Niềm tin vững mạnh. 16/09 – Thứ Hai tuần 24 thường niên. Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ
“Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta”. Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không ba xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”. Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”. Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân. Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu. Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài, vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế. Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý, ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3). Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm, Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6). Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý. Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa, căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6). Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông, nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6). Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ. Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết. Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7). Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu. Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh. Là một sĩ quan trong quân đội Rôma ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền. “Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8). Lệnh được ban ra là phải thi hành. Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế. Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui. Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy. Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9). Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan, chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào. Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10). Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma. Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác. Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan, nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà, chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa, chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian. Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài. “Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…” Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa. Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài. Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay. Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó. Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thuong của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. ---------------------------------
Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.
Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).
Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).
Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta Suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.
Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.
Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.
Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)
Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.
Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.
Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.
Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.
Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?
Xem lại CN 9 TN C - thứ Hai tuần 4 MV và tuần 4 MC - thứ Bảy tuần 12 TN
Tại các trung tâm hành hương, chúng ta vẫn thấy đây đó các bảng ghi ơn của những người ngoài Công Giáo như sau: “Con là kẻ ngoại đạo, con xin tạ ơn Chúa ... ”; “Tạ ơn Chúa... đã cứu giúp con, mặc dù con là người lương dân”. Điều này được thấy rất rõ ở trung tâm hành hương cha F.x. Trương Bửu Diệp tại Giáo phận Cần Thơ hay đền cha thánh Phêrô Lê Tùy thuộc Giáo phận Hà Nội.
Thật vậy, vẫn còn đó những người lương dân, đôi khi lại có niềm tin mạnh hơn cả những người Công Giáo. Đây là điều chúng ta nên hồi tâm và suy nghĩ lại về đời sống đức tin của mình với Thiên Chúa!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng khen ngợi đức tin của một viên sĩ quan ngoại giáo ở Rôma.
Khi nghe tin quyền năng và tốt lành của Đức Giêsu, ông đã truyền lệnh cho mấy trưởng tế đến để cầu cứu Đức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ của mình đang đau nặng. Khi được tin, Đức Giêsu muốn đích thân đến để cứu giúp đầy tớ của ông. Tuy nhiên, ông không dám mời Ngài về nhà mình, vì lý do nhận thấy mình không xứng đáng để được Đức Giêsu đến nhà. Ông chỉ dám xin Ngài phán một lời thôi thì đầy tớ ông sẽ được bình phục. Thấy được đức tin của ông mạnh và sự khiêm nhường thẳm sâu của ông, nên Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp cho người đầy tớ thân tín của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Sẵn sàng giúp đỡ những người đang cần đến chúng ta, mặc cho họ là ai, cùng niềm tin với mình hay không...! Mặt khác, sự xuất hiện và hành động của viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc ta bài học về tình yêu không biên giới, đã thương xót thì không phân biệt chủ - tôi, giai cấp... Đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa trong sự khiêm nhường, tín thác.
Sự khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối của viên sĩ quan khi xưa, nay đã trở thành mẫu mực cho mọi người chúng ta, đến nỗi trong phụng vụ thánh lễ đã lấy lại lời này như một tâm tình của con cái Giáo Hội khi chuẩn bị đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Mong sao lời tuyên tín này mang lại cho chúng ta sự khiêm tốn, tin tưởng, bình an, hạnh phúc đích thực chứ không chỉ là một công thức phải đọc như một thói quen mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin, sự khiêm tốn và lòng bao dung cho chúng con. Amen.
Sứ điệp: Nhận biết mình hèn kém bất xứng và hết lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa, đó là niềm tin của viên đại đội trưởng mà Chúa Giêsu đã khen ngợi và mời gọi ta bắt chước.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong quãng đời mục vụ của Chúa, con nghĩ một trong những điều làm cho Chúa vui thích đó là câu chuyện hôm nay: một viên sĩ quan lương dân đã bày tỏ niềm tin nơi Chúa, một niềm tin đơn sơ, khiêm nhường và mạnh mẽ. Chúa đã khen ngợi và đáp lời ông cầu xin.
Con tự hỏi, đối với con là người theo đạo Chúa, con thực sự có được một niềm tin như thế chưa ?
Lạy Chúa, con phải thú nhận rằng đức tin của con còn quá yếu kém, bởi vì con chưa nhận ra mình là kẻ tội lỗi rất cần đến lòng thương xót của Chúa. Con thiếu lòng cậy tin vào Chúa, bởi vì con vẫn tin vào quyền lực của tiền bạc và địa vị hơn là chính Chúa. Con cầu xin không được như ý là bởi vì con chưa khiêm nhường đủ, thiếu kiên nhẫn và đầy ích kỷ.
Lạy Chúa, trong thánh lễ hằng ngày, con bắt chước viên sĩ quan để thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Xin Chúa đến với con dù con bất xứng. Xin Chúa thương xót con vì con tội lỗi. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa dù con chỉ là tôi tớ mọn hèn. Và trong những cơn gian nan thử thách, những khi cô đơn tuyệt vọng, những lần ê chề sa ngã, xin cho con vẫn một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vì con tin rằng chính những lúc con yếu đuối nhất, lại là những lúc con mạnh mẽ nhất trong ơn Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
Trên một rặng núi đá cao đến 800 thước có những cây lá cọ vẫn sống mạnh. Ban đầu qua nhiều năm, các nhà thực vật nghiên cứu và không tìm được nguyên nhân vì sao mà các cây này sống được trong bóng tối của núi đá, vì mặt trời chỉ chiếu vào chỗ các cây này chỉ trong hai tiếng đồng hồ mỗi ngày, trong lúc cây lá cọ sống nhờ nhiều vào ánh nắng mặt trời.
Về sau các nhà thực vật đã tìm ra nguyên nhân: Các vách đá đã thu nhận ánh sáng mặt trời cũng như hơi nóng ban ngày rồi phản chiếu vào chỗ những cây cọ này, cung cấp cho cây hơi nóng cần thiết tỏa ra từ trong đá. Cho nên, hàng cây cọ cứ sống mạnh, dù hoàn cảnh thật là khó khăn cho những cây ấy tồn tại trong điều kiện khó khăn đối với họ nhà cọ như thế. Cũng như các cây lá cọ này, người tin Chúa, luôn được nuôi sống và đứng vững trong mọi hoàn cảnh…
Suy niệm
Viên đội trưởng Rôma là người ngoại giáo nhưng ông mạnh tin và xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ xin “Thầy phán một lời”. Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!.
Phép lạ đã xảy ra như lòng ông mong ước… Chính lời tuyên xưng của ông: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi… nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”, đã được Giáo hội mượn để tuyên xưng trong cộng đoàn phụng vụ khi chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Ngày nay, Ðức Giêsu không còn hiện diện hữu hình như xưa, nhưng qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Thần và Lời của Ngài vẫn ở bên con người. Chúng ta cần có đức tin mạnh như viên đội trưởng, tin Chúa có thể làm việc trong chúng ta: Hướng dẫn và trợ giúp, nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày trong cuộc sống như Ngài đã làm cho ước muốn viên đại đội trưởng chữa lành người đầy tớ của ông.
Xin cho chúng con đức tin chân thành mạnh mẽ…
Ý lực sống
“Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị” (Tv 106).
1. Nghe tin Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, một sĩ quan ngoại giáo liền cậy nhờ những người làm lớn trong dân Do thái đế xin Chúa chữa đầy tớ yêu quí của ông đang hấp hối. Và các ông đã đến trình cho Chúa biết lai lịch của viên sĩ quan này. Tuy ông là người ngoại đạo, nhưng ông rất có thiện cảm với đạo giáo. Rồi các ông nài xin Chúa đến cứu chữa đầy tớ của ông. Chúa nhận lời.
Người còn đi dọc đường thì viên sĩ quan nhờ bạn hữu đến thưa không dám rước Người về nhà, chỉ xin Người phán một lời cho người bệnh được khỏi, như ông sai bảo binh lính và đầy tớ làm gì là họ làm theo. Chúa thấy viên sĩ quan này có đức tin mạnh mẽ và lòng khiêm nhường như thế thì khen ngợi, và đã làm phép lạ cho đầy tớ ông được khỏi bệnh.
2. Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này. Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do thái, cũng không phải là một đạo hữu Do thái mà là một kẻ ngoại đạo cầm quyền đô hộ dân Người.
Với những gì thánh Luca tường thuật, chúng ta dễ nhận ra rằng, Chúa Giêsu không quá phân biệt người có đạo hay kẻ ngoại, mà Chúa nhìn thấy tâm hồn của mỗi người... Điều mà Chúa khen tặng và sẵn sàng chữa lành hôm nay, chính là lòng tin, sự khiêm nhường cùng một số các đức tính khác mà chúng ta sẽ triển khai dưới đây.
3. Niềm tin của vị sĩ quan.
Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi cùng có lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo nguòi khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”(Lc 7,8).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do thái tin bệnh tật là do tà thần và sự sữ).
Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp (Hiền Lâm).
4. Lòng thương người của vị sĩ quan.
Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó. Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một “đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ là quá phi thường.
5. Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.
Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).
6. Truyện: Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Một hôm, Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi, Dương Chu mới hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến, dặn:
- Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
Chúa Giêsu chữa bệnh cho đầy tớ một sĩ quan ngoại đạo:
- Ông này có lòng thương người: đầy tớ của ông bệnh mà ông lo lắng như cho con ruột; ông là người rôma nhưng xây cất hội đường cho người do thái.
- Ông cũng khiêm tốn: dù là giới cai trị, ông không ngại hạ mình đến xin Chúa Giêsu là người dân bị trị giúp đỡ mình; ông lại còn nói ông không xứng đáng cho Chúa Giêsu vào nhà ông.
- Đức tin của ông rất mạnh vì ông tin Chúa Giêsu chẳng cần đến nhà ông, chỉ ở xa phán một lời là đầy tớ ông sẽ khỏi.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu sẵn sàng ban ơn cho mọi người dù có đạo hay ngoại đạo, miễn là người đó có lòng tin. Thực tế ngày nay có nhiều người lương tin Chúa và Đức Mẹ, đã xin ơn và được ban cho.
Phần tôi, lắm khi tôi vừa xin vừa hồ nghi không biết sẽ được Chúa ban ơn hay không. Từ nay khi xin ơn Chúa, tôi phải xin với hết lòng tin tưởng.
2. Người sĩ quan này cũng làm gương cho ta về lòng nhân ái: yêu thương đầy tớ, yêu thương người bị trị. Xin cho con biết yêu thương những kẻ dưới quyền, những người kém thế hơn con.
3. Lời ông nói với Chúa Giêsu lại là một tấm gương khác về cách cầu nguyện khiêm tốn. Khi tôi cầu nguyện cùng Chúa, tôi phải bắt chước ông mà nói rằng “Con chẳng đáng”.
4. Chuyện này cũng phải khiến ta ý thức về sức mạnh của Lời Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền có những gì Ngài muốn. Chúa Giêsu chỉ ở xa phán một lời thì người đầy tớ kia hết bệnh.
Xin cho Lời Chúa mà con nghe mỗi ngày trở thành thần dược chữa trị mọi bệnh tật linh hồn con.
5. “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi…” (Lc 7,6)
“Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Lời này khơi lên trong lòng tôi niềm mơ ước được rước Chúa. Dù biết mình không trong sạch, nhưng khi Ngài ngự vào linh hồn, tôi lại cảm thấy vững vàng trong đời sống. Sự hiện diện thực sự của Ngài trong Thánh Thể khiến tôi vững tin hơn để chống lại những cám dỗ thường ngày.
Không như người sĩ quan xưa, tôi biết mình có tội nhưng vẫn cầu xin Chúa thường ngự đến cùng tôi. Vì chỉ có Ngài mới là nguồn động viên an ủi nâng đỡ tôi trong từng phút giây.
Lạy Chúa, Ngài biết rõ mọi tật xấu, nhưng Ngài cũng thấu suốt mọi cố gắng từng ngày của con. Xin Ngài rộng lòng thương rửa sạch và ban bình an cho tâm hồn con. (Hosanna)
Nhân vật chính trong câu chuyện này là một viên sĩ quan người Rôma. Ông là một người tốt.
1. Trước hết, là sĩ quan - ông coi 100 binh sĩ: Một con người có quyền, có chức nhưng ông vẫn thương những người dưới quyền ông.
Sử gia Polybius đã viết về những sĩ quan bách quân đội trưởng như sau: “Họ là những người chỉ huy rất hoạt động, rất đáng tin cậy. Họ không tự tìm nguy hiểm, không quá say mê chiến đấu, nhưng nếu được thúc bách thì họ sẵn sàng kháng cự và chết tại chỗ”.
Trong Tân Ước, cứ mỗi lần có một viên bách quân đội trưởng nào được đề cập đến thì chúng ta thấy họ đều là những người tốt.
2. Ông đã có một thái độ phi thường đối với đầy tớ mình.
Ông thương bằng cách sẵn lòng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó.
Theo luật pháp Rôma, một nô lệ được định nghĩa như một đồ dùng, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về sự quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, kể cả những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa.
Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ quả là phi thường.
3. Ông là người rất sùng đạo.
Một người đã xây cất cho dân chúng một ngôi nhà hội, hẳn không phải là một người chỉ có cảm tình hời hợt với đạo.
Thực ra thì người Rôma có khuyến khích các sinh hoạt tôn giáo nhưng không phải là họ thương những người Do Thái mà là vì mục đích chính trị. Họ làm thế là để giữ cho dân chúng khỏi nổi loạn và trật tự luôn được bảo đảm. Còn thâm tâm họ, thì họ coi tôn giáo chẳng khác gì là một loại thuốc phiện mê dân.
Chính Hoàng đế Augustus khi khuyến khích xây nhà hội cho những người Do Thái, ông cũng làm vì mục đích này. Gibbon có lần đã nói: “Các hình thức khác nhau về tôn giáo thịnh hành trong đế quốc Rôma lúc đó đều được dân chúng xem là đúng đắn cả. Các triết gia thì xem là sai lầm, nhưng quan tòa thì xem điều đó là có ích”.
Đối với viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta thấy khác hẳn: Rõ ràng ông không cư xử như một nhà chính trị, mà rõ ràng ông là người có nhiệt tâm với tôn giáo.
4. Ông có cảm tình phi thường đối với dân tộc Do Thái.
Người Do Thái khinh dân ngoại và dân ngoại ghét người Do Thái. Đó là một điều mà người Do Thái bình thường nào cũng biết.
Chủ nghĩa chống Do Thái không phải là điều mới lạ. Người Rôma gọi dân Do Thái là một dòng giống dơ bẩn. Họ coi Do Thái giáo là một thứ mê tín man rợ. Họ thường nói với những chủng tộc khác về lòng ghen ghét của họ đối với người Do Thái. Họ tố cáo người Do Thái thờ đầu con lừa và mỗi năm người Do Thái giết một người dân ngoại để cúng tế thần mình.
Riêng đối với viên sĩ quan hôm nay, chúng ta thấy giữa ông và những người Do Thái có một sự thân mật rất chân tình, không có gì là giả tạo.
5. Ông là một người khiêm nhượng.
Ông biết rất rõ rằng, một người Do Thái chính thống bị luật pháp của họ cấm bước chân vào nhà một người dân ngoại.
Ông cũng biết rõ rằng, một người Do Thái chính thống sẽ không cho phép một người dân ngoại bước chân vào nhà mình hay là tiếp xúc với người đó.
Chính vì thế mà ông không dám đích thân đến với Chúa Giêsu, nên đã nhờ các bạn người Do Thái của mình đi gặp ngài.
Đúng là con người đã quen chỉ huy này có một sự khiêm nhu lạ lùng trước sự cao cả thật.
6. Và cuối cùng, ông là người có đức tin lớn.
Đức tin của ông dựa trên luận lý vững chắc nhất.
Ông lý luận từ sự kiện trước mắt đến những điều xa xôi, từ kinh nghiệm của riêng bản thân ông tới Đức Chúa Trời. Nếu quyền bính của ông mà còn có hiệu lực như vậy, thì quyền bính của Chúa Giêsu sẽ công hiệu hơn biết bao.
Ông đã đến với lòng tin cậy hoàn toàn như thể ông nhìn lên và thưa rằng: “Lạy Chúa, tôi biết Ngài có thể làm việc này”. Giáo Hội thật có lý khi mượn chính lời ông mỗi khi cử hành “màu nhiệm đức tin”: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Tóm lại, ông là một con người đáng cho chúng ta noi gương bắt chuớc. Ông không có đạo những quả thực ông còn tốt hơn rất nhiều người có đạo xưa cũng như nay.
Xin Chúa cho chúng ta được sống tốt như ông, khiêm nhường như ông, nhất là có đức tin mạnh mẽ như ông để chúng ta cũng được Chúa khen như ông.
Lạy Chúa, xin cải hoá lòng chúng con để chúng con được trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.
Ông sỹ quan trong bài Tin Mừng hôm nay không cùng dân tộc với người Do Thái. Chúng ta thấy nơi ông có lòng bác ái thương người. Cụ thể là ông thương tất cả mọi người, nhất là với người đầy tớ thân tín của ông. Vì thế, khi người đầy tớ này của ông bị bệnh gần chết, ông đã sai vài người kỳ lão đến xin Chúa cứu chữa đầy tớ của ông. Đàng khác, do thương tất cả mọi người mà ông quan tâm đến những người Do Thái, không cùng dân tộc với ông. Bằng chứng là ông chẳng những quan tâm đời sống vật chất của họ và còn cả đời sống tâm linh nữa. Do vậy mà đã xây cất hội đường cho người Do Thái để họ có nơi thờ phượng Chúa, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của họ. Ông có quyền của hoàng đế Rôma trao cho, vì lúc này người Do Thái nằm dưới anh đô hộ của đế quốc Lamã, nhưng ông không dựa quyền để hà khắc với dân, làm khổ dân mà ông sống rất tốt với dân, rất nhân hậu đối với dân. Cho nên mọi người yêu mến ông. Vì thế mà họ đến gần bên Chúa, thưa Chúa là hãy thương ông, ban cho ông ơn ông đang xin.
Ông thương người, ông có đức bác ái, nhưng đàng khác, ông có một lòng khiêm nhường thẳm sâu trước mặt Chúa. Ông biết quyền uy của Chúa cao cả, lớn lao vô cùng, mọi lời Chúa phán, mọi việc Chúa làm ra đều mang lại lợi ích tốt lành cho con người chúng ta. Tất cả mọi người đến với Chúa đều được Chúa ban ơn, không ai trở về với bàn tay không. Nhất nữa, người ta đến với Chúa quá đông đảo, vì chỉ ở nơi Chúa, người ta mới tìm được chân lý, lẽ sống, hướng đi cho cuộc đời này để đạt đến cứu cánh đời người sau này. Còn riêng bản thân ông, ông thấy mình là một thụ tạo bất toàn, bất xứng, tội lỗi trăm bề, và quyền của ông đang có trong tay chẳng là gì so với quyền uy của Chúa, nó chỉ là cát bụi, hư vô, thoáng qua mà thôi. Vì thế, khi Chúa đến, không còn cách nhà ông sỹ quan bao xa, thì ông sai mấy người bạn đến thưa với Chúa rằng: “Lạy Thầy, không dám làm phiền Thầy hơn nữa, vì con không xứng đáng được Thầy vào nhà con, cũng như con nghĩ con không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thấy phán một lời, thì đầy tớ của con được lành mạnh. Vì con cũng chỉ là một sỹ quan cấp dưới, con có những lính dưới quyền con, con bảo người này thì nó đi, bảo người khác lại thì nó lại, và bảo đầy tớ con làm cái này thì nó làm” (Lc 7, 6 – 8). Đúng thật ông là một người quá khiêm nhường trước mặt Chúa và ông xưng tụng Chúa là Chúa của ông, Đấng mà ông yêu mến, tôn thờ, cậy trông.
Vì ông có lòng từ tâm với mọi người và khiêm nhường đối với Chúa, cho nên Chúa thương ông và làm phép lạ cứu chữa đầy tớ thân tín của ông được lành bệnh. Chúa đã thưởng công ông và Chúa còn khen ông là một người có đức tin mạnh mẽ vào Chúa (Lc 7, 10). Vì thế, tất cả chúng ta cần học ở ông tấm lòng yêu thương nhau, sống khiêm nhường, cầu nguyện cho nhau và nhất là giúp nhau nên thánh trong cuộc sống. Chúa rất hài lòng khi chúng ta làm được như vậy trong cuộc đời này.
Lạy Chúa, Chúa không đòi chúng con phải dâng cho Chúa nào là tiền bạc của cải vật chất, những thứ cao lương mỹ vị quý hiếm ở trần gian, Chúa chỉ cần chúng con có một tấm lòng nhân hậu từ tâm như Chúa để chúng con sống yêu nhau. Và Chúa cũng muốn chúng con có lòng khiêm nhường trước nhan thánh Chúa, luôn ý thức mình là thụ tạo bất toàn, sống đúng địa vị thấp hèn của chúng con để Chúa thương chúng con hơn. Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông. Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra. Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ. Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết. Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng, và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận. Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường. Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết, dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai. Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ. Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa. Bà đã dự đám tang của người chồng. Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất. Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi. Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ. Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất. Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại. Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn, chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái. Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14). Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh. Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23). Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu? Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui. Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16). Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44), Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới. Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người. ---------------------------------
“Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Quyền năng Chúa biểu lộ rõ ràng qua việc làm cho anh thanh niên người Na-in đã chết được sống lại. Thiên Chúa là sự sống. Chẳng ai có thể ban sự sống. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa. Thiên Chúa là sự sống lại. Ban sự sống đã khó. Ban sự sống lại còn khó hơn. Để ban sự sống, Thiên Chúa chỉ cần ngự trên chín tầng trời phán một lời. Liền có sự sống. Nhưng để chuộc lại sự sống đã mất, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống trần gian. Đây lại biểu lộ quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Để phục hồi sự sống, Thiên Chúa phải xuống thế làm người. Chúa Giê-su mặc lấy thân xác loài người. Trở nên một với loài người. Tình yêu khiến Chúa kết hợp với loài người. Nên một thân thể. Vì thế Chúa vui với người vui. Chúa khóc với người khóc. Chúa chạnh lòng thương người thanh niên vắn số. Chúa chạnh lòng thương người phụ nữ goá bụa. Nay lại mất đứa con là điểm tựa duy nhất.
Đây chính là nguyên lý xây dựng thế giới. Con người cùng với tha nhân và thiên nhiên làm thành một thân thể. Giết người là giết mình. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại chính mình. Thương người là thương mình. Vun trồng thiên nhiên là vun trồng sự sống của chính mình. Ta là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Thiên Chúa hợp nhất chúng ta. Thiên Chúa điều khiển chúng ta.
Thư Cô-rin-tô dạy: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy…Tất cả chúng ta… đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Vì thế mỗi người phải cố gắng tối đa. Đạt đến tầm vóc hoàn hảo. Để phục vụ thân thể. Đó là “trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (năm chẵn).
Vì thế, thánh Phao-lô cho biết “ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp”. Vì trong một tổ chức, cần có người lo toan việc chung. Nhưng để lo toan việc chung, người ấy phải lo việc riêng hoàn hảo. Có tu thân được mới có thể tề gia. Có tề gia mới có thể trị quốc. Vậy “giám quản phải là người không ai chê trách được” và “phải được người ngoài chứng nhận là tốt”. Có như thế các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô mới hài hoà với nhau. Và mới phát triển lớn mạnh được (năm lẻ).
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.
Đức Giêsu “chạnh lòng thương” và làm cho con trai bà góa thành Naim đã chết được sống lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu tiên báo về sự phục sinh mai ngày của chính Ngài, đồng thời, Ngài cũng nói lên quyền năng của mình trong vai trò là Con Thiên Chúa, và thể hiện bản chất của Thiên Chúa là Đấng hay thương xót.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Hãy vững tin vào Thiên Chúa, vì không có việc gì mà Chúa không làm được. Hãy học nơi Đức Giêsu bài học về lòng thương xót, để sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác. Không bao giờ được phép vô cảm và vô tình trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sự nhạy bén với nhu cầu của người khác phải là tinh thần sống động nơi tâm hồn chúng ta.
Bên cạnh đó, hình ảnh chỗi dạy của con trai bà góa cho chúng ta một bài học về sự sám hối là: trở về với Chúa thì được sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ. Một tấm lòng biết “chạnh lòng thương” như Chúa khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Trước cái chết của một thanh niên, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và làm cho anh sống lại. Những người trẻ chết trong tội lỗi cũng đang cần đến lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn thấy những nỗi đau khổ của chúng con, và Chúa cứu giúp chúng con ngay cả khi chúng con chưa kịp cầu xin với Chúa. Chúa hiểu được nỗi lòng của bà mẹ goá mất người con trai duy nhất. Bà đặt tất cả niềm hy vọng của đời mình nơi người con ấy. Đó là tất cả tương lai của bà, là niềm an ủi và hạnh phúc duy nhất của bà. Người con chết đi là người mẹ cũng mất tất cả. Khi Chúa cho thân xác người con sống lại cũng là lúc Chúa cho tâm hồn người mẹ phục sinh.
Lạy Chúa, xin Chúa nhìn đến bao linh hồn người trẻ đang nằm trong bóng tối sự chết, chết trong tội lỗi. Xin nhìn đến biết bao người mẹ đang than khóc và cũng đang chết đi vì con cái đã chết. Có những người con dù thân xác còn sống đó, nhưng linh hồn đã chết vì xa Chúa. Có những người con chết trong linh hồn, và cả thân xác cũng đang đi dần tới cái chết vì nghiện ngập chơi bời phóng túng.
Xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Xin Chúa biểu lộ quyền năng và ban ơn để các thanh niên thiếu nữ được sống lại, được trỗi dậy sống cuộc đời mới. Giới trẻ chúng con sống lại chính là tương lai của cha mẹ, của Hội Thánh và của đất nước được tươi sáng. Xin Chúa thương nhận lời các bà mẹ chúng con đang cầu nguyện trong nước mắt. Có những lúc dường như hết hy vọng, nhưng chúng con tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa không bao giờ để chúng con thất vọng bẽ bàng khi tin vào Chúa Phục Sinh. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói:
- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra (Theo Flor Mc Carthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr. 192).
Suy niệm
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót người quả phụ có đứa con duy nhất qua đời… mọi người cảm thương và đưa ra nghĩa địa… Bà góa phụ cũng như đang chết. Như đang có hai con người rời bỏ cuộc sống: Người con trai chết được đem ra nghĩa địa chôn cất, người mẹ góa không nơi nương tựa và không người chăm sóc, bảo vệ mình trong đời sống, cho nên bà góa phụ cũng như đang đi vào cõi chết.
Chúa Giêsu nhìn rõ nỗi buồn của người mẹ mất con, Ngài hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa: bà cũng như đang chết, Ngài liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ, Ngài sờ vào quan tài và nói: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7,14). Chúa Giêsu đã can thiệp mau lẹ: Ngài giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim. Chúa làm sống lại con trai bà góa, như thế Ngài cũng mang lại sự sống tinh thần, niềm hy vọng cho người mẹ.
Đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim được sống lại và chính bà cũng được sống lại. Đức Giêsu đã phục sinh cho cả hai mẹ con bà. Sự việc thật kỳ diệu làm cho mọi người tham dự đám tang đang sầu khổ thành niềm hân hoan, mừng vui cho hai mẹ con bà góa.
Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Chúa Giêsu cho sống lại, cũng chính là hình ảnh loan báo trung tâm điểm của Kitô giáo: Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Thật thế, sự chết và Phục sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta như Ngài quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25).
Ý lực sống “Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7,14).
1. Vì tình yêu thương mà Đức Giêsu đem lại niềm an ủi cho bà góa thành Naim. Ngài không đành lòng nhìn bà đau khổ nên đã cho con trai bà sống lại. Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp, Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương. Ngài chạnh lòng thương trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non. Phép lạ cho thấy Đức Giêsu luôn quan tâm đến nỗi khổ của chúng ta. Ngài luôn hiện diện, nâng đỡ, ủi an và cứu giúp chúng ta.
2. Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đau khổ biết bao: một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy chỗi dậy”! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.
3. “Bà góa” là một trong những thành phần được Đức Giêsu ưu đãi và đặc biệt dành nhiều tình cảm nhất, vì họ thuộc nhóm những người nghèo hèn, cùng khốn của xã hội. Họ là đối tượng được Đức Giêsu quan tâm. Ở đây, trước nỗi đớn đau khốn cùng của bà góa thành Naim về cái chết của đứa con duy nhất. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương. Ngài không trì hoãn. Ngài đã đến an ủi bà và làm tan đi nỗi đau nơi bà bằng cách cho cậu con trai của bà sống lại. Không chỉ con của bà được sống lại, tâm hồn của bà và của mọi người chứng kiến sự sống lại này cũng được sống lại, niềm tin của họ vào Thiên Chúa được nảy sinh. “Bà đừng khóc nữa”. Phải, rất cần một thái độ cậy trông hơn là thái độ than vãn trong khi chờ lòng thương xót của Chúa (5 phút Lời Chúa).
4. Trong Tông thư gửi những người sống đời tận hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mời họ ra khỏi chính mình và đi về những vùng biên của cuộc đời, về phía những người đang mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, các bạn trẻ đang gặp ngõ cụt trước tương lai và những người già bệnh tật đang bị loại trừ.
Đứng trước sự đau khổ của bà góa thành Naim, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và ra tay làm phép lạ cho anh con trai duy nhất của bà sống lại. Người đã đi bước trước để xoa dịu và cất đi sự đau khổ của bà.
Ngày hôm nay, xã hội tuy phát triển về kinh tế, thông tin... nhưng con người càng ngày càng dửng dưng, vô cảm với nhau. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống cảm thương trước nỗi đau của người khác. Khởi đi từ việc thương cảm, chúng ta thực thi những hành động bác ái cụ thể để nâng đỡ, ủi an những người đau khổ đang cần sự giúp đỡ (Học viện Đa Minh).
5. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác. Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,15).
Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người. Người Việt nam chúng ta đã có kinh nghiệm về vấn đề này nên đã nói:
Một con ngựa đau cả tầu chê cỏ (Tục ngữ)
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại nơi mình. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác, nghĩa là hãy học biết thông cảm.
6. Truyện: Biết cảm thông và chia sẻ.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giảng viên bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B.... nẩy mầm.
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngỏ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna).
1. Khác hẳn với phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người đầy tớ viên bách quản trong bài Tin Mừng hôm qua, hôm nay chúng ta thấy Chúa làm phép lạ không phải do người ta xin và người được thụ hưởng phép lạ cũng chẳng hề biết gì về việc này vì anh đã chết.
Hoàn cảnh hôm đó rất đặc biệt. Có hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng thành: một đoàn người có Đấng ban sự sống dẫn đầu và một đoàn người khác cùng với một người mẹ goá tiễn đưa đứa con trai duy nhất của bà tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tình trạng còn đau khổ hơn nữa khi người mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự cho mình trong một xã hội trọng nam khinh nữ nhiều bất công này.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thông với nỗi đau buồn lớn lao ấy. Người là Con Thiên Chúa cho nên Người thấy rõ những khốn cực của loài người và Người là con người nên lại càng nhạy bén hơn trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của họ. Người dừng lại trước bà mẹ đang tuyệt vọng và an ủi bà. "Bà đừng khóc nữa!" (Lc 7,13). Việc đó nói lên sự quan tâm của Chúa.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì ?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự dửng dưng và vô cảm của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình trở thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân đôi và nỗi buổn được chia sẻ là nổi buồn sẽ vơi đi một nửa.
2. Tin Mừng còn ghi tiếp: "Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ" (Lc 7,15).
Rất tế nhị và cũng rất gần gũi. Chúa Giêsu trao...trao người đã chết được Ngài cho hồi sinh vào tận tay người mẹ, Bằng cử chỉ như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng, lúc nào Chúa cũng ở thật gần con người nhất là những ai cần đến Chúa.
Cảm nhận được sự gần gũi của Chúa trong cuộc đời là một cảm nhận rất cần thiết. Nó sẽ đem lại cho con người nhiều nghị lực và niềm vui.
Có một người đàn bà đạo đức nọ, trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống bà, đó là giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận giải phẫu vì hy vọng còn sống cho người con trai của bà. Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến giờ đau khổ của bà. Vào thời mà thuốc tê chưa có, bệnh nhân thường qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà vẫn can đảm chịu đựng. Thế nhưng, vào cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình và kêu: "Lạy Chúa".
Chứng kiến cảnh đau đớn của mẹ, đứa con trai không làm chủ được cảm xúc, đã thốt lên những lời xúc phạm đến Chúa. Lúc đó, người đàn bà nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, im đi, con đã làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ nhiều. Con đã làm sỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ". Nói xong, bà mở tay cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Sau mấy tháng quằn quại đau đớn, người đán bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà trao ảnh chuộc tội đó cho con trai và căn dặn: "Con hãy giữ lấy ảnh này, vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
Cái chết, đối với Chúa, nó chỉ là một giấc ngủ, vì thế mà Chúa mới nói với ông trưởng hội đường Giairô, khi người nhà của ông đến báo với ông là làm phiền Chúa chi nữa, con gái ông đã chết rồi.., và khi đến nhà ông, Chúa nói: “Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy” (Mc 5, 29).
Giấc ngủ ở đây là một giấc ngủ ngàn thu (Ngàn thu vĩnh biệt), nó bị tội lỗi vây bủa tư bề, đè bẹp con người chúng ta. Chúng ta không tự dậy được và cũng không ai có thể đánh thức con người chúng ta tỉnh dậy. Duy chỉ một mình Chúa, là Đấng đánh thức, kêu chúng ta chỗi dậy.
Chúa đánh thức chúng ta chỗi dậy trong ngày phán xét. Khi đó, thiên thần vâng lệnh Chúa, thổi loa, và khi chúng ta nghe hiệu lệnh từ tiếng loa của các thiên thần, chúng ta thức dậy để Chúa phán xét tất cả con người chúng ta từ tạo thiên lập địa cho đến lúc đó. Những người nào sạch tội nặng, tội nhẹ, Chúa cho lên thiêng đàng cả hồn lẫn xác. Những người nào mắc tội nặng, Chúa phạt xuống hỏa ngục cả hồn và xác. Khi ấy, chúng ta hạnh phúc là hạnh phúc đời đời, còn bị phạt là bị phạt đời đời, bị đau khổ là khổ đời đời, bị trầm luân là trầm luân đời đời: “Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Chúa Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1Thes 4, 16 – 18).
Hôm nay, Chúa không để đến ngày tận thế, Chúa mới bảo anh thanh niên là người con duy nhất của bà góa thành Naim đã chết và đang được người ta khiêng đi chôn cùng với mẹ của anh đi theo được chỗi dậy, mà Chúa lại dành cho anh một ơn ban đặc biệt là kêu anh chỗi dậy luôn ngay bây giờ. Sở dĩ Chúa làm như vậy là vì Chúa thương anh, và mẹ của anh vì bà quá đau khổ, thất vọng không biết nương vào một ai lúc này cách riêng, và cách chung là Chúa thương tất cả mọi người chúng ta. Bởi vì chúng ta không hiểu về sự chết. Chúng ta tuyệt vọng, bế tắc, không lối thoát khi đứng trước cái chết. Chúng ta chỉ biết là khiêng người chết đi chôn mà thôi. Do đó, Chúa nói mẹ anh thôi đừng khóc nữa, Chúa bảo người khiêng anh dừng lại, Chúa chạm đến quan tài như là một dấu chỉ Chúa thương anh vô bờ bến và Chúa truyền lệnh kêu anh chỗi dạy: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chỗi dậy. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Chúa trao lại cho mẹ nó” (Lc 7, 14 – 15). Để rồi qua phép lạ này, dân Chúa mới hiểu phần nào về sự chết, và Chúa có quyền trên cả sự chết, dân chúng sẽ tin tưởng vào Chúa hơn. Một khi tin tưởng rồi, họ sẽ cao rao quyền năng Chúa khắp nơi: “Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa, và khắp vùng lân cận” (Lc 7, 16 – 17).
Lạy Chúa, tất cả mọi sự trên trần gian này thuộc quyền của Chúa, sự sống, sự chết thuộc quyền của Chúa. Chúng con là con cái của Chúa thuộc sở hữu của Chúa, xin Chúa thương xót chúng con và ban ơn cho chúng con khi chúng con kêu xin Chúa, tìm về Chúa để chúng con nương tựa trong cuộc sống tro bụi này: “Vì nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống, hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả” (Rm 14, 8). Amen.
Thái độ thiếu nhất quán. 18 /09 – Thứ Tư tuần 24 thường niên. "Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. "Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc". Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32). Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau. Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới, thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa. Nhưng nhóm kia đã không tham gia. Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột. Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc. Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy. Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh. Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi. Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài. Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ. Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn, đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30). Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải. Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33). Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến. Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần. Người ta đã coi ông là bị quỷ ám, nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế. Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này, Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa. Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường. Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng, một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng. Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng. Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế. Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa. Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan, bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34). Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này. Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ. Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh. Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý, con người chẳng được tự do. Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ. Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan, mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)? Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau? Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen. ---------------------------------
Chúa Giê-su khen ngợi trẻ thơ. Mời gọi ta phải nên như trẻ thơ. Để được vào Nước Trời. Nhưng Chúa dạy ta đừng cư xử như trẻ con. Trẻ con tính khí thất thường. Đòi hỏi theo ý mình. Không vừa ý là phá bĩnh. Không đón nhận người khác. Không cần lý lẽ. Chỉ theo cảm tính. Không hoà hợp với mọi người. Không thích trò chơi đám cưới thì nhất định không nhảy múa, dù bạn bè đã trổi đàn cất hát. Không chịu chơi trò đám ma thì nhất định không than khóc, dù cuộc chơi đã khởi sự tấu bài chia ly buồn thảm.
Người lớn mà cư xử như trẻ con thường hỏng việc. Hỏng cả đời. Nhưng nguy hại nhất là hỏng đời đời. Người Do thái bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Chúa sai Gio-an đến dọn đường họ cũng không chấp nhận. Chính Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đến họ cũng chối từ. Vì họ không muốn theo ý Chúa. Vì họ theo ý riêng. Không có lý lẽ gì hết. “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.
Thư Cô-rin-tô mời gọi ta phải lớn lên. Đặc biệt trong đời sống thiêng liêng. Đừng mãi mãi là trẻ con: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”. Thành người lớn là biết phân định điều gì là quan trọng, cốt thiết trong đời sống. Như thánh Phao-lô dạy: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đức mến sẽ giúp ta gặp được Chúa. Và sống hài hoà với anh em. Vì thế phải ưu tiên thực hành đức mến (năm chẵn).
Nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô. Đây là “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”. Nhưng việc nhận biết Chúa Giê-su thật khó khăn.Vì “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm”. Sinh sống, ăn uống, giao tiếp với mọi người và như mọi người. Vì thế khó được chấp nhận như một Đấng Cứu Thế. “Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; được các thiên thần chiêm ngưỡng”. Vì thế để nhận ra Người cần có ơn Chúa Thánh Thần. Để có ơn Chúa Thánh Thần, cần có tâm hồn trẻ thơ. Tâm hồn trẻ thơ như thiên thần. Sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Sẽ nhận ra Đức Ki-tô (năm lẻ).
Cần phải lớn lên. Thoát khỏi thói trẻ con bướng bỉnh. Để có tâm hồn trẻ thơ ngoan ngoãn. Biết mở lòng ra với ơn thánh.
Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.
Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.
“Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.” (Lc. 7, 31-32)
Dù là ai, dù làm thế nào cũng luôn luôn có những kẻ chối bỏ mọi thứ, chối bỏ tất cả. Đó là trường hợp một số những kẻ đồng hương của Đức Kitô, họ mang bệnh kinh niên không tin gì hết, chối bỏ mọi chứng cớ hiển nhiên tới cùng. Đức Kitô gọi họ là “Dòng giống này”, một từ ngữ mang tính chất phán xét. Họ vẫn có ảo tưởng về một dân tộc được tuyển chọn, nhưng trong bốn mươi năm vượt sa mạc dầu được hưởng bao nhiêu phép lạ họ chứng kiến rõ ràng, họ vẫn không muốn theo Chúa.
Đức Giêsu so sánh họ với lũ trẻ ranh con quậy phá cứng đầu ngoài chợ. Chúng chơi dỡn để làm cho nhiều người múa nhảy, mà không ai theo, chúng hát bài đưa ma để làm cho người ta khóc, mà không ai thèm khóc. Chắc hẳn Đức Kitô muốn nói quá về những quậy phá của hạng người tai to mặt lớn quá ngu muội trong dụ ngôn nực cười này.
Khi kém lòng tin, không gì có thể mở tai mở mắt cho họ được. Ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả đến và sống khắc khổ đến nỗi không ăn bánh, không uống rượu, họ xử với ông như kẻ bị quỷ ám. Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đến ăn uống như mọi người, không phải để hùa theo kẻ mê ăn uống, nhưng họ coi Người là tay ăn nhậu và họ xỉ nhục tố cáo Người là bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. “Bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” đó là điều Đức Kitô muốn và đó là lý do Người đến trần gian: để cứu chữa những người tội lỗi và tật xấu. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là bằng việc làm. Điều đó làm cho kẻ chống đối và bất tín kinh niên giận dữ cho đến tận thế, những ai muốn theo Đức Kitô trên con đường này, đều vấp phải tâm thức trẻ con cố chấp này. Họ không bao giờ có lòng thương xót tha thứ. Giáo Hội biết rõ thế và đã quyết chí trở về với con đường của Đức Giêsu.
Gioan Tiền Hô là một người cao trọng hơn hết mọi người nam. Đây chính là lời khen ngợi của Đức Giêsu dành cho ông. Tuy nhiên không phải ai cũng là người nghe ông, cụ thể là các người Pharisêu và Luật sĩ đã khước từ lời của Gioan.
Trước tình trạng đó, Đức Giêsu đã nhận định về lập trường và thái độ của các người Pharisêu và Luật Sĩ như sau: họ giống như lũ trẻ ngồi ở ngoài phố chợ, gọi nhau mà bảo:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc"!.
Hình ảnh của lũ trẻ và lời nói của Đức Giêsu, hẳn cho chúng ta thấy Ngài lên tiếng khiển trách nặng nề về sự mập mờ, gian dối và hay đổi trắng thay đen, nói một đàng làm một nẻo của các người Pharisêu và Luật Sĩ. Họ giống như lũ trẻ nơi phố chợ. Vì thế, những lời họ nói chẳng đáng tin tưởng vì không có giá trị.
Hình ảnh của các người Pharisêu và Luật Sĩ hẳn cũng còn đầy dẫy trong xã hội của chúng ta hiện nay. Khi thì chỗ này, lúc chỗ kia, vẫn còn đó những con người luôn tìm mọi cách bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để chụp mũ người lương thiện, công chính. Họ thuộc hạng nói dối chuyên nghề, nên đâu còn chỗ cho Lương Tâm lên tiếng!!! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn thấy xuất hiện những hạng người “nổ” rất lớn với những lời lẽ “đao to búa lớn”; “rất kêu”, nhưng thực ra những lời đó chẳng khác gì lời nói của con nít, không đáng để chúng ta tin tưởng, bởi lẽ họ “nói mà không làm”; hay “nói một đàng, làm một nẻo”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng trong sự thật, có thế, chúng ta mới được người khác tôn trọng, bằng không, chúng ta chỉ như bọn trẻ nơi phố chợ mà thôi!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào tình trạng của các người Pharisêu và Luật Sĩ khi xưa là: cố chấp, bảo thủ, lập lờ và gian dối. Xin cho chúng con biết sử dụng trí tuệ Chúa ban để phục vụ cho công lý và sự thật. Amen.
Sứ điệp: Chỉ vì ngoan cố và vì thiếu thiện cảm mà người ta đã xuyên tạc cuộc sống và việc làm của Chúa Giêsu. Nhưng dù vậy, chân lý về Ngài vẫn rực sáng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay cho con thấy đã có lần những lời kêu mời của Chúa không được người đời đáp trả. Con người đã tỏ ra dửng dưng với Tin Mừng, không nhận ra Tin Mừng được loan báo cho họ. Người đời đã hiểu sai cách sống của Chúa và của Thánh Gioan Tẩy giả. Cuộc sống khắc khổ nhiệm nhặt bị coi là lập dị lạ đời. Nhưng tiếp xúc, gặp gỡ kẻ khác thì lại bị xem là xu thời nông nổi.
Lạy Chúa, con là người Kitô hữu, là người tin vào Chúa. Thế nhưng đôi khi cuộc sống con đã có những lần làm cho Chúa buồn và thất vọng.
Tuy rằng con không là kẻ đối kháng lại Chúa, nhưng con vẫn không đủ dứt khoát để dấn bước theo Chúa, con chưa đủ xác tín vào Lời Chúa. Con chưa đủ sức bước theo Chúa với cây thập giá trên vai. Con không dám thực hiện các mối phúc mà Chúa đã công bố… Nói chung, cuộc sống con vẫn còn những vướng mắc, ngăn cản con đón nhận sứ điệp cứu độ.
Hôm nay, xin Chúa giúp con xác định thái độ đón nhận Lời Chúa. Con không đủ can đảm để mạnh dạn bước theo Chúa, chỉ biết trông nhờ ơn Chúa. Xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào cuộc sống con, để Chúa trở nên sức mạnh lôi kéo con đến với Chúa. Ước gì khi con cảm nhận được những việc kỳ diệu Chúa thực hiện nơi cuộc đời con, con càng vững tin vào Chúa hơn – Lạy Chúa, con tin, xin đón nhận con. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.
Gioan Tẩy giả sống rất thánh thiện đến nỗi dân chúng cho ngài là chính Đấng Mêssia tức là Đấng Cứu Thế đang đến. Ngay cả những người biệt phái, luật sĩ, tư tế cũng ngạc nhiên, sai người đến hỏi ông có phải là Đấng Cứu Thế không.
Mặc dầu người ta kính nể, Gioan Tẩy giả vẫn luôn khiêm nhượng, mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng, tự xưng mình chỉ là tiếng kêu trên rừng, là người đầy tớ hèn mọn nhất của Đấng Cứu Thế.
Mặc dù bị người biệt phái, luật sĩ, tư tế từ chối không tin, Gioan Tẩy giả vẫn nêu cao con đường ngay chính của Chúa và nói cho họ biết cơn giận của Chúa sẽ đến tiêu diệt những hạng người cố chấp và kiêu ngạo….
Suy niệm
Gioan, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế rao giảng sám hối cho dân chúng, sống rất giản đơn: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư cùng là những người rao giảng lời Chúa: “Đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5) hay “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan khó nghèo, thanh đạm: “Ăn châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang nhờ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Nhưng người biệt phái cho Gioan là: “Người bị quỷ ám!”.
Đức Giêsu hoà mình với mọi người để chia sẻ, kể cả đồng bàn với những người thu thuế, tội lỗi... thì họ lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Cùng đồng bàn với người thu thuế nghĩa là Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia kêu gọi trở về chính lộ. Người biệt phái lại cho là: “Người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi”.
Ðức Giêsu so sánh họ với bọn trẻ ngoài chợ không hiểu biết gì về sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Họ chỉ biết chú trọng đến bản thân, nên không mở tâm hồn đón nhận lời rao giảng của Gioan, không đón nhận lời rao giảng, giáo huấn tình thương của Ðức Giêsu, Ðấng Cứu Thế. Họ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta bướng bỉnh, kiêu căng, không muốn đón nhận Chúa và anh em, luôn chỉ trích phê bình dựa trên suy nghĩ và cảm xúc bản thân.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn sẵn sàng mở ra Lời Chúa mạc khải và tiếp nhận, mở ra với mọi người anh em trong tinh thần sẻ chia…
Ý lực sống:
“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).
Đức Giêsu phê phán sự cứng lòng và kiêu ngạo của người Do thái, đặc biệt các luật sĩ và biệt phái. Họ luôn tìm cách biện minh cho mình và trốn tránh sự thật. Ông Gioan Tẩy giả sống khắc khổ, họ bảo là quỷ ám. Còn Đức Giêsu sống giản dị, gần gũi, hòa đồng với dân, họ lại cho là một tay ăn nhậu, bê tha. Thế nhưng, sự hiện diện và yêu thương của Đức Giêsu càng chứng tỏ cho thấy họ thật ngoan cố và ác tâm. Nếu chúng ta cứng lòng không tin vào Đức Giêsu chúng ta cũng sẽ không nhận ra Người.
Đức Giêsu trách dân chúng thời đó, nhất là các biệt phái và luật sĩ thờ ơ lãnh đạm với Gioan Tẩy giả và đối với Ngài. Vì thế, Đức Giêsu dùng dụ ngôn lũ trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên điều ấy. Cũng giống như ở Việt Nam, trẻ em Do thái thường có những cuộc hát đối hơi khác Việt Nam một chút. Các trẻ em thường chia làm hai phe: một bên xướng tiểu khúc hoặc vui hoặc buồn, còn bên kia hoạ lại điệu vui hay buồn với câu điệp khúc của những bài ca dao có sẵn. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ nghịch ngợm, không cứ theo lệ quen, bên xướng, ca hát vui vẻ thì chúng lại phá đám bằng giọng bi ai, than khóc, hoặc ngược lại. Đôi khi có những đứa ương ngạnh đứng đấy mà không chịu làm theo. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Đức Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài đường phố, để nói lên thái độ trái nghịch của người Do thái. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Đức Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài đường phố này. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỷ ám; Đức Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại cho rằng Ngài là tên ăn nhậu, hoà nhập với phường thu thuế tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
Thói thường, con người ta dễ lấy mình làm trung tâm và muốn áp đặt tư tưởng và hành động của mình lên người khác. Vì thế mà qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng áp đặt người khác phải theo tư tưởng của mình.
Giống như bọn trẻ thổi sáo giả bộ đám cưới đòi người khác hát, ca bài đưa đám giả bộ buồn bắt người khác khóc theo... với một hoàn cảnh không thực tế. Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không khắc khổ kiểu Gioan Tẩy giả và làm bạn với bậc đế vương, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ, kể cả Đức Giêsu (Hiền Lâm).
Lối sống của Gioan Tẩy giả và của Đức Giêsu thật khác nhau. Gioan nhiệm nhặt, còn Đức Giêsu thông thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do thái chỉ trích, do chính lối sống của mỗi vị. Vạch ra cái “buồn cười” ấy ở đây, Đức Giêsu không chỉ nhằm xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng: không có một lối sống duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận một lối sống phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái hồn của lối sống mà mình đảm nhận (5 phút Lời Chúa).
Khi trò chơi Flappy Bird và tác giả của nó trở nên nổi tiếng, được giới truyền thông thế giới quan tâm, thì có hàng loạt ý kiến trái ngược như “ăn may chứ có gì hay” hoặc “game ngớ ngẩn thế mà sao lắm kẻ thích”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những người Do thái đã có thái độ ghen tị với Đức Giêsu. Họ không những từ chối sứ điệp Tin mừng của Đức Giêsu, mà còn có những lời chê bai, nhận xét xấu xa về Ngài. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng dễ xét đoán và đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của mình. Tệ hơn nữa, lắm khi vì đố kỵ trước những thành công của người khác mà chúng ta tìm mọi cách để bôi nhọ và làm suy giảm danh tiếng của họ.
Truyện: Chủ quan, phiến diện
Lúc 11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: “Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được”. Lên 16 tuổi nó nói: “Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc cũng có thể làm”. Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với kiến thức của tôi thì thua kém xa”. Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ”.
Năm 30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: “Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường có lý”. Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm được lòng và tuyên bố: “Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần!”
- Không chịu nghe lời giảng của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu mà hoán cải, - Lại còn viện cớ đổ thừa rằng bởi vì Gioan là người bị quỷ ám, và Chúa Giêsu là tay ăn nhậu, tội lỗi.
B.... nẩy mầm.
1. Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:
- Chúa nhựt không đi lễ: tại vì trời mưa. - Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh… - Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói…
2. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác: “Gioan là người bị quỷ ám”, “Giêsu là tay ăn nhậu”.
3. Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc của Chúa không đúng như chúng ta mong muốn. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống hòa hợp với chương trình của Chúa. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Ông Gioan Tẩy giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì các ông lại bảo ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế, phường tội lỗi” (Lc 7,33-34)
Trong làng kia có một nông dân rất khô khan nguội lạnh, không sống đạo theo đức tin của mình. Một sáng Chúa nhựt nọ ông bảo đứa con trai rằng:
- Sáng nay con ra đồng làm việc với ba nhé.
Cậu điềm tĩnh trả lời:
- Thưa ba, hôm nay là ngày Chúa nhựt mà. - Chúa nhựt thì sao? Bộ Chúa nhựt không làm việc được hả? Ý con thế nào? - Thưa ba, con muốn nói giới răn thứ ba Chúa dạy phải thánh hóa ngày Chúa nhựt và phải cầu nguyện.
Nghe vậy người cha bực tức gắt lên:
- Giới răn là cái quái gì !
Một ý tưởng loé lên trong trì, cậu con nhanh nhẩu thưa lại:
- Thưa ba, nếu ba nói như vậy thì con không tuân giữ các giới răn của Chúa, kể cả giới răn thứ tư là giới răn Chúa dạy vâng lời cha mẹ !
Lạy Chúa, xin ban cho con có được sức mạnh của lòng tin, để con đón nhận tình yêu của Chúa. (Hosanna)
- Không chịu nghe lời của Gioan Tẩy Giả và của Ngài mà hoán cải. - Lại còn viện cớ đổ thừa là vì Gioan là người bị quỷ ám, còn Ngài là tay ăn nhậu, tội lỗi.
Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm, để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:
Chúa nhật không đi lễ: tại vì trời mưa. Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh. Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói.
Một cha xứ gặp chị đàn bà chồng mới chết mấy tháng, ngài hỏi:
- Chắc con còn nhớ bạn con lắm, con nên xin lễ cầu nguyện cho bạn con.
- Thưa cha, con vẫn nhớ bạn con hằng ngày. Nếu bạn con nay đã lên Thiên Đàng rồi, con tưởng chẳng cần phải xin lễ nữa.
- Phải, nhưng nếu bạn con chưa lên Thiên Đàng?
- Nếu không lên Thiên Đàng, bạn con đã phải sa hỏa ngục. Sa hỏa ngục mà xin lễ, thì vô ích.
- Con nói đúng, song nếu bạn con đang phải giam trong luyện tội?
- Thưa cha, nhà con rượu chè, bê tha nếu phải giam trong luyện ngục thì cũng đáng lắm.
Thế là cả đời, chị ta không hề xin lễ cho chồng.
Đúng như sách gương phúc đã nói: “Ai sẽ thương con sau khi đã chết. Người ta quên con chóng hơn con tưởng nhiều. Con không thương con thì ai sẽ thương con. Nào được mấy người con mỗi năm xin cho cha mẹ được vài ba lễ. Người ta tưởng mình đã làm đầy đủ nghĩa vụ người con thảo, vợ hiền. Chúa đã ban cho người ta cái quyền cứu thoát, như xin lễ, ngắm đàng Thánh Giá, ân xá, mà người ta không dùng để cứu, thì người ta có phải là con thảo và người vợ hiền chăng”.
2. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác:
“Gioan là người bị quỷ ám”.
“Giêsu là tay ăn nhậu”.
Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc Chúa làm không như chúng ta mong muốn. Ông Gioan Tẩy Giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo “Ông ta bị quỷ ám” (Lc 7,33). Con người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì người ta lại bảo “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế, phường tội lỗi” (Lc7,34).
Nhà hùng biện Démosthène trổ tài ngôn ngữ hoạt bát vốn có của mình để biện hộ cho một bị cáo. Ông nói năng rất hùng hồn và đưa ra nhiều lý luận rất đanh thép, nhưng những người nghe vẫn không mảy may quan tâm chú ý. Thấy thế ông bèn thuật câu chuyện dưới đây:
Có một du khách kia thuê một con lừa để đi ngoạn cảnh. Lối giữa trưa, mặt trời đứng ngay đỉnh đầu, ông ta không tìm đâu ra một bóng mát để tránh nắng. Bỗng dưng, ông ta nảy ra một ý nghĩ. Ông nhảy xuống khỏi lưng lừa và ngồi dưới bụng của con vật. Nhưng người chủ lừa đi theo để hướng dẫn ông ta trong cuộc du ngoạn, tỏ ý không bằng lòng, viện cớ bóng mát của con lừa không có tính trong giá tiền cho thuê. Hai bên cãi vã, ban đầu nhỏ, sau to dần và rốt cuộc họ đánh đấm với nhau, đến nỗi cả hai phải đưa ra trước quan án để nhờ xét xử.
Démosthène ngưng câu chuyện tại đó và tiếp tục bào chữa cho thân chủ của ông. Những thính giả tỏ ý phản đối. Họ nhất định đòi ông cho biết quan tòa tuyên án thế nào trong vụ bóng của con lừa. Ông chụp ngay cơ hội ấy quở trách họ cách nặng nề rằng, họ giống như con trẻ, chỉ thích để ý đến một câu chuyện phù phiếm về cái bóng của một con lừa mà không chịu để ý lắng tai nghe lời bênh vực của ông đối với mạng sống của một con người.
Chúng ta nói thế nào về những kẻ để thì giờ của mình hơn thua về những việc sẽ qua đi, chỉ tồn tại một thời gian ngắn, mà bỏ quên vấn đề quan trọng hơn tất cả, đó là sự sống đời đời (Croire ét Sevir).
Khi tin vào Chúa Giêsu, thì chúng ta phải biết lắng nghe với lòng chân thành. Có thế, ta mới nhận ra được tiếng của Ngài, bằng không thì Lời Chúa có sức mạnh đến đâu, linh nghiệm đến đâu cũng chẳng sinh ích gì cho chúng ta.
Xin được trích ra đây lời cầu nguyện của một linh mục:
Lạy Chúa, xin ban cho con tính Ngay Thẳng, biết tôn trọng chân lý, để không bao giờ con hiểu theo nghĩa xấu, điều mà có ai đó đã làm phiền lòng con. Xin ban cho con một tấm lòng Khiêm Tốn, để con không trở nên cứng cỏi, bất chấp những lời chỉ dạy, những lời phê bình, những lời kết án khắt khe từ mọi phía. Xin ban cho con một tấm lòng Quả Cảm, chịu đựng anh em con một cách lâu bền, để giúp họ được bình an hạnh phúc, dầu cho họ còn yếu đuối và đầy khuyết điểm. Xin ban cho con ơn Sáng Suốt, đừng dễ tin vào điều xấu mà người ta đã nói về kẻ vắng mặt; và nhất là cương quyết không kể lại cho ai khác những điều xấu đã lọt vào tai con. Amen.
Một điểm đặc biệt của trẻ thơ là chơi chung với nhau, hòa đồng với, chưa biết chia rẽ như người lớn của chúng ta.
Tuy trẻ em đơn sơ như thế, dễ thương như vậy, nhưng các em không hiểu nhau. Bạn mình hiểu như thế này, còn mình thì hiểu như thế khác trong lúc chơi chung, cho nên hay xảy ra mâu thuẫn với nhau: “Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh mà các anh mà các anh không múa nhảy? Chúng tô đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc” (Lc 7, 31 – 32).
Điều Chúa muốn nói ở đây là những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão tuy họ đã là người lớn, đã trưởng thành, có ăn có học hơn những người dân bình thường khác, nhưng đầu óc của họ lại chất chứa những mâu thuẫn nhau. Sự mâu thuẫn này được ví như những trẻ em ngoài đường phố mà Chúa nói ở trên. Vì thế nó dễ dẫn đến bất đồng, chia rẽ, xâu xé nhau. Nơi trẻ em thì không có điều này, nhưng ở họ thì có. Nguyên nhân của nó là vì lối sống giả hình, giả bộ của họ. Họ nhìn nhận những gì xảy ra ở nơi thánh Gioan Tẩy Giả và các môn đệ của Chúa theo chủ quan, ác ý, chua cay, ganh tỵ của họ. Nhưng trên hết và nhất là họ không có đức bác ái. Họ không thương những người nghèo, những người bệnh hoạn tật nguyền, những người tội lỗi. Thái độ của họ là không tiếp xúc, xa tránh những người tội lỗi, cô lập những người tội lỗi, đẩy những người tội lỗi vào con đường cùng, không có lối thoát để hoàn lương, thay đổi cuộc sống mà sống tốt hơn.
Chúa thì khác hoàn toàn đối với họ. Lòng nhân hậu của Chúa bao la hải hà. Chúa thương hết mọi người, nhất là những người tội lỗi. Chúa đến là để cứu chữa những người tội lỗi, vì thế mà Chúa gần gũi với họ. Chúa tiếp xúc trực tiếp với họ. Chúa đồng bàn, cùng ăn cùng uống với họ. Mục đích là Chúa không muốn người tội lỗi sợ Chúa như sợ những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão. Chúa muốn cho họ thấy tình Chúa yêu thương họ mà họ ăn năn trở về với Chúa. Vì thế chúng ta càng tội lỗi thì Chúa lại càng gần gũi với chúng ta, càng thương chúng ta và càng tìm cách dẫn đưa chúng ta về với Chúa hơn: “Bởi vì Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: Người bị quỷ ám. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi nói: Kìa con người mế ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 33 – 34). Họ suy nghĩ, họ nói gì thì kệ họ, Chúa không chấp nhất, vì Chúa thương cứu con người chúng ta. Đây là sứ mạng Chúa lãnh nhận từ nơi Chúa Cha, đã có biết bao nhiêu người theo Chúa, trở về với Chúa, trong đó phải kể đến thánh Mátthêô thu thuế, Giakêu, thánh Mađalenna, ông trộm lành…và còn vô số người đã tin Chúa, nhờ Chúa, họ đã tìm được con đường, hướng đi về với Chúa. Vì thế mà Chúa mới nói tất cả mọi người chúng ta là hãy nhìn vào thức tế để xem thử những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, họ có giống trẻ con hay không? Ai là người thương dân?: “Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chứng bởi tất cả con cái mình” (Lc 7, 35).
Lạy Chúa, chúng con rất hạnh phúc, rất hãnh diện được làm con của Chúa. Chúng con xin Chúa tuôn đổ lòng từ bi nhân hậu của Chúa xuống trên chúng con như lòng chúng con trông cậy kêu xin nơi Chúa, để chúng con ngày ngày ca ngợi Chúa, tôn thờ Chúa. Amen.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn.
Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.
Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít". Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa. Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1). Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31). Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu. Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon. Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu, cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34). Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó, các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối, chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn. Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào. Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc. Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố, nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không. Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc. Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ. Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài. Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37). Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở. Nước mắt chị làm ướt chân Ngài. Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ, hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha? Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu. Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa. Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy!). Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm, vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi. Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành. Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.” Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ. Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy, thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa! Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8). Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm. Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi, nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ. Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc. Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình: rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm. Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn. Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến. Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy. Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình. Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ, Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42) Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50. cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả. “Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn?” Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng. Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn. Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít. Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế. Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon. Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46). Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu. Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách, nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia. Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này. Câu này trước đây thường được dịch như sau: “Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,” Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều. Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng. Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều. Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ. Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn. Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42), và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa. Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia, vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn!!! Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không? Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa? Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn. Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47). Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn. Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới, can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn. Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ. Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc: “Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó. Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ. Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị. Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị. Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin. Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50). Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ: lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn, Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng, và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu. Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không? Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.
Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.
Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.
Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).
Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật việc cô Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Sự trở lại của cô đã làm cho nhiều người kinh ngạc và hành động của cô cũng gây nên không ít sự tò mò cho mọi người xung quanh!
Tưởng cũng nên nhắc lại, Mađalêna là một cô gái điếm chuyên nghề, nhưng cô đã được Đức Giêsu giải cứu khỏi cái chết trước sự hằm hằm của các người Pharisêu khi họ dẫn giải cô đến để xin Ngài xét xử.
Cô đã được quý nhân phù trợ, Đức Giêsu đã giải thoát cô khỏi chết và phục hồi tinh thần cho cô bằng tình thương xót của Ngài.
Vì thế, cuộc đời của Mađalêna đã thay đổi từ đó.
Nếu trước kia đôi mắt của cô là đôi mắt đa tình, thì nay đôi mắt đó đã đẫm lệ ăn năn.
Nếu trước kia mái tóc là vật để trang điểm thân xác và tạo sự chú ý của các chàng trai khát tình, thì giờ đây đã dùng để lau chân Chúa.
Nếu đôi môi là nơi diễn ra những nụ hôn nồng thắm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trác táng, thì giờ đây cô đã dùng vào việc hôn chân Chúa.
Nếu trước kia dầu thơm là mồi câu khách làng chơi, thì giờ đây, cô đã dùng vào việc xức chân Chúa.
Tất cả những hành vi đó của cô đã biểu lộ một đức tin tuyệt đối và lòng yêu mến nồng nàn với Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát cô khỏi tội lỗi và khỏi chết.
Thật vậy, cuộc đời của mỗi con người đều có một quá khứ và tương lai, các thánh là những người cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó! Điển hình là Mađalêna, cuộc đời của ngài từ tội nhân trở thành thánh nhân nhờ ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ lòng bao dung tha thứ của Đức Giêsu, Mađalêna đã được phục hồi giá trị làm người và làm con Thiên Chúa. Bây giờ cô có quyền ra đi trong cuộc sống với một tâm hồn bình an vì đã yêu nhiều nên được tha nhiều.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa trong tâm tình thống hối ăn năn.
Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Vì tội chúng ta có đỏ như son, có thẫm tựa vải điều, thì Thiên Chúa cũng tẩy cho trắng như bông, sạch như tuyết.
Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải quay trở về với Chúa trong sự khiêm tốn, ăn năn, tin tưởng. Tất cả được xây dựng trên lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi tội lỗi, và ban ơn giúp sức để chúng con được ơn trở về với Chúa cách trọn vẹn và trung thành như thánh nữ Mađalêna khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Thái độ ăn năn thống hối thực lòng của người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa thương xót. Ai tin tưởng vào tình yêu Chúa, sẽ được cứu độ và được bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và hay thương xót, tấm lòng bao dung của Chúa là nơi nương tựa cho con là kẻ tội lỗi. Nhờ lòng thương xót của Chúa, một người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn có cơ may làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa không đánh giá chúng con theo vẻ bên ngoài hoặc dựa vào công nghiệp của chúng con. Trái lại, Chúa xét xử con người theo những tâm tình, suy tưởng sâu kín trong lòng, Chúa thấu suốt tâm tình sám hối chân thành phát xuất từ lòng yêu mến.
Phủ phục dưới chân Chúa, người phụ nữ tội lỗi không nói gì mà chỉ biết khóc. Chị khóc cho tội lỗi của mình, những giọt nước mắt của lòng sám hối ăn năn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy được sự nặng nề của tội con đã xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xin cho con được lòng yêu Chúa để biết khóc tội lỗi mình. Xin đừng để lòng con chai đá, nhưng giúp con biết chân thành sám hối.
Lạy Chúa, Chúa đã tha, đang tha, và mãi mãi tha hết những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa. Chúa yêu con vô bờ. Xin cho con luôn tin tưởng vững vàng và cậy trông vào Chúa, cho con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Hòa Giải, để con được giao hoà lại với Chúa và anh em. Chỉ có Chúa mới có thể làm cho con được tái sinh và có sức mạnh đổi mới đời sống. Chỉ trong Chúa con mới tìm lại được bình an và được sống trong tình yêu. Con được tha nhiều, con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”.
Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho Tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời.
Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đến bên Chúa Giêsu là một người tội lỗi, trong thành ai cũng biết. Theo luật Do Thái thì người tội lỗi không được phép tiếp xúc với người bình thường (thanh sạch), vì nếu tiếp xúc sẽ làm lây lan tội lỗi cho người thanh sạch.
Chị bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bất chấp cả luật cấm, có thể khiến chị bị ném đá, để thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình: Đến quỳ dưới chân Đức Giêsu, vị Thầy rao giảng tình thương, bao dung với người tội lỗi. Chị khóc nức nở, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau và hôn chân Ngài và không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) xức chân Ngài...
Một hình ảnh khác cũng giống như chị, người thu thuế là một dạng tội nhân công khai khác (x. Lc 7,29), đã nhìn nhận tội lỗi và tin rằng Thiên Chúa công chính, anh ta cũng nhận được ơn tha thứ của Người.
Trước niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mến chân thành, chị đã được Chúa tha thứ dù tội chị rất nhiều, vì sự sám hối và tình yêu tỏ lộ. Ngài nhấn mạnh ý nghĩa hành động của người phụ nữ: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Như vậy niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ và cứu độ.
Xin Chúa cho chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng bao dung và luôn yêu thương khi nhìn nhận ra tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải. Dù tội của chúng ta có thẫm như vải điều, Thiên Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết.
Ý lực sống:
“Ai yêu mến nhiều thì được thứ tha nhiều!” (Lc 7,47).
Hôm nay một người biệt phái tên là Simon mời Đức Giêsu đến dùng bữa. Tình cờ có một phụ nữ tội lỗi khét tiếng trong thành đến phục dưới chân Chúa khóc lóc tỏ dấu ăn năn qua một số việc chị làm cho Chúa. Người phụ nữ này tuy có tội nặng hơn mọi người, nhưng chị biết lỗi và tin tưởng vào Đức Giêsu. Chị bất chấp cái nhìn khinh miệt của mọi người để tìm đến với Đức Giêsu. Trước niềm tin mạnh mẽ và lòng mến chân thành, dù tội chị rất nhiều, nhưng chị đã được tha tất cả. Như vậy, niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để chúng ta được ơn tha thứ và cứu độ.
Thường người biệt phái không ưa Đức Giêsu và chỉ tìm cách gài bẫy để ám hại Ngài. Tuy thế, thánh Luca cho chúng ta biết cũng có một thứ biệt phái lễ độ hơn, vẫn có cảm tình với Ngài, họ dám mời Ngài đến nhà dùng bữa. Hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta việc ông Simon, một người biệt phái, mời Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông.
Theo phong tục của Phương Đông, khi nhà có tiệc tùng thì cửa thường bỏ ngỏ, kẻ ra người vào tấp nập. Một người đàn bà, ai cũng biết thường tội lỗi lẻn vào đứng đàng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Rồi quỳ xuống dưới chân Chúa, vì lúc ấy Chúa đang nằm trên đi văng để ăn theo thói quen các thực khách. Bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẵm nước mắt và lấy tóc mà lau. Mọi người trố mắt nhìn cho là một việc quái gở, nhất là ông chủ nhà Simon... Nhưng Đức Giêsu coi như không để ý đến những người chung quanh mà chỉ nói với cô ta: “Tội chị rất nhiều, nhưng đã được tha rồi, vì chị đã yêu mến nhiều”.
Tin mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa, phiên tòa không có luật sư bảo hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quý giá nhất Đức Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Người phụ nữ trong Tin mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người chung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Đức Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất hiện từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có cái nhìn đúng về người và về mình, nghĩa là chúng ta đừng xét đoán người khác dựa trên những tiêu chuẩn của luật lệ, phong tục, và lối sống của chúng ta (Gl 6,4; Rm 2,17-24). Người ta thường nói “Xanh vỏ đỏ lòng”, câu tục ngữ có ý dạy chúng ta phải lưu ý trong việc đánh giá một người hay một sự việc. Nhiều khi bề ngoài là xấu nhưng từ bản chất là tốt. Nếu chỉ đánh giá theo cái vỏ bên ngoài thì sẽ sai lầm.
Trong bài Tin mừng, người biệt phái, cùng những người khách khác ở bàn tiệc, đã không thể nhìn vào người phụ nữ như Đức Giêsu đã nhìn. Những phong tục, luật lệ, thiên kiến và lối sống đã giới hạn họ. Họ đã xếp loại người phụ nữ này là người tội lỗi. Họ đã tự nghĩ rằng bản thân mình tốt hơn người phụ nữ này nhiều.
Truyện: Chiếc đèn cũ kỹ
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cây đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt lên và nó tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt.Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông: “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú. Ông chồng nói:
- Cái đèn này thật tuyệt. Bà mua nó ở đâu?
Bà đáp:
- Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy!
Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói:
- Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này?
Bà đáp:
- Thật ra chẳng tốn gì mấy. Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?
- Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, “trong thành ai cũng biết”
- Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai: a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương); c/ quì gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.
Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng: “tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”
B.... nẩy mầm.
1. Cô gái này dạy tôi nhiều điều về sự sám hối:
- sám hối không phải chỉ là một tâm tình kín đáo che dấu bên trong không cho ai biết. Đôi khi, nếu cần, cũng phải bày tỏ ra bên ngoài.
- khi bày tỏ, không nên ngại xấu hổ, sợ dư luận, sợ tốn kém… những xấu hổ, dư luận và tốn kém ấy cũng là cách tôi phải chịu đề đền tội.
2. Có thể nói “nhờ” phạm nhiều tội lỗi, nên nàng đã yêu mến Chúa nhiều, đã sám hối chân thành và được tha thứ nhiều. Phụng vụ gọi đây là “tội hồng phúc” (felix culpa).
Xin cho ý thức bề những tội của con là động cơ khiến con càng yêu mến Chúa nhiều hơn.
3. Nàng được tha nhiều nên sau đó nàng càng yêu mến Chúa nhiều hơn. Ước gì đây cũng là tâm tình của tôi mỗi khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải.
Yêu nhiều thì được tha nhiều: Yêu là nguyên nhân của tha thứ; được tha nhiều thì càng yêu nhiều: yêu là kết quả của tha thứ.
4. Chuyện này cho tôi thấy được sự liên hệ kỳ diệu giữa tội lỗi / tình yêu / và tha thứ. Tôi là xấu nhưng trở thành tốt khi được đặt trong liên hệ kỳ diệu ấy.
5. “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47)
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ và cũng là cho tôi một kỷ niệm là Thập giá Tình yêu. Vâng, chính Thập giá của Đức Kitô đã xóa muôn vàn tội lỗi của tôi và của bạn, và mở ra cho một cuộc sống mới, cuộc sống Phục sinh.
Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tình yêu mà Ngài là Tình yêu.
Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Những lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người.
Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con. (Hosanna)
1. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thật hết sức sống động.
Những việc Luca ghi lại diễn ra trong sân nhà ông Simon, một đạo sĩ của người Do Thái. Chúng ta nên biết: Nhà cửa của giới giàu có thời đó thường có khu sân rộng, có khi rộng như một công viên. Trong sân thường có vườn cây và giếng nước. Vào mùa nóng nực người ta thường bày bàn ăn tại đây.
Ở xứ Palestine mỗi khi có một Rabbit đến nhà nào đó dự tiệc, thì mọi người đều được tự do đến nghe những lời khôn ngoan do Rabbit ấy dạy. Thói quen đó giải thích cho chúng ta biết sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon là một việc bình thường.
2. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây:
- Trước hết chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một Rabbit danh tiếng.
- Vì đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân cho khách.
- Và cuối cùng người ta đốt lên một nhúm hương liệu hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách cho thơm.
Những việc đó luôn được coi như là những đòi hỏi của phép lịch sự. Thế nhưng ở đây chúng ta thấy chủ nhà hôm đó đã không làm những việc này.
3. Cũng nên biết điều này: Bên Do Thái khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc, hai chân khách duỗi thẳng về phía sau và không mang dép. Họ dựa người trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, còn tay mặt thì tự do lấy đồ ăn. Với tư thế nằm ăn như vậy thì người đàn bà mới có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.
Simon là một đạo sĩ Do Thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái.
Chúng ta không hiểu tại sao một một người như vậy lại dám mời Chúa Giêsu tới nhà mình?
- Có người cho rằng, rất có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu. Nhưng khi nhìn lại bầu không khí thiếu lịch sự của ông Simon, thì người ta không thể chấp nhận ý kiến này được.
- Cũng có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy ngài, mong bắt gặp một câu nói hay một hành động nào đó để có cớ buộc tội Ngài. Nhưng giả thiết như thế cũng không ổn vì câu 40 trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông đã tôn tặng Chúa Giêsu danh hiệu Rabbit.
- Rất có thể Simon là người thích nổi tiếng. Với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời “chàng thanh niên kỳ lạ này” đến ăn tiệc tại nhà mình. Giả thiết như thế, ta mới hiểu tại sao lại có sự pha trộn giữa thái độ vừa có vẻ tôn kính lại vừa có thái độ khinh khi đối với Chúa khi ông cố tình bỏ qua phép lịch sự đáng ra phải giữ đối với Ngài. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Khi Chúa Giêsu đang dùng bữa, thì có một phụ nữ bỗng nhiên vào nhà, dù bà ta không phải là khách được mời. Chắc hẳn người phụ nữ này đã có dịp được biết Chúa. Bà muốn xức dầu cho Chúa như một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng của bà. Vì quá xúc động, bà đã khóc. Nước mắt đã làm ướt cả bàn chân Chúa trong tư thế đôi chân đang duỗi dài ra, lúc nằm chống tay để dùng bữa theo phong tục Do Thái. Rồi bà xõa tóc ra lau chân và hôn chân Ngài như một dấu hiệu của sự tôn trọng và lòng biết ơn sâu xa. Những hành động như thế thường người ta không làm giữa nơi công cộng.
Thấy như thế, ông Simon đã thầm trách Chúa. Ông nghĩ nếu Chúa thực là một tiên tri thì hẳn Ngài phải nhận biết đây là một phụ nữ như thế nào chứ: một người tội lỗi, cần phải lánh xa.
Chúa biết ý của Simon, nên Ngài mới kể câu chuyện về hai người mắc nợ, ngầm cắt nghĩa cho ông Simon biết lý do nào người phụ nữ này đã hành động như thế và đồng thời, cũng cho ông Simon biết dù ông là người đã mời Chúa nhưng ông đã không đón tiếp Chúa cho phải phép và đã không rộng lòng với Chúa như người đàn bà này.
Câu chuyện kết thúc bằng lời của Chúa nói với người phụ nữ:
- Hãy đi bình an.
Chúa luôn quan tâm đối với những kẻ đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Trong câu chuyện những người mắc nợ Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy tình yêu thương và sự tha thứ gắn liền với nhau. Nếu chưa bao giờ chúng ta cảm nhận được một cách sâu xa rằng mình cần được Chúa tha thứ thì chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Chúa hoặc biết ơn Ngài được. Chúng ta chỉ thật sự yêu Chúa khi nhận ra tình yêu của Ngài dành cho và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Đây chính là điều Gioan đã nói: “Chúng ta yêu Chúa vì ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Nguyện Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình Chúa yêu để có thể yêu Ngài nhiều hơn. Amen.
Chúa là một con người nổi tiếng lúc này, vì thế mà có một người biệt phái kia danh giá mời Chúa đến nhà ông dùng bữa với mình. Bỗng dưng có một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành, biết được Chúa ở đây, chị đã mạnh dạn, vượt qua sự dị nghị, sợ hãi đến với Chúa.
Chị tiến sát gần Chúa, đứng phía chân Chúa, tay cầm một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm có giá trị to lớn, chị khóc nức nở. Tiếng khóc của chị lúc này là tiếng khóc của một con người mang thương tích đầy tội lỗi, bị bầm dập nát tan bởi dư luận người đương thời đối với chị, cùng với bao ánh mắt ghê tởm xa lánh chị, xem chị như cặn bã, phế thải của xã hội. Có lẽ rất nhiều lần chị đã đến với những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão để xin một lời khuyên, một sự đỡ nâng cứu giúp cho chị thoát cuộc sống nhơ dớp này, nhưng bị từ chối, bị xua đuổi. Con đường đi đến tương lai hoàn lương của chị bị đóng lại.
Trong lúc bế tắc như vậy, chị nghe thiên hạ kể về Chúa, về tình thương, lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi. Do đó, hôm nay chị biết Chúa đến dùng bữa ở nhà ông biệt phái này, chị đã can đảm, vượt qua sự đố kỵ, chị đến với Chúa. Chị khóc nức nở và nước mắt chảy ra đó ướt đẫm chân Chúa. Chị lấy tóc mà lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm chân Chúa..
Theo thánh sử Luca, tội lỗi là một tên thống trị con người chúng ta sau khi nguyên tổ phạm tội, nó kéo dài qua muôn thế hệ. Con người chúng ta bị nó kèm cặp, không thể thoát được, đành bất lực. Đây là tiếng khóc thể hiện sự xót xa cho thân phận thụ tạo bất toàn nô lệ tội lỗi của chúng ta.
Ông biệt phái mời Chúa hôm nay thấy sự việc này xảy ra như vậy, ông cảm nhận tình Chúa quá cao vời với con người chúng ta, nhất là với người tội lỗi, nhân cách của Chúa quá lớn đối với ông, Chúa thật tuyệt vời. Nhưng thay vì tạ ơn Chúa cùng với chị tội lỗi này khi Chúa tha tội cho chị để ông học ở Chúa lòng nhân từ, mà cho mọi người được nhờ, ông lại co cụm người ông lại, trở về thế thủ, không chịu mở lòng ông ra, ông lại lên tiếng trách móc Chúa là Chúa không biết việc Chúa làm đó là một điều không được phép làm, không ai chấp nhận.
Trước thái độ như thế của ông biệt phái, Chúa lấy ví dụ về hai người cùng mắc nợ một ông chủ, họ van xin và ông chủ tha nợ cho họ. Người mắc nợ nhiều sẽ yêu nhiều hơn. Ý Chúa là chị quá nhiếu tội lỗi, Chúa đã tha cho chị, chị yêu Chúa nhiều hơn. Còn những người biệt phái, luật sỹ không nhận mình có tội, nên họ không được Chúa tha, vì họ không có lòng mến Chúa.
Chúng ta học được bài học hôm nay là chúng ta cần phải yêu Chúa nhiều thì chúng ta sẽ cố gắng xa tránh tội lỗi, nếu có lỡ phạm, chúng ta ăn năn sám hối, xưng thú thì Chúa sẽ tha cho chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã thương xót và tha thứ tội lỗi của chúng con khi chúng con ăn năn sám hối trở về với Chúa, xin Chúa thương đừng đánh phạt chúng con, cho chúng con được sống để chúng con cảm tạ và cao rao Chúa cho muôn người. Amen.
Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng. 20/09 – Thứ Sáu tuần 24 thường niên. – và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ. “Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người”.
* Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Kitô giáo đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ XVII. Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ này.
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm 1839, 1846, 1866, 1867, đã sản sinh ra 103 thánh tử đạo, trong đó nổi bật là linh mục đầu tiên người Hàn Quốc, cha Anrê Kim Têgon. Cha là một mục tử hăng hái nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh Phaolô Chung Hasan.
Còn những vị khác, đa số là giáo dân nam, nữ, độc thân, có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, làm nên mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc.
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc, để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1). Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái. Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ. Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê. Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ. Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc. Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng, thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu. Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy. Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê. Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ. Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49). Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55). Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3). Theo Tin Mừng Mátthêu (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18), chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng phục sinh Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục sinh, nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22). Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai, để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14). Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu, từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ. Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài. Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại. Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn, trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý. Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá. Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3). Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém, vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43). Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27). Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng. Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ, và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin. Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ, chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó. Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình. Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung. Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái, dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận. Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa? Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em. Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ. ---------------------------------
Của cải trần gian chẳng có giá trị gì trong Nước Trời. Nhưng của cải lại là phương tiện minh chứng, xây dựng và đạt tới Nước Trời. Các phụ nữ theo Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được điều đó. Các bà đã trải qua quá khứ bị ma quỉ và bệnh tật trói buộc. Đã cảm nghiệm được sự mong manh của kiếp người. Nhất là đã cảm nghiệm được Nước Trời. Đã nhận được ơn cứu độ của Chúa. Nên các bà coi thường của cải trần gian. Quảng đại góp phần vào việc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Để Chúa Giê-su và các môn đệ có phương tiện đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Các bà đã được hạnh phúc. Và muốn chia sẻ hạnh phúc cho mọi người.
Từ bỏ tiền của. Điều này không dễ dàng. Đó là thế lực trần gian mạnh nhất. Đó là cơn cám dỗ ngọt ngào nhất. Đó là sợi giây trói buộc chặt chẽ nhất. Đó là kẻ thù sau cùng đối địch với Chúa. Thánh Phao-lô ý thức được điều đó. Nên hết sức khuyên nhủ người môn đệ Ti-mô-thê phải tránh xa tiền bạc. vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là long ham muốn tiền bạc”. Hãy chống lại tiền bạc bằng một đời sống công chính. Công chính là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào tiền bạc. Đó là một trận chiến. Cần phải thi đấu hết mình mới mong thắng được. Vì ta sinh ra trần truồng. Ta chết cũng trần truồng. “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được”. Thế nhưng tiền bạc cứ bám lấy ta. Ám ảnh ta. Trói buộc ta. Phải dứt nó ra. Nếu ta thua, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ. Ta trở thành nô lệ. Nó sẽ ném ta vào lửa hoả ngục. Nếu ta thắng. Nó sẽ trở thành nô lệ. Sẽ giúp ta đạt tới Nước Trời (năm lẻ).
Ta thắng được tiền bạc và những cám dỗ đời này nhờ niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh. Ta sẽ sống lại với Người trong Nước Trời. Trong đời sống mới. Đời sống ấy không có tiền bạc. Không cần tiền bạc. Nếu ta thực sự có đức tin. Ta sẽ không gắn bó với tiền bạc. Với đời này. Tiền bạc là một con dao hai lưỡi. Nếu ta luỵ phục nó. Nó sẽ tiêu diệt ta. “Nếu ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Nếu ta sử dụng nó. Nó sẽ là một phương tiện tốt. Là ông chủ, nó ngăn cản ta đến Nước Trời. Là đầy tớ, nó giúp ta mua được Nước Trời (năm chẵn).
Vậy ta hãy noi gương các phụ nữ, quảng đại dâng hiến tiền bạc để làm việc truyền giáo. Siêu thoát của cải. Ta làm chứng cho Nước Trời. Dứt lìa khỏi những của cải đời này. Ta không còn thuộc trần gian. Nhưng thuộc về Nước Trời.
Vào thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một thứ nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và đối xử như thế với phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử như chưa bình đẳng với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên cách đối xử với nữ giới còn tệ hơn. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách đối xử của Chúa đối với nữ giới. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến có người đã từng bị quỉ ám, bởi vì họ là đối tượng của những sức mạnh huyền bí gây xáo trộn trong cuộc sống và chức năng của họ: không những họ phải mang nặng đẻ đau mà còn bị nguyền rủa khi son sẻ. Mối quan tâm của Chúa Giêsu đối với nữ giới, nhất là việc Ngài chữa lành cho họ, là dấu chỉ cho thấy họ đã được tự do, không những được giải phóng khỏi sức mạnh tăm tối, mà còn trở nên bình đẳng trước mặt mọi người.
Ðể nói sự bình đẳng ấy, Chúa Giêsu cho các phụ nữ được tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng trong Giáo Hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng họ là những người đồng hàng với các Tông Ðồ trong việc loan báo Tin Mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin Mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: "Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô".
Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.
Xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá nơi mỗi người, nhất là biết cố gắng thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại phục vụ và yêu thương.
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Nguyện xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.
Sau đó Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có nhóm mười hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la người đã được giải thoát bảy quỷ. (Lc. 8, 1-2)
Người ta nói, không tiền và không giúp đỡ, chẳng làm được gì. Ngay trong việc rao giảng Tin Mừng cũng thế. Đó là lý do chung quanh Đức Kitô để giúp việc truyền giáo, ngoài các tông đồ ra, còn có các bà tận tâm đi theo giúp đỡ, một thứ giúp đỡ vô vị lợi. Nhờ đó Chúa rảnh tay hoàn toàn hiến thân cho công việc cốt yếu nhất. Những người giúp đỡ này chính là các phụ nữ.
Thánh Lu-ca hơn các Thánh viết Tin Mừng khác, nói đến vai trò các bà đóng góp vào việc chung quanh Thầy chí thánh và trong đoàn truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài. Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời Người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ, và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!
Vậy mà truyền thống kể lại những lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sống lại là hiện ra với các bà. Đức Giêsu rất tín nhiệm các bà, và các bà đã chứng tỏ lòng trung thành đặc biệt đối với Người, như: cung cấp nuôi dưỡng các Ngài suốt thời gian truyền giáo, các bà theo Chúa trên đường vác thánh giá lên đồi Can-vê, đứng dưới chân thánh giá, đi ra thăm mồ từ sáng sớm.
Khi người ta nhớ đến vai trò mà Đức Giêsu đã dành cho phụ nữ, và so sánh với Giáo Hội xuyên suốt các thời đại, người ta ngạc nhiên thấy rằng vai trò của phụ nữ bị chìm vào quên lãng, khác hẳn với cách cư xử của Đức Kitô đối với phụ nữ.
Những người được gọi và chọn để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thường hay có những lý giải như: mình còn trẻ, không biết ăn nói; hay tôi là người tội lỗi, thấp cổ bé họng...; hoặc tôi là dân quê mùa, ít học, nghèo nàn, dốt nát...
Tuy nhiên, nhìn lại hành trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng...! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạch đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thủy. Điển hình như Maria Madalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của vua Hêrôđê…
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách trung thành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm ra đi làm chứng cho Chúa, mặc dù cuộc đời ta có bất hảo, kém cỏi về tri thức, vụng về trong cách ăn nói hay tội lỗi có ngập đầu và vẫn còn những tham sân si... Nhưng trong sự thống hối, tin tưởng và yêu mến Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng Ngài sẽ làm được những chuyện lớn lao do tình thương và ân sủng của Ngài trong cuộc đời và sứ vụ của chúng ta.
Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng ra đi, dấn thân, quảng đại cho sứ vụ Nước Trời hay không mà thôi!
Mặt khác, hình ảnh những phụ nữ đi theo và phục vụ Đức Giêsu trong sứ vụ Thiên Sai của Ngài cho thấy: Đức Giêsu không hề chê bỏ bất cứ ai, dù họ thuộc thành phần nào trong xã hội.
Do đó, không ai có mặc cảm vì mình vô dụng hoặc kém cỏi, nhưng chúng ta phải không ngừng cảm tạ tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta bằng cách mỗi ngày cố gắng sống xứng đáng hơn, yêu thương hơn để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa chúng con, để chúng con trở thành Tông đồ của Chúa trong môi trường và xã hội hôm nay. Amen.
Sứ điệp: Chúa mời tất cả mọi người cộng tác với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đó là bổn phận của chính chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ngày ấy Chúa rảo qua khắp các thành thị và làng mạc nước Pa-lét-tin. Chúa giảng dạy không ngơi nghỉ, Chúa làm phép lạ cứu chữa tật bệnh cho dân, Chúa loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngày ấy, cánh đồng truyền giáo rộng mở: đoàn đoàn lớp lớp người đến nghe Chúa giảng, xin Chúa chữa lành. Cả nam, cả nữ, cả thiếu nhi vây quanh Chúa. Tất cả chăm chú lắng nghe ghi lòng tạc dạ điều Chúa truyền dạy… Ngay đến những người phụ nữ thường bị xã hội Do thái coi thường cũng đem hết nhiệt tình phục vụ Chúa. Hết thảy đều cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng Nước Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay Hiền Thê yêu quý của Chúa là Giáo Hội, cũng đang đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo. Toàn thể Dân Thánh Chúa đã họp lại để cùng quyết tâm thi hành lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian…”. Hôm nay, Chúa vẫn sai mọi thành phần trong Giáo Hội tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người trong mọi hoàn cảnh: Tin Mừng không giới hạn ở một nền văn hoá nào, một màu da hay một miền đất nào. Tin Mừng của Chúa phải lan rộng trên toàn thế giới. Hôm nay, Giáo Hội tha thiết mời gọi từng người giáo dân, từng tu sĩ và hàng giáo sĩ cộng tác đắc lực vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, sống chứng nhân ngay trong hoàn cảnh sống của mình.
Lạy Chúa, ngày ấy và hôm nay vẫn chỉ là một lời mời gọi đem Chúa đến cho mọi người, mọi nơi. Xin Chúa giúp con ý thức sứ mệnh của con và hăng say thực thi lệnh Chúa truyền. Amen.
Ghi nhớ: “Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người”.
Khi cảm thấy mình không thể yêu Đức Giêsu như mình muốn, thánh Têrêsa Avila đã khóc sướt mướt và cầu xin thánh Maria Mađalêna hướng dẫn mình trên con đường hoán cải để yêu Đức Giêsu được như ngài đã yêu khi ngài thấy Đức Giêsu chết trên thánh giá, và để sống chiêm niệm khi không có sự hiện diện cụ thể của Đức Giêsu nữa (Thánh Têrêsa Giêsu, “Oeuvres complètes “, éd. Du Seuil, Paris, 1949, pp. 88 và 1058).
Thánh Têrêsa Lisieux liên tưởng tới người phụ nữ tội lỗi ăn năn ấy khi tỏ lòng thán phục sự “liều lĩnh thật đáng yêu của thánh nhân, đã làm vui lòng Đức Giêsu” (Ibid., p. 441) ngài cũng thông cảm với ước muốn của Maria Mađalêna là được chạm đến Đức Giêsu. Ngài còn cảm phục sự hoán cải nội tâm nảy sinh trong tâm hồn Maria Mađalêna, khi cô nhìn thấy mình có thể gặp thấy Đức Giêsu bằng cách bước vào tâm hồn Thiên Chúa mà “không quanh co dối trá” (Ibid., p.1409) nhưng “nấp vào thâm cung của thánh nhan Ngài” (Ibid., p. 814) (Theo Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành). Thật thế, các phụ nữ trong Tin Mừng luôn luôn là nguồn cảm hứng cho những ai gắn bó với Đức Giêsu và muốn phục vụ Ngài.
Suy niệm
Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu có nhóm các môn đệ là những người sát cánh trực tiếp với Ngài và làm chứng cho Ngài (x. Lc 23,49). Ngài cũng có nhóm phụ nữ đi theo qua các làng mạc và trên các nẻo đường Galilê. Cả hai nhóm là nhân chứng cho những hành động, quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau. Các phụ nữ tuy không rao giảng nhưng lo việc ăn uống cho những người truyền giáo: “Các bà đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3).
Trong Tin Mừng không nói nhiều về các phụ nữ này, có nhắc tới một người trước đây bệnh hoạn bị bảy quỷ ám (x. Lc 11,26), Maria gọi là Mađalêna (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê, bà Sudanna (Lc 8,3), Maria mẹ của Giacôbê (Lc 24,10), Salômê (Mc 15,40) và mẹ của anh em nhà Dêbêđê (Mt 27,56).
Tuy nhiên Tin Mừng ghi nhận các bà xuất hiện trong những thời điểm quan trọng của Thầy: Lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (x. Lc 23,49-55), ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Mađalêna và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà sống với Mẹ Chúa Giêsu, các anh em Chúa và nhóm Mười hai.
Tin Mừng nhấn mạnh các bà là những người đầu tiên được Chúa Phục sinh hiện ra, đặc biệt là Maria Mađalêna (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9-11; Ga 20,11-18), được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh (Mt 28,10).
Thế giới luôn cần đến bước chân của những người theo Chúa. Xin cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận tiếp nối con đường Chúa: Tích cực dùng tất cả các khả năng và ân lộc Chúa ban để đóng góp công cuộc loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Ý lực sống:
Các phụ nữ theo Chúa đã sống “kinh nghiệm” của những người đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài.
Đức Giêsu không ngừng thi hành sứ mệnh của mình. Người đi khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin mừng và quên cả mệt nhọc. Các môn đệ và các phụ nữ đi theo Đức Giêsu cũng cộng tác với Ngài trong sứ mệnh ấy. Đặc biệt tác giả Luca cho biết những người phụ nữ theo Chúa là những người đã được Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh. Họ lấy của cải giúp đỡ Chúa. Tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn đều cùng với Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ.
Giữa một xã hội Do thái trọng nam khinh nữ, thậm chí người phụ nữ được xếp hạng thứ sáu, đứng sau cả vật nuôi. Người phụ nữ Do thái hầu như không có tiếng nói, đến cả việc cưới xin và ly hôn cũng do quyết định của người nam. Xuyên suốt Thánh kinh Cựu ước, hầu như lãng quên bóng dáng của người phụ nữ, rải rác một ít chỗ nhắc tới một số phụ nữ, nhưng phần lớn thường là những chuyện chẳng vẻ vang gì (trừ Judith, Esther và vài tiên tri), thậm chí còn coi họ như là cạm bẫy cho đàn ông. Các luật sĩ Do thái tuyệt đối không nhận phụ nữ làm đồ đệ, họ phân biệt đối xử trong mọi sinh hoạt xã hội, kể cả việc phụng tự và các nghi lễ thanh tẩy (Hiền Lâm).
Trong bài Tin mừng hôm nay, để nói lên sự bình đẳng giữa nam và nữ, Đức Giêsu cho các phụ nữ tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Đức Giêsu và nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng: trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Đức Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng: họ là những người đồng hành với các Tông đồ trong việc loan báo Tin mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Đồng hành với Đức Giêsu, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có các phụ nữ - là những người đã được Ngài trừ cho khỏi quỷ và chữa lành bệnh. Tác giả Luca còn cho biết thêm, họ “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Tuy nhiên, không phải chỉ có vậy, đi theo thầy Giêsu, họ còn bị đòi hỏi nhiều hơn nữa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”(Mt 10,37). Như vậy, tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, kể cả hạng người tội lỗi, thu thuế hay chài lưới đều có cơ hội như nhau trong việc bước theo Đức Giêsu. Chỉ cần họ dám sẵn sàng từ bỏ mọi sự để “cùng đi với Ngài” (5 phút Lời Chúa).
Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về chuyện Chúa dựng nên Adong và Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Adong.
Rồi một cô bé nói tiếp: Chúa dựng nên Adong xong, Người đứng ngắm và tự nhủ: “Ta sẽ làm đẹp hơn”, và thế là, Người dựng nên Evà.
Thiên Chúa dựng nên người phụ nữ với những đức tính rất tốt đẹp: kiên trì, hy sinh, quảng đại... Nhờ vậy, họ có thể chu toàn nhiều vai trò rất quan trọng: sinh sản, nuôi dạy và giáo dục con cái trong gia đình, đồng thời cộng tác với mọi người để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Trong Giáo hội, người phụ nữ cũng có sứ mệnh quan trọng: cộng tác với mọi người để loan báo Thiên Chúa cho thế giới. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là một ví dụ cụ thể cho điều này.
Nhìn lại hành trình rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạnh đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thuỷ. Điển hình như Maria Mađalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của Hêrôđê.
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những người phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách chân thành.
Truyện: Phong chân phước cho hai phụ nữ
Ngày 24/4/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: bà Giana Beritta, đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elizabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mệnh làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh, để xin thánh hoá bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành linh mục dòng Phanxicô.
Trong bài giảng lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui, nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn biết bao bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.
Bảng tóm lược những người đi theo Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng:
- Nhóm 12
- Các phụ nữ: trong số đó có người đã từng bị tà thần khống chế, có người bình dân và người quyền quý. Các bà giúp Ngài bằng công sức và bằng của cải nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu đang rảo khắp nơi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo chia sẻ sứ mạng của Ngài cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó người ta coi khinh phụ nữ, không cho phụ nữ tham gia những sinh hoạt công khai ngoài xã hội.
Ta hãy học cùng Chúa lòng tôn trọng mọi người không phân biệt nam nữ, lớn bé, giàu nghèo v.v.
2. Chúa muốn chia sẻ sứ mạng loan Tin Mừng cho hết mọi người, trong đó có cả phụ nữ là hạng bị thời đó coi khinh, trong đó có cả tôi.
3. Nam và nữ, mỗi phái đều có những sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng xã hội và Giáo Hội. Sự phong phú đặc biệt của phái nữ là tình yêu, sự dịu dàng, kiên nhẫn, bao dung….
4. Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về việc Chúa dựng nên Ađam Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Ađam. Rồi một cô bé tiếp: “Chúa dựng nên Ađam xong, Ngài đứng ngắm và phán: ‘Ta sẽ làm đẹp hơn’, và Ngài dựng nên Evà.”
5. “Cùng đi với Chúa Giêsu, có mấy người phụ nữ là các bà Maria Mác-đa-la người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioan-na, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,2-3)
Thế giới này không chỉ được xây dựng bởi phái nam mà có cả bàn tay của phái nữ nữa. Dù là nam hay nữ, tôi cũng được Thiên Chúa tạo nên và cho vinh dự góp phần làm nên hạnh phúc của mình. Tôi phải là cánh tay nối dài của Chúa, đem Lời Chúa thấm nhuần mọi lãnh vực. Không chỉ là người nam mới làm nên chuyện, mà người nữ hôm nay cũng đã có mặt trong hầu hết mọi lãnh vực xã hội.
Ước gì các chị em biết phát huy cá tính, biết lấy sự êm ái dịu dàng để xây dựng bình an, biết tha thứ để tạo nên an hòa, biết cảm thông và chia sẻ với mọi người, biết sống âm thầm thanh đạm để cứu vớt bao linh hồn. Hãy tô đẹp cuộc đời bằng vẻ đẹp dịu hiền và làm vẻ vang cho thiên chức làm mẹ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian này. (Hosanna)
1. Chúa Giêsu đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo để chia sẻ sứ mạng với Chúa cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó phụ nữ bị người ta coi khinh, không cho phụ nữ tham gia bất cứ sinh hoạt công khai nào của xã hội.
Như vậy, nam và nữ, mỗi phái đều có sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội và xã hội.
Chúng ta hãy nghe sứ điệp của Công Đồng Vaticanô II gửi giới phụ nữ. Sứ điệp này do Đức Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc ngày 8/12/1965: “Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới thuộc hết mọi thành phần: Bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người phụ nữ được thể hiện hoàn toàn. Đây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng, một sự phát huy và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có trong xã hội.”
“Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình, xin truyền thụ cho con trai con gái quý bà những truyền thống của cha ông chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho chúng một tương lai xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên người mẹ góp phần vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được nhìn thấy”.
“Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức rằng, chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mạng phục vụ của mình. Xã hội khắp nơi đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể sinh hoạt nếu gạt bỏ sự trợ giúp của những người không lập gia đình”.
“Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái lạc muốn trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong sạch, lòng vô vị lợi và tinh thần đạo đức.”
Cha Leonardo Bop, một nhà thần học nổi danh người Brasil thuật lại:
Ngày kia, một người đàn bà mà tôi quen biết vài năm nay gọi tôi ra một nơi và nói nhỏ: “Thưa cha, con muốn tiết lộ cho cha một bí mật. Xin cha đến nhà con.”
Tôi đến nhà bà ta, vào phòng ngủ của đứa con trai bà. Đó chính là một quái thai. Đầu đứa nhỏ to như đầu người lớn, nhưng thân mình của nó thì bé tí xíu. Đôi mắt nó nhìn chằm chằm lên trần nhà, lưỡi nó thò ra thụt vào như lưỡi rắn. Tôi rùng mình thốt lên: “Chúa ơi!” Nhưng bà ta nói: “Thưa Cha, từ tám năm nay con chăm sóc đứa con này của con. Nó chỉ biết có một mình con mà thôi, và con rất hài lòng về nó, hầu như không một người nào khác biết đến sự hiện diện của nó” - Rồi bà ta lớn tiếng nói: “Thiên Chúa là Đấng nhân lành. Ngài là Cha”. Bà ta nhìn lên trời nói tiếp với giọng bình thản: “Xin vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”.
Leonardo Bop cho biết: “Tôi rời nhà bà ta không nói được một lời nào. Đầu tôi cúi xuống kinh hoàng vì đứa trẻ quái thai, đồng thời ngỡ ngàng vì thái độ bình thản của bà mẹ, Rồi bất chợt một câu Kinh Thánh xuất hiện trong đầu tôi. Lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà mắc bệnh hoại huyết: “Hỡi bà, đức tin của bà thật lớn lắm” (Mt 15,28)
Quả thực, đức tin của người đàn bà xứ Brasil trên đây thật lớn lao dường nào! Bà không chửi trời trách đất vì có đứa con quái thai như thế, trái lại bà đã sống trọn tinh thần Lời Chúa dạy: “Hai con chim sẻ mới bán được một đồng, thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha chúng con. Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi” (Mt 10,29-30).
2. Ngày 24.4.1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: Bà Giana Beritta, người đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elisabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mạng làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh để xin ơn thánh hóa bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của Dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành Linh mục dòng Phanxicô.
Trong bài giảng thánh lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn cả bao nhiêu bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.
Sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ muôn dân là sứ mạng của Chúa. Chúa lãnh nhận sứ mạng này từ Chúa Cha. Khi Chúa đến trần gian để thực hiện sứ mạng này, Chúa cho con người chúng ta được cộng tác với Chúa. Khời đầu là Chúa cho mười hai tông đồ, rồi đến bảy mươi hai môn đệ, rồi đến tất cả mọi người chúng ta. Trong đó, Chúa cũng dành một cách đặc biệt cho những người nữ nữa. Người nữ mà các xã hội ngày xưa cũng như hôm nay đều cho rằng họ là những người thuộc phái yếu, là chân yếu tay mềm, có khi là lá ngọc cành vàng, nhưng đối với Chúa, Chúa mời gọi những người phái nữ này cộng tác với Chúa tùy theo khả năng, vị thế xã hội, điều kiện sống. Cụ thể là trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cho các bà, các chị cộng tác với Chúa bằng cách là các bà đã lấy của cải mình có mà giúp cho Chúa (Lc 8, 3). Những người phụ nữ đó là:
1-Những người phụ nữ tội lỗi, bị tà thần ám hại, bị ốm đau bệnh tật….họ là những người dường như là cặn bã của cuộc sống, bị mọi người xa tránh, bị mọi người bỏ rơi, bị gạt ra bên lề ngoài xã hội. Chính vì vậy mà họ mặc cảm tự ti, như là chị Maria Mađalenna chẳng hạn, nhưng đã được Chúa thương xót và Chúa chữa lành, bây giờ các bà các chị đó biết ơn Chúa, hết lòng cộng tác với Chúa, giúp Chúa, đóng góp tiền bạc mình có để Chúa cho người nghèo, túng cực, thiếu thốn cơ hàn trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.
2-Những người phụ nữ có thế giá, chồng có địa vị xã hội, được mọi người kinh nể, khâm phục, như bà Gioanna, vợ của Chusa, viên quản lý của vua Hêrôđô cũng giúp tiền bạc cho Chúa để Chúa cho những người nghèo khi Chúa đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
3-những người phụ nữ bình thường khác như bao người trong xã hội, không danh giá, không chức không quyền, họ chỉ là những người vợ, người mẹ hằng ngày lo cho chồng cho con trong gia đình mà thôi, nhưng họ yêu mến Chúa, giúp đỡ tài chánh cho Chúa, để Chúa cũng cho người nghèo trong công cuộc đi rao giảng Tin Mừng của Chúa.
Các bà, các chị không có đi theo Chúa nay đây mai đó, nhưng các bà, các chị cộng tác với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng hy sinh làm việc hàng ngày, dành dụm tiền bạc tài chánh dâng cho Chúa để yểm trợ sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa, và Chúa đã sử dụng tiền bạc mà các bà các chị đóng góp để Chúa cứu giúp những người nghèo, những người túng thiếu, đói khát, rách rưới, cơ cực…
Như vậy, Chúa cho hết tất cả mọi người chúng ta được cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Chúa, nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo, sang cũng như hèn, quyền cao chức trọng cũng như khố rách áo ôm…Chúa muốn chúng ta là những chứng nhân Tin Mừng của Chúa. Mục đích là Chúa tạo phước, tạo nghiệp cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa, và luôn ý thức sứ mạng linh thánh, cao cả này và bằng mọi cách, mọi hình thức để cộng tác với Chúa qua Giáo Hội nhằm làm cho Tin Mừng Chúa lan rộng khắp mọi nơi, đến mọi tâm hồn trên trần gian này từ đời nọ đến đời kia.
Lạy Chúa, tất cả chúng con, nam hay nữ, chúng con là con cái của Chúa, là anh chị em với nhau, xin cho chúng con biết cộng tác với nhau, làm chung việc với nhau, không phân biệt nhau để đem lời Chúa đến cho những anh chị em chưa biết Chúa, nhờ đó mà họ trở thành con cái Chúa. Amen.
Đứng dậy, đi theo Chúa. 21/09 – Thứ Bảy tuần 24 thường niên – THÁNH MÁTTHÊU TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.
"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
* Thánh nhân là một nhân vật quen thuộc trong số các Tông Đồ. Câu chuyện người thu thuế ở Ca-phác-na-um là một trong những đoạn văn quen thuộc nhất trong phần nói về sứ vụ của Đức Giêsu ở Galilê. Người đã biên soạn sách Tin Mừng bằng tiếng Híp-ri. Sách Tin Mừng hiện nay mang tên thánh nhân cho thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân Ước. Tương truyền người đã đi giảng ở Đông Phương.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc. Người thì đang quăng lưới ngoài khơi, kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22). Khi Thầy gọi Matthêô, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế. Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình, dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu. Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh. Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!” Matthêô không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động. Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy. Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh. Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết. Matthêô nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3). Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm. Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện, nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải. Matthêô có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không? Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không? Hôm nay chúng ta mừng lễ Tông đồ Matthêô, người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng. Matthêô làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt, vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng. Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân, đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại. Khi trở nên môn đệ của Thầy, Matthêô đã trở nên người phục vụ đồng bào. Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng. Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia. Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi! Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước. Matthêô đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được. Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông. Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay, nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới, để thế giới nghe và hiểu được. Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay, phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại. Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ? Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt, nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12). Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì? Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không? Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc. Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu, dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen. -------------------------------
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang trên đường tìm kiếm và kêu gọi từng người sống đời thánh thiện đạo đức. Ta hãy có thái độ sẵn sàng và mau mắn đáp lại lời kêu mời ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ơn gọi của thánh Mát-Thêu là một ơn gọi riêng tư. Giữa cảnh chợ đời, giữa bao huyên náo của xã hội, Chúa đã kêu mời chỉ mình ngài mà thôi. Chúa đã nhìn thấy và quý trọng tâm hồn Thánh Mát-Thêu, cho dù bề ngoài, Ngài chỉ là một kẻ bị xã hội loại trừ. Ơn gọi của thánh Mát-thêu cũng là ơn gọi của con hôm nay. Chúa đang kêu mời con đi theo Chúa, sống với Chúa, thực hiện những điều Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, khi được Chúa kêu mời, thánh Mát-thêu đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa. Ngài đã bỏ lại sau lưng một quá khứ không mấy tốt đẹp để khởi đầu một cuộc đời mới với Chúa. Ngài không mặc cảm tội lỗi, nhưng một niềm tin tưởng vào lòng Chúa yêu thương. Xin Chúa giúp con biết can đảm dứt khoát với những thói hư tật xấu của con. Xin giúp con dứt khoát sống tốt hơn bằng cách làm những việc lành, bằng cách siêng năng gặp gỡ Chúa trong những giờ kinh nguyện, và đến với Chúa nơi mọi người anh em.
Và dù cuộc đời quá khứ của con vương mầu đen tối, Chúa cũng sẽ làm cho tâm hồn con trong sáng và mới vẻ hoàn toàn. Con chỉ xin được sẵn sàng và mau mắn đứng dậy bước theo Chúa. Xin Chúa thương ban ơn để con không mặc cảm tội lỗi, nhưng luôn tin tưởng vào lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã lên đường đến với con. Chúa đang đi tìm và kêu gọi con đi theo Chúa. Xin cho con trung thành bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy theo Ta”. - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
Các kinh nguyện thánh lễ lấy từ sách lễ Paris năm 1738.
Lời nguyện trong ngày ca tụng lòng “Nhân từ sâu thẳm” của Chúa đã chọn “Mátthêu người thu thuế đã làm thành tông đồ Chúa”. Trong phụng vụ bài đọc, thánh Bêđa khả kính nhận định rằng Chúa nhìn thấy Mátthêu ngồi bàn thu thuế “Không phải bằng con mắt phần xác cho bằng cái nhìn nội tâm của lòng thương xót”. Giải thích ơn gọi dành cho Lêvi, thánh nhân khẳng định ý nghĩa và bản chất lời gọi của Đức Kitô: “Khi yêu cầu ông theo Chúa, Chúa không kêu gọi ông đi theo Người cho bằng sống như Người”.
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh đề tài chính theo Phúc âm theo Mátthêu là Giáo hội: “Lạy Chúa xin yêu thương nhìn đến Giáo hội Chúa, vì Giáo hội đã được chính Chúa nuôi dưỡng đức tin bằng lời giảng dạy của các tông đồ”. Từ Giáo hội (Ekklèsia) được sử dụng từ một trăm lần trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư thánh Phaolô, nhưng trong các Phúc âm chỉ ba lần, chỉ có trong Phúc âm Mátthêu (16,18; 18,17). Trong 16,18: “Con là Phêrô, trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh Thầy”. Từ Hội thánh ở đây chỉ cộng đồng Chúa sắp thành lập xây dựng trên Phêrô. Trong 18,18: “Nếu kẻ ấy chối không chịu nghe họ, hãy nói với Giáo hội”, ở đây từ Giáo hội chỉ nghị viện của các tín hữu tức là đoàn tông đồ. Giáo hội cũng là cộng đoàn mới do Chúa Giêsu thiết lập, được xây dựng quanh Phêrô và các tông đồ, được mời gọi rao giảng Phúc âm khắp thế giới (24,14; 26,13) và mọi dân tộc (28,19).
Nước trời (thành ngữ xuất hiện có tới năm mươi lần trong Mátthêu) là điều mới lạ do Chúa Giêsu lập nên. Đây là nước Thiên Chúa hiện hữu “Trên trời”, nhưng thực hiện ở trần gian bằng hình ảnh và việc tham dự, và sẽ kết thúc “Trên trời” vào ngày thế mạt. Hiến chương của Nước trời là “Bài giảng trên núi” (5,3-11).
Thánh Mátthêu vui mừng được đón Chúa vào nhà (lời nguyện tạ lễ) không ngần ngại mời nhiều bạn hữu, thu thuế, người tội lỗi cùng đến dự tiệc với Chúa Giêsu và các đồ đệ của Chúa (9,10). Trong thế giới Palestine, bữa ăn là giây phút cao điểm của lễ hội và gặp gỡ. Đức Giêsu khi nhận lời mời đến nhà một người “không sạch” muốn nhấn mạnh lời mời gọi nhân từ của Thiên Chúa đang mở cửa Vương Quốc của Chúa cho người tội lỗi.
Sau hết chúng ta hãy nhớ lời thánh Bêđa khả kính trong một bài giảng về thánh Mátthêu: “Đấng sau này sẽ là Tông đồ và thầy dạy lương dân, lúc cải hối, đã kéo theo mình, cả một đám đông những người tội lỗi trên đường cứu rỗi” (Phụng vụ bài đọc).
Nhà điêu khắc Donattello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch cho việc điêu khắc vì nó rạn nứt. Người ta mang khối đá này cho điêu khắc gia nổi tiếng Michel-Ange. Xem xét khối đá, Michel Ange cũng thấy những vết rạn nứt đó. Nhưng ông lại coi đó là một thách thức cho tay nghề của mình. Ông nhận khối đá và ra công đẽo gọt. Nhờ đó mà thế giới mới có được bức tượng vua Đavít, một công trình nghệ thuật sáng giá nhất từ trước tới nay.
Suy niệm
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa thuế vụ trong xã hội Do Thái là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình. Họ là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình. Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: Một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Vì thế chúng ta hiểu thêm tại sao người biệt phái cầu nguyện tách biệt và khinh chê người thu thuế, còn người thuế vụ thì không dám đến gần bàn thờ nơi Thiên Chúa ngự, vì sự bất xứng của mình, anh ta ở dưới cúi đầu, đấm ngực ăn năn (x. Lc 18,9-14).
Đã không nên ở gần, lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế. Hôm nay, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Matthêu theo Ngài để trở thành môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Thật lạ, một người xấu xa, dơ bẩn đó được đặt làm môn đệ, rồi chính Đức Giêsu lại đồng bàn với những kẻ thu thuế như là những người đồng hội, đồng thuyền với kẻ tội lỗi...: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế”. Theo phong tục Do Thái, khi cùng ăn uống với ai, đó là dấu hiệu một sự hiệp thông, một sự chia sẻ tư tưởng, tình cảm và là một cử chỉ thân thiết và quan tâm của mình đối với người được. Mời ai ăn cơm, là một vinh dự, tỏ ra muốn hòa bình, thân thiện, tin tưởng và tha thứ (2V 25,27-29). Cùng đồng bàn với người thu thuế, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia... Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc. Vâng, chính Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh trong đó có cả những tội nhân. Tội nhân biết nhìn nhận tình trạng thiếu thốn, tình trạng tội lỗi, để Đức Kitô, vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúng ta nhớ lại sắc màu tái tím cõi lòng của người thu thuế tại đền thờ, đã được Thiên Chúa cứu chữa và ông trở nên người công chính (x. Lc 18,9-14).
Chúng ta với thời gian bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài, vị thầy thuốc băng bó, chữa lành và làm cho công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm được tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài, vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ tự cho mình là công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Xin cho con học được nơi Chúa cái nhìn cảm thông, nâng đỡ đối với người anh em... Và xin cho nơi chính con biết nhìn nhận sự thật về mình, xin Đức Kitô đến cứu chữa...
Ý lực sống
“Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu kêu gọi chính ông:
- Ông là một người thu thuế tội lỗi.
- Chính Chúa Giêsu là người đi bước trước tới với ông: “Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy… Ngài phán bảo ông…”
- Bởi thế ông rất mừng và nhanh chóng đáp lời: “Ông đứng dậy và đi theo”.
- Ông mừng đến nỗi ngay sau đó mở tiệc khoản đãi Chúa Giêsu và các bạn thu thuế của mình.
- Qua kinh nghiệm này, Matthêu hiểu Chúa Giêsu là thầy thuộc của những kẻ tội lỗi bệnh tật linh hồn: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi người tội lỗi”.
B. (...nẩy mầm)
1. Bản thân tôi cũng là một người tội lỗi đã được Chúa thương kêu gọi đi theo Ngài. Lẽ ra tôi phải luôn nhớ mãi hồng ân ấy và cũng quảng đại với những người tội lỗi như tôi. Thế nhưng hình như khi tôi được Chúa gọi rồi thì tôi liền quên ngay chuyện đó. Tôi tự coi mình là công chính và lên mặt khó chịu với những kẻ tội lỗi. Tôi không muốn Chúa kêu gọi thêm người tội lỗi nào nữa cả.
2. Trước lúc Chúa gọi, Matthêu “ngồi” (tư thế không muốn thay đổi) tại “bàn thu thuế” (môi trường sống tội lỗi). Nhưng ngay khi được Chúa gọi, ông đã nhanh chóng “đứng dậy” và “đi theo”. Thái độ này biểu lộ một sự dứt khoát thay đổi, một hành trình mới.
3. Chúa Giêsu là Thầy thuốc chữa trị những nỗi đau của con người. Ngài đến là nhằm kêu gọi những kẻ tội lỗi. Ngài bảo “Ta muốn lòng nhân”. Bây giờ tôi là đại diện của Chúa. Tôi phải sống và cư xử thế nào để người ta hiểu Chúa của tôi là như thế? Tôi thấy có cần sửa đổi hay điều chỉnh gì không trong cách sống và cư xử của tôi?
4. Đồ phế thải và người phế thải: Abbé Pierre chuyên giúp những người nghèo và vô gia cư để họ tự lực cánh sinh từ những vật dụng phế thải. Cha kể lại câu chuyện sau đây: Có một cựu tù nhân sống lang thang không nhà không cửa nên thất vọng dùng dao cắt mạch máu của mình. Có người gọi điện thoại cho cha. Cha lập tức đến nơi. Cha không một lời an ủi nhưng nói với ông như ra lệnh: “Anh đừng tự vẫn. Còn quá nhiều người kém may mắn đang cần đến sự giúp đỡ của tôi. Tôi cũng đang bệnh và cần sự giúp đỡ của anh”. Nghe những lời đó, đôi mắt lờ đờ của người đàn ông sáng lên, và từ đó ông trở thành một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha. (Chờ đợi Chúa)
5. ”Đức Giêsu bảo Mát-thêu: “Anh hãy theo tôi”. Ông đứng dậy đi theo Ngài” (Mt 9,9)
Hai người bạn ngồi nói chuyện. Một người nói:
- Tôi không thể kể hết cho anh những gì mà Chúa đã làm cho tôi, những điều Ngài nói với tôi… Anh đi theo Ngài nhé.
Anh kia đáp:
- Anh ơi, theo Ngài thì anh tính toán. Vậy anh có tính toán việc anh không đi theo Ngài không?
Tôi cũng vậy. đã bao lần Chúa mời gọi “Hãy theo Ta”, vậy mà tôi vẫn cứ chần chừ: “để con tính lại đã”.
Thánh Mát-thêu đã không ngần ngại, không chút do dự bước đi theo Chúa khi được gọi “Hãy theo Ta”
Lạy Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng can đảm, để con thắng được vật cất, thắng được chính thân xác của con, để con bước đi theo Ngài luôn mãi. (Hosanna)
6. Mầm khác:
CẢM THÔNG VÀ THA THỨ
Trong các giai thoại về những Thiên sử nổi tiếng ở Nhật Bản, người ta có kể câu chuyện như sau:
Một buổi tối nọ, Thiền sư Shecchery đang ngồi thiền thì có một tên cướp xông vào nhà, hắn dí gương vào cổ nhà tu hành và doạ sẽ giết nếu không trao hết tiền bạc cho hắn. Vị Thiên sư không để lộ một chút sợ hãi nào, ông chỉ vào cái hộp rồi nói với tên cướp:
- Tiền đựng trong cái hộp kia, ngươi hãy để cho Ta yên,
Nói xong ông tiếp tục tụng niệm.
Sau một lúc, ông nhìn lại và nói với tên cướp:
- Đừng lấy hết tiền của Ta, để lại cho ta một ít vì ngày mai ta còn phải đóng thuế.
Nhưng tên cướp đã không màng gì đến lời yêu cầu của vị thiền sư, lấy hết tiền trong cái hộp và nhét đầy túi, hắn vừa ra đến cửa nhà sư nói vọng ra:
- Ngươi không biết nói một tiếng cám ơn khi nhận được một món quà sao?
Không quá tiếc lời với khổ chủ tên cướp đành nói tiếng cám ơn và bỏ đi.
Vài ngày sau, vị thiền sư được tin là kẻ gian ác bị sa lưới pháp luật. Hắn nêu đích danh vị tiền sư là người đã bị hắn uy hiếp. Thiền sư Secchery được mời ra toà để làm chứng. Trước mặt mọi người ông đã tuyên bố như sau:
- Đối với riêng cá nhân tôi thì người này không phải là một tên cướp. Tôi đã cho anh ta tiền và anh ta đã mở niệng cám ơn tôi.
Vì có quá nhiều tiền án cho nên tên cướp đã bị tống giam. Sau khi mãn hạn tù, anh đã tìm đến với thiền sư và xin làm đệ tử của ông.
Quý vị các bạn thân mến
Câu chuyện của Thiền sư Secchery trên đây gợi lên cho chúng ta lòng cảm thông và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện qua không biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ của Ngài với các tội nhân cũng như những bài dụ ngôn của Ngài. Tha thứ thiết yếu có nghĩa là tạo ra một cơ may cho người khác. Với người thu thuế tên là Lêvi, Chúa Giêsu đã kết nạp vào hàng ngũ các môn đệ của Ngài. Với Gia kêu, thủ lãnh của những người thu thuế, Ngài đã đến tận nhà viếng thăm. Với người đàn bà phạm tội ngoại tình, Ngài đã nói với tất cả trìu mến: Chị hãy về, và đừng phạm tội nữa. Với Phêrô, người môn đệ thân tín phản bội, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn với tất cả cảm thông và thương mến.
* Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim rộng lớn, một tấm lòng quảng đại, để chúng con luôn biết noi gương Chúa, luôn biết tha thứ và cảm thông với những người chung quang chúng con Amen.
KHÔNG AI LÀ VÔ DỤNG
Truyện cổ Trung Hoa ghi lại về danh họa Aliêu như sau:
Aliêu xuất thân là một tiểu đồng được một người tên là Chu Nguyên Tố đem về nuôi. Cậu tiểu đồng này vốn rất ngây ngô, không làm được việc gì cả, vậy mà ông Chu Nguyên Tố vẫn nuôi cậu suốt đời. Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch nổi một cái buồng con, ông giận mắng nó thì nó quăng chổi lẩm bẩm: Ong quét giỏi thì phiền đến tôi làm gì.
Khi đi vắng, Chu Nguyên Tố sai nó giữ nhà và đón khách, nhưng dù cho khách có quen thuộc tới đâu nó cũng không nhớ được tên người đó là ai. Có hỏi thì nó nói: “Người ấy lùn mà béo, người ấy gầy mà lắm râu, người ấy xinh đẹp, người ấy tuổi cao. Đến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể thì nó đóng cửa lại không cho ai vào nữa. Trong nhà có chứa ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, khách đến chơi nó bày ra cho xem, lúc khách về nó lẻn đến gõ các thứ ấy mà nói: Những thứ này bằng đồng mà sao nó đen xì như thế, rồi nó đi lấy cát, lấy nước để đánh bóng. Nhà có cái ghế gãy chân, ông Chu Nguyên Tố sai nó chặt cây có chạc để sửa lại, nó cầm búa cưa đi khắp vườn, sau một ngày lặn lội tìm kiếm trở về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu rồi nói: Cành cây có chạc đều chỉa lên cả, không có cành nào chúc xuống đất. Cả nhà đều cười. Trước nhà có vài cây liễu, chủ nhà sợ trẻ con láng giềng đến nghịch phá, sai nó trông nom dùm, đến lúc vào ăn cơm, nó nhổ cả cây đem cất vào một chỗ. Công việc nó làm nhiều chuyện đáng buồn cười như thế.
Ông Chu Nguyên Tố là người có tài hội họa, một hôm ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy Aliêu ông hỏi đùa:
- Mày có vẽ được không?
- Aliêu đáp: “Khó gì mà không được”.
Ông bảo nó vẽ, thế là Aliêu cầm cọ vẽ, nét đậm, nét nhạt, nét xa nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ, ông thử luôn mấy lần, lần nào Aliêu cũng vẽ được như ý. Từ bấy giờ ông dùng đến Aliêu luôn không lúc nào rời. Về sau Aliêu nổi tiếng là một danh họa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Câu chuyện trên đây dường như cố nêu lên những cái ngây ngô đờ đẫn, để rồi cuối cùng đưa ra một nhận xét bất ngờ: Ở đời không có ai là vô giá trị và là đồ bỏ cả. Cho đến ngày nay xã hội loài người, vẫn còn bị chi phối bởi luật cạnh tranh và đào thải, người tài ba được trọng dụng, kẻ bị xem là vô ích lợi bị loại bỏ, hay bị đẩy ra bên lề xã hội. Nói chung, xã hội vẫn còn đánh giá con người dựa trên sự thành đạt, hơn là giá trị của con người. Trong cách thẩm định ấy, thì con người dễ bị giản lược vào một thứ vốn để khai thác, một phương tiện đê sử dụng. Bao lâu còn hữu dụng thì còn giá trị, bấy lâu mất sức lao động thì trở thành vô dụng, bị vứt bỏ, chẳng khác nào trái chanh đã bị vắt hết nước và vất đi.
Mạc khải Kitô giáo mang lại cho chúng ta một cái nhìn hoàn toàn khác hẳn. Trong cái nhìn của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều có một phẩm giá cao trọng. Cái phẩm giá ấy lại tuyệt đối, bất khả di nhượng và bất khả xâm phạm, nghĩa là không một quyền lực nào trên trần gian này có thể tước đoạt, hay sử dụng như một cái vốn hoặc như một phương tiện. Cái phẩm giá ấy cũng độc nhất vô nhị trên mặt đất này.
Mỗi một con người sinh ra trên đời này, dù đần độn bệnh hoạn và thấp hèn đến đâu cũng đều là một nhân vị không ai có thể thay thế được, và dĩ nhiên trong cái nhìn của Thiên Chúa, vì không là một phương tiện hay một cái vốn, cho nên mỗi một nhân vị đều có một chỗ đứng ưu biệt độc nhất trong chương trình của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn cho chúng ta nhìn thấy cái phẩm giá cao cả ấy của mỗi một con người, bé nhỏ như các em bé cũng được Ngài đón tiếp với tất cả trân trọng. Bị khinh khi miệt thị như các cô gái điếm cũng được Ngài tiếp cận bằng tất cả tôn trọng và cảm thông. Bị xem là hạng người đốn hèn trong xã hội như những người thu thuế cũng được Ngài kết thân bằng tất cả thân tình. Chúa Giêsu không nhìn con người qua hào quang của những thành tựu, ngay cả những thành tựu về đạo đức, mà xuyên qua những giá trị tự thân mỗi người.
Đó là cái nhìn mà hằng ngày trong giao tế với tha nhân, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy, nhân cách của chúng ta lớn lên, hẳn không do những thành đạt của chúng ta cho bằng chính cái nhìn ấy đối với tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn mặc lấy tâm tình của Chúa, để trong mọi gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, chúng con luôn biết nhận ra hình ảnh của Chúa trong mỗi người. Amen.
Đọc trong Tin Mừng tôi thấy có hai câu truyện kể lại về người thu thuế mà tôi nhớ tới nhiều nhất. Đó là câu truyện về người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện cùng với người Biệt Phái, và truyện người thu thuế có tên là Levi. Người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện run rẩy như một tội nhân ra trước tòa, cảm thấy xấu hổ, đứng xa xa, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên, ông âm thầm khẩn khoản nài xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Người thu thuế thứ hai tên là Lêvi. Ông đang ngồi bên bàn thu thuế nơi phố chợ. Trong lúc ông đang làm việc thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài đến bên cạnh ông. Ông nhìn Ngài. Ngài nhìn lại và gọi ông và ông đứng dậy bước đi theo Ngài (Lc.5,28). Đây chính là người đã ghi chép lại cuộc sống và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu qua cái tên mới là Mát-thêu do chính thầy mình đặt cho. Người thu thuế này đã được Giáo Hội mừng kính vào ngày 21 tháng 9 mỗi năm.
Chúng ta hãy lần theo dấu vết của ông trong Kinh Thánh để biết thêm về ông, biết thêm về những năm tháng ông đi theo làm môn đệ của Chúa.
Mát-thêu sinh quán tại Capharnaum, là con của ông An-phê (Mc 2,14). Khi ông khôn lớn, ông đã bỏ tiền mua quyền được thu thuế. Một ngày kia, ngày “Hồng phúc” đã đến trong cuộc đời ông, đã chuyển hướng cuộc đời ông sang một ngã rẽ khác. Ngày đó Đức Giêsu trên đường đi từ một thành phố cảng nằm giáp miền đất Pê-ri-a, Ngài đi ngang qua chỗ ông đang làm việc, Ngài đến gần bàn làm việc của ông, Ngài nói với ông: “Hãy theo ta”. Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Ngài (Lc 5,28). Có lẽ chỉ một mình Đức Giêsu biết tại sao Ngài lại tuyển chọn Mát-thêu trong số đám đông có mặt tại đó, và cũng chỉ một mình Mát-thêu mới có thể cho chúng ta biết là ông đã nhận thấy điểm gì sáng ngời nơi Đức Giêsu đến nỗi ông đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Chúa ngay.
Khi đứng dậy bước theo Chúa, lòng ông tràn ngập niềm vui. Để ghi nhớ và tạ ơn vì ngày ông được đổi đời, ông đã tổ chức một bữa tiệc tại nhà riêng và mời Đức Giêsu cùng bạn hữu đến tham dự (Lc 5,29), để cho mọi người được biết về ơn gọi, về niềm vui mới và nhất là về Thầy Giêsu, người Thầy mới mà ông đã bỏ công việc thu thuế béo bở, bỏ cuộc sống êm ấm giàu sang để đi theo Ngài (Mt 9,10-13).
Quả thật! Ơn gọi thật nhiệm mầu… Ơn gọi là tình yêu… Có lẽ Đức Giêsu gọi và chọn một người không phải vì người đó thánh thiện xứng đáng, nhưng Ngài gọi và chọn vì Ngài muốn bày tỏ tình yêu thương của Ngài đối với người đó.
Hồi còn sống Mẹ Têrêsa đã nhận được rất nhiều bức thư do các bạn trẻ gửi đến cho mẹ trong đó có một bức tâm thư của một thiếu nữ, nhà rất giàu có. Xin được trích một đoạn:
“Thưa Mẹ, đã nhiều lần con nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi con tận hiến trót đời sống con cho Ngài qua đời sống tu trì. Con đã cầu nguyện nhiều, đã suy nghĩ kỹ và đã bàn hỏi với nhiều vị linh hướng xem Chúa muốn con vào dòng nào. Con thấy tại nhiều Tu Hội trong đời tu, họ không thiếu thốn gì những thứ mà con đã có và đang có trong gia đình và trong nếp sống trưởng giả của con. Con thầm nhủ: nếu con gia nhập những hội tu đó, thì con cũng chỉ tiếp tục nếp sống gia đình của con thôi, con đâu có phải từ bỏ gì nữa... Con muốn chọn tu hội của Mẹ để được dịp từ bỏ mọi sự giàu sang trần gian và ôm ấp một đời sống thật nghèo khó và hy sinh...”
* Mát-thêu đã cùng với Nhóm Mười Hai sống bên Đức Giêsu trong 3 năm khi Ngài đi rao giảng. Ông đã cùng ăn uống cùng nghỉ ngơi bên Chúa. Trong ba năm đó, ông đã được Ngài dạy dỗ biến đổi thành một người mới, ông được chứng kiến sự chết và sự phục sinh của Thầy chí thánh. Ngày lễ Ngũ Tuần, ông cùng với các bạn hữu trong nhóm được lãnh nhận sức mạnh từ Thánh Thần Thiên Chúa. Một lần nữa ông đứng dậy, một mình lên đường rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu Kitô.
Truyền thống tin rằng Mát-thêu đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản bằng tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Chắc hẳn khi Mát-thêu ngồi viết, ông đã bồi hồi nhớ lại buổi đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu, nhớ lại những kỷ niệm sống bên cạnh thầy mình, những cử chỉ thân thương, những chân lý trong lời dạy dỗ chí tình của thầy mình…
Phần thưởng cho người môn đệ Đức Giêsu khi đi rao giảng và làm chứng cho thầy mình là được mất đi mạng sống của chính mình… Mát-thêu cũng không đi ra ngòai quy luật đó. Truyền thống đã kể lại rằng Mát-thêu đã chịu tử đạo trên đường đi rao giảng tại xứ Ba Tư.
Lạy Chúa, cuộc sống hằng ngày với biết bao ồn ào và bận rộn, với biết bao lời kêu mời réo gọi vang vọng bên tai con. Làm sao con có thể nghe được tiếng của Chúa? Làm sao con có thể nhận ra lời mời gọi của Ngài đây?
Lạy Chúa! Xin giúp con, xin cho con biết lắng nghe, biết phân biệt và nhận ra lời mời gọi của Ngài. Xin cho con biết noi gương bắt chước thánh Mát-thêu, biết đáp trả lời mời gọi của Chúa, biết đứng dậy và bước đi theo Ngài. Amen.
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Ðức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Ði khỏi đấy, Ðức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.
- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Ðức Giêsu trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Ðức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Ðức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người Do Thái làm Tông Đồ để xây dựng Hội Thánh, mà Ngài còn muốn chọn muôn dân cùng chung tay góp sức làm cho ơn cứu độ bao trùm cả thế giới (x Mt 28,10-20).
Để trở thành Tông Đồ của Đức Kitô, hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và học hỏi ơn gọi làm Tông Đồ của ông Matthêu:
- Ý thức về tội của mình.
- Năng hiệp dâng Thánh Lễ.
- Chọn việc tốt nhất.
I. Ý THỨC VỀ TỘI CỦA MÌNH.
Càng ý thức mình là kẻ tội lỗi mà đi theo Chúa Giêsu thì càng làm vinh danh ngài. Đó là lý do Đức Giêsu nói: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà là những kẻ tội lỗi." (Mt 9,13b: Tin Mừng).
Chúa không kêu gọi người công chính là Ngài không kêu gọi người tự mãn vào việc tuân giữ Lề Luật Môsê mà khinh dể người khác (x Lc 18,9), đến nỗi trở nên quyết liệt chống đối Đức Giêsu, và không muốn cho ai theo Ngài (x Ga 7,47-48).
Trước mặt Thiên Chúa không ai được kể là người công chính (x Tv 143/142,2). Đó là lý do thánh Phaolô nhắc lại Lời Kinh Thánh: “Không có ai công chính, một người cũng không. Hết thảy đều lầm lạc hư đốn cả lũ. Hành thiện không còn có ai, một người cũng không” ( Tv 14/13,1-3 = Rm 3,10-12). Vì lẽ đó mà “Luật lập ra cho loài người vô luân, chứ không phải cho người được công chính trong Chúa Kitô” (1Tm 1,9). Nhưng “ai đã được công chính trong Chúa Kitô, thì phải là người ngao ngán cực phiền trước thói phóng đãng của lũ người phi pháp” (2 Pr 2,7).
“Vi trùng phi pháp” xâm nhập linh hồn người ta, duy chỉ có “Lương Y Giêsu” mới chữa lành (x Cv 4,12). Bởi thế Giêsu trả lời cho kẻ chê trách Ngài đã dùng bữa với bọn thu thuế và quân tội lỗi: “Có cần đến lương, hẳn không phải là người lành mạnh mà là kẻ đau ốm. đi mà học lời này là gì: Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải là lễ tế.” (Mt 9,12-13a: Tin Mừng).
Sở dĩ người ta kết án ông Lêvi (Matthêu) làm nghề thu thuế là kẻ có tội vì hai lý do:
1- Người thu thuế dễ lạm dụng quyền do đế quốc Roma cho: Thời ấy Roma không trực tiếp đứng ra thu thuế người Do Thái, mà họ trao cho người địa phương thầu. Người thu thuế chỉ cần nộp đủ số tiền thuế Roma đã quy định, nên họ dễ dựa vào kẽ hở của Luật để tìm cách thu cao hơn mức thuế đã ấn định mà người dân phải nộp. Đó là cách gian lận để làm giàu. Chính ông Giakêu cũng đã thú nhận tội này với Đức Giêsu, qua việc ông xin đền gấp bốn đối với những ai ông đã làm thiệt hại (x Lc 19,8b).
2- Người thu thuế dưới cái nhìn của dân Do Thái còn phạm thêm hai loại tội:
·Phản quốc: Lấy thuế của dân tộc nộp cho ngoại xâm, là củng cố ách thống trị của đế quốc đang đè nặng trên dân tộc ! Đó là hành động “rước voi về giày mồ”.
·Phản đạo: Vì người Do Thái vẫn hằng tin tưởng vào Thiên Chúa mà cầu nguyện rằng: “Người ta cậy vào chiến xa pháo mã, còn dân chúng tôi chỉ trông chờ vào danh Chúa mà thôi” (Tv 20/19,8). Thế mà bọn thu thuế đã lấy thuế của người đồng chủng mà nộp cho ngoại bang, là một cách trông cậy vào thế lực của kẻ ngoại hơn là trông cậy vào Thiên Chúa. Nói cách khác: đặt uy danh Chúa dưới quyền lực của đế quốc Roma !
Nhưng ai biết ăn năn sám hối tội mình, thì đều đáng được Đức Giêsu kêu gọi để nên chứng nhân cho Ngài, một khi họ cảm nghiệm được “ở đâu tội lỗi nhiều, ở đó ân sủng Chúa ban càng chan chứa” (Rm 5,20).
Trong lịch sử cứu độ, người nào biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi mình trước mặt Chúa, thì người ấy lại được Chúa làm việc lớn. Cụ thể như:
* Ông Phêrô được làm Giáo hoàng.
- Trong số 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, chỉ ông Phêrô thú nhận với Thầy: “Xin Thầy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc 5,8), nên ông đã được Chúa đặt làm Giáo hoàng tiên khởi (x Mt 16,18), bởi đó trước khi Ngài chính thức trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông, Ngài đã khéo léo, tế nhị nhắc đến ba lần ông đã chối Thầy, bằng cách ba lần Ngài hỏi: “Con có yêu Thầy không ?”(x Ga 21,15t).
* Ông Phaolô được làm Tông Đồ muôn dân:
- Chính Phaolô đã thú nhận tội với nhiều người: “Tôi đã bắt bớ đạo Chúa đến chết chóc cũng không trừ, xiềng xích và tống giam đàn ông đàn bà” (Cv 22,4), và ông hạ mình đi học Giáo Lý nơi các môn đệ Đức Giêsu bị mang tiếng là “những kẻ vô học thức” (x Cv 4,13). Ông còn khiêm tốn thú nhận những tội trong lãnh vực luân lý đạo đức với các giáo đoàn:
·Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ, tôi không muốn, tôi lại cứ làm (Rm 7,18-19).
·Để mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã được một cái dằm đâm vào thân xác, một thần sứ Satan, để nó vả mặt tôi. Về điều ấy, đã ba lần, tôi nài xin Chúa cho nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi: Ơn Ta đủ cho ngươi. Vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành (2Cr 12,7-9). Vì thế Chúa nhốt ông lại như lời ông nói: Tôi là tù nhân trong Chúa” (Ep 4,1: Bài đọc). Chúa đặt ông làm Tông Đồ muôn dân, còn 12 Tông Đồ kia chỉ lo cho dân Israel (x Gl 2,2.7), nên ông khoe với giáo đoàn Corintho: “Thiết tưởng nào tôi thua gì những Tông Đồ thượng đẳng” (2Cr 11,5). Ông được Chúa ban cho thành công hơn các Tông Đồ Đức Giêsu đã chọn trước Phục Sinh.
Vậy trong loài người không ai được mặc cảm mình là kẻ tội lỗi bất xứng, không đáng được Chúa kêu gọi làm Tông Đồ cho Ngài. Bởi vì cả đến tên trộm lành, suốt cuộc đời hắn chỉ làm khổ người ta. Khi bị đóng đinh trên thập giá hắn biết sám hối tội, xin Chúa thương xót, và xin được theo Ngài, hắn đã trở nên mẫu người động viên tất cả những kẻ tội lỗi biết sám hối tội mình mà đến với Chúa Giêsu, để được ơn hơn lòng mong ước (x Lc 23,43; Ep 3,20).
II. NĂNG HIỆP DÂNG THÁNH LỄ.
Hình ảnh bữa tiệc Đức Giêsu ngồi chung với những người tội lỗi tại nhà ông Mátthêu (x Mt 9,10: Tin Mừng), trở thành dấu chỉ bữa tiệc Thánh Thể Chúa mời gọi mọi người tham dự.
Ta biết ai được dự tiệc với Chúa Giêsu là dấu chỉ người đó được ơn giải phóng, được giao hòa với Thiên Chúa, được cứu độ. Chân lý này đã được diễn tả qua hình ảnh ông Gioakim, vua Do Thái thất trận đã bị tù ở bên Babylon. Ngày vua Babylon đăng quang, khi vua đã toàn thắng các nước chư hầu, vua đã phóng thích cho Gioakim khỏi cảnh tù đày, cho mặc áo vua và ngồi nơi ghế cao nhất trong bữa tiệc của vua tổ chức (x 2 V 25,27-29).
Thực vậy, Mạc Khải cho chúng ta biết ơn cứu độ được Chúa ban trọn vẹn cho con người luôn luôn được diễn tả trong bữa tiệc:
- Ông Matthêu dọn tiệc để mời những người tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giêsu và các môn đệ (x Mt 9,10: Tin Mừng).
- Những cô trinh nữ khôn ngoan được vào dự tiệc cưới với chàng rể (x Mt 25,1-13).
- Người đầy tớ trung tín làm trọn những nhiệm vụ chủ trao phó, khi chủ về, ông đặt đầy tớ vào bàn tiệc để hầu hạ (x Lc 12,35-37).
- Đức Giêsu diễn tả những người được Ngài cứu độ là những khách được mời đến dự tiệc của vua, ai đến tham dự thì được sống, kẻ khước từ bị tru diệt (x Lc 14,15t).
- Đứa con hoang đường trở về cũng như người con cả muốn được hưởng hạnh phúc bên cha thì phải dự tiệc của cha đã dọn (x Lc 15,11t).
- Ngày cánh chung, khi Chúa cho mọi người từ cõi chết sống lại cả hồn lẫn xác, hạnh phúc nhất là những người công chính: người biết thương giúp đồng loại, nhằm quy tụ họ về với Chúa, trở thành những “kẻ bé nhỏ”, để tất cả được vào dự tiệc hoan lạc trong Nước Thiên Chúa (x Mt 25,31-46).
III. CHỌN VIỆC TỐT NHẤT.
Một việc được gọi là tốt phải hội đủ ba yếu tố:
- Bản chất việc đó tốt.
- Thuộc bổn phận.
- Hoàn cảnh bắt buộc phải làm trước.
Nhưng việc tốt cũng có ba cấp độ:
1- Việc tốt thôi. Cụ thể như ông Mátthêu, nếu ông tôn trọng mọi người, sống công bằng, thì ông chỉ nên thu thuế đúng mức mà chính quyền đã ấn định, đó mới là một công chức lương thiện, góp phần điều hành tốt sinh hoạt xã hội. Việc này đơn thuần là tốt, vì nó nhằm mục đích phục vụ một số người đồng thời, trong một xã hội nhất định.
2- Việc tốt hơn. Hãy bắt chước ông Mátthêu đã biết dùng tiền của để quy tụ những kẻ tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giêsu. Như thế là tốt hơn vì ông đã biết sử dụng thực tại trần thế để xung vào việc tập họp mọi thụ tạo, nhất là người tội lỗi được đồng bàn với Đức Kitô, chung lời tôn vinh Chúa Cha (x 1Cr 3, 22-23). Đó là ta đã đóng góp vào chương trình cứu độ của Đức Kitô, trong một thời nhất định.
3- Việc tốt nhất. Ông Mátthêu dám tin tưởng vào lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy theo Ta”, nên ông đã mau mắn bỏ ngay kế sinh nhai thu thuế là nghề béo bở đi theo Đức Giêsu để đi thu góp Lời Chúa, một kho tàng cứu độ vô giá, lưu lại cho muôn thế hệ. Cụ thể ta thấy vai trò ưu thắng của Tin Mừng Mátthêu trong Phụng vụ Hội Thánh hơn 20 thế kỷ nay, dù ông bị mang tiếng là kẻ tội lỗi tày trời, đang mải miết bận rộn việc trần thế, mà Đức Giêsu không xa tránh ông, trái lại Ngài ân cần đến với ông như một y sĩ tận tình chăm sóc bệnh nhân, và như ông được tình yêu Đức Giêsu thôi thúc (x 2Cr 5,14) phải đi làm việc tốt nhất Ngài trao cho là loan Tin Mừng cứu độ. Căn cứ vào việc tốt nhất này, mà Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 có lý để nhắc nhở cho mọi Kitô hữu: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế !”
Áp dụng chọn công thức “Tốt Thôi – Tốt Hơn – Tốt Nhất” vào cuộc sống chúng ta hôm nay, ví dụ: Tôi định xây dựng một căn nhà tốn tiền tỷ, thì tốt thôi; nhưng tôi bớt ra 50 triệu đồng để giúp vốn cho người nghèo có công ăn việc làm, thì tốt hơn; và nếu tôi quyết định chỉ dành 900 triệu xây nhà, và dâng cho Hội Thánh 100 triệu để làm phát triển Tin Mừng, thì tốt nhất. Tưởng rằng nhà xây một tỷ, hoặc 900 triệu thì cũng tương đương nhau. Nhưng ở nhà 900 triệu chắc chắn được Chúa chúc phúc hơn; hoặc ta định ăn sáng tô phở 20.000$, thì tốt thôi; nhưng ta lại ăn bánh mì, bớt được 5.000$ để chia sẻ cho người đói, thì tốt hơn; nhưng nếu để 5.000$ đó đóng góp vào việc truyền giáo thì tốt nhất! Đó mới thực là người Tông Đồ giỏi của Chúa.
Như thế việc Tông Đồ không dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà Chúa còn muốn mọi Kitô hữu cộng tác khi ý thức thực hành lời thánh Tông Đồ dạy: “Tôi khuyên nhủ anh em phải sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho: Phải ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Vì chỉ có một Thân Thể, một Thần Khí, một niềm tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Mỗi người đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban: người này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng Thân Mình Đức Kitô, đạt tới sự xứng hợp trong Đức Tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,1-7.11-13: Bài đọc).
Sống được như thế, ta mới hiệp cùng Hội Thánh dâng lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa. Lạy Chúa, bậc Tông Đồ đồng thanh ca ngợi Chúa” (Tung Hô Tin Mừng). Vì nhờ ơn Chúa trợ lực, các chứng nhân của Chúa đã làm cho muôn dân hô lên: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu” (Tv 19/18,5a: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Tôi là tù nhân trong Chúa để sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban (Ep 4,1).
Người làm công lau kiếng mà chỉ nhận lau những tấm kiếng sạch thì quả là một người đãng trí, một cơ quan từ thiện bác ái mà chỉ đi giúp cho những người giàu có thì quả là một trò hề đáng trách; một nhà thương mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Lạy Chúa, Con cảm tạ Chúa vì đã thương con, đã cho con nhiều dịp canh tân đời sống. Xin cho con khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận sự tha thứ của Chúa và cũng đừng có thái độ giả hình hẹp hòi muốn Chúa trừng phạt thẳng tay những tội lỗi của anh chị em chung quanh, không phải vì con sốt sắng muốn bảo vệ Chúa nhưng có thể là vì con ganh tị muốn trả thù anh chị em, không muốn anh chị em được ơn ăn năn trở lại và nhận sự tha thứ của Chúa. Xin cho con có tâm hồn quảng đại như Chúa, biết vui mừng với Chúa vì người anh chị em đã xa lìa Chúa nay ăn năn trở về.
Lạy Chúa, Xin tình thương đầy sức mạnh tha thứ của Chúa tác động nơi con và nơi mọi anh chị em.
Matthêu người thâu thuế. Một nghề mang tiếng xấu, người bị coi là ô uế, không nên lui tới.
Hãy theo Ta.
Đức Giê-su đã cắt đứt quan niệm xấu về một người: “Hãy theo Ta”. Người không quan tâm đến hình ảnh xã hội của ông. “Ông đứng dậy và đi theo Người”. Thế là Matthêu đã bỏ cuộc sống ngày thường và lao vào cuộc phiêu lưu theo Tin Mừng. Mạo hiểm thế nào: Đức Giê-su ăn uống với người tội lỗi. Do cách làm đó, Đức Giê-su làm cho những kẻ sống thủ cựu vấp phạm nhưng Người tuyên bố do đó có ơn tha thứ của Chúa Cha. Đức Giê-su đã làm đảo lộn thế gian, Đức Giê-su đã lật ngược những vị thế truyền thống của chúng ta. Đức Giê-su đổi mới tận gốc.
Hãy theo Ta.
Không bắt ép làm những việc lớn, mà chỉ mời theo ơn gọi khác thường. Rất giản dị, hãy chia cơm bánh với người khác, đem một chút niềm vui của tôi, một nụ cười, giải trí cho bầu không khí nơi làm việc, giúp tập một nghề cách lương thiện.
Đối với mỗi người chúng ta, cần thực hiện tiếng gọi tại địa chỉ của mình, nơi chúng ta ở, trong tình trạng của những người tội lỗi. Ngày nay, từng bước từng bước theo Đức Ki-tô như người ta đồng hành với bạn thân, rất đơn giản.
Hãy theo Ta.
Như một bạn hữu! không nói sẽ đi đến đâu, chỉ đề nghị ta đồng hành, không nói tại sao mời gọi ta hơn là người khác. Vâng! không cần biết vì chúng ta yêu mến Người! không cần biết vì chúng ta tín nhiệm Người, để chúng ta theo Người, để chúng ta đặt trọn đời sống chúng ta vào đời sống của Người, theo ân huệ của Người, vì Người đã thương gọi chúng ta, với niềm tin vững chắc chắn rằng Người yêu thương chúng ta!
Một cách rất thật nào đó, chúng ta dám nói với Đức Ki-tô rằng, xin theo con! chúng ta xin Người đồng hành với chúng ta, làm cho chúng ta tin cậy vào chúng ta như Đức Ki-tô đã làm thế từ mãi mãi cho đến nay rồi.
Tình bạn tươi sáng đòi hỏi tất cả, cho tất cả, dâng tất cả và nhận tất cả. Không phải thế sao? để đồng hành, nhưng cũng để tiến lên phía trước.
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: "Hãy theo Ta".
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: "Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi" (Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần" (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: "Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến.
Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ loại trừ bất cứ một ai.
Ít có ai chuộng người thu thuế. Vào thế kỷ thứ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ dọa dẫm và gian dối. Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân. Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội. Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.
Điều cần ghi nhận là Matthêô không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế. Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.
Đi ngang qua, Ngài thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Ngài nói: "Hãy theo Ta" và ông đứng dậy đi theo Ngài" ( Mc 2, 14).
Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (Mc 1, 16t). Dầu vậy Lêvi không có tên trong danh sách mười hai (Mc 3, 16; Mt 10, 3; Lc 6, 14t; Cv 113). Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêô (Mt 9, 9t). Như vậy tông đồ đồng hoá mình với Matthêô có trong danh sách các tông đồ. Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêo với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau. (Chẳng hạn anh em Macabê, 1Mcb 2, 2-5). Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêô như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mát-tai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).
Từ đó Matthêô bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (Mt 6, 25t). Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (Lc 13, 32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (Mt 8, 20). Sự thay đổi đã hủy diệt trọn tương lai trần gian của Matthêô. Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêô bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa. Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quĩ của nhóm (Ga 13, 29).
Sau khi được gọi, Matthêô biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị tông đồ. Ngài đã ra thế nào? Chúng ta có được một câu văn của Giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125):
"Matthêô viết một tường thuật có thứ tự về lời Chúa, theo năng khiếu của ngài" (Eusebiô lịch sử Giáo hội III, 39). Cuốn Tin Mừng Matthêô viết bằng tiếng Aramêô cho người Do thái trở lại. Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêô bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn "Tin Mừng theo thánh Matthêô".
Theo bản văn tiếng Hy lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha và có lẽ 7 mối phúc thật. Cả con số 5 nữa: 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách. Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chánh như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng "denarius" trong Mc và Lc hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân...
Như vậy Matthêô đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng. Thật không ngạc nhiên gì khi một mình ngài ghi lại lời này của Chúa:
"Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ" (Mt 13, 52).
Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.
Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của thánh Matthêô được Giáo hội ưa chuộng. Nhưng công cuộc tông đồ sau này của Ngài lại bị mai một. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Do thái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo hội III, 24, 265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên Ngài với thánh Matthias (Cv 1, 26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau. Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.
Thường người ta cho rằng: Ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất. Điều chắc chắn là ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ.
Đối với chúng ta ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.
1) Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “ Hãy theo Ta ".
2) Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
3) Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha.
4) Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác, nên Chúa nói với họ: “ Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi "(Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần " (Mt 9, 12).
5) Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh.
6) Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “ Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
7) Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
8) Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đã đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
9) Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người vị vọng khác đến đồng bàn.
10) Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người.
11) Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
12) Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy muốn thu phục cả những bè bạn của người môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: “Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh”. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
13) Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người
14) Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự lơ là với ân sủng đều làm cho tâm hồn ta ra chai đá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến. Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ nghĩ xấu và loại trừ bất cứ một ai. Amen
Việc tôn kính thánh Matthêu ở Roma lên tới thế kỷ V. Hồi đó người ta mừng lễ Ngài trong nhà thờ lớn đường Merulana, và đến thế kỷ VIII lễ kính được thiết lập, có cả lễ vọng. Lễ ngày 21 tháng 9 như hiện nay là theo sổ tử đạo của thánh Jérôme, nhưng ở phương Đông mỗi nơi định mỗi khác tùy theo họ thuộc nghi lễ Byzance và Syrie (16 tháng 9) hay Coptes (9 tháng 9).
Các sách phúc âm trình bày thánh Matthêu như một nhân viên thuế vụ hay người thu thuế (Mt 9,9), con ông Alphée (Mc 2,14), có lẽ gốc người Capharnaum (Mc 27,14; Lc5,27) và là anh em với Giacôbê, vì ông này cũng là “Con ông Alphée”. Tên Matthêu (tiếng Hy lạp là Matthaios) có nguồn gốc Hébreu, có nghĩa là “Ơn của Chúa”. Ngài cũng được gọi là Lévi (Mc 2,14; Lc 5,27). Trong danh mục Nhóm Mười Hai, Ngài xếp thứ bảy hoặc thứ tám (Mc 3,18; Lc 6,15; Cv 1,13). Lời thú nhận của Mat-thêu trước khi được Đức Giêsu gọi, cho mình là một người “Không sạch”, bị phạt theo luật đạo Do Thái. Lời gọi của thầy, Đấng không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời người tội lỗi để họ cải hối (Lc 5,22) đã tạo nên nơi Lévi một câu trả lời tức thì và quảng đại: Bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo thầy (Lc 5,28). Lòng quảng đại và lương thiện của người môn đồ mới được Luca đề cao:
Lévi dọn đại tiệc trong nhà để đãi Chúa Giêsu, tới dự có rất đông những người thuộc nhóm thuế vụ (5,29).
Đức giám mục Hiérapolis (ở Tiểu Á) tên là Papias, vào khoảng năm 125 kể lại rằng Matthêu đã xếp đặt các “ngôn từ” (Logia) của Chúa bằng thể ngữ Hébreu (tiếng Araméen) còn theo Eusêbe, Origène(+khoảng 254), xác nhận Matthêu là tác giả phúc âm thứ nhất, viết gửi đến những Kitô hữu gốc Do Thái. Thánh Irénée (tiền bán thế kỷ III) viết rằng Matthêu đã viết phúc âm nơi nhà những người Do Thái bằng ngôn ngữ của họ.
Theo một số truyền thuyết, thánh Matthêu đã rời Palestine sang truyền giáo nhiều miền khác nhau, ở Ba Tư, Syrie, Macédoine và Ethiopie, rồi tử đạo tại đây. Từ Éthiopie hài cốt Ngài được đưa về Paestum (Campanie), rồi Salerne, thế kỷ X, như Đức Giáo Hoàng Grégoire VII làm chứng, năm 1080. Theo một truyền thuyết khác, di hài Ngài được thánh nữ Hêlêna chuyển từ Jérusalem về Trèves (Đức) tại tu viện thánh Matthêu.
Ảnh tượng thường biểu diễn thánh Matthêu dưới dạng một thiên thần có cánh, tượng trưng cho phả hệ Đức Kitô ở đầu phúc âm Ngài. Các giai thoại về cuộc đời thánh Matthêu, ngoài những nơi khác, còn thấy nơi một loạt các bức họa của Caravage trong nhà thờ thánh Louis des Francais ở Roma.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các kinh nguyện thánh lễ lấy từ sách lễ Paris năm 1738.
Lời nguyện trong ngày ca tụng lòng “Nhân từ sâu thẳm” của Chúa đã chọn “Matthêu người thu thuế đã làm thành tông đồ Chúa”. Trong phụng vụ bài đọc, thánh Bêđa khả kính nhận định rằng Chúa nhìn thấy Matthêu ngồi bàn thu thuế “Không phải bằng con mắt phần xác cho bằng cái nhìn nội tâm của lòng thương xót”. Giải thích ơn gọi dành cho Lévi, thánh nhân khẳng định ý nghĩa và bản chất lời gọi của Đức Kitô: “Khi yêu cầu ông theo Chúa, Chúa không kêu gọi ông đi theo Người cho bằng sống như Người”.
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh đề tài chính theo phúc âm Matthêu là Giáo hội: “Lạy Chúa xin yêu thương nhìn đến Giáo hội Chúa, vì Giáo hội đã được chính Chúa nuôi dưỡng đức tin bằng lời giảng dạy của các tông đồ”. Từ Giáo hội (Ekklèsia) được sử dụng từ một trăm lần trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư thánh Phaolô, nhưng trong các phúc âm chỉ ba lần, chỉ có trong phúc âm Matthêu (16,18; 18,17). Trong 16,18: “Con là Phêrô, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy”. Từ Hội Thánh ở đây chỉ cộng đồng Chúa sắp thành lập xây dựng trên Phêrô. Trong 18,18: “Nếu kẻ ấy chối không chịu nghe họ, hãy nói với Giáo hội”, ở đây từ Giáo hội chỉ nghị viện của các tín hữu tức là đoàn tông đồ. Giáo hội cũng là cộng đoàn mới do Chúa Giêsu thiết lập, được xây dựng quanh Phêrô và các tông đồ, được mời gọi rao giảng phúc âm khắp thế giới (24,14; 26,13) và mọi dân tộc (28,19).
Nước Trời (thành ngữ xuất hiện có tới năm mươi lần trong Matthêu) là điều mới lạ do Chúa Giêsu lập nên. Đây là nước Thiên Chúa hiện hữu “Trên trời”, nhưng thực hiện ở trần gian bằng hình ảnh và việc tham dự, và sẽ kết thúc “Trên trời” vào ngày thế mạt. Hiến chương của Nước Trời là “Bài giảng trên núi” (5,3-11).
Thánh Matthêu vui mừng được đón Chúa vào nhà (lời nguyện tạ lễ) không ngần ngại mời nhiều bạn hữu, thu thuế, người tội lỗi cùng đến dự tiệc với Chúa Giêsu và các đồ đệ của Chúa (9,10). Trong thế giới Palestine, bữa ăn là giây phút cao điểm của lễ hội và gặp gỡ. Đức Giêsu khi nhận lời mời đến nhà một người “không sạch” muốn nhấn mạnh lời mời gọi nhân từ của Thiên Chúa đang mở cửa Vương Quốc của Chúa cho người tội lỗi.
Sau hết chúng ta hãy nhớ lời thánh Bêđa khả kính trong một bài giảng về thánh Matthêu: “Đấng sau này sẽ là Tông đồ và thầy dạy lương dân, lúc cải hối, đã kéo theo mình, cả một đám đông những người tội lỗi trên đường cứu rỗi” (Phụng vụ bài đọc).
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi đó và nói với ông “hãy theo tôi”. Như thế, trước khi mời gọi Mát-thêu trở thành môn đệ của mình, Đức Giê-su đã quan sát và nhìn ông với một ánh mắt trìu mến, đầy yêu thương. Ông Mát-thêu đang là một người thu thuế phục vụ cho nhà nước Rô-ma và trong con mắt của những người dân Do thái, thì ông cũng giống như kẻ tội lỗi, bị mọi người chê ghét và loại ra khỏi cộng đồng. Tuy nhiên, điều này không quá quan trọng đối với Đức Giê-su. Người đã nhìn xuống thân phận thấp hèn của Mát-thêu và đã gọi ông. Chính Đức Giê-su đã làm thay đổi cuộc đời của ông: từ một người thu thuế trở thành môn đệ của Người. Gặp được Đức Giê-su ông đã được biến đổi và bằng chứng là ông đã đứng dậy để đi theo Người.
Anh chị em thân mến, ngày hôm nay, Chúa Giê-su vẫn đang đi qua cuộc đời của mỗi chúng ta. Chúa thấy rõ con người và hoàn cảnh của mỗi chúng ta. Chúng ta cũng được Chúa yêu thương nhìn đến và được mời gọi trở nên các môn đệ của Người. Chính bí tích Rửa Tội đã biến đổi chúng ta thành những con người mới, được xóa bỏ tội tổ tông và các tội khác. Chúng ta, từ những tội nhân và giờ đây đã trở thành con cái Thiên Chúa. Gặp được Chúa, con người chúng ta cũng được biến đổi và chúng ta cần có hành động thiết thực để thể hiện là người môn đệ đi theo Người. Xưa kia tông đồ Mát-thêu đã đứng dậy, từ bỏ công việc và địa vị của mình để chọn một đời sống mới, thì hôm nay chúng ta cũng cần có sự từ bỏ những cái xấu, tội lỗi của con người cũ và tuân theo giới răn của Chúa để mặc lấy những điều tốt đẹp của con người mới, người môn đệ Đức Ki-tô. Xin Chúa ban ơn thêm cho chúng ta. Amen.
Theo lịch Phụng vụ của Gíao Hội Công giáo, Tin mừng, còn gọi là Phúc âm Chúa Giêsu luân phiên theo thứ tự năm A, B và C được đọc công bố trong các Thánh lễ ngày Chúa nhật.
Tin Mừng Chúa Giêsu được viết theo Thánh sử Matthêu cho năm A.
Tin Mừng Chúa Giêsu được trước tác theo Thánh sử Marcô cho năm B.
Tin mừng Chúa Giêsu được soạn thảo theo Thánh sử Luca cho năm C.
Bắt đầu từ tuần lễ Chúa Nhật mùa Vọng, ngày 28.11.2010 đến hết tuần lễ Chúa nhật thứ 34, ngày 20.11.2011, Tin mừng Chúa Giêsu theo Thánh sử Mattheo cho năm phụng vụ A là phần giáo lý chính trong các Thánh lễ.
Thánh sử Mathêu là ai? Và Tin mừng Chúa Giêsu do thánh sử Mattheo viết thuật lại thế nào?
1. Matthêu, người thu thuế được kêu gọi
Không có sử sách nào ghi lại khai sinh căn cước của vị Thánh sử này. Nhưng theo Tin Mừng do Thánh sử Marcô và Thánh sử Luca thuật lại, Mathêu là một người Do Thái làm nghề thu thuế có tên là Lêvi, quê quán ở Carphanaum vùng miền gần bờ hồ Genezareth, và được Chúa Giêsu kêu gọi làm Môn đệ: “Hãy theo theo Ta!” ( Mc 2,13-14; Lc 5,27-28). Và chính Matthêu cũng viết thuật lại như thế trong Phúc âm do Ông viết ( Mt 9,9).
Theo truyền thuyết kể lại, sau khi Thánh nhân viết xong Tin mừng Chúa Giêsu, ông di chuyển đến miền Mesopotamien và Aethiopien rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu. Nơi đó Thánh nhân đã xây dựng Thánh đường cùng Tu viện, thành công việc loan truyền tin mừng nước Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thánh nhân bị người nhà vua dùng gươm kiếm đâm chết ở chân bàn thờ trong thánh đường.
Nhưng cũng có tương truyền thuật lại Thánh nhân bị ném đá tới chết, hay bị đốt thiêu sống trong lò lửa.
Thi hài (xương tích) thánh Matthêu từ năm 954 còn lưu giữ ở nhà thờ chính tòa Salermo. Năm 1085 Đức giaó hoàng Gregoriô VII, đã làm phép thánh hiến. Và chẳng mấy chốc nơi đó đã trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng trong khắp vùng.
Thánh Matthêu, theo Phúc âm thuật lại, là một trong 12 Môn đệ được Chúa trực tiếp tuyển chọn kêu gọi, và sai đi tiếp tục công việc làm chứng loan truyền cùng xây dựng Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Nhưng Thánh nhân còn là người viết sử thuật lại cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu.
2. Matthêu, người viết sử thánh
Xưa nay trong các hình vẽ hay tượng tạc Thánh sử Matthêu ngồi bàn viết tay cầm bút lông và trên đầu phía sau có hình Thiên Thần. Hay cũng có hình vẽ tạc Thánh nhân là một người có đôi cánh như Thiên Thần.
Điều này nói lên Thánh nhân viết Phúc âm Chúa Giêsu được Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn
Biểu tượng đó cũng nói lên nét đặc thù của vị Thánh sử này.
Ngay chương mở đầu của Phúc âm ( Mt 1,1-17) Mattheo đã viết thuật lại thứ tự dòng dõi nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu. Với chi tiết này Thánh sử Mathêu muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế từ trời cao xuống trần gian làm người. Chúa Giêsu là một con người có xuất xứ nguồn gốc trong xã hội loài người. Ngài là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian làm người có tổ tiên, dòng dõi họ hàng gia đình.
Chúa Giêsu là một người như mọi người trong xã hội. Nhưng con người đó mang trong mình bản tính cùng sứ mạng của Thiên Chúa.
Thánh sử Matthêu viết thuật lại duy nhất trong phúc âm (Mt 2,1-12) ba nhà chiêm tinh tìm đến thăm viếng thờ lạy Vua Hài nhi Giêsu ở hang chuồng súc vật Bethlehem, lúc Chúa sinh ra.
Trong dòng lịch sử, người ta đã tìm đặt tên cho ba nhà chiêm tinh đó là Caspar, Melchior và Balthasar. Nhưng không có gì chắc chắn tên của họ đúng như thế.
Rồi ba món tặng vật của ba nhà Chiêm tinh tặng hài nhi Giêsu là Vàng, Nhũ hương và Mộc dược, cũng được cắt nghĩa như vàng cho Vua, Nhũ hương cho Thiên Chúa và Mộc dược cho tẩm liệm xác sau này.
Lối cắt nghĩa này phù hợp theo tâm tình đạo đức thờ kính sâu thẳm nhiều hơn.
Nhưng có lẽ Thánh Matthêu qua tường thuật về ba nhà Chiêm tinh từ phương trời xa lạ vượt đường núi sa mạc tìm đến thờ lạy hài Nhi Giêsu, muốn nói lên ý nghĩa tòan dân thiên hạ dù ở nơi chốn xa xôi tuôn tìm đến Giáo Hội Chúa Giêsu. (Isaia 60, 1-6).
Phúc âm theo thánh sử Mattheo viết, theo khoa nghiên cứu, rất nhiều đoạn chương trùng hợp giống với Phúc âm theo các thánh sử Marcô và Luca cũng viết như vậy. Do đó các nhà nghiên cứu khoa Kinh Thánh gọi ba Phúc âm nay là Phúc âm nhất lãm (Synoptik).
Trong Phúc âm theo Thánh sử Matthêu vai trò đứng đầu Gíao hội Chúa Giêsu của Thánh Phêrô được nhấn mạnh nổi bật hơn hết.
Cũng như nơi phúc âm Theo Thánh sử Marcô ( 8,27-30) và theo Thánh sử Luca ( 9,18-21), Thánh Phêrô đại diện anh em Tông đồ tuyên xưng Chùa Giêsu là con Thiên Chúa hằng sống. Nhưng Thánh sử Matthêu còn thuật viết thêm: Chúa Giêsu trao quyền bính chìa khóa nước trời đứng đầu Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian cho Thánh Phêrô. (Mt 16, 18-19)
Cũng theo các nhà nghiên cứu Kinh Thánh bản Phúc âm theo thánh sử Matthêu viết để lại cho Giáo Hội được viết vào năm 70 thế kỷ thứ nhất sau Chúa Giáng sinh. Ông viết phúc âm giáo lý Chúa Giêsu Kitô muốn trình bày cho người Do Thái về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà toàn dân trông đợi mong chờ đã đến giữa con người trong xã hội. Nơi chốn Thánh sử viết bản Phúc âm ở vùng Palästina và Syrien.
Phúc âm Chúa Giêsu do Thánh sử Mathêu viết gồm 28 chương, dài hơn Phúc âm theo các Thánh sử khác Marcô có 16 chương; Luca có 24 chương và Gioan có 21 chương.
Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
Thánh Matthêu đáp lại tiếng Chúa.
Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người khác đến đồng bàn.
Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói, Chúng ta thấy vì sự vâng phục mau mắn và trọn vẹn mà Matthêu đã tức khắc từ bỏ tất cả tài sản thế gian để đi theo Chúa khi được kêu mời đúng lúc.
Thời gian và địa điểm Chúa lên tiếng mời chúng ta hiến thân trọn vẹn đã được Người quan phòng từ đời đời, vì thế thời gian và địa điểm ấy rất quan trọng. Nhiều người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu. Đối với những người ấy, đó là lúc thuận tiện nhất để đáp lại tiếng Chúa. Một số người được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự phản kháng ân sủng đều làm cho tâm hồn ra chai đá. Thánh Augustine đã mô tả rất súc tích sự khẩn thiết phải đáp lại ơn Chúa, khi Người đi ngang qua cuộc đời của chúng ta: Timeo Jesus praetereuntem et non redeuntem, ‘Tôi sợ Chúa Giêsu có thể đi qua và không quay lại nữa.’
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: ‘Elegit nos ante mundi constitutionem’ – Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian, ‘ut essemus sancta, in conspectu eius!’ – để chúng ta nên thánh thiện trước mặt Người.
Nên thánh thiện không phải là điều dễ, nhưng cũng chẳng quá khó. Nên thánh là sống đúng Kitô hữu, là nên giống Chúa Kitô. Ai càng nên giống Chúa Kitô, họ càng là Kitô hữu; ai càng thuộc về Chúa Kitô, họ càng thánh thiện.
Chúng ta có những phương thế gì để nên thánh? Chúng ta có những phương thế như các tín hữu thời sơ khai, khi họ đích thân tiếp xúc Chúa Giêsu hoặc thoáng nhận ra Người trong các lời giảng của các thánh Tông Đồ và các thánh sử.
Niềm vui trong ơn gọi.
Để ghi nhớ và tạ ơn vì được ơn gọi, Matthêu đã tổ chức một bữa tiệc và mời bạn hữu đến dự. Nhiều người trong số đó bị coi là hạng tội lỗi. Thái độ của vị tân Tông Đồ nói lên tấm lòng biết ơn của ngài vì nhận được ơn gọi. Ơn gọi là một hồng ân lớn lao, chúng ta cần phải luôn luôn cám tạ.
Chúng ta phải biết coi trọng những thành quả tuyệt vời Thiên Chúa sẽ thực hiện qua ơn thiên triệu Người ban cho chúng ta. Nếu chỉ nhìn phương diện từ bỏ mà lời mời gọi nào cũng đòi buộc, chúng ta sẽ buồn sầu như trường hợp người thanh niên giàu có không dám từ bỏ những của cải. Anh ta chỉ nghĩ đến những gì phải từ bỏ. Anh ta không hiểu được niềm hạnh phúc tuyệt vời được sống với Chúa Giêsu và trở nên công cụ của Người để thực hiện những việc lớn lao trên thế gian. Có thể hôm qua bạn vẫn là một trong số những người có các ý tưởng lầm lạc, những người bị tham vọng nhân loại đánh lừa. Nhưng hôm nay, vì Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của bạn – lạy Chúa, xin cám tạ Chúa! – bạn vui tươi, ca hát, và bạn đem nụ cười, tình yêu, và hạnh phúc của mình đến bất cứ nơi nào bạn đi qua.
Cuộc sống của người được mời gọi theo Chúa Kitô, như tất cả chúng ta đều thấy, không thể giống như cuộc sống của người anh trong dụ ngôn người con hoang đàng. Anh ta trung thành sống bên cha, làm việc chăm chỉ, và không phung phí tài sản của cha. Tuy nhiên, anh ta thiếu niềm vui và đức ái đối với em trai mới sám hối trở về của anh. Anh ta là biểu tượng rõ nét của loại người công chính nhưng không hiểu được niềm vui được sống bên Chúa và tình thân với tha nhân. Phụng sự Chúa tự thân là một phần thưởng đúng nghĩa, bởi vì phụng sự Chúa là được cùng Người cai trị. Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự trong vui tươi, chứ không miễn cưỡng, bởi vì Thiên Chúa yêu thương người hiến dâng vui tươi. Lúc nào cũng có rất nhiều lý do để vui tươi, tạ ơn và hạnh phúc khi chúng ta được hiến thân cho Chúa và tích cực đáp lại tiếng gọi của Người.
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người.
Ơn gọi tông đồ của chúng ta.
Nhiều thân nhân bè bạn đã đến tham dự bữa tiệc của thánh Matthêu tổ chức để mừng Chúa. Trong số đó có một số người thu thuế, nên các ký lục và biệt phái đã xầm xì với nhau và thắc mắc với các môn đệ Chúa: Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và tội lỗi như thế? Thánh Jerome đã dí dỏm chú thích rằng đó là một bữa tiệc quây quần của những người tội lỗi!
Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy để thu phục cả những bè bạn của môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
Qua tấm gương ấy, Chúa dạy chúng ta biết rộng mở với mọi linh hồn. Như thế, chúng ta mới có thể đem nhiều người về với đức tin. Cuộc đối thoại về ơn cứu độ không dựa trên những công trạng hay những thành quả cá nhân. Chúa dạy: ‘Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc…’ Cuộc đối thoại về ơn cứu độ mở rộng cho mọi người, không phân biệt một ai. Tương tự, những cuộc đối thoại của chúng ta cũng hãy mở rộng và bao trọn mọi người… Chúng ta đừng lạnh nhạt với một ai. Một người càng cùng khốn, nỗ lực tông đồ của chúng ta phải càng lớn hơn, càng phải dùng những phương thế tự nhiên và siêu nhiên hầu truyền bá cái nhìn của đức tin. Trong giờ cầu nguyện, chúng ta hãy xét lại tính cách những tương giao xã hội của chúng ta. Chúng ta có đối xử với tha nhân - kể cả với những người dường như đã xa rời đức tin - bằng sự nồng nhiệt và cảm tình hay không?
Bạn có lý. Bạn đã viết cho tôi, ‘Những đỉnh cao xa xăm che khuất cả bầu trời miền quê, tuy nhiên không một đỉnh nào mà ta không nhìn thấy được,’ hết ngọn núi này đến ngọn núi kia. Nhiều khi, quang cảnh dường như đã rõ ràng, nhưng rồi sương mờ tan đi và hiện ra một rặng núi khác trước đó đã bị che khuất.’
Bầu trời tông đồ của bạn cũng như thế, và đúng ra phải như thế. Ta phải đi qua thế giới này. Nhưng không có những con đường làm sẵn cho bạn. Chính bạn sẽ phải làm ra con đường băng qua những dãy núi, san bằng chúng bằng những bước chân của chính bạn.
Ðây là sách Phúc Âm xuất hiện trước nhất, được viết khoảng giữa năm 70 và 75 sau công lịch. Thánh Matthêu có ý viết cho những người Do Thái trở lại để củng cố đức tin họ. Người nhấn mạnh rằng:
- Chúa Giêsu thực hiện nơi bản thân Chúa mọi lời tiên tri đã chép trong sách Cựu Ước. Người Do Thái trở lại đạo Chúa Kitô không phải từ bỏ kho tàng thiêng liêng của dân được chọn, người ấy vẫn tìm được trong Phúc Âm những gì làm cho mình thêm vinh quang, trong sạch và hoàn hảo.
1. Thánh Matthêu là ai?
- Matthêu là một trong nhóm 12 tông đồ. Ngài là nhân viên thu thuế, được Chúa Giêsu gọi lúc ngồi ở bàn thu thuế. Theo Pa-pi-as (Giám Mục thành Hieropôlis khoảng năm 138) thì Matthêu cũng được gọi là Lêvi, đã soạn Phúc Âm bằng tiếng Aram, nhưng bản đó đã bị thất lạc. Hiện người ta chỉ tìm được những bản bằng tiếng Hy Lạp.
2. Thánh Matthêu nhắm mục đích gì và nhắm vào thành phần thính giả nào khi viết Phúc Âm?
- Thánh Matthêu trích dẫn Cựu Ước rất nhiều trong Phúc Âm của ngài, nhằm mục đích chứng minh Chúa Giêsu Nagiarét chính là Ðấng Messia Thiên Chúa đã hứa: và như thế ngài nhắm vào số thính giả người Do Thái.
3. Phúc Âm của ngài được viết khoảng năm nào?
- Khoảng năm 75 sau Chúa Giáng Sinh.
4. Thánh Matthêu viết Phúc Âm tại đâu?
- Theo truyền tụng thì thánh Matthêu đã rao giảng và làm việc tại Antioch, có lẽ tại đây ngài đã soạn Phúc Âm.
5. Thánh Matthêu đã dùng Cựu Ước để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Messia như thế nào?
- Ngài chứng minh Chúa Giêsu là con vua Ða-vít, thuộc dòng dõi Abraham, đến để tái lập vương quốc Ða-vít mà thánh vịnh 72 đề cập tới việc các vua chúa trần gian tới bái lạy Chúa Hài Ðồng. Mãi sau này, vào thế kỷ thứ 8 tên ba vị đó mới được xác định là Gasparê, Melchior và Balthazar.
- Gia đình thánh gia trốn qua Ai Cập để ứng nghiệm lời tiên tri Hôsêa: "Từ Ai Cập ta đã gọi con Ta về."
- Việc Giuđa ném trả 30 đồng tiền bán Chúa vào đền thờ, các thượng tế và niên trưởng đã lấy bạc ấy mà tậu ruộng của người thợ gốm, là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Itraen đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”
- Phúc Âm Thánh Matthêu co thể được chia ra thành 4 phần: - Chương 1-2 nói về Tin Mừng thời niên thiếu của Chúa Giêsu. - Chương 3-18 đề cập tới sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilê. - Chương 19-25 nói về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Giêrusalem. - Chương 26-28 tường thuật về cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu.
7. Thánh Matthêu nói gì về cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu?
- Trong ba chương 26-28 ngài đề cập tới một số điểm riêng biệt như: - Cái chết của Giuđa, môn đồ bội phản. - Sự kiện vợ của tổng trấn Philatô can gián chồng trong việc kết án Chúa Giêsu. - Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều vị thánh đã an nghỉ sống lại vào thành... - Việc mua chuộc lính canh mộ...
8. Phúc Âm theo Thánh Matthêu có những đặc điểm nào?
- Ngài trình bày giáo huấn qua năm bài diễn từ. - Ngài trình bày theo cặp ba và cặp bảy. - Minh chứng những gì Cựu Ước đã nói đều được thực hiện. - Phúc Âm ngài mang nhiều chiều kích Hội Thánh.
9. Kể 5 bài diễn từ của Chúa Giêsu mà Thánh Matthêu đã ghi lại?
- Bài giảng trên núi (chương 5-7) - Sứ vụ trao cho 12 tông đồ (chương 10) - Các dụ ngôn về nước trời (chương 13) - Ðịa vị cao nhất và sự tha thứ (chương 18) - Diễn từ chung luận (chương 24-25)
10. Lễ Thánh Matthêu được Giáo Hội mừng kính vào ngày nào?
Thánh Matthêu còn gọi là Lêvi, con ông Alphê. Một hôm đi qua sở quan thuế thành Capharnaum gần bờ hồ Tibêriat, Chúa Giêsu thấy Matthêu ngồi ở bàn thu thuế, Ngài liền bảo ông: "Hãy theo Ta". Không do dự, ông liền đứng lên, bỏ mọi sự mà theo Chúa. Và sau đó, ông thiết tiệc tại nhà để khoản đãi Chúa Giêsu, các môn đệ và các bạn hữu, trong số đó có cả những người biệt phái. Họ thắc mắc khi thấy Chúa hiện diện giữa những người mà họ cho là tội lỗi. Chúa Giêsu đã giải thích cho họ: "Ta không đến để gọi những người công chính nhưng để gọi người tội lỗi...".
Trước khi rời Giuđêa để đi giảng đạo, thánh Matthêu đã soạn thảo Phúc Âm đầu tiên bằng tiếng Do Thái vào khoảng năm 50. Vì viết cho người Do Thái nên ngài nhấn mạnh đến kiểu nói và quan niệm riêng họ. Ngài nhắc cho họ biết rằng: "Phúc Âm hoàn tất luật cũ". Ngài chứng minh Chúa Giêsu chính là Ðấng Cứu Thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Có thể nói Phúc Âm của ngài được coi là đầy đủ nhất.
Theo nhiều văn kiện lịch sử để lại thì thánh Matthêu đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes và sau cùng ngài đã được lãnh phúc tử đạo tại Tarium thuộc Êthiopi.
Thánh Matthêu thường coi như vị thánh quan thầy của những nhà trí thức Công Giáo.
“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát Thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo thôi! Ông đứng dậy đi theo Người.”
Câu văn ngằn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Matthêu Thánh sử. Có phải thật Matthêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viềt trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Matthêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.
Dù sao đi nữa thì Matthêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Matthêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Matthêu đưọc viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.
Đường như thánh Matthêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc Âm thánh Matthêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Matthêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.
Matthêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Thánh Matthêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Matthêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, “ và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Ít có ai chuộng người thu thuế. Vào thế kỷ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ doạ dẫm và gian dối. Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do Thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân. Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội. Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.
Điều cần ghi nhận là Matthêu không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế. Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.
Đi ngang qua, Chúa Giêsu thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Người nói: “Hãy theo Ta” và ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14).
Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (x. Mc 1,16t). Dầu vậy, Lêvi không có tên trong danh sách nhóm mười hai (x. Mc 3,16; Mt 10,3; Lc 6,14t; Cv 113). Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêu (x. Mt 9,9tt). Như vậy, tông đồ đồng hoá mình với Mathêu có trong danh sách các tông đồ. Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêu với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau. (Chẳng hạn anh em Macabê, 1 Mcb 2,2-5). Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêu như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mattai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).
Từ đó Matthêu bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (x. Mt 6,25tt). Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (x. Lc 13,32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (x. Mt 8,20). Sự thay đổi đã huỷ diệt trọn tương lai trần gian của Matthêu. Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêu bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa. Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quỹ của nhóm (x. Ga 13,29).
Sau khi được gọi, Matthêu biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị Tông đồ. Ngài đã ra thế nào? Chúng ta có được một câu văn của Giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125): “Matthêu viết một tường thuật có thứ tự về Lời Chúa, theo năng khiếu của ngài” (Eusebiô, Lịch sử Giáo Hội III, 39). Cuốn Tin Mừng Matthêu viết bằng tiếng Aramêô cho người Dothái trở lại. Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêu bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn “Tin Mừng theo Thánh Matthêu”.
Theo bản văn tiếng Hy Lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha và có lẽ 7 mối phúc thật. Cả con số 5 nữa: 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách. Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chính như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng “denarius” trong Mc và Lc hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân…
Như vậy, Matthêu đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng. Thật không ngạc nhiên gì khi một mình ngài ghi lại lời này của Chúa: “Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về Nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ” (Mt 13,52).
Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.
Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của Thánh Matthêô được Giáo Hội ưa chuộng. Nhưng công cuộc tông đồ sau này của ngài lại bị mai một. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Dothái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo Hội III, 24,265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên ngài với thánh Matthias (x. Cv 1,26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau. Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.
Thường người ta cho rằng: ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất. Điều chắc chắn là ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ. Đối với chúng ta, ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.
Mátthêu là người Do Thái làm việc cho đạo quân xâm lăng La Mã, thu thuế của những người đồng hương Do Thái. Mặc dù người La Mã có lẽ không cho phép moi tiền của người chịu thuế một cách quá đáng, nhưng điều họ quan tâm vẫn là hầu bao của mình nên họ thường làm ngơ về những hành động của “người thầu thuế”. Do đó sau này, những người thu thuế thường bị khinh miệt như người phản bội dân Do Thái. Người Pharisiêu coi họ là hạng “tội lỗi.” Bởi thế, thật bàng hoàng khi Ðức Kitô gọi một người như vậy để trở nên môn đệ của Ngài.
Mátthêu lại làm Ðức Kitô thêm khó khăn khi tổ chức một bữa tiệc tiễn biệt tại nhà của ông. Phúc âm kể cho chúng ta biết “nhiều người thu thuế” và “những người nổi tiếng tội lỗi” đã đến dự tiệc. Người Pharisiêu lại càng thêm khó chịu. Một người được cho là vị thầy vĩ đại lại có liên hệ gì với hạng người vô luân đó?
Câu trả lời của Ðức Kitô là “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu. Hãy tìm hiểu ý nghĩa của câu, ‘Ta muốn lòng thương xót, chứ không phải của lễ.’ Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng là người tội lỗi” (Mt. 9:12b-13). Ðức Kitô không gạt vấn đề thờ phượng và nghi lễ sang một bên; Ngài chỉ nói rằng việc yêu thương tha nhân thì quan trọng hơn.
Trong Tân Ước không còn đoạn nào nói về Mátthêu. Sau khi Chúa lên trời, ông đi rao giảng tin mừng. Papias, Giám Mục Hiérapolis sinh năm 70 và vào năm 125 đã viết cuốn “Cắt nghĩa các Lời Chúa” đã nói đến thánh Mát-thêu và Hésèbe nói “Mát-thêu đã viết danh sách các phép lạ Chúa làm và mỗi lời Chúa nói được giải thích theo tài năng của Ông.” Người viết bằng tiếng Araméen và sau đó vào năm 80, bản ấy được dịch ra tiếng Hy Lạp và lưu lại cho đến nay. Tuy ra sau Phúc Âm thánh Marcô, Phúc Âm Mát-thêu mở đầu Tân Ước. Viết cho người Do Thái, Mát-thêu cho thấy những gì Cựu Ước tiên báo đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu.
Theo nhiều văn kiện lịch sử để lại thì thánh Mát-thêu đã giảng cho người Do Thái 15 năm sau ngày Chúa lên trời, rồi người đi rao giảng cho xứ Ethiopie, Ba Tư, Parthes và sau cùng người đã được lãnh phúc tử đạo tại Tarium thuộc xứ Ethiopi.
Thánh Mát-thêu thường được coi như là thánh quan thầy những nhà trí thức Công Giáo.
Lời Bàn
Trong hoàn cảnh bất thường, Ðức Kitô đã chọn một trong những người làm nền tảng cho Giáo Hội, mà qua công việc làm của ông, những người khác nghĩ rằng ông không đủ thánh thiện với chức vụ đó. Nhưng ông đã thành thật thú nhận mình là một người tội lỗi mà Ðức Kitô đã đến để kêu mời. Ông đã thật tình nhận biết chân lý khi ông nhìn thấy Ngài. “Và ông đã đứng dậy đi theo Ngài” (Mt. 9:9b).
Lời Trích
Chúng ta mường tượng ra Thánh Mátthêu, sau biến cố kinh khủng bao quanh cái chết của Ðức Kitô, cùng với các tông đồ đi đến nơi mà Ðức Kitô Phục Sinh đã triệu tập họ. “Khi họ trông thấy Ngài, họ đã thờ lạy, nhưng vẫn hồ nghi. Và Ðức Kitô đến gần và nói với họ [chúng ta nghĩ Ðức Kitô sẽ nhìn đến từng người, và Mátthêu lắng nghe một cách phấn khởi như các tông đồ khác], ‘Mọi quyền năng trên trời và dưới đất đã được ban cho Thầy. Bởi thế, hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, hãy dạy bảo họ tuân giữ những gì mà Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ luôn ở với anh em, cho đến tận thế” (Mt. 28:17-20).
Thánh Mátthêu không bao giờ quên được ngày ấy. Ngài đã loan truyền Tin Mừng trong suốt cuộc đời. Ðức tin của chúng ta dựa vào chứng tá của ngài và các tông đồ.
Mátthêu là con trai của Anphê, sinh ra tại Caphácnaum, một khu dân cư trên bờ Biển Galilêa, khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu ra đời. Một hôm, Chúa Giêsu đang đi và thấy một người thu thuế tên là Mátthêu đang ngồi ở trạm thu thuế, bèn nói với người đó: “Hãy theo tôi”. Với lời kêu gọi đơn giản này, Mátthêu đứng dậy đi theo Ngài, và trở thành một trong mười hai tông đồ của Ngài. (Mátthêu 9: 9-13 = Máccô 2: 13-17 = Luca 5: 27-32)
Những người thu thuế trong những ngày đó là những người bị xã hội ruồng bỏ. Những người Do Thái sùng đạo xa tránh họ vì họ thường không trung thực. Công việc không có lương và họ được cho là kiếm lợi bằng cách lừa những người mà họ thu thuế. Những người Do Thái yêu nước và theo chủ nghĩa dân tộc ghét họ vì họ là tay sai của chính quyền La Mã, những kẻ chinh phạt, và căm thù họ với một lòng căm thù gấp bội nếu họ (giống như Mátthêu) là người Do Thái, vì họ đã đi theo kẻ thù, đã phản bội dân tộc của họ vì tiền. Vì vậy, trong các Tin Mừng, chúng ta thấy những người thu thuế (công chức) được đề cập đến như một thứ điển hình của những người tội lỗi và bị khinh miệt. Mátthêu đưa nhiều cộng sự cũ của mình đến gặp Chúa Giêsu, và những người bị xã hội ruồng bỏ nói chung đã cho thấy rằng tình yêu thương của Chúa Giêsu đã mở rộng đến cả họ.
Sau khi được kêu gọi, Thánh Mátthêu tổ chức tiệc chào mừng Chúa Kitô, các khách mời là những người bạn bè của ngài — bao gồm cả những người thu thuế và những người tội lỗi (Mátthêu 9: 10-13). Những người Pharisiêu phản đối việc Chúa Kitô dùng bữa với những người như vậy, và Chúa Kitô đã đáp lại, "Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà là những người tội lỗi," tóm lại đó sứ điệp cứu rỗi của Kitô hữu.
Tên "Mátthêu" có nghĩa là "món quà của CHÚA." Máccô và Luca, trong câu chuyện về ơn gọi của Mátthêu, đặt tên cho ngài là "Lêvi." Có lẽ đây là tên ban đầu của ngài, và ngài đã nhận được một cái tên mới từ Chúa Giêsu khi trở thành môn đồ. Người ta cũng cho rằng ngài đơn giản chỉ là một thành viên của chi tộc Lêvi.
Định nghĩa và ý nghĩa của các Vị Thánh Bảo trợ là gì và tại sao những vị này được chọn để trở thành thánh bảo trợ cho các lý tưởng sống, nghề nghiệp và quốc gia?
Thuật ngữ 'Đấng bảo trợ' được sử dụng trong các tôn giáo Kitô, bao gồm cả Công giáo La Mã, để mô tả những người đàn ông và phụ nữ thánh thiện và đạo đức, những vị này được coi là người bảo vệ một nhóm người cụ thể hoặc của một quốc gia. Hầu hết mọi lý tưởng sống, quốc gia, nghề nghiệp hoặc sở thích đặc biệt đều có một đấng thánh bảo trợ. Thánh Mátthêu là người bảo trợ cho ngành kế toán, chủ ngân hàng, nhân viên hải quan, quản lý tiền bạc, môi giới chứng khoán, thuế vụ.
Sau khi Chúa Kitô tử nạn, Phục sinh và Thăng thiên, Thánh Mátthêu được cho là đã rao giảng Phúc âm cho người Do Thái trong 15 năm, trong thời gian đó ngài đã viết Phúc âm bằng tiếng Aram, trước khi đi sang phía đông để tiếp tục nỗ lực truyền giáo. Trình thuật Sách Tin Mừng của thánh Mátthêu kể lại những câu chuyện tương tự như những câu chuyện được tìm thấy trong ba sách Tin Mừng khác, vì vậy các học giả chắc chắn về tính xác thực của nó. Sách của ngài là sách đầu tiên trong bốn sách Tin mừng trong Tân Ước. Theo truyền thống, người ta cho rằng ngài đã khởi hành đến các vùng đất khác để thoát khỏi sự bách hại vào khoảng sau năm 42 SCN. Theo nhiều truyền thuyết khác nhau, ngài đã đến Parthia và Ba Tư, hoặc Ethiopia. Giống như tất cả các tông đồ, ngoại trừ Thánh Gioan tác giả Tin Mừng, ngài đã tử đạo, nhưng các tường thuật về cuộc tử đạo của ngài rất khác nhau. Tất cả đều cho rằng việc tử đạo của ngài xảy ra ở một nơi nào đó ở phương Đông, nhưng, như Từ điển Bách khoa Công giáo ghi nhận, "người ta không biết liệu ngài có bị thiêu, bị ném đá hay bị chặt đầu hay không”.
Vì có bí ẩn xung quanh cuộc tử đạo của Thánh Mátthêu, cho nên ngày lễ của thánh nhân không được thống nhất trong các Giáo hội phương Tây và phương Đông. Ở phương Tây, lễ của ngài được tổ chức vào ngày 21 tháng 9; ở phương Đông, vào ngày 16 tháng 11. Nguồn gốc của Ngày Lễ: hầu hết các vị thánh đều có những ngày lễ được chỉ định đặc biệt và gắn liền với một ngày cụ thể trong năm và những ngày này được gọi là ngày lễ của các vị thánh. Các ngày lễ đầu tiên bắt nguồn từ tập tục rất sớm của Kitô giáo, đó là tưởng nhớ các vị tử đạo hàng năm, vào ngày các ngài qua đời, đồng thời kỷ niệm ngày sinh của các vị vào thiên đàng.
Sách Tin Mừng của Mátthêu được viết ra để chứng minh rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa, là Vua của cả trời đất, và để làm rõ Vương quốc của Thiên Chúa. Đó là mối liên kết giữa Cựu ước và Tân ước, tập trung vào sự ứng nghiệm lời tiên tri. Mátthêu không viết chỉ để ghi lại các sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu, mà là để trình bày bằng chứng không thể phủ nhận rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ đã được hứa, là Đấng Mêsia, Vua các vua và Chúa các chúa.
Tin Mừng theo Mátthêu bắt đầu bằng gia phả của Chúa Giêsu, sau đó là ngày sinh, phép rửa và sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Các phép lạ của Chúa Kitô được ghi lại trong Mátthêu bộc lộ quyền năng và căn tính thật của Chúa Giêsu. Đó là một thông điệp quan trọng vào thời điểm mà hầu như mọi người đều mong đợi sự trở lại của một đấng cứu thế như một chiến binh vung kiếm. Các nhân vật chính trong phúc âm của Mátthêu: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, Gioan Tẩy giả, 12 môn đồ, các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Caipha, Philatô, Maria Mađalêna.
Tin Mừng theo thánh Mátthêu thường được miêu tả với hình ảnh một sinh vật giống như sư tử, là một trong bốn sinh vật sống trong sách Khải Huyền 4:7, trong đó viết, "Sinh vật sống đầu tiên giống sư tử, sinh vật thứ hai giống bò đực, sinh vật sống thứ ba có khuôn mặt người, và sinh vật sống thứ tư sinh vật giống như một con đại bàng bay".
Thật là hữu ích nếu bạn có thể nhận ra thánh Mátthêu trong các bức tranh, cửa sổ kính màu được chiếu sáng, kiến trúc và các hình thức nghệ thuật Kitô giáo khác. Các mô tả nghệ thuật phản ánh cuộc sống hoặc cái chết của thánh Mátthêu, hoặc một khía cạnh của cuộc sống mà ngài gắn bó mật thiết nhất. Thánh Mátthêu được thể hiện trong Nghệ thuật Kitô giáo với một chiếc ví hoặc túi đựng tiền. Thỉnh thoảng chúng ta thấy ngài ngồi ở bàn làm việc, trải tiền ra trước mặt. Với tư cách là tác giả Tin Mừng, ngài xuất hiện với cuốn sách, cây viết, bút mực, và nói chung là một thiên thần đang đứng đọc Tin Mừng cho ngài. Hình tượng truyền thống thường cho thấy Thánh Mátthêu với một bao tiền và sổ sách tài khoản, cho thấy cuộc sống trước kia của ngài như một người thu thuế, và một thiên thần ở trên hoặc phía sau ngài, cho thấy cuộc sống mới của ngài với tư cách là sứ giả của Chúa Kitô.
Chúng con cảm tạ Cha trên trời về chứng tá của vị tông đồ và là tác giả Tin Mừng Mátthêu về Con của Cha, là Đấng Cứu Độ chúng con; và chúng con cầu xin, theo gương của ngài, chúng con có thể sẵn sàng vâng theo lời mời gọi đi theo Chúa. Xin ban cho chúng con ân sủng để nhận ra Chúa Giêsu đang sống trong Hội Thánh của Ngài và làm theo lời Ngài dạy trong cuộc sống của chúng con trên trần gian, để chúng con được sống mãi mãi với Ngài trên thiên đàng.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam, có nhiều vị vua chúa được gán cho nhãn hiệu: “ cõng rắn cắn gà nhà”, hay là: “nối giáo cho giặc” như Lê Chiêu Thống, hay Nguyễn Ánh… Người dân bao giờ cũng căm ghét họ, vì họ cộng tác với ngọai bang để làm khổ anh em đồng bào của mình. Có lẽ viên thu thuế Mátthêô cũng bị nằm trong tầm ngắm này. Là nhân viên thuế vụ, Mátthêô làm việc với ngọai bang là Đế quốc Rôma đang cai trị dân tộc Dothái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của nhân dân. Những người thu thuế đều bị dân Do thái liệt kê vào hạng: “phường tội lỗi”.
Cuộc đời của Mátthêô
Cả ba thánh sử trong tin mừng nhất lãm đều tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh nhân, khi Ngài đang còn là một nhân viên thu thuế. Mátthêô dùng đúng tên của mình:
“Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêô đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! “Ông đứng dậy đi theo Người”(Mt 9, 9). Còn Márcô và Luca thì gọi tên là Lêvi(Mc 2,13-14; Lc 5,27-28). Như vậy, tin mừng nhất lãm cho chúng ta biết thánh nhân làm nghề thu thuế, gốc người Capharnaum, con của ông Alphée, và là anh em với ông Giacôbê. Theo sử gia Eusêbe thì thánh nhân đã chịu tử đạo ở Éthiopie.
Matthêô là một tội nhân
Thật vậy cứ nhìn vào thái độ của những người đi theo Chúa thì biết họ nghĩ gì về con người của ông. Đức Giêsu vào dùng bữa tại nhà Mátthêô, điều này làm cho đám đông kịch liệt lên án: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”(Mt 9, 11). Theo cái nhìn của những người Do thái thì Mátthêô đúng là một tội nhân, một con người xấu cần phải tránh tiếp xúc, vì nếu giao tiếp với họ thì sẽ thành ô uế. Chúa Giêsu không phản kháng lại truyền thống về quan niệm: sạch – dơ, của những người Do thái, Ngài lại càng không biện minh cho những việc làm của mình. Trái lại, Chúa Giêsu còn mời gọi những người theo Chúa hãy có cái nhìn siêu việt, và độ lượng hơn đối với những người tội lỗi: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mt 9, 12), rồi Ngài khẳng định: “Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Mátthêô là một thánh nhân
Sau cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Mátthêô đã bỏ nghề thu thuế, một nghề béo bở, dễ gặt hái ra tiền và đi theo Chúa. Từ kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu, thánh nhân đã thu thập được những tài liệu quý báu cho quyển Tin mứng thứ nhất của Ngài. Đọc phúc âm của Ngài, mỗi người sẽ dễ dàng nhận ra một sự xuyên suốt của lịch sử cứu độ, từ cựu ước sang tân ước. Mátthêu trình bày Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Con vua Đavít, Con Người. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này, bởi vì đa số độc giả của Mátthêô là người Do Thái, và là người Kitô hữu gốc Do thái. Phụng vụ ngày lễ kính nhớ Ngài, đã có từ thế kỷ thứ V, rồi đến thế kỷ thứ VIII, lễ kính được thiết lập.
Đi theo Chúa luôn là một thách đố của niềm tin và lòng yêu mến, con người trước khi trở thành thánh nhân luôn là một tội nhân. Là tội nhân để khiêm nhường và chạy đến với chúa, đón nhận lòng xót thương vô hạn của Ngài. Là một thánh nhân để chuyển cầu cho những ai chạy đến với mình, như cuộc đời của thánh Tông đồ Mátthêô.
Thánh Mathêu là một trong số 12 tông đồ. Trước khi theo Chúa Giêsu, ông có tên là Lêvi. Hoàn cảnh Chúa gọi ông làm tông đồ được tường thuật lại trong đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe (Mt 9,9-13). Hôm ấy, ông đang ngồi ở bàn thu thuế. Chúa Giêsu đi ngang qua đó. Ngài gọi ông: “Hãy theo Ta”. Lập tức, ông đứng dậy và đi theo Ngài. Qua một sự kiện nhưng có hai thái độ khác nhau:
1. Thái độ đáp trả của Thánh Mathêu: Ông đang ngồi thu thuế. Ông đang hái ra tiền. Có được một nghề như vậy không phải dễ. Nếu không phải con cha cháu ông thì cũng phải mất một đống tiền mới có được. Bây giờ từ bỏ nó, đồng nghĩa với từ bỏ một mối lợi lớn. Rồi đây tương lai sẽ ra sao? Nếu là người làm kinh tế, chắc chắn phải so đo tính toán thiệt hơn. Nhưng ở đây ta thấy, Mathêu không chần chừ, không so đo tính toán. Nghe tiếng Chúa gọi. Ông “đứng dậy” và đi theo Người. Động từ “đứng dậy” nói lên tất cả. Ông dứt khoát từ bỏ cái quá khứ và hướng tới tương lai.
Quá khứ ở đây là một quá khứ đầy tội lỗi. Vì nghề thu thuế thời đó là làm việc cho quân ngoại bang, cọng rắn cắn gà nhà, nên được liệt kê vào phường tội lỗi. Tương lai ở đây là sự gắn kết với Thầy Giêsu và sứ mạng mà Thầy giao phó. Đúng vậy, từ đó Mathêu đã một lòng gắn bó với Thầy trên mọi nẻo đường truyền giáo. Đặc biệt, thánh nhân đã viết cuốn tin mừng mang tên Ngài. Tin mừng theo Thánh Mathêu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, thánh nhân đã lấy chính máu mình để làm chứng cho lời mình rao giảng.
2. Thái độ của những người biệt phái: Khi thấy Chúa Giêsu gọi Mathêu, đến nhà ông dùng bữa, những người biệt phái thắc mắc với các môn đệ rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?". Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu khẳng đinh sứ mạng của Ngài. "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Thật ra, mọi người đều có tội. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 1,8). Như vậy, những người biệt phái tự cho mình là người công chính, tức là họ tự lừa dối mình. Họ tự đặt mình làm quan án để xét xử kẻ khác. Tệ hại hơn, họ không nhận ra thân phận của mình là kẻ tội lỗi để được Chúa cứu. Đó cũng là căn bệnh trầm kha của nhiều người qua mọi thời đại. Có tội nhưng không nhận mình là tội nhân. Thậm chí, còn cho mình là người công chính. Họ sống trong sự kiêu ngạo, nên không bao giờ được cứu độ.
3. Tình thương biến đối
Ơn gọi của Thánh Mathêu là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm Tình Thương. Tình thương quảng đại của Chúa Giêsu đã biến đổi con người của Mathêu. Đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi. Trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, Chúa kêu gọi, gặp gỡ, biến đổi biết bao nhiêu con người: Giakêu, Maria Mađalêna… Các dụ ngôn: người Cha nhân hậu, người đàn bà đánh mất đồng bạc, con chiên lạc… nói lên tình thương của một người mục tử luôn khắc khoải đi tìm kiếm “con chiên lạc”. Trước khi về trời, Chúa còn lập Bí tích Hoà giải và chức linh mục để thay mặt Chúa tha tội cho loài người. Từ đó tới nay, biết bao nhiêu tội nhân đã trở thành thánh nhân. Ôi, thật kỳ diệu !
Ước gì tất cả các mục tử trong Giáo Hội đều có tình thương như Chúa Giêsu. Tình thương quảng đại. Tình thương tha thứ. Tình thương kiếm tìm. Tình thương biến đổi. Biết quan tâm đến những người tội lỗi, tạo cơ hội để họ được trở về với Chúa. Ước gì mọi người chúng ta, nhất là những kẻ đang sống trong đam mê tội lỗi, biết “đứng dậy” từ bỏ quá khứ, thay đổi bản thân, trở thành những người có ích cho Chúa, cho Giáo Hội và xã hội.
“Lạy Chúa, Chúa đã mở lượng từ bi khôn tả chọn một người thâu thuế là Mát-thêu làm tông đồ rao giảng Tin Mừng. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết noi gương người, luôn hết tình gắn bó với Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen” (X. Lời nguyện lễ thánh Mathêu tông đồ)
Tiếng gọi: “Anh hãy theo tôi!” của Đức Giêsu đã khiến cho Mát-thêu, người thu thuế, người bị xã hội coi thường, trở nên người bạn, người môn đệ của Ngài. Tiếng gọi ấy chắc hẳn phải trìu mến và tha thiết lắm thì người thu thuế kia mới bỏ lại mọi sự, đứng dậy mà đến với Đức Giêsu.
Cuộc sống thường ngày, mỗi người chúng ta cũng thốt lên không biết bao nhiêu lời. Có bao nhiêu lời chúng ta thốt lên với sự trìu mến? Có bao nhiêu lời mang lại lợi ích cho người khác? Có bao nhiêu lời chúng ta thốt lên giúp chúng ta xây dựng tình bạn chân thành? Có bao nhiêu lần chúng ta dành ra ít phút để nói chuyện với những người nghèo, những người yếu đuối, những người cô đơn, những người ngồi ở ven đường?
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta, những người Kitô hữu hành động như Thầy mình: quan tâm đến những người mà cách này hay cách khác họ không hay ít được người khác quan tâm. Cùng nhau giành sự quan tâm đến những người xung quanh để mỗi ngày chúng ta trở nên gần với Thầy Giêsu hơn và có nhiều bạn bè chân thành hơn. Với những cử chỉ nhỏ bé của lòng trìu mến, chúng ta sẽ tăng tình hiệp thông và bớt đi sự cô độc trong thế giới này.
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật câu chuyện Chúa Giêsu gọi ông Matthêu (Lêvi) khi ông đang còn làm việc ở trạm thu thuế (x.Mt 9,9-13; Mc 2,13-17; Lc 5,27-32). Lúc bấy giờ ông mới đi theo Chúa Giêsu như nhiều môn đệ khác. Sau đó Chúa Giêsu mới chọn trong số các môn đệ lấy 12 vị đặt làm Tông Đồ, trong đó có Matthêu (x.Mt 10,1-4; Mc 3,13-19; Lc 6,12-16).
Chúa Giêsu đến nhà ông Matthêu dùng bữa và khi có nhiều người phái Pharisêu càm ràm thì Người đã nói rằng Người đến không để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi người tội lỗi và rồi Người biểu họ hãy đi và học cho biết ý nghĩa câu Lời Chúa: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần tế lễ”. Như thế chúng ta có thể khẳng định rằng không một ai, kể cả các môn đệ và các tông đồ thực là người công chính đúng nghĩa.
Ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa gìn giữ thì mọi người thảy đều “sinh ra trong tội” nghĩa là chịu ảnh hưởng bởi “nguyên tội” theo chiều kích xã hội. Tuy nhiên tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa vượt quá “tình trạng tội lỗi của con người” nên Giáo hội không ngần ngại cất lên lời ca trong đêm Vọng Phục Sinh: “Ôi tội hồng phúc”. Và sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi một người mà theo nhãn quan của dân Do Thái thời bấy giờ là tội lỗi gấp đôi người thường khiến chúng ta thêm xác tín chân lý này.
Tuy nhiên khi chọn Matthêu vào hàng ngũ Tông đồ chúng ta lại nhận biết thêm một chân lý này đó là ân sủng và tình thương của Thiên Chúa không loại bỏ các điều kiện tự nhiên phần phía con người. Chúa muốn mỗi người chúng góp phần của mình để tình yêu của Người được hiển lộ cho chúng ta và cho tha nhân.
Trong tập thể nhóm Mười Hai thì hầu hết là thất học, không biết đọc, không biết viết. Dĩ nhiên Matthêu là trường hợp ngoại lệ. Với cái nghề thu thuế thì chắc chắn ngài phải biết đọc biết viết. Những trang Tin Mừng ngài để lại còn cho chúng ta biết cách nào đó tính cách của ngài. Xem ra ngài là người tính khí khá kỹ lưỡng vì viết có trước có sau, có tích có tuồng (trích dẫn Cựu Ước). Văn phong, cú pháp của ngài cũng cân đối nhịp nhàng, chẳng hạn như “tám mối phúc thật”... Như thế có thể phỏng đoán rằng Chúa Giêsu cũng cần một người biết chữ và cẩn thận để lo quản lý việc chung bằng giấy tờ. Ngày nay chúng ta có thể xem đó như là “ngành kế toán – tài chính”. Sự phỏng đoán thì có thể có phần trăm thiếu chính xác nhưng điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã không để ngài giữ việc quản lý, giữ tiền bạc, vì đó là việc đã giao cho ông Giuđa Iscariô.
Mừng lễ kính thánh tông đồ Matthêu, Kitô hữu chúng ta vốn thường đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc Chúa Giêsu đã chọn gọi người tội lỗi gấp đôi người thường để đi rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên xin đừng quên rằng Thiên Chúa còn muốn mỗi người chúng ta góp phần riêng của mình. Không một ai là người vô tích sự. Ước gì chúng ta nhận biết nén bạc Chúa trao cho mình là gì qua các khả năng để rồi sử dụng nó cho hữu hiệu vào công trình cứu độ của Thiên Chúa hầu làm vinh Danh Chúa và mưu ích cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch theo Zenit ngày 30/8/2006)
Phải chân nhận rằng hầu như không thể mô tả trọn vẹn hình ảnh của thánh Matthêu, vì tín liệu về ngài hiếm có và không đầy đủ. Những gì chúng ta có thể làm đó là mô tả không nhiều lắm về tiểu sử của ngài nhưng những gì được Phúc Âm cống hiến cho chúng ta.
Ngài bao giờ cũng có tên trong danh sách 12 vị được Chúa Giêsu tuyển chọn (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13). Tên của ngài, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘tặng ân của Chúa’. Cuốn Phúc Âm đầu tiên trong sổ bộ thánh kinh là cuốn phúc âm mang tên của ngài, cho chúng ta thấy trong danh sách 12 Vị ngài có một tính chất rất đặc biệt, đó là ‘viên thu thế’ (Mt 10:3).
Đó là lý do ngài được đồng hóa với con người ngồi ở phòng thuế, kẻ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Người. ‘Khi Chúa Giêsu đi ngang qua đó Người thấy một người tên là Mathêu đang ngồi ở phòng thuế, và Người nói cùng anh rằng: ‘Hãy theo Tôi’. Và ngài đã chỗi dạy theo Người’ (Mt 9:9).
Thánh Marcô (x 2:13-17) và Luca (x 5:27-30) trình thuật lời kêu gọi con người ngồi ở phòng thuế, nhưng các vị gọi ngài là ‘Levi’. Việc tưởng tượng ra cảnh được diễn tả trong Phúc Âm Thánh Mathêu 9:9 cũng đủ để nhớ đến bức họa vĩ đại của Carabaggio, được giữ ở Rôma đây, nơi Thánh Đường Thánh Louis của Pháp.
Một chi tiết mới về thân thế của ngài được các Phúc Âm nhắc tới, đó là, trong đoạn Phúc Âm, trước trình về về lời Chúa Giêsu kêu gọi ngài, có nói tới chi tiết về phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở Capernaum (x Mt 9:1-8; Mk 2:1-12), liên quan tới Hồ Tibêria, gần Biển Galilêa (x. Mk 2:13-14).
Người ta có thể suy diễn là Thánh Mathêu đã thực hiện nhiệm vụ của một viên thu thuế ở Capernaum, ở ngay ‘bên biển’ (Mt 4:13), nơi Chúa Giêsu là một vị khách thường xuyên của gia đình Thánh Phêrô.
Căn cứ vào những nhận định sơ sài từ Phúc Âm này, chúng ta có thể thực hiện một số chia sẻ như sau. Trước hết là Chúa Giêsu đã đón nhận trong nhóm bạn hữu thân thiết của mình một con người, theo quan niệm ở Do Thái thời ấy, được coi là một tội nhân công khai.
Thật ra Mathêu chẳng những là nhân viên quản trị về tiền bạc, một việc được coi là không tinh sạch vì nó xuất phát từ con người xa lạ với thành phần dân Chúa, mà còn hợp tác với thẩm quyền ngoại bang, tham lam bẩn thỉu, có thể ấn định việc cống nộp một cách tùy tiện.
Vì những lý do đó, có vài lần các Phúc Âm đã đề cập chung ‘thành phần thu thuế và tội lỗi’ (Mt 9:10; Lk 15:1), ‘thành phần thu thuế và gái điếm’ (Mt 21:31). Ngoài ra, các Phúc Âm còn thấy nơi thành phần thu thuế một mẫu gương tham lam nữa (x Mt 5:46: họ chỉ yêu thương những ai thương yêu họ) và đã đề cập đến một người trong họ là Gia Kêu, như ‘người trưởng ban thu thuế, và giầu có’ (Lk 18:11).
Căn cứ vào những chi tiết ấy vấn đề cần phải chú ý là Chúa Giêsu không loại trừ một ai ra khỏi tình thân hữu của Người. Hơn thế nữa, chính lúc Người ngồi ở bàn ăn trong nhà viên Thu Thuế Mathêu, trả lời những ai cảm thấy ngứa mắt trước sự kiện qui tụ thường xuyên song bất xứng của Người, Người đã tuyên bố điều quan trọng này là ‘Những ai khỏe mạnh thì không cần đến thày thuốc, chỉ có những ai yếu bệnh mới cần; Tôi đến không phải để kêu gọi thành phần công chính mà là tội nhân’ (Mk 2:17).
Lời loan báo tốt đẹp này của Phúc Âm thực sự là ở chỗ đó, ở chỗ Thiên Chúa cống hiến ân sủng của Ngài cho thành phần tội nhân! Ở một đoàn khác, bằng một dụ ngôn nổi tiếng về người Pharisiêu và người thu thuế cùng lên đền thờ cầu nguyện, Chúa Giêsu thậm chí cho thấy một người thu thuế vô danh nêu gương khiêm nhượng tin tưởng vào tình thương thần linh: Trong khi người Pharisiêu ngạo nghễ về tình trạng trọn lành luân lý của mình, thì ‘người thu thuế, đứng ở đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương đến tôi là kẻ tội lỗi!’
Và Chúa Giêsu nhận định rằng: ‘Thày cho các con biết người này về nhà được công chính chứ không phải người kia; vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên’ (Lk 18:13-14).
Bởi thế, qua hình ảnh Mathêu, các Phúc Âm cho chúng ta thấy một cái ngược đời thực sự, đó là ai có vẻ xa vời nhất với thánh đức lại có thể trở thành một mô phạm trong việc chấp nhận lòng thương xót Chúa, giúp họ có thể thoáng thấy được những hiệu năng của lòng xót thương này nơi cuộc sống của họ.
Về vấn đề này, Thánh Gioan Chrysostom đã có một nhận định đáng kể. Ngài nhận định rằng nơi trình thuật về ơn gọi thì chỉ có một vài người được kêu gọi là có liên quan tới công việc họ đang hành sự. Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã được kêu gọi khi các vị đang đánh cá; Mathêu được kêu gọi khi anh đang thu thuế.
Chúng là những công việc có tầm vóc không quan trọng là bao, Thánh Chrysostom nhận định: ‘không còn gì đáng ghê tởm hơn là viên thu thuế và không gì tầm thường hơn là việc đánh cá’ (“In Matth. Hom”: PL 57, 363).
Bởi thế, lời kêu gọi của Chúa Giêsu cũng vươn tới cả thành phần ở tầm cấp thấp kém, thành phần làm những việc tầm thường của mình.
Một ý tưởng khác cũng xuất phát từ trình thuật Phúc Âm, đó là việc Mathêu tức khắc đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ‘Ông đã đứng lên đi theo Người’. Lời vắn gọn của câu này nhấn mạnh đến tính cách tức khắc nơi việc Mathêu đáp lại lời kêu gọi.
Đối với ông thì điều này có nghĩa là từ bỏ hết mọi sự, nhất là một nguồn lợi tức vững chắc, mặc dù thường bất chính và bất xứng. Hiển nhiên là Mathêu hiểu rằng mối thân tình với Chúa Giêsu không cho phép anh tiếp tục những hoạt động không đẹp lòng Chúa.
Người ta có thể dễ dàng trực giác thấy rằng vấn đề này cũng có thể được áp dụng cho hiện nay nữa, ở chỗ, ngày nay người ta cũng không thể chấp nhận việc gắn bó với những gì bất xứng hợp với việc theo Chúa Giêsu, như những thứ giầu sang gian dối. Có lần Người đã công khai phán rằng: ‘Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy về bán những gì mình có mà cho kẻ khó để có được nước trời; rồi hãy đến mà theo Tôi’ (Mt 19:21).
Đó chính là những gì Mathêu đã làm: Anh đã chỗi dậy đi theo Người! Nơi việc ‘đứng dậïy’ này người ta có thể thấy được việc ly thoát với tình trạng tội lỗi, đồng thời, thấy được cả việc ý thức gắn bó với một sự sống mới, chính trực, hiệp thông với Chúa Giêsu.
Sau hết, chúng ta nhớ lại rằng truyền thống của Giáo Hội sơ khai đồng ý với việc gán tác giả quyền của cuốn Phúc Âm thứ nhất cho Mathêu. Việc này được bắt đầu với Papias, vị giám mục của Gerapolis ở Phrygia, vào khoảng năm 130.
Vị giám mục này viết rằng: ‘Mathêu đã viết những lời của Chúa Giêsu bằng tiếng Do Thái, và mỗi người giải thích những lời ấy tuỳ họ có thể’ (in Eusebius of Caesarea, “Hist. eccl.”, III, 39, 16). Sử gia Eusebius còn thêm chi tiết là: ‘Mathêu, vị trước đó đã giảng dạy cho người Do Thái, khi quyết định đi đến với cả các dân tộc khác nữa, thì đã viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình Phúc Âm ngài đã loan truyền: Nhờ đó ngài đã thay thế, bằng bản viết của mình, những gì họ, thành phần ngài lìa bỏ, bị mất mát đi bởi việc ra đi của ngài’ (Ibid., III, 24, 6).
Chúng ta không còn bản Phúc Âm được Thánh Mathêu viết bằng tiếng Do Thái hay Aramaic, mà là bản Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp là bản được lưu lại cho tới chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục nghe, ở một nghĩa nào đó, tiếng nói thuyết phục của người thu thuế Mathêu, vị mà khi trở thành tông đồ đã tiếp tục loan truyền cho chúng ta tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp này của Thánh Mathêu, chúng ta hãy suy niệm sứ điệp ấy luôn mãi để chúng ta có thể cương quyết dứt khoát chỗi dạy theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của một tầm cao ân sủng; Matthêu kể lại câu chuyện đời mình, câu chuyện của lòng thương xót, cũng là câu chuyện của một cuộc đời được trời cao đoái đến để có thể với tới tầm cao của ân sủng. Đang ngồi tại bàn thu thuế giữa sổ sách và tiền bạc, Matthêu sững sờ với ánh mắt và lời gọi “Hãy theo tôi” của một con người có tên Giêsu; ông đứng dậy, đi theo Ngài. Thật đơn giản, nhẹ nhàng.
Đó là một lời mời; đúng hơn, một mệnh lệnh. Một mệnh lệnh đến ngạt thở khiến bản thân Matthêu nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ tới. Mệnh lệnh đó thật huyền nhiệm và mạnh mẽ đến độ có thể bứng ông ra khỏi sự an toàn giả tạo của một quá khứ mờ ám, một hiện tại bất an, đẩy ông tới một tương lai bất định; mở cho ông một chân trời mới mẻ, xa lạ mà chính bản thân Matthêu cũng không biết sẽ đi về đâu… về tận nơi vị Thầy Thuốc xót thương muốn ông trở thành; Ngài muốn ông với tới tầm cao của ân sủng.
Thánh Phaolô trong thư Êphêsô hôm nay cũng nói đến sự đa dạng của ân sủng: người làm tông đồ, kẻ làm tiên tri, người khác giảng dạy, “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho”. Và như thế, Thánh Matthêu đã được ơn để với tới tầm cao của ân sủng khi ngài được sai đi trong tư cách tông đồ và là người viết sách Tin Mừng vốn đang lưu lại cho hậu thế muôn thu đúng như lời Thánh Vịnh đáp ca hôm nay khen ngợi, “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.
Được gọi, Matthêu không cự nự, chẳng vùng vằng; ông không nói, ‘Thưa Thầy, tôi là người thu thuế’. Với Chúa Giêsu, thu thế thì đã sao? Với Ngài, người ấy là ai, không thành vấn đề; là thu thuế, là gian tham hay tội nhân. Từ đó, Matthêu rời bỏ sổ sách, rời luôn hòm tiền để theo Chúa, học những bài học của chim muông, của hoa đồng cỏ nội, những loài không hề tính toán cho đời sống mình; chủ của ông không còn là Hêrôđê xa hoa, con cáo gian giảo, nhưng là một con người từng bị coi là mất trí, không chỗ gối đầu và ví mình còn thua cả chim trời có tổ, con chồn có hang.
Có thể nói, sự mềm mỏng của Chúa Giêsu đã triệt tiêu trọn cả tương lai trần gian của Matthêu; đáp lại, Matthêu đã ký vào một tấm séc trống và đưa nó cho người gọi mình và dường như Chúa Giêsu đã viết vào đó mấy chữ ‘Trọn cả con người’; vì Ngài biết, phải như thế, Matthêu mới có thể với tới tầm cao của ân sủng. Chỉ bấy nhiêu, Matthêu đã chấp nhận. Sau đó, đi một bước xa hơn, có thể nói là quá đà, ông trải thảm đỏ cho Chúa Giêsu đi vào cuộc đời mình bằng cách mời Ngài về nhà dùng bữa. Người Do Thái thường chỉ mời những người thân thiết đến nhà dùng bữa; đó là dấu hiệu thắm thiết của một tình thân, tình bạn và tình yêu.
‘Trọn cả con người’ Matthêu được trao cho Chúa Giêsu. Phêrô, Anrê còn có thể trở lại nghề chài, đang khi Matthêu bị tước khỏi nghề nghiệp và không thể quay trở lại. Trong nhóm mười hai, ông không là thủ quỹ mà là Giuđa; như vậy, Matthêu đã chuyển nghề cũ vào một phụng sự mới, từ một kế toán thành một thánh sử. Tương truyền rằng, mỗi khi Matthêu viết Tin Mừng, Chúa sai thiên thần đến nhắc cho ông; vì thế, các tranh hoạ về Matthêu, thường có bóng dáng một thiên thần.
Nhờ ơn Chúa, Matthêu đã tra cứu để viết gia phả Chúa Giêsu và những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn Nước Trời, 7 lời nguyền biệt phái, 7 lời cầu của kinh Lạy Cha, và có lẽ cả 7 mối phúc. Sẽ không ngạc nhiên khi chỉ mình Matthêu ghi lại lời này, “Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về Nước Trời thì cũng giống gia chủ biết rút ra từ trong kho mình điều mới và điều cũ”; và cũng duy mình Matthêu ghi lại dụ ngôn kho báu và ngọc quý, người tìm thấy về bán hết của cải để mua cho được; phải chăng Matthêu ám chỉ về chính mình.
Khi nhìn bức hoạ “Ơn Gọi Của Thánh Matthêu” được tặng cho ngài, Đức Phanxicô nhớ lại ơn gọi của mình. Trong một cuộc phỏng vấn, ngài nói, “Ngón tay Chúa Giêsu chỉ vào Matthêu như thể ngón tay này chỉ vào tôi. Cử chỉ của Matthêu làm tôi xúc động, Matthêu chụp lại mấy đồng tiền, như muốn nói, “Không, không phải Ngài gọi tôi! Không, mấy đồng xu này là của tôi”. Đức Thánh Cha nói, “Và đó là tôi, một người tội lỗi được Chúa ghé mắt. Đó là điều tôi đã trả lời khi được hỏi, tôi có nhận việc được bầu chọn làm Giáo Hoàng không”. Chúng ta không ngạc nhiên khi khẩu hiệu của ngài từ lúc làm Giám Mục và nay Giáo Hoàng là “Miserando atque Eligendo”, “Thương Xót và Tuyển Chọn”. Đức Thánh Cha đã đáp trả lời mời gọi của Đấng Xót Thương bằng một đời sống khiêm hạ, khó nghèo và tín thác.
Ý thức được lòng thương xót của Chúa, Thánh Matthêu đã với tới tầm cao của ân sủng khi được uỷ thác sứ vụ tông đồ và thánh sử; cũng thế, Đức Phanxicô đã với tới tầm cao của ân sủng khi Thiên Chúa giao cho ngài trọng trách chăn dắt Giáo Hội; đến lượt chúng ta, Chúa Giêsu cũng đang cúi xuống và mời gọi, “Hãy theo tôi”, Ngài cũng ước mong chúng ta ký vào một tấm séc trống và trao cho người đã gọi mình, để Ngài cũng có thể viết vào đó mấy chữ “Trọn cả con người”. Chính Đấng Thương Xót sẽ giúp chúng ta với tới tầm cao của ân sủng, dù chúng ta ở đấng bậc nào và yếu hèn đến cỡ nào.
Chúng ta có thể cầu nguyện:
“Lạy Chúa, để có thể với tới tầm cao của ân sủng, xin cho con biết mềm mỏng với Thánh Thần; xin đừng để con quên rằng, con đang được đối xử với lòng Chúa xót thương”. Amen.
Thông thường, để xét tuyển nhân sự cho một tổ chức, công ty hay tập đoàn nào đó, người ta sẽ chọn những người vừa có kiến thức chuyên môn vừa phải có phẩm hạnh tốt. Ngoài ra người ta cũng cần một số kỹ năng mềm như giao tiếp, lãnh đạo, ngoại ngữ… Nhưng qua các trang Tin Mừng, chúng ta lại thấy, Chúa Giêsu lại có một cách tuyển chọn môn đệ rất khác. Ngài không đến các trường học, trung tâm đào tạo để tìm những sinh viên học cao hiểu rộng; nhưng Ngài đến làng chài Galiê để tìm những ngư phủ, chất phác quê mùa để làm tông đồ. Đặc biệt, bài Tin Mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu đến trạm thu thuế, là nơi bị người Do thái cho là tội lỗi, ô uế nhất, đáng kinh bỉ để tuyển chọn một người tên là Matthêu làm tông đồ.
Được chọn từ nơi thấp hèn, tội lỗi nhất, thánh Matthêu đúng là người thu thuế diễm phúc. Ông đươc Chúa dẫn từ trong bóng tối để đi tới ánh sáng và tự do. Trước khi Chúa gặp Matthêu, ông vẫn đang hành nghề thu thuế (x Mt 9,9), một nghề mà người Do thái xếp loại tội nhân công khai; vì làm tay sai cho ngoại bang để bóc lột dân chúng của mình bằng việc thu thuế. Cuộc đời của ông khi ấy vẫn đang bị sức nặng của tiền bạc, của dư luận xã hội giam hãm. Tự sức ông không thể nào đứng dậy và thoát ra được. Bức tranh cuộc đời ông là một màu đen bao phủ. Nhưng, khi được Chúa Giêsu đến; Ngài nhìn thấy rõ tình trạng của ông; Ngài thương ông và Ngài đã lên tiếng gọi ông “ anh hãy theo tôi” ( Mt 9,9). Ánh nhìn và lời mời gọi này Chúa Chúa Giêsu như ánh sáng chiếu vào trong bóng tối của cuộc đời Matthêu. Ông có lẽ rất ngạc nhiên vì không ngờ Chúa Giêsu không khinh thường ông như những người Dothái khác, lại còn can đảm kêu gọi ông làm môn đệ. Được Chúa kêu gọi, phản ứng của Mátthêu cũng rất can đảm. Ông lập tức đứng dậy đi theo Người. Hành động này cho thấy thái độ dứt khoát từ bỏ tình trạng của mình để đi theo Chúa. Cuộc đời của ông được giải thoát khỏi bóng tối để đi vào ánh sáng tự do là con cái và là tông đồ của Chúa.
Không chỉ kêu gọi Mathêu, Chúa Giêsu còn chấp nhận dùng bữa công khai tại nhà ông ấy, cùng với nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy Chúa Giêsu có cách hành xử khác với suy nghĩ của người Do thái đương thời, những người Pharisiêu thắc mắc hỏi các môn đệ "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?" Đối với người Phari siêu, hành động cùng bàn ăn với người thu thuế trong nhà Matthêu là một gương mù gương xấu và là một việc làm ô uế. Thấy được thái độ xét đoán, kết án của họ, Chúa Giêsu nói với họ: hãy đi và học cho biết ý nghĩa của câu “ta muốn lòng thương xót, chứ không cần lễ tế.” Lòng thương xót của Thiên Chúa tìm đến với mọi người, tha thứ cho tất cả chứ không riêng gì những Matthêu và những người thu thuế. Chúa không cần đặt điều kiện gì ở nơi chúng ta. Ngài chỉ cần chúng ta sám hối và xin Ngài cứu giúp.
Tóm lại, qua việc chiêm ngắm lại hình ảnh ơn gọi của thánh Matthêu tông đồ, chúng ta cảm nghiệm được rằng, được trở thành môn đệ của Chúa là một diễm phúc xuất phát từ ánh nhìn đầy lòng thương xót của Chúa chứ không phải đến từ tiêu chỉ của con người. Hơn nữa, chúng ta hãy học với Chúa để nhìn tha nhân với ánh nhìn của lòng thương xót và hy vọng. Mỗi người đều có quá khứ và có tương lai, không ai là người hoàn hảo. Mỗi người cần biết nhìn vào mình và sám hối trước, đừng nhìn vào tha nhân để rồi so sánh xét đoán.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc tới cách chọn gọi của Chúa Giêsu luôn xảy đến tại nơi người được gọi đang sinh sống và đồng bàn với những người tội lỗi để cứu độ họ. Chúa gọi các tông đồ nơi bờ biển, dưới cây vả… và hôm nay gọi Mátthêu khi ông còn ngồi nơi bàn giấy thu thuế, rồi sau đó về nhà tiệc tùng với “tân môn đệ”:
* Chúa gọi ta ngay nơi ta đang làm việc.
Một trong những tội bị ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang để làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Mátthêu làm việc cho Rôma đang cai trị dân tộc Do-thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của dân. Người Do-thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng hàng ngang với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La-mã và những tín đồ cặn bã của các hội đường. Mátthêu biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giàu sang.
Thế rồi, một ngày đẹp trời hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua, Ngài nhìn ông, ông đang lo đếm tiền, ngước mặt lên ông định nhắc Ngài là “vô gia cư và lang thang không nghề nghiệp thì miễn thuế”… Nhưng không, Chúa Giêsu nhìn thẳng vào ông và gọi cách dứt khoát: “Anh hãy theo tôi”. Bất ngờ quá, bỏ lại tất cả, không kịp bàn giao sổ sách, ông mời luôn cả nhóm về nhà “làm tiệc tạ ơn”.
Câu chuyện ơn gọi của Matthêu lại một lần nữa khẳng định, Chúa Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi họ có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?
Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận… nếu Chúa gọi bạn bước theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không?
Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công Giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không? Hay là đành “bỏ đạo” để không mất chức…?
Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn tôi trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?
Một số người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu, số khác được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Chúa gọi thì không phân biệt quá khứ bạn là ai, nhưng chỉ thấy bạn từ lúc bạn bắt đầu bước theo. Cùng với ơn soi sáng cho bạn nhìn thấy ơn gọi, điều quan trọng là bạn không mặc cảm với quá khứ, mau mắn đáp trả, bỏ lại mọi sự và bước theo Chúa.
* Kêu gọi người tội lỗi.
Một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được; người khoẻ mạnh thì không cần đến bác sĩ… Cũng thế, Chúa Giêsu không còn là Ðấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do Thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng loã với tội lỗi và bị nhiễm uế, Chúa Giêsu vượt trên tất cả, Ngài đến đồng bàn trong bữa tiệc “tạ ơn”, “giải nghệ” và “chia tay đồng nghiệp” của Mátthêu.
Người Do Thái coi người thu thuế, một hạng người được coi là làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người.
Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ:” Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần “.
Đến với người thu thuế không có nghĩa là đồng loã với họ. Đến với họ, để mở cho họ con đường trở về.
Còn bạn, bạn hãy học theo Chúa với cái nhìn bao dung và không thành kiến với mọi người. Để rồi bạn không ngần ngại đến với những người tội lỗi và đem họ về với Chúa…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn người lầm lỡ bằng ánh mắt của Chúa. Để yêu thương và giúp nhau đến với Chúa và hòa nhập với cộng đồng. Amen.
Theo bài Tin Mừng được Giáo Hội tuyên đọc trong ngày lễ mừng kính thánh Mátthêô tông đồ hôm nay. Chúng ta nhận thấy:
-Trước khi thánh Mátthêô gặp Chúa:
+Thánh Matthêô có nghề nghiệp ổn định, đó là nghề thu thuế.
+Có tài sản của cải vật chất, có của ăn của để.
+Tội lỗi, tham ô, móc ngoặc, gian dối.
-Sau khi thánh Mátthêô gặp Chúa:
+ Ngài từ bỏ tất cả.
+Ngài tiếp đón Chúa vào nhà mình.
+Ngài giới thiệu Chúa cho những tội lỗi khác và dẫn họ đến gặp Chúa.
Như vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, với một câu nói xuất phát từ lòng từ bi, nhân hậu, thương xót của Chúa mà đã thay đổi vận mệnh của thánh Matthêô: “Hãy theo Ta” (Mt 9, 9b). Chẳng những ngài thay đổi cuộc sống, mà ngài còn giới thiệu Chúa cho những người tội lỗi khác để họ đến với Chúa, gặp gỡ Chúa, và rồi sau đó cũng thay đổi như ngài. Quả thật, câu nói từ trái tim của Chúa và thánh Mátthêô cũng đón nhân câu nói ấy nơi trái tim của ngài cho nên dẫn đến kết quả thật là quá tốt đẹp như vậy, và rồi từ trái tim ngài học được ở Chúa, ngài cũng nói với những người tội lỗi khác bằng trái tim đó cho nên nhiều người tội lỗi đã trở về với Chúa.
Bởi thế, Chúa không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lội. Vì vậy, những người biệt phái ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay, hãy học ở Chúa để chúng ta có một trái tim tình yêu mà cảm thông, thương xót những người tội lỗi, cầu nguyện cho họ, giúp đỡ họ để họ trở về với Chúa, và đừng xua đuổi, xa lánh họ: “Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ” (Mt 9, 13).
Điều quan trọng nhất, thánh Mátthêô đã biết ơn Chúa, vì Chúa yêu thương ngài, giúp ngài đứng dậy từ vũng lầy nhơ nhớp tanh hôi tội lỗi, mà trước đó, có những đêm tối trên giường ngủ, ngài nằm gác tay trên trán, để suy nghĩ, nhìn lại cuộc đời của ngài, nghề nghiệp của ngài, với biết bao nhiêu tội lỗi ngài đã gây ra, ngài mong muốn thay đổi cuộc sống của mình, nhưng không một ai có thể giúp đỡ ngài được, chỉ có Chúa mới giúp được ngài mà thôi. Vì thế, khi ngài được gặp Chúa, Chúa tha thứ tội lỗi cho ngài, ngài quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, thay đổi cuộc sống và quyết tâm theo Chúa, làm tông đồ của Chúa, sống chết vì Chúa. Cuối cùng ngài được phúc tử đạo trong khi thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng mà Chúa trao phó cho các tông đồ trước khi Chúa về trời.
Lạy Chúa, nhiều lúc chúng con trách móc Chúa, như là những lúc chúng con gặp gian nan, thử thách, khó khăn, bão giông, mưa nắng, nóng lạnh… trong cuộc sống, là vì chúng con chưa hiểu đường lối Chúa dành cho chúng con và những người anh chị em của chúng con. Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con hiểu và đi theo đường lối của Chúa, đừng bao giờ tỏ thái độ phản kháng, khó chịu với Chúa, nhờ đó mà chúng con bớt đi tội lỗi, bớt đi những tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, tham sân si của chúng con và mỗi ngày chúng con sống tốt lành hơn. Amen.