Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu là sự khắc khổ nhiệm nhặt. Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33). còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34). Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu. Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần, dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội. Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu. Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt. “Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay?” Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế. Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa. Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay, đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã. Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay. “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ” Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới. Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi. Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt. Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài. Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5). “Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.” Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời, Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm. Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện, Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu, dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen. ------------------------------
Đạo là con đường. Con đường nối kết con người với Thiên Chúa. Như vậy đạo là mối liên hệ, tương quan. Đạt đến Thiên Chúa. Kết hợp thân mật với Người. Đó là đạt đạo.
Ăn chay là một phương tiện giúp ta chế ngự xác thịt, siêu thoát trần gian. Để kết hợp với Thiên Chúa. Tuy nhiên đã có nhầm lẫn. Có người coi ăn chay là giữ đạo. Thậm chí còn coi đó là quan trọng không thể thiếu. Tệ hơn người Pha-ri-sêu coi ăn chay là lập công. Là đương nhiên công chính. Không cần đến Thiên Chúa.
Hôm nay Chúa Giê-su cho ta hiểu biết đạo thật là gì. Ở với Chúa là đạt đạo. Không cần ăn chay. Chỉ khi mất Chúa mới phải ăn chay. Điều quan trọng là được Chúa. Chứ không phải công phúc.
Sa-un đã dùng lý do chiếm đoạt chiến lợi phẩm dâng cho Chúa để biện minh cho sự bất tuân. Nhưng Sa-mu-en đã vạch rõ sai lầm của Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu”. Chúa không cần của lễ. Chúa chỉ muốn tấm lòng. Chỉ muốn tình yêu. Chỉ muốn sự kết hợp. Đó cũng là hạnh phúc của loài người (năm chẵn).
Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta. Chúa đã được Chúa Cha tấn phong làm Thượng Tế khi nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê”. Chúa Giê-su trở nên thập toàn. Vì Người dâng của lễ đẹp lòng Chúa Cha. Đó là dâng chính mình trong sự vâng phục: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (năm lẻ).
Với sự vâng phục hoàn toàn. Vâng phục đến hiến dâng chính mạng sống. Chúa Giê-su mở cho ta con đường sống đạo đích thực. Kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa. Từ bỏ mình hoàn toàn. Để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Đó là đạo. Đạo mang đến cho ta hạnh phúc đích thực. Khi dẫn đường ta đến kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa.
Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình?
Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
“Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” (Mc. 2, 18b-19)
Trích đoạn Phúc âm này ghép hai mẩu chuyện có vẻ như không ăn ý với nhau: cuộc tranh biện về sự ăn chay và lời kêu gọi canh tân nội tâm. Nhưng thực ra lại có sự hòa hợp rất chặt chẽ. Thời đại cứu độ của Chúa Giêsu mang lại niềm vui. Thời đại này hoàn toàn mới, không thể đi đôi với trật tự cũ thuộc quá khứ. Những thực hành cũ kỹ của Đạo Do thái phải nhường bước cho Tin Mừng đi lên. Chúng ta sẽ đọc hai mẩu chuyện này từ góc độ của việc mừng ngày lễ.
Mừng lễ chính là nhìn lại quá khứ
Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, La Fête des Fous, thần học gia Harvey Cox đã phân tích mối liên hệ của con người với cuộc lễ. Trong cuộc lễ, ông nói, con người tổng hợp quá khứ và loan báo tương lai của mình. Trong một tiệc cưới, người ta làm gì, nếu không phải là gom góp lại cái quá khứ yêu đương của cặp trai gái và rọi chiếu nó vào trong tương lai? Chính bởi vì người ta đã yêu thương nhau và muốn yêu nhau nữa, nên mới dừng lại trong lúc này để nói lên câu “Ta yêu nhau”
Tác giả nói thêm: Cái quá khứ mà người ta tìm lại được trong cuộc lễ đó, đã đưọc gạn lọc, biến đổi và làm cho nên đẹp. Còn lại chỉ là những giờ phút hạnh phúc và dẽ dàng. Chính từ đó mà buôỉ lễ tiệc mới có được vẻ vui chơi nhộn nhịp để người ta ăn uống vui đùa và ca hát.
Cũng là để cho người ta sẵn sàng thăng tiến
Chiều hướng thư hai của buổi lễ là dự phóng cho một tương lai mang nhiều hy vọng. Trong mọi cuộc lễ đều có một ý hưóng làm mới lại. Trong hôn lễ, đôi uyên ương muốn làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của họ, muốn lấy lại nghị lực. Cuộc lễ như cung cấp cho người ta một thứ rượu mới.
Rượu mới cần phải đựng trong những bầu da mới mà Chúa Giêsu nói đến trong phần hai của trích đoạn Phúc âm này, mời gọi ta phải trở nên những con người mới để sẵn sàng đi vào tương lai.
Còn những bầu da cũ ám chỉ những con người mà đối với họ ngày lễ lại rất ảm đạm, chỉ khơi lại trong lòng họ những nỗi buồn nhỏ lệ. Họ không thể thấy hạnh phúc mà không đau lòng. Họ không chịu đựng được thứ rượu mới, thứ rượu mang niềm hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp. Đúng ra những con người này đã đánh mất ý thức về tương lai.
Tóm lại, điều Chúa đòi hỏi chúng ta hôm nay là chúng ta có còn khả năng mừng lễ không? Chúng ta có thể tìm ôn lại dĩ vãng, cái cũ để rút ra cái mới hầu thăng tiến con người ta không? Nếu có, là chúng ta đã đang đi trên con đường dẫn ta vào dự tiệc Nước Trời rồi đó.
Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó muôn đệ của ông lại không ăn chay?”.
Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!
Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì!
Trong cuộc sống thực tế, có khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Pharisêu khi xưa!
Nhiều khi đọc kinh rất nhiều, nhưng bảo tha thứ cho người làm phiền chúng ta thì không bao giờ! Hay đi lễ thường xuyên, nhưng có khi anh chị em cần đến sự giúp đỡ thì lại là điều xa vời với ta!
Hoặc cũng có những người tham gia hội đoàn này hội đoàn kia chỉ để chỉ trích và bới bèo ra bọ mà không hề thay đổi lối sống cho tốt hơn!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con biết chú trọng đến lối sống đạo hơn là hình thức. Một trái tim biết yêu thương thực sự thay cho hình thức giả tạo trên đầu môi chóp lưỡi. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài thường bị tấn công. Giáo Hội của Chúa ngày nay cũng như ngày xưa mãi mãi luôn bị tấn công.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc đời theo Chúa, ở với Chúa, con cũng gặp những khó khăn, chống đối không kém các môn đệ Chúa xưa kia.
Nếu xưa kia người ta đã hỏi Chúa tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pha-ri-siêu ăn chay còn các môn đệ của Chúa lại không, thì ngày nay, con cũng thường bị hỏi tại sao và tại sao…
Được sống với Chúa, con luôn cảm nghiệm một niềm vui đặc biệt và khó tả. Được trở nên thân tình với Chúa, con luôn mang trong mình một niềm vui của cô dâu có chàng rể ở cùng. Chúa muốn con sống chu toàn bổn phận hằng ngày theo Ý Chúa, và chu toàn trong hoan lạc, không phàn nàn, không kêu ca. Chúa muốn con phụng sự Chúa trong niềm vui, ngay cả trong những lúc hy sinh vác thánh giá.
Chúa đã đem lại cho thế gian một lối sống mới hợp theo chương trình cứu độ. Chúa không đưa tinh thần vá víu cho hợp với cái cũ. Chúa đang kêu gọi con đem tinh thần vui tươi của Nước Trời vào trong hoàn cảnh sống hằng ngày.
Vâng, lạy Chúa, này con đây, xin Chúa chấp nhận, và trong sự yếu đuối của con, xin Chúa nâng đỡ chở che. Vì nếu không có Chúa nâng đỡ chở che, con sẽ không chịu nổi những sự chống đối của người đời. Xin cho con hằng có niềm vui khôn tả của người môn đệ chân chính của Chúa. Amen.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: Đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật.
Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: Những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Theo Mỗi ngày một tin vui).
Suy niệm
Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình kéo dài cả tuần, cửa nhà đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng… Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế mọi người chay tịnh chuẩn bị đón Ngài như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới - tiệc cứu độ tình yêu đem niềm vui đời đời cho chúng ta.
Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là các môn đệ của Ngài là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế - Tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế - Tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…
Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ, những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là tân lang mang Tin Mừng, niềm vui Ơn Cứu Ðộ. Nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc. Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).
Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự Tiệc Cưới Nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế - Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn và chứa trong bầu da cũ…
Ý lực sống: ”Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).
1. Các môn đệ của Đức Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và người biệt phái. Đức Giêsu đã bênh vực các ông và cho người ta thấy rằng việc thiện cũng phải biết làm đúng lúc, đúng nơi. Vì thế, đừng vội phê bình người khác khi chưa nắm vững hoàn cảnh sự kiện. Điều quan trọng là Đức Giêsu chính là Tin Mừng, Ngài đã đến đem niềm vui ơn cứu độ nên chúng ta phải biết sống vui tươi, tin tưởng, ủ rũ âu sầu là không hợp thời, không đúng lúc nữa.
2. Người Do thái rất coi trọng việc ăn chay. Mục đích của ăn chay là chuẩn bị gặp Chúa, hoặc gặp Đấng Messia sắp đến. Vào đầu thế kỷ I, người ta nghĩ rằng Đấng Messia sắp đến, cho nên càng ăn chay nhiệm nhặt hơn, nhất là nhóm biệt phái và nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả.
Theo Do thái giáo thời Đức Giêsu, việc ăn chay liên kết với việc mong Đấng Thiên Sai. Người ta bất mãn với thời thế và nóng lòng chờ đợi thời kỳ thiên sai. Nhưng các môn đệ của Gioan và các người biệt phái chỉ biết giữ chay mà không để ý đến ý nghĩa của việc ăn chay. Nên khi thấy các môn đệ Chúa không ăn chay thì trách Chúa.
3. Phần Đức Giêsu thì tự biết mình là Messia đến khai mở một kỷ nguyên vui mừng. Ngài so sánh thời gian Ngài sống ở trần gian là một tiệc cưới và bản thân Ngài là chàng rể. Bởi đó Ngài ăn uống tự nhiên bình thường và để cho các môn đệ Ngài cũng ăn uống như thế.
Vì thế, khi người ta tra vấn Ngài: ”Tại sao các môn đệ ông không ăn chay”? Ngài trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc lại có thể ăn chay trong khi chàng rể còn ở với họ”? Ngài lại cho biết trước rằng tình hình sẽ thay đổi khi Ngài chịu nạn và chịu chết. Khi đó các môn đệ Ngài sẽ ăn chay để chuẩn bị đón ngày Ngài quang lâm (x. Cv 13,1-3).
Như vậy, vấn đề quan trọng không phải là ăn chay hay không ăn chay, mà là ý thức ý nghĩa của việc ăn chay. Sống trong giai đoạn nào thì phải theo tinh thần của giai đoạn ấy. Nói cách cụ thể hơn, giai đoạn đang sống với Chúa Giêsu là thời kỳ mới cho nên phải sống theo tinh thần mới, tức là tinh thần vui mừng: ”Rượu mới thì bình cũng phải mới”.
4. “Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được” (Mc 2,19).
Các môn đệ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu, tâm hồn và cuộc đời các ông tràn ngập niềm vui. Bao lần ta đã hát bài “Chúa chính là mùa xuân con mong chờ”, nhưng sống với Chúa đối với ta có thực sự là niềm vui không?
Cuộc đời của người Kitô hữu có những giai đoạn ăn chay sám hối, nhưng chủ yếu là vui mừng như đang dự tiệc cưới và được ở gần chàng rể. Thực vậy, được biết Chúa là một niềm vui, được theo Ngài là một niềm vui, được làm việc Ngài giao là một niềm vui. Ngay cả được vác thập giá Ngài trao cũng là một niềm vui, và khi ăn năn sám hối cũng vẫn vui vì biết mình sẽ được tha thứ.
Ta hãy nhớ lại hạnh các thánh: các ngài không bao giờ tuyệt vọng, không bao giờ cằn nhằn, không bao giờ đòi vất bỏ Thánh giá Chúa trao... trong lòng các ngài luôn có một niềm vui mà không ai, không gì và không hoàn cảnh nào dập tắt được.
5. Ta vui cười trong ĐAU KHỔ vì đau khổ không phải luôn là hình phạt, nhưng có khi là nguyên do của một vui mừng. Theo lời Chúa Giêsu: hạt giống rơi xuống đất có mục nát ra mới sinh hoa kết quả. Người mẹ lúc sinh con phải buồn phiền, nhưng sẽ khoan khoái khi biết mình đã thêm cho đời một mụn con.
Ta mỉm cười khi THẤT BẠI hay phải thất nghiệp vì có khi ta thất bại vì ta chán nản.
Ta sẽ tìm giải quyết trong vui tươi như thi sĩ Alfred de Musset đã diễn tả:
Tôi đi qua cánh đồng Một con chim hát trên tổ Dưới chân nó, bầy chim con chết lăn lóc, Thế mà chim mẹ vẫn hát trong cảnh bình minh. Hỡi hồn ta, mày đừng khóc nữa, Vì cho đi mày mất hết mọi sự Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời thanh thẳm Vẫn là nguồn hy vọng ở trần gian cho mày.
6. Truyện: Lời khuyên của mẹ.
Khi thấy con có nét mặt buồn sầu, một hôm mẹ bảo đứa nhỏ:
- Con hãy vào rừng khóc thảm thiết xem rừng bảo con sao.
Đứa bé vào rừng khóc hu hu, khóc lóc thảm thiết lắm. Vừa khóc, vừa nghe thì thấy cả khu rừng đều khóc lóc thảm thiết như đứa bé. Đứa bé đã về học với mẹ như vậy.
Hôm sau mẹ lại bảo nó:
- Con hãy vào rừng và cười thật lớn, xem khu rừng sẽ đối với con thế nào.
Đứa bé cũng làm như vậy và hôm nay thấy cả khu rừng cùng cười vang.
Do vậy, mẹ bảo nó:
- Vui buồn không phải do ngoại cảnh mà do lòng mình mà có.
Văn mạch từ 2,1 đến 3,6, thánh Marcô ghi lại 5 cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với một số nhóm không thích Ngài. Đây là những dịp rất tốt để ta thấy rõ quan điểm của Chúa Giêsu, thấy nét độc đáo trong giáo huấn của Ngài so với giáo lý cổ truyền của người do thái. Đoạn này ghi cuộc tranh luận thứ ba.
Vấn đề được tranh luận là ăn chay.
- Người do thái rất coi trọng việc ăn chay (x. Mt 6,1-8). Mục đích của ăn chay là chuẩn bị gặp Chúa (x. Xh 34,28) hoặc gặp Đấng Messia sắp đến.
- Vào đầu thế kỷ I, người ta nghĩ rằng Đấng Messia sắp đến, cho nên càng ăn chay nhiệm nhặt hơn, nhất là nhóm biệt phái và nhóm môn đệ Gioan Tầy giả.
- Phần Chúa Giêsu thì tự biết chính mình là Messia đến khai mở một kỷ nguyên vui mừng. Ngài so sánh thời gian Ngài đang sống ở trần gian là một tiệc cưới và bản thân Ngài là chàng rễ. Bởi đó Ngài ăn uống tự nhiên bình thường và để cho các môn đệ Ngài cũng ăn uống như thế.
- Vì thế khi người ta tra vấn Ngài "Tại sao các môn đệ ông không ăn chay?", Ngài trả lời "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay trong khi chàng rể còn ở với họ?". Ngài lại cho biết trước rằng tình hình sẽ thay đổi khi Ngài chịu nạn và chịu chết. Khi đó các môn đệ Ngài sẽ ăn chay để chuẩn bị đón ngày Ngài quang lâm (x. Cv 13,1-3).
Như vậy, vấn đề quan trọng không phải là ăn chay hay không ăn chay, mà là ý thức ý nghĩa của việc ăn chay. Sống trong giai đoạn nào thì phải theo tinh thần của giai đoạn đó. Nói cách cụ thể hơn, giai đoạn đang sống với Chúa Giêsu là thời kỳ mới cho nên phải sống theo tinh thần mới, tức là tinh thần vui mừng "Rượu mới thì bầu rượu cũng phải mới".
B.... nẩy mầm.
1. Cuộc đời của người kitô hữu tuy có những giai đoạn ăn chay sám hối, nhưng chủ yếu là vui mừng như đang dự tiệc cưới và được ở gần chàng rể. Thực vậy, được biết Chúa là một niềm vui, được theo Ngài là một niềm vui, được làm việc Ngài giao là một niềm vui. Ngay cả được vác thập giá Ngài trao cũng là một niềm vui, và khi ăn năn sám hối cũng vẫn vui vì biết mình sẽ được tha thứ. "Un saint triste est un triste saint" (một vị thánh buồn là một vị thánh "đáng chán"). Ta hãy nhớ lại hạnh các thánh các ngài không bao giờ tuyệt vọng, không bao giờ cằn nhằn, không bao giờ đòi vất bỏ Thánh giá Chúa trao...; trong lòng các ngài luôn có một niềm vui mà không ai, không gì và không hoàn cảnh nào dập tắt được...
2. Vào Tuần Thánh 1980, Đài phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu "Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gởi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy".
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường Y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích "Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa."
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi "Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?"
Cô gái mỉm cười nói "Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài đã cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi". (Trích "Món quà giáng sinh")
3. "Chúa Giêsu mượn hình ảnh chiếc áo, bầu rượu để nói lên thái độ dứt khoát của những ai muốn làm môn đệ Ngài... Không thể vừa theo Ngài vừa tiếp tục nhìn lại phía sau; không thể làm môn đệ Ngài mà vẫn sống tinh thần ngược lại với tinh thần Tin Mừng. "Hoặc tôi là môn đệ Đức Kitô, hoặc tôi không là gì hết" (Chúc thư của Dunan) (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
4. "Chúa Giêsu trả lời chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được" (Mc 2,19)
Các môn đệ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu, tâm hồn và cuộc đời các ông tràn ngập niềm vui.
Bao lần tôi đã hát "Chúa chính là mùa xuân con mong chờ", nhưng sống với Chúa đối với tôi có thực sự là niềm vui không?
Tôi thường nghĩ đến những lề luật phải tuân giữ, những nghĩa vụ tôn giáo phải làm như dự lễ Chúa nhựt, xưng tội… hơn là nghĩ đến sự hiện diện yêu thương của Chúa trong đời tôi. Tôi đã đánh mất đi niềm vui của ngày được Rước lễ lần đầu, được thêm sức, niềm tự hào của ngày tuyên xưng đức tin.
Lạy Chúa, xin cho con biết đến với Chúa và ở lại với Ngài, biết đưa tay ra đón nhận hạnh phúc Chúa ban cho con. (Epphata)
1. Vâng! Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy ăn chay có một tầm quan trọng đối với người xưa. Ăn chay sám hối có thể làm xiêu lòng Thiên Chúa. Trường hợp của vua Đavid là một ví dụ: Sau khi phạm tội, nhờ ông biết hối lỗi, ăn chay sám hối mà Chúa đã tha cho ông; nhờ ăn chay đền tội mà Ninivê được Chúa tha thứ.
Trong Kinh Thánh Do Thái, chúng ta thấy người xứ Palestine ngày xưa ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng cho đến chiều (Ge 3,7-8; 1Sm 14,24 ).
Trong cộng đồng Hồi Giáo, ngày nay người ta vẫn giữ chay bằng cách nhịn ăn, nhịn uống suốt từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, cứ như thế trong suốt tháng Ramadan.
Còn người Phật Giáo thì ăn chay vào các ngày mùng một và rằm, bằng cách vẫn ăn no như thường, nhưng tuyệt đối không ăn thịt bất cứ con vật nào, chỉ ăn rau cỏ trái cây.
Với người Công giáo, trước thập niên 50, chúng ta vẫn còn giữ chay bằng cách không ăn gì từ nửa đêm hôm trước cho tới khi rước lễ. Hiện nay, chúng ta chỉ còn buộc ăn chay cùng với việc kiêng thịt mỗi năm có 2 lần theo quy định chung: thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Còn các ngày Thứ Sáu luật vẫn buộc kiêng thịt, nhưng nếu có nhu cầu chính đáng thì không buộc nhưng phải làm một việc đạo đức nào đó để thay thế. Như vậy, mỗi tôn giáo đều có một cách thức để ăn chay riêng.
Ngày nay, các nhà khoa học cũng kêu gọi ăn chay! Thật thế, mỗi khi bác sĩ muốn xét nghiệm máu để kiểm tra sức khỏe, họ buộc bệnh nhân phải nhịn ăn kiêng uống ít nhất là 4 giờ đồng hồ trước khi lấy một ít máu đem thử. Và người bệnh thì chấp nhận ngay, không một chút cật vấn phàn nàn.
”Ăn chay nhà đạo” của chúng ta cũng thế, cũng có mục đích chữa trị và chăm lo sức khỏe phần hồn của mỗi Kitô hữu, nhưng nhất là để kéo chúng ta ra khỏi bản thân chúng ta, mà sẵn sàng chia sẻ cuộc sống của mình với người khác.
2. Nhưng vấn đề ở đây là ăn chay lúc nào, với tinh thần nào? Rượu mới phải đổ vào bầu da mới. Trong bữa tiệc cưới, chẳng ai lại bắt người dự tiệc ăn chay.
Kinh sĩ Feuillet, nhà giảng thuyết thời vua Louis XIV nổi tiếng là người khá cộc cằn và không để ý lắm đến sự tế nhị.
Ngày kia, ngài nhìn hoàng thân, anh của vua ăn lót dạ. Vị hoàng thân này cảm thấy chột dạ, mới hỏi ngài:
- Thưa Cha, ăn một miếng bánh qui bơ (biscuit) có phá chay không? - Ngài cứ ăn hết một con bò, nếu ngài muốn, và hãy là một Kitô hữu tốt
Một hôm có 4 anh em đến thăm cha Pambô, họ khen nhau, ca tụng nhân đức của nhau:
- Thưa cha, anh này ăn chay dữ lắm, anh kia không dính bén của cải, người này có lòng bác ái, săn sóc giúp đỡ mọi người; còn người thứ 4 này trong 22 năm trời, lúc nào cũng sốt sắng vâng lời.
Cha Pambô bảo:
- Cha thực tình nói với các con: nhân đức của người thứ 4 trọn lành hơn, quí báu hơn, vì chúng con đều đã làm những việc đáng khen và nhân đức, nhưng vẫn còn đôi chút ý riêng trong đó; còn anh thứ tư đã hoàn toàn sống cho Chúa, không sống gì cho mình nữa, cũng vì thế mà sự nghịệp của anh lớn lao hơn.
Khi nằm trên giường chết, thánh Phanxicô nói câu này: sau khi người ta đã qua đời được 15 phút, tính theo ý riêng mới mất.
Ta nghiệm xét thì cũng thấy rằng: trong một gia đình, cũng như trong một xứ, địa phận, một nước; nếu có sự gì đáng tiếc xảy ra, phần nhiều là do thiếu vâng lời, tùng phục.
Đang hoạt động truyền giáo rất kết quả ở Á châu, từng tỉnh, từng nước trở lại và tương lai rất hứa hẹn; nhưng thánh Phanxicô đã nói câu này: nếu thánh Ignatiô, bề trên cha dạy phải bỏ tất cả để trở về Âu châu, thì cha sẽ xuống tàu về ngay.
Hai người biệt phái và thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái ”khoe” với Chúa là ông ăn chay mỗi tuần tới hai lần. Còn người thu thuế chỉ cúi đầu xuống thành khẩn xin Chúa tha thứ. Chúa khen ai thì hẳn mỗi người chúng ta đều nhớ.
Như vậy, ăn chay đâu phải chỉ là mặc áo nhặm, đánh tội, đeo xiềng xích, ăn cơm với tro, nằm đất, nhịn ăn nhịn uống mà còn phải là biết dấn thân chia sẻ với người nghèo, biết sống tha thứ nhịn nhục, sống khoan dung với những người không làm vừa ý mình, sống can đảm, sống xứng đáng với ơn gọi của một người theo Chúa dù có phải trải qua những thử thách hay gian nan khốn khó.
Hơn nữa sống tha thứ, sống từ bỏ ý riêng, sống khoan dung, cách sống như trên nhiều khi còn khó hơn là nhịn ăn một vài bữa; thông cảm và chia sẻ với người nghèo, người yếu đuối nhiều khi còn khó hơn cả đánh tội. Chúa Giêsu cũng như Hội Thánh mời gọi chúng ta đi vào con đường ăn chay đó.
Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.
Vải mới, rượu mới, bầu da mới, nó biểu hiện cho tinh thần mới của thời đại Chúa đến đang ở giữa con người chúng ta và cả cho đến ngày hôm nay cũng như kéo dài mãi về sau nữa.
Một trong những biểu hiện tinh thần mới đó là chúng ta phải giữ đạo, vâng phục trong tinh thần vui tươi, phấn khởi, tin tưởng, phó thác vào Chúa.
Chúa là niềm vui, là mùa xuân không bao giờ tàn phai của chúng ta. Đã bao năm, bao tháng, bao ngày, con người chúng ta sống nô lệ cho tội lỗi. Bị ma quỷ, thế gian, xác thịt thống trị, kèm kẹp, làm cho chúng ta không thể nào ngẩng đầu lên được. Nỗi buồn vì thế cứ kéo dài từ đời này sang đời khác. Cuộc sống mất hết niềm hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Có chăng còn lại là lời hứa cứu độ của Chúa vẫn còn được các tiên tri loan báo, khơi lên để thúc đẩy con người chúng ta đừng có chán nản, buông xuôi mà cứ tin tưởng, để đến thời, đến lúc, đến buổi, Chúa sẽ thực hiện. Thế nhưng, ôi sao mà xa vời quá. Chắc có lẽ lâu lắm mới có thể đến thời, đến buổi Chúa sẽ cho Ngôi Hai xuống thế làm người đây. Quả thật, không phải vậy đâu, đến thời đã định và đến lúc thực hiện rồi, Chúa xuống thế làm người, đang ở với con người chúng ta đây. Chúa mang niềm vui cho chúng ta. Cuộc đời này bớt héo hắt rồi. Chúa đi mọi nơi. Chúa rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ chữa lành các bệnh tật khắp chốn. Nơi nào có bước chân của Chúa đi qua là nơi đó tràn đầy niềm vui và hạnh phúc vì đã được Chúa thi ân giáng phúc. Bởi vậy, Chúa muốn con người chúng ta hãy hân hoan vui mừng lên khi đi theo Chúa, khi giữ đạo Chúa. Đây là tinh thần mới của đạo Chúa dạy con người chúng ta: “Không ai lấy vải mới vá vào áo cũ; chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hại hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư, nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới” (Mc 2, 21 – 22).
Vì thế, Chúa đã khẳng định cho những người đến hỏi Chúa: “Tại sao môn đồ của Gioan và của các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ của Thầy lại không ăn chay?” (Mc 2, 18) là Chúa như tân lang đang ở giữa con người chúng ta, còn tất cả con người chúng ta như là phù rể. Cho nên khi Chúa đang ở với con người chúng ta thì trần gian này, cuộc sống này như là một bữa tiệc, mà tiệc thì tất cả thực khách phải vui lên, chúng ta phải vui lên trong tinh thần là con cái Chúa, vâng lời Chúa trong niềm phấn khởi, mau lẹ. Còn khi Chúa đi vào cuộc khổ nạn để cứu chúng ta khỏi chết đời đời thì chúng ta phải ăn chay để góp phần hy sinh nhỏ nhoi vào công trình cứu độ của Chúa, mà an ủi Chúa, mà đền tội và xin ơn phần rỗi linh hồn.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con đi trong đường lối của Chúa để chúng con được thấy được ơn cứu độ Chúa thương ban cho chúng con. Những lúc chúng con đi sai đường lối Chúa, xin Chúa kéo chúng con lại và tiếp tục dẫn đường chúng con đi cho đến đích của cuộc hành trình trần này là được ở bên Chúa là nguồn vui của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 2 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, xin Chúa rủ thương chấp nhận lời Dân Chúa khẩn cầu mà ban cho thời đại chúng ta được bình an.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với niềm tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Qua những mối tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Người, Thiên Chúa tự mặc khải Người là Đấng yêu thương chúng ta. Giống như người Hípri ngày xưa, chúng ta luôn cần được nghe những lời nhắc nhở này. Hỡi Ítraen, hãy nghe những thánh chỉ của Đức Chúa, hãy ghi tạc vào lòng như viết vào sách; Ta sẽ đưa các ngươi vào đất tràn trề sữa và mật. Dân Ta hỡi, nghe đây Ta cảnh cáo; Ítraen này, phải chi ngươi chịu nghe Ta.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với lòng tin vào Đức Kitô và làm rạng Danh Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Inhaxiô Antiôkhia nói: Anh em hãy có lòng tin và lòng mến đối với Đức Kitô… Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu, và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa, và hãy nhờ Chúa Giêsu.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với lòng yêu mến, luôn quy hướng về Đức Kitô và thập giá của Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thư Hípri nói: Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 109, vịnh gia cho thấy: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lời Thiên Chúa là lời sống động và hữu hiệu, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. Kho tàng ở đâu lòng trí hướng về đó, khi ở bên chàng rể, dĩ nhiên, sẽ quy hướng về chàng rể. Lời Chúa là phép thử, sẽ cho ta biết lòng trí, tâm tình của ta đang hướng về đâu. Không có gì là bí ẩn đối với chúng ta, nếu chúng ta có lòng tin và lòng mến hoàn hảo đối với Đức Kitô. Đó là khởi đầu và cùng đích của cuộc sống: lòng tin là khởi đầu, lòng mến là cùng đích. Khởi đầu và cùng đích hợp lại là Thiên Chúa, còn tất cả những điều khác liên quan tới đời sống công chính đều xuất phát từ đó, bởi vì, không ai tuyên xưng đức tin mà lại phạm tội, không ai có lòng mến mà lại ghét anh chị em mình. Xem quả thì biết cây, cũng vậy, người ta sẽ nhận biết những ai đang ở cùng chàng rể, nghĩa là, xưng mình là người thuộc về Đức Kitô, qua các việc những người ấy làm. Quả thế, vấn đề không phải là tuyên xưng, nhưng là, bền đỗ trong đức tin, đi đến cùng con đường Đức Kitô đã đi. Không có gì bí ẩn đối với Chúa, và cả những điều bí mật nhất của chúng ta cũng đều sáng tỏ trước Lời Chúa. Vậy chúng ta hãy làm mọi sự với ý thức rằng: chính Chúa đang ở trong chúng ta, để chúng ta nên đền thờ của Người. Chính Người ở trong chúng ta, Người là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đang có và sẽ xuất hiện trước mặt chúng ta, nếu chúng ta yêu mến Người cho phải đạo. Thập giá của Đức Kitô là cớ vấp ngã cho kẻ không tin, nhưng lại là, nguồn ơn cứu độ và sự sống đời đời cho chúng ta. Nếu lòng trí chúng ta đã gắn chặt vào thập giá của Đức Kitô, chúng ta sẽ được an bình giữa trăm chiều thử thách. Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, ước gì Chúa ban cho thời đại chúng ta được bình an. Ước gì được như thế!
Cốt lõi của Lề Luật. 21/01 – Thứ Ba tuần 2 thường niên. – Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
* Anê là một thiếu nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305). Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát. Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36). Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này. Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát. Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa. Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong. Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.” Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát, lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa, mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát. Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê. Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này, nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li. Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít. Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực. Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6). Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9). Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế. Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38). Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại. Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát. Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15). Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả. Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa, nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa. Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần. Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy. Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan, hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Dưới bầu trời bao la, trong cô đơn và thầm lặng, với tấm lòng thanh tịnh, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn, huyên náo vì đấu tranh, giữa đám đông hối hả lăng xăng, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Và khi đã hoàn tất việc đời, lạy Thiên Chúa muôn loài, một mình, lặng lẽ, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen. (R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Đời sống con người nhiều khi bế tắc. Thân phận yếu kém. Hoàn cảnh khắc nghiệt. Lãnh đạo thiển cận, hẹp hòi và chuyên quyền. Nhưng thánh Phao-lô khuyên ta nên kiên trì giữ vừng niềm tin, vì Thiên Chúa chính là hi vọng.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người trung tín. Lời thề hứa của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Vì nếu mọi người phải mượn danh Chúa mà thề vì danh Chúa chí thánh là nền tảng vững chắc. Đằng này chính Thiên Chúa thề hứa thì không thể sai chạy. Điều đó chứng tỏ qua cuộc tuyển chọn Áp-ra-ham (năm lẻ) và Đa-vít (năm chẵn). Và càng chứng tỏ hơn nữa qua việc thực hiện lời thề hứa với các ngài. Giữ lời hứa cho Áp-ra-ham một giòng dõi đông đúc ông đã cao tuổi mà vẫn chưa có con. Giữ lời hứa trung tín với nhà Đa-vít nên đã cho Ngôi Lời sinh trong dòng họ này.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người luôn quan tâm và khai thông những bế tắc. Con người sai lầm. Lịch sử bất ổn. Hoàn cảnh khó khăn. Nhưng Thiên Chúa luôn biết cách đổi mới. Khi con người lỗi phạm, Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham lập nên một giòng dõi mới. Khi Sa-un đi chệch đường, Thiên Chúa tuyển chọn Đa-vít lập triều đại mới. Và khi Cựu Ước chấm dứt Thiên Chúa sai Con Một xuống lập giao ước mới. Khai mạc triều đại mới. Thiên Chúa luôn mở ra những chân trời mới. Khai thông bế tắc. Đem lại hi vọng lớn lao.
Thiên Chúa là hi vọng vì Người làm chủ vũ trụ. Người có toàn quyền trên muôn vật muôn loài. Làm chủ vũ trụ. Làm chủ vận mạng con người. Làm chủ lề luật. Người tự do và làm cho ta tự do. Người giải thoát ta khỏi mọi ràng buộc. Không bị ràng buộc vào diện mạo bên ngoài. Không phải tuân theo thứ tự trước sau. Người chọn Đa-vít là con út và là người có vóc dáng nhỏ bé. Người chọn Áp-ra-ham là người cao niên mà chưa có con. Lề luật vốn để phục vụ con người. Khi lề luật trở nên gánh nặng, nên gông cùm trói buộc, Người đã giải thoát con người. Vì Người làm chủ lề luật. Chính vì thế Người đem lại niềm hi vọng cho con người.
Khi chưa thấy lời hứa thực hiện ta cũng vẫn tín thác vì Chúa luôn trung tín. Khi ta gặp bế tắc tưởng chừng không lối thoát ta vẫn an tâm vì Chúa luôn quan tâm sẽ khai thông mọi bế tắc. Khi ta bị vây kín trong vòng giam hãm của lề luật ta vẫn tự do vì Chúa làm chủ lề luật sẽ giải thoát ta.
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”
Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)
Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.
Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa
Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.
Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: “Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.
Một Thiên Chúa phục vụ
Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.
Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.
Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?
Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!
Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.
Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Do thái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.
Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.
Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: “Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2, 27).
Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!
Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta hiểu ý nghĩa tích cực của lề luật. Lề luật được làm ra để giúp con người thăng tiến. Hiểu được vậy, ta sẽ không giữ luật cách nô lệ, hình thức.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người ta sợ mang gông cùm và ghét kẻ nào cướp mất tự do của mình. Rất nhiều lúc con chán ngán hoặc khiếp sợ đạo Chúa vì có quá nhiều lề luật phải giữ. Rất nhiều lúc con nhìn Chúa như một cảnh sát, như một kẻ đè bẹp làm con mất tự do. Rất nhiều lúc con coi thường luật Chúa hoặc đành phải giữ cho xong. Như người Biệt phái, con chỉ nhìn thấy những điều không được phép, những điều cấm đoán, mà chẳng hiểu tại sao.
Lạy Chúa, hôm nay con hiểu được Chúa thương con. Chúa ban lề luật là vì thương con. Lề luật của Chúa không phải như một gánh nặng áp đặt trên con như chiếc gông cùm đè bẹp, nhưng là quà tặng giúp con bay cao, thăng tiến và bảo vệ sự tự do mà Chúa đã ban. Lề luật được làm ra để nâng đỡ con mà con cứ nghĩ Chúa kìm kẹp con. Chính vì con chẳng hiểu nên con đã giữ luật một cách nô lệ, câu nệ hình thức, con cảm thấy nặng nề gò bó.
Con vui mừng dâng lời tạ ơn Chúa vì Chúa giải thoát con khỏi tinh thần nô lệ. Xin Chúa giúp con sống trong tự do của một người con. Xin Chúa dạy con hiểu được ý nghĩa của từng lề luật xuyên qua những điều được phép hay bị cấm. Xin Chúa cho con thấy được rằng tình yêu là điều quan trọng nhất trong mọi lề luật. Và tình yêu sẽ giải thoát con. Amen.
Ghi nhớ: ”Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat”.
Một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không mấy xa trường đua Churchill Downs nổi tiếng. Vào ngày Chúa nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình. Sau thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng Gx liền đến bên cha tân chánh xứ và bảo rằng, những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc…
Vào Chúa nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm... Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ riêng ra và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa. Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng, đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: “Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?”. Ông chủ tịch liền trả lời: “Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong Gx chúng ta không có những hạng người này”.
Giữ đạo hình thức, theo cách suy diễn của cá nhân bỏ lề luật Chúa để giữ những điều con người tự coi là đúng… Chúa Giêsu đã nói với những người biệt phái về cách sống đạo hình thức ấy như sau: “Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8).
Suy niệm
Ngày Sabát là ngày của Chúa, dành cho Chúa, để nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài. Nhưng cũng là ngày nghỉ ngơi của con người sau sáu ngày làm việc vất vả (Đnl 5,14 -15).
Đối với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát cách tỉ mỉ chu đáo là nói lên tầm quan trọng của đời sống trong Giao Ước với Thiên Chúa… Theo quan điểm của người pharisiêu thì luật giữ ngày Sabát là Luật Môisê, cũng là Luật của Thiên Chúa. Và người công chính phải tuân giữ Lề Luật một cách chi tiết. Do đó, khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát, họ bàn thảo với nhau: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát” (Ga 9,16). Họ quan niệm: Nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ Luật Môisê. Quan điểm của họ quả hết sức hợp lý vì được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người ta phải giữ Luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3…).
Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17). Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời (x. Mt 5,48) - Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16) và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân hay không mà thôi. Cho nên, giữ Luật của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, giữ luật vì Luật và Luật với bác ái phải ưu tiên tuân theo luật của đức ái. Đức Giêsu đưa ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: “Còn bà này, là con cháu ông Abraham, bị Satan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sabát sao?” (x. Lc 13,10-17). Vì thế, vào ngày Sabát, tình yêu hay đức ái tỏ hiện khi Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ bị bệnh 18 năm. Ngoài ra, Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày Sabát…
Dựa trên luật đức ái mà Chúa Giêsu giảng dạy, sau này thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: “Luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Chúng ta được gọi nhìn lại cách sống đạo: Tuân giữ Lề Luật với tinh thần của Lề Luật - yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật.
Ý lực sống: “Không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
1. Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ: Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.
2. Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau: Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Theo tinh thần ấy,Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”: a/ Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat; b/ Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
3. Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiép xúc với các nên văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại: một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).
4. Nguyên nhân cuộc xung đột này chỉ là việc các môn đệ ngắt mấy bông lúa khi đi qua cánh đồng lúa. Một sự việc tầm thường không đáng kể. Luật chỉ cấm gặt và trục lúa thôi, nhưng ở đây các người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm trong ngày sabat. Sở dĩ người biệt phái xét nét khắt khe như vậy là cái tính ghen tương nghi ngờ, cái thói hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của người biệt phái, đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabat. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xẩy ra những xung đột, cãi vã, và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo hội cũng như trong cộng đoàn đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
Maurice Zundel trong quyển “Sự hiện diện khiêm hạ” có viết: ”Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tình trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được cho Thiên Chúa”.
5. Truyện: Luật là để yêu thương.
Một người thợ xây đang ở trên giàn ráo cao thì bị xẩy chân rớt xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa từ lâu đã thấy cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ. Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta bằng cách đó, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn ráo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phân xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân chúng trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt, răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.
Đây là cuộc tranh luận thứ tư. Vấn đề được tranh luận là luật nghỉ làm việc trong ngày Sabbat, được ghi trong Xh 20,8-11.
- Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabbat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.
- Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã ra luật nghỉ ngày sabbat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đó là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
a/ Ngày sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat;
b/ Con Người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Một lần nữa Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo Hội, của Dòng tu, của Chủng viện đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa và yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
2. Noi gương Chúa Giêsu, có lẽ câu hỏi ta nên tự đặt ra để biện phân không phải là "làm hay không làm", mà phải là "làm điều lành hay điều dữ".
3. "Con Người là chủ của ngày sabbat". Câu này suy rộng ra là "Chúa Giêsu là chủ của mọi lề luật". Khi tôi đang cố gắng giữ một khoản luật, tôi có nghĩ rằng tôi đang gặp Chúa Giêsu trong khoản luật đó không?
4. Torah là bộ sách luật của Do thái giáo. Nó gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).
Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo, chia thành 2 loại là Mishna và Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).
5. "Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tính trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được cho Thiên Chúa" (Maurice Zundel, trong quyển "Sự hiện diện khiêm hạ")
6. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: "Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy! "Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh. (Góp nhặt).
Nên để ý: a/ Khi đó người Đức và người Anh đang là kẻ thù của nhau; b/ Người sĩ quan Anh đã cứu người sĩ quan Đức, đáp lại một sĩ quan Đức khác đã gắn cho người sĩ quan Anh một tấm huân chương rất đặc biệt, đó là chiếc Thánh giá.
7. "Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát" (Mc 2,27)
"Ngày mai là lễ Các Thánh đấy. Con Lễ đã xưng tội rồi, còn thằng Nhân thằng Nghĩa đã xưng tội và lễ lạy gì chưa?" Lời mẹ nói khi tôi đang chuẩn bị đi học.
Không hiểu vì sao lại nhiều lễ thế nhỉ? mà lại là lễ trọng nữa chứ! Còn cả một bài luận chưa làm. Chiều mai lại sinh nhật của bạn nữa!…
Nhiều lúc tôi cảm thấy ngao ngán vì đạo Chúa có quá nhiều lề luật phải giữ. Nhiều lúc tôi nhìn Thiên Chúa như một cảnh sát, như một kẻ đè bẹp tôi mất tự do.
Hôm nay tôi đã hiểu rằng vì Chúa thương tôi nên Ngài mới ban lề luật. Và lề luật là quà tặng Chúa ban để giúp tôi bay cao, thăng tiến và bảo vệ tự do của chính mình.
Cầu nguyện: Cảm tạ Chúa đã tặng ban cho con lề luật, để con học làm người tự do đích thực. (Epphata)
1. Cuộc sống con người ở trên đời, muốn tốt đẹp thì phải có luật pháp.
Chuyện cổ Đông Phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: Nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, và ngón tay sẽ vô cùng đau đớn.
Tự nó, luật pháp khi phục vụ ích chung thì tốt đẹp. Nhưng trong thực tế luật đã bị lạm dụng vì nhiều mục đích, nhiều khi rất tầm thường.
Chính vì thế mà chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu về vấn đề này. Cái nhìn của Chúa Giêsu thì khoan dung quảng đại, còn cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu thì hẹp hòi và nhiều lúc nhỏ nhen đến ti tiện.
Xã hội nào mà chẳng phải có luật pháp.
Khi muốn thành lập dân Israel dưới chân núi Sinai, lúc đầu Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn được khắc trên hai bia đá và rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nền văn hóa chung quanh, người Do Thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết, chi phối cả cuộc sống và mọi hành động của người dân. Bộ sách luật ấy người Do Thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời kia. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người ta đã chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do Thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại; Một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).
Việc các môn đệ của Chúa bị người ta bắt bẻ trong bài Tin Mừng hôm nay dựa theo những qui định trong tập Talmud này. Luật qui định rằng, nếu nhằm vào ngày thường thì có làm việc đó cũng không sao. (Đnl 23,24). Thậm chí khách đi đường còn có thể tự do bứt lúa mì, miễn là đừng đem lưỡi hái vào đồng ruộng của người ta mà gặt. Phiền một nỗi là các môn đệ của Chúa lại làm việc này trong ngày Sabat, là ngày vốn được bảo vệ bằng bao nhiêu qui tắc luật lệ nhỏ nhặt. Mọi công việc đều bị cấm đoán.
2. Chúa đã phản ứng lại như thế nào?
Rõ ràng là Chúa không thể chịu được cách cắt nghĩa luật như thế. Điều luật mà Chúa nhấn mạnh, đó là điều răn mới, đó là tình yêu thương. Khi tuyên bố mình là chủ ngày sabbat, Chúa muốn xác định với mọi người rằng ”Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là biết cảm thông với con người. Chỉ những ai biết tôn trọng con người, người đó mới là người tôn trọng Luật của Thiên Chúa”.
Susan là một em bé gái rất đáng yêu. Nhưng thật không may, vừa mới tập tễnh bước chân vào cấp một thì bác sĩ đã phát hiện ra một khối u quái ác trong đầu của em. Em cần phải nhập viện để chữa trị bằng phương pháp xạ trị trong vòng ba tháng. Sau khi xuất viện, em bé vốn dĩ đã ốm yếu, bây giờ trông còn thảm hại hơn. Trước đây, em có một mái tóc vàng rất đẹp, giờ thì đã bị rụng sạch. Dầu vậy, với sự động viên của mọi người, em đã cố gắng vươn lên. Em đã trở lại trường để học phụ đạo, bù cho những bài đã mất. Mỗi ngày em đều đến trường với bộ não vừa bị phẫu thuật. Em phải đội một chiếc mũ để che cái đầu trọc của mình. Đối với một em bé sáu tuổi mà phải chịu như vậy thì thật tội nghiệp.
Cô giáo hiểu rất rõ nỗi đau của em. Trước khi Susan chính thức quay trở lại trường, cô giáo nhiệt tình và trịnh trọng tuyên bố với toàn thể các em học sinh của mình rằng: “Kể từ học kỳ sau, chúng ta sẽ học nhận biết về các loại mũ. Cho nên các em học sinh đều phải đội chiếc mũ yêu thích của mình đến trường, càng mới lạ càng tốt”.
Sau ba tháng vắng mặt, đây là lần đầu tiên Susan quay trở lại nơi quen thuộc này. Em đứng trước cửa lớp, từ từ đi vào, trong lòng đầy lo lắng, lưỡng lự vì chiếc mũ mình đang đội.
Thế nhưng, điều khiến em không thể ngờ được là trong lớp tất cả các bạn đều đội mũ, đủ kiểu đủ loại, đầy màu sắc. Susan cảm thấy mình và các bạn khác đều như nhau. Lòng em thấy nhẹ nhõm. Một nụ cười rất xinh đẹp đã nở trên môi em.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống với mọi người với tình yêu thương. Amen.
Chuyện gì mà những người biệt phái la ầm lên om sòm vậy? Chỉ có mỗi một việc nhỏ nhoi là các môn đệ của Chúa đi ngang qua đồng lúa, bứt bông lúa mà ăn thôi chứ có gì đâu: “Kìa Thầy xem. Tại sao ngày sa bát người ta làm điều không được phép như vậy?” (Mc 2, 24). Họ la lên như vậy là vì họ có tư tưởng ghét Chúa, ganh tỵ với Chúa, bởi Chúa rao giảng Tin Mừng hay, Chúa làm nhiều phép lạ chữa lành các chứng bệnh hoạn tật nguyền khác nhau, đặt biệt người ta nhận thấy Chúa thương họ…cho nên họ theo Chúa quá đông. Do đó những người biệt phái sợ ảnh hưởng của Chúa quá lớn để rồi họ sẽ tìm cách làm giảm bớt uy tín của Chúa xuống. Họ chưa nhắm trực tiếp đến Chúa được thì bây giờ họ nhắm đến các môn đệ của Chúa trước. Bởi vậy chuyện nhỏ là bứt bông lúa và xé ra cho to là vi phạm ngày sa bát.
Khi họ xé to chuyện ra như vậy, chúng tỏ họ bần tiện, tâm địa hẹp hòi, thù vặt, bám theo dõi Chúa sát nút, nơi đồng lúa vắng vẻ như vậy mà vẫn có mặt họ. Họ là những người khó sống chung, khó gần gũi.
Phần Chúa, Chúa chẳng nói các môn đệ Chúa có lỗi vi phạm ngày sa bát hay không? Chúa chẳng bênh vực các môn đệ của Chúa gì cả, vì các ngài đâu có tội gì để mà bênh vực. Tội là ở họ mà họ không chịu xét mình để nhận ra, để mà sửa đổi cho tốt đó. Bởi vậy, Chúa mới lấy sự kiện xảy ra trong lịch sử dân Chúa thời vua Đavít để cho họ thấy được Chúa nhân từ vô cùng và Chúa dạy con người chúng ta phải yêu thương nhau, cảm thông cho nhau, tôn trọng nhau: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Đavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào? (Mc 2, 25 – 26). Và cũng qua đó, Chúa đã đề cao con người chúng ta, vì con người chúng ta là chóp đỉnh của công trình tạo dựng của Chúa mà thời bây giờ xã hội chỉ coi trọng những người giàu, những người có học thức, những người thương gia, những người có chức có quyền. Ngoài những người này ra, còn lại tất cả những người khác đều bị coi thường, trong đó có các môn đệ của Chúa nữa: “Ngày sa bát là ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày sa bát; cho nên Con Người cũng làm chủ ngày sa bát” (Mc 2, 27 – 28).
Lạy Chúa, Chúa luôn bênh đỡ chúng con là những người nghèo, người cô thế cô thân, người mô côi, người góa bụa, người nhỏ bé cách đặc biệt, vì chúng con chịu mất mát, đau khổ quá nhiều. Chúa không muốn không muốn chúng con đau khổ hơn nữa, cho nên Chúa thương chúng con và ban ơn nâng đỡ chúng con để chúng con sống trung thành với Chúa và nâng đỡ nhau, giúp nhau vì chúng con cùng cảnh ngộ thì sẽ hiểu nhau hơn để giúp nhau nên thánh như ý Chúa muốn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Anê hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh, hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Anê tử đạo về trời, xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin. Anê là một thiếu nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Điôcơlêxianô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305). Đó là sự việc thánh Amrôxiô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.
Noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin, quyết lòng thực thi giới răn yêu thương của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu đòi hỏi, mà bản văn dùng chữ “ghen tuông”, đòi hỏi căn bản của tình yêu ấy là: chúng ta phải đem tình yêu đáp lại tình yêu. Ngay từ thời xa xưa trước khi có Tin Mừng, truyền thống Dothái đã nhận ra trong bản văn này điều răn quan trọng nhất. Và điều này đã được chính Đức Giêsu dùng tất cả quyền bính của mình để xác nhận lại. Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn; thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật, yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
Noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin, quyết lòng thuộc trọn về Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Amrôxiô nói: Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của thánh Anê. Cô đẹp không phải vì bím tóc nhưng vì thuộc về Đức Kitô. Đầu cô không đội vòng hoa nhưng được điểm trang bằng đức hạnh… Ta hãy hân hoan mừng lễ thánh Anê, và tưởng niệm cuộc thương khó của người. Giữa tuổi thanh xuân, người đã hy sinh chịu chết và đã được hưởng sự sống muôn đời, vì chỉ yêu thương một mình Đấng ban sự sống.
Noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin, trông cậy vững vàng vào lời Chúa hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thư Hípri nói: Chúng ta nắm giữ niềm hy vọng đó tựa như cái neo chắc chắn và bền vững. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 110, vịnh gia cho thấy: Giao ước đã lập ra, muôn đời Chúa nhớ mãi. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa, trong cộng đoàn chính nhân, giữa lòng đại hội. Việc Chúa làm quả thật lớn lao, người mộ mến ra công tìm hiểu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Xin Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. Niềm hy vọng của chúng ta đặt ở nơi Chúa, là Đấng làm ra ngày Sabát. Ơn cứu độ của chúng ta đến từ Thiên Chúa, chứ không phải đến từ việc giữ chi li những khoản luật Sabát. Yêu thương là chu toàn cả lề luật. Thánh Anê đã thuộc trọn về Đức Kitô và đã hết lòng yêu mến Đấng ban sự sống cho mình, vì thế, khi người ta đối xử tàn bạo không nương tay với cô, thì lại càng làm lộ ra sức mạnh lớn lao của đức tin nơi cô. Cô không có sức chịu nổi lưỡi đòng đâm thâu, thế mà lại, có sức thắng được lưỡi đòng ấy, đang khi, những cô bé trạc tuổi cô sẽ khóc, khi bị kim đâm. Cô vẫn giơ tay lên Chúa Kitô, và trong lò lửa tàn bạo đó, cô đã làm dấu thánh giá để tôn vinh Thiên Chúa toàn thắng. Chưa đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng: Tuổi đời còn non dại, mà cô đã là bậc thầy về chí can trường. Tân nương vội vã tới loan phòng, cũng không lẹ bằng cô, khi vui vẻ tiến ra nơi hành quyết. Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh, ước gì chúng ta hằng noi gương thánh nữ Anê mà giữ vững đức tin. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.
Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6). Đó là các cuộc tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu, về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay, chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh. Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ. Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không. để có cớ tố cáo Ngài. Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh sáng. Ngài muốn công khai h óa và chính thức hóa việc làm của mình, bởi vậy Ngài mới nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!” Như thế mọi người trong hội đường đều thấy được anh. Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài về điều được phép làm trong ngày sabát: được làm điều tốt hay điều xấu, cứu sống hay giết chết? Câu trả lời tưởng như quá rõ ràng, nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động. Chỉ được chữa bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử. Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử. Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận sự trì hoãn này. Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh. Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu sống. Cứu sống là cho con người được sống hạnh phúc dồi dào hơn. Một bàn tay héo khô, teo tóp, bại liệt, một bàn tay đàn ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được, một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ bao giờ, theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa lành ngay khi có thể. “Hãy giơ tay ra!” Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại bình thường. Giơ tay ra là điều trước kia anh mong muốn mà không làm được. Bây giờ anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác, và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn. Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông. Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối, Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5). Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của mình. Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm. Thế nên theo Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa. Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao. Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em. Amen. ---------------------------------
Men-ki-sê-đê có nghĩa là “Vua Công Chính”, ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “Vua Hòa Bình”. Đa-vít, thánh vương báo hiệu triều đại Nước Chúa cũng là vua công chính và vua hòa bình. Chúa dùng ông để trả lại công bằng cho dân tộc bị áp bức. Và đem lại nền hòa bình cho Dân Chúa. Vì thế Chúa cho ông sức mạnh chiến thắng Gô-li-át khổng lồ của người Phi-li-tinh hùng mạnh.
Nhưng Chúa Giê-su mới thật là Vua Công Chính. Người trả lại mục đích nguyên thủy của lề luật là để phục vụ con người. Ngày sa-bát được Chúa dựng nên để con người được nghỉ ngơi và phát triển toàn diện. Trên hết, cần phát triển đời sống tâm linh. Khi chất vấn người Biệt phái: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ..?” Chúa nhắc họ phải tìm về đúng ý nghĩa nguyên thủy của ngày nghỉ sa-bát.
Người trả lại cho con người quyền được sống và sống dồi dào. Chúa tạo dựng nên con người để con người được hạnh phúc. Nhưng tội nguyên tổ đã phá hỏng công trình của Chúa. Vì thế Chúa đã phải sai Con Một xuống phục hồi lại phẩm giá cao quí, sửa chữa lại những hư hại nơi bản tính con người. Chúa chữa lành những vết thương không chỉ nơi thân xác mà cả nơi tâm hồn và trong xã hội nữa.
Chúa Giê-su là Vua Hòa Bình. Vì Chúa hòa giải con người với Thiên Chúa. Tội lỗi gây nên mối bất hòa. Chúa Giê-su chịu chết đền tội thay cho loài người để loài người được hòa giải với Thiên Chúa. Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là dấu hiệu của tội lỗi. Khi Chúa Giê-su chữa bệnh phần xác, Người có ý chữa bệnh trong linh hồn, đưa con người trở về làm hòa với Cha của mình.
Chúa Giê-su hòa giải con người với nhau. Người bệnh tật là người bị loại trừ. Chữa lành bệnh là đưa người bệnh trở lại hội nhập với xã hội, làm hòa với anh em để sống đề huề trong gia đình nhân loại và gia đình của Chúa.
Chúa Giê-su hòa giải con người với chính mình. Người bệnh tật, người tội lỗi là người có sự phân hóa ngay trong bản thân, bất mãn với bản thân. Khi chữa lành bệnh tật, Chúa Giê-su đưa con người trở về chính mình, yêu thương chính mình, kính trọng chính mình. Chính khi làm hòa với chính mình, con người khởi đầu sống hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con được theo Chúa trong phục vụ công bình và hòa giải.
Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)
Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?
Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.
Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.
Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy, thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.
Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra trai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp và như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.
Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gạy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.
Sứ điệp: Phải biết dùng những giờ phút nghỉ ngơi cho đúng ý Chúa. Nghỉ ngơi không có nghĩa là không làm gì, nhưng là dành thời gian làm việc lành phúc đức và phục vụ tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy cuộc sống con vất vả, ngược xuôi tất bật tối ngày, một nắng hai sương mà vẫn thiếu thốn nghèo khổ. Con có cảm tưởng một ngày quá ngắn làm không hết việc. Có lúc con chẳng tìm ra giờ nghỉ ngơi, nhưng cũng có khi con đã lạm dụng giờ nghỉ ngơi.
Lạy Chúa, người Biệt phái giữ luật nghỉ ngày Sa-bát cách cứng nhắc, đến nỗi họ phẫn nộ vì Chúa chữa bệnh trong ngày đó. Còn ngày nay, theo tinh thần của Chúa, Hội Thánh có thể cho phép con làm việc ngày Chúa nhật. Nhưng dù vậy, xin Chúa giúp con nhận ra rằng luật nghỉ ngày Chúa nhật và các ngày Hội Thánh buộc chính là dấu hiệu tình thương của Chúa, vì Chúa muốn giải thoát con khỏi gánh nặng của công việc. Xin Chúa cho con biết nghỉ ngơi để bồi bổ sức khỏe xác hồn.
Xin cho con biết nghỉ ngơi như ý Chúa muốn để thực sự đem lại ích lợi cho con. Cả người Biệt phái, cả chúng con, đều chẳng biết nghỉ ngơi đúng ý Chúa. Xin cho con được nghỉ ngơi bên Chúa, biết gác bỏ công việc để đến bên Chúa cầu nguyện, sống thân mật với Chúa. Xin cho con biết nghỉ ngơi với Chúa, để nhờ sự hiện diện của Chúa, con không dùng giờ nghỉ để lao vào những trò giải trí không lành mạnh. Xin cho con biết nghỉ ngơi như Chúa dạy, biết dùng giờ nghỉ ngơi để làm điều lành, sống tình bác ái với nhau, thăm hỏi, an ủi, giúp đỡ, và làm việc tông đồ. Và sau hết, vào cuối cuộc đời miệt mài làm việc, xin cho con được về nghỉ ngơi trong Chúa muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: ”Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?”
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn: Một ông chủ nọ cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ.
Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
Suy niệm
Những người luật sĩ và biệt phái đang rình xem Đức Giêsu có lỗi luật nghỉ ngày Sabát hay không để bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày hưu lễ, hầu có lý do ám hại Chúa. Ngài nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, giữ Luật vì hình thức và vụ lợi. Chúa Giêsu đã từng khẳng định, Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho Luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ Luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn Luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình, yêu thương và lòng tin.
Dù giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên những luật sĩ và biệt phái vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x.Mt 12,11). Như thế, họ tự cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu người anh em đang đau khổ vì bệnh tật. Ðức Giêsu buồn và giận vì điều đó.
Qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Xin Chúa giúp chúng con ý thức được ý nghĩa của Luật Chúa và giữ Luật vì yêu mến.
1. Ngày hưu lễ, Chúa Giêsu vào hội đường. Ở đó có người bị bại một cánh tay. Nhóm biệt phái theo rình mò xem Chúa có chữa cho người bệnh này không. Biết thế, Chúa gọi người bệnh ra đứng giữa họ và hỏi: Ngày hưu lễ nên làm lành hay làm ác, cứu sống hay giết chết? Họ không trả lời, vì họ ngoan cố không muốn biết sự thật mà chỉ tìm cách tố cáo thôi. Chúa nhìn họ vừa buồn vừa giận vì thái độ ngoan cố của họ. Rồi Chúa bảo người bệnh: Hãy đưa tay ra. Tức thì người ấy khỏi bệnh. Thấy vậy, nhóm biệt phái và liên kết với nhóm của Hêrôđê tìm cách giết Chúa.
2. Theo truyền thống, người bại tay này làm nghề thợ xây đá. Nghĩa là anh cần có một bàn tay khỏe mạnh sớm hết sức, để có thể nuôi sống bản thân và gia đình. Không lạ gì trước những người Do thái “chẻ sợi tóc làm tư” dò xét, bắt bẻ để lên án. Theo luật Do thái, chỉ được chữa bệnh vào ngày sabat trong trường hợp nguy tử. Trường hợp của anh không phải là nguy tử, nhưng Ngài không thể nào để đến ngày mai. Ngài đã can đảm dám chữa lành anh ngay hôm nay. Ngày sabat là ngày dành cho Chúa, ngày làm điều lành, ngày cứu người. Nhờ đó, bàn tay anh có thể duỗi thẳng, anh có thể cầm lấy bàn tay người khác, cũng như có thể mưu sinh bằng chính bàn tay của mình (5 phút Lời Chúa).
3. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: ”Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, những người tội lỗi, các bệnh nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
4. Có câu chuyện kể rằng: hôm ấy một rabbi Do thái cưỡi ngựa đi từ Giêricô về Giêrusalem vừa đi vừa hát thánh ca, trên đường đi, chẳng may con ngựa trượt chân ngã xuống vực, nhanh tay vớ được cành cây nên rabbi không rơi xuống vực. Ông thấy con ngựa rơi xuống nước nên không hề hấn gì, nhưng bờ cao không lên được, ông định chặt nhành cây lấp đất cho con ngựa lên, nhưng sực nhớ hôm đó là ngày sabat không được làm việc tay chân nên thôi, ông liền phục trong bụi cây rình thấy một người hành hương cưỡi ngựa đi qua, ông rút súng bắn người ấy rơi xuống vực, cướp ngựa phóng đi và tiếp tục hát thánh ca...
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy việc Chúa Giêsu vạch trần sự giả hình của họ, ngày sabat mọi người đến nghe Lời Chúa, còn họ thì đến với ý đồ xấu nhằm để hại người. Giống như câu truyện trên, rabbi kia không dám cứu con ngựa của mình lên vì sợ phạm luật nhưng lại dễ dàng giết người cướp ngựa... Chúa Giêsu biết họ đang rình mò tìm kế hại Ngài, nhưng Ngài vẫn không ngần ngại chữa lành cho anh bị bại tay và qua đó Ngài đặt cho họ một câu hỏi để họ suy nghĩ: ”Ngày sabbat nên làm điều lành hay làm điều dữ”?
5. Chúa Giêsu thấu rõ ác tâm của nhóm biệt phái, nhưng Ngài không chống đối bằng lời nói mà lấy việc làm, lấy việc cứu giúp người bệnh để sửa dạy họ. Ngài nêu gương cho chúng ta, thay vì ra mặt công khai chống đối kẻ làm hại mình hay người tội lỗi, chúng ta lấy việc lành, lời cầu nguyện, sự hy sinh của chúng ta để dẫn đưa họ về nẻo chính đường ngay.
6. Truyện: Luật là luật
Chúng ta đã biết những người biệt phái luôn có cái nhìn cứng nhắc về lề luật. Họ chủ trương “luật là luật” và đã là luật thì phải giữ. Có thế thôi. Đối với những người như thế, chúng ta nên đọc và suy nghĩ về câu truyện này:
Một người Do thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên vì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực đã là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.
Nói xong, ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Đây là cuộc tranh luận thứ năm trong số những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các đối thủ của Ngài được Mc ghi lại. Vấn đế cũng là luật nghỉ ngày Sabbat nhưng được nhìn dưới một khía cạnh khác: Làm gì trong ngày đó?
- Hoàn cảnh: Có một người bệnh nhân cần được chữa. Người đó đang có mặt trong hội đường và hôm đó là ngày Sabbat.
- Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu đã nêu rõ mục đích của khoản luật nghỉ làm việc ngày Sabbat là để phục vụ con người. Trong đoạn này Ngài cho biết thêm ngày đó ta có thể (và phải) làm việc lành.
- Khi đặt cho những người biệt phái câu hỏi: "Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ" Chúa Giêsu muốn họ suy nghĩ để thấy thêm điểm quan trọng đó.
- Nhưng họ làm thinh: một là do cảm thấy khó trả lời - Hai là cố chấp không nhận lẽ phải. Do đó Chúa Giêsu "rảo mắt nhìn họ", một cái nhìn vừa "giận" vừa "buồn".
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Những người biệt phái đang dùng luật để ngăn cản Chúa Giêsu chữa một người bệnh và để hại Chúa Giêsu. Thái độ đó đụng chạm đến lòng của Ngài rất mạnh, đến nỗi Ngài phải "giận dữ rảo mắt nhìn họ và buồn khổ".
2. "Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ". Câu hỏi này Chúa đặt ra cho những người biệt phái. Họ làm thinh không trả lời cho nên chính Chúa Giêsu tự trả lời bằng hành động chữa người bại tay. Câu trả lời của Ngài là: Cứu giúp người đau khổ là điều lành, từ chối giúp đỡ là điều dữ.
3. Hai cái nhìn:
- Điều Chúa Giêsu thấy rõ hơn hết trong hội đường ngày hôm ấy là có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy và rất thương anh nên muốn cứu anh.
- Còn những người biệt phái thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabbat. Những khoản luật ấy che khuất tầm mắt của họ nên họ chẳng thấy nỗi khổ của bệnh nhân mà chỉ coi đây là cơ hội để họ bắt bẻ Chúa. Khi Chúa Giêsu chữa cho anh này thì họ không vui mừng mà còn tức giận và "tìm cách hại Ngài". Cái nhìn của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng nhân hậu, còn cái nhìn của Biệt phái phát xuất từ "cõi lòng chai đá". Xin ban cho con một quả tim bằng thịt thay vì quả tim bằn đá.
4. "Những người Biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Ngài và tìm cách hại Ngài" Trước đây Biệt phái không thích những người phái Hêrôdê vì biết những người ấy xấu. Nhưng hôm nay sự thù ghét Chúa Giêsu đã đưa họ đền hợp tác với những kẻ xấu ấy để cùng nhau làm thêm một việc xấu to lớn hơn nữa là hại Chúa Giêsu.
Đôi khi trong cuộc sống va chạm, tôi cũng thấy trong lòng của mình rộn lên sự tức giận. Nhưng tôi cần phải bình tĩnh, đừng để mình bị lôi cuốn vào những xúi dục xấu xa của sự tức giận ấy.
5. "Ra khỏi đó, nhóm Pharisiêu lập tức bàn tình với phe Hêrôđê để tìm cách giết Chúa Giêsu"(Mc 3,6)
Trong ký túc xá Nguyễn Huệ, Hương là một cô gái hiền lành và đoan trang. Hương luôn tìm cách giúp đỡ những người bạn gặp khó khăn vì hoàn cảnh xa gia đình cũng như an ủi những bạn gặp thất bại trong học tập. Từ những việc tốt đó, Hương bị một số bạn bè xấu ghen tương và đố kỵ, tọa rập với nhau để hãm hại. Hương vẫn vô tư không biết chuyện dữ sắp xảy đến với mình. Một ngày kia, cả phòng xôn xao vì một người trong phòng bị mất đồ. Bảo vệ lên làm việc và không thể tin được: "Thủ phạm" lại chính là Hương. Mọi người đều biết rằng Hương không bao giờ làm chuyện đó.
Những kẻ xấu thường không ưa nhau. Nhưng chỉ vì muốn hạ đối thủ chung nên sẵn sàng liên kết với nhau. Tôi là người biết rõ từ A đến Z. Nếu tôi không đủ can đảm đứng ra đương đầu với các bạn kia, sao tôi không biết liên kết với những bạn còn lại trong phòng để bênh vực cho Hương?
Cầu nguyện: Chúa ơi, thế giới con đang sống đã trở nên thảm hại, không phải chỉ vì tội ác của kẻ xấu mà còn vì sự nhu nhược của những kẻ lành. Xin giúp con biết yêu chuộng sự thật là liên kết với mọi người thành tâm thiện chí hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn (Epphata).
1. Đứng trước cùng một sự kiện mà cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người Pharisêu khác nhau.
Những người Pharisêu thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabat. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài thấy rõ trong hội đường ngày hôm ấy có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy những đau khổ của anh. Ngài rất thương anh nên muốn cứu anh.
Hai lối nhìn đưa đến hai cách hành động khác nhau.
Có một chàng thanh niên kia lên đường đi tìm kho tàng quý được cất giấu trong một lâu đài.
Sau những ngày đi đường xa mệt mỏi, anh nhận thấy mình như lạc lối và đang đứng trước một đoạn dốc gồ ghề, bên cạnh những hố sâu thăm thẳm như muốn nuốt chửng thân xác đã hao mòn sinh lực của anh. Trong lúc chiến đấu để lấy lại sự bình tĩnh của tâm hồn, ngước mắt lên, anh thấy một lâu đài tráng lệ hiện ra trước mắt. Trước cổng toà lâu đài tráng lệ có hàng chữ lớn: “Xin mời vào”.
Biết mình bị lạc đường nhưng lại gặp may, anh sung sướng tiến lại gần cổng lâu đài. Đứng trước cổng lâu đài anh ngạc nhiên khi thấy có những người lữ hành tuy đã hết sức mỏi mệt nhưng vẫn cứ tiếp tục lê bước đi ngang qua tòa lâu đài mà không chịu dừng lại. Hình như họ không thấy có lâu đài ở trước mắt họ. Thấy vậy, người lữ hành bèn tiến lại gần người gác cổng lâu đài và hỏi: - Tại sao những người lữ hành kia không dừng lại để bước vào lâu đài mà cứ tiếp tục đi qua như vậy?
Người gác cổng trả lời:
- Đây là một toà lâu đài màu nhiệm, chỉ có những ai nhận biết mình đã lạc đường mới có thể trông thấy nó. Trái lại, những người tưởng mình biết đường và chỉ cắm đầu chạy theo con đường riêng của họ, thì họ sẽ bị mờ mắt và sẽ không bao giờ nhận thấy lâu đài. Ông quả là người ngay thẳng, nhiệt thành tìm kiếm chân lý, yêu chuộng sự thật. Chính sự khiêm tốn ngay thật đã mở mắt tâm trí ông và dẫn đưa ông tới đây. Xin mời ông bước vào, giờ đây tất cả kho tàng quý giá trong lâu đài này sẽ thuộc về ông.
2. ”Ngày Sabat, được phép làm điều lành hay điều dữ” (Mc 3,4).
Đây là câu chuyện từ Internet: Hôm đó là một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Bộ râu của ông lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông khi ông đợi có ai đó giúp ông sang sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Ông có cảm giác tê cóng và cứng đờ cả người ra vì những cơn gió bấc lạnh giá.
Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần. Ông chăm chú nhìn những chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Người đầu tiên chạy qua mà ông đã chẳng hề gọi. Sau đó, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết. Sau đó là người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu xin người này dừng lại rồi nhẹ nhàng nói:
- Chào cậu, phiền cậu đưa lão già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.
Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp: - Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.
Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên lưng ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già qua sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.
Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:
- Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưỡi ngựa khác chạy qua mà không nhờ một ai để giúp bác qua sông. Vậy mà khi cháu đến thì bác lại nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?
Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:
- Bác đã ngồi đấy một lúc rồi. Bác nghĩ bác biết cách nhìn người, ông tiếp tục. Bác nhìn vào mắt những chàng trai kia và ngay lập tức bác thấy họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng chẳng ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng, thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.
Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.
- Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói - anh nói với ông lão - Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.
Những người biệt phái tức tối Chúa vì Chúa không trả lời với họ là các môn đệ của Chúa có tội vi phạm ngày sa bát khi bứt bông lúa ăn hay không (xMc 2, 23 – 28) mà bây giờ Chúa lại hỏi ngược lại họ để họ trả lời là ngày sa bát được làm sự lành hay sự dữ. Được cứu sống hay là giết chết (Mc 3, 4).
Câu hỏi này của Chúa đã xoáy sâu vào trái tim của họ. Nếu họ trả lời được phép làm thì sẽ bị lột tẩy sự giả hình mà bấy lâu nay được núp bóng dưới cái lớp vỏ đạo đức tốt lành của họ như đeo nhiều thẻ kinh, may dài tua áo, không được làm việc ngày sa bát (xMt 23, 5). Còn nếu họ trả lời không được phép làm thì chẳng khác nào họ tự tạo ra một lưỡi dao sắc bén cắt đứt ruột gan, làm họ đau đớn vì trong tâm của họ muốn làm mà lời nói thì phải ngược lại. Bởi vậy đứng trước lời Chúa, tâm can của những con người cố chấp sẽ bị rối loạn, bị dằng vặt, và đây là nỗi đau đớn của những người không tin Chúa. Do đó, những người biệt phái chọn giải pháp là làm thinh: “Nhưng họ làm thinh” (Mc 3, 4b).
Trước sự làm thinh do cố chấp, chai đá, ù lì của họ, Chúa rất buồn. Chúa buồn là vì Chúa đã đặt sự hy vọng ở họ rất nhiều. Chúa đã ban cho họ biết bao ơn lành (Được học hành…) mà những khác không được như vậy, nhưng họ sử dụng ơn Chúa không nên. Hơn nữa, khi Chúa chữa lành người khô bại một tay, lẽ ra họ vui mừng hoan hỷ, nhưng đàng này họ lại bỏ đi ra ngoài. Điều đó được kể như là một thái độ không có giáo dục, mất lịch sự để phản đối Chúa (Mc 3, 6), và tìm cách liên minh, cấu kết với những người thuộc phái Hêrôđê. Phái Hêrôđê là phái có quyền lực trần gian, phái có nhà tù, phái có vũ khí gươm giáo để chống lại Chúa và tìm cách hại Chúa.
Về phần Chúa, Chúa vẫn cứu người khô bại một tay vì đây là sứ mạng của Chúa. Chúa đã nhận sứ mạng này từ Chúa Cha, và Chúa đến trần gian để thực hiện vì
Chúa mong muốn mang đến hạnh phúc cho con người chúng ta: “Ngươi hãy ra đứng đây. Hãy giơ tay ra. Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành” (Mc 3, 5). Anh bị khô bại một tay rất hạnh phúc, rất vui mừng và anh hết lòng tạ ơn Chúa.
Chúa làm phép lạ, Chúa mang đến hạnh phúc cho người bệnh cũng như những người chứng kiến phép lạ này. Họ rất vui, nhưng sao phảng phất đâu đây nỗi buồn của Chúa. Có lẽ, nếu những người biệt phái hôm nay đừng cố chấp trong niềm tin thì chắc chắn niềm vui sẽ trọn vẹn vô cùng, và Chúa sẽ rất hài lòng. Dường như đó chỉ là ước mơ của Chúa mà thôi, chứ còn chính họ thì không bao giờ chịu thay đổi, để mỗi ngày sống đẹp lòng Chúa hơn.
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con và Chúa luôn sẵn sàng đáp ứng những lời cầu xin của chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn biết vui mừng khi Chúa ban ơn cho chúng con. Đồng thời chúng con cũng biết vui lên khi Chúa ban ơn cho anh chị em của chúng con, và xin cho chúng con cũng biết tạ ơn Chúa cùng với anh chị em của chúng con để Chúa tiếp tục tuôn đổ các ơn khác nữa xuống trên chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 2 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, xin Chúa rủ thương chấp nhận lời Dân Chúa khẩn cầu mà ban cho thời đại chúng ta được bình an.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với thái độ quy phục và nhìn nhận Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Mầu nhiệm cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, đó là việc Người tuyển chọn một dân nhỏ bé giữa bao nhiêu dân khác, để đặc biệt yêu thương và ban phúc lành. Ngày nay ranh giới chủng tộc của dân được tuyển chọn này không còn nữa, nhưng, bất kỳ ai tin đều có thể gia nhập dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử là do lòng ưu ái của Người. Lời mời gọi Người gửi đến từng người làm biến đổi thân phận của mỗi chúng ta. Thiên Chúa quả thật là Cha chúng ta, chính Người ban cho ta sự sống của Người. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Đối với chúng ta, Thiên Chúa đã là một Vị Cứu Tinh; vì yêu mến, chính Người đã chuộc chúng ta về.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với tinh thần liên đới làm cho mọi người được hưởng ơn cứu độ phổ quát của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Hiến Chế Tín Lý Ánh Sáng Muôn Dân nói: Do ý định khôn ngoan và nhân hậu, ý định hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã sáng tạo cả thế giới, và quyết định nâng con người lên, cho con người tham dự vào sự sống thần linh… Điều Thiên Chúa đã định từ trước, là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô hết thảy mọi loài trong trời đất. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho hết thảy mọi loài trong trời đất được hòa giải với mình.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, với lòng tin tưởng vào Đức Kitô, Vị Thượng Tế đã đền thay tội lỗi chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thư Hípri nói: Muôn thuở con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 109, vịnh gia cho thấy: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu hỏi: Ngày Sabát, được cứu mạng người hay giết đi? Đức Giêsu rao giảng, chữa bệnh, tất cả những gì Người làm chỉ nhằm một mục đích là hướng mọi người đến ơn cứu độ, nhờ chiêm ngưỡng Đức Kitô, Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo. Từ muôn đời, Chúa Cha đã tiền định cho ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Mọi người công chính từ Ađam trở đi đến người cuối cùng, tất cả sẽ được quy tụ lại bên Chúa Cha trong Hội Thánh phổ quát. Đấng Cứu Độ hằng mong muốn cho mọi người được cứu rỗi. Đức Giêsu chữa lành người bại tay, để từ đây, không còn gì cản trở, khiến chúng ta không thể đưa tay lên để chúc tụng Thiên Chúa là Cha, và để đón nhận ơn cứu độ của Người. Ơn cứu độ đã có sẵn nơi tất cả các tôn giáo, các nền văn hóa, các thể chế chính trị như bức tượng đã có sẵn trong khối đá cẩm thạch, việc của chúng ta là đục đẽo, lấy đi những gì còn cản trở, để mọi người được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, ước gì Chúa ban cho thời đại chúng ta được bình an. Ước gì được như thế!
Chúa Giêsu là ai? 23/01 – Thứ Năm tuần 2 thường niên. "Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm. Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.
Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ. Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3,6), nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn. Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5), giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu. Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8). Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế! Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân. Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm. Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông. Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài. Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56). Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ. Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu. Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì, họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi. Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể, nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới. Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần. Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành. Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo, đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu. Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài, và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo. Con người hôm nay nhận ra CHÚA GIÊSU không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”, nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách: những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta”. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)
Mọi người bệnh tật đến với Chúa để được chữa lành. Không phải chỉ dân Do thái, nhưng cả dân ngoại. Không phải chỉ miền Ga-li-lê, nhưng cả miền Giu-đê. Không phải chỉ trong nước, nhưng cả miền I-đu-mê, Tyr và Si-don. Không phải chỉ bệnh thể lý, nhưng cả những người bị tâm thần, bị quỉ ám. Dân chúng chỉ biết có sức mạnh từ nơi Người phát ra. Họ chỉ cần chạm vào áo Người lập tức được khỏi. Nhưng ma quỉ biết rõ nên kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa”.
Là Con Thiên Chúa nhưng mặc xác phàm ở giữa loài người, Chúa Giê-su trở thành người trung gian tuyệt hảo. Muôn dân phải qua Người đến với Chúa Cha.
Hình ảnh thái tử Gio-na-than phần nào diễn tả vai trò trung gian này. Gio-na-than thân phận là thái tử nhưng rất yêu thương Đa-vít. Coi Đa-vít không chỉ như bạn thân thiết mà còn như chính bản thân mình. Đến nỗi bảo vệ bênh vực Đa-vít dù Đa-vít có thể chiếm mất ngai vàng của Gio-na-than. Vì là con vua Sau-un nên Gio-na-than dùng tình yêu và địa vị can thiệp với vua cha cho Đa-vít. Nhiều lần cứu Đa-vít thoát chết (năm chẵn).
Thư Do thái cho thấy vai trò trung gian của Chúa Giê-su là tuyệt hảo. Vì Người yêu thương nhân loại. Trở nên một con người ở giữa loài người, Người trở nên đại diện cho toàn dân. Của lễ của Người toàn hảo vì Người thánh thiện vô song. Hơn nữa Người dâng chính bản thân mình. Địa vị của Người toàn hảo vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Ở bên hữu Chúa Cha nên lời chuyển cầu của Người thần thế được Chúa Cha nhận lời. Là Con Thiên Chúa nhưng cũng là Con Loài Người, Chúa Giê-su là trung gian duy nhất. Là giải pháp duy nhất cho thế giới (năm lẻ).
Thế giới hôm nay quá nhiều bế tắc, nhiều vấn đề, nhiều chia rẽ, nhiều đau khổ. Vấn đề lớn lao nhất là ma quỉ đang thao túng, đang tàn phá, thống trị con người và thế giới. Sự dữ khắp nơi. Khủng bố. Phá thai. Tham nhũng. Hối lộ. Nhưng sự dữ lớn lao nhất là con người đánh mất lương tâm và lương tri. Coi sự dữ là sự lành.
Ta không thể giải quyết vấn đề. Hãy noi gương người thời xưa chạy đến với Chúa Giê-su. Người là trung gian duy nhất. Người là cứu cánh duy nhất. Người là giải pháp duy nhất cho con người và cho thế giới. Chỉ cần chạm vào gấu áo Người ta sẽ được khỏi.
Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài mà được sống lâu".
Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử: - Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người CHÚA GIÊSU. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với CHÚA GIÊSU, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà CHÚA GIÊSUđã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về CHÚA GIÊSU, và đây là lý do tại sao CHÚA GIÊSUtỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết CHÚA GIÊSUlà ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về CHÚA GIÊSU: ma quỷ biết CHÚA GIÊSU, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người CHÚA GIÊSU; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với CHÚA GIÊSU, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà CHÚA GIÊSUđang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc. 3, 10-11)
Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng CHÚA GIÊSUmuốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: “Họ đổ xô đến để sờ vào Người”. Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.
Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?
Hoảng hốt và vội vã
Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.
Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.
Điều khiến CHÚA GIÊSUlo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.
Cõi lòng ngổn ngang
Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là “những nhu cầu của đời sống hiện đại”! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc “săn tìm” mới lạ khác.
Nếu CHÚA GIÊSU không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.
Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.
Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.
Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.
Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.
Sứ điệp: Dân chúng lũ lượt đến với Chúa để được Chúa cứu chữa khỏi những đau khổ bệnh tật. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ai tin vào Chúa và đến với Chúa sẽ được sống sung mãn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa thật bao la, Chúa cùng các môn đệ muốn lánh đi một chút trước con mắt ngờ vực và âm mưu của nhóm Biệt phái và phe Hêrôđê. Nhưng Chúa không thể cầm lòng được trước cảnh tượng người ta lũ lượt đến với Chúa. Trong đó có rất nhiều bệnh nhân, nhiều kẻ bị quỷ ám. Chúa đã thương chữa lành tất cả.
Lạy Chúa, Chúa nhìn thấy nhân loại ngày xưa và nhân loại hôm nay vẫn là một nhân loại gánh chịu nhiều khổ đau. Chúng con nhìn lên Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Con cảm tạ Chúa vì không một Danh hiệu nào dưới gầm trời này đã được ban cho chúng con để phải nhờ vào đó mà được cứu độ. Chỉ một mình Chúa mà thôi. Nhìn vào thế giới hôm nay, con thấy cũng có những người như luật sĩ và biệt phái lập thành bè nhóm để rình rập, bắt bẻ và chống đối Chúa. Nhưng trong khi đó, đông đảo tầng lớp dân chúng đau khổ thì đổ xô đến với Chúa, khao khát, lắng nghe Tin Mừng của Chúa, kêu cầu Chúa ban ơn cứu độ.
Lạy Chúa, xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Những người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng Chúa biết chúng con cần đến Chúa. Con xin đặt vào bàn tay Chúa tất cả những yếu đuối, khổ đau và bệnh tật của con, của gia đình con và của toàn nhân loại. Mọi âu lo con xin trao phó cho Chúa. Con biết Chúa vui khi con chân thành và khiêm tốn kêu cầu Chúa. Và con muốn Tin Mừng Chúa lan rộng hơn nữa, để người người mọi nơi đến với Chúa và được ơn cứu độ. Amen.
Ghi nhớ: ”Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa”, nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người”.
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ làm công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động khi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của CHÚA GIÊSU. Câu CHÚA GIÊSUcầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại: “Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết ngạc nhiên tột độ. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh (Theo Lẽ Sống, Radio Véritas).
Suy niệm
Đức Kitô giảng dạy uy quyền, Lời Ngài vẫn luôn mang sức mạnh. Dân chúng kinh ngạc lời giảng dạy với giáo lý mới mẻ của Ngài, vì Lời Ngài giảng dạy có uy quyền. Sự uy quyền của Ngài chỉ một lời khiến thần ô uế đã phải vâng lệnh, ra khỏi người mà hắn quấy phá.
Thần ô uế (x. Mc 1,23) cũng như quỷ (x. Mc 1,32; 3,11a.15.22) luôn tượng trưng quyền lực sự dữ, luôn đối địch với Thiên Chúa và là sự chẳng lành với sức khỏe thể xác và tâm linh cho con người. Ðức Giêsu dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân bị ám. Lập tức, nó liền lay mạnh người ấy, rồi thét lên một tiếng rùng rợn trước khi xuất khỏi người ấy (x. Mc 1,26). Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khiến ma quỷ, tà thần phải khuất phục Ngài. Lời đó đã làm cho niềm tin của dân chúng đặt vào Ngài - Đấng giảng dạy đầy uy quyền. Đấng Uy quyền đó là Đấng mà sách Đệ Nhị Luật 18,15-20 đã nói về lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân, đó là tất cả niềm hy vọng của họ: Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Thật thế, Người chính là Ðức Giêsu Kitô đã khiến cho người ta phải kinh ngạc.
Qua mọi thời, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện đầy uy quyền, sức mạnh giáo huấn qua lời của Ngài vẫn mang quyền năng, văn sĩ Origene khẳng định rằng: “Nếu sách Thánh là sự thật, Thiên Chúa đã không chỉ nói trong Đại hội của người Do Thái, Ngài còn đang nói trong các Đại hội của chúng ta, trong các cuộc họp mặt của ngày hôm nay. Ngài giảng dạy không chỉ cho chúng ta và cho tất cả những người khác và trên toàn thế giới, những người tìm kiếm tất cả mọi phương tiện để lắng nghe lời của Ngài”.
Ngày hôm nay chúng ta vẫn còn những thần ô uế và sự dữ đang hoành hành trong thế giới, đó là chiến tranh, bệnh hoạn, bất công hiện diện khắp mọi nơi… Vẫn còn thần ô uế trong chính bản thân của mỗi người chúng ta: Đó là những tư tưởng xấu, những sự hận thù, những mưu toan chà đạp anh em, những tính toán gây hại đến người khác… Chúng ta cần chạy đến với Đấng có đầy uy quyền là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta đến bên Ngài không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, cũng như đã mở lòng đón nhận Lời quyền uy như Thánh Vịnh 130,5 dạy:
1. Chúa Giêsu và các môn đệ đi ra bờ biển. Dân chúng từ khắp nơi theo Chúa rất đông, nên Người phải xuống thuyền giảng dạy để khỏi bị chen lấn. Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên hết thảy những kẻ đau yếu đều tuốn đến với Người. Còn ma quỉ mỗi khi thấy Người thì sụp lạy và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.. Nhưng Người cấm không cho chúng tiết lộ điều đó để tránh sự dòm ngó của nhà cầm quyền, nhất là vì quần chúng còn hiểu lầm về sứ mạng của Người.
2. Thánh Marcô cho biết danh tiếng Người đã đồn đi khắp nơi nên người ta từ mọi miền, các Thành Do thái cũng như các thành ngoại giáo, không biết là bao nhiêu người.
Nhưng có một điều muốn đặt ra ở đây là “động cơ nào” đã khiến người ta đến với Chúa đông như thế vì người ta chưa thực sự biết Chúa: ma quỉ biết Chúa Giêsu, nhưng chỉ biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với mục đích kiếm lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ biết một cách hời hợt; những người biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người của Chúa; chỉ có nhóm Mười Hai về sau này mới biết chính xác về Người.
Như vậy có nhiều động cơ nhưng theo như cách Chúa hành xử trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ đa số người ta đến với Chúa vì động cơ vụ lợi và vật chất. Chính vì thế, nên khi ma quỉ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một “nguồn lợi vật chất”, thì chính Chúa Giêsu đã phải tìm cách lánh xa và ngăn cấm.
3. Phải công nhận rằng, trong cuộc sống, việc con người đến với Chúa thường bị chi phối bởi rất nhiều động lực có tính cách trần thế. Tại sao vậy? Thưa, vì bản tính con người chúng ta vốn ích kỷ. Lòng ích kỷ đã biến chúng ta thành những người chỉ biết nghĩ đến mình mà không cần biết đến những người khác. Tệ hơn nữa, là nhiều khi chúng ta còn coi Thiên Chúa là một nguồn lợi – các giám mục hai giáo phận Lyon và Saint Étienne bảo: nhiều khi các tín hữu còn biến Thiên Chúa thành một cái kho – để cho chúng ta đến mà khai thác và thủ lợi, hơn là đến để tỏ lòng tôn kính và biết ơn.
Truyện: Jesus only.
Câu chuyện sau đây do mục sư H.A. Ironside kể trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh: Một nhóm Kitô hữu đang họp trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền nhà, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ ”Jesus only” (chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi). Một cơn gió mạnh thổi qua làm mất 3 mẫu tự đầu. Hàng chữ trở thành “Us only” (chỉ vì chúng ta mà thôi).
Mục sư kết luận: đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu diễn tả đúng ý hưởng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai (Sunday School Times).
4. ”Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai”(Mc 3,18).
Tại sao Chúa lại cấm ma quỉ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa? Thưa, không phải tà thần tuyên truyền dùm Ngài, thực ra chúng muốn phá hại hoạt động của Ngài, vì khi làm như thế, chúng khiến dân chúng chỉ để ý tới khía cạnh quyền phép của Ngài và do đó sẽ không chấp nhận khi Ngài cho biết Ngài là Đấng Messia dùng Thập giá để cứu loài người. Bởi đó việc Ngài “cấm ngặt chúng không được tiết lộ Ngài là ai cũng là một biện pháp ngăn chận quan niệm sai lạc ấy (Lm Carôlô).
5. Các Tông đồ theo Chúa một thời gian, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm mà vẫn chưa hiểu rõ Ngài khi Ngài hỏi: “Phần các con, các con bảo Thấy là ai”(Mc 8,29)? Các ông cũng chỉ trả lời theo dư luận của quần chúng, trừ ông Phêrô được Thiên Chúa mạc khải cho: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời Ngài chờ đợi các môn đệ và mọi người chắc không phải là một công thức, một lời tuyên xưng trên môi miệng, nhưng là tất cả cuộc sống. Sự hiểu biết Chúa Giêsu chờ đợi nơi mọi người chúng ta không phải là một hiểu biết thuần trí thức, mà phải là một tương giao mật thiết.
6. Truyện: Bệ hạ là tất cả của thần.
Ferdowsi (925-1020) thi sĩ người Ba tư, kể câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là cả triều đình. Họ mang theo vô số vàng bạc của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Người ta thấy được tức khắc sự tham muốn bừng lên trong mắt những người theo hộ giá nhà vua. Bằng một cử chỉ vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:
- Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác quay về.
Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.
Đang đi ông bỗng nghe thấy có tiếng chân theo sau mình. Ông quay lại và nhận ra đó là người hầu cận được tiếng là trung thành nhất của ông. Ông âu yếm nhìn anh và nói:
- Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng, với số vàng bạc ấy ngươi sẽ trở nên giầu sang không?
Người hầu cận trung thành trả lời:
- Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.
Vâng, Giêsu cũng là Đấng quí giá nhất cho mỗi người chúng ta. Chúa phải là tất cả cho mỗi người chúng ta.
Trong đoạn này Mc ghi tóm lược hoạt động chữa bệnh và trừ tà của Chúa Giêsu:
- Chữa bệnh: do biết Chúa Giêsu có khả năng chữa bệnh, người ta từ khắp nơi đi theo Chúa Giêsu rất đông, đến nĩ Ngài phải bảo các môn đệ tìm cho Người một chiếc thuyền nhỏ cho Ngài lên đó"để khỏi bị đám đông xô lấn". Biện pháp này nhằm làm dịu đi phần nào một niềm tin tưởng có phần vụ lợi và một quam niệm có phần sai lạc về Đấng Messia
- Trừ tà: những tà thần khi bị Ngài trục xuất đã tuyên bố lớn tiếng: "Ông là con Thiên Chúa" không phải tà thần tuyên truyền dùm Ngài thực ra chúng muốn phá hủy hoạt động của Ngài vì khi làm như thế chúng khiến dân chúng để ý đến khía cạnh quyền phép của Ngài và do đó sẽ không chấp nhận khi Ngài cho biết Ngài là một Đấng Messia dùng Thập giá để cứu loài người. Bởi đó việc Ngài cấm ngặt chúng không được tiết lộ Ngài là ai "cũng là một biện pháp ngăn chặn quan niệm sai lạc ấy"
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Khi người ta chạy theo Chúa vì những động cơ vụ lợi và khi ma quỷ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một nguồn lợi vật chất thì chính Chúa Giêsu phải có biện pháp lánh xa và ngăn cấm.
2. Kinh nghiệm dạy cho tôi biết rằng khi ta thực sự đến với Chúa, Ngài không bao giờ để ta ra về với bàn tay trắng cả chỉ trừ khi ta đến với Ngài mà lòng đầy những tính toán vụ lợi (Phophecy Monthly)
3. Câu truyện sau đây do Mục sư H.A. Ironside kể trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh:
Một nhóm Kitô hữu đang họp trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền nhà, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ "Jesus only" (Chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi).
Một cơn gió mạnh làm bay mất 3 mẫu tự đầu, hàng chữ trở thành "us only" (chỉ vì chúng ta mà tôi)
Mục sư kết luận: "Đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu tiên diễn tả đúng ý hướng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai. (Sunday school Times).
Cầu nguyện: Xin cho chúng con nhận ra được tình thương và ân sủng đích thực của Chúa.
1. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho thấy ảnh hưởng của Chúa Giêsu lúc bấy giờ rất lớn: Từ miền Giuđê, từ Jêrusalem, từ xứ Iđumê, từ vùng bên kia sông Giođan và vùng phụ cận hai thành Tia và Siđôn, người ta lũ lượt đến với Người.
Người ta đến từ mọi miền, các thành Do Thái cũng như các thành ngoại giáo, không biết bao nhiêu ngàn người mà kể.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra ở đây là động cơ nào đã khiến người ta đến với Chúa đông như thế. Có nhiều động cơ nhưng theo như cách Chúa hành xử trong bài Tin Mừng hôm nay thì có lẽ đa số người ta đến với Chúa vì động cơ vụ lợi và vật chất. Chính vì thế nên khi ma quỷ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một nguồn lợi vật chất, thì chính Chúa Giêsu đã phải tìm cách lánh xa và ngăn cấm.
Kinh nghiệm dạy cho chúng ta biết rằng, khi chúng ta đến với Chúa mà lòng còn đầy dẫy những toan tính vụ lợi thì chắc là Chúa sẽ không vui, nhưng khi chúng ta thực tâm đến với Chúa với lòng tin tưởng và yêu mến thì chẳng bao giờ Chúa để cho chúng ta phải ra về với hai bàn tay trắng (Phophecy Monthly). Thế nhưng, thử hỏi có được mấy khi chúng ta đến với Chúa chỉ vì lòng tin tưởng và yêu mến Ngài như thế.
Trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh, Mục sư H.A. Ironside kể lại một câu chuyện có thật như thế này: Có một nhóm Kitô hữu tụ họp lại trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền ngôi nhà đó, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ ”Jesus only” (Chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi).
Nhưng rồi một cơn gió mạnh thổi đến làm bay mất 3 mẫu tự đầu. Hàng chữ “Jesus only” chỉ còn lại ”us only” (Chỉ vì chúng ta mà tôi)
Mục sư kết luận: “Đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu tiên diễn tả đúng ý hướng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai”. (Sunday school Times).
Phải nhận rằng, trong cuộc sống, việc con người đến với Chúa thường bị chi phối bởi rất nhiều động lực có tính cách trần thế. Tại sao như vậy? Thưa, vì bản tính con người chúng ta vốn ích kỷ. Lòng ích kỷ đã biến chúng ta thành những con người chỉ biết nghĩ đến mình mà không cần biết đến những người khác. Tệ hơn nữa là nhiều khi chúng ta còn coi Thiên Chúa thành một nguồn lợi - các đức giám mục hai Giáo phận Lyon và Saint Étienne bảo: nhiều khi các tín hữu còn biến Thiên Chúa thành một cái kho - để cho chúng ta đến mà khai thác và thủ lợi hơn là đến để tỏ lòng tôn kính và biết ơn.
2. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được hiểu Chúa rõ hơn để từ đó chúng ta biết đến với Chúa và sẵn sàng theo Chúa bằng tất cả tấm lòng thành của chúng ta.
Ferdowsi (925–1020) thi sĩ người Ba tư sống vào thế kỷ 11, kể câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là cả triều đình. Họ mang theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Người ta thấy được tức khắc sự tham muốn bừng lên trong mắt những người theo hộ giá nhà vua. Bằng một cử chỉ vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:
- Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác quay về.
Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.
Đang đi ông bỗng nghe có tiếng chân theo sau mình. Ông quay lại và nhận ra đó người hầu cận được tiếng là trung thành nhất của ông. Ông âu yếm nhìn anh và hỏi:
- Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng, với số vàng bạc ấy ngươi sẽ trở nên giàu sang không?
Người hầu cận trung thành trả lời:
- Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.
Vâng! Giêsu cũng phải là Đấng quí giá nhất cho mỗi người chúng ta. Chúa phải là tất cả cho mỗi người chúng ta.
Hiểu được như thế, chúng ta sẽ đến với Chúa bằng những động lực khác. Sẽ không còn những tính toán ích kỷ và những lý do hoàn toàn trần thế, nhưng sẽ là với lòng tin kính, mến yêu và tha thiết gắn bó với Chúa để rồi sau đó chúng ta sẽ thấy: Cuộc đời tất cả là hồng ân Chúa ban và chúng ta sẽ dùng những hồng ân đó để cảm tạ và làm vinh danh Chúa.
Lạy Chúa, khi đến với Chúa,
chúng con thường mang mặt nạ
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Xin Chúa giúp chúng con
biết nhìn vào cuộc sống của Chúa
để xây dựng cuộc đời của chúng con
để mỗi ngày được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Amen.
Bởi tội lỗi mà con người chúng ta mất đoàn kết và bị phân tán. Từ xưa tới nay chưa một ai có khả năng để nối kết con người chúng ta lại với nhau. Chỉ có mỗi một mình Chúa có khả năng làm điều này.
Chúa đến trần gian, Chúa đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ chữa lành các chứng bệnh khác nhau, cuối cùng Chúa chịu chết trên thập giá và sống lại rồi lên trời để cứu con người chúng ta khỏi chết đời đời. Chúa không những cứu từng người riêng lẽ mà Chúa cứu cả tập thể, cả một cộng đoàn nhân loại chúng ta. Bởi vậy, chỉ có Chúa mới có khả năng qui tụ nhân loại chúng ta về bên Chúa mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc Chúa đang ở bờ biển cùng với các môn đệ của Chúa, dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Chúa. Họ đi từ Galilêa, Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon. Trong đó, những người từ Giuđêa, Giêrusalem đến thì đa phần là có đạo. Những ai từ Galilêa đến thì một số có đạo, một số không có đạo. Còn những anh chị em khác từ Iđumê, bên kia sông Giođan, Tyrô, Siđon hầu hết là không có đạo. Xung quanh Chúa một đoàn người quá đông đảo, vô số kể, họ gồm những người có đạo và không có đạo.
Đoàn người quá đông đảo thỉ việc nghe và tiếp nhận Lời Chúa rao giảng sẽ bị hạn chế. Có khi Lời Chúa chẳng đến được người nghe nếu đáng đông này xô bồ,ồn ào, náo động. Còn Chúa, Chúa mong muốn Lời Chúa rao giảng phải đến được từng người, nên Chúa và các môn đệ của Chúa khôn ngoan vô cùng. Các ngài lo cho Chúa một chiếc thuyền, Chúa xuống ngồi trên đó và các ngài chèo thuyền ra khỏi bờ một chút để Chúa rao giảng và mọi người đã được đón nhận và hiểu để sống Lời Chúa dạy.
Chúa nuôi dưỡng đám đông bằng lời Chúa. Chúa khơi lên niềm hy vọng cho dân Chúa trong đời sống đạo. Chúa mở lối cho người không có đạo một lối đi đến với Chúa. Đồng thời , Chúa chữa lành bệnh tật của người có đạo cũng như không có đạo, Chúa yêu thương và ban ơn cho tất cả mọi người.
Ma quỷ quấy phá Chúa, làm ồn ào đám đông, mất trận tự bằng cách: “Và những thầu ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa cấm chúng không dược tiết lộ gì về Người” (Mc 3, 12). Khi ồn ào mất trật tự của một đám đông như vậy, con người chúng ta sẽ không nghe được Chúa rao giảng gì cả. Do đó, Chúa không cho nó làm ồn ào. Chúa muốn mọi người cùng trật tự, im lặng để nghe Lời Chúa, để Lời Chúa đi vào cuộc đời của họ và giúp họ sống tốt hơn.
Lạy Chúa, chúng con tin vào Chúa thì chúng con sẽ không phải sợ hãi cuộc đời này là thung lũng nước mắt, là đau khổ, là chết chóc, là chia ly, là phân tán. Xin Chúa thương phù trợ chúng con bằng việc mỗi lần chúng con đến với Chúa trong thánh lễ và các giờ kinh nguyện, chúng con sẽ được bình an và thoát khỏi mọi sự ồn áo náo động và cảnh sầu thương trên đường đời mà trung thành với Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 2 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, xin Chúa rủ thương chấp nhận lời Dân Chúa khẩn cầu mà ban cho thời đại chúng ta được bình an.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, được hưởng tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Lời khẩn cầu của ông Môsê: Trong quá khứ, Dân Thiên Chúa không có gì đáng, để Người cho hưởng lòng ưu ái của Người. Tệ hơn nữa, lòng ưu ái đó thường chỉ được đáp lại bằng thái độ hoài nghi và tội lỗi. Đó cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Ông Môsê đến trước nhan Đức Chúa là Thiên Chúa của ông và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với Dân Ngài? Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ; xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Ápraham, Ixaác và Giacóp. Ngài đã thề với các vị ấy rằng sẽ ban cho các vị miền đất đầy sữa và mật.” Đức Chúa đã thương, không giáng phạt Dân Chúa như Người đã ngăm đe. Đức Chúa phán với ông Môsê: “Ngươi đã được nghĩa với Ta và Ta biết đích danh ngươi.”
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, được chuyển cầu nhờ Đấng Trung Gian, Vị Thương Tế cao cả của chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Phungienxiô nói: Đức Kitô là Đấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta… Ta hãy mạnh dạn tiến lại gần Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần. Bởi có một Vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.
Xin cho thời đại chúng ta được bình an, được thông dự vào hy tế của Đức Kitô, để trở nên của lễ đẹp lòng Chúa Cha, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thư Hípri nói: Đức Giêsu đã dâng chính mình làm lễ tế hy sinh và chỉ dâng một lần là đủ. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 39, vịnh gia đã kêu xin: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài. Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: “Này con xin đến!”
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Trong bài Tin Mừng, các thần ô uế kêu lên: Ông là Con Thiên Chúa, nhưng, Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người. Đức Giêsu đã dứt khoát với mọi thỏa hiệp của Satan, cho dẫu, nó có nói đúng về căn tính của Chúa, Người cũng cấm ngặt chúng không được tiết lộ, bởi lẽ, chiêu trò của nó chẳng có lợi gì cho chương trình cứu độ của Người. Đức Giêsu đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng là chính bản thân Người mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Căn tính của Người là Thiên Chúa, nhưng Người đã trút bỏ vinh quang, trở nên Vị Thượng Tế của chúng ta. Nhờ Người, chúng ta dùng lời ngợi khen và cầu nguyện làm lễ tế dâng lên Chúa Cha, vì nhờ Người chịu chết mà chúng ta được giao hòa với Chúa Cha. Nhờ Người đã đoái thương trở thành hy lễ cho chúng ta, vì thế, hy lễ của chúng ta mới được thỏa lòng Chúa Cha. Nếu Đức Kitô đã không trở thành của lễ cho chúng ta, thì chúng ta cũng chẳng có thể dâng của lễ lên Chúa Cha. Ước gì chúng ta luôn thông dự vào hy tế của Đức Kitô, hy lễ vâng phục, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Ước gì chúng ta hằng luôn tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Vị Thương Tế luôn biết cảm thông và thương đến những nỗi khốn cùng của chúng ta. Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, ước gì Chúa ban cho thời đại chúng ta được bình an. Ước gì được như thế!
Chúa gọi Nhóm Mười Hai. 24/01 – Thứ Sáu tuần 2 thường niên. – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. "Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người". * Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Thông thường ở xã hội Do Thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.
Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò. Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình. Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại. Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi. Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy, còn đáp lại là điều con người cần thực hiện. Thầy Giêsu muốn lập một nhóm mười hai môn đệ. Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa. Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi. Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng. Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy. Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại. Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy. Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu, họ như được tách ra khỏi đám đông. Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội, Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22). Ở với nằm trong định nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu. Nhưng đó không phải là điểm dừng. Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người. Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông, trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu. Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy: rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người. Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy. Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai. Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với. Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi. Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa và rơi vào tình trạng nghiện việc. Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền. Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi. Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng. Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa. Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Thiên Chúa kiên trì trong chương trình yêu thương của Người. Nên luôn có những sáng kiến mới. Mở ra những chân trời mới.
Khi giao ước cũ không đem đến hiệu quả như mong muốn, Thiên Chúa quyết định lập ra Giao Ước Mới: “Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giáo Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa”. “Giao Ước Mới tốt đẹp hơn. Căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn”.
Có Thượng Tế cao trọng hơn. Chúa Giê-su là trung gian Giao Ước Mới. Vô cùng cao trọng hơn trung gian giao ước cũ. Chúa Giê-su là trung gian tuyệt vời. Vì Người vừa là Thiên Chúa, vừa đứng đầu nhân loại. “Vị Thượng Tế của chúng ta được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn”. Người dâng hiến chính thân mình. Giao Ước Mới được ký kết bằng chính máu Người đổ ra. Nên có giá trị vô biên.
Có con người mới tốt đẹp hơn. Vì Lề Luật không còn ghi vào bia đá. Nhưng ghi vào trong tâm hồn: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta”. Cũng như khi Sa-un hư hỏng, Chúa đã chọn Đa-vít, tôi trung của Chúa. Đa-vít kính sợ Chúa. Dù Sa-un ghen ghét đuổi bắt ông vô cớ. Nhưng khi có thể giết Sa-un, Đa-vít vẫn không dám xúc phạm đến Sa-un là người đã được Chúa xức dầu. Ông để cho Chúa phân xử: “Điều ác từ kẻ ác mà ra, nên tay con sẽ không đụng đến cha” (năm chẵn).
Có nền tảng mới là 12 tông đồ thay cho 12 chi tộc cũ. Các tông đồ được Chúa đích thân tuyển chọn. Được sống với Chúa để thấm nhiễm luật mới. Rồi mới được sai đi để làm chứng về Chúa. Xua trừ ma quỉ. Thiết lập triều đại mới của Thiên Chúa: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”.
Xin Chúa đổi mới con. Để con xứng đáng là dân mới. Được hưởng những lời hứa từ Giao Ước Mới. Xin cho con trở nên con người mới. Giống như các tông đồ. Được ở với Chúa. Để thấm nhập luật mới của Chúa.
Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con".
Rồi Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc. 3, 13-14)
Để hiểu sâu bài Phúc âm hôm nay, một lần nữa chúng ta còn tìm ra được vài chi tiết khác thánh Maccô muốn làm nổi lên hình ảnh con người Đức Giêsu.
Vì thế, để gây ý thức về tiếng gọi mà mười hai Tông đồ đã nhận được, cũng như về ơn gọi của các ông, thánh Maccô ghi lại rằng: “Người gọi những kẻ Người muốn và Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.”
Những kẻ Người muốn
Có lẽ ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng Chúa Giêsu đã có những sự lựa chọn. Phải chăng Người không đến” kêu gọi những người tội lỗi”? Như thế, theo nguyên tắc, mọi người trong cái nhân loại ốm đau này có lẽ phải được làm tông đồ mới phải!
Người ta giải thích sự Chúa tuyển chọn như sau: lời mời gọi của Chúa diễn ra ỏ hai mức độ, và mỗi người chúng ta đều được gọi hai lần. Tiên vàn là kêu gọi đón nhận đức tin, sám hối, gia nhập Nước Tròi, hưởng ơn cứu độ. Sứ mệnh của Đức Kitô có mục đích tối hậu là làm vang lên tiếng mời gọi của Chúa Cha “Anh em hãy đến!”
Nhưng cũng có tiếng mời gọi khác gởi đến từng người giúp họ xác định vị trí hoạt động, chọn lựa phần đóng góp của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: “những người này Chúa đã cho làm tông đồ, những người kia làm tiên tri; người được ơn chữa bệnh, người khác lại được ơn diễn giải”. Chúa Giêsu muốn cho tất cả chúng ta, mỗi người giữ một vị trí nhất định.
“Để các ông ở với Người và đi rao giảng”
Nếu chúng ta muốn hiểu biết chức vụ linh mục, hiểu biết linh mục là gì, phải trở lại hai chức năng được Chúa Giêsu gán cho Nhóm Mười Hai là “ở với Người và được sai đi rao giảng”.
Nhờ bí tích truyền chúc, linh mục được đặt để ở với Chúa Giêsu. Người ta thường đòi hỏi linh mục sống hòa mình với mọi người, ngang tầm với họ, phục vụ họ. Đòi hỏi linh mục cùng tầm vóc với Chúa Giêsu, ở với Người, thiết tưởng lại không phải là điều tốt hơn và chính đáng hơn sao? Linh mục bỏ ra một chút thời giờ trong ngày để chuyện trò với Chúa Giêsu không phải là điều tốt đẹp sao? Hãy chuyện trò với Chúa đã, rồi mới đi ra ngoài! Rồi mới giảng giải và hội họp!.
Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài “rất cốt tu”, nhưng kỳ thực anh ta không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phác, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.
Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.
Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quy vào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.
Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có phẩm mà không có lượng?
Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu mời gọi mọi người tiếp nối sứ mạng cứu thế mà ngày xưa Ngài khởi đầu và xây dựng trên nền tảng Mười Hai Tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, còn hạnh phúc nào hơn khi con được Chúa yêu thương kêu gọi theo Chúa và ở với Chúa. Làm sao một thân phận thấp hèn, nhỏ bé và yếu đuối như con lại được Chúa đón nhận để sống với Chúa trong tinh thần thầy trò, tình anh em, và mật thiết hơn nữa là tình bạn hữu. Chúa lại muốn con cộng tác làm việc với Chúa như các tông đồ ngày xưa để làm chứng cho tình yêu của Chúa. Để trở nên một người môn đệ, người em, người bạn của Chúa, xin Chúa giúp con kiên trì tập luyện để trở nên con người mới, bởi Chúa đang hy vọng qua cuộc sống của con, sứ điệp tình yêu sẽ được triển nở nơi anh em mà con thường xuyên gặp gỡ.
Con biết rằng tự sức mình, con không thể làm được. Vậy xin Chúa ban cho con sức mạnh của Chúa, để con luôn can đảm, hy sinh, quảng đại, sẵn sàng đón nhận và thực thi ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây của cuộc sống. Xin Chúa loại trừ trong con tính ích kỷ, những cách cư xử thiếu bác ái, thiếu kính trọng và yêu thương, khiến cho tha nhân không nhận ra được khuôn mặt tình yêu của Chúa, và vì thế mà làm cản trở sứ mạng cứu thế của Chúa.
Dù đã bao lần lầm lỗi, xin Chúa thương tha thứ cho con, đừng để con phản bội Chúa. Xin dẫn dắt con từng bước để con xứng đáng là cộng tác viên trong sứ mạng đã được trao ban. Amen.
Ghi nhớ: ”Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người”.
Một gia đình sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm người trong nhà sơ ý làm rớt cây đèn dầu, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đành đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi mái ấm của họ. Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra trong lúc cậu bé chạy với mọi người, nhưng chưa ra tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi nên chạy trở lại lên lầu.
Lửa phừng phừng cao ngút tứ phía, đang lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé chỉ mới 5 tuổi này, thì bỗng cửa sổ trên lầu mở toang và cậu bé ló ra, nhìn xuống kêu khóc inh ỏi. Từ dưới sân, cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói: “Con nhảy xuống đây?”. Cậu bé chỉ thấy bên dưới toàn khói mù và lửa, nhưng nghe rõ tiếng cha kêu mình, liền trả lời: “Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!”. Người cha trả lời giọng cương quyết: “Con cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi?”. Nghe lời cha, cậu bé leo lên thành cửa sổ, liều mình nhảy xuống. Mọi người la lên kinh hãi vì lo sợ cho mạng sống của cậu, nhưng cậu đã rơi đúng vào vòng tay yêu thương của cha mình một cách an toàn... Sau này nhiều năm, người quen trong khu phố ai gặp cậu bé cũng tò mò hỏi: “Sao hôm ấy cháu liều thế, lỡ rơi không trúng vòng tay của ba cháu thì sao?”. Cậu hồn nhiên trả lời: “Cháu cũng không biết nữa, khi ấy cháu nghe tiếng kêu của ba cháu, tự nhiên cháu không sợ nữa, cháu tin ba cháu không bao giờ để cho cháu té chết đâu!”.
Trong cuộc đời có những tiếng gọi, tiếng gọi huyền nhiệm thúc bách để ta bước đi, bước đi… đi trong chốn tối tăm mịt mù…
Suy niệm
Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ với tên tuổi rõ ràng như các Tin Mừng ghi nhận (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13 -19; 6,7-13; Lc 6,12 -16; 9,1-6), nhóm Mười Hai được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 28,19).
Tin Mừng ghi lại tiêu biểu vài việc Chúa gọi và chọn vài nhân vật: Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, ông Giacôbê và người em là ông Gioan, Người bảo: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những ngư phủ lưới người ta…”. (Mt 4,19), lập tức, các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ gia đình lại mà theo Người (x. Mt 4, 18-22). “Các anh hãy theo Tôi”, một lời mời gọi đến gặp, gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), người môn đệ có tình yêu cứu độ, lên đường đem Tin Mừng ánh sáng cứu độ cho mọi tâm hồn… Chính nhờ lời rao giảng, gương sáng cuộc sống của người môn đệ, thế gian nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa như Đức Kitô đã nói với những người Ngài tuyển chọn: “Các con là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mc 9,50; Lc 14,34-35).
Mọi người được mời gọi đích danh trở nên môn đệ, và trong ơn gọi làm môn đệ như Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).
Thật thế, Chúa đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh tên mỗi người “hãy theo Tôi”. Theo Ngài để khám phá tình yêu, trở nên môn đệ và được sai đi…
Ý lực sống: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ” (Is 49,1).
1. Trong việc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không muốn làm việc một mình mà muốn cho con người cộng tác vào công việc quan trọng này. Vì thế, Người đã tuyển chọn Nhóm Mười Hai để Ngài huấn luyện và trao cho họ tiếp tục sứ mệnh của Người. Nhóm Mười Hai này sẽ là cột trụ, là nền tảng Giáo hội mà Người sẽ thiết lập sau này; vì thế, Đức Giêsu phải để các ông luôn ở với Người, gần kề Người. Người tin tưởng họ và trao cho họ sứ mệnh cao cả này.
2. Điều cơ bản nhất mà chúng ta phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo hội, đó là Giáo hội là một mầu nhiệm, do đó, chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm của Giáo hội ấy.
Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông đồ mới có quyền trừ quỉ, mới có quyền cử hành các bí tích, và chỉ nhữg ai mà các ông trao quyền cho mới được cử hành các bí tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông đồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo hội; Ngài hứa ở với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông đồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo hội (Mỗi ngày một tin vui).
3. Trong việc lựa chọn này, Chúa chọn họ là những người bình thường, không giầu có, không danh tiếng. Họ cũng chẳng là người có thế lực trong xã hội. Họ không là những học giả mà chỉ là những người bình dân, đơn sơ. Chọn làm Tông đồ là Chúa Giêsu đã muốn làm thay đổi cả thế giới. Công việc của Chúa Giêsu không đặt trong tay những người mà thế giới cho là những vĩ nhân, nhưng ở trong tay những người bình thường như các Tông đồ.
4. Chúa gọi và chọn họ không tự cho mình được chọn hoặc ứng cử, nghĩa là Chúa ở vị thế cao hơn. Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ được tách ra khỏi đám đông và đến; điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải ở tách riêng ra, nghĩa là có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn...
Trong Giáo hội, việc được chọn làm công việc này, chức vụ nọ là do Chúa chọn qua sự tuyển lựa của Giáo hội, chứ không phải cha truyền con nối hay mình ứng cử. Vì thế, luôn phải đặt ý Chúa lên trên hết và dù hợp với chúng ta hay không thì cũng phải biết thuận theo ý Chúa.
5. Theo truyền thống, các bậc thầy bên phương Đông cũng như phương Tây, thường họ có một số môn đệ, được coi như các cán bộ nồng cốt để tuyên truyền cho học thuyết hay giáo thuyết của mình như Socrate, Platon, Aristote bên phương Tây; như Lão Tử, Khổng Tử, Đức Phật Thích Ca bên phương Đông... Tại sao Chúa Giêsu không chọn cho mình nhiều hơn hay ít hơn? Có lẽ Ngài muốn chọn con số 12 tượng trưng cho 12 chi tộc Israel?
Trong số 12 Tông đồ, chúng ta thấy:
Gioan và Giacôbê, những người trẻ nóng tính, Matthêu, một người thu thuế cho đế quốc, Simon, một thành viên của nhóm cuống tín, Phêrô, anh dân chài thất học.
Những con người quá đỗi bình thường ấy có thể làm được gì lớn lao cho Chúa và cho đời?
Chúa Giêsu chọn họ để họ ở với Người và Người ở với họ, để từ một nhóm người bé nhỏ, tội lỗi, tình yêu của Thiên Chúa được rao giảng, con người tìm được hạnh phúc thật.
Chúa ơi, cho con ở với Chúa thật sâu, để con có sức mạnh mà thành người hữu ích cho đời (Epphata).
6. Truyện: Chúa tuyển chọn 12 Tông đồ.
Một tác giả tưởng tượng việc Chúa Giêsu chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài, Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng chẳng được ai.
Chán nản vì mất thì giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bở biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài.
Chúa Giêsu lập nhóm 12. Có vài chi tiết đáng để ý:
- Việc này xảy ra trên núi. Theo truyền thống Thánh Kinh thì "Núi" là:
+ nơi linh thiêng, nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người (1V 19,18: Thiên Chúa gặp Êlia),
+ nơi lập Giao ước (Xuất hành 19.3), nơi mạc khải...
Vậy Chúa Giêsu lập nhóm 12 trên núi vì việc này có tính cách quan trọng và thánh thiêng.
- Ngài "gọi đến với Ngài những kẻ Ngài muốn": Ơn gọi xuất phát từ sáng kiến và ơn ban của Thiên Chúa chứ không phải do công đức của con người.
-12 người này được chọn "để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi". Đây là 2 nét quan trọng trong căn tính của người tông đồ.
- Trong số những người được chọn có cả một người sẽ phản nộp Ngài.
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Chúa không đích thân đi rao giảng Tin mừng mặc dù cách này hữu hiệu hơn, nhưng lại chọn một số người làm việc ấy. Lý do:
a/ Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài;
b/ Chúa chia sẻ cho con vinh dự Chúa Cha trao cho Ngài...
2. Nhưng để không phụ lòng tin tưởng của Chúa, những người được chọn để được sai đi ấy trước hết phải "ở với" Ngài. Kẻ được sai phải ở với Đấng sai phái để thấm nhuần tinh thần của Ngài và có như thế họ mới là sứ giả đích thực của Ngài av làm việc đứng như ý Ngài muốn.
3. Thế chiến thứ II kết thúc, một binh sĩ Hoa kỳ vẫn ở lại một số miền được giải phóng ở Đức. Họ giúp dân chúng thu dọn và sửa chữa những ngôi nhà đổ nát. Công tác quan trọng là xây dựng lại những nhà thờ bị hư hại vì bom đạn...
Sau khi thu dọn, sửa chữa, sắp đặt, các binh sĩ khựng lại trước một bức tượng của Chúa Giêsu bị đổ nát trên bàn thờ. Bức tượng này xem ra đã được tân trang chỉ trừ đôi tay là biến mất và cho dù cố gắng đến mấy cũng không thể nhặt được những mảnh vụn của đôi tay. Bất lực đứng nhìn bức tượng không tay của Chúa Giêsu các binh sĩ Hoa Kỳ đành phải lấy sơn viết vào tấm bảng và đặt dưới chân Ngài với hàng chữ "Ta không có đôi tay nào khác hơn là đôi tay của các bạn" (Trích mỗi ngày một tin vui)
4. "Chúa Giêsu lập nhóm 12 để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng" (Mc 3,14)
Chúa Giêsu chọn nhóm 12 người:
Gioan và Giacôbê, những người trẻ nóng tính
Matthêu một người thu thuế cho đế quốc
Simon, một thành viên của nhóm cuồng tín
Phêrô, anh dân chài thất học...
Những con người quá đỗi bình thường ấy có thể làm được gì lớn lao cho Chúa và cho đời?
Chúa Giêsu chọn họ để họ ở với Người và Người ở với họ, để từ một nhóm nhỏ bé đó, tình yêu của Thiên Chúa được rao giảng, con người tìm được hạnh phúc thật.
5. Mầm khác:
Công trình của bàn tay Chúa
Thánh Irênê thành Lyon, một vị giám mục sống vào thế kỷ thứ hai, đã đưa ra những lời khuyên sau đây về mối quan hệ của chúng ta với Đấng tạo thành.
Bạn là công trình của Thiên Chúa
Hãy sẵn sàng để cho bàn tay Ngài
Làm mọi việc đúng thời đúng buổi.
Hãy dâng Ngài tarí tim bạn
Trái tim mềm dẻo
Để mặc Ngài uốn nắn.
Hãy là cục đất sét đẫm nước
Và đừng bao giờ hóa thành khô chai -
Để dấu tay Ngài có thểin lên - thật rõ.
Cầu nguyện: Chúa ơi, cho con ở với Chúa thật sâu, để con có sức mạnh mà thành người hữu ích cho đời. (Epphata)
1. Chúa không muốn một mình đích thân đi rao giảng Tin mừng mãi mãi, mặc dù cách này hữu hiệu hơn, nhưng Ngài đã chọn một số người để làm việc ấy.
Thế chiến thứ II kết thúc nhưng Hoa Kỳ còn để lại một số binh sĩ tại một số miền được giải phóng ở Đức. Họ giúp dân chúng thu dọn và sửa chữa những ngôi nhà đổ nát, nhất là những nhà thờ bị hư hại vì bom đạn... Tại một ngôi nhà thờ bị đổ nát kia, sau khi thu dọn, sửa chữa, sắp đặt, các binh sĩ đã phải khựng lại trước một bức tượng Đức Kitô bị bể nát trên bàn thờ. Họ cố gắng hết sức để tân trang lại bức tượng. Với tất cả cố gắng họ đã tân trang lại gần như cũ chỉ trừ đôi tay của Chúa. Lý do là vì họ có cố gắng mấy cũng không làm sao thu nhặt được những mảnh vụn bể nát từ đôi tay ấy. Bất lực đứng nhìn pho tượng của Đức Kitô không có đôi cánh tay, các binh sĩ Hoa Kỳ đành phải lấy sơn viết vào tấm bảng và đặt dưới chân Ngài hàng chữ: “Ta không có đôi tay nào khác hơn là đôi tay của các ngươi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
Vâng! Rõ ràng là qua Tin Mừng chúng ta thấy Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài. Sách Giáo Lý mới đã giải thích việc làm đó của Chúa như sau: “Để cho tiếng gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Đức Kitô đã sai phái các tông đồ do Người tuyển chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng: ”Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
Cám ơn Chúa đã cho con người được tham dự vào công việc mà Chúa Cha đã trao ban cho Người
2. Nhưng, để cho công việc tham dự vào sứ mạng của Chúa có kết quả tốt đẹp, những người được Chúa tuyển chọn phải làm gì? Thưa trước tiên là phải “ở với” Ngài. Việc ở với Chúa là một việc rất quan trọng.
Chúng ta vẫn thường nói: Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.
Hai môn đệ của Gioan mới ở với Chúa có một buổi chiều và một đêm, hôm sau khi gặp lại những người quen họ đã tuyên bố: ”Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Messia” (Ga 1,41).
Sử sách ghi lại rằng: Dù có phải mải mê rao giảng Tin Mừng cho lương dân như thế nào đi nữa, nhưng mỗi khi đêm về, thánh Phanxicô Xaviê luôn giữ thói quen quỳ gối trước chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện. Có lần vì quá mệt, Ngài đã ngủ gục trước bàn thờ. Nhiều lần Ngài đã phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa thân xác con đây cũng muốn được ở gần Ngài”.
Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn Độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn giáo này từ chối, anh ta nói:
- Thưa ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời:
-Tôi chỉ muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
-Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.
Ở với ai thì sẽ thấm nhuần nếp sống của người đó. Kẻ được sai phải “ở với” Đấng sai phái mình để thấm nhuần tinh thần của Ngài, và có như thế họ mới có thể trở thành những sứ giả đích thực và làm việc đúng như ý Chúa muốn.
Các tông đồ đã đóng xong vai trò của mình. Thế còn mỗi người chúng ta thì sao? Thưa mỗi người cũng phải là một tông đồ cho Chúa.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, Làm chân tay cho người què cụt, Làm lỗ tai cho người bị điếc, Làm miệng lưỡi cho người không nói được, Làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đồng lúa, Để đưa cơm cho người đói đang chờ, Đem thuốc thang cho người đang đau ốm, Đem áo quần cho người đang trần trụi, Đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gửi con vào thôn xóm, Đem an hòa cho những ai bất thuận, Đem yên bình cho kẻ sống âu lo, Đem ủi an cho người đang sầu khổ, Đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả, Cho mọi người được hạnh phúc an vui. Còn phần con, xin gửi hết nơi Ngài, Là Thiên Chúa, là tình yêu, là lẽ sống Ngài cho con tất cả niềm hy vọng, Để tin yêu mà vui sống trọn đời. (Một linh mục dòng Tên)
Thời bây giờ quá đông. Đó là chúng ta chỉ nói trong nước Do Thái mà thôi chứ chưa nói đến những nước khác trên thế giới. Như vậy, cánh đồng truyền giáo của Chúa trên trần gian này thật bao la, bát ngát. Một mình Chúa, Chúa vẫn chu toàn được trách nhiệm Chúa Cha trao phó khi Chúa xuống thế làm người là Chúa sẽ làm cho muôn dân nhận biết Chúa, tôn thờ Chúa, sống theo lời dạy bảo của Chúa, trở thành con cái của Chúa. Nhưng Chúa không làm một mình, mà Chúa lại cho con người chúng ta cộng tác với Chúa để chúng ta được ơn, được phần thưởng.Vì thế, khởi đầu công việc trong đại này như trong bài Tin Mừng hôm nay mà thánh sử Máccô đã nói tới là Chúa chọn mười hai tông đồ: “Khi ấy Chúa lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người” (Mc 3, 13).
Chúa cho con người chúng ta cộng tác vào công cuộc rao giảng Tin Mừng là vì Chúa yêu thương con người chúng ta. Chúa tạo cho con người chúng ta có cơ hội lập công chuộc tội. Tuy Chúa biết con người chúng ta tội lỗi, vô tài, bất dụng, hạn chế về mọi phương diện trong cuộc sống. Thế mà Chúa vẫn chọn gọi chúng ta.
Cụ thể là mười hai vị tông đồ mà thánh sử Máccô nêu tên sau đây đều không có tài cán gì. Thánh Phêrô, thánh Anrê, thánh Giacôbê, thánh Gioan làm nghề chài lưới, không học thức, nóng nảy (Mc 1, 14 – 20). Thánh Mátthêô làm nghề thu thuế tội lỗi (Mc 2, 13 – 17). Thánh Tađêô và thánh Simon thì nhiệt thành, quá khích, có máu dân tộc. Ông Giuđa thì lừa bạn, phản thầy….. Trong mười hai tông đồ để sau này thành lập Giáo Hội của Chúa mà chúng ta thấy chẳng có vị nào nổt bật, đáng chúng ta chú ý, quan tâm. Thế nhưng đối với Chúa, Chúa không cần con người chúng ta có khả năng hay tài cán gì cả. Điều Chúa cần con người chúng ta phải có, đó là lòng yêu mến Chúa và say mê các linh hồn, để rồi sau đó Chúa mới hướng dẫn, dạy dỗ cùng ban ơn để con người chúng ta thực hiện sứ mạng cao cả đây: “Và sai các ngài đi rao giảng, và ban cho các ngài quyền trừ quỷ” (Mc 3, 14b).
Con người chúng ta được Chúa yêu thương chọn gọi như thế, đó là niềm vui, hạnh phúc của con người chúng ta. Vì thế, con người chúng ta phải biết ơn Chúa mà cố gắng hết bản thân mình để chu toàn. Các thánh tông đồ, sau khi Chúa về trời rồi, các ngài đã đi khắp mọi ngươi rao giảng Tin Mừng, mở mang Nước Chúa. Dù các ngài có đối diện với bao gian nan, thử thách, hiểm nguy, bắt bớ, tra tấn, đánh đập, giết chết…nhưng các ngài không nản chí, không sợ sệt mà vẫn một mực trung thành với Chúa, không phản bội Chúa, không làm cho Chúa buồn, thất vọng về các ngài.
Giáo Hội của Chúa, hôm qua, hôm nay, và mãi mãi về sau, Chúa vẫn điều khiển Giáo Hội qua việc Chúa luôn chọn con người nhân loại chúng con cộng tác với Chúa để xây dựng Giáo Hội của Chúa. Đứng đầu là Đức Giáo Hoàng, rồi đến các Đức Giám mục, các Linh mục, các Tu sĩ nam nữ, các tín hữu để chung tay góp sức loan báo Tin Mừng mở mang Nước Chúa, mặc dù tất cả chúng ta chẳng xứng đáng. Vì thế chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội của Chúa thật nhiều hơn nữa.
Lạy Chúa, khi chúng con lãnh nhận bí tích Thánh tẩy là Chúa ban cho chúng con sứ mạng làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin Chúa ban ơn giúp chúng con nổ lực sống lời Chúa dạy, sửa đổi cuộc sống chúng con tốt hơn để làm gương sáng cho người khác noi theo, đó là cách thức chúng con mở mang Nước Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Phanxicô đờ Xan hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã cho thánh Phanxicô đờ Xan Giám Mục biết trở nên tất cả để hòa mình với mọi người, hầu muôn dân được ơn cứu độ. Xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại, mà hết lòng phục vụ anh chị em, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa. Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm Linh Mục, người tận tụy với công việc canh tân Hội Thánh Công Giáo tại quê hương. Được chọn làm Giám Mục Giơnevơ, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho Giáo Sĩ và Giáo Dân. Người là vị sáng lập dòng Các Nữ Tu Thăm Viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho Giáo Dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyông ngày 28 tháng 12 năm 1622.
Hòa mình với mọi người, sống giới răn yêu thương cách trọn hảo, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Đối với một người Ítraen, từ thời rất xa xưa, phép cắt bì là dấu cho thấy một người được nhận vào đoàn dân Thiên Chúa. Vì con tim tiêu biểu cho đời sống nội tâm, nên, khi mời gọi cắt bì con tim, sách Đệ Nhị Luật mở ra một con đường mới dẫn đến cái tâm của đạo. Sống đạo không phải là làm một số nghi thức, nhưng trên hết mọi sự, là có được một tinh thần mới. Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu. Hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo.
Hòa mình với mọi người, trong khi thực hiện các công việc đạo đức khác nhau, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Inhaxiô Antiôkhia nói: Đời sống đạo đức phải được thể hiện theo nhiều lối khác nhau… Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Hòa mình với mọi người, trở nên trung gian hòa giải, thực thi sứ mạng hòa giải của Đức Kitô, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thư Hípri nói: Đức Giêsu là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 84, vịnh gia cho thấy: Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ. Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật: Đức Giêsu gọi những kẻ Người muốn, để các ông ở với Người. Trong Đức Kitô, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa, vì thế, những ai thuộc về Đức Giêsu, là môn đệ của Đức Giêsu, thì cũng mang trong mình sứ mạng hòa giải. Ong hút mật từ hoa mà không gây hại cho hoa, các công việc phục vụ khác nhau, không những, không làm tổn hại đến tình bác ái, mà trái lại, còn tô điểm và làm cho thêm xinh đẹp, khi chúng ta sống tinh thần hòa giải của người môn đệ Đức Giêsu. Thánh Phanxicô đờ Xan Giám Mục biết trở nên tất cả để hòa mình với mọi người, hầu muôn dân được ơn cứu độ. Ước gì chúng ta cũng biết hết lòng phục vụ anh chị em mình, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa. Ước gì được như thế!
Tông Đồ Phaolô Trở Lại. 25/01 – Thứ Bảy tuần 2 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính. Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một. Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu. Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới. Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói. Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên. “Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người. Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13). Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới. Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con. Amen. (Chân phước Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Sứ điệp: Mỗi người môn đệ đều được Chúa Giêsu Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhưng trước hết phải hoán cải theo gương thánh Phaolô tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường làm con ngạc nhiên ngỡ ngàng. Mỗi trang Tin Mừng đều đưa con đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ta đánh mất sự ngạc nhiên khi quen coi thường những điều nghiêm chỉnh. Thực sự con cảm thấy ngỡ ngàng và thật bất ngờ khi con được Chúa sai đi làm sứ giả Tin Mừng cho Chúa. Lạy Chúa, thật thế sao? Con là một kẻ tội lỗi, tầm thường, một kẻ tài trí kém cỏi, một kẻ nhiều tính xấu, nhiều khuyết điểm, lại được Chúa nhờ cậy và giao trọng trách sao? Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng?
Con hỏi Chúa, nhưng câu trả lời đã có. Con biết không phải Chúa lầm, nhưng Chúa thương con và tín nhiệm con. Đối với Chúa, không ai là quá xấu đến độ phải loại bỏ. Chúa muốn mọi người làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa, bởi vì dù chúng con có tội lỗi yếu hèn đến đâu, ân sủng và tình yêu của Chúa vẫn mạnh hơn tội lỗi và yếu hèn của chúng con. Không ai ngờ thánh Phaolô, kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở nên vị tông đồ thừa sai số một của Hội Thánh. Không ai ngờ thánh Phêrô, kẻ chối Chúa, lại là thủ lãnh tiên khởi của Hội Thánh. Lạy Chúa, chính ơn Chúa đã làm cho các ngài hoán cải và hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Phần con, con cũng không ngờ, con chỉ biết cảm tạ tình thương Chúa dành cho con. Xin Chúa giúp con dám lãnh trách nhiệm. Xin giúp con không ngừng hoán cải mỗi ngày để con có thể theo Chúa sát hơn và hiến thân nhiều hơn. Con đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian”.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại, chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người luôn được sống trong tình yêu mến Chúa và luôn trung thành với ơn gọi của mình trọn cả cuộc đời như Thánh Phaolô thuở xưa.
Bây giờ xin cho tôi được chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.
I. Phaolô! Ngài là ai vậy?
Thật rất khó mà có được một bài trình bày đầy đủ và vắn tắt về con người đặc biệt này. Vì ở nơi con ngưởi này có quá nhiều vấn đề và quá nhiều điều phải nói. Ở đây tôi chỉ xin được nói về một ít đểm nổi bật trong cuộc đời của Ông
Tin Mừng không có một chữ nào nói về ông.
1. Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Nhưng trong sách Tông Đồ công Vụ thì hình ảnh Ông nổi bật nhất. Với sách TĐCV thì hình ảnh của ông sáng chói như một vì sao, một vì sao cực sáng.
+ Ông là một con người có học thức. Ông đã từng học Kinh Thánh với Gíáo sư Gamaliel, một vị giáo sư về Kinh Thánh nổi tiếng thời đó.
+ Ông hiểu biết rất nhiều về thần thoại và hệ thống triết học rất thịnh hành thời đó.
+ Ông say mê với niềm tin tôn giáo. Ông tôn thờ Giavê Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Người.
+ Ông sống niềm tin đó một cách quyết liệt và hầu như không thể khoan nhượng đối với những ai dám xúc phạm đến niềm tin đó.
+ Chắc chắn ông đã từng nghe nói về Chúa Giêsu,
Đối với Ông, thì Giêsu Nagiareth là Con Người có thật
Con người ấy đã sinh ra tại Belem và lớn lên ở Nagiareth: Điều ấy ai cũng biết.
Con người ấy đã giảng dạy, đã lôi cuốn được đám đông. đã chữa lành được bệnh tật, đã phục sinh được cả người chết. Tóm lại đã làm được rất nhiều việc mà những người khác không làm được
Đó là một con người có kiến thức và hiểu sâu biết rộng, Một Con người biết rất rõ về Mosê và các tiên tri, Một Con người có uy quyền khi giảng dạy, Một Con người có những cái nhìn độc đáo và cách trình bày rất sáng sủa về những vấn đề khó khăn nhất, và đặc biệt nhất là một con người có một đời sống đạo đức và một lòng thương người không ai có thể sánh được
Đối với Ông, Đức Giêsu là một con người rất đặc biệt nhưng dù gì đi nữa thì cũng chỉ là một Con người không hơn không kém. Chính vì thế mà khi thấy Ngài có những hành động và công việc vượt quá giới hạn của một con người thì Ông không thể chịu nổi.
Là một người biệt phái như Ông, Ông không thể nào chấp nhận được một Ông Giêsu dám vi phạm ngày hưu lễ, dám xúc phạm đến tập tục của tiền nhân, dám làm loạn xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, dám tự cho mình có quyền tha tội, dám thoải mái tiếp xúc với người người mà luật pháp đã cấm kỵ, dám đồng bàn với những người luật pháp đã loại trừ, nhất là dám xúc phạm đến đền thờ của Thiên Chúa, và táo bạo hơn dám xưng mình là Con Thiên Chúa
Với tâm hồn của một người sùng đạo, Ông cảm thấy phải làm cho ra lẽ, không thể nào khoan nhượng trước những hành động ngang ngược như vậy và ông đã tự hứa phải ra tay để để tiêu diệt thứ "tà đạo" này để trả lại sự tinh tuyền cho Đạo, trả lại trật tự cho đời sống đạo đức, và trả lại địa vị độc tôn cho Thiên Chúa
Ông sẽ hành động để làm vinh danh Thiên Chúa Israel, Thiên Chúa chính danh và hằng sống, Thiên Chúa duy nhất và hay ghen
Ông nhất quyết đi đến bất cứ nơi nào có người tin vào Ông Giêsu. Ông sẽ đưa họ ra trước công nghị để họ đối đáp với ông, để xem họ sai lầm đến mức độ như thế nào và nếu cần thì giết họ đi, giết vài trăm người để cho Đạo Israel đứng vững thì đó cũng là điều đáng làm.
2. Ông đã nghĩ và ông quyết làm
Bài sách thánh thứ I vừa mới thuật lại cho chúng ta nghe cuộc hành trình đưa ông đến Damas.
Ông hăng say vượt qua con đường dài đến 250 Cây số để mong lôi được nhóm tà đạo này về Giêrusalem để trị tội. Ông tưởng ông sẽ thành công.
Thế nhưng có nhưng có ngờ đâu, chính lúc ông đang hăm hở, hăng say với những tính toán đầy chết chóc như vậy thì Chúa chặn đường Ông: một luồng sáng chụp lấy ông làm cho ông phải té ngã từ trên lưng ngựa xuống. Ông không còn thấy gì nữa.
Rồi ông nghe thấy có tiếng gọi ông: "Saolô! Saolô...Sao ngươi bắt bớ Ta?
Ông hỏi lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?
Có tiếng đáp lại: "Ta là Giêsu ngươi đang tìm bắt. Song hãy chỗi dậy và vào thành, người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì. " (CVTD 9,5-8)
Ông không thể nào hiểu nổi. Chẳng ai mà hiểu nổi cách hành động của Chúa. Chính Thầy cả Khanania khi được lệnh của Chúa cũng phải sửng sốt.
Rồi sau khi được Khanania làm phép rửa, ông bắt đầu sự nghiệp cuộc đời mới của mình tại chính nơi mà ông định đến đó để bắt giữ. Ông đã làm chứng tại Damas những ông chỉ tạo được sự ngạc nhiên và chưng hửng của những người đến nghe. Ông đã tích cực những chưa giúp đỡ được ai. Không ai nghe ông, không ai chấp nhận được đức tin của ông. Công trình của Thiên Chúa qua ông vẫn còn rất nhiều trở ngại.
Chúa đã cho ông gặp những khó khăn như thế để ông thấy được giới hạn của mình, thấy được sự bất lực của mình, thấy được sự yếu đuối của mình. Chính vì thế mà ông đã bỏ Damas để sang bên Ả Rập sống trong thanh vắng để tĩnh tâm, để học hỏi và để cầu nguyện.
Ba năm trời ông nghiền ngẫm Kinh Thánh. Với sự soi sáng hướng đẫn đặc biệt và trực tiếp của Chúa Thánh Thần, Ông cảm thấy mình đã đủ lông đủ cánh, Ông cảm thấy ông không còn phải là ông nữa mà Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt tâm hồn ông: "Tôi sống những không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống ở trong tôi".
Thế là ông cất bước lên đường, bất chấp mọi hiểm nguy, gian truân, tù đầy, săn đuổi, hành hạ, ném đá, đánh đập, cầm tù, xiềng xích, chửi bới, lăng nhục, chết chóc....Ông chấp nhận tất cả miễn là Chúa được vinh danh.
Nơi nào cần biết đến Tin Mừng là ông có mặt: Antiokia, Cyprô, Lystra, Derbê, Troy, Phillip, Thessalonica. Athena, Côrinthô, Ephêsô, Giêrusalem và cả Roma.Và bất kể người ai, bất kể ng nào: ngoại giáo, nô lệ, tự do, hễ ai muốn được nghe Tin Mừng là ông sẵn sàng giảng cho họ.
Vấn đề ông đặt ra thật rõ ràng:
Tin Đức Kitô hay chối bỏ Đức Kitô. Đức Kitô là đường hay là một trở ngại. Không ai nghe Phaolô xong mà lại dửng dưng, hoặc là nhiệt thành ở về phe của ông hoặc là la ó chống lại ông
Đối với ông không có "nếu", không có "và", không có "nhưng" chỉ có "hoặc"...."hoặc"
II. Bài học
1. Uy quyền của Chúa
- Chúa muốn làm gì, làm.
+ Xét về phương diện loài người thì Phaolô quả là không xứng đáng. Một kẻ thù của Chúa lại trở thành tông đồ của Ngài. Thật là phi lý.
Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sãn sàng chết cho Người.
Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như vậy, Những Chúa đã thực hiện những điều đó ngay trước mặt mọi người. Dù muốn hay không muốn, dù tin hay không tin đó vẫn là sự thật Chúa đã làm
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện."
Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.
- Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn:
a/ Họ phải loan Tin Mừng cho những người khác biết nữa;
b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
- Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
B. (...nẩy mầm)
1. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: "Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ".
2. "Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy": nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì "cách nghe". Họ chẳng những "nghe" mà còn "đón nhận" và "sinh hoa kết quả" cho nên "đã có thì lại được cho thêm"; còn tôi, có lẽ tôi chỉ "nghe" suông, cho nên "ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi".
3. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)
4. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
Đứng trước lời rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, có hai hạng người với hai thái độ trái ngược nhau, đó là giới lãnh đạo Do thái và những người tội lỗi và dân chúng. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con để làm nổi bật sự tương phản giữa lời nói và việc làm: nói có mà không làm; nói không nhưng lại làm. Giữa sự đối nghịch này, hành động được đánh giá là quan trọng, vì hành động là dấu hiệu của một tâm hồn trong sáng, biểu hiện qua những hành động ngay thẳng. Vì thế, Đức Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: “Không phải những người nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, là được vào Nước trời, nhưng chỉ những kẻ thi hành ý Cha trên trời”.
Cần tìm hiểu hình bóng của dụ ngôn này:
- Người con thứ nhất thưa “không đi”, nhưng sau hối hận và đã đi làm: ám chỉ những người tội lỗi, thu thuế, đĩ điếm và chư dân. Những người này thoạt mới nghe giảng, họ ngại ngùng không theo; nhưng sau họ đã nghe Gioan Tẩy giả và lời giảng của Đức Giêsu nên đã sám hối ăn năn.
- Người con thứ hai là đứa con “thưa vâng” rồi không đi làm: ám chỉ những nhà lãnh đạo Do thái và tất cả những ai vâng lệnh bằng lời nói mà không thực hành. Những người này vẫn tự xưng là giới đạo đức và lên mặt mô phạm với đời. Nhưng họ từ chối ơn Thiên Chúa, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, mặc dầu trước khi Người đến, họ vẫn khát vọng Người.
- Áp dụng vào trường hợp ông Saolô là người con thứ nhất: đã không đi lại còn chống đối và âm mưu ám hại, nhưng đã hối hận và trở lại để trở thành Tông đồ Phaolô nhiệt thành.
Kết luận dụ ngôn Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Đức Giêsu đã nói thẳng với các người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ. Còn thánh Phaolô thì không ngờ được Chúa đón nhận.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào với tư cách là một Kitô hữu, một chứng nhân của Chúa? Chúng ta sẽ cố gắng:
- Đừng nghĩ rằng mình thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
- Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình sẽ chứng minh.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.
A. Một chút về lịch sử
Trong khi thánh Phêrô được xác định là ”đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là ”thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).
Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. BƯỚC QUA BÀI SÁCH TĐCV.
Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.
Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).
- Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài
- Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính... Anh sẽ làm chứng nhân... về các điều anh đã thấy và đã nghe”).
C. BƯỚC QUA BÀI TIN MỪNG.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
- Chúa sai các ông đi loan Tin Mừng: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
- Sai đi với một lời hứa: Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Chúa Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa:
a/ Nghĩa bóng: Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ;
b/ Nghĩa đen: các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
D. BÀI HỌC
1. Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc...
Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.
Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình (Sunday School Times).
2. Sự việc Ngài trở lại cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ thật nhiều.
Thế nào là trở lại? Trở lại là đang đi trên một con đường, rồi biết rằng đường đó là sai lạc, nên dứt khoát quay lại. Nếu chỉ biết mà không quay lại thì không phải là trở lại. Thánh Phaolô đã quay lại một cách dứt khoát đúng 180độ, và quay rất nhanh.
Bà Reside là nhà truyền giáo đầu tiên cho những người da đỏ bộ lạc Kiowa ở Oklahoma. Bà được họ thương mến đặt tên là Aim-day-co, nghĩa là “Hãy quay lại”. Khi giải thích lý do chọn cái tên đó để đặt cho bà, vị tù trưởng nói: “Khi những người bộ lạc Kiowa chúng tôi thấy ai đang đi lạc hướng thì chúng tôi nói với họ “Aim-day-co”. Họ nghe và quay lại đúng hướng. Bà này từ một nơi xa xôi đến với chúng tôi. Bà thấy chúng tôi đang đi lạc và bà đã chỉ cho chúng tôi con đường đúng, đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Xin Ngài chúc lành cho bà Aim-day-co” (Moody Monthly).
Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta lỡ lạc đường.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c.3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ(c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
Nói đến thánh Phaolô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ý Trời, hay ý muốn của Chúa Giêsu, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giêsu, tất cả đều thay đổi.
Chúa Kitô Phục Sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phaolô. Không biết Đức Giêsu tại thế, Phaolô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phaolô được Chúa Giêsu chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu ( Pl 3, 12 ). Và Phaolô trở nên như một “người tình” của Chúa Giêsu, đến nỗi Phaolô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phaolô viết: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phaolô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Kitô là “chủ thể yêu thương Phaolô”, Tình yêu Chúa Kitô là “đối tượng mà Phaolô yêu mến”. Tâm trí của Phaolô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Kitô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người, Phaolô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin mừng Tình yêu” mà người rao giảng.
Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phaolô là nói đến vị Tông đồ của mọi thời đại
Phaolô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do thái, Hy lạp với người Hy lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người ( 1 Cr 9, 19 – 21 ), Phaolô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn quốc với người Hàn quốc.
Không những là “con người của Tình yêu”, Phaolô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phaolô, chân lý là “Tin mừng Chúa Giêsu Kitô” ”Chân Lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 54 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu. Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng, ngày quan trọng này với chủ đề: ”Lời khẩn cầu của Chúa Giêsu”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giêsu được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng: “ anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Suy niệm ngày lễ Thánh Phaolô Tông Đồ trở lại, Đức Cố Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống hỏi và trả lời khi viết: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ?. Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
– Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi “tại sao?” đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là Phaolô đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
– Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi“.
– Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
– Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
– Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: “Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi“.
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì “Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô…” ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: “vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” (Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng:”anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài“. Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai… (2 Tim 1, 8-12). Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy “chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2, 20).
Những cú “ngã ngựa” trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo…. Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố “ngã ngựa” đổi đời của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú “ngã ngựa”. Có những cú “ngã ngựa” trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú “ngã ngựa” trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe…
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn “ngã ngựa” chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo chiều gió thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn “ngã ngựa” như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam – Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Tội hồng phúc” là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú “ngã ngựa” của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu “ngã ngựa” là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Khi nhắc đến Thánh Tông Đồ Phaolô, thường có gắn thêm “2 cái đuôi”: Hoặc là Thánh Phaolô – TÔNG ĐỒ DÂN NGOẠI, hoặc Thánh Phaolô “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI”. Riêng cái biệt danh “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI” cũng hay được thay thế bằng một “biệt danh khác”: “TÔNG ĐỒ NGÃ NGỰA”.
Và ngày lễ hôm nay, 25.01, ngày kết thúc “Tuần Lễ cầu nguyện cho hiệp nhất Kitô hữu”, Phụng Vụ Giáo Hội cử hành cái tước hiệu và cũng là một “biến cố đặc biệt” mang tầm mức “bước ngoặc quan trọng” nầy: THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI.
Trước hết, sự “Trở lại” mà Phụng Vụ gắn cho Thánh Phaolô trong ngày lễ hôm nay, hoàn toàn không phải là một cố gắng cá nhân, một “tiến trình hoán cải nội tâm” của riêng ngài; mà nhất thiết, đó chính là một “sự can thiệp đặc biệt”, một “tiếng sét ái tình” đến từ Thiên Chúa, được sách Tông Đồ công vụ tường thuật rõ trong Bài đọc 1 hôm nay:
"Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm. Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát…” (Cv 22,1-21).
Sở dĩ nhấn mạnh yếu tố “sự can thiệp đặc biệt”, hay “tiếng sét ái tình” nơi cuộc “trở lại” của Phaolô, vì quả thật, trước biến cố “ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô hoàn toàn không phải là một “chàng thanh niên hoang đàng, bỏ nhà cha để đi hoang, ăn chơi trác táng…; sau đó hồi tâm đứng dậy “trở về”; cũng không phải một cô “Maria Mađalêna vùi thân trong cuộc sống xác thịt, dục vọng, nghe lời dạy của Thầy Giêsu, đã bị cắn rứt lương tâm, lần mò tự mình đến phủ phục khóc lóc dưới chân Thầy”!
Không, Phaolô là một thanh niên chuẩn mực, đạo đức, nghiêm túc với lề luật cha ông; nói chung một mẫu người công chính, thánh thiện của Do Thái giáo, như ngài làm chứng qua trích đoạn thư gởi giáo đoàn Philip:
“tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-siêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi.” (Pl 3,5-6).
Nói cách khác, yếu tố trọng tâm làm nên cuộc “trở lại” đầy “kịch tính” của thánh Phaolô chính là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ…”, một cuộc gặp gỡ quyết định, xoay chuyển 180 độ con người và cuộc đời, xác tín và hành động: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người…” (Pl 3,7-12).
Và Phaolô đã “giơ tay đầu hàng”, đã hoàn toàn bị chinh phục trước tiếng gọi huyền diệu, trước ý định cao siêu, trước “Con Người vĩ đại” mà bấy lâu nay Phaolô cương quyết loại trừ, đạp đổ, phủ nhận: “bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt” (Pl 3,12); một sự “chiếm đoạt toàn diện, sâu xa” đến độ như ngài chia sẻ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi “ (Gl 2,20).
Quả thật từ cuộc “trở lại” hi hữu nầy, Phaolô đã bắt đầu một con đường mới tinh, một hướng tương lai nhằm thẳng phía trước: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3,13), phía của công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, phía của một tông đồ mang Tin Mừng cho muôn dân, phía của một nhà truyền giáo vĩ đại, một kiến trúc sư của Kitô giáo ngay từ thuở ban đầu: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài.” (Ep 3,7-10).
Nói cách khác, tiếng sét ái tình trên đường Đamát đã khiến “trái tim của Phaolô mở ra cho một tình yêu mới, trọn vẹn, sâu sắc, thuỷ chung: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,35-39).
Và phải chăng, cuộc “đầu hàng trên đường Đamát đó vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay!
- Bởi chưng trong chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô”” mù quáng, kiêu căng, tự hào về một quá khứ đạo đức, chỉn chu lề luật. Chúng ta cần gặp Đức Kitô để “trở lại thường xuyên với Ngài”.
- Bởi chưng, trong chúng ta vẫn còn đầy những Saolô, nhiệt thành quá mức, hăng hái quá độ theo cái tôi của mình để thường xuyên “bách hại”, kết án, làm khổ anh chị em: chúng ta cần gặp gỡ Đức Kitô để trở nên khiêm nhường, hiền hậu và luôn khoan dung, tha thứ, đón nhận anh chị em mình.
- Bởi chưng cộng đoàn chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô” nhân danh ý kiến cá nhân, não trạng đạo đức Pharisêu, nhân danh kiến thức giáo lý uyên bác, đúng đắn… để lên án anh chị em, để phá đổ tình hiệp nhất trong Giáo Hội, để làm theo ý riêng hơn là tuân phục ý Chúa…
Trong lịch sử của Hội Thánh đã có bao nhiêu “Saolô” như thế, nên đã xảy ra bao cuộc phân ly đau đớn, mà suốt tuần lễ vừa qua cả Giáo Hội nỗ lực nguyện cầu cho công cuộc hiệp nhất Kitô hữu.
Chúng ta đừng quên, Giáo Hội chọn chính ngày hôm nay, 25/01, lễ Thánh Phaolô trở lại, để kết thúc Tuần Cầu nguyện hiệp nhất. Chắc chắn Hội Thánh nơi “cuộc đầu hàng của Saolô trên đường Đamát đã mang theo một “hệ luỵ hiệp nhất” tối ưu: Từ đây, sẽ không còn Do Thái hay Hy Lạp, Nô lệ hay tự do, dân ngoại hay dân có đạo… mà tất cả đều “nên một trong Đức Kitô”.
Quả thật, cuộc trở lại của Phaolô đã biến Kitô giáo trở thành “ngôi nhà chung của thế giới”, biến Tin Mừng vượt qua mọi biên giới quốc gia, dân tộc, nền văn hoá… để trở thành ngôn ngữ chung của tình yêu và chân lý.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau và cho cả Giáo Hội sống đậm đà mầu nhiệm “Trở lại” của Thánh Phaolô, sẵn sàng “đầu hàng trước ý định và tiếng gọi nhiệm mầu của Thiên Chúa” để đem về chiến thắng cho Đức Kitô và Vương quốc của Ngài. Amen.
Ngày xưa Samuel trong đền thờ đã nghe tiếng gọi đầy thân thương trìu mến, như người cha gọi tên con mình: Samuel, Samuel. Tiếng gọi được lập đi lập lại nhiều lần như muốn trao gởi cả tấm lòng cho người được gọi. Samuel không xác định tiếng gọi bắt nguồn từ đâu nhưng nhờ vào thầy cả Lêvi, ông đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa mời gọi với lời thưa thật mãnh liệt và dứt khoát: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?
Thiên Chúa cũng gọi Saolô, tuy trong hoàn cảnh khác xa Samuel nhưng thánh nhân đã đáp lại tiếng Chúa với một câu nói, một tâm huyết thực thi ý Chúa như Samuel: Lạy Chúa, Chúa muôn con làm gì? Cho dù cuộc đời thánh nhân lúc đó đang đầy nhiệt huyết tiêu diệt hết những ai mang danh kytô hữu. Ông đã xin thượng hội đồng Do Thái một cái tráp để đi lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa Kytô, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saolô, Saolô, sao ngươi tìm bắt ta”. Saolô liền hỏi: Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người phán: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. Và Saolô đã đáp lại: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Lời thưa này như khởi đầu một trang sử mới của cuộc đời thánh nhân. Từ một con người lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa, nay trở thành người hăng hái rao giảng cho muôn dân về Chúa. Bất chấp những hiểm nguy, tù tội, tra tấn, đòn roi, chịu đói khát, rét mướt, đau khổ tư bề, nhưng lòng vẫn hân hoan vì được chung phần đau khổ với Đức Kytô.
Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Đó không chỉ là lời ăn năn sám hối muốn làm lại cuộc đời mà là lời xác tín vào Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Đó cũng là lời đoan hứa sẽ mãi mãi dành trọn cuộc đời để phụng sự Chúa. Lời này thay cho lời xin vâng mà cả cuộc đời thánh nhân đã liên lỉ thốt lên với một lòng trung tín sắt son. “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kytô sống trong tôi”.
Ước mong trong năm gia đình hãy là dấu chỉ lòng thương xót Chúa, mỗi người chúng ta dám thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Và chắc chắn lời mà Chúa vẫn mời gọi chúng ta trao ban lòng thương xót cho khắp thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con hiểu được ý Chúa trong từng giây từng phút, trong từng biến cố cuộc đời và mau mắn làm theo lời Chúa như thánh tông đồ Phaolô. Amen.
Một con người đã trung thành với Đạo Do Thái Giáo, đã rất trung tín với truyền thống cha ông. Phaolô tên thật là Saolô, quê ở Tarsê xứ Cilicia, là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin. Gia đình của Saolô đã nhập tịch Roma nên Ngài cũng là công dân Roma.
Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi.
Thuở thiếu thời, Phaolô được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (Gl 1:14; Pl 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5)
Saolô là một phần tử hăng say trong nhóm biệt phái và thù ghét các người theo Chúa. Sau khi Saolô tham dự vào việc ném đá Stêphanô cho đến chết, Ngài bắt đầu bách hại Giáo Hội của Chúa Giêsu. Với sự chấp thuận, chuẩn y của thượng tế Do Thái, Saolô xuống Đamas truy lùng những người theo Chúa. Nhưng trên đường đi, hăng say và điên tiết vì tức giận các Kitô hữu, Ngài đã bị một luồng sáng bao phủ và vật ngã.
Biến cố Damas như một nét son thắm nhất trong cuộc đời Thánh Phao-lô. Nó toát lộ gương mặt đại lượng đầy yêu thương của một Thiên Chúa đang đến sát con người để nâng họ dậy từ cơn mê của những lầm tưởng thế gian.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại của Phaolô không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta. Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Việc Thánh Phaolô được biến đổi đã tôn thêm vẻ đẹp của tình yêu Thập giá. Nếu trên Thánh giá, Đức Kitô đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình; thì trong sự kiện Damas, chính Ngài đã khoan thứ đến cùng trước kẻ đang ra tay truy bách thân mình mầu nhiệm của Ngài. Điều này chỉ có thể lý giải bởi tình yêu của Đức Kitô có sức cảm hoá và vực dậy tất cả những gì tưởng chừng đã mất.
Thánh Phaolô đã thực sự bị chinh phục bởi “luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống” (Cv 22, 6b). Đó là ánh sáng đến từ Đấng Phục Sinh – Ánh sáng của tin vui cứu độ phổ quát. Phaolô là chứng nhân cho tin vui ấy.
Với thánh Phaolô, sống là Đức Kitô, chết là mối lợi, tức là được về trời. Ngài rao giảng Thập giá Đức Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái, là một sự điên rồ đối với dân ngoại. Chúng ta không thể nào ca khen hết công trạng của thánh Phao lô, nhưng chúng ta nhìn vào thánh Phao lô để học gương ngài, để đi theo dấu chân của ngài, bởi lẽ dấu chân của ngài khác dấu chân của Đức Kitô. Ngài xưng mình là tông đồ út nhất trong tất cả các tông đồ. Thế nhưng, tất cả các tông đồ làm nền móng của Giáo hội, còn một mình ngài là cột trụ của Giáo hội để chúng ta thấy được những dấu chân truyền giáo của Phaolô cho dân ngoại quan trọng như thế nào. Một sứ mệnh mà phổ câp ơn cứu độ đến cho toàn thể thế giớ nhờ sứ mệnh của một vị xưng mình là thầy dạy của các dân ngoại.
Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.
Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).
Sống theo gương Thánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.
Xin cho mỗi người trong chúng ta càng thêm yêu mến thánh Phaolô, chúng ta càng nên giống Đức Kitô hơn. Bởi lẽ, thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy bắt chước tôi vì tôi bắt chước Chúa Kitô”.
Khi nói về thánh Phaolô tông đồ, chúng ta thường nghĩ đến một trong hai vị tông đồ cột trụ của Giáo Hội sơ khai và vẫn ngài còn là vị tông đồ đóng vai trò rất quan trọng của Giáo hội cho đến cùng. Tuy nhiên, ,kinh thánh cho chúng ta biết thêm rằng ,Ngài là vị tông đồ không thuộc nhóm mười hai. Trái lại, Ngài còn có một quá khứ bách hại đạo Chúa nữa. Khi ấy ông vẫn còn mang tên Sa-un và làm việc cho giới lãnh đạo của người Do Thái.
Một hôm, đang trên đường đi Đa-mát để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, Sa-un đã bị một luồng sáng đánh quật ngã xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng chói lòa ấy, Ngài đã nghe tiếng của một ai đó nói với ngài: “Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ ta”. Sau một lúc hoàn hồn, ông lên tiếng: “ngài là ai?”. Và chính lúc này đây Sao-lô được nghe tiếng nói của chính Chúa Giêsu trả lời ông rằng: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại”. Sau lần gặp gỡ này, cuộc đời ông thay đổi. Ông trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu, được rửa tội bằng lòng mến thầy mình.
Cũng từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Ông được gọi bằng một cái tên mới là là Phaolô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở bên ngoài Do Thái Giáo.
Sau khi gặp được Chúa. Phaolô đã từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa, để sống đức tin và rao giảng tin mừng.
Đây cũng là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta. Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ những niềm tin khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô hữu khi chúng ta được mời gọi mỗi lúc một đến gần hơn với cùng đích của chúng ta là chính Chúa. Đây cũng là cái đích đến lý tưởng của người Kitô hữu chúng ta. Càng đến gần với Chúa, chúng ta càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa hơn, qua đó chúng ta càng đến gần gũi với tha nhân.
Trong ngày lễ mừng kính thánh Phaolô Tông đồ trở lại hôm nay, chúng con nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho chúng con luôn thấm nhuần tình yêu và cảm nhận sâu xa quyền năng Chúa trong cuộc đời mình. Nhờ đó, chúng con mới có thể trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa đến cho anh chị em chung quanh. Amen.
Thánh lễ này bắt nguồn từ xứ Gaule, được xác nhận vào cuối thế kỷ thứ VI, xuất hiện bên Rôma vào thế kỷ thứ IX. Thánh lễ này tùy thuộc vào lễ kính Tòa thánh Phêrô, được dâng vào ngày 22.02.
Tầm quan trọng việc trở lại của thánh Phaolô được nhấn mạnh ba lần trong quyển Công vụ Tông Đồ (9,1-30; 22,3-21; 26,920), cũng như sự phong phú của bản văn và Phụng Vụ Giờ Kinh. Sự kiện xảy ra trên đường đi Damas đã làm thay đổi hoàn toàn con người này; các trình thuật Thánh Kinh cho thấy có gì triệt để trong việc trở lại này. Các Kitô hữu của Giáo Hội vùng Juđê đã nói: “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gl 1,23).
Chính thánh Phaolô, trong các bản văn nói về sự kiện Damas, luôn đặt kinh nghiệm này với cuộc đời quá khứ của một người Pharisêu và bách hại đạo: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, họ Benjamin, là người Hipri, con của người Hipri; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội thánh; còn sống công chính theo lề luật, thì chẳng ai trách được tôi” (Pl 3,5-6). Thánh Phaolô thêm vào: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,8). Người Pharisêu Saul, tự cho mình là “công chính” qua việc tuân giữ lề luật không đâu chê trách được, bây giờ lại tuyên xưng: “Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sư công chính do luật Môisen đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,7-9).
Nhờ thị kiến bất ngờ tại Damas, thánh Phaolô thấy được sự sai lệch của mình và cảm thấy được động viên để đi đến với dân ngoại. Thiên Chúa của ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, Thiên Chúa của các tổ phụ, nhưng từ khi trở lại, Phaolô mới biết Thiên Chúa này đã tôn vinh Đức Giêsu, Tôi tớ của Người (Cv 3,13). Điều này đã thay đổi tất cả.
Ngày lễ thánh Phaolô trở lại muốn nhấn mạnh sự kiện này là một bước quyết định làm thay đổi quá trình phát triển Hội thánh, vì kẻ trước đây bách hại các môn đệ Đức Giêsu, đi vào các hội đường lùng sục các tín hữu để hành hạ và bỏ ngục, từ nay vâng phục Người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã tôn vinh và cũng là Đấng hiện ra nói với ngài: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22,21). Như thế, tất cả rào cản đều rơi xuống: Hội thánh mở ra cho dân ngoại và trở nên phổ quát.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ này kéo dài lễ Hiển Linh, việc trở lại của thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu rõ mầu nhiệm Đức Kitô hiện diện và sống động trong Hội Thánh. Đức Giêsu tỏ hiện trong Hội Thánh và qua Hội Thánh; trong thực tế, Người đã không nói với Phaolô: Tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ của Ta? nhưng lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta?”(Cv 22,7). Thế nên khám phá đầu tiên của kẻ trở lại chính là sự hiện diện của Đức Kitô trong Hội thánh Người.
a. Lời nguyện nhập lễ khuyến khích chúng ta đến với Chúa “tìm cách để đồng hình đồng dạng” như thánh Phaolô, khi trở thành chứng nhân của Tin Mừng.
“Tìm cách để giống” thánh Phaolô có nghĩa là chấp nhận như Ngài con đường lâu dài và gian khổ để khám phá Thiên Chúa và ý định của Người trong những sự kiện cá nhân và cộng đồng. Tiếp theo kinh nghiệm (Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt Ta) và sự vững tin chủ quan liên kết với kinh nghiệm trên (Tôi biết tôi sẽ tín thác vào ai), là một thời gian dài thử thách, cô đơn, đôi khi cả việc mất can đảm. Một cách thức hiện hữu và nhìn vạn vật, phát sinh từ sự kiện Damas, đòi hỏi một sự trưởng thành chậm chạp trước khi nhập tâm vào cá vị của mình. Công vụ và các lá thư nói về sự vắng mặt của ngài có thể kéo dài hằng chục năm (Gl 2,1). Chỉ sau thời gian “Sabbat” này, Barnabas mới đi tìm ngài ở Tarsus để đem lên Antioche, cho phép ngài bắt đầu liên hệ với các môn đệ Đức Kitô (tại Antioche mà họ nhận được tên Kitô hữu) và hoàn tất sứ vụ của mình nơi các dân ngoại.
b. Một đề tài suy niệm được Lời nguyện tiến lễ đề nghị. Kinh này gợi lên ánh sáng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy thánh Phaolô và biến ngài trở thành một nhà truyền giáo “để làm cho danh Thiên Chúa vang dội trong cả thế giới”. Ngài từ là người bách hại, trở thành sứ giả của Tin Mừng, không coi việc rao giảng Tin Mừng như một lý do để kiêu ngạo, nhưng là một sự cần thiết. “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Thánh Phaolô nói trước các kỳ mục của Hội thánh Êphêsô: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách...” (Cv 20,19). Với người thành Côrinthô, ngài nhắc nhớ lại những sự mệt nhọc, khó khăn, đói khát, lạnh lẽo... "Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2 Cr 11,27).
c. Một nét đặc thù khác trong linh đạo thánh Phaolô được nhấn mạnh trong Thánh lễ: Đức Kitô là trung tâm cuộc sống và lời rao giảng của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô và chết là một mối lợi: thập giá Đức Kitô là vinh quang duy nhất của tôi”; “Với Đức Kitô, tôi đã bị đóng đinh; không còn phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi; hiện tại tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã phó nộp vì tôi” (Gl 2,19-20).
Việc trở lại ở Damas đã biến đổi cách triệt để cuộc đời thánh Phaolô. Một khi đã gắn bó vào Chúa Kitô, ngài biết phải tin tưởng vào ai. Thế là không còn phải lo âu gì cả. Ngài nói với những người thành Philippe: “Quên đi quá khứ, để chỉ biết lao về phía trước, tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,13-14).
Thánh Jean Chrysostome, trong một bài giảng tôn vinh thánh Phaolô, ca ngợi tình yêu Chúa Kitô đang cháy trong tâm hồn thánh Phaolô: “Với tình yêu này, thánh Phaolô cho rằng mình là kẻ hạnh phúc nhất giữa nhân loại...Tận hưởng tình yêu này, có nghĩa đối với Ngài là chiếm hữu cuộc sống, thế giới, Thiên thần của mình, hiện tại, tương lai, vương quyền, lời hứa, hạnh phúc vĩnh cửu”. Như vậy, sự tàn bạo và cơn giận của kẻ thù đã biến đổi thành sức mạnh và tình yêu cho một vị Tông Đồ say mê truyền giáo. Thánh Phaolô luôn tiến bước đến trước với một lòng nhiệt thành trên các con đường để nắm bắt Đấng là vinh quang duy nhất của mình. “Để chống lại Đức Giêsu, ngài đã đi về Damas; để nắm bắt được Đức Giêsu, ngài đã phải đi khắp cùng thế giới”.
Khi được hỏi về cơ duyên khiến ai đó làm công việc của mình, người ta thường trả lời cách nôm na rằng: “Nghề chọn người chứ không phải người chọn nghề”. Dường như, một dịp tình cờ hay một cuộc gặp gỡ vô ý nào đó khiến người ta trở thành mình của hiện tại với công việc đó. Người Kitô hữu thường không trả lời cách nôm na như vậy khi được hỏi về lý do trở thành Kitô hữu hay lý do trở thành một linh mục, tu sĩ. Chúng ta thường trả lời cách xác tín rằng tôi được Thiên Chúa kêu gọi. Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ơn gọi của vị đại thánh của Giáo Hội, ơn gọi làm Tông Đồ của thánh Phaolô.
Các sách Tin Mừng tường thuật lại việc Đức Giêsu kêu gọi 12 người để làm Tông Đồ của Ngài. Trong đó, chúng ta không thấy bóng dáng của thánh Phaolô ở đâu cả. Mặc dù, thánh nhân không được Đức Giêsu kêu gọi trực tiếp mặt đối mặt như 12 vị kia nhưng ngài cũng được kêu gọi một cách đặc biệt để trở thành Tông Đồ loan báo Tin Mừng cứu độ đến cho muôn dân. Cuộc đời và ơn gọi của thánh nhân quả là một điều huyền nhiệm. Giáo Hội thường tôn kính thánh Phaolô như là vị Tông Đồ của dân ngoại. Ơn gọi làm tông đồ của ngài là một ơn gọi hết sức đặc biệt, một ơn gọi xoay chuyển một cuộc đời ngài và tương lai của Giáo Hội.
Kẻ bắt đạo thành người giảng đạo
Ít ai có thể ngờ rằng một Saolô nhiệt thành, người đã giữ áo dưới chân mình cho những người Do Thái trong vụ ném đá phó tế Stêphanô, người đã xung phong trong việc tìm và bắt các tín hữu cả nam lẫn nữ để đem về xử tội lại có một ngày nào đó thay đổi hoàn toàn để trở nên người Kitô hữu. Thậm chí, ông sẽ là một người loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Biến cố Đamát đã thay đổi tất cả. Sách Công Vụ Tông Đồ đã tường thuật lại việc Saolô hăng hái dẫn người đến thành Đamát để bắt bớ, dẫn giải những người Kitô hữu về để xét xử. Đang lúc nhiệt huyết tràn trề thì ông đã ngã xuống bởi luồng sáng được chiếu ra từ thiên giới. Cũng từ đây, cuộc đời ông đã hoàn toàn thay đổi, mọi thứ trật tự dường như được đảo chiều. Từ người đi bắt bớ, nay ông trở thành người bị bắt bớ. Từ một người đang sáng rõ, nay ông lại trở thành kẻ mù loà. Từ một người dẫn dắt những kẻ khác đi lùng bắt người ta thì nay ông lại cần phải được người ta dìu dắt dẫn lối từng bước đi. Từ một người hãnh diện nay không có gì để hãnh diện. Các chân giá trị với ông đã thay đổi hoàn toàn. Ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, tội lỗi và trong sạch, tất cả đã đảo chiều trong nhận thức của Saolô. Trước đây, con mắt ông sáng nhưng thực ra ông lại ở trong bóng tối. Nay con mắt ông tối nhưng ông lại được nhìn thấy ánh sáng đích thực, con mắt tâm hồn ông được mở ra để biết đâu mới là ánh sáng thật. Ánh sáng đó chính là Đức Kitô. Thiên Chúa có cách hoạt động riêng của Người. Không ai có thể nghĩ rằng, một người như ông có thể thay đổi và tin theo Đức Giêsu. Hoạ may, người ta chỉ mong rằng một ngày nào đó ông ngừng bắt đạo đã là may mắn lắm rồi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã đi xa hơn thế. Người chọn lựa và biến đổi Saolô, biến ông từ một người nhiệt thành chống đạo thành một vị Tông Đồ vĩ đại trong việc rao giảng Tin Mừng đến cho muôn dân.
Biến cố Đamát đã giúp cho Saolô nhận ra chân lý và sự thật đích thực. Từ đây, ông trở thành một con người mới, Saolô nay đã trở thành Phaolô, vị Tông Đồ nhiệt thành, sẵn sàng chết cho đức Đức Giêsu. Nếu như xưa kia ông đã nhiệt thành bắt bớ các Kitô hữu bao nhiêu thì nay ông cũng nhiệt thành bảo vệ, loan báo Đức Giêsu đến cho mọi người bấy nhiêu. Cũng từ đây, với Phaolô Đức Kitô là tất cả lẽ sống, đến nỗi ông còn thốt lên rằng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). Kẻ bắt đạo nay trở thành người giảng đạo nhiệt thành, Phaolô đã trở nên một mẫu gương cho hết mọi người noi theo.
Ơn gọi Tông Đồ
Mừng lễ thánh Phaolô Tông Đồ trở lại, Hội Thánh cũng mong muốn nhắc nhở các con cái mình về ơn gọi của mình, ơn gọi làm tông đồ. Thông thường, người ta thường nghĩ rằng việc làm tông đồ thì chỉ dành cho các linh mục hay tu sĩ nam nữ. Tuy nhiên, đó là một suy nghĩ sai lầm. Bởi vì ơn gọi của mỗi người đều là ơn gọi làm tông đồ, là làm cho người ta biết và tin theo Chúa. Đó là nhiệm vụ chung của mỗi người Kitô hữu. Có thể, có người sẽ lập luận rằng tôi sống chưa tốt thì làm sao có thể làm tông đồ được, làm sao truyền giáo được. Nhìn vào gương thánh Phaolô, chúng ta hoàn toàn có thể có hy vọng rằng ai cũng có thể mang người khác đến với Chúa được, chỉ cần có khao khát và dấn thân thì sẽ làm được. Bởi vì Thiên Chúa có cách làm của Người, “Thiên Chúa có thể vẽ những đường thẳng bằng những nét cong”. Ngoài ra, mẫu gương của thánh Phaolô cũng giúp ta thêm lòng tin và hy vọng về tương lại tươi sáng của mình. Dù tội lỗi biết bao, nhưng Thiên Chúa luôn yêu mến và muốn cứu giúp con người khỏi chết. Con người dù tội lỗi biết bao nhưng vẫn luôn có thể trở lại. Vì “không có thánh nhân nào là không có quá khứ và không tội nhân nào là không có tương lai”.
Thánh Phaolô đã để lại một mẫu gương tuyệt vời về nhiệt tâm tông đồ cho mỗi người Kitô hữu noi theo. Ước mong rằng mỗi người chúng ta có thể học hỏi và noi gương bắt chước thánh nhân trở thành những chứng nhân, những tông đồ cho Chúa trong chính đời sống hằng ngày nơi gia đình, nơi công sở, nơi giáo xứ. Xin Thiên Chúa là Đấng kêu gọi chúng con ban cho cho chúng con luôn khao khát rao giảng Tin Mừng để chúng con luôn có thể thốt lên như thánh Phaolô rằng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con hồng ân đức tin, xin Chúa cũng giúp chúng con ý thức hơn về ơn gọi làm tông đồ của mình để chúng con cũng biết hết lòng để rao giảng và làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và mọi thời. Amen.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ nhiệm vụ quan trọng là đi loan báo Tin Mừng, nói cho muôn dân biết về tình yêu và lòng thương xót của Người. Nhiệm vụ ấy còn được gọi là truyền giáo.
‘’Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Chúa Giêsu muốn các môn đệ vượt ra khỏi biên cương đất nước mình để đi “khắp tứ phương thiên hạ”. Tin Mừng không phải dành riêng cho một dân tộc nào nhưng cho tất cả mọi dân trên thế giới. Vì được biết Chúa là một ân huệ lớn lao nên không ai được giữ cho riêng mình. Mỗi Kitô hữu là một môn đệ của Chúa Giêsu, như vậy chúng ta mang trong mình sứ vụ truyền giáo. Nhưng thử hỏi ta sẽ truyền giáo như thế nào? Ta hiểu thế nào là truyền giáo trong bối cảnh thế giới ngày nay?
Trong thời đại hôm nay, phương tiện truyền thông mang đến thông tin tràn ngập và nhanh chóng. Có thể nói, việc truyền giáo vì thế không chỉ là nói cho người khác về Tin Mừng. Vì người ta có thể đã nghe biết nhiều về Tin Mừng rồi. Điều cần thiết để chạm đến trái tim của người khác là đời sống thực tế hơn là những lời nói suông. Hơn nữa, tất cả mọi việc Chúa Giêsu làm nơi trần thế cũng chỉ nhằm tỏ lộ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì thế, nếu tôi làm cho người khác cảm nhận được tình yêu thì tôi hẳn đã mang Chúa đến cho người khác rồi. Nhưng trước khi tôi truyền giáo cho người khác, tôi cần biết “truyền giáo” cho chính tôi. Nghĩa là nhìn lại giá trị Tin Mừng trong chính cuộc đời của mình, như lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Tôi có hạnh phúc vì được biết Chúa Kitô không?”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã để lại cho chúng con sứ vụ đem tình yêu của Chúa đến với mọi người. Xin cho tinh thần của Tin Mừng thấm nhập vào lòng chúng con, để từng giây phút chúng con biết sống yêu thương anh chị em mình. Xin tình yêu của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng con. Amen.
Khởi đầu Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã truyền rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Vậy, chúng ta phải đón nhận và thực thi lệnh truyền đó như thế nào trong thời đại hôm nay?
Sau khi nhận lệnh truyền, các Tông Đồ đã thi hành sứ vụ bằng sự nhiệt huyết, can đảm ra đi khắp tứ phương thiên hạ để loan báo về Tin Mừng Chúa Kitô. Sứ vụ của các Tông Đồ cho thấy họ có đức tin, đức cậy và đức mến rất mãnh liệt vào Thầy Giêsu. Nhờ tin, cậy vào Thầy Giêsu, thánh Phêrô đã làm được nhiều dấu lạ, như chữa lành người què, cho bà Tabitha sống lại (x. Cv 9,36-42),…
Là Kitô hữu, mỗi người chúng ta đều có những sứ vụ phải hoàn thành. Người sống bậc vợ chồng cần chu toàn bổn phận yêu thương nhau, và cùng nhau dưỡng dục con cái. Không những thế, vợ chồng cần chăm lo cho đời sống thiêng liêng của gia đình bằng việc tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận bí tích hoà giải, đọc kinh, nguyện gẫm chung,… Đồng thời, họ cần mở rộng trái tim để san sẻ, nâng đỡ những người kém may mắn, và thực thi lòng bác ái yêu thương đối với tha nhân.
Người sống đời độc thân thánh hiến thực thi lệnh truyền của Chúa bằng cách nỗ lực để trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Để từ đó, họ sẵn sàng ra đi lan tỏa tình yêu của Chúa Giêsu cho những người mà họ có bổn phận chăm lo. Chính khi mỗi người chúng ta biết đặt niềm tin vào Chúa và biết chu toàn bổn phận nơi bậc sống của mình, chắc hẳn Tin Mừng của Chúa sẽ được lan tỏa cho mọi người chung quanh.
Lạy Chúa xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con sống đúng ơn gọi như Chúa muốn, hầu chúng con có thể trở nên chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cách hữu hiệu nhất. Amen.
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ một lệnh truyền: “hãy đi loan báo Tin Mừng”. Lệnh truyền ấy đã trở nên bản chất của Giáo Hội. Đây là một lệnh truyền cho chính tôi và cả chính bạn, những nhà truyền giáo. Vậy, đâu là điều cần thiết để một nhà truyền giáo thực thi sứ vụ của mình?
Nhà truyền giáo là những người có lòng tin. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh biến đổi các môn đệ thành những con người can đảm, sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Qua mọi thời, niềm tin vẫn luôn là một hành trang không thể thiếu của những người môn đệ trên hành trình sứ vụ. Chúa Giêsu đã nói: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, … sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. (x. Mt 17,20). Lòng tin vào Chúa giúp mọi người làm được những việc phi thường.
Việc đòi hỏi nơi những nhà truyền giáo những dấu lạ nhãn tiền là điều không hợp lẽ. Bởi vì chỉ một vài trong số họ được Chúa ban cho đặc sủng này. Trong một xã hội ưa chuộng khoa học thực nghiệm, người ta càng thích đòi hỏi những dấu lạ nhãn tiền để bù đắp lòng tin chai cứng. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, cuộc sống chứng tá và những hành động yêu thương trên hành trình loan báo Tin Mừng của nhà truyền giáo cũng chính là một dấu lạ to lớn. Dấu lạ ấy không xuất phát từ sức riêng họ, nhưng được tạo nên nhờ lòng tin vào Thiên Chúa. Dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin.
Trên con đường thực thi sứ vụ, điều cần thiết cho người môn đệ không phải là khả năng làm dấu lạ, nhưng là lòng tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Lạy Chúa, xin cho con một đức tin mạnh mẽ, để con sẵn sàng ra đi làm chứng cho Ngài bằng một đời sống yêu thương và bác ái. Amen.
Hôm nay, Hội Thánh mừng lễ kính thánh Phaolô tông đồ trở lại. Trước khi là tông đồ của Chúa, thánh Phaolô đã bách hại Hội Thánh Chúa, và trên đường đi Đamát để thực hiện công việc này, ngài đã té ngựa và rồi qua biến cố đó, Chúa đã mạc khải cho ngài biết Chúa là Đấng phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh và các Kitô hữu mà ngài đang đi lùng bắt chỉ là một.
Qua việc mừng lễ kính thánh Phaolô trở lại đây, chúng ta thấy lòng thương xót của Chúa đối với thánh nhân và với chúng ta hôm nay. Chúa không muốn hư mất một ai cả. Chúa có cách để Chúa làm cho chúng ta trở về với Chúa khi chúng ta phạm trọng tội, lạc xa Chúa, đôi lúc là chống đối Chúa một cách dữ dội nữa.
Nếu chúng ta là một con người dễ dạy bảo, dễ ăn năn sám hối trở về với Chúa thì Chúa sẽ dùng những biến cố nhẹ nhàng để thức tỉnh chúng ta như trường hợp của thánh Phêrô chối Chúa ba lần, Chúa chỉ đưa mắt nhìn là thánh nhân nhận ra tội lỗi của mình để rồi ăn năn khóc lóc, xin Chúa tha thứ (xLc 22, 54 – 61).
Nếu chúng ta ngang bướng, cứng đầu, cứng cổ, chai lì, khó dạy bảo, khó ăn năn sám hối, Chúa sẽ dùng phương pháp mạnh hơn như là những làn roi của người cha đánh con mình đau đớn hơn để thức tỉnh nó, giúp nó nhận ra lầm lỗi mà trở về, hoàn lương cuộc sống, đó là trường hợp của thánh Phaolô tông đồ mà chúng ta mừng kính cuộc trở về với Chúa ngày hôm nay (Ngài té ngựa, bị mù mắt).
Ngài trở về với Chúa, Chúa đã chọn ngài làm tông đồ dân ngoại. Từ đây, ngài sống chết cho sứ mạng cao cả này, ngài ao ước gắn bó với Chúa, không bao giờ lìa xa Chúa, dù phải cực hình, khổ đau, chết chóc.
Lạy Chúa, chúng con cũng giống thánh Phaolô, chúng con có một quá khứ tội lỗi, nhưng nếu Chúa cứ chấp tội thì nào ai rỗi được, xin Chúa thương xót chúng con, tha thứ cho chúng con, xin Chúa cho chúng con sống gắn bó với Chúa và cho chúng con cũng trở thành sứ giả loan báo loan thương xót của Chúa cho mọi người. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô Tông Đồ mà dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng Phục Sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một. Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân Tin Mừng, khi nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Galát cho thấy: Phaolô, một người Dothái, trở thành Tông Đồ Đức Kitô. Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người, vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải. Có chân lý của Đức Kitô ở trong tôi, vì tôi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Đức Kitô.
Tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân Tin Mừng, chấp nhận mất hết để được Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì lòng yêu mến Đức Kitô, thánh Phaolô chịu đựng tất cả… Tôi đã được Chúa xót thương, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân Tin Mừng, thực thi sứ mạng khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật: ông Khanania nói với ông Phaolô: Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa, thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Đức Giêsu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 116, vịnh gia cho thấy: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng. Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người! Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng. Chúa đã chọn thánh Phaolô từ giữa thế gian, để người ra đi và sinh hoa trái, người đã thi hành lệnh truyền đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng. Bất cứ ở đâu khi bị đánh đòn, bị lăng nhục, người luôn xử sự như kẻ mừng chiến thắng khải hoàn, và hãnh diện, tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng chiến thắng khải hoàn nơi chúng ta. Người mau mắn đến với những nhục nhằn tủi hổ vì rao giảng Tin Mừng, còn hơn là, chúng ta mau mắn đến lãnh nhận danh dự vinh quang; người ước mong được chết, hơn là, chúng ta ham sống, thích khó nghèo, hơn là, được giàu có; người chỉ khiếp sợ và xa tránh một điều, là làm mất lòng Thiên Chúa, chứ chẳng sợ bất cứ điều gì khác. Người chẳng ao ước điều gì hơn là luôn luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đối với người, điều lớn hơn tất cả là được hưởng tình yêu của Đức Kitô; được như thế, người cho mình là hạnh phúc hơn hết mọi người. Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô Tông Đồ mà dạy dỗ muôn dân, ước gì chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Ước gì được như thế!
Khi được hỏi về cơ duyên khiến ai đó làm công việc của mình, người ta thường trả lời cách nôm na rằng: “Nghề chọn người chứ không phải người chọn nghề”. Dường như, một dịp tình cờ hay một cuộc gặp gỡ vô ý nào đó khiến người ta trở thành mình của hiện tại với công việc đó. Người Kitô hữu thường không trả lời cách nôm na như vậy khi được hỏi về lý do trở thành Kitô hữu hay lý do trở thành một linh mục, tu sĩ. Chúng ta thường trả lời cách xác tín rằng tôi được Thiên Chúa kêu gọi. Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ơn gọi của vị đại thánh của Giáo Hội, ơn gọi làm Tông Đồ của thánh Phaolô.
Các sách Tin Mừng tường thuật lại việc Đức Giêsu kêu gọi 12 người để làm Tông Đồ của Ngài. Trong đó, chúng ta không thấy bóng dáng của thánh Phaolô ở đâu cả. Mặc dù, thánh nhân không được Đức Giêsu kêu gọi trực tiếp mặt đối mặt như 12 vị kia nhưng ngài cũng được kêu gọi một cách đặc biệt để trở thành Tông Đồ loan báo Tin Mừng cứu độ đến cho muôn dân. Cuộc đời và ơn gọi của thánh nhân quả là một điều huyền nhiệm. Giáo Hội thường tôn kính thánh Phaolô như là vị Tông Đồ của dân ngoại. Ơn gọi làm tông đồ của ngài là một ơn gọi hết sức đặc biệt, một ơn gọi xoay chuyển một cuộc đời ngài và tương lai của Giáo Hội.
Kẻ bắt đạo thành người giảng đạo
Ít ai có thể ngờ rằng một Saolô nhiệt thành, người đã giữ áo dưới chân mình cho những người Do Thái trong vụ ném đá phó tế Stêphanô, người đã xung phong trong việc tìm và bắt các tín hữu cả nam lẫn nữ để đem về xử tội lại có một ngày nào đó thay đổi hoàn toàn để trở nên người Kitô hữu. Thậm chí, ông sẽ là một người loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Biến cố Đamát đã thay đổi tất cả. Sách Công Vụ Tông Đồ đã tường thuật lại việc Saolô hăng hái dẫn người đến thành Đamát để bắt bớ, dẫn giải những người Kitô hữu về để xét xử. Đang lúc nhiệt huyết tràn trề thì ông đã ngã xuống bởi luồng sáng được chiếu ra từ thiên giới. Cũng từ đây, cuộc đời ông đã hoàn toàn thay đổi, mọi thứ trật tự dường như được đảo chiều. Từ người đi bắt bớ, nay ông trở thành người bị bắt bớ. Từ một người đang sáng rõ, nay ông lại trở thành kẻ mù loà. Từ một người dẫn dắt những kẻ khác đi lùng bắt người ta thì nay ông lại cần phải được người ta dìu dắt dẫn lối từng bước đi. Từ một người hãnh diện nay không có gì để hãnh diện. Các chân giá trị với ông đã thay đổi hoàn toàn. Ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, tội lỗi và trong sạch, tất cả đã đảo chiều trong nhận thức của Saolô. Trước đây, con mắt ông sáng nhưng thực ra ông lại ở trong bóng tối. Nay con mắt ông tối nhưng ông lại được nhìn thấy ánh sáng đích thực, con mắt tâm hồn ông được mở ra để biết đâu mới là ánh sáng thật. Ánh sáng đó chính là Đức Kitô. Thiên Chúa có cách hoạt động riêng của Người. Không ai có thể nghĩ rằng, một người như ông có thể thay đổi và tin theo Đức Giêsu. Hoạ may, người ta chỉ mong rằng một ngày nào đó ông ngừng bắt đạo đã là may mắn lắm rồi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã đi xa hơn thế. Người chọn lựa và biến đổi Saolô, biến ông từ một người nhiệt thành chống đạo thành một vị Tông Đồ vĩ đại trong việc rao giảng Tin Mừng đến cho muôn dân.
Biến cố Đamát đã giúp cho Saolô nhận ra chân lý và sự thật đích thực. Từ đây, ông trở thành một con người mới, Saolô nay đã trở thành Phaolô, vị Tông Đồ nhiệt thành, sẵn sàng chết cho đức Đức Giêsu. Nếu như xưa kia ông đã nhiệt thành bắt bớ các Kitô hữu bao nhiêu thì nay ông cũng nhiệt thành bảo vệ, loan báo Đức Giêsu đến cho mọi người bấy nhiêu. Cũng từ đây, với Phaolô Đức Kitô là tất cả lẽ sống, đến nỗi ông còn thốt lên rằng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). Kẻ bắt đạo nay trở thành người giảng đạo nhiệt thành, Phaolô đã trở nên một mẫu gương cho hết mọi người noi theo.
Ơn gọi Tông Đồ
Mừng lễ thánh Phaolô Tông Đồ trở lại, Hội Thánh cũng mong muốn nhắc nhở các con cái mình về ơn gọi của mình, ơn gọi làm tông đồ. Thông thường, người ta thường nghĩ rằng việc làm tông đồ thì chỉ dành cho các linh mục hay tu sĩ nam nữ. Tuy nhiên, đó là một suy nghĩ sai lầm. Bởi vì ơn gọi của mỗi người đều là ơn gọi làm tông đồ, là làm cho người ta biết và tin theo Chúa. Đó là nhiệm vụ chung của mỗi người Kitô hữu. Có thể, có người sẽ lập luận rằng tôi sống chưa tốt thì làm sao có thể làm tông đồ được, làm sao truyền giáo được. Nhìn vào gương thánh Phaolô, chúng ta hoàn toàn có thể có hy vọng rằng ai cũng có thể mang người khác đến với Chúa được, chỉ cần có khao khát và dấn thân thì sẽ làm được. Bởi vì Thiên Chúa có cách làm của Người, “Thiên Chúa có thể vẽ những đường thẳng bằng những nét cong”. Ngoài ra, mẫu gương của thánh Phaolô cũng giúp ta thêm lòng tin và hy vọng về tương lại tươi sáng của mình. Dù tội lỗi biết bao, nhưng Thiên Chúa luôn yêu mến và muốn cứu giúp con người khỏi chết. Con người dù tội lỗi biết bao nhưng vẫn luôn có thể trở lại. Vì “không có thánh nhân nào là không có quá khứ và không tội nhân nào là không có tương lai”.
Thánh Phaolô đã để lại một mẫu gương tuyệt vời về nhiệt tâm tông đồ cho mỗi người Kitô hữu noi theo. Ước mong rằng mỗi người chúng ta có thể học hỏi và noi gương bắt chước thánh nhân trở thành những chứng nhân, những tông đồ cho Chúa trong chính đời sống hằng ngày nơi gia đình, nơi công sở, nơi giáo xứ. Xin Thiên Chúa là Đấng kêu gọi chúng con ban cho cho chúng con luôn khao khát rao giảng Tin Mừng để chúng con luôn có thể thốt lên như thánh Phaolô rằng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con hồng ân đức tin, xin Chúa cũng giúp chúng con ý thức hơn về ơn gọi làm tông đồ của mình để chúng con cũng biết hết lòng để rao giảng và làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và mọi thời. Amen.