người chúng ta theo ngày tháng. Đây là sự dung dưỡng, nuôi nấng sự dữ của chúng ta. Nếu chúng ta không biết sống quãng đại, tha thứ mà cứ để nó ầm ĩ, day dưa trong con người chúng ta, nó sẽ làm băng hoại con người chúng ta và sẽ dẫn chúng ta đến hành động là giết chết người khác. Chúng ta không có quyền giết chết anh chị em của mình, chỉ có Chúa mới có quyền sinh sống trên cuộc đời của chúng ta mà thôi.
Mọi tội lỗi đều xuất phát trong tâm trí của con người chúng ta mà ra. Những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, họ sống giả hình để đánh lừa những người khác. Sự giả hình này xuất phát từ tâm trí của họ và nó khéo che đậy để con người chúng ta không biết và rồi chúng ta bảo họ là những người đạo đức, thánh thiện. Họ làm như vậy, nhưng họ không thể qua mặt Chúa. Vì thế, Chúa mới nói: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Như vậy, khi chúng ta phạm tội giết người thì trong tâm trí chúng ta đã có ý định này rồi: “Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án ”. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục” (Mt 5, 21 – 22). Những lúc như thế, vì chúng ta là con cái của Chúa, Chúa giúp chúng ta hãy loại trừ nó ra khỏi tâm trí, ra khỏi suy nghĩ, ra khỏi cuộc sống của chúng ta bằng cách: “Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng !” (Mt 5, 23 – 26), nghĩa là Chúa giúp chúng ta quãng đại, cảm thông, tha thứ cho nhau, xin lỗi nhau khi làm điều mất lòng nhau để cho cuộc sống này được tốt đẹp.
Lạy Chúa, tâm hồn chúng con được ví như những mảnh đất khô cằn không giọt nước, nên chúng con chạy đến khẩn cấu Chúa, xin Chúa thương ban ơn cho chúng con, ơn đó là yêu Chúa thương người để nguồn ơn Chúa đó như là những trận mưa tưới gội thấm nhuần tâm hồn của chúng con, cho không khô cằn nữa mà trở nên phong phú, mềm mại ngõ hấu chúng con sống tốt với nhau và tránh đi các tội ác. Amen.
Quyết liệt xa tội. 13/06 – Thứ Sáu tuần 10 thường niên. – Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. "Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. "Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu, và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa. Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê. Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động, mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim, khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt. Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn. Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp, nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài, nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy. Thèm muốn này có tính chiếm đoạt. Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười: chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17). Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt. vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ. Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới. Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”. Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô. Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế. Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự. Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối. Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội. Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ. Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm. Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ. Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài. Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt, thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt, vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng. Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời. Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế? Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt? Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do? Cầu nguyện:
Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết. Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con. Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng thân xác. Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí tưởng tượng của con. Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tự hiến trong yêu thương. Xin đừng để con phung phí sức lực vào những chuyện tình cảm chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi. Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Chúa tiếp tục kiện toàn Lề Luật. Bằng nội tâm hoá. Giữ luật không phải theo hình thức bề ngoài. Nhưng từ đáy sâu tâm hồn. Đó là diệt tận căn sự dữ. Thực ra việc làm chỉ là kết quả cuối cùng. Chỉ là phần ngọn. Phần gốc khởi đầu và ăn sâu trong tâm hồn. “Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
Phải diệt trừ tội lỗi tận gốc. Vì sự sống. Đây là kiện toàn Lề Luật ở mức cao nhất. Luật cũ đưa đến sự chết. Luật mới đưa đến sự sống. Chịu thiệt thòi đời này để được sự sống đời đời. “Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Của niềm hy vọng. Những ai phục vụ Chúa. Chịu thiệt thòi ở đời này. Đừng nghĩ rằng thế là hết. Là chết. Chúa sẽ mở ra con đường hy vọng mới. Mở ra sự sống mới. Ê-li-a tuyệt vọng. Vì cuối cùng chỉ còn mình ông thờ phượng Chúa. Ông bị săn đuổi sắp chết. Sẽ chẳng còn ai tiếp tục thờ phượng Chúa. Nhưng trong cơn gió thoảng nhẹ nhàng, Chúa cho ông thấy cả một niềm hy vọng, một sự sống mới nảy sinh. “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sac mạc cho tới Đa-mát mà về. tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; Còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa, con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô quả quyết điều đó. Ngài có thể bị xua đuổi, hành hạ. Nhưng như thế sự sống của Chúa càng tỏ hiện. “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật thế, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi”. Càng chịu đau khổ vì Chúa, thì sự sống của Chúa càng mạnh mẽ. Càng chết cho Chúa thì sự sống sẽ càng sung mãn. Và sẽ dẫn đến sự sống lại. Sự sống đời đời. Đó chính là niềm hy vọng. “Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (năm lẻ).
Hãy diệt trừ tội lỗi. Dù phải chịu đau khổ. Kể cả mất mạng sống. Nhưng Chúa sẽ trả lại cho ta sự sống. Sự sống đích thực. Sung mãn. Vĩnh cửu.
Hôn nhân không phải là một sự phối hợp tạm thời để có thể dễ dàng phân ly vì sự thay đổi hoặc vì đam mê của con người. Chúa Giêsu lên án những phóng đãng luân lý, như sự bất trung, ngoại tình, ly dị do pháp luật cho phép.
Chống lại sự bất trung, Chúa Giêsu lên án cách nhìn ngắm không trong sạch của những ước muốn xác thịt, liều mình đi đến chỗ phạm tội trong tâm hồn. Cử chỉ này bị coi là đã thành tội, vì tội phát sinh bởi ý muốn thầm kín của tâm hồn. Với những lời gắt gao, Chúa nhắc lại việc cần phải dấn thân một cách nghiêm chỉnh và cương quyết chống lại những lạc hướng do ích kỷ, để cứu vãn và tăng cường tình yêu hôn nhân bằng mọi giá.
Chống lại việc ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Môsê cho phép ly dị trong một số trường hợp. Ðối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: "Phúc cho ai có tâm hồn trọng sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa"; muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Trong luật cũ có vẻ bao dung đối với nam giới và nghiêm khắc đối với nữ giới, thì Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc: Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình.
Theo giáo huấn của Chúa, việc phối hợp giữa người nam và người nữ là một biểu lộ của tình yêu, và tình yêu này đến từ Thiên Chúa, chứ không do tình dục ích kỷ. Tình yêu là một sự trao ban cho nhau, là cuộc gặp gỡ của tự do.
Xin Chúa cho chúng ta biết tiến lên theo Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta không chiều theo những ước muốn và hành động của xác thịt; trái lại biết sống trong tự do của Chúa, nhờ đó lề luật của Chúa sẽ trở nên nguồn an vui và sức mạnh của chúng ta.
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt. 5, 27-28)
Những lời nói cũ rích?
Có những người nói rằng thời đại ta là thời đại giải phóng tình dục và họ vỗ tay hoan hô. Những người khác nhìn thấy cảnh sống phóng túng tràn lan hầu như khắp nơi, thì lại chỉ buông lời trách móc. Ta nên xử trí thế nào cho phải. Cách ăn nết ở của đàn ông đàn bà cũng như của thanh thiếu niên nam nữ xưa đối với nhau có những mặt tốt và mặt xấu của nó. Xưa có những cách bày tỏ tình bằng hữu, cho đến cả tình yêu nữa, không phải luôn luôn hoàn hảo, xứng với con người hay hợp với tinh thần Kitô giáo đâu. Nhưng những cách cư xử mới của những người thời nay cũng không phải là hoàn toàn bảo đảm. Chắc chắn là chúng ta đã đạt tới những nếp sống phóng túng chẳng giúp gì cho việc khơi đậy và phát triển một tình yêu sâu xa giữa nam nữ cũng như giữa vợ chồng.
Trong bối cảnh hiện nay thì chắc chắn những lời Chúa phán kia có nguy cơ bị coi là lỗi thời. Không được thèm muốn vợ người khác, phải cương quyết để sống trung tín với người nam hay nữ mình yêu, người ta còn sẵn sàng thực hiện điều này không?
Yêu thương, khó đấy
Thế nhưng ta phải thực hiện yêu thương, sẽ phải luôn luôn thực hiện yêu thương, bởi lẽ không bao giờ một tình yêu muốn được coi là chân thật, bền bỉ và trung tín sẽ chịu dung dưỡng với những dễ dãi và thỏa hiệp.
Từ mấy thập niên qua, người ta dã tốn công nhiều để giải phóng người nam và người nữ khỏi một số những điều cấm kỵ vốn cản trở họ yêu nhau một cách hồn nhiên và được vui sướng. Nhưng giờ đây một trách vụ mới lại được đặt ra. Phải giải phóng tình yêu khỏi tất cả những gì làm thoái hóa, hư hỏng và bóp nghẹt tình yêu, làm cho tình yêu trở thành một thực phẩm không còn mùi vị gì nữa và không còn mời gọi vươn lên nữa.
Chúa Giêsu đã yêu thương đến độ đón nhận thập giá. Chẳng có tình yêu giữa hai vợ chồng khi tình yêu ấy không trải qua con đường này.
Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).
Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.
Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa dạy phải sống chung thủy trong đời hôn nhân. Muốn được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt dịp tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Cha Toàn Năng, chúng con tạ ơn Cha đã tạo dựng nên chúng con là những người nam, người nữ. Tạ ơn Cha đã cho chúng con khả năng hấp dẫn lẫn nhau, hướng về nhau, để xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Nhưng tội lỗi đã phá đổ điều tốt đẹp ấy và làm cho chúng con trở thành lệch lạc. Chúng con chỉ muốn thỏa mãn đam mê dục vọng một cách ích kỷ.
Lạy Cha, xin Cha giúp con làm chủ bản thân mình, xin giúp con chấn chỉnh sự lệch lạc ngay từ cái nhìn, ngay từ trong ý hướng tâm hồn của con. Con sẽ hành động xấu khi con chiều theo ước muốn xấu. Và hành động của con chỉ tốt khi con có những ý hướng tốt.
Cuộc sống con hôm nay tràn ngập biết bao hình ảnh dâm ô thúc đẩy con phạm tội. Xin cho con ơn biết khôn ngoan và can đảm tránh xa dịp tội. Xin giúp con giữ gìn đôi mắt trong sạch. Trong lúc con bị cám dỗ, xin ban ơn nâng đỡ giúp con chiến thắng. Xin Cha cho các thanh niên thiếu nữ biết quý trọng tâm hồn trong sạch như là hương thơm ngọc quý của tuổi trẻ.
Đặc biệt, con xin Cha thương xót những gia đình đang trong cơn khủng hoảng vì ngoại tình hoặc có nguy cơ ly tán. Xin Cha cho gia đình họ và gia đình chúng con đây được trung tín trong lời cam kết hôn nhân. Xin giúp gia đình họ vượt qua những giờ phút thử thách để tìm lại được hạnh phúc trong tình yêu. Amen.
Ghi nhớ: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”.
Đaminh Saviô sinh ra trong một gia đình Công giáo, cha mẹ sống rất đạo đức, đặc biệt là người mẹ. Bà chu đáo trong giáo dục con cái, dạy cho con biết phân biệt điều lành điều dữ và nhất là biết tránh xa các dịp tội. Đaminh ghi nhớ rõ từng lời mẹ dạy.
Lên năm tuổi, ngài trở thành một cậu giúp lễ. Khi lên bảy tuổi, ngài được rước lễ lần đầu. Trong ngày đó, Đaminh đã chọn cho mình một quyết tâm để sống. Ngài hứa với Chúa Giêsu: “Thà chết chẳng thà phạm tội!”.
Hằng ngày, Đaminh đã cầu nguyện để luôn trung thành với lời hứa ấy... Đaminh luôn gìn giữ tâm hồn trong trắng, không dính vết tội nhơ. Cậu rất gớm ghét tội lỗi làm mất lòng Chúa.
Ngày 18/5/1950, Đaminh Saviô qua đời lúc tuổi đời vừa tròn 14 và trở nên một trong những vị thánh trẻ nhất trong Giáo hội Công giáo.
Suy niệm
Chúa Giêsu hoàn thiện luật như chính Ngài nhấn mạnh: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Kiện toàn Lề Luật khi Ngài dạy thực thi luật vớt tất cả tâm hồn. Ngài dạy không dừng lại, quanh quẩn ở luật pháp mà vượt qua luật, Ngài dẫn đưa nhân loại đi tới Tin Mừng đem hạnh phúc tình thương cho con người. Chính bài giảng Bát phúc trình bày tính cách vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Tuy nhiên, luật của Ðức Giêsu đòi hỏi đến tận nguồn gốc của hành động, nguyên nhân thúc đẩy hành động. Vì thế, luật của Ngài đòi hỏi khắt khe hơn và buộc người ta phải hoán cải tận căn rễ của sự tội: Sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài để gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Giữ luật trong tình yêu vì tình yêu phải hy sinh.
Khi kiện toàn Lề Luật, Đức Giêsu hoàn thiện hôn nhân. Luật cũ trọng nam khinh nữ khi bao dung đối với nam giới mà nghiêm khắc đối với nữ giới. Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc và bất ly dị khi hôn nhân được chúc lành làm thành bí tích. Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình. Xin cho chúng ta quyết tâm sống luật Chúa với tình yêu và sự tín trung…
Ý lực sống:
Luật pháp kiện toàn Chúa rộng ban, Yêu thương, thanh khiết, chẳng tà gian… Kỷ cương tuân giữ, gieo nhân ái, Hoa lòng tươi nở khắp muôn phương
(Trích và kết hợp từ Thiên Pháp của Hạt Nắng và Đường Thiện hảo của Bâng Khuâng Chiều Tím).
Lề luật diễn tả ý Thiên Chúa, vì thế sống theo luật là sống theo Chúa. Thế nhưng luật lệ cần được kiện toàn theo hoàn cảnh, theo thời gian. Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: Ngài không phá bỏ luật Cựu ước, nhưng Ngài canh tân để bộ luật được hoàn thiện hơn. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy phải chung thuỷ trong đời sống hôn nhân. Muốn sống được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt mọi dịp tội.
Luật cũ cho ly dị thực ra không phải Thiên Chúa ban, nhưng vì sự yếu đuối của dân mà ông Maisen đã chấp nhận. Chúa Giêsu đã kiện toàn theo tinh thần mới khi khẳng định sự bất khả phân ly của hôn nhân. Có lần nhóm Biệt phái đến hỏi Chúa Giêsu họ có phép được ly dị không? Thay vì trả lời “Có” hay “Không”, thì Chúa Giêsu lại nhắc cho họ điều căn bản là từ thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa đã muốn cho người nam và người nữ kết hợp với nhau trong việc cộng tác sáng tạo và bất khả phân ly. Thế nhưng, vì ích kỷ mà con người phản bội dối gian nhau, thiếu tình yêu và tha thứ cho nhau... dẫn đến đổ vỡ. Chính vì thế mà Maisen cho phép ly dị như một chọn lựa ngoài ý muốn để giải gỡ cho họ.
Chống lại luật ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Maisen cho phép ly dị một số trường hợp. Đối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”, muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Sự chung thuỷ trong hôn nhân mà Kitô giáo đề cao cũng được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và văn hoá khác. Tuy nhiên, nét nổi bật của đòi hỏi chung thuỷ trong Kitô giáo chính là nền tảng của nó, tức là Thiên Chúa. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, và nếu Thiên Chúa là tình yêu chung thuỷ, thì hình ảnh Ngài nơi con người cũng phải là tình yêu chung thuỷ, ơn gọi của con người chính là thực hiện hình ảnh ấy.
Dù sống độc thân hay trong bậc hôn nhân, ơn gọi chung của con người vẫn là sống chung thuỷ. Chung thuỷ với chính bản thân, hay chung thuỷ với người khác, đối tượng cuối cùng của chung thuỷ vẫn là Thiên Chúa. Khi con người tôn trọng chính mình là lúc con người tôn trọng hình ảnh Thiên Chúa trong chính mình (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu cũng dạy ta phải tránh xa dịp tội. Việc Chúa Giêsu nói cái gì trở nên dịp tội thì hãy lo cất đi, chấp nhận mất một bộ phận mà tránh được hỏa ngục. Ở đây không hiểu theo nghĩa đen là phải chặt tay móc mắt, vì nếu thế thì không còn ai toàn vẹn vì bản năng yếu đuối của con người. Điều Chúa muốn nói ở đây chính là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nghĩa là phải cất đi và xa lánh những nguy cơ có thể đẩy chúng ta đến phạm tội, dù phải chấp nhận phần thiệt về mình, như lánh xa những ấn phẩm đen, không đến những nơi chốn không thích hợp, tránh dùng những thức uống làm mình mất kiểm soát...
“Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn...”
Có những đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn” nhưng cũng có “những đôi mắt in hình viên đạn”. Những viên đạn hận thù, ghen tương, trả đũa, những viên đạn thèm khát tình dục được ”bắn” vào người khác. Mà sở dĩ chúng ta mang những “đôi mắt in hình viên đạn” thèm muốn, bởi vì chính chúng ta đã mở tung “cửa sổ tâm hồn” cho những trang sách báo nhảm nhí, những cuốn phim với lắm hình ảnh bạo lực, đồi truỵ, và bao hình thức giải trí phóng túng khác... Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án những ai chủ ý dùng con mắt của minh, để khơi gợi những ước muốn bất chính, hay nói cách khác, Ngài cảnh báo những tâm hồn chất đầy những ý muốn bệnh hoạn và dùng con mắt để thỏa mãn những ham muốn đen tối ấy (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Tình yêu chung thuỷ
Nói đến sự chung thuỷ, người ta nhắc đến gương của một công chúa nước Thụy Điển. Khi chồng bị nhà vua giam tù chung thân, bà đã đến xin cho được ở tù với chồng. Nhà vua ngạc nhiên giải thích cho bà: bản án của chồng bà là án chung thân, hơn nữa chồng bà bị giam tù, nên bà được tự do tái hôn. Nghe thế, công chúa trả lời: “Tâu bệ hạ, dù chồng tôi có vô tội hay không, anh ấy vẫn mãi mãi là chồng tôi”. Nói xong, nàng chìa cho nhà vua xem chiếc nhẫn trên đó có khắc hàng chữ “Sola mors” (chỉ sự chết mới có thể phân rẽ).
Công chúa đã sống với chồng 17 năm, chỉ sau khi nhà vua băng hà, hai người mới được trả tự do.
Chúa Giêsu tiếp tục giải thích tinh thần mới trong khi giữ luật. Hôm nay Ngài bàn đến luật hôn nhân và khiết tịnh.
Điều quan trọng nằm trong con tim chứ không phải nơi những thể hiện bên ngoài. Do đó phải giữ trọn con tim. Ngài minh chứng cho người mình đã cùng cam kết, và bất cứ sự gì có thể đẩy mình vi phạm cam kết đó thì phải ngăn chặn từ gốc rễ: một cái nhìn, một ước muốn.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Phải thừa nhận rằng thứ văn minh thời nay không được sạch. Khi đề cập quá nhiều đến giới tính, xem ra nó đề cao giới tính, nhưng thực chất là hạ thấp giới tính vì nó khiến người ta không còn tôn trọng giới tính nữa, coi đó là một thú vui, một nhu cầu mà mình có thể thỏa mãn một cách dễ dàng. Sống trong bầu khí thiếu trong sáng đó, không nhiều thì ít tôi cũng bị lây nhiễm. Hôm nay tôi phải tự kiểm: tôi có tôn trọng giới tính của tôi không? Tôi có tôn trọng những người khác phái không? Tôi có cương quyết dứt khoát với các cám dỗ không?
2. Ngoại tình là không chung tình. Bất cứ hình thức san sẻ nào, dù chỉ là một chút san sẻ, cũng là ngoại tình. Tôi đã hứa dành tình yêu của tôi cho ai? Tôi có san sẻ cho ai khác không? San sẻ như thế nào?
3. Muốn chung tình thì phải từ bỏ.
“Tôi vất bỏ những cám dỗ ma quái trong đời cùng với nét phù du của chúng. Tôi sẽ vút lên khỏi đỉnh núi cao. Tôi tự do! Tôi tự do! (Xác quyết)
4. Đức Hồng Y Roncalli (sau là Giáo Hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh nữ công tước mặc chiếc váy cực kỳ ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt cả bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài như thế nào. Nhờ đâu tôi được ưu ái như thế?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Eva ăn quả táo, bà mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (Góp nhặt)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai vấn đề rất quan trọng trong nếp sống gia đình: ngoại tình và ly dị. Đây là hai vấn đề rất thời sự của xã hội hôm nay.
1. Về vấn đề ngoại tình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm cho người nghe phải kinh ngạc. Theo Lời Chúa dạy thì tư tưởng cũng quan trọng như hành động. Chúa Giêsu dạy rằng, một người bị xét xử không chỉ vì những việc họ đã làm mà còn cả vì những ước muốn họ chưa thể hiện bằng hành động nữa. Như vậy, theo tiêu chuẩn của thế gian, một người không bao giờ phạm một điều cấm nào thì người đó là người tốt, còn theo tiêu chuẩn của Chúa Giêsu, thì chưa đủ. Theo Chúa, một người được coi là tốt khi người đó không những không làm mà ngay cả trong ước muốn người đó cũng không dám nữa. Đây là một ví dụ về tiêu chuẩn mới của Chúa Giêsu.
Luật pháp thiết định rằng: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm “ (Xh 20,14).
Các giáo sư Do Thái cho tội này trọng đến nỗi can phạm có thể bị án tử hình (Lv 20,10).
Còn Chúa Giêsu lại dạy rằng: chẳng những hành động tà dâm bị cấm mà cả tư tưởng tà dâm cũng là phạm tội trước mặt Thiên Chúa.
2. Vấn Đề Ly Dị
Ở đây, Chúa Giêsu muốn thắt chặt lại đời sống hôn nhân mà con người thường hay có thái độ buông lỏng. Trong Cựu Ước, luật Môisen đã cho làm tờ ly dị và trong xã hội hôm nay, ly dị hầu như đã trở thành một nạn dịch vì nó quá phổ biến. Lý do là vì người ta sống quá tự do. Lấy nhau quá dễ dàng thì bỏ nhau cũng dễ dàng.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời mời gọi người Kitô hữu phải chú ý đến việc giáo dục hôn nhân và gia đình kỹ càng hơn. Phải chú trọng đến đời sống đạo đức, nghĩ đến hạnh phúc kẻ khác cũng như của con cái hơn là sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn mình.
Một họa sĩ nọ, suốt đời mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi một vị giáo sĩ:
- Xin ngài cho con biết điều gì đẹp nhất trần gian?
Vị giáo sĩ liền trả lời:
- Tôi nghĩ rằng: Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, bởi vì niềm tin nâng cao giá trị con người. Ông có thể tìm thấy niềm tin bất cứ nơi nhà thờ nào có những người họp nhau để cử hành và chia sẻ cơm bánh cho nhau.
Nhà nghệ sĩ chưa thỏa mãn, tiếp tục cuộc điều tra, ông đặt ra một câu hỏi tương tự với một cô dâu. Cô dâu trả lời:
- Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi vì tình yêu làm cho đắng cay nên ngọt ngào, mang lại tiếng cười thay cho tiếng khóc, biến nghèo nàn thành giàu sang, làm cho điều bé nhỏ trở thành cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán nếu không có tình yêu.
Vẫn chưa thỏa mãn với điều mơ ước, nhà nghệ sĩ đến gặp một người lính chiến từ trận mạc trở về. Được vấn kiến, người lính chiến trả lời:
- Hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, chiến tranh là điều bỉ ổi, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp.
Sau khi nghe những lời phát biểu trên đây, nhà họa sĩ tự hỏi? Làm sao có thể vẽ lại một lúc: Niềm tin, Tình yêu và Hòa bình. Về đến nhà, ông nhận ra niềm tin nơi ánh mắt con cái. Tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính niềm tin nơi con cái và tình yêu nơi người vợ làm cho tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và an bình. Nhà nghệ sĩ chợt hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: Mái ấm gia đình.
Mái ấm là mái nhà che mưa che nắng, là bốn vách che kín không để gió lùa vào, là chiếc thảm trên sàn nhà giữ cho khỏi giá băng, nhưng mái ấm gia đình không chỉ có thế mà còn hơn thế nữa. Đó là tiếng cười của em bé, tiếng hát của bà mẹ, sức mạnh của người cha. Đó là hơi ấm của những con tim biết yêu, là sự ân cần, là lòng chung thủy, là tình bằng hữu …Mái ấm gia đình là ngôi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ được học cho biết thế nào là điều ngay lẽ phải, thế nào là việc thiện, thế nào là lòng tử tế. Đó là nơi tuổi thơ tìm về khi đau khổ bệnh hoạn. Đó là nơi được chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền. Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương. Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, vì là giá trị của mồ hôi và nước mắt. Mái ấm gia đình là nơi được Thiên Chúa luôn chúc phúc.
Lạy Chúa, dù xiêu vẹo dột nát, xin cho căn hộ gia đình chúng con luôn là một mái ấm đứng vững với niềm tín thác vào tình yêu của Chúa và được xây đắp không ngừng bằng tình yêu thương giữa mọi người chúng con. Amen.
Tội ngoại tình là tội lấy nhau giữa một người đã lập gia đình theo phép đạo của Chúa với một người khác giới tính ngoài hôn nhân. Đây là một tội nặng mà như Chúa đã dạy: “Có lời dạy rằng: “Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa” (Mt 5, 31 – 32).
Chúa biết các tội mà con người chúng ta phạm đều xuất phát từ bên trong con người chúng ta mà ra. Đó là những suy nghĩ, những tư tưởng xấu, không làm theo ý Chúa. Vì thế mà Chúa muốn chúng ta tìm ra cái gốc, cái nguyên nhân của vấn đề để chúng ta tiêu hủy, để chúng ta loại trừ nó ra khỏi con người chúng ta: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Chớ ngoại tình”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi” (Mt 5, 27 – 28). Ở đây, vì có tư tưởng phạm tội ngoại tình với những người nữ khi chúng ta nhìn thấy họ là do con mắt của mình. Con mắt nhìn thấy, rồi suy nghĩ, rồi tư tưởng, rồi dùng đôi chân của mình để đi tìm, dùng miệng lưỡi của mình dụ dỗ, lừa lọc, dùng đôi tay để sờ mó phạm tội. Đây là quá trình diễn ra của người phạm tội ngoại tình. Còn quá trình diễn ra các tội nặng khác cũng như vậy (Trôm cướp, giết người, báo thù, dâm ô, xảo trá, lăng loàn…Vì thế, Chúa nói: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5, 29 – 30).
Chúng ta nghe Chúa nói như vậy, chúng ta đừng nghĩ theo nghĩa đen là tất cả những người theo Chúa đều bị tật nguyền. Không phải vậy đâu, Chúa rất ghét và dứt khoát với tội lỗi, Chúa không muốn đến gần nó, xa tránh nó, nhưng Chúa rất thương những người tội lỗi, Chúa gần gũi để Chúa cứu họ, cho nên chúng ta mới có thánh Mátthêô, là người thu thuế đã bỏ nghề để đi theo làm tông đồ cho Chúa, thánh nữ Mađalenna được Chúa trừ cho bảy quỷ, đã bỏ con đường tội lỗi, hoàng lươngtrở về với Chúa
Chúa cứu những người tội lỗi là do lòng từ bi nhân hậu của Chúa, Chúa không muốn một ai phải hư mất đời đời, cho nên hôm nay Chúa đã dạy cho tất cả loài người chúng ta cội rễ của của các tội chúng ta phạm mà cố gắng tránh, cố gắng giữ mình và biết coi sự sống vĩnh cửu đời sau là quan trọng vô cùng, để Chúa mới ban sự sống ấy cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con biết dùng đôi mắt, đôi tay, đôi chân, các giác quan của chúng con có để đi tìm Chúa chứ không phải để tìm thỏa mãn những dục vọng xấu xa tội lỗi thấp hèn. Lạy Chúa, trong lúc chúng con tìm kiếm Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt đi không nhìn chúng con, nhưng xin Chúa cho chúng con thấy Chúa, thấy những ơn lành Chúa ban mà chúng con sửa mình để sống tốt hơn. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
Việc thề vẫn có trong các nền văn hóa nhân loại. Người ta thề để người khác tin lời của mình hơn, vì nếu không giữ lời thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa. Người Do thái từ xa xưa cũng đã có thói quen thề. Thề là nại đến Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói. Hêrôđê Antipas đã thề hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7). Lời thề của một người lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt. Phêrô đã chối Thầy kèm theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74), vì ông sợ người ta không tin lời ông nói. Đức Giêsu biết chuyện Luật Môsê cấm bội thề, và phải giữ trọn điều đã hứa với Đức Chúa (c. 33). Nhưng quan điểm của Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả. Không cần thề để xin Đức Chúa làm chứng cho lời ta nói, vì mọi lời ta nói, Ngài đều biết và làm chứng. Vì những sơ xuất trong việc giữ lời thề có thể làm Thánh Danh Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề, người Do thái thường thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22). Tương tự như ở Việt Nam, họ dùng trời hay đất để thề. Họ cũng thề nhân danh Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình Đối với Đức Giêsu, điều đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào, vì trời, đất, Đền Thờ, hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa. Trời quan trọng vì là ngai của Thiên Chúa. Đất quan trọng vì là bệ dưới chân Người. Đền thờ quan trọng vì là thành của Đức Vua cao cả. Đầu cũng chẳng thuộc quyền con người, vì màu trắng hay đen của sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36). Khi kêu gọi chúng ta đừng thề chi cả, Đức Giêsu muốn lời nói của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật, tự nó chắc chắn, đáng được mọi người tin cậy. Thánh Giacôbê đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, như thế anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5, 12). Mọi thêm thắt đều do ác thần (c. 37). Giáo hội sơ khai đã giữ lệnh truyền này một cách nghiêm túc. Nhưng từ đầu thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ. Giáo sư trong các chủng viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ trung thành giảng dạy giáo lý chính thống của Giáo hội. Các lời khấn của tu sĩ cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu. Dù sao chúng ta cũng là những con người mong manh, hay thay đổi. Thề, hứa, khấn, tuyên thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người. Trung tín với điều mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu. Chỉ xin sự trung tín của Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen. R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch) ---------------------------------
Cuộc kiện toàn Lề Luật nhằm đưa đến kết quả tối ưu. Đó là sự sống. Sự sống mới trong Chúa. Vĩnh cửu. Từ bỏ sự sống mau qua của trần gian. Tại sao phải thể thốt? Đó là để đạt được trần gian. Trước hết là lòng tin. Thực ra khi phải thề thì niềm tin đã suy giảm rồi. Thường đạt được lòng tin là để được một mối lợi ở đời này. Chúa Giê-su dạy ta đừng thề thốt. Đừng tìm nương tựa nơi người đời. Đừng tìm lợi lộc đời này. Nhất là phải dùng lời thề. Hãy sống trong Chúa. Chúa là sự thật. Khi sống trong Chúa ta sống trong sự thật. Sự thật đơn sơ. Nguyên tuyền. Chúa là sự sống. Khi sống trong Chúa ta là đạt đến sự sống. Sự sống mới. Đời đời.
Chúa Giê-su đã làm gương cho ta. Người đã chết cho trần gian. Không màng một mối lợi nào nơi trần gian. Không tìm được uy tín nơi trần gian. Vì thế ta cũng phải đi theo con đường của Người. Chết cho trần gian. Để sống cho Thiên Chúa. “Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. Sống cho Chúa ta được hoà giải với Chúa Cha. Được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Ta trở nên thụ tạo mới. “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Ta được đổi mới vì Chúa đã chịu tội thay để ta được nên công chính. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”. Vậy ta phải sống trong Chúa. Dứt bỏ lối sống cũ. Để từ nay không còn nhìn xem, phán đoán và cư xử theo xác thịt nữa. “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người”. Ta sống sự sống mới (năm lẻ).
Ê-li-sa là người làm gương cho ta. Ông là người giầu có. Có nhiều ruộng. Có gia nhân. Có nhiều súc vật. Đang cầy ruộng với 12 cặp bò. Nhưng khi được Ê-li-a kêu gọi, ông đã giã từ đời sống cũ. Giã từ những giá trị trần gian. Quyết liệt. Khi giết bò. Chẻ cầy. Đốt làm lễ toàn thiêu dâng Chúa. Để giã từ trần gian. Từ nay sống cho Chúa. Nghèo nàn trong Chúa. Phụng sự Chúa. Sống trong Chúa. Ông sống sự sống mới. Trong ân sủng. Trong tương giao nghĩa thiết với Chúa. “Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về,bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông” (năm chẵn).
Xin cho con biết từ bỏ trần gian với những giá trị của nó. Để tìm sự sống mới trong Chúa. Trong sự thật. Trong tình bạn với Chúa.
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.
Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.
Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu Ghét ai cứ bảo rằng ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều, Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết, Cũng không nói ghét thành yêu.
Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.
Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.
Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (Mt. 5, 33-34)
Mọi người đều dối trá
Mỗi ngày ta đều có được những kinh nghiệm sống tuy nhỏ bé nhưng rất có ý nghĩa. Chẳng hạn mấy đứa con chúng ta cãi lộn nhau. Đứa này bảo đứa kia đã gây sự trước. Đứa kia cũng nói lại như vậy. Đứa nào đúng? Một tin lớn đăng tải trên trang đầu của tờ báo. Hôm sau lại nói ngược lại. Tin nào đúng? Chính quyền tỉnh cho công bố những bảng thống kê. Mười ngày sau chính quyền liên bang lại đưa ra bảng thống kê của mình. Phải tin ai đây?
Trong xã hội ta hôm nay, những thông tin quả là phong phú, những phương pháp truy cứu lại rất khoa học, những bản điều tra thật tường tận, vậy mà chúng ta vẫn luôn phải tự hỏi rằng: “Ai đúng?” Ta thường xuyên liên hệ với những người mà ta tin là liêm chính và ngay thẳng. Ta tin cậy họ, thậm chí có thể yêu mến họ. Nhưng biết bao lần ta phải tự hỏi: “Không biết lần này ông ta có nói đúng sự thật cho mình không?”. Ta có cảm tưởng như chung quanh ta mọi người đều dối trá cả
Cho đến giờ, ta đã chỉ nói đến những người nói dối ta. Thiết tưởng cũng nên nhìn vào mình một chút. Ai trong ta, xưa rày chỉ nói sự thật? Chúng ta chắc cũng không lạ gì với những cách nói nửa vời, những câu trả lời lấp lửng, những kiểu thêm thắt, bịa điều đặt chuyện, nói quanh co điều ta nghĩ và biết, chung quy gọi là dối trá, lươn lẹo.
Hãy vun trồng sự thật
Chúa Giêsu yêu cầu ta vun trồng sự thật. Nói “có” khi phải nói “có”, nói “không” khi phải nói “không”. Nói “có” hay “không” dều phải rõ ràng dứt khoát. Đạt được như vậy, không phải là chuyện đơn giản. Ta thường phải khó chịu, đôi khi phải nhượng bộ nữa. Để biết nói sự thật, tâm hồn ta phải thật trong sáng, ngay thẳng và trong một vài trường hợp, phải có nhiều can đảm. Thế nhưng ta phải tập cho quen biết nói sự thật, và phải tập ngay từ bây giờ, bằng không sẽ chẳng bao giờ biết nói sự thật cả.
Có những lần chúng ta đã nghe thấy những câu thề thốt đáng sợ như: "Tôi thề có đất trời chứng dám, sự việc xảy ra đúng như vậy, nếu không thì cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử”. Như vậy, theo quan niệm của con người, lời thề thông thường là nối liền với sự tự rủa bản thân mình để chứng thực điều quả quyết. Khi đã thề, đòi buộc người thề không được bội ước.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ rằng: “Đừng thề chi cả [...]. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Thực ra, thề có độc địa đến đâu, thì lời thề đó cũng khó có thể thành hiện thực. Như một lời nhắc nhở, Đức Giêsu cho biết, những lời thề đó là những điều phạm thánh, nếu cố tình vi phạm, không ăn năn hối cải sẽ bị Chúa phán xét nặng trong ngày diện kiến với Chúa.
Trên thực tế, con người ta có nhiều điều bất hảo. Thử hỏi có ai làm cho tóc hóa đen, hay kéo dài tuổi thọ của mình trên trần gian? Nếu điều đó cũng không làm được, thì nói chi đến những chuyện động địa như trong lời thề!
Hôm nay, Lời Chúa dạy cho chúng ta bài học về sự chân thật. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Chúng ta không được phép thêm bớt để rồi làm cho người khác bất hạnh. Hãy sống thật với lòng mình thì sẽ được Chúa chúc phúc. Đừng sống kiểu: “Khẩu Phật, tâm xà”; hay: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến với mỗi người chúng con, để chúng con biết sống ngay thẳng, công tâm, hầu xứng đáng là con cái Chúa. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng chân thật. Con cái Chúa cũng phải chân thật. Môi miệng chân thật là môi miệng con cái Chúa. Môi miệng dối gian là môi miệng Xa-tan.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa dạy con: đừng thề chi cả. Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là do ác quỷ mà ra. Nhưng trong thực tế, chúng con rất hay thề, không thề thì không ai tin. Tuy nhiên, con thấy những người có uy tín trong xã hội không cần thề mà người ta vẫn tin lời họ nói. Chúa đang dạy con sống uy tín, thẳng thắn, thật thà, xứng danh con cái Chúa. Chính cách sống ngay thẳng của con là bằng chứng cho môi miệng con chân thực.
Lạy Chúa, Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, Chúa đã sống thật, nói thật, cho dù sự thật đó dẫn Chúa đến thập giá. Chúa đả kích sự giả dối, Chúa vạch trần những thái độ giả hình, Chúa không thỏa hiệp với cách sống lươn lẹo của trần gian. Chúa nêu gương và dạy con phải chân thật.
Lạy Chúa, con hay bị cám dỗ sống gian dối. Gian dối có thể đưa đến cho con một mối lợi, gian dối có thể tránh cho con một hiểm họa, gian dối có thể làm cho người khác nể sợ con hơn. Nhưng khi sống gian dối, là một cách nào đó con đang bán mình cho Xa-tan, không còn là con cái Chúa nữa.
Xin giúp con luôn xác tín rằng: làm con cái Chúa là một mối lợi vĩnh cửu; làm con cái Chúa giúp con tránh được cái họa đời đời; và Chúa chỉ coi trọng con khi con biết sống chân thực. Amen.
Có một người nông dân nghèo khó nhưng đạo đức. Đi đâu anh cũng mang theo trong người cuốn sách kinh. Nhưng một buổi chiều nọ, trên đường từ chợ về nhà, anh không còn thấy quyển sách kinh trong túi của mình nữa. Anh bối rối vô cùng vì đã đến giờ cầu kinh mà anh lại không nhớ bất cứ lời kinh nào cả.
Suy nghĩ mãi, cuối cùng người nông dân ngước mắt lên trời cầu nguyện mà không có quyển sách kinh trước mắt. Anh cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con đã phạm một điều thật đáng trách. Sáng nay con vội vã ra đi mà không mang theo quyển sách kinh. Mà trí nhớ của con tồi tàn, đến độ đã bao năm trời cầu kinh mà con không nhớ được một kinh nào cả. Xin cho phép con được làm như thế này: Con xin đọc chậm rãi mỗi lần năm mẫu tự. Và Chúa là Đấng quen thuộc những kinh đọc của con, xin Chúa hãy thêm các chữ khác vào. Và như thế các lời kinh của con được hoàn tất.
Nghe thế, Chúa liền nói với các thiên thần: “Trong tất cả những lời kinh mà ta nghe đọc hôm nay, đây là lời cầu nguyện đẹp nhất vì nó xuất phát từ một tấm lòng đơn sơ và chân thật” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Chúa Giêsu dạy sống thành tâm tín nghĩa, nói thật sống thật, không nên thề thốt, tuyệt đối không thề gian. Thề thốt mà bất tín thì cũng vô ích.
Ngày nay trong nhiều sự việc, hoàn cảnh, giá trị của lời nói chân thật không được đề cao, tạo nên sự bất tín trong đời sống xã hội và truyền thông.
Đức Giêsu đã xác định rõ phải nói thật, không được dối trá: “Có thì nói rằng có. Không thì nói rằng không, những điều gì thêm ra chính là ý của tà ma” (Mt 5,37). Chúng ta phải ăn, nói và sống chân thành vì chính Chúa là “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Người sống chân thành được ở bên Chúa: “… Ai được ở trong nhà Chúa. Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng. Bụng nghĩ sao nói vậy, lời nói chẳng vu oan” (Tv 14). Sách Cách Ngôn dạy lời chân thành mang giá trị vĩnh cửu: “Miệng lưỡi chân thành thì còn mãi, mồm mép dối trá chỉ kéo dài trong chốc lát” (Cn 12,19).
Khi giáo huấn chúng ta, tông đồ Giacôbê đã lặp lại giáo huấn tôn trọng sự thật của Thầy Giêsu: “Nếu có thì hãy nói rằng có, không thì hãy nói là không để khỏi ra án phạt” (Gc 5,12). Cho nên, thánh Phaolô nhấn mạnh phải đối xử chân thành với nhau vì mọi người đều là anh em và là chi thể của nhau trong cơ thể nhân loại: “Anh em hãy bỏ dối trá, anh em mỗi người hãy nói thật với người đồng loại vì chúng ta đều là chi thể của nhau” (Ep 4,25).
Sống trong sự thật, chúng ta sẽ được giải phóng, chính Đức Giêsu khẳng định: “Các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga 8,32).
Ý lực sống: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37).
Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật và lời các tiên tri nên Ngài dạy các môn đệ: Luật xưa cấm bội thề (lỗi lời thề), nghĩa là luật xưa cho phép thề nhưng một khi đã thề thì không được bỏ lời thề, mà phải làm đúng theo lời đã thề hứa. Còn Thầy, Thầy không cho thề thốt chi hết, mà phải luôn luôn thành thật: bụng nghĩ sao, miệng nói vậy, luôn luôn phải nói đúng sự thật, mọi lời giả dối, phỉnh gạt là do “ác quỷ” bầy vẽ bịa đặt, làm cớ cho người ta lỗi phạm lề luật và mất uy tín, không tin cậy nhau.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự lương thiện và chân thật trong lời nói cũng như những hành động của con người. Ngài cho chúng ta hiểu rằng Ngài chính là cội nguồn của chân lý và chân lý của Ngài giải thoát chúng ta khỏi các ảo tưởng và sự giả dối. Chính vì thế, Chúa Giêsu lên án những kẻ làm chứng dối và luôn cả những kẻ lấy danh Thiên Chúa mà thề nguyền. Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các môn đệ rằng lời nói của các ông phải bắt rễ từ cội nguồn sự thật là Thiên Chúa, mà không cần tới một nghi thức, hay thủ tục rườm rà hay giả tạo nào của xã hội loài người đặt ra để bảo đảm cho lời chứng của mình.
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng.
Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỉ mà ra”. Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời nói và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của mình đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào (Mỗi ngày một tin vui).
“Có thì nói là có, không thì nói là không” (Mt 5,37)
Về vấn đề này, thánh tiến sĩ Tôma Aquinô đã ghi lại trong sổ tay một đoạn văn ngắn sau đây: “Thiên Chúa chính là một bậc thầy tuyệt hảo, Ngài đã để lại cho chúng ta 2 tác phẩm siêu việt, để chúng ta có thể được học hỏi một cách chu đáo. Đó chính là pho sách Tạo vật và pho sách Kinh thánh. Riêng với pho sách Tạo vật, thì có bao nhiêu tạo vật trong vũ trụ thì có bấy nhiêu chương sách tuyệt mỹ trong tác phẩm ấy. Cuốn sách khổng lồ này đã dạy cho chúng ta sự thật mà không pha trộn vào đó một chút giả dối nào cả. Vì thế, khi có người đến hỏi nhà hiền triết Aristote rằng, ông ta đã học được ở đâu mà có được những cơ sở lý luận, những tư tưởng trung thực và cao cả đẹp như vậy, thì ông ta đã trả lời: “Tôi đã học được từ chính các tạo vật quanh tôi, bởi vì các tạo vật thì không bao giờ biết nói dối”.
Thiên Chúa rất ghét sự gian trá, Ngài đã phạt thật nặng những người lừa đảo, thiếu thành thực. Sách Tông đồ Công vụ có thuật lại: Hồi ấy, có hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, lấy tiền dâng các tông đồ, nhưng lại lừa đảo thánh Phêrô, giữ lại một phần. Người chồng là Anania đưa tiền để dưới chân thánh Phêrô, và vì thiếu thành thực, nên thánh Phêrô đã nặng lời lên án hành vi giả trá của anh. Lập tức anh ngã lăn ra chết.
Ba giờ sau người vợ là Saphira đến gặp thánh nhân và khi thánh nhân hỏi: Tiền bán ruộng chỉ có bấy nhiêu sao? Saphira lừa dối thánh nhân trả lời là: “Chỉ có ngần ấy”, và Saphira cũng ngã lăn ra chết (x. Tđcv 5,1-11).
Truyện: Nhà hiền triết Xénophon với cái lưỡi
Nhiều người trong chúng ta thuộc lòng câu chuyện “Cái lưỡi” của Xénophon, sống vào thế kỷ thứ 6, Xénophon bị bắt làm nô lệ trong một nước láng giềng. Biết ông là người tài giỏi, vua trao cho ông nhiều việc. Một trong những việc quan trọng là thiết tiệc. Vua sai ông chọn một món ăn ngon nhất để đãi khách. Ông liền ra chợ mua toàn là lưỡi về nấu. Thực khách ăn và khen ngon.
Nhưng một lần, hai lần, ba lần, lần nào người đầu bếp cũng chỉ đãi toàn lưỡi. Ngạc nhiên, nhà vua cho tìm ông đến hỏi lý do. Người nổi tiếng là khôn ngoan mới giải thích: Còn gì quí hoá cho bằng lưỡi: lưỡi là máy khôn ngoan, nhờ lưỡi ta học biết điều khôn ngoan, nhờ lưỡi con người biết ca tụng lẫn nhau, nhờ lưỡi con người giao ước với nhau và dâng lời cảm tạ Thượng Đế, không gì cao quí cho bằng lưỡi.
Nhà vua lấy làm ưng ý về sự giải thích đó, và để thử lòng nhà hiền triết, vua sai ông nấu một món ăn dở nhất. Lại một lần nữa, Xénophon nấu toàn là lưỡi. Khi được vua chất vấn, ông giải thích: Tâu bệ hạ, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi, dưới ánh mặt trời này còn gì xấu xa mà lưỡi không can dự vào: phản bội, bất công, gian dối, lừa đảo, trộm cắp, giết người, chiến tranh, tất cả đều do cái lưỡi: nó có thể làm sụp đổ cả Đế quốc, có thể huỷ hoại cả một dân tộc, đạp đổ cả một gia đình, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi.
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần hối tiếc vì những lời do miệng lưỡi chúng ta thốt ra. Và một lời lẽ xúc phạm đến người khác cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa. Một lời dối trá cũng là một lừa đảo người khác, đồng thời xúc phạm đến bản thân bởi vì đánh đổ hình ảnh của Thiên Chúa – Đấng chân thật.
Tiếp tục giải thích về sự công chính mới, hôm nay Chúa Giêsu dạy về sự trung thực trong lời nói:
Điều cốt yếu của lời nói là sự trung trực “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”. Một khi đã trung thực trong lời nói thì không cần thề nữa.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Thời nay, “nói” thay vì để thông đạt sự thật, đã trở thành phương tiện giúp đạt được điều người ta mong muốn: nói sao cũng được miễn đạt được mục đích thôi. Trong làm ăn, trong chính trị đã thế, mà buồn thay trong những cộng đoàn huynh đệ của Giáo Hội nhiều khi cũng thế.
“Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” vì trẻ con rất trung thực. Phải chăng người thời nay đã già cỗi quá rồi, đã đánh mất sự trung thực hồn nhiên của tuổi thơ? Bởi đó Chúa Giêsu nói “Ai không trở nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước trời”.
2. “Lỗi về sự trung thực không phải chỉ là nói dối, vu khống mà còn là nói lệch đi một chút (xuyên tạc), hứa mà không làm, hẹn mà không giữ đúng…
3. Trung thực: người cha có hai con gái ở tuổi thanh xuân. Một cô rất đẹp và một cô kia có dáng vẻ bình thường. Ngày nọ, khi cả hai đang chuẩn bị tới trường, cô bé đẹp hơn nhìn vào gương, rồi phàn nàn với cha rằng gương này không phản chiếu hình ảnh trung thực của cô.
Thay vì giận dữ, ông bố khuyên con: “Ba muốn cả hai con nhìn vào gương đó mỗi ngày. Các con có được vẻ đẹp tự nhiên, phải tự nhắc mình đừng bao giờ làm mất đi vẻ đẹp của gương mặt bằng những hành động xấu. Và con là người không đẹp, con có thể che dấu sự thiếu vẻ đẹp đó bằng sự duyên dáng nơi những đức tính và các cư xử đẹp của con”. (Góp nhặt)
4. “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Mỗi lần tôi xa nhà, mẹ tôi đều căn dặn: con phải sống thật thà với Chúa, với mọi người xung quanh và với chính mình. Mẹ ước mong cho tôi nên người có giá trị, luôn có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác. Để được như thế tôi không nên nghi ngờ, dối gian, mà phải sống trung thực đặc biệt trong lời nói. Chúa cũng dạy tôi như vậy “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Lời dặn của mẹ là lời dạy của Chúa còn đó. Nhưng tôi đã không đủ cam đảm để thực thi, để rồi lời dạy ấy như gió thoảng, chợt đến rồi vội đi.
Lạy Chúa, xin cho con biết làm chủ suy nghĩ và làm chủ miệng lưỡi con, vì thật thà là dấu chỉ của con cái Chúa, quanh co gian lận là sản phẩm của sa tan. (Hosanna)
Chúng ta nghe Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về sự công chính mới. Hôm nay, Chúa dạy mọi người về sự trung thực trong lời nói:
Điều cốt yếu của lời nói là sự trung thực: “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt là do sự dữ mà ra” (Mt 5,37).
1. Vâng! Sự trung thực bao giờ cũng là điều hết sức quí giá. Thời nào cũng thế.
Ngày xưa, nước Lỗ có một cái đỉnh rất cao quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang. Vua Tề bảo:
- Phải có Nhạc Chính Tử đem sang nói, ta mới tin!
Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến bảo đi. Nhạc Chính Tử hỏi:
- Sao không đưa cái đỉnh thật?
- Ta quí nó lắm?
Vua Lỗ nói.
Nhạc Chính Tử thưa:
- Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi cũng quí cái đức “tín” của tôi như thế!
Sau, vua Lỗ phải đưa cái đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
Chúa rất ghét sự gian trá. Chúa đã phạt thật nặng những người lừa đảo, thiếu thành thực. Sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 5,1-11) có thuật lại:
Hồi ấy có hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, lấy tiền dâng các tông đồ, nhưng lại lại lừa đảo thánh Phêrô, giữ lại một phần. Người chồng là Anania đưa tiền để dưới chân thánh Phêrô, và vì thiếu thành thực, nên thánh Phêrô đã nặng lời lên án hành vi giả trá của anh. Lập tức anh ngã lăn ra chết.
Ba giờ sau người vợ là Saphira đến gặp thánh nhân và khi thánh nhân hỏi: “Tiền bán ruộng chỉ có bấy nhiêu sao?” Saphira lừa dối thánh nhân, trả lời là: “Chỉ có ngần ấy”. và Saphira cũng ngã lăn ra chết.
Chúng ta hãy cố gắng sống thành thực với nhau. Đồng thời chúng ta cũng phải nghĩ tới việc sống thành thực với Chúa.
2. “Lỗi về sự trung thực không phải chỉ là nói dối, vu không mà còn là nói lệch đi một chút (xuyên tạc), hứa mà không làm, hẹn mà không giữ đúng.
Chúa bảo “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội là Thomas d’Aquin, dòng Đaminh, đã ghi lại trong sổ tay một đoạn văn ngắn sau đây:
“Thiên Chúa chính là một bậc Thầy tuyệt hảo, Ngài đã để lại cho chúng ta 2 tác phẩm siêu việt để chúng ta có thể được học hỏi một cách chu đáo. Đó chính là pho sách Tạo Vật và pho sách Kinh Thánh. Riêng với pho sách tạo vật, thì có bao nhiêu tạo vật trong vũ trụ thì cũng có bấy nhiêu chương sách tuyệt mỹ trong tác phẩm ấy. Cuốn sách khổng lồ này đã dạy cho chúng ta sự thật mà không pha trộn vào đó một chút giả dối nào cả. Vì thế, khi có người đến hỏi nhà hiền triết Aristote rằng, ông ta đã học được ở đâu mà có được những cơ sở lý luận, những tư tưởng trung thực và cao đẹp như vậy, thì ông ta đã trả lời: “Tôi đã học được từ chính các tạo vật quanh tôi, bởi vì các tạo vật thì không bao giờ biết nói dối!”
Người ta kể lại một câu chuyện về chuyến viếng thăm nhà tù của quận công Osola như sau:
Hôm ấy quận công Osola được dẫn đi thăm một nhà tù nổi dọc bờ sông. Các tù nhân được tự do trao đổi ý kiến cùng quận công. Ngài ân cần hỏi thăm xem vì những lý do gì mà họ bị giam giữ. Mỗi tù nhân được tự do trình bày về sự lầm lẫn của guồng máy công lý. Nhiều phạm nhân đã một mực không chịu nhận tội mình. Người thì than là anh ta phải bị phạt vào đó chỉ vì ông quan toà thích vậy, người khác nữa lại khăng khăng đổ tội cho lòng ganh tị của kẻ thù riêng. Nói chung, không ai đáng tội phải cầm tù tại đó cả. Cuối cùng có một tù nhân thưa.
- Thưa ngài quận công, tôi thật đáng hình phạt, vì tôi cần tiền, tôi đã ăn trộm và bị bắt.
Ngài quận công rất cảm động với lòng thành thật và khiêm nhường của tội nhân này. Giữa đoàn tù nhân xúm quanh, ngài nói lớn tiếng:
- Anh thật có tội, không xứng đáng ở chung với chúng tôi. Anh hãy rời khỏi nơi đây lập tức.
Ngay tức thì, ngài quận công tha bổng cho tù nhân khiêm tốn chân thành đó.
Để kết thúc, xin gửi anh chị em một trích đoạn của một bài thơ này. Bài thơ của nhà thơ Phùng Quân. Bài thơ có tên cũng rất hay: Lời Mẹ Dặn.
Con ơi! trước khi nhắm mắt, Cha con dặn con Suốt đời phải làm người chân thật. Mẹ ơi! Chân thật là gì? Mẹ tôi hôn lên đôi mắt Con ơi! một người chân thật: Thấy vui, muốn cười, cứ cười. Thấy buồn, muốn khóc, cứ khóc Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ báo ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu. Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi Đứa bé mồ côi thành nhà văn. Những lời mẹ dặn thuở lên năm Vẫn nguyên vẹn mầu son chói đỏ Người làm xiếc đi dây rất khó Nhưng chưa khổ bằng nhà văn Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Chúa là Đấng chân thật, là chân lý, nới Chúa không có gì là gian dối, cho nên Chúa dạy chúng ta phải sống thành thật, tôn trọng sự thật: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8, 32).
Trong lịch sử cứu độ, từ thời xa xưa trong dân tộc Do Thái và cả chúng ta hôm nay, Chúa nói điều gì là Chúa sẽ nhớ và sẽ thực hiện, Chúa không bao giờ quên, Chúa không bao giờ nuốt lời với chúng ta. Vì thế, con người chúng ta cần một niềm tin vững vàng, mãnh liệt, và sự chờ đợi vào Chúa là như vậy.
Con người chúng ta ngày hôm nay dường như yêu sự dối trá hơn là yêu sự thật, yêu sự gian xảo hơn là yêu sự chân thành, nhất là những người không có niềm tin và Chúa. Do đó, các xã hội xảy ra nhiều vấn đề rối rắm. Đó là con người chúng ta không tin nhau, nghi kỵ lẫn nhau để rồi nảy sinh sự giận hờn, hận thù, chiến tranh, giết chết nhau, xã hội băng hoại, đạo đức con người chúng ta xuống cấp.
Vì thế mà Chúa nói với con người dương gian chúng ta một cách tha thiết bằng trái tim của Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: “Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra” (Mt 5, 33 – 37). Như vậy là chúng ta phải sống chân tình với nhau, và nói sự thật, dù sự thật đó có mất lòng nhau, dù ai có tin chúng ta nói hay không thì tùy ở họ, chúng ta không cần phải suy nghĩ gì.
Chúa nói chúng ta đừng lấy trời, lấy đất, lấy Giêrusalem, lấy đầu của chúng ta mà thề, vì tất cả những sự ấy là của Chúa. Chúng ta không có quyền lấy nó để bảo đảm cho các lời nói chúng ta, lời thề thốt của chúng ta là sự thật. Vì thế, chúng ta lại càng không được phép lấy tên Chúa, tên các thánh mà thề thốt nữa. Nếu chúng ta mà làm như vậy thì quả là chúng ta càng nặng tội, càng bất xứng, càng bị chê trách vô cùng.
Sau khi căn dặn chúng ta không được thế thốt, thì cuối cùng Chúa nói: “Nói thêm thắt là do sự dữ mà ra” (Mt 5, 37b). Như vậy, nói dối, nói saisự thật, nói xạo, nó là sự dữ, nó tàn phá cuộc sống, nó làm cho chúng ta không đến với Chúa được, chúng ta phải xa tránh nó.
Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của chúng con (Tv 15), Chúa nắm giữ vận mạng, quá khứ, hiện tai, tương lai của chúng con. Vì thế, chúng con rất hân hoan vui mừng, bởi Chúa là nơi chúng con tựa nương an toàn nhất, bảo đảm nhất và chúng con sẽ không bị hư nát sau này. Xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con. Amen.