Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 23-2024 TN

Chủ nhật - 15/09/2024 10:49
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 23-2024 TN
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 23-2024 TN
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
Xếp gọn trong Tuần 23-2024 Thường Niên
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Lc 6, 6-11. 4
Suy niệm 1: Giơ bàn tay anh ra. 4
Suy niệm 2: Phục hồi phẩm giá. 6
Suy niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo. 7
Suy niệm 4: Làm việc ngày sabát 8
Suy niệm 5: Làm việc thiện lúc nào. 9
Suy niệm 6: Sống yêu thương thật lòng. 10
Suy niệm 7: Chúa Giêsu chữa lành người bại tay ngày Sa-bát 11
Suy niệm 8: Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật 12
Suy niệm 9: Chữa người bại tay ngày sabát 13
Suy niệm 10: Khác biệt về cách nhìn nhận. 16
Suy niệm 11: Luật nghỉ-không làm việc ngày Sabat 18
Suy niệm 12: Chứa chữa bệnh trong ngày Sabat 20

Thứ 3: 21
Lời Chúa: Lc 6, 12-19. 21
Suy niệm 1: Thức suốt đêm cầu nguyện. 22
Suy niệm 2: Tinh thần Giêsu. 24
Suy niệm 3: Chọn Nhóm Mười Hai 25
Suy niệm 4: Giáo Hội Mới Của Chúa. 26
Suy niệm 5: Chọn mười hai tông đồ. 27
Suy niệm 6: Cầu nguyện để tìm Thánh ý Thiên Chúa. 28
Suy niệm 7: Nhóm Mười Hai 29
Suy niệm 8: Nhóm 12 nòng cốt 30
Suy niệm 9: Chúa tuyển chọn mười hai Tông đồ. 32
Suy niệm 11: Chúa cầu nguyện trước khi chọn các tông đồ. 37

Thứ 4: 39
Lời Chúa: Lc 6, 20-26. 39
Suy niệm 1: Phúc cho anh em là những người nghèo. 39
Suy niệm 2: Hạnh phúc và bất hạnh. 41
Suy niệm 3: Các Mối Phúc Thật 42
Suy niệm 4: Những Hạnh Phúc Bất Tiện. 43
Suy niệm 5: Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc. 44
Suy niệm 6: Các Mối Phúc Thật 46
Suy niệm 7: Phúc cho người tin tưởng vào Chúa. 46
Suy niệm 8: Các mối phúc thật 48
Suy niệm 9: 4 lời chúc phúc. 50
Suy niệm 10: Hạnh phúc thật 52
Suy niệm 11: Phúc cho chúng con là kẻ khó nghèo. 55

Thứ 5: 56
Lời Chúa: Lc 6, 27-38. 56
Suy niệm 1: Yêu kẻ thù. 57
Suy niệm 2: Nhân từ như Chúa Cha. 59
Suy niệm 3: Yêu Thương Kẻ Thù. 59
Suy niệm 4: Tiến Mãi Không Ngừng. 60
Suy niệm 5: Yêu người tột độ. 62
Suy niệm 6: Tha thứ sẽ được thứ tha. 63
Suy niệm 7: Lòng nhân từ, điểm đặc biệt của đạo Chúa. 64
Suy niệm 8: Học biết tha thứ tất cả. 64
Suy niệm 9: Hãy yêu thương kẻ thù. 66
Suy niệm 10: Chúa Giêsu dạy cách đối xử với tha nhân. 68
Suy niệm 11: Luật yêu thương tích cực. 70
Suy niệm 12: Chúng ta học ở Chúa lòng thương xót 73

Thứ 6: 13/09 Th. Gioan Kim Khẩu. 74
Lời Chúa: Lc 6, 39-42. 74
Suy niệm 1: Đạo đức giả. 75
Suy niệm 2: Khôn ngoan trong Chúa Giêsu. 76
Suy niệm 3: Hãy Tự Biết Mình. 77
Suy niệm 4: Ánh Sáng Thế Gian. 78
Suy niệm 5: Cái rác, cái xà. 79
Suy niệm 6: Mù không thể dắt mù. 80
Suy niệm 7: Biết xét mình trước. 81
Suy niệm 8: Abba, Cha ơi 82
Suy niệm 9: Cái rác và cái xà. 84
Suy niệm 10: Sửa lỗi mình trước. 86
Suy niệm 11: Phải biết mình. 87
Suy niệm 12: Người mù dẫn người mù sẽ rớt hố. 90

Thứ 7: 14/09 – SUY TÔN THÁNH GIÁ.. 91
Lời Chúa: Ga 3, 13-17. 91
Suy Niệm 1. Phải được giương cao. 92
Suy Niệm 2. Ý nghĩa mới của Thập giá. 93
Suy Niệm 3. Cuốn sách hay nhất 94
Suy Niệm 4. Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. 98
Suy Niệm 5. Thập Giá giữa đời hôm nay. 102
Suy Niệm 6. Treo cao trên thập tự. 104
Suy Niệm 7. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một 106
Suy Niệm 8. Lạy Cha, nếu có thể được. 107
Suy Niệm 9. Lễ Suy tôn Thánh giá. 123
Suy Niệm 10. Bài học của Thánh Giá. 124
Suy Niệm 11. Ba cuộc đời - ba cách chết 127
Suy Niệm 12. Thập giá trong đời 129
Suy Niệm 13. Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa. 130
Suy Niệm 14. Suy tôn Thánh Giá. 133
Suy Niệm 15. Suy tôn Thánh Giá. 134
Suy Niệm 16. Học yêu Thánh Giá. 138
Suy Niệm 17. Suy Tôn Thánh Giá. 141
Suy Niệm 18. Thập giá vinh quang. 143
Suy Niệm 19. Làm thế nào để việc suy tôn Thánh Giá trở nên hữu hiệu?. 145
Suy Niệm 20. Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ. 147
Suy Niệm 21. Lễ suy tôn Thánh Giá. 151
Suy Niệm 22. Lễ suy tôn Thánh Giá. 153
Suy Niệm 23. Chiêm ngắm tình yêu. 155
Suy Niệm 24. Chân dung của lòng thương xót 157
Suy Niệm 25. Nghịch lý không trái ngược. 161
Suy Niệm 26. Suy tôn Thánh Giá. 166
Suy Niệm 27. Từ thập giá đến Thánh Giá. 167
Suy Niệm 28. Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa. 169
Suy Niệm 29. Thánh Giá Chúa. 171
Suy Niệm 30. Thánh Giá: con đường đời sống Kitô. 174
Suy Niệm 31. Vinh Quang Thánh Giá. 178
Suy Niệm 32. Suy niệm về Thánh Giá. 179
Suy Niệm 33. Yêu cho đến cùng. 183
Suy Niệm 34. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng. 184
Suy Niệm 35. Sùng kính hay là vác thập giá. 187
Suy Niệm 36. Thập Giá, con đường về trời 189
Suy Niệm 37. Thập Giá và cuộc sống. 190
Suy Niệm 38. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất 192
Suy Niệm 39. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một 193
Suy Niệm 40. Nhờ Thánh Giá hướng dẫn. 194
Suy Niệm 41. Con Người cũng phải bị treo lên. 196
Suy Niệm 42. Nhìn lên Thánh Giá, bạn thấy gì?. 197
Suy Niệm 43. Thập Giá trở thành Thánh Giá. 198
Suy Niệm 44. Con Người phải bị treo lên. 199

----------------------------------
 

Thứ 2:

Làm việc tốt ngày Sabbat.
09/09 – Thứ Hai tuần 23 thường niên.
“Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không”.

 

Lời Chúa: Lc 6, 6-11


Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người.
Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây”. Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?” Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra”. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Giơ bàn tay anh ra


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chúng ta không biết nhiều chi tiết về người đàn ông này.
Ông bao nhiêu tuổi, có gia đình chưa, sống bằng nghề gì?
Chỉ biết là bàn tay phải của ông bị teo, không duỗi được (c. 6).
Chắc là nó bị co quắp vì các cơ không hoạt động bình thường.
Như thế sẽ rất khó chịu và bất lợi để sinh hoạt hàng ngày.
Hơn nữa đây lại là bàn tay phải, bàn tay chính để làm việc.
Người đàn ông có bàn tay thương tật đã đến hội đường vào ngày sabát.
Ông đến để nghe giảng dạy và cầu nguyện như mọi người.
Có vẻ ông chẳng mong gì, chẳng xin được Đức Giêsu chữa lành,
dù tiếng tăm của Ngài lúc đó đã lan rộng nhiều nơi (Lc 5, 15).
Thật bất ngờ khi Ngài bảo ông: “Hãy trỗi dậy và ra đứng giữa đây.”
Ông chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình, nhưng đã vâng lời.
Ông đứng ở ngay giữa cho mọi người thấy.
Sau đó Ngài bảo ông: “Hãy duỗi bàn tay của anh ra!” (c. 10).
Một lần nữa ông lại vâng lời.
Ông làm điều mà có lẽ từ lâu ông không làm được.
Duỗi bàn tay khô héo, co quắp này, để có thể cầm cái ly, cái chén.
Ước mơ đơn giản ấy nào ngờ hôm nay được thực hiện.
Ông đã duỗi bàn tay theo lời Đức Giêsu, và nó đã trở lại bình thường.
Bàn tay như được sống lại, được phục hồi, mềm mại, dễ bảo.
Cuộc đời ông từ nay sẽ tươi hơn, có ích hơn, ít phải nhờ vả hơn.
Đức Giêsu đã làm phép lạ này không phải vì được yêu cầu,
nhưng như một câu trả lời cho các kinh sư và những người Pharisêu.
Họ rình xem Ngài có chữa bệnh trong ngày sabát không, để tố cáo Ngài.
bởi lẽ theo họ, ngày sabát chỉ được chữa những bệnh nguy tử.
Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu này và công khai tỏ thái độ.
Câu hỏi quen thuộc: có được phép làm điều này vào ngày sabát không?
được thay bằng câu hỏi mới: ngày sabát được phép làm điều lành hay dữ;
cứu mạng sống hay hủy hoại mạng sống? (c. 9).
Phép lạ sau đó của Đức Giêsu chính là câu trả lời (c. 10).
Nhiều khi không làm một điều tốt, cũng bằng với việc làm một điều xấu,
Không cứu một người vào giây phút ấy, cũng bằng gián tiếp giết chết họ.
Đức Giêsu đã không coi ngày sabát như ngày chỉ biết ngồi khoanh tay,
nhưng như ngày để làm điều tốt, để cứu sự sống con người.
Dù sao Đức Giêsu đã không hề đụng đến ông có bàn tay bị tật.
Khó lòng bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày sabát
Ngài chữa cho ông ấy chỉ bằng một lời mà thôi.
Các Kitô hữu không còn phải giữ ngày sabát nữa, nhưng giữ Chúa Nhật.
Đây là ngày để chúng ta làm điều tốt, để chăm lo cho sự sống.
Chữa cho một bàn tay bị teo tóp được lành, việc này không nhỏ.
Làm cho một con người có thể sống bằng đôi tay của mình, là chuyện lớn.
Đức Giêsu đã phải trả giá cho việc chữa bệnh của mình.
Chúng ta cũng phải trả giá khi dám bảo vệ một sự sống nhỏ nhoi.
Chỉ mong bàn tay tôi không co lại, nhưng mở ra cho mọi người.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Phục hồi phẩm giá


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sự sống là món quà quí nhất Chúa ban cho con người. Từ sự sống tự nhiên được nâng lên đến sự sống siêu nhiên. Từ con loài người được trở nên con Thiên Chúa. Sự sống quí giá đến nỗi khi con người lơ đễnh làm mất mát, hao hụt, Thiên Chúa đã sai chính Con Một giáng trần để phục hồi sự sống, phục hồi phẩm giá con người. Bệnh tật là hình ảnh của tội lỗi. Nó làm con người bị giảm thiểu. Không thể sống như một con người. Trong xã hội còn bị khinh miệt. Không thể tự nuôi sống bản thân. Không thể chu cấp cho những người thân. Con người mất phẩm giá. Con người bị cái chết thống trị.

Chúa Giê-su đến cứu sống con người. Phục hồi sự sống. Phục hồi phẩm giá. Cho con người sống xứng đáng địa vị con người. Còn hơn nữa, sống xứng đáng địa vị con Chúa. Nhưng thế lực sự dữ vẫn còn đó. Họ chống đối. Họ muốn sự chết thống trị. Chúa Giê-su công khai hỏi họ: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt”. Họ không muốn làm điều tốt. Không muốn cứu sống. Mà còn âm mưu hại Chúa. Vì thế Chúa gặp nhiều khốn khó. Nhưng Chúa sẵn sang chịu chết để con người được phục hồi.

Noi gương Chúa, Thánh Phao-lô, vì niềm hi vọng sự sống của anh em, sẵn sàng chịu đựng mọi gian lao vất vả, để anh em được đạt tới niềm hi vọng vinh quang là Chúa Giê-su Ki-tô: “Để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi”. Vì sự sống, người tông đồ sẵn sàng xông vào cuộc chiến. Cùng chịu đau khổ với Chúa để anh em được sống: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào than cho đủ mứ, vì lợi ích cho than thể Người là Hội Thánh” (năm lẻ).

Ma quỉ và thế lực sự chết rất thâm độc. Nó thấm nhập vào bản thân ta. Nó như chất men độc hại vẫn đang còn tồn tại, phá hoại sự sống và phẩm giá con người. Vì thế thánh Phao-lô thúc giục ta: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (năm chẵn).

---------------------------------

 

Suy niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau:

Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao. Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu. Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ. Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.

Nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu, nhất là các thành phần lãnh đạo trong dân cũng có lối hành đạo tương tự. Thật ra, đạo của mạc khải Do thái giáo cốt yếu cũng là đạo của tình thương; thế nhưng trong thực tế, cái cốt lõi ấy thường bị quên lãng để nhường chỗ cho biết bao nghi thức trống rỗng vô hồn; người ta sẵn sàng loại trừ tha nhân và chối bỏ tình thương để tuân giữ những nghi thức và luật lệ vô hồn ấy.

Chúa Giêsu đã đến và đưa con người trở lại cái cốt lõi của đạo. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày thêm thấm nhuần cái cốt lõi của đạo là yêu thương.

---------------------------------

 

Suy niệm 4: Làm việc ngày sabát


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ðoạn Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành người bị bại tay phải trong ngày nghỉ sabát, hoặc cho những luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Chúa có lỗi luật nghỉ ngày sabát hay không, ngõ hầu có lý do ám hại Chúa.

Chu toàn bổn phận bác ái có ưu tiên trên việc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, một việc thực hành đạo đức quan trọng của Do Thái Giáo. Thực hành việc đạo đức mà không có lòng bác ái yêu thương anh chị em thì việc thực hành kia có thể trở thành vụ lợi, khoe khoang. Bảo vệ cách quá khích luật nghỉ ngày sabát, các luật sĩ và những người biệt phái đã làm cớ cho người ta hiểu lầm rằng Thiên Chúa đối nghịch với con người. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, các luật sĩ và biệt phái xem ra bắt buộc Chúa Giêsu phải chọn một trong hai việc: hoặc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, hoặc chữa lành người bị bại tay phải. Tinh thần vụ hình thức đã làm hư cốt tủy của đạo Chúa. "Tôi hỏi các ông, ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống người hay giết chết?" Câu hỏi của Chúa Giêsu thức tỉnh những kẻ sống đạo vụ hình thức.

Nơi đoạn Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, những luật sĩ và những người Pharisiêu xem ra có thái độ dứt khoát phải chọn một trong hai việc là giữ ngày sabát hoặc làm việc thiện để cứu người bị bại tay phải. Nhưng theo Phúc Âm thánh Mátthêu chương 12 câu 11 và những câu kế tiếp, chúng ta được biết rằng những luật sĩ và biệt phái có một giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày sabát. Họ cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày sabát. Thật là nghịch đời, họ cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu con người. Phải chăng các luật sĩ và biệt phái coi trọng con vật hơn con người. Ngày nay, chúng ta có thể gặp trường hợp tương tự, có những người nhân danh lòng nhân từ để kêu gọi bảo vệ súc vật nhưng lại thẳng tay loại trừ những thai nhi còn trong lòng mẹ, mạnh mẽ cổ võ việc phá thai.

Phần Chúa Giêsu, qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người và đặt luật nghỉ ngày sabát trong viễn tượng rộng rãi hơn của tình yêu thương. Các ngày sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Một tâm hồn khô khan không có tình yêu đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em thi sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ chạy trốn trước việc lành cần phải làm để phục vụ anh chị em. Họ dễ dàng biện hộ cho thái độ sống thiếu quảng đại, thiếu bác ái bằng lý do hết sức đạo đức nhưng có thể đó là sự đạo đức giả hình, chưa trưởng thành.

Lạy Chúa,

Chúng con cảm tạ Chúa vì đã thức tỉnh chúng con qua mẫu gương và bài học căn bản. "Trong ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết?" Xin thương giải thoát con khỏi thái độ sống đạo vụ hình thức, ham danh lợi, lo củng cố địa vị hơn là thực hành yêu thương bác ái. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa để có thể trổ sinh những việc làm tốt phục vụ anh chị em mọi nơi và mọi lúc.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 5: Làm việc thiện lúc nào


Đức Giêsu nói với họ: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: “Anh hãy giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. (Lc. 6, 9-10)

Luôn còn tái diễn trong ngày sabát! Đức Giêsu hỏi biệt phái: ngày sabát, được phép làm việc thiện hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt? có phải lúc làm việc tốt, việc bác ái, lúc khác không được chăng? nếu nhân danh Thiên Chúa mà chủ trương thế thì quá tệ.

Cấm làm việc thiện trong ngày thờ phượng Chúa có đúng không? có làm sáng danh Chúa khi đặt ra luật lệ vụn vặt hẹp hòi không? chúng ta nên nhận định rõ rằng: Khi xoa dịu những đau đớn của tha nhân bằng mọi cách có thể thì làm sáng danh Chúa biết chừng nào. Đó là điều Đức Giêsu đã thực hiện. Người vào hội đường, Người dạy dỗ. Ánh mắt Người bắt gặp một người bại tay. Những kẻ bảo toàn luật lệ rình rập xem: Thầy này táo bạo, chẳng sợ gì, sẽ làm gì để đảo lộn lề luật đây? Ông có dám chữa kẻ tàn tật đó trong ngày sabát không? Đức Kitô biết rõ ý nghĩ của những thẩm phán cay nghiệt này luôn luôn săn bắt Người. Người vẫn coi thường họ, một lần nữa trịnh trọng, công khai, giữa ban ngày, không hề che giấu, Người nói với kẻ khô bại tay: “ Anh chỗi dậy, ra đứng giữa đây! người ấy liền chỗi dậy và ra đứng đó. Người hỏi những kẻ ghen ghét dò xét Người rằng: ngày sabát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” Tất nhiên, không ai trả lời, không ai có can đảm dám nói ra ý nghĩ của mình. Nếu nói ra đúng ý nghĩ của mình, tất nhiên, phải liên minh với Người vì tự nhiên phải chấp nhận trong ngày của Chúa thì phải làm điều lành, phải cứu mạng sống, không thể làm điều dữ. Và như thế sẽ thấy rõ người ta đã hiểu sai luật ngày sabát.

Một lần nữa Đức Kitô đã thấu suốt ý nghĩa của luật lệ. Một lần nữa Người đã được sự ủng hộ của con người để Người cứu chữa bệnh nhân: “Anh hãy giơ tay ra,... và tay anh được bình thường”.

Trong Giáo Hội được đổi mới là nhờ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động hơn bao giờ hết, không thiếu những người theo chân Đức Giêsu, muốn làm cho chúng ta hiểu rõ con người có giá trị vô biên hơn muôn vàn luật lệ. Chúng ta cố gắng nghe và theo chân Đức Giêsu và những vị đó.

GF

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Sống yêu thương thật lòng


Xem lại CN 9 TN B

Hôm nay bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu chữa người bại tay ngày Sabát. Đây là việc làm hữu ích, vì nó thể hiện tình thương của Thiên Chúa với người đau khổ. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho các Luật Sĩ và Pharisêu tỏ ra khó chịu và bầy binh bố trận để hạ sát Đức Giêsu!!!

Tại sao vậy? Thưa! Vì xuất phát từ lối suy nghĩ khác nhau khi hiểu về việc giữ Luật. Những Luật Sĩ và Pharisêu thì chỉ tập trú vào việc hình thức bên ngoài, họ không bỏ sót một chấm một phết trong Luật. Còn Đức Giêsu thì quan tâm đến tinh thần của Luật, Ngài đi vào nội dung của Luật là tình thương.

Vì thế, việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Bởi vậy, không lạ gì khi các Luật Sĩ và Pharisêu không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng...

Thấy được ý đồ đen tối của các Luật Sĩ và Pharisêu, nên Đức Giêsu đã hỏi họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?". Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày Sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người.

Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, đã biết bao nhiêu lần chúng ta lo sống hình thức bên ngoài, mà quên đi ý nghĩa và giá trị đích thực trong việc giữ đạo.

Những chuyện như: vì danh thơm tiếng tốt của cha mẹ, hoặc vì cha mẹ làm công to việc lớn trong Giáo xứ, ngoài xã hội, hay sợ liên lụy đến bản thân, nên đã biết bao lần ta sống đạo hình thức, giả tạo và rỗng tuếch, nhưng vẫn ra vẻ đạo đức, tốt lành!

Lại có những người được xem ra rất tốt lành, nhưng lại là những người chuyên ngồi lê mách lẻo chuyện của người khác với mục đích làm cho người khác mất danh dự, uy tín trước cộng đoàn. Hay cũng có những người luôn tìm cách công kích để hạ bệ người khác rồi mình hả hể với thành quả đạt được. Những hạng người như thế, họ chỉ lo tìm cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì giả điếc làm ngơ!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn yêu thương, cảm thông với những người ốm đau, bệnh tật, đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, thay cho thái độ khinh miệt, kỳ thị.

Mặt khác, khi thấy được người khác làm việc tốt thì phải công tâm để nâng đỡ chứ không được vì ghen ghét mà tìm cách bẻ cong sự thật và vu khống cho người ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương và nâng đỡ những ai đang lâm cảnh khó khăn, đồng thời biết sống thật với lòng mình và luôn làm điều tốt cho người khác. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Chúa Giêsu chữa lành người bại tay ngày Sa-bát


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu chữa lành người bại tay trong ngày Sa-bát, và như thế đối với người Do thái là phạm luật. Nhưng qua đó, Ngài muốn nói với ta rằng: không có luật nào lớn hơn luật yêu thương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho phép con hình dung hai hình ảnh trái ngược nhau: một bên là khuôn mặt dịu hiền đầy nhân ái của Chúa khi Chúa thương chữa lành cho người bại tay. Một bên là những khuôn mặt đầy hận thù ghen ghét của những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự hào là kẻ trung thành giữ luật Chúa, nhưng không hề biết xót thương con người.

Lạy Chúa, Chúa muốn con trở nên giống Chúa và hành động như Chúa. Chúa muốn con luôn biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của tha nhân. Chúa muốn dạy con rằng việc thờ phượng Chúa không tách rời khỏi việc giữ đức ái với tha nhân. Con không thể yêu mến Chúa nếu không thương mến anh em mình. Vâng, lạy Chúa, chính vì để tôn vinh và yêu mến Chúa Cha, Chúa đã hiến thân cho nhân loại, và để kiện toàn luật Chúa, Chúa dạy con bài học yêu thương.

Xin cho con biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu không so đo tính toán, không ích kỷ nhỏ nhen. Xin đừng để con lây nhiễm tinh thần biệt phái hẹp hòi, thích lên án chỉ trích anh em mình hơn là yêu thương tha thứ cho họ. Xin cho đời sống đạo của con, không phải chỉ đóng khung trong nhà thờ, nhưng luôn được thực hiện cách cụ thể trong đời sống hằng ngày, cho những người anh em đang cần đến sự giúp đỡ của con. Nhờ ơn Chúa giúp, xin cho con trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái Y. Rabin, khi anh ta bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho Lề Luật, làm cho dân tộc Israel”.

Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay… (Theo Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền).

Suy niệm

Luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Đức Giêsu có lỗi luật nghỉ ngày Sabát hay không để bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày hưu lễ ngõ hầu có lý do ám hại Chúa. Ngài nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, giữ luật vì hình thức và vụ lợi.

Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình yêu thương và lòng tin.

Dù giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên những luật sĩ và biệt phái vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: Cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x. Mt 12,11). Như thế, họ tự cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu người anh em đang đau khổ vì bệnh tật. Ðức Giêsu buồn và giận vì điều đó.

Qua hành động chữa lành người bị bại tay ngay cả trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Ngày hưu lễ là ngày dành làm vinh danh Thiên Chúa khi cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Cho nên, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.

Xin Chúa giúp chúng con ý thức được ý nghĩa của luật Chúa và giữ luật vì yêu mến.

Ý lực sống

“Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Chữa người bại tay ngày sabát


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đức Giêsu chữa người bại tay ngày hưu lễ nên bị những người luật sĩ và biệt phái rình xét, phản kháng. Người biệt phái giữ luật chặt chẽ nhưng chỉ là hình thức. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu mà không biết nhân nghĩa là gì. Đức Giêsu rất trung thành với lề luật, nhưng Người đi  sát tinh thần yêu thương của lề luật, chứ không phải hình thức bên ngoài. Ngày Hưu lễ là ngày làm vinh danh Chúa, cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Con người được hạnh phúc là lúc Thiên Chúa được vinh danh. Vì thế, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.

2. Giới răn Sabát được giải thích  từ việc tin rằng Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật trong sáu ngày và ngày thứ bảy thì Người nghỉ ngơi. Chính vì vậy, nguyên thủy người ta nghỉ ngày thứ bảy  (sabát) như là một sự bắt chước Thiên Chúa, đồng thời dành một ngày cuối tuần để chỉ dành riêng cho việc phụng sự Thiên Chúa. Thế nhưng, càng ngày, luật Sabát được các luật sĩ giải thích chi tiết, cặn kẽ và dừng lại ở mặt chữ của luật: chỉ dừng lại ở cái lý mà đánh mất cái tình, giữ luật vì luật chứ không còn vì yêu mến Chúa và đánh mất đức ái mà luật nhắm tới.

3. Việc chữa bệnh của Đức Giêsu được khởi đi từ bản chất của Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót.  Bởi vậy, không lạ gì khi các luật sĩ và biệt phái không những không ủng hộ việc tốt lành của Đức Giêsu với người bại liệt, ngược lại, họ luôn rình rập để chờ cơ hội thuận tiện  rồi lên tiếng tố cáo Đức Giêsu. Một điều đơn giản là do động lực của hận thù, ghen ghét, vì sợ Đức Giêsu lật tẩy lòng gian ác của họ trước dân chúng... Thấy được ý đồ đen tối của luật sĩ và biệt phái, nên Đức Giêsu đã hỏi họ: “Tôi hỏi các ông, ngày sabát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết”? Khi hỏi như thế, Đức Giêsu trả lại cho ngày sabát ý nghĩa đích thực của nó, đó là ngày giải phóng con người (Ngọc Biển).

4. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề  luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật  chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đứng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân.

Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Thiên Chúa không gì khác hơn là  con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chí là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật  trước tiên là sống yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).

5. Em học sinh nọ bị rắn cắn phải đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho em trong cơn “thập tử nhất sinh”. Hậu quả là em đã không qua khỏi.

Vì nệ luật và vụ hình thức, các luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng vai trò và ý nghĩa của nó.

Thật vậy, lề luật được đặt ra là để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.

6. Trong hội trường nhỏ bé ngày ấy, có ba loại người (1)người đau ốm cần giúp đỡ, (2) người bận tâm đem lại sự sống cho người khác; (3) người tìm phương kế để tiêu diệt người khác. Câu hỏi của Đức Giêsu trên đây đặt người biệt phái vào thế lúng túng, bởi vì nói đúng tim đen của  họ. Trong thế giới rộng lớn ngày nay, vẫn là ba hạng người: (1) những người cần sự nâng đỡ để có sự sống; (2) những người nỗ lực phò sự sống, xây dựng nền văn minh tình thương; (3) những kẻ chủ trương tiêu diệt sự sống của người khác, để mình có thể sống hưởng thụ sung sướng, hay cổ võ nền văn hóa sự chết. Là Kitô hữu, chắc chắn bạn được mời gọi bước theo con đường của Thầy mình (5 phút Lời Chúa).

7. Truyện: Bác ái phải trên lề luật.

Một buổi chiều năm 1953, nhiều nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất tại châu Phi.

Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả  nặng nhọc với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.

Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên:

- Đây là lần đầu tiên tôi nhận được một bài giảng sống động về tình yêu thương.

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Khác biệt về cách nhìn nhận


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chúa Giêsu và các luật sĩ, biệt phái tranh luận với nhau về luật nghỉ làm việc ngày sabát.

- Hôm ấy trong hội đường có một người bị bại tay, các luật sĩ và biệt phái rình xem Chúa Giêsu có chữa bệnh cho người ấy không để tố cáo Ngài.

- Chúa Giêsu biết ý của họ nên hỏi trước: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ?”: Khi chống đối Chúa Giêsu, các đối thủ đã dựa vào chủ trương “không làm gì cả” trong ngày sabat. Phần Chúa Giêsu thì đặt vấn đề “làm điều lành” hay “(làm) điều dữ”.

- Thực ra chủ trương của Pharisêu không hẳn là hoàn toàn không làm gì cả. Họ cũng chấp thuận được cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6). Nhưng họ phải nghiên cứu từng trường hợp cụ thể để cho phép làm như vậy. Còn Chúa Giêsu, thái độ của Ngài trong trường hợp này cho thấy rõ: luật ngày sabat phải lệ thuộc luật yêu thương và giúp đỡ kẻ khác, vì đó là ngày giải phóng.

B.... nẩy mầm.

1. Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người tay hữu bị khô bại, nghĩa là mất khả năng làm việc, do đó cũng mất phương tiện để sinh sống. Tuy người này không xin, nhưng Chúa Giêsu thương anh và chữa anh.

Ta hãy cầu nguyện cho những kẻ tật nguyền và những người không có công ăn việc làm để sinh sống.

2. Cái nhìn của Chúa Giêsu và của các đối thủ Ngài rất khác nhau: Chúa Giêsu thấy một người cần được Ngài giúp đỡ; còn họ thì không để ý gì đến người tàn tật mà chỉ lo rình mò để xem Chúa Giêsu có làm gì sai luật không để mà bắt bẻ.

Xin Chúa cho con có cái nhìn của Chúa: cái nhìn của tình thương chứ không phải cái nhìn soi bói rình mò.

3. Khi người khô tay đã được lành, các biệt phái và luật sĩ không vui mừng với anh mà lại tức giận với Chúa Giêsu và bàn nhau hại Ngài.

Xin Chúa đừng để cho lòng ganh ghét làm cho con bị mù quáng, trái lại xin cho con biết vui với niềm vui của người khác.

4. Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt và nói:

- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh cây.

Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:

- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh cây vào thân cây.

Tên cướp cười gằn, nói:

- Mi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.

Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một bài học:

- Ngươi mới là tên khùng khi nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành. ("Mỗi ngày một tin vui")

5. “Các kinh sư và những người pharisêu xem Chúa Giêsu có chữa người ấy trong ngày sabát không, để tìm được cớ tố cáo Ngài” (Lc 6,7)

Lạy Chúa, dò xét, rình rập thì con hay lắm, còn nhìn lại bản thân thì con thật là dở. Con dò xét người này, dòm ngó người kia, rình rập người nọ… để tìm ra chỗ hở mà đả kích cho “đã”. Rồi tự biện hộ rằng mình xây dựng cho anh em. Nhưng mắc cỡ thay, đó chỉ là những cử chỉ, hành động phô trương đạo đức giả hình.

Nhược điểm và bao nhiêu cái xấu xa của con, con lại không nói ra, mà còn khéo tô thêm một lớp sơn hào nhoáng như ngôi mô bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong mục nát thối hư…

Chúa ơi! Xin cho con biết nhìn lại chính con nhiều hơn là tìm những sơ hở của người khác mà lên án. (Hosanna)

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Luật nghỉ-không làm việc ngày Sabat


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu, các luật sĩ và Pharisêu lại tranh luận với nhau về luật nghỉ không làm việc trong ngày Sabat.

Theo những người luật sĩ và Pharisêu thỉ nghỉ là nghỉ, “không làm gì cả”. Ngày Sabat là ngày nghỉ. Tuy họ có chấp thuận một số việc được làm trong ngày Sabat nhưng phải tuỳ từng trường hợp rất cụ thể mới được làm. Thí dụ như cứu người nguy tử trong ngày đó (Mishna Yoma VIII,6).

Theo Chúa Giêsu, nếu cứ giữ như thế thì luật sẽ trở thành một gánh quá nặng cho con người và nhiều khi còn tàn nhẫn nữa.

Một người Do Thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.

Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.

Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:

- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.

Nói xong ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.

Những người sống luật vì luật cũng tương tự như thế.

2. Còn Chúa Giêsu, thì thái độ của Ngài có khác. Luật nào cũng vậy, trong mọi trường hợp phải lệ thuộc vào tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì lề luật chỉ còn là cái xác không hồn. Không vì yêu thương thì luật trở thành vô đạo đức. Luật ngày Sabat cũng thế…. vì ngày Sabat theo ý nghĩa từ ban đầu là ngày giải phóng con người.

Kẻ được Chúa Giêsu cứu chữa hôm nay là một người có một cánh tay bị khô bại. Cánh tay đó lại là cánh tay bên phải nên khả năng làm việc của anh dường như không còn. Không còn khả năng làm việc cũng có nghĩa là mất luôn phương tiện để sinh sống. Đứng trước hoàn cảnh đó, tuy anh ta không xin, nhưng Chúa Giêsu vẫn thương và chữa anh.

Các luật sĩ và những người Pharisêu đã rình xem Chúa ngay từ khi Chúa bước vào hội đường cho nên khi thấy Chúa Giêsu làm như vậy thì họ chộp ngay lấy cơ hội tố cáo Người.

Chúng ta thừa biết lòng của các luật sĩ và những người Pharisêu đã trở nên chai cứng như thế nào. Họ chẳng màng gì đến những chuyện sống sao cho đẹp lòng Chúa mà chỉ nghĩ đến việc giữ một số những quy định, rồi tưởng rằng, làm như thế là đã sống đạo rồi.

Người ta kể rằng: Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với một đan sĩ có bổn phận phải coi nhà khách và thỉnh thoảng bố thí cho người đến xin giúp đỡ. Trớ trêu thay, đúng vào lúc Chúa Giêsu hiện ra thì chuông nhà khách reo lên báo hiệu có người nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Thoạt đầu, người đan sĩ có vẻ do dự không biết phải ở lại bên Chúa Giêsu đang hiện ra với mình, hay phải đến phòng khách làm bổn phận mang thức ăn cho người đói ăn xin. Nhưng rồi vị đan sĩ quyết định đến nhà khách để chu toàn bổn phận, xong việc rồi đan sĩ trở lại thì thấy Chúa Giêsu vẫn còn chờ nơi đó. Chúa Giêsu tươi cười bảo vị đan sĩ:

- Nếu con đã không ra đi chu toàn bổn phận giúp cho người nghèo kia thì Ta đây đã không ở lại để chờ con.

Qua việc chữa bệnh cho người bị bại tay trong ngày Sabat hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tâm hồn Chúa tràn đầy yêu thuơng đối với con người. Kể từ giây phút Chúa long trọng công bố rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát người tù tội, cho người mù được thấy, cho người áp bức được tự do, tại hội đường Nazareth, Chúa đã luôn luôn trung thành với sứ mạng này để phục vụ và nâng cao con người lên.

Mẹ Têrêsa đã từng nói: “Theo tôi biết, chẳng có khổ đau nào thấm thía hơn nỗi khổ đau của người thấy mình cô đơn, thừa thãi, không được ai yêu thương. Nỗi khổ đau cùng cực là nỗi cô độc, không biết tới cả mối tương quan thân tình đích thực giữa người với người, không biết thế nào là được yêu, không người thân, không bạn hữu”.

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”. (Mt 25,40).

-------------------------------

 

Suy niệm 12: Chứa chữa bệnh trong ngày Sabat


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Thái độ của những người biệt phái, luật sỹ không trả lời khi Chúa hỏi họ là ngày sa bát được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết, đã cho chúng ta thấy họ là những con người mưu mô, lỳ lượm, chai cứng trong con đường tội lỗi, khó để cho Chúa dạy dỗ vô cùng. Sở dĩ họ không trả lời Chúa vì họ quá quỷ quyệt trong lối suy nghĩ, tránh không dám đối diện với thực tế, sợ bị mất uy tín với dân chúng, sợ bị Chúa khiển trách. Có nghĩa là nếu họ trả lời ngày sa bát được làm sự lành, được cứu sống thì Chúa sẽ hỏi tại sao các ông không cho Chúa làm phép lạ để cứu những người đau khổ, bệnh tật. Còn nếu họ trả lời không được làm điều lành và cứu sống thì đức mến Chúa yêu người của họ ở đâu trong cuộc sống của họ? Đương nhiên ngày sa bát và kể những ngày khác trong cuộc đời này, con người chúng ta không được làm sự dữ và giết chết, vì đó là tội lỗi, cần phải xa tránh.

Những người biệt phái, luật sỹ có tâm địa gian manh, lòng dạ một  hai, họ vẫn hiểu, vẫn biết câu hỏi của Chúa, vẫn trả lời được, nhưng họ sợ khi trả lời ra thì họ sẽ mất uy tín với dân chúng, và bị chúa bẻ lại, cho nên họ làm thinh. Biết mà không dám trả lời, cho nên đó là nỗi ấm ức, hằn học, đau đớn của họ. Nếu họ lột bỏ cái mặt nạ giả hình này xuống, trả lời theo suy nghĩ của họ để cho Chúa biết thì Chúa sẽ giúp họ, hướng dẫn họ, dạy dỗ họ, và rồi họ sẽ nhận ra sự sai trái của mình mà sửa đổi lại cuộc sống cho tốt hơn thì có lẽ họ sẽ được Chúa thương họ. Nhưng họ không làm như vậy, họ tức giận và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa (Lc 6, 11).

Chắc chắn là họ không làm gì được Chúa, không cản trở được sứ mạng rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ của Chúa. Họ đã chối bỏ tình thương của Chúa thì bây giờ người khác sẽ thay thế cho họ để được hưởng tình thương của Chúa. Cụ thể là anh bị bệnh tay hữu khô bại hôm nay, Chúa đã chữa lành cho anh: “Chúa  bảo anh hãy giơ tay anh ra. Người ấy giơ ra và tay người ấy được lành” (Lc 6, 10). Những người có niềm tin, cậy trông, phó thác vào Chúa, những người khiêm nhường, những người được Chúa yêu thương, sao mà Chúa ban ơn cho họ cách mau lẹ, dễ dàng, không đòi hỏi một điều gì cả, và những người đó nhận được ơn Chúa ban mà không tốn kém sự gì cả. Quả là Chúa ban ơn một cách nhưng không, chúng ta phải luôn luôn tạ ơn Chúa trong cuộc đời của chúng ta.

Qua phép lạ Chúa làm để cứu người tay hữu bị khô bại, Chúa mong muốn chúng con đừng có giống những người biệt phái, luật sỹ năm xưa, là dòm ngó, dò xét, dõi theo người anh chị em chúng ta với một thái độ câu mâu, tính toán, hơn thua. Chúa muốn chúng ta sống yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau “Chị ngã, em nâng”, cùng vui với người vui, cùng khóc với người khóc, nhất là giúp nhau nên thánh.

Lạy Chúa của chúng con, Chúa không thích chúng con phải bị khổ trong tinh thần và thể xác, Chúa cũng không muốn chúng con làm khổ nhau trong cuộc đời này, bởi Chúa là Đấng từ bi, nhân ái, giàu có về ân sủng, vì thế mà Chúa ban phát muôn ơn cho chúng con với một lòng hảo tâm từ ái vô cùng. Xin Chúa ban ơn giúp chúng con lúc nào chúng chạy đến với Chúa, nương tựa vào Chúa. Xin Chúa thương xót và đừng bỏ rơi chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 3:

Chọn Nhóm Mười Hai.
10/09 – Thứ Ba tuần 23 thường niên.
“Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.

 

Lời Chúa: Lc 6, 12-19


Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Thức suốt đêm cầu nguyện


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Giêsu là con người cầu nguyện:
đây là nét nổi bật của Tin Mừng Luca.
Ngài cầu nguyện suốt cuộc đời trần thế,
từ khi nhận phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Lc 3, 21)
đến khi hấp hối trên thập giá (23, 34. 46).
Đối với Ngài, cầu nguyện là chuyện Con đi gặp Cha,
là cuộc chuyện trò thân mật giữa Cha và Con.
Chính vì thế các lời cầu nguyện của Ngài (10, 21; 22, 42; 23, 34. 46).
đều bắt đầu bằng hai tiếng Abba, Cha ơi, thân thương.
Cần một không gian tĩnh lặng và riêng tư để gặp Cha (9, 18),
nên Đức Giêsu thường lên núi (6, 12; 9, 28)
hay vào chỗ hoang vắng (5, 16).
Nhưng có khi Ngài cầu nguyện tự phát trước mặt môn đệ (10, 21),
hay dẫn các môn đệ đến nơi mình sắp cầu nguyện (9, 28; 22, 39).
Gặp Cha là hơi thở đem lại sự sống và hạnh phúc cho Đức Giêsu.
Ngài múc lấy toàn bộ ý nghĩa đời mình qua các cuộc gặp gỡ đó.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Đức Giêsu.
Ngài đã thức suốt đêm nơi một ngọn núi (c. 12).
Ngài cố ý đến ngọn núi này để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Đức Giêsu có điều cần hỏi ý Cha trước khi đi tới một quyết định.
Và đây là một quyết định quan trọng.
Đã có một đám đông môn đệ theo Ngài (Lc 6, 17),
bây giờ Đức Giêsu muốn tuyển chọn một nhóm nhỏ
để họ ở gần Ngài hơn và cộng tác với Ngài sát hơn.
Đức Giêsu không muốn tự chọn cho mình những cộng sự viên.
Ngài muốn đặt việc chọn lựa này trong bầu khí cầu nguyện.
Ngài coi nhóm đặc biệt này là “những kẻ Cha đã ban cho Con,”
“những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian” (Ga 17, 6. 9).
Đức Giêsu chỉ muốn chọn những người Cha đã chọn cho mình.
Đến sáng Ngài mới rõ ý Cha, mới làm xong việc chọn lựa.
Như thế cả Đức Giêsu cũng phải vất vả tìm kiếm ý Cha.
Cuối cùng Ngài đã chọn được Mười Hai ông mà Ngài gọi là tông đồ.
Đời người được đan kết bằng những chọn lựa lớn nhỏ.
Có những trường hợp dễ phân biệt trắng đen.
Nhưng có khi tôi phân vân không rõ điều nào tốt hơn,
và đâu thực sự là điều Chúa muốn cho đời tôi.
Gặp gỡ Chúa trong lặng lẽ cô tịch, với tâm hồn tự do thanh thoát,
chúng ta có cơ may nhận được ánh sáng từ trên cao.
Nếu tôi làm theo ý Chúa, đời tôi sẽ được hạnh phúc, dù phải hy sinh.
Nếu tôi cương quyết làm theo ý mình, dù biết ngược với ý Chúa,
thì lòng tôi sẽ chẳng được bình an.
Thiên Chúa muốn vén mở cho tôi biết ý định của Ngài về tôi,
nhưng Ngài đòi tôi cất công tìm kiếm.
Hạnh phúc cho ai tìm thấy ý Chúa sau những đêm dài trăn trở!
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào.
(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)
 
-------------------------------

 

Suy niệm 2: Tinh thần Giêsu


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su từ trời xuống. Mang theo năng lực thần thiêng. Chữa lành hết mọi bệnh tật. Xua trừ hết mọi ma quỉ. Nhưng Người chỉ ở trần gian một thời gian. Cần phải có người kế tục sự nghiệp. Người chỉ khai mào trận chiến với ma quỉ và thế lực sự dữ. Cần phải có một đạo quân tiếp tục trận chiến cho đến thành công. Vì thế Người đã tuyển chọn các tông đồ. Đây là một việc hết sức quan trọng. Vì dùng người phàm để tiến hành cuộc chiến thiêng liêng. Người phàm nhưng phải có tinh thần Nước Trời. Cần phải kết hợp với Giê-su. Cần phải mang tinh thần Giê-su. Nên Người thao thức suốt đêm. Cầu nguyện để tìm được những con người xứng đáng. Cân nhắc để xem ai có thể đem tinh thần của Người thấm nhập trần gian.

Tình thần Giê-su là phải kết hợp chặt chẽ với Chúa. Xây dựng đời mình trên nền tảng Giê-su. Trước hết phải tách lìa thế gian. Không mê theo những hứa hẹn giả dối của thế gian ẩn trong “mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ”. Sâu xa hơn nữa, phải phá tung xiềng xích trói buộc của tà thần. Bằng cách chết cho con người cũ. Khi đó ta được “cùng mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người”. Khi đó “Người truất phế các quyền lực thần thiêng” Và cho ta được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” nơi Người. Ta được sung mãn vì trở nên chi thể kết hợp với “Người là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (năm lẻ).

Tinh thần Giê-su khiến ta chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ của nước thế gian. Ta sẽ làm chủ bản thân. Không còn tranh giành kiện cáo. Vì không màng những lợi lộc của thế gian. Sẵn sàng chịu mọi bất công thiệt thòi ở đời này. “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?”. Khi chiến thắng thế gian. Ta trở thành người xét xử thế gian. “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ sét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này” (năm chẵn).

Khi mọi người theo Chúa sống theo tinh thần Giê-su. Kết hợp với Chúa. Chết cho thế gian. Ta sẽ được Nước Trời. Có một đạo quân Nước Trời. Sẽ chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ. Xin cho tinh thần Giê-su ngự trị trong ta. Lan toả đến mọi người. Đem lại chiến thắng cho Nước Trời.

---------------------------------

 

Suy niệm 3: Chọn Nhóm Mười Hai


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.

Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.

Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.

Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.

Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".

Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Giáo Hội Mới Của Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong đoạn Phúc Âm trên thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta một cộng đoàn quanh Chúa Giêsu. Cộng đoàn này là hình ảnh loan báo trước trong cộng đoàn Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ thành lập và trao phó cho sứ mạng sau khi Người đã phục sinh từ cõi chết. Tất cả mọi thành phần của cộng đoàn này đều quy về một trung tâm duy nhất là Chúa Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được quyền năng Người chữa lành khỏi bệnh tật cũng như được bảo vệ khỏi những quyền lực của ma qủy. Chúng ta nhìn thấy rõ ràng những thành phần của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu lúc đó. Trước hết là nhóm Mười Hai tông đồ vừa được tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi đến các môn đệ và cuối cùng là đám đông dân chúng từ nhiều nơi trong và ngoài lãnh thổ dân Israel. Từ Giuđêa, Giêrusalem, nằm trong lãnh thổ của dân Chúa, và từ miền duyên hải Tia và Xiđon là miền nằm ngoài lãnh thổ của Do Thái Giáo.

Ðọc lại đoạn văn, chúng ta có thể lưu ý đến hai đặc điểm chính của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu, tiêu biểu cho cộng đoàn Giáo Hội Chúa trong tương lai. Trước hết, có thể nói đây là một cộng đoàn phổ quát, vượt ra bên ngoài ranh giới của dân tộc Do Thái. Sự độc quyền nhờ ân sủng Chúa nơi một dân tộc đã chấm dứt. Mọi người, mọi dân Chúa đã mời gọi gia nhập vào cộng đoàn này.

Ðặc tính thứ hai là trật tự mới của cộng đoàn được thiết lập qui về Chúa là trung tâm và có mười hai tông đồ được Chúa Giêsu chọn riêng ra, được Người huấn luyện và trao cho sứ mạng, chăm sóc, hướng dẫn cộng đoàn mới.

Tông đồ Phêrô được nhắc đến trong đoạn văn là kẻ đứng đầu nhóm Mười Hai: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con". Các tông đồ và cộng đoàn theo Chúa đã nghe lời Ngài nhiều hơn sau những biến cố vượt qua của Chúa, khi Giáo Hội được khai sinh. Chúa Giêsu đã chuẩn bị để nhóm Mười Hai tông đồ này trở thành nền tảng cho toàn thể Giáo Hội mới của Chúa. Hơn nữa, con số mười hai tông đồ là biểu hiện thứ nhất có ý nghĩa nhắc đến mười hai chi tộc của toàn dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Dân mới của Chúa thời Tân Ước được mở rộng đón nhận toàn thể nhân loại không ai bị loại ra khỏi chương trình cứu rỗi của Chúa.

Lạy Chúa,

Chúng con tin và cảm tạ Chúa vì đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn qui tụ dân Chúa, một cộng đoàn có tổ chức được các tông đồ hướng dẫn qua mọi thời đại. Chúa không ngừng tuyển chọn những con người mới trong dòng lịch sử để tiếp tục sứ mạng của Chúa trên trần gian này. Sự yếu đuối của con người có thể xảy ra như đã xảy ra với Giuđa Ítcariốt, kẻ phản bội Chúa, nhưng chương trình cứu rỗi của Chúa không vì thế mà bị hư mất. Xin thương qui tụ chúng con lại trong tình yêu Chúa và củng cố đức tin chúng con.

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Chọn mười hai tông đồ


Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ. (Lc. 6, 12-13)

Đây là một ngày đặc biệt với Đức Kitô. Đã đến giờ Người nghĩ phải tiến lên. Người sẽ phải ra đi, ngày đó không còn xa lắm. Cần phải bảo đảm tiếp tục công việc của Người. Cần cho lời Người được loan truyền đến tận cùng thế giới. Cần cho sứ điệp cứu độ đến chúc phúc cho mọi người. Vậy cần có những sứ giả đem giao ước Tin Mừng được Thiên Chúa quyết định hoàn tất cho loài người. Một giao ước mới vượt trên mọi giao ước đã có từ trước đến lúc này.

Ai có thể bảo đảm lãnh trách nhiệm này? ai xứng đáng trong những chàng thanh niên đang đi theo Người? Người biết những giới hạn và lòng quảng đại của họ. Người lên núi cầu nguyện suốt đêm cùng Thiên Chúa để biết rõ chọn lựa chắc chắn. Tin Mừng Thánh Lu-ca kể Đức Giêsu cầu nguyện mười một lần, những lần đó luôn luôn là những lần quan trọng trong cuộc đời của Chúa: ở sông Gióc-đan trước lúc Thánh Thần ngự xuống trên Người, khi đông đảo dân chúng đến nghe Người giảng, trước khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, lúc Chúa biến hình, trước khi loan báo về cái chết của Người, lúc các môn đệ đi truyền giáo lần thứ nhất về, lúc dạy kinh lạy cha, trước khi chịu thương khó, cầu cho đức tin của Phê-rô đứng vững, lúc hấp hối trong vườn cây dầu, trong lúc treo trên thánh giá, lúc phó linh hồn trong tay Chúa Cha.

Khi chọn muời hai tông đồ, Người hướng về Đấng đã sai Người mà cầu nguyện xin ơn soi sáng và sức mạnh. Rồi xuống với các môn đệ và chọn mười hai người, ai sẽ chối Người và ai sẽ phản bội Người. Một đội quân biệt động! vô học thức, vô giáo dục, vô trường lớp, chẳng ai biết tiếng tăm họ. Họ thuộc loại phó thường dân, quá tầm thường, phần đông là dân chài. Chính trên đó Đức Giêsu xây Giáo Hội. Thật nghịch lý! một ông thầy sau khi đã dạy như điên về thập giá, sẽ chịu đóng đinh treo trên thập giá. Và các tông đồ cũng chẳng có vẻ gì nổi, họ tiếp tục cuộc mạo hiểm mâu thuẫn, vẫn kéo dài và sẽ kéo dài vô cùng.

GF

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Cầu nguyện để tìm Thánh ý Thiên Chúa


Xem lại thứ Sáu tuần 2 và thứ Tư tuần 14 TN.

Cầu nguyện là bản chất của người Công Giáo. Không cầu nguyện, chúng ta khó lòng nhận ra đâu là ý Chúa và đâu là thiển ý của ta. Khi cầu nguyện, ta như được kín múc nguồn năng lượng từ Thiên Chúa, để mọi lời nói, hành động của ta được Thiên Chúa soi dẫn và chúc lành, hầu chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.

Hôm nay, Tin Mừng nhắc lại việc Đức Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện trước khi gọi và chọn 12  người mà Ngài gọi là Tông Đồ.

Khi Đức Giêsu cầu nguyện như vậy, Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng: sứ vụ của Ngài luôn gắn bó với Chúa Cha, và những người được gọi, chọn cũng phải gắn bó với Ngài như vậy.

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên ngôn sứ của Chúa, có trách nhiệm loan truyền tình yêu của Ngài cho mọi người. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể thành công khi biết gắn bó với Đức Giêsu và đón nhận thánh ý của Ngài để thi hành.

Thật vậy, để lời mời gọi của Đức Giêsu thực sự trở thành hữu hiệu, và sứ vụ chúng ta đón nhận được thi hành cách tốt đẹp theo ý hướng của Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua việc cầu nguyện.

Chính Đức Giêsu đã làm gương về chuyện này.

Ví dụ như khi sắp ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc; khi chọn các môn đệ, Ngài thức suốt đêm; khi sắp chịu nạn chịu chết, Ngài đã lên núi Cây Dầu cầu  nguyện ...

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt để mọi công việc của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Vì nhờ cầu nguyện với Chúa, chúng ta biết được thánh ý Ngài. Cầu nguyện để biết được phương cách thi hành tốt đẹp nhất. Cầu nguyện để phó thác nơi Chúa mọi sự.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được giá trị của lời cầu nguyện và luôn biết gắn bó với Chúa như Chúa luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Nhóm Mười Hai


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ngoài Nhóm Mười Hai tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn đặc biệt, còn có số đông các môn đệ. Người môn đệ là người đi theo Chúa Giêsu, lắng nghe và tuân giữ Lời Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con là người giáo dân sống giữa đời, được Chúa kêu gọi làm môn đệ Chúa. Giữa một thế giới hơn sáu tỷ người, Chúa đã tách riêng con để con thuộc về Chúa. Trong một thế giới quay cuồng phức tạp, người theo đạo này, kẻ theo giáo phái nọ, người chọn lý tưởng này, kẻ theo thần tượng khác. Phần con, con được làm môn đệ Chúa. Dù con không được ơn gọi và ân sủng như các tông đồ, nhưng được làm môn đệ Chúa, đó thật sự là niềm hãnh diện và hạnh phúc của con. Được theo Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đó thật sự là đặc ân cho con, đặc ân mà bao nhiêu anh chị em chung quanh không được.

Con xin dâng lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã yêu thương con. Con là Kitô hữu, không phải chỉ vì cha mẹ đã đưa con đến nhà thờ chịu rửa tội, không phải vì một sự kiện đã rồi, không phải vì áp lực xã hội, không phải vì cha truyền con nối, không phải vì tập quán, nhưng đích thực vì Chúa đã để ý tới con, tuyển chọn con và mời gọi con.

Lạy Chúa, qua đoạn Tin Mừng, con nhìn thấy quang cảnh đoàn người đông đảo tấp nập đến với Chúa để nghe Chúa giảng. Cả một bầu khí hứng khởi nồng nhiệt phát ra từ tâm hồn các môn đệ. Xin Chúa giúp con tìm lại nguồn hứng khởi nồng nhiệt này. Xin ban cho con cảm nghiệm được niềm vui theo Chúa. Xin giúp con sống đạo trong tâm tình tạ ơn, tự nguyện, không miễn cưỡng.

Là môn đệ Chúa, con sẽ lắng nghe Lời Chúa và trung thành bước theo Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Nhóm 12 nòng cốt


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.

- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên một ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.

- Đó là việc gì? Là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ.

- Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lc tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo Hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển Công vụ (chẳng hạn Cv 6,1-7). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển lựa kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện để được tuyển là:

a/ Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;

b/ Được “sai đi” (đây là ý nghĩa của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy.

Lc dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm 12 vì chỉ có họ mới hội đủ 2 điều kiện này. Ngay cả với Phaolô, Lc cũng không gọi ông này là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.

B.... nẩy mầm.

1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm. Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.

2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.

- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.

- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.

3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài ("Mỗi ngày một tin vui")

4. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)

Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.

Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.

Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa tuyển chọn mười hai Tông đồ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rât quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi,  họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.

2. Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.

Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giorđan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.

Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tồng đồ là các Giám mục, và  Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục  và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh

3. Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất  sắc, cũng không phải là thành  phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.

Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.

Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.

Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.

Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.

Chính vì thế mà chúng ta  nghe người ta diễn tả  về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn:

“Tất cả là hồng ân”.

4. Lịch sử cứu độ đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn... Tất cả những sự lựa chọn của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội của Ngài. Nền tảng của Giáo hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con  mọi ngày cho đến tận thế. Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và  tình yêu của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

5. Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người  chỉ trở nên vĩ đại  khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi”.

Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương  sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(5 phút Lời Chúa).

6. Truyện: Sự lựa chọn chẳng giống ai.

Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.

Nhà tâm lý hỏi:

- 2 với 2 là mấy?

Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.

Cô thứ hai: có thể là 22.

Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.

Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:

- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào?

Giám đốc không ngập ngừng:

- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.

Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.

Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.

 

Suy niệm 10: Tuyển chọn Nhóm 12

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn.

+ Ở khởi đầu, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà, Thiên Chúa đã chọn Ap-bram; và trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Giacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel.

Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môisen làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục đường hướng đó: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavid làm vua, thay thế cho Saulô; Ngài cũng đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.

Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người.

Chúa gọi Abraham lúc ông và vợ ông đang sống trong cảnh vui hưởng tuổi già

Chúa chọn Môisen từ một bụi cây đang bốc cháy.

Chúa chọn Đavid đang lúc ông chăn cừu ngoài đồng.

Chúa chọn những môn đệ đầu tiên lúc họ đang làm việc chài lưới.

Lạ lùng hơn là Chúa chọn một kẻ đang đi lùng bắt những người theo Ngài trên con đường Đamas. Người đó chính là Phaolô sau này.

Tóm lại là họ được chọn hết sức bất ngờ. Và họ được chọn không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Abraham là một người bình thường. Môisen chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavid là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Giêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.

Khi suy nghĩ về ơn gọi của mình, mẹ Têrêsa đã viết: “Tại sao Chúa chọn chúng ta ? Tại sao Chúa chọn tôi ? Đó là một mầu nhiệm. Để làm được một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa chúng ta cần có Đức Giêsu. Đức Giêsu đã trở thành Bánh để các bạn và tôi, cũng như một đứa trẻ cũng có thể nhận lãnh Ngài để được sống. Mỗi người chúng ta cần phải gặp gỡ Đức Giêsu. Không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.”

2. Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài. Ngài chọn theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu rất độc đáo.

Ngài không chọn những môn đệ đang phục vụ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời.

Ngài không chọn những người nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang vất vả tất bật bận rộn làm việc.

Ngài không chọn những bậc trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài đơn sơ cục mịch.

Khi chọn họ Ngài đã thổi vào trong tâm hồn họ ý định truyền giáo của Ngài.

Ngài chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự.

Ngài chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.

Chúa hoàn toàn tự do chọn những ai Ngài muốn.

Đang cần một thư ký mới, giám đốc công ty doanh nghiệp quyết định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.

Nhà tâm lý hỏi:

-2 với 2 là mấy ?

Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4

Cô thứ hai: Có thể là 22.

Cô thứ ba: Có thể là 22 và có thể là 4.

Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:

- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào ?

Giám đốc không ngập ngừng:

- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.

Vâng! Việc Chúa tuyển chọn chẳng giống một kiểu nào ở trần gian. Tuy nhiên Chúa cũng thấy được những người Chúa muốn tuyển chọn là những người như thế nào.

Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hoà, biết đón nhận anh em.

Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.

Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận Thánh ý Chúa.

Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.

Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.

Lạy Chúa, xin cho con biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng các đóng góp nhỏ bé trong đời sống hàng ngày của con. Con yếu kém tài năng và nhân đức, con chẳng làm được những điều vĩ đại để rao giảng về Chúa cho kẻ khác, con chỉ xin góp phần bằng việc âm thầm khiêm tốn, dù người đời không ai biết, nhưng con tin rằng: Chúa biết và chúng có giá trị trước mặt Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 11: Chúa cầu nguyện trước khi chọn các tông đồ


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa đến trần gian để thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó là Chúa rao giảng Tin Mừng để cứu độ muôn dân. Đây là một sứ mạng linh thánh, thiêng liêng, quá cao vời của Chúa. Chúa có thể thực hiện một mình và Chúa không cần ai phụ giúp cho Chúa. Thế nhưng, lúc nào Chúa cũng nghĩ đến con người chúng ta. Chúa mong muốn điều tốt đẹp nhất đến với con người chúng ta. Vì thế mà Chúa tạo nghiệp cho chúng ta  để chúng ta được Chúa cho thừa hưởng nước thiêng đàng với Chúa sau này. Do đó mà trước tiên là Chúa chọn mười hai tông đồ, rồi đến mỗi người chúng ta qua mọi thời đại.

Vì Chúa chọn các tông đồ là một việc rất hệ trọng, cho nên Chúa thức suốt đêm để Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, bàn hỏi với Chúa Cha, lãnh ý Chúa Cha và cuối cùng Chúa quyết định là sáng hôm sau, Chúa gọi các môn đệ tới và chọn mười hai vị mà Chúa gọi là mười hai tông đồ (Lc 6, 12 – 13): Đó là Simon mà Chúa đặt tên là Phêrô và anh ngài là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philípphê và Batôlômêô và Tôma, Giacôbê con ông Alphê, và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.

Chọn chọn gọi mười hai tông đồ với tên tuổi cụ thể không phải để các ngài ngồi chơi xơi nước, mà việc chọn gọi này gắn liền với sứ mạng và được sai đi rao giảng Tin Mừng giống như Chúa. Vì thế, bài học đầu tiên Chúa dạy các tông đồ và cũng là bài thực tập trước hết cho các ngài là tình yêu. Dường như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay là các ngài vừa học vừa thực tập. Chúa chấp nhận điều này vì các ngài không có tài cán gì, còn khả năng thì quá giới hạn bởi các ngài là những ngư phủ, một nắng hai sương, đầu tắt mặt tối, làm bữa nào xào bữa đó. Bởi vậy, khi Chúa dẫn các ngài đi xuống và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, dân chúng có đạo cũng như không có đạo đến với Chúa quá đông đảo, Chúa thương dạy dỗ họ, làm các phép lạ chữa lành những chứng bệnh khác nhau trong dân, Chúa xua trừ ma quỷ. Có một điều chúng ta thấy là dân chúng đến sát bên Chúa, đụng chạm tới Chúa, nghĩa là dân chúng quá gần gũi với Chúa mà Chúa vẫn không ngại ngùng gì hết. Chúa chấp nhận mất thời gian với dân chúng, thậm chí Chúa chấp nhận dân chúng quấy rầy Chúa là vì Chúa yêu thương dân chúng và để cho dân chúng thỏa mãn những khát khao của họ khi họ được ở kề bên Chúa: “…có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Chúa giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm đến Chúa, vì tự nơi Chúa phát suất một sức mạnh chữa lành mọi người” (Lc 6, 17 – 19). Ngày hôm nay, Chúa cũng dạy chúng ta bài học yêu thương người khác như Chúa đã dạy các tông đồ ngày xưa. Chúa chẳng những dạy chúng ta một hoặc hai ngày, mà Chúa dạy suốt cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con ca ngợi, chúc tụng Chúa vì Chúa yêu thương chúng con, cho nên Chúa rất vui khi ở giữa chúng con, Chúa chấp nhận chúng con làm phiền hà quấy rầy Chúa, nhất là mỗi khi chúng con ngỗ nghịch phạm tội mất lòng Chúa. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ cùng tha thứ tội lỗi cho chúng con và giúp chúng con luôn học ở Chúa bài học của sự yêu thương  để lúc nào chúng con cũng thể hiện tình yêu ấy khi chúng con sống cảm thông, tha thứ, bỏ qua những lầm lỗi, những thiếu sót của nhau, đồng thời biết giúp nhau, san sứt sẻ chia những gì chúng con có cho những người nghèo khổ thiếu thốn để: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít cũng không thiếu” (2Cr 8, 15). Amen.

---------------------------------

 

Thứ 4:

Phúc thật và khốn thay.
11/09 – Thứ Tư tuần 23 thường niên.
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".

 

Lời Chúa: Lc 6, 20-26


Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Phúc cho anh em là những người nghèo


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được.
Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo.
Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch.
Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao...
Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn,
vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền.
Họ chọn sống trong cảnh nghèo,
lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng:
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó,
Vì Nước Trời là của anh em”.
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn
từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt.
Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác,
với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng.
Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng:
họ là những người có phúc,
khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài.
Nước Trời đã thuộc về họ từ đây,
và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.
Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta.
Ngài là một người thợ thủ công nghèo,
Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói,
Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem,
và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết.
Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc,
vì biết mình luôn sống cho Cha và con người.
Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu:
Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài,
nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu.
Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống
để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui.
Hôm nay Ngài muốn chúng ta
đến với khu lao động, với lớp học tình thương,
xóa đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả.
Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này.
Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô,
tự nguyện trở nên nghèo hơn
để làm giàu cho người khác (2 Cr 8,9).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
xin cho con nhìn thấy những người nghèo
ở quanh con, ở trong gia đình con,
đang cần đến con.
Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo,
xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng
cả người giàu cũng nghèo,
nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng
cả bản thân mình cũng nghèo
và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt,
một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con
ai cũng nghèo về một mặt nào đó,
ai cũng cần đến người khác.
Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,
làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,
vì Chúa rất cần đến chúng con
để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo
để nhận lãnh,
can đảm nhận mình giàu
để hiến trao. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Hạnh phúc và bất hạnh


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người luôn khao khát hạnh phúc. Vì Thiên Chúa tạo dựng để con người được hạnh phúc. Con người luôn khao khát. Vì hạnh phúc là có thật. Nhưng con người lại chưa từng gặp được. Cứ mòn mỏi chờ mong. Cứ miệt mài tìm kiếm. Hôm nay Con Chúa xuống thế làm người chỉ cho con người đường đến hạnh phúc. Và vạch rõ những nẻo đường dẫn đến bất hạnh.

Đường đến hạnh phúc ngược với suy nghĩ của phàm nhân. Vì hạnh phúc thật không có ở trần gian. Chỉ có trong Nước Chúa. Ai càng gắn bó với đời này càng thất vọng. Ai càng bám víu vào những giá trị đời này càng bất hạnh. “Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”. Chỉ có người biết dứt bỏ tham, sân, si mới đạt tới hạnh phúc. Chỉ có người vượt lên trên những ham muốn tầm thường ti tiện của loài người mới đạt tới Nước Trời. “Phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Hạnh phúc thật chỉ có trong Chúa. Là chính Chúa. Ai dứt bỏ mọi cám dỗ vì Chúa sẽ tìm được Chúa. Nhất là ai dám liều mạng sống vì Chúa sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Đó là hạnh phúc thật, viên mãn, vĩnh cửu. “Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên tời thật lớn lao”.

Hạnh phúc thật không có ở đời này. Chỉ có ở đời sau. Nên thánh Phao-lô khuyên nhủ ta đừng bám víu vào đời này. Hãy hướng lòng về đời sau. Coi mọi sự đời này như không có. Vì chúng rất mau qua. “Tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (năm chẵn).

Hạnh phúc không thuộc hạ giới. Nên ngài khuyên ta: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. Và phải dứt khoát: “giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em”. Hạnh phúc không có nơi thủ lãnh thế gian. Nên ta phải sống cho Chúa. Vì”Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (năm lẻ).

Thật lạ lùng con đường của Chúa. Chịu bất hạnh để được hạnh phúc. Từ bỏ tất cả để được lại tất cả. Chết cho trần gian để sống cho Chúa. Vượt qua hạ giới để vươn lên thượng giới. Chối từ thế gian để đạt tới Nước Trời.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Các Mối Phúc Thật


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.

Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những kẻ bây giờ phải đói khát, phúc cho những kẻ bây giờ đang phải than khóc, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không phải là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?

Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.

Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.

Ðược lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.

---------------------------------

 

Suy niệm 4: Những Hạnh Phúc Bất Tiện


Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ rồi nói:

“Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)

Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.

Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: “ Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa”.

Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!

GF

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc


Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, thứ Hai tuần 10 TN và lễ Các Thánh Nam NỮ

Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.

Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.

Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.

Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.

Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?

Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.

Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.

Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy niệm 6: Các Mối Phúc Thật


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai nghèo, đói, khổ đau, và vì Chúa mà bị thù ghét. Những người có phúc trên đời này: giàu có, no nê, sung sướng, danh giá… không đón nhận được phúc lành của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, có lẽ không có gì làm cho tâm trí con bị giằng co, bị phân vân cho bằng các mối phúc của Chúa. Bởi vì những gì con nghĩ là bất hạnh thì được Chúa cho là phúc lành; còn những gì con ao ước có thì Chúa lại cho là bất hạnh. Con xin thú thật, trong cuộc sống của con, lắm khi con không dám đón nhận các mối phúc của Chúa. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay luôn nhắc nhở bên tai con khiến con phải suy nghĩ, phải đặt lại vấn đề. Chính Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Lời Chúa là chân lý, là đuốc sáng soi dẫn đời con. Chúa đã hứa ban sự sống đời đời cho những ai đón nhận Lời Chúa. Chúa đã hứa ban Nước Trời cho những ai sống theo các Mối Phúc Thật. Con muốn chọn Chúa, muốn sống cho Chúa. Xin Chúa cho con xác tín vào Chúa mạnh mẽ hơn để con có thể bước vào con đường hẹp và gồ ghề của các Mối Phúc.

Những khi gia đình con gặp túng cực, những khi con phải chịu thiệt thòi, những khi con gặp khó khăn, dở khóc dở cười… con thường nghĩ con bị Chúa bỏ rơi, con đang phải cô đơn, vô vọng.

Lời Chúa hôm nay đã nâng đỡ và khích lệ con. Con không bị bỏ rơi khi con phải khổ đau. Con không xa Chúa khi con túng bấn. Chúa đang ở bên con, đang hướng dẫn con về Nhà Chúa, Chúa đang chúc phúc cho cuộc sống nhiều chật vật gian nan của con. Lạy Chúa, xin cho con bước theo Chúa trong trung thành và bền chí. Amen.

Ghi nhớ: “Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.

---------------------------------

 

Suy niệm 7: Phúc cho người tin tưởng vào Chúa


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi hoàng đế Napoléon của Pháp, người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả và không ngày nào là không được lưu ý.

Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?”. Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi rước lễ lần đầu”.

Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Theo Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr. 91).

Suy niệm

Thiên Chúa luôn mong cho con người hạnh phúc dù giàu hay nghèo, tất cả đều nằm trong sự yêu thương quan phòng của Người. Hạnh phúc là điều Thiên Chúa muốn nơi con người và cũng là niềm mơ ước của tất cả mọi người cho dù họ là ai, đang ở vị trí nào đi chăng nữa.

Chúa Giêsu không lên án hay có ý chúc dữ những người giàu có làm ra từ đôi tay chăm chỉ, đi từ gốc của lòng lương thiện và sống trong ánh sáng đức ái của Lời Chúa. Những người giàu biết sử dụng của cải Chúa ban một cách hợp lý, biết chia sẻ cho những người túng nghèo như Giakêu - người thu thuế giàu có, hoán cải khi tiếp đón Chúa, được Chúa biến đổi để tin nhận Ngài là phần phúc và tự tâm biết chia sẻ với những người nghèo, với những người mà ông đã làm thiệt hại.

Chúa nói “khốn thay” cho những người giàu tức là Ngài muốn chỉ trực diện những người giàu có nhưng ích kỷ, keo kiệt. Những người nhiều tiền lắm bạc, của cải tràn lan làm từ sự bất công và phi pháp, họ lại không biết san sẻ cho những số phận hẩm hiu như người phú hộ giàu sang dửng dưng coi như không có Ladarô nghèo nàn, ghẻ lở bên cổng nhà mình…

Những mối phúc mà Chúa Giêsu nhấn mạnh quả là niềm an ủi nâng đỡ cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức... Cái phúc cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức, bị oan ức, bị bách hại là chính Con Thiên Chúa đến để giải thoát họ, Ngài được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần được sai đi đem Tin Mừng cho những người nghèo khổ, những kẻ bị giam cầm và bị áp bức, Ngài giải thoát và dẫn họ đến tự do, hạnh phúc (x. Lc 4,14-21). Người sống trong thân phận nghèo khó, tù đày, bị áp bức để được đón nhận hồng ân cứu độ như nguồn phúc mà Chúa Giêsu loan báo, họ phải ý thức thân phận nghèo khó, thân phận bị áp bức của chính mình. Trong tâm thức đó, họ để cho Ngài và cùng với Ngài hành động giải thoát trong niềm tin và sự phó thác. Những lo âu, những khốn khó, những giọt nước mắt sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác và như thế người nghèo khó, người bị áp bức tù đày được cùng với Ngài giải thoát ngay trong chính niềm tin, đó là cái phúc cho người nghèo.

Phúc hay họa cho người giàu cũng như người nghèo không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình.

Dù giàu hay nghèo Thiên Chúa đều chúc phúc miễn là sống trong tin cậy và thể hiện niềm xác tín ấy trong cuộc sống như Thánh vịnh đã khuyên: “Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 39,5c).

Ý lực sống:         

“Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn” (Gr 17,7-8).

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Các mối phúc thật


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Trong Tin mừng hôm nay, thánh Luca nêu lên bốn mối phúc và bốn mối hoạ, như một lời báo trước cuộc phán xét của Đức Giêsu trong ngày cánh chung. Bốn mối phúc như là những đòi buộc của Chúa đối với các môn đệ chân chính. Bốn mối hoạ không phải là lời nguyền rủa nhưng là lời khuyến cáo và tha thiết kêu gọi thống hối ăn năn. Chúng ta đã sống thế nào trước lời nhắn nhủ chân thành của Chúa?

Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin mừng Mátthêu kể ra 8 cái phúc (Bát phúc), hôm nay đến lượt Tin mừng Luca thu lại chỉ còn 4 cái phúc và 4 cái khốn. Theo Mátthêu, đây là bài giảng trên núi, bao gồm 8 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Còn Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất, bằng trình bấy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 cái khốn, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giàu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.

Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết, để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người, để nó thống trị và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ khó nghèo”, Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người (Mỗi ngày một tin vui).

“Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước trời là của anh em” (Lc 6,20).

Xoá đói giảm nghèo là mục tiêu chung của cả toàn cầu, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Nghèo đói thường đi với cực khổ và cũng thường gắn liền với tự ti mặc cảm. Do đó, đối với nhiều người, coi nghèo khó là hạnh phúc như lời Đức Giêsu thật là điều nghịch lý! Thật ra, Chúa không đề cao tình trạng khố rách áo ôm hay chạy ăn từng bữa, nhưng cổ võ cho lối sống phó thác cậy trông nơi Thiên Chúa, trong tinh thần liên đới với người lân cận. Nghèo khó mà Đức Giêsu muốn dạy chúng ta là tinh thần nghèo khó, lấy Chúa làm nền tảng của mọi giá trị, cùng đích cho cuộc đời mình, chứ không dựa vào của cải. Đức Giêsu đã sống triệt để mối phúc nghèo khó qua cuộc sống hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (5 phút Lời Chúa).

Vậy hạnh phúc ở đâu?

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:

Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa”.

Truyện: Hạnh phúc của dân làng Aman

Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.

Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.

Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:

- Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.

Nghe thế, nhà hiền triết trả lời cách khô khan:

- Hãy nên đổ lại xuống biển.

---------------------------------

 

Suy niệm 9: 4 lời chúc phúc


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo những lời quở trách.

- Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.

- Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.

Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.

B.... nẩy mầm.

1. Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó… Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có…”: Có một truyện phim được chiếu trên truyền hình, kể chuyện một gia đình nghèo nhưng hạnh phúc, về sau khi họ giàu lên thì không còn hạnh phúc nữa. Có lẽ dụng ý của Đài khi chiếu phim này là để đưa ra một lời cảnh giác cho mọi người trong thời kỳ đất nước đang mở cửa theo hướng kinh tế thị trường. Nghèo chưa hẳn là khổ, và giàu chưa hẳn là sướng. Sướng hay khổ là do lòng người, hay nói cho đúng hơn, do những giá trị mình theo đuổi. Như gia đình ấy khi còn nghèo thì mọi người biết lo lắng và hy sinh cho nhau; đến khi giàu thì mạnh ai nấy lo hưởng thụ một cách ích kỷ.

2. Trong bài Tin Mừng này, thánh Luca chú ý ghi rõ những chữ “bây giờ” và “sẽ”. Nghĩa là có thể có sư thay đổi tình trạng. Bây giờ đang khổ nhưng sau này có thể sẽ hạnh phúc; ngược lại bây giờ đang sung sướng nhưng sau này có thể sẽ khổ. Người đang khổ vật chất nhưng biết tìm kiếm những giá trị siêu nhiên thì sẽ hạnh phúc; ngược lại kẻ đang sung sướng với những giá trị vật chất nhưng cứ bám vào chúng mà không vươn lên những giá trị siêu nhiên thì sẽ bất hạnh.

3. Chúa rất yêu thương và rất công bình: ngay cả những người đang khổ, Chúa cũng ban cho họ hạnh phúc, một thứ hạnh phúc lạ lùng mà sự khôn ngoan thế gian không nghĩ ra được.

Xin cho con đừng bi quan chán nản trong những cái khổ hiện tại của con, nhưng biết tìm trong đó nguồn hạnh phúc siêu nhiên.

4. Lời cầu nguyện của người nghèo:

Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn cho con. Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ cộc đời túng thiếu của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách sống với người nghèo, trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo. Nhìn vào cuộc đời Chúa, con thấy Chúa còn nghèo hơn con. Nhưng nhờ đó con cảm thấy Chúa gần con như một người bạn, như một người thân. Chẳng ai dám chia sẻ đời nghèo của con đề sống gần con như thế. Có Chúa, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi.

Ngoài ra, việc Chúa chọn phận nghèo còn dạy con giá trị cao quý của đau khổ. Chúa đã dùng đau khổ để cứu con và cứu nhân loại. Con không thể lên trời bằng con đường khác. Hiện giờ, đau khổ không thiếu, chỉ cần con chịu những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa và khao khát tìm Chúa, tức khắc đau khổ sẽ trở thành con đường đưa con về hạnh phúc bất diệt. Cũng nhờ đó, con mới nhận ra rằng cảnh nghèo không kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ tạm thời rồi nó sẽ qua đi. Nếu nó có thể dùng vào việc mở cửa thiên đàng, thì nó không chỉ biết gây đau thương và bất hạnh. Tất nhiên, con sẽ cố gắng xoay sở làm ăn để đủ sống xứng đáng con người, nhưng nếu cảnh nghèo cứ bám chặt lấy đời con thì con phải lợi dụng để biến nó thành một phương tiện làm giàu thiêng liêng (Chờ đợi Chúa)

5. “Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ than khóc” (Lc 6,25)

Mày mò mấy tháng trời, tôi mới khám phá ra được cách chép nhạc bằng máy vi tính. Một mình trước máy vi tính, tôi thấy mình thật vui với một chút kiêu hãnh: mình vượt mấy thằng bạn trong lớp rồi.

Nhưng tôi cảm thấy như có cái gì đó “không ổn” trong kiểu suy nghĩ của mình. Tôi quyết định tận tình chỉ lại cho bạn bè như một sự chia sẻ niềm vui. Và kìa, lòng tôi sao hạnh phúc quá!

Thiên Chúa chắc chắn không thể chúc dữ chỉ vì tôi giàu có, no nê, vui cười; nhưng nhất định Ngài sẽ chỉ trích khi tôi không biết chia sẻ những gì mình có cho anh em.

Giêsu ơi! Con vẫn cảm thấy hạnh phúc, bình an và vui tươi khi chia sẻ và trao ban cho tha nhân. Nhưng để chia sẻ cách thật tình hơn với những người ít thân hơn thì con lại ngần ngại. Lạy Chúa xin hãy dạy con, xin hãy dạy con. (Hosanna).

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Hạnh phúc thật


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời và điều đáng chúng ta lưu ý là ngài còn kèm theo 4 lời quở trách.

Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.

Những người bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.

Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.

Vâng, hạnh phúc là mối bận tâm sâu thẳm nhất của con người. Nhưng làm sao để có hạnh phúc thì điều đó không phải dễ trả lời.

Vua Abder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:

- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.

Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!

2. Vậy thì hạnh phúc ở đâu?

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:

- Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.

Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng”.

Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa”.

Đây là tâm sự của một người đã cố gắng sống như Chúa: “Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và yêu thương vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn lao cho con.

Lạy Chúa Giêsu,
Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy.
Amen. (Rabboni)

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Phúc cho chúng con là kẻ khó nghèo


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Theo sách Giảng Viên chương ba, mọi sự dưới ánh mặt trời nầy đếu có thời có lúc của nó. Nghĩa là có một thời sinh ra thì cũng có một thời chết đi, có một thời để vun trồng để xây dựng nhưng cũng có một thời để phá hủy…. Bất cứ điều gì trên trần gian này cũng đều có giới hạn và có hai mặt là mặt phải và mặt trái của nó. Ví dụ như có hạnh phúc thì cũng có khổ đau, có mạnh khỏe thì cũng có bệnh tật, có thành công thì cũng có thất bại, có yêu thì cũng có ghét, có cười thì cũng có khóc, có vui thì cũng có buồn, có vinh thì cũng có nhục….Vì thế mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nói về mặt phải, mặt trái trong đời sống làm người chúng ta.

Chúa nói mặt phải mà chúng ta có phúc là khi chúng ta nghèo, thì Chúa lại ban cho chúng ta được hưởng nước thiêng đàng. Chúng ta có phúc là Chúa cho chúng ta no đủ khi chúng ta đói khát Chúa, đói khát chân lý, đói khát tình yêu, đói khát thiếu trước hụt sau về của ăn thức uống. Cái phúc của chúng ta khi chúng ta đau buồn khóc lóc vì phải sống tốt với anh chị em chúng ta theo ý Chúa thì Chúa lại an ủi chúng ta, cho chúng ta vui cười, vì Chúa thương chúng ta. Cái phúc của chúng ta khi vì Chúa mà bị người đời không ưa không thích, thù ghét chúng ta, trục xuất, phỉ báng chúng ta, loại trừ chúng ta như là một kẻ bất lương tội phạm, Chúa sẽ thưởng công chúng ta và chúng ta hãy hân hoan vui mừng. Đó là mặt phải của cuộc sống khi chúng ta làm theo ý Chúa.

Mặt trái của cuộc sống khi chúng ta không làm theo ý Chúa mà cứ làm theo ý riêng của mình và ý của thế gian. Đó là cái khốn cực cho chúng ta. Khốn cho chúng ta khi chúng ta ra sức làm giàu, tích trữ của cải vật chất mà không giữ đạo Chúa. Người đời sẽ khen chúng ta là người thành công, ăn nên làm ra, có của dư của để, là do tài năng của mình. Chúng ta đã được an ủi rồi, chúng ta sẽ không cần Chúa. Chúa không nâng đỡ chúng ta nữa. Khi chúng ta được no nê đầy đủ, hưởng thụ, tìm khoái lạc mà không biết chia sẻ cho người nghèo khổ, đói khát, đó là nỗi khốn cho chúng ta, chúng ta sẽ phải đói khát mãi sau này (xLc 16, 19 – 31). Khốn cho chúng ta ngày hôm nay, chúng ta vui cười, sung sướng trên những nỗi đau, nỗi khổ của người khác, chúng ta phải ưu sầu khóc lóc sau này, vì chúng ta không biết vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12, 15). Khốn cho chúng ta khi chúng ta sợ người đời hơn sợ Chúa, chúng ta không chịu dấn thân để giữ đạo, để phục vụ, nhưng thích người đời ca tụng, tung hô, khen tặng chúng ta để ru ngủ chúng ta trong hào quang giả tạo, làm cho chúng ta xa rời Chúa, yêu thế gian hơn yêu Chúa. Chúng ta nghe Chúa nói các mặt trái này để chúng ta tránh đi, chúng ta phải làm theo ý Chúa để Chúa cứu giúp chúng ta.

Cuộc sống chúng ta ở trần gian này là vô thường, không có gì tồn tại mãi, chỉ có Chúa mới là cùng đích và vĩnh viễn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi chúng ta được ở trong những cái phúc của Chúa ban, chúng ta cần phải tạ ơn Chúa, cộng tác với Chúa để làm cho ơn Chúa phát triển nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng nếu chúng ta không biết ở trong mặt phải Chúa ban, chúng ta sẽ rơi vào những cái khốn, và chúng ta sẽ đau khổ đời đời.

Lạy Chúa, nhờ ơn Chúa thương ban, chúng con được bước đi trong tình yêu của Chúa, được nối gót của cha ông, và tất cả anh chị em chúng con đang sống đây làm thành một cộng đoàn dân thánh của Chúa, bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa để chúng con đạt đến hạt phúc đời đời. Xin Chúa gìn giữ đỡ nâng chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5:

Bắt chước Thiên Chúa Cha.
12/09 – Thứ Năm tuần 23 thường niên.
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

 

Lời Chúa: Lc 6, 27-38


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.

Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

 ---------------------------------

 

Suy niệm 1: Yêu kẻ thù


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Ðức Giêsu,
chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi,
hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.
Chắc chắn Ðức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác,
hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.
Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.”
Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.
Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc,
vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu.
Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.
Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ
để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống.
Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.
“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.
Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai?
Ðó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống.
Ðó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.
Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp.
Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi,
là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi.
Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.
Ðức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân:
về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện.
Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.
Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay.
Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).
Khi làm điều tốt cho kẻ thù,
tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng,
và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng
khỏi cái tôi ích kỷ của họ.
Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế,
tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa.
Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.
Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay
một người làm tôi vô cùng đau khổ.
Ðó chẳng phải là một hành động giả hình,
nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên.
Ðó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu,
nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.
Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên.
Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên...
Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình,
mới vào được thế giới siêu nhiên,
thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.
Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.
Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học,
nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ
của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ.
Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.
Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.

-------------------------------

 

Suy niệm 2: Nhân từ như Chúa Cha


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Yêu người thân cận như chính mình đã là khó lắm rồi. Nay Chúa lại đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù. Ai có thể làm được? Nhưng Chúa đưa cho ta một phương thế: Hãy nhân từ như Chúa Cha.

Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa luôn yêu thương. Không có mảy may thù ghét nào nơi Người. Người là tình yêu. Chỉ là tình yêu mà thôi. Tình yêu luôn phát ra tình yêu. Bất kể đối tượng thế nào. Có đón nhận hay không. Có yêu thương hay không. Có tốt hay xấu. Người không bị đối tượng qui định. Chính Người qui định đối tượng. Tình yêu Người mạnh hơn tất cả. Người yêu thương tất cả. Tha thứ tất cả. Nhân từ với tất cả.

Tôi thường bị đối tượng qui định. Gặp người tốt thì tôi yêu. Gặp người xấu thì tôi ghét. Tôi làm ơn cho người làm ơn cho tôi. Tôi trả oán cho kẻ làm hại tôi. Tôi yêu vì đối tượng dễ yêu. Hôm nay Chúa muốn tôi phải là tình yêu nguyên tuyền. Không bị đối tượng qui định. Nhưng tình yêu phát xuất từ đáy tâm hồn. Luôn yêu thương tất cả. Kể cả người làm hại, vu cáo, hành hạ mình. Điều này có thể được khi tôi kín múc được nguồn tình yêu nơi Chúa Cha. Để có thể yêu dù đối tượng có thế nào.

Khi qui chiếu về Chúa, ta đạt đến yêu thương như Chúa. Tha thứ như Chúa: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”. Để Chúa điều khiển tâm hồn. Nên nói gì, làm gì cũng theo ý Chúa: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su”. (năm lẻ).

Yêu thương khiến ta luôn nghĩ đến người khác. Không làm gì cho tha nhân sai lỗi. Không gây cớ vấp phạm. Kể cả những việc vô tội, được phép làm, nhưng vẫn không làm. Vì yêu thương, sợ người khác sa ngã. Như vấn đề ăn thịt cúng: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (năm chẵn).

Nhân từ như Chúa Cha, chúng ta xứng đáng là con của Người. Ta sẽ kiến tạo một thế giới mới. Thế giới của những người con của Cha Nhân Từ. Thế giới của lòng nhân từ. Một thế giới tràn đầy tình yêu thương. Một thế giới đáng sống.

-------------------------------

 

Suy niệm 3: Yêu Thương Kẻ Thù


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.

Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.

Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.

 -------------------------------

 

Suy niệm 4: Tiến Mãi Không Ngừng


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:

"Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng".

Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.

Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

"Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ". Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.

Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình".

Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa".

Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.

Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.

-------------------------------

 

Suy niệm 5: Yêu người tột độ


 “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc. 6, 27-28)

Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.

“Hãy yêu thương kẻ thù”, Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. “Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em...”. Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.

Đức Kitô nói thêm: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại...”.

Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được”. Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.

Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.

GF

-------------------------------

 

Suy niệm 6: Tha thứ sẽ được thứ tha


Xem lại CN 7 TN A và C - thứ bảy tuần 1 và thứ Hai tuần 2 C, thứ Ba tuần 11 TN.

“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!

Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.

Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng... Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét  mình bao giờ?

Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng... Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò  nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.

Ngọc Biển SSP

 -------------------------------

 

Suy niệm 7: Lòng nhân từ, điểm đặc biệt của đạo Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lòng nhân từ, nhất là yêu kẻ thù, là điểm đặc biệt của đạo Chúa Kitô. Ta hãy có lòng quảng đại như Cha trên trời để biết yêu thương chân thành.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày chung quanh con, và trên báo chí, truyền hình, con vẫn nhìn thấy và đọc thấy nhiều cuộc đánh nhau, chửi nhau, thậm chí cả chém giết nhau. Nhiều lúc không xô xát to tiếng thì cũng là giận hờn, lườm nguýt, không nhìn mặt nhau, ghét nhau và ghét cay ghét đắng.

Như thế, chúng con đã không sống đúng với phẩm giá con người. Tất cả chỉ bởi con sống thiếu tình yêu. Con chỉ yêu những người yêu con và ghét những ai ghét con, làm hại con. Vì thế, cuộc sống vẫn đầy đau khổ, hận thù chồng chất hận thù.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con phải yêu thương tất cả mọi người. Tình yêu của con phải vượt ra ngoài biên giới thân thuộc, giáo xứ, cộng đoàn thân quen. Nhưng quả tim con quá nhỏ hẹp, chưa thực hiện được điều Chúa dạy. Xin Chúa ban cho con quả tim của Chúa, một quả tim quảng đại, biết vươn mình lên cao, vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường: không xét đoán, không lên án, nhưng biết mặc lấy tâm tình bao dung, tha thứ. Xin cho con biết vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho quả tim con đủ lớn để có thể yêu người con không ưa, biết cầu nguyện và làm ơn cho họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để con có thể ôm cả những người thù ghét con. Xin cho con biết noi gương Chúa Cha là Đấng trọn lành và giàu lòng thương xót, để tình yêu lan toả trong cuộc sống con. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”.

-------------------------------

 

Suy niệm 8: Học biết tha thứ tất cả


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, bà đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

 Thế nhưng, vào một Chúa nhật nọ, sau khi bà kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc: dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác ở trại tập trung. Tiếng than khóc, cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà.

 Người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ. Xin bà tha thứ cho tôi”. Coritanbun như chết điếng người, trước đây bà cầu nguyện và quyết tha thứ, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể bắt tay người đến xin bà tha thứ. Sau này vào năm 1971 khi kể lại: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa (Trích “Món quà Giáng sinh”).

Suy niệm

Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô lại mong muốn sự thứ tha trong mọi tương quan, với những người mình không thích và với những kẻ mình ít ưa, thậm chí với cả kẻ thù: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình… ” (Lc 6,27-28). Với kẻ thù trước khi yêu thì phải có sự tha thứ.

Đức Kitô đã gợi mở cho chúng ta tinh thần vị tha tuyệt hảo và mời gọi chúng ta bước vào, “Tha thứ tới bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22), tha thứ không ngừng. Chúa Giêsu dạy con người là tha thứ mãi, vì tha thứ cũng là trao ban cho chính kẻ mình ghét cay ghét đắng bằng đức ái như chúng ta đã trao cho người thân, bạn bè… Chúa Giêsu còn nhấn mạnh tha thứ là điều kiện để được thứ tha như Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).

Tuy nhiên, sẽ không có được sự tha thứ vĩ đại như Chúa Giêsu tha thiết: “Tha thứ cho kẻ thù của mình” nếu chúng ta không có một quá trình học biết tha thứ. Sự tha thứ mà Chúa Kitô mời gọi chúng ta sẽ chỉ hiện hữu nếu chúng ta biết đào luyện cho mình một tiến trình tiệm tiến: Từ bản thân, đến những người thân lầm lỗi, những người ta không thích - không ưa… và tất cả sự tha thứ đều bắt nguồn từ đỉnh cao của đức ái.

Tha thứ cho anh em trong gia đình, bạn bè để nơi tâm hồn chúng ta luôn chan chứa tình huynh đệ bao dung, gia đình đầy ắp tiếng cười. Nhưng tha thứ cho người hãm hại mình quả là điều rất khó khăn. Đó là một bài học có lẽ khó nhất và là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời. Đó cũng là đỉnh cao của lòng vị tha Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng tôi và bạn: yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn cho họ: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử yêu thương này là luật vàng của lòng bác ái.

Ý lực sống:

“Cuộc sống là học biết tha thứ, tha thứ tất cả” (Paul Toupin).

-------------------------------

 

Suy niệm 9: Hãy yêu thương kẻ thù


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu dạy ta hãy yêu thương địch thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ chúng ta. Yêu người xa lạ đã là rất khó, nhưng yêu địch thù còn khó gấp bội. Chúng ta yêu người yêu chúng ta, yêu người đem lại niềm vui cho chúng ta... tình yêu ấy vẫn còn vị kỷ. Tình yêu trọn nghĩa phải là tình yêu vô vị lợi. Yêu như Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân. Chúa đã chịu chết để ta được cứu độ. Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vô điều kiện, vô vị lợi, một tình yêu chân chính.

Trong Cựu ước, chúng ta chỉ thấy luật căn bản là mến yêu Thiên Chúa hết lòng và thương yêu tha nhân như chính mình. Ngoài ra, không có luật nào buộc phải thương yêu kẻ thù, bởi vì chúng ta thấy trong đó có luật báo oán: mắt đền mắt, răng đền răng. Đây là một lề luật xây trên luân lý tự nhiên, ai cũng có thể chấp nhận (x.Xh 21,23-25; Lv 24,17-21).

Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo lý tuyệt vời về đức bác ái: hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình. Tha nhân có thể là người yêu thương chúng ta, nhưng cũng bao gồm những người không thương, lại còn ghét chúng ta, thậm chí cả những người làm hại chúng ta nữa. Đó là luật yêu thương kẻ thù. Đây là một luật có tính cách siêu việt.

Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc phải thực hành:

a) “Hãy làm lành cho kẻ ghét các con”: Ở đây muốn nói: Tình yêu thương tha nhân không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa, nhưng phải tỏ ra bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như giao tiếp, giúp đỡ, cầu nguyện...

b) “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực: lấy điều lành đền đáp lại điều dữ.

Ta có bổn phận phải yêu thương bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì có gì đáng thưởng. Vì cho được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế:

- Làm sự dữ để trả ơn lành là ma quỷ.
- Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại.
- Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa.

Vậy người Kitô hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa. Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.

Ngày xưa, nhiều người cũng có chủ trương như Chúa Giêsu đã dạy:

a) Học thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Tử giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đệ tử của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức báo oán”.

b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói: “Lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.

c) Ông Mahatma Gandhi nói: “Luật vàng của xứ thế là tha thứ lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh.

d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói: “Trong Tân ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.

Truyện: Tha thứ cho kẻ thù

Một ông bố giàu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quý giá không thể chia cắt được.

Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng: “Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.

Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:

- Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.

Người cha tuyên bố:

- Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.

Đến lượt đứa con thứ trình:

- Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé chết đuối.

Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út. Cậu ấp úng bẩm:

- Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.

Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:

- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Chúa Giêsu dạy cách đối xử với tha nhân


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình:

- Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.

- Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.

2. Những lời dạy về cách đối xử va tha nhân cách chung:

- Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả.

- Cư xử nhân hậu

- Đừng xét đoán và kết án.

- Hãy tha thứ.

3. Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con…”

B.... nẩy mầm.

1. Những chữ “vì” trong tương giao:

- Nếu “vì tôi”, thì tương giao sẽ ích kỷ.

- “Vì người ấy” thì tương giao sẽ vụ lợi hoặc thất thường (người ấy tốt thì tôi sẽ tốt, ngược lại…)

- Khi biết “vì Chúa”, các tương giao sẽ vô cùng cao thượng và tốt đẹp.

2. “Các con muốn người ta làm gì cho các con thì các con hãy làm cho người ta như vậy”: Tôi thường đòi hoặc mong người ta làm cho tôi thế này thế nọ. Đó là cách tương giao lấy mình làm trung tâm qui chiếu. Cách tương giao này khiến người khác nặng nề và cũng thường làm tôi thất vọng. Hôm nay tôi thử cách tương giao quên mình để nghĩ đến người khác xem: chắc là mọi người đều sẽ vui, phần tôi cũng sẽ cảm thấy một niềm vui sâu xa khó tả.

3. “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán… Hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; Hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con”: những thứ mà người khác dùng để đáp lại tôi chắc chắn không tốt bằng chính Thiên Chúa đáp lại, vì Ngài rất quảng đại, Ngài “sẽ lấy đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc mà đổ vào vạt áo các con”.

4. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27)

Lần nọ trong một ngôi thánh đường, hàng ngàn người say sưa ngồi lắng nghe vị mục sư giảng về lòng yêu thương. Khi bài giảng đã kết thúc, vị mục sư bước ra khỏi ngôi thánh đường. Bỗng một người tiến lại và chìa tay về phía ông. Đó chính là người đã hại ông khi xưa. Ngập ngừng hồi lâu, vị mục sư ngượng ngùng đưa tay bắt.

Sự ngập ngừng của vị mục sư cũng chính là thái độ của tôi trong cuộc sống hôm nay. Tôi không dễ dàng tha thứ để đón nhận và yêu thương kẻ thù. Tôi đã quay lưng lại khi phải đối diện với họ.

Lạy Chúa, xin cho con con tim của Chúa, để con bao dung, yêu thương và tha thứ cho hết mọi người như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng con. (Hosanna).

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Luật yêu thương tích cực


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Lời Chúa hôm nay dễ hiểu nhưng khó thực hành.

Luật yêu thương không phải thời Chúa Giêsu mới có. Luật này đã được nói tới từ lâu nhưng nó mới chỉ có tính cách tiêu cực.

Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:

“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích”.

Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai”.

Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”.

Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”.

Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không?”. Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.

Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mình đừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.

Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật yêu thương đã có một khuôn mặt mới. Nó có tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho kẻ khác những điều như chúng ta muốn kẻ khác làm cho chúng ta.”(Lc 6,31)

Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:

- Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát?

- Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!

Có lẽ phải can đảm lắm mới có được cách ứng xử như vậy. Nào có ai muốn khổ cho mình đâu. Vậy thì đừng làm cho người khác. Ai mà lại không muốn cho mình được yên hàn bình an, hãy cố mà làm cho người khác như vậy. Đó là điều Chúa muốn.

2. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. (Lc 6,31)

Lời Chúa chẳng có gì khó hiểu.

Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.

Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:

- Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?
- Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.

Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:

- Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.

Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:

- Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?
- Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.
- Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.
- Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.

Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:

- Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.

- Cháu sẽ không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.

Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:

- Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!

Nhìn lại cuộc đời của Chúa ta thấy Chúa đã không chỉ nói suông nhưng những điều Ngài dạy thì Ngài đã làm trước.

Lạy Chúa,
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
là Lời Chúa, Lời linh thiêng, Lời uy quyền, Lời hằng sống,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 12: Chúng ta học ở Chúa lòng thương xót


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Tình yêu là bản chất của con người chúng ta. Hễ là người, ai trong chúng ta cũng biết yêu, nếu chúng ta không biết yêu, thì chúng ta không phải là con người nữa. Chúng ta được Chúa tạo dựng giống hình ảnh Chúa là chúng ta giống về tình yêu. Nhưng tình yêu của chúng ta đầy mùi ô uế, tội lỗi, vì thế, để tình yêu này tinh ròng, trong sáng, không còn hoang dã, rừng rú nữa, Chúa đã đến trần gian ở với chúng ta, dạy dỗ chúng ta để chúng ta biết yêu và đặt tình yêu đúng chỗ, đúng mục đích mà Chúa muốn.

Nếu Chúa không dạy dỗ chúng ta về cách yêu thương thế nào cho đúng ý của Chúa thì chúng ta sẽ yêu thương theo kiểu “Bánh ít cho đi, bánh quy trao lại”. Nghĩa là người nào yêu tôi thì tôi yêu lại, nếu ai ghét tôi, tôi sẽ ghét lại. Người nào chào hỏi tôi thì tôi chào hỏi lại. Người nào nguyền rủa, vu khống, chiếm hữu tài sản của tôi, tôi sẽ loại trừ họ ra khỏi cuộc sống của tôi. Nếu ai đánh tôi, tôi sẽ đánh lại, nếu họ có xin tôi, có mượn gì của tôi, tôi sẽ khước từ, không cho, như là tôi trả thù lại những gì họ đã gây ra cho tôi.

Đó là những cách thức chúng ta yêu thương theo bản chất tự nhiên của chúng ta. Nhưng chúng ta là con cái của Chúa, Chúa dạy chúng ta về cách thức chúng ta yêu thương cho đúng điều răn mới của Chúa. Trước khi chúng ta theo Chúa, trái tim của chúng ta là những trái tim bằng đá, bây giờ theo Chúa rồi, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta một trái tim bằng thịt như lời của tiên tri Giêrêmia đã nói để chúng ta yêu như Chúa yêu. Chúa đã từng yêu và bây giờ Chúa dạy chúng ta về kinh nghiệm tình yêu Chúa đã trải qua trong cuộc sống của Chúa. Đó là chúng ta yêu kẻ thù, làm ơn cho người ghét mình, cho người khác vay mượn mà không mong đòi lại, người nào muốn chiếm đoạt của cải chúng ta thì chúng ta cứ để họ làm, không kháng cự, không xét đoán người khác, nhất là biết tha thứ cho người anh chị em của chúng ta.

Chúng ta thực hiện như lời Chúa dạy trên đây, tình yêu của chúng ta sẽ được Chúa thanh lọc để cho nó tinh ròng hơn, và rồi chúng ta tiến đến một bước quan trọng vô cùng, đó là: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Nghĩa là chúng ta phải luôn luôn đi bước trước trong tình yêu đối với anh chị em của chúng ta. Chúa sẽ không quên chúng ta làm điều này cho anhn chị em của chúng ta. Chúa sẽ trả công bội hâu cho chúng ta: “Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6, 37 – 38). Nhất là Chúa ban nước Trời cho chúng ta, đây là cách thức Chúa thưởng công chúng ta khi chúng ta yêu theo ý Chúa muốn.

Lạy Chúa, Chúa yêu chúng con, cho nên Chúa tạo dựng chúng con một cách lạ lùng và cho chúng con sống trên trần gian này, Chúa biết rõ chúng con hơn ai hết, Chúa biết rõ chúng con khi chúng con ngồi hay đứng,  khi chúng con đi hay nằm nghỉ, khi chúng con thức hay ngủ…Chúa biết rõ chúng con từ xa. Vì thế, khi chúng con đi trệch đường lạc lối của Chúa, xin Chúa hãy dẫn chúng con đi đúng đường lối của Chúa để chúng con đạt đến đời sống đời đời. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6: 13/09 Th. Gioan Kim Khẩu

Nhận biết chính mình.
13/09 – Thứ Sáu tuần 23 thường niên. – Thánh Gioan Kim Khẩu 13/09
gm, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

“Người mù có thể dẫn người mù được chăng?”

* Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tụy, lo chấn chỉnh phong hóa cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý công giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.

 ---------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 6, 39-42


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Đạo đức giả


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.
Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.
“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy-lạp.
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.
Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.
 
Cầu nguyện

Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Khôn ngoan trong Chúa Giêsu


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ở đời ai cũng muốn làm thầy người khác. Vì tự hào mình khôn ngoan giỏi giang. Biết hết mọi sự. Nhưng lại không biết chính mình. Vì thế thường mâu thuẫn. Nói mà không làm. Chúa Giê-su gọi đó là “mù lại dắt mù”.

Chúa dạy ta phải khôn ngoan. Khôn ngoan phải đi trong ánh sáng. Ánh sáng là phải biết mình. Biết lỗi lầm của mình. Biết khuyết điểm của mình. Biết giới hạn của mình. Thấy cái xà trong mắt mình. Phải lấy ra thì mắt mới thấy rõ. Thấy đường rồi mới có thể hướng dẫn người khác. Biết mình rất khó. Nhận mình sai sót lỗi lầm còn khó hơn. Và sửa chữa lỗi lầm lại càng khó lắm.

Chỉ có Chúa là sự khôn ngoan. Là sự sáng. Ở trong Chúa ta sẽ có ánh sáng. Sẽ được khôn ngoan. Soi vào Chúa ta sẽ được biết mình. Nhìn lên Chúa ta sẽ biết đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chỉ có Chúa là Thầy. Vì Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó. Nên dù bổn phận phải hướng dẫn người khác, thánh nhân luôn tự biết mình là người tội lỗi, yếu hèn. Phải khuyên dạy Ti-mô-thê-ô là người con tinh thần, nhưng thánh nhân khiêm nhường tự nhận: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót”. Và thánh nhân biết ngài có làm Tông Đồ chính vì “theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su” (năm lẻ).

Chính vì thế, trong khi rao giảng cho người khác, thánh nhân tỏ ra lòng khiêm nhường sâu xa. Nhận đó là bổn phận: “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Vì thế ngài hạ mình “trở thành nô lệ của mọi người”, “trở nên tất cả cho mọi người”. Vẫn chưa đủ, ngài không ngừng xét mình, răn mình, sửa mình để có thể giúp đỡ người khác: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (năm chẵn).

Ngài trở nên người khôn ngoan. Vì ngài sống trong Chúa Giê-su. Ngài trở thành người sáng suốt. Vì đã tự lấy cái xà trong mắt mình trước. Ngài trở thành người hướng dẫn. Vì đã tự biết mình.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Hãy Tự Biết Mình


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.

Tin Mừng hôm nay không chỉ là một bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. "Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã", nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.

Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người cũng đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân. "Hỡi người, hãy tự biết mình", đó là khẩu hiệu mà nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate thường đề ra như bài học vỡ lòng cho các môn sinh, có lẽ cũng được Chúa Giêsu nhắc lại theo một công thức khác: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". "Hãy sám hối" trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn của mình, để từ đó sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Ánh Sáng Thế Gian


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.

Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.

Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.

Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.

Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Cái rác, cái xà


“Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em!” (Lc. 6, 42)

Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.

Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.

Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?

Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.

Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!

Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Mù không thể dắt mù


Xem lại CN 8 TN C

Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!

Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình...

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.

Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.

Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác... để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Biết xét mình trước


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Người đạo đức chân thật biết xét mình trước khi đoán xét khuyết điểm, lỗi lầm của anh em.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho con đôi mắt. Nhờ đôi mắt, con nhìn thấy các công trình kỳ diệu trong thiên nhiên Chúa đã dựng nên. Nhờ đôi mắt, con giao tiếp với mọi người, cùng mọi người xây dựng bổ túc cho nhau, để xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Và đôi mắt sẽ luôn giúp con nhận ra các điều Chân, Thiện, Mỹ, giúp con suy nghĩ đúng và hành động khôn ngoan. Con hết lòng tạ ơn Chúa vì đôi mắt tuyệt vời Chúa ban cho con. Xin hướng dẫn con luôn biết dùng đôi mắt cho đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, con còn được Chúa ban cho một đôi mắt khác là đôi mắt tâm hồn, là trí phán đoán để nhận ra phải trái, thực hư. Trong con, hai đôi mắt ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nhìn đúng, con sẽ phán đoán đúng và hành động khôn ngoan. Nhìn lầm, con sẽ suy nghĩ lệch lạc và hành xử ngu đần. Nghiệm lại trong đời sống, con thường cho mình là đúng, là hay, và đã nhiều lần cố chấp với những sai sót, lỗi lầm của mình. Còn với tha nhân thì ngược lại: con dễ xét nét, bắt bẻ đủ điều và chẳng vui khi họ trổi vượt, thành công hơn con. Con dễ bất công với mọi người, thích nhìn “cái rác trong mắt của anh em” hơn là thấy “cái đà to tướng trong mắt con”. Và vì thế, con đi xa đường lối Chúa, đánh mất lòng đạo đức chân thật của mình.

Lạy Chúa, xin giúp con khiêm nhường để cả hai đôi mắt của con được sáng mãi trong ánh sáng của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng?”

 ---------------------------------

 

Suy niệm 8: Abba, Cha ơi


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

“The Pursuit of Happyness” là một bộ phim xúc động mang tới những thông điệp đầy tính nhân văn về ý nghĩa thực sự của từ “hạnh phúc”. Được dựa trên một câu chuyện có thật, nhân vật chính của phim là Chris, một nhân viên bán máy soi xương luôn gặp thất bại trong việc kinh doanh. Quá bức bối với việc nợ nần của gia đình, vợ Chris đã bỏ đi và để lại cậu con trai nhỏ Christopher Jr. Điều tồi tệ nhất xảy ra khi hai cha con anh bị đuổi ra khỏi căn hộ do không đủ tiền trả và trở thành những kẻ lang thang.

Đi phiêu bạt khắp nơi để kiếm sống, có lúc Chris và con trai đã phải ngủ qua đêm trong nhà vệ sinh bẩn thỉu của một ga tàu điện. Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường, anh không ngừng mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho chính mình và con trai... (Theo afamily.vn).

Tình cha là thế, lo lắng và cùng con bước vào đời với bao gian nan. Tình Chúa dành cho con người được phác họa bằng hình ảnh của tình Cha: Ngài như người cha hiền luôn đồng hành và lo lắng cho con cái ở dưới nhân gian. Dù rằng nhân loại “thuộc hạ giới” (Ga 8,23).

Suy niệm

Lời kinh “Abba” mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ cầu nguyện diễn tả tâm tình đơn sơ phó thác của cả một cuộc sống thường ngày. Đầu tiên “nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”, vì Cha là tình yêu, khi danh Cha tỏa sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất, nơi những người con của Cha hiện hữu. Tiếp đến là những nhu cầu cấp thiết nhất của cuộc sống, những thực tế của thân phận con người, sự vấp ngã, đối diện với cám dỗ và hiểm nguy cuộc sống. Trong danh Cha tỏa sáng và tình yêu Cha trải dài, con tha thiết mong Cha ở bên con vượt khó:

Lương thực hàng ngày trong lời cầu là cơm bánh và những gì cần cho sự sống của thân xác. Lương thực cũng được hiểu là Lời Chúa, là bí tích Thánh Thể, thứ lương thực thiêng liêng cho phận người. Đời sống của chúng ta cần được Cha trên trời nuôi dưỡng. Chúng ta cần cơm bánh nuôi thân xác, nhưng cũng cần thức ăn nuôi đời sống tinh thần. Của ăn tinh thần đó là tình yêu của Cha hiện diện bên con, dù con có hờ hững làm ngơ.

Tha nợ: Nợ là tượng trưng cho thân phận yếu đuối của con người. Đời sống của con cái Cha vẫn còn dính bén đến tội, vì xuất phát từ bụi tro. Ai cũng có tội, tôi phạm tội và cũng có người lỗi phạm đến tôi. Con mong được Thiên Chúa tha thứ, là tình yêu của Cha được tỏa sáng trải dài trên thế gian. Khi yêu cầu tha thứ, con cũng tha thứ cho anh em vì con học nơi Cha tình yêu tha thứ.

Khỏi sa chước cám dỗ: Cám dỗ trong đời sống hàng ngày là điều không sao tránh khỏi trong kiếp người, Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ và đã vượt qua (x. Mt 4,1-11), Ngài cũng mong chúng ta vượt qua (x. Lc 22,40-46). Con người với những cám dỗ từ ngoài vào và những nghiêng chiều theo từ bên trong tâm hồn chính mình. Con không xin mình khỏi bị cám dỗ hay thử thách, chỉ xin được vượt qua chước cám dỗ mà vẫn giữ vẹn lòng tín trung, vững vàng trưởng thành trước những phong ba cuộc đời.

Cha luôn đồng hành với con trong cuộc sống. Chúa Giêsu khuyến khích con hãy kiên trì trong lòng trông cậy Cha bằng dụ ngôn người láng giềng xin bánh giữa đêm khuya để tiếp khách, chủ nhà nếu không vì lòng nhân nhưng vì bị quấy rầy nên phải thức dậy mà cho bánh anh láng giềng (x. Lc 11,5-8). Cha chúng ta, Người không để chúng ta thiếu thốn kia mà... Ngài luôn cho chúng ta những gì tốt nhất cho cuộc đời mình, hãy vững tin dù những lúc thử thách nhất, thử thách đó chẳng phải là “hòn đá”, “rắn rết” hay “bọ cạp” của Cha ban đâu. Ngài sẽ ban Thánh Thần để chúng ta vượt qua đồi Canvê mà tiến tới Phục sinh cùng với Đức Giêsu.

Ước chi con luôn “nhớ” về Cha và thể hiện “hiếu” cùng Cha, cũng là lúc con thành “người”, người quân bình và phát triển nhân cách và tâm linh cho chính mình.

Ý lực sống

“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 9: Cái rác và cái xà


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Hôm nay Đức Giêsu kêu gọi mọi người, nhất là những người có trách nhiệm, những bậc làm cha mẹ phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em mình. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy  lỗi lầm của tha nhân, mà không nhìn ra những lỗi lầm của chính mình. Nhiều khi chính những khuyết điểm ấy lại đang làm cản trở, gây gương mù, gương xấu cho anh chị em, con cái mình. Theo gương mẫu tuyệt vời là Đức Giêsu và lời dạy của Ngài, chúng ta hãy thường xuyên tự kiểm điểm để biết mình và biết cách hướng dẫn người khác.

2. Những lời trong bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.

Chúa Giêsu muốn nói rằng muốn hướng dẫn, muốn dạy dỗ người khác, thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình. Bởi thế, điều kiện để trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.

3. Tin Mừng hôm nay không chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người.  Nhìn nhận quyền xét xử củaThiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra  thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: ”Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.

4. Trong một ngụ ngôn hài hước của thi sĩ La Fontaine kể rằng: thần Jupiter khi dựng nên con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: một cái trước ngực đựng những lỗi lầm của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy  những lỗi lầm của mình.

Bài học dạy đời của ngụ ngôn này đúng như câu tục ngữ của chúng ta: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” do câu “Bàng quan giả  tỉnh, đương cục giả mê”.

Hoặc:

Chân mình thì lấm lê mê,

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Và đây cũng là bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta: ”Cái xà trong mắt mình mà lại đòi gảy cái rác nơi mắt anh em”.

5. Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi chúng ta. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ của con người.

Vậy để tâm hồn, để con mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy cái rác trong đó, hay bới lông tìm vết để xét đoán chỉ trích họ vì một vài lỗi lầm nào đó, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy cái đà của ích kỷ, của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc  cho nên trong sáng hơn.

Vì con người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi Kitô hữu, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Như triết  gia Chilon và cũng là của nhà hiền triết Socarate: “Hãy tự biết mình”. Chúng ta cũng nên học gương thánh Augustinô mà thưa cùng Chúa: “Noverim Te, noverim me”: Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

6. Truyện: Lắng nghe lời phê bình.

Một ông vua kia được viên quan cận thần cho biết một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách  để cứu sống kẻ đó.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách  chữa trị cho người đó sống.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người  lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 10: Sửa lỗi mình trước


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Lời Chúa hôm nay nói về sự mù quáng:

- Nếu ta mù quáng thì ta sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm.

- Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.

B.... nẩy mầm.

1. Thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình. Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải. Những người ưu tú nhất thời Chúa Giêsu là biệt phái và luật sĩ đã mắc phải một cách nặng nề đến vô phương cứu chữa…. Huống chi tôi. Chắc chắn tôi đang bị hai thứ bệnh mù quáng và giả hình này. Chỉ cần xét mình một chút là tôi sẽ nhận ra ngay.

2. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian dành để tự xét đoán mình chỉ chừng 10 phút, mà nhiều khi tôi cũng để nó trôi qua một cách trống rỗng.

3. Một chiếc đồng hồ chạy sai có thể do rất nhiều nguyên nhân bên trong bộ máy. Muốn xét đoán đúng, thì chẳng những xem hiện tượng bên ngoài mà còn phải hiểu rất rõ những nguyên nhân bên trong. Bởi vậy, có thể nói, kẻ “có gan cùng mình” mới dám xét đoán. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói “Tôi không kết án chị đâu”; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.

4. Tôi dễ đưa ra những lời xét đoán, nhưng tôi có nghĩ tới hậu quả của việc tôi làm không? Một quan tòa kết án sai thì sẽ khiến nạn nhân chịu khổ oan trong một thời gian lâu dài. Khi xét đoán, tôi cũng là quan tòa, sao tôi không nghĩ tới nỗi oan của người khác nếu tôi sai?

5. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6,41)

Truyện kể về một viên tướng, sau khi xông pha trận địa và lập được nhiều chiến công, được nhà vua mở yến tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, viên tướng vì quá vui đã xúc phạm đến một trong các cung phi. Thế là mọi người đua nhau lên án. Lúc đó, mọi công trạng của ông hầu như biến mất. Trước mắt mọi người, ông chỉ là một tội nhân.

Nói xấu anh em thật dễ lỗi phạm biết bao. Những người ở đó quên rằng chính họ lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Và chính bản thân tôi vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.

Lạy Cha, con xin đến với Cha như những gì con là, chứ không “tô sơn điểm phấn” (Hosanna).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 11: Phải biết mình


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Những lời trong bài Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Dothái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.

1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.

Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng những người không ưa mình nói về mình.

Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người nầy là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lẫn của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.

2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến dũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42)

Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì thì Chúa đã làm trước.

Các việc ở đời cũng vậy.

Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không được.

Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:

Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.

Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói: - Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.

Einstein thản nhiên đáp lại bố: - Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?

Bố ân cần nói với Einstein: - Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sách sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tướng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dính đầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tường rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.

Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.

Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 12: Người mù dẫn người mù sẽ rớt hố


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Ý lược chính của bài Tin Mừng hôm nay là mù dẫn mù sẽ lăn cù xuống hố, nghĩa là bản thân mình không thấy đường đi rồi mà còn dám dẫn đường cho người mù nữa thì chúng ta sẽ bị gặp hoại cho bản thân của mình và cho người khác giống như mình nữa.

Chúng ta mù loà khi nào? Chúng ta mù loà khi trong con mắt của chúng ta (con mắt đức tin, con mắt tâm hồn) có một cái xà rất lớn, nó che khuất chúng ta, khiến chúng ta không nhìn thấy gì cả. Cái xà đó là những tội lỗi chúng ta đã phạm đến Chúa. Trong đó, cái xà lớn là những tội nặng, cái xà nhỏ là những tội nhẹ. Tội nặng, tội nhẹ, nó sẽ làm cặp mắt đức tin của chúng ta ra mù tối, che khuất tầm nhìn của chúng ta, làm chúng ta không thấy con đường để chúng ta đi đến với Chúa, không thấy tội để mà xa tránh. Đồng thời, khi chúng ta mù loà, chúng ta sẽ không thấy những nỗi thống khổ đói khát của anh chị em chúng ta mà chúng ta giúp đỡ, chúng ta không thấy được những cảnh đẹp của muôn tạo vật do Chúa dựng nên mà chúng ta ca ngợi, chúc tụng Chúa.

Chúng ta là con cái của Chúa, chúng ta theo Chúa, Chúa đã thương xót chúng ta, dù chúng ta tội lỗi mà Chúa vẫn cho chúng ta có cặp mắt đức tin trong sáng như thế này để chúng ta bước theo Chúa, chúng ta cảm tạ ơn Chúa vô cùng: “Môn đệ không hơn Thầy, nếu môn đệ được giống như Thầy thì đó là hoàn hảo rồi” (Lc 6, 40). Chúng ta biết ơn Chúa và sống cho xứng đáng với sự biết ơn đó bằng cách chúng ta đừng xét đoán anh chị em của chúng ta, mà cụ thể là: “Sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấ? Sao ngươi có thể nói với người anh em: Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi” (Lc 6, 41 – 42). Như vậy, sống biết ơn Chúa là chúng ta phải luôn tự xét mình, luôn nhìn nhận mình yếu đuối, tội lỗi, bất xứng, bất toàn để lo ăn năn sám hối, hoán cải bản thân, chừa  tội lỗi, lo sống tốt và rồi chúng ta mới giúp anh chị em chúng ta chừa tội được, chúng ta mới có thể dẫn anh chị em chúng ta đến với Chúa mà không bị vấp ngã trên đường đời, không bị rớt hố sâu bởi những đam mê xác thịt, tham sân si, danh lợi thú: “Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi mới thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi” (Lc 6, 42).. Do đó, chúng ta phải nghe lời Chúa, phải tu thân tích đức trước đã, rồi mới có thể giúp đỡ cho mọi người, trong gia đình, ngoài xã hội mà cùng nhau sống theo thánh ý Chúa.

Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con, Chúa rộng ban ân sủng cho chúng con để rồi chính Chúa là nơi chúng con nương tựa, là thuẫn đỡ, khiên che, là thành lũy bảo vệ chúng con. Lạy Chúa, loài chim kia cũng được Chúa cho làm tổ bên bàn thờ Chúa, cánh nhạn kia cũng được Chúa cho tìm được mái ấm để ấp ủ con của nó thì huống chi chúng con là con cái của Chúa (Tv 83, 4). Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con tôn thờ, chúng con được hạnh phúc được ở trong nhà của Chúa, chúng con ca ngợi Chúa muôn đời, xin Chúa nghe lời chúng con khẩn nguyện, ban ơn giúp chúng con sống khiêm nhường trước nhan thánh Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 7: 14/09 – SUY TÔN THÁNH GIÁ

Phải được giương cao.
14/09 – Thứ Bảy tuần 23 thường niên – SUY TÔN THÁNH GIÁ. Lễ kính.
“Con Người phải bị treo lên”.

* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết.
Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 3, 13-17


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.

“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Phải được giương cao


--‘Manna’

Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ,
nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.
Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.
Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.
Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.
Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá.
Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người,
là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết,
nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một,
Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.
Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu.
Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước:
Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng:
Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.
Ngài để cho con người có tự do chối từ.
Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.
Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết,
ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá,
nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu,
nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:
"Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.
Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội,
dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá húa Giêsu.
 
Gợi Ý Chia Sẻ

Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?

Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.

Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)

---------------------------------

 

Suy Niệm 2. Ý nghĩa mới của Thập giá


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Thập giá là biểu tượng của thất bại và sự chết. Nhưng khi được giương cao trên thập giá, Chúa Giêsu đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: Thập giá trở thành vinh quang của Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho loài người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhìn lên thập giá Chúa, con hiểu được phần nào tình Chúa yêu con. Vì tình yêu mà Chúa chấp nhận khổ hình thập giá: Thập giá đồng nghĩa với tình yêu, đường tình yêu cũng là đường thánh giá.

Lạy Chúa, thập giá đời con có thể là những giờ phút tâm hồn khô khan chán chường. Thập giá đời con có thể là bổn phận nặng nề vất vả. Thập giá đời con có thể là sức khỏe suy nhược, công việc thất bại. Thập giá đời con có thể là những người trong cùng một mái gia đình: vợ, chồng, cha mẹ, con cái trở thành gánh nặng cho nhau. Thập giá là đau khổ muôn hình vạn trạng.

Lạy Chúa, con không chối từ những thập giá ấy, nhưng vui lòng chấp nhận, vì con tin rằng: con đường thập giá không phải là đường cùng, nhưng hướng mở tới một chân trời mới. Thập giá nặng nề và vướng mắc chông gai, nhưng thập giá luôn loan báo một cuộc đổi mới. Chúa đã dẫn con đến sự sống, nhưng bắt đầu khởi hành từ thập giá. Xin Chúa gắn chặt thập giá đời con vào thánh giá Chúa, để con biết yêu mến thánh giá Chúa trong đời thường. Xin Chúa giúp con luôn tin tưởng nơi thánh giá Chúa, và xin giúp con can đảm nhận lấy những thánh giá trong cuộc đời. Xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Lạy Chúa, xin ban cho con tình yêu nhiều hơn nữa để con đủ sức vác thánh giá đến cuối đường con đã chọn, vì thánh giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống. Amen.

Ghi nhớ: “Con Người phải bị treo lên”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3. Cuốn sách hay nhất


--GM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên

Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.

Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.

Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.

Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay.

Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.

- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.

- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.

- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.

- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.

- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả

Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.

Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!

Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.

Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.

Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4. Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu


--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.

Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.

Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Giêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!

A. Câu Truyện Rắn Ðồng

Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.

Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.

Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.

Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.

Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.

Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.

Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.

Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.

Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Giêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.

B. Ý Tưởng Về Thập Giá

Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Giêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Giêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.

Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Giêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.

Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Giêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.

Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Giêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Giêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.

Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Giêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).

Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.

Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:

C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Giêsu

Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Giêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!

Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...

Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Giêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.

Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Giêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.

Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Giêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Giêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.

Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Giêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.

Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5. Thập Giá giữa đời hôm nay


--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Tôi vừa nhận được một video clip do một người bạn gửi qua email. Nội dung clip này ghi lại cảnh những binh lính thuộc tổ chức tự xưng Nhà nước Hồi giáo (IS) giết hại những Kitô hữu tại Syria. Hàng chục người tín hữu tay bị trói và bị bắt quỳ trên đất, những người lính bịt mặt dí súng vào đầu họ rồi bóp cò, trong lúc hàng trăm người khác nhảy mừng tung hô như những kẻ say máu. Tôi không thể xem hết những hình ảnh này, vì nó quá dã man và kinh hoàng. Chúa ơi, tại sao những người này lại tàn sát các tín hữu của Chúa một cách ghê rợn? Không thể tưởng tượng tại sao những hành động như vậy lại đang xảy ra trên hành tinh của chúng ta ở thế kỷ 21, khi mà con người không ngừng kêu gọi ngưng bạo lực và bảo vệ nhân quyền, thậm chí là bênh vực và bảo vệ những loài động vật. Không chỉ giết hại những người công giáo, những hình ảnh do chính nhóm Nhà nước Hồi giáo phát tán trên internet còn cho thấy những cuộc tàn sát dân lành, trẻ em và phụ nữ tại Iraq và Syria. Từng đoàn người đang bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở của mình để lên đường tỵ nạn tới một nơi vô định và một tương lai mù mịt.

Trong những ngày qua, dư luận thế giới bàng hoàng trước việc binh lính Nhà nước Hồi giáo giết hại hai nhà báo người Mỹ là James Wright Folley 40 tuổi và Steven Sotloff, 31 tuổi. Hai nhà báo này đã bị giết hại bằng hình thức chặt đầu, như thời trung cổ.. James Wright Folley bị giết ngày 19-8-2014 và Steven Sotloff bị giết ngày 2-9-2014. Sự kiện này cùng với bạo lực ngày càng nghiêm trọng đã khiến cho tổng thống Mỹ Obama hôm 10-9 thề sẽ tiêu diệt hoàn toàn nhóm Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.

Không chỉ những Kitô hữu ở Syria hay ở vùng Trung Đông, những nhà truyền giáo và hoạt động tông đồ đang bị bách hại và giết chết ở nhiều nơi trên thế giới. Ngày chúa nhật 7-9 vừa qua, ba nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ chiều Chúa nhật trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy.

Trước tình hình bạo động và tàn sát các Kitô hữu tại một số nước vùng Trung Đông, Đức Thánh Cha đã cử vị Đặc sứ của Ngài là Đức Hồng Y Filoni, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đến tham và ủy lạo các cộng đoàn tín hữu tại Iraq từ ngày 13 đến ngày 20-8-2014. Đức Hồng Y đặc sứ đã trình bày với Đức Thánh Cha về tình trạng thê thảm tại Iraq: các làng mạc bị bỏ hoang vì người dân lành bị xua đuổi. Các nhà thờ bị tàn phá. Người dân ở đây thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống hằng ngày và bạo lực mỗi ngày một gia tăng.

Khi tàn sát dã man những người dân vô tội, những người Hồi giáo dòng SITE gọi cuộc khủng bố của họ là một cuộc thánh chiến. Họ mượn danh Thiên Chúa để làm điều ác. Họ phong chức “tử đạo” cho những binh lính chết trong khi tham gia những cuộc bạo loạn này! Con người không ngừng nhân danh Chúa để tàn sát lẫn nhau. Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta: “Sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,2).

Người Do Thái đã kết án Chúa Giêsu khổ hình thập giá. Người đã chịu chết trên thập giá để biểu lộ tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại. Trải qua hơn 20 thế kỷ, con người vẫn không ngừng ghen ghét sát hại những người tin Chúa. Thập giá ngày hôm nay vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử tệ bạc với nhau. Thập giá hiện diện nơi gia đình khi sự chung thủy và tình yêu bị phản bội. Thập giá hiện diện nơi cộng đoàn giáo xứ khi mọi người chia rẽ và thù ghét nhau. Thập giá hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử với nhau bằng mưu mô tính toán và ích kỷ hẹp hòi. Thập giá vẫn còn đó và chúng ta được mời gọi hãy mang thập giá cho nhau bằng cách hãy sống với nhau cách trung thực, nhân hậu. Đừng tăng thêm gánh nặng cuộc đời cho anh chị em mình, vì cuộc đời đã là một gánh nặng khó vác.

Trong bối cảnh xã hội vùng Trung Đông và trên thế giới hôm nay, chúng ta là những Kitô hữu được mời gọi hiệp thông cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta đang phải vác thánh giá. Sứ mạng làm chứng và tử đạo luôn luôn gắn liền với cuộc đời Kitô hữu. Đây đó trên thế giới này, luôn luôn có những cuộc tàn sát đẫm máu vì lý do sắc tộc hoặc lý do tôn giáo. Thế gian ghen ghét các môn đệ của Chúa, như họ đã ghen ghét và lên án tử cho Người. Người Kitô hữu chân chính là người biết nhìn lên thập giá để mỗi ngày, để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã chịu treo trên đó, đồng thời cảm nhận tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngắm nhìn thập giá cũng giúp chúng ta tìm được sức mạnh để bước đi trong cuộc đời đầy gian nan thử thách này, nhờ đó mà chúng ta vững tin như Chúa nói với chúng ta: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho anh chị em chúng con đang chịu bách hại trên khắp thế giới. Xin Chúa thêm sức cho họ, để họ biết chiến thắng bạo lực bằng tình yêu thương và tha thứ.

Xin Chúa giúp chúng con vác thập giá cuộc đời hôm nay, để nhờ ơn Chúa, chúng con cũng biết vác thập giá giúp anh chị em chúng con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 6. Treo cao trên thập tự


-Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.

Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.

Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).

Suy niệm

“Xưa Môisê treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).

Sự giương cao của con Thiên Chúa qua cái chết trên thập tự để toàn thể nhân loại nhìn vào với niềm tin thì sẽ được cứu độ. Thật thế, nhân loại trải qua dòng lịch sử, cũng bất trung, nổi loạn khi sống song hành với bóng tối, từ lúc nguyên tổ khước từ quyền sống trong sự bao bọc tình yêu của Thiên Chúa khi nghe theo sự nổi loạn của Satan. Thiên Chúa không bỏ rơi con người, tình thương của Ngài hứa cứu độ và ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu.

Con người giương cao chính là Con Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa hứa ban cho thế gian. Con Một của Ngài đến, không phải để lên án, nhưng dẫn nhân loại đến đời sống vĩnh cửu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa cho nhân loại, chính tình yêu này là căn bản của công trình cứu độ xuất phát từ cung lòng Ngài, cung lòng tình yêu luôn trao ban dù rằng con người đã bất trung.

Con Một của Thiên Chúa - Đức Kitô chết giương cao để cho con người được cứu chuộc và được sống. Thánh Phaolô luôn ghi tạc trong tâm khảm đức tin hình ảnh Con Thiên Chúa giương cao trên thập giá: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài một Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2), để rồi sự sống của Thiên Chúa tỏ hiện trong cuộc sống của vị tông đồ dân ngoại: “Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).

Nhân loại muốn đạt được ơn cứu độ phải đi theo con đường tin vào thập giá, nơi giương cao Đức Giêsu - Con Thiên Chúa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài dành cho qua cái chết của con Ngài trên thập tự, nhân loại sẽ được cứu rỗi.

Cuộc sống hàng ngày vốn bị chi phối bởi tội lỗi, bởi bóng tối của sự dữ. Chúng ta ngước nhìn lên Đức Kitô bị treo trên thánh giá. Ngài chiếu tỏa xua đuổi bóng tối trong cuộc đời chúng ta, đi theo ánh sáng của niềm tin vào Đấng được giương cao, như chính Đức Giêsu đã nói: “Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: Các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).

Mong sao mỗi người chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh từ thập giá khi ngước mắt nhìn với niềm tin: Đức Giêsu được “giương cao trên thập giá”, và cũng được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Người tin và đi trên đường của Ngài, cũng sẽ được như Ngài, vì lời Ngài hứa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32),

Ý lực sống:

“Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).

-------------------------------

 

Suy Niệm 7. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:

Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ. Biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá. Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 8. Lạy Cha, nếu có thể được


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

I. ĐỨC KITÔ, NGƯỜI TÔI TỚ VÂNG PHỤC

Đức Kitô được gọi là Tôi Tớ của Thiên Chúa vì Ngài đã mặc lấy thân xác của loài người trong thân phận người nô lệ để sống với loài người, hầu thi hành sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã giao phó cho. Cuộc đời của Ngài là cuộc đời vâng phục hoàn toàn, như lời thánh Tông Đồ đã nói: “Chúa Kitô đã sinh ra vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8).

1. Đức Kitô, người Tôi Tớ

Đức Giêsu lấy thân phận người tôi tớ làm thân phận của mình; là Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29), loan báo ơn cứu độ cho người nghèo (x. Lc 4,18t); tuy là Chúa và là Thầy (Ga 13,12-15), Người sống giữa các môn đệ như “kẻ phục vụ” (Lc 22,27);  và Người đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình yêu thúc đẩy Ngài phục vụ như thế (Ga 13,1; 15,13) bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu chuộc nhiều tội nhân (Mc 10,43tt; Mt 20,26tt). Bởi đó Người đã bị đối xử như một tội phạm (Lc 22,37), rồi chết trên thập giá (Mc 14,24) trong khi biết rằng mình sẽ sống lại theo lời Thánh Kinh nói về Con Ngưới (Mc 8,31; Lc 24,44).

Lời rao giảng của các sứ đồ áp dụng cho Đức Giêsu tước hiệu Người Tôi Tớ để loan báo mầu nhiệm sự chết của Người (cvtđ 3,13t; 4,27t), là nguồn mạch phúc lành và ánh sáng cho chư dân (cvtđ 3,25t; 26,23). Là Con Chiên bị sát tế  cách bất công như người Tôi Tớ (cvtđ 8,32t), Đức Giêsu đã cứu chuộc các chiên lạc của Người.

Trong một bài thánh ca, thánh Phaolô đã hùng hồn tóm tắt mầu nhiệm Đức Kitô và đức ái của Người: thánh ca công bố rằng  Đức Giêsu đã vào trong vinh quang bằng cách mặc lấy thân phận Người Tôi Tớ và chết trên thập giá để vâng lời Thiên Chúa Cha Người (Ph 2,5-11). Vậy lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ loan báo lễ hy tế cứu chuộc của Con Thiên Chúa làm người. Bởi đó, tên của Người Tôi Tớ thánh thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là nguồn  mạch độc nhất của ơn cứu rỗi (cvtd( 4,10tt ).

2. Đức Kitô, người Tôi Tớ vâng phục tự nguyện.

a) Giáo lý của Người.

Việc đầu tiên chứng tỏ Đức Giêsu đã tự nguyện vâng phục, đó là Người đã tự nguyện mặc lấy thân phận tôi tớ, mặc dầu Người vốn có hình thể Thiên Chúa (Ph 2,5-11). Người đã tự hủy mình đi để thi hành công cuộc cứu chuộc loài người. Trong đời sống thi hành chức vụ đó, Đức Kitô luôn nhắc đi nhắc lại cho chúng ta thấy Người đến  không phải làm một việc gì khác ngoài việc đến để làm công việc  do Cha Người đã ủy thác cho (x. Ga 4,38).

Thánh Phaolô cho biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước, cho nên của lễ Cựu ươc cũng thua kém của lễ Tân ước. Ngày nay, Chúa không thích lễ vật sinh tế mà thích tấm lòng của người dâng lễ vật. Trong thư gửi cho tín hữu Do thái thánh Phaolô viết: “Bởi đó lúc vào trần gian Ngài nói: “Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con. Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái. Bấy giờ con nói: Này con đến – trong cuốn sách đã nói về con – để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa (Dt 10,5-7).

Lần kia, các tông đồ vào thành mua đồ ăn về, thấy Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ mệt bên giếng Giacóp. Các ông bầy đồ ăn ra trước mặt Chúa, các ông mời Ngài: “Thưa Thầy, xin Thầy dùng bữa” (Ga 4,31). Chúa Giêsu không để ý gì đến thức ăn các môn đệ dọn sẵn. Đôi mắt Ngài còn chìm đắm trong cõi vô hình. Cảnh vật chung quanh như xa lạ với Ngài. Cuối cùng Ngài trả lời các môn đệ: “Thầy đã có của ăn rồi mà các con không biết” (Ga 4,32). Rồi khi thấy các môn đệ đưa mắt hỏi nhau về việc Ngài đã có của ăn, Ngài liền thêm: “Của ăn Thầy dùng  là chu toàn ý Chúa Cha và thực hiện công việc của Ngài” (Ga 4,34). Nhiều lần trong đời Ngài, Ngài đã lặp lại  và minh chứng hùng hồn điều đó: “Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4,38).

Ý tưởng về vâng phục đó còn được diễn tả  một cách rõ ràng trong một hoàn cảnh hết sức  đặc biệt. Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc thụ nạn, Ngài đã vào trong Vườn Cây Dầu để cầu nguyện, hầu xin sức mạnh để thực hiện một công việc hết sức khó khăn theo sức loài người. Đức Giêsu có những ý nghĩ và tâm tình như chúng ta: Người cũng cảm thấy buồn rầu lo sợ trước một cái chết cực kỳ dã man và ghê sợ nhất trong lịch sử loài người. Nhưng với ý chí sắt đá, Ngài đã thắng được tính yếu đuối nhúùt nhát của con người, Ngài đã dám cầu nguyện cùng Cha Ngài rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi con! Song không phải ý Con, mà là ý Cha” (Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).

b) Đời sống của Ngài.

Đức Giêsu đã tỏ ra lệ thuộc vào Cha trên trời một cách cụ thể trong khi vâng phục các tạo vật, theo phẩm trật tự nhiên, có thể quyền bính phần nào đối với Người. Thế nên, trong 30 năm Ngài sống hoàn toàn vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse, Người nhìn nhận uy quyền của Đức Chúa Cha, quyền bính của thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong những lời ngắn ngủi, Phúc âm tóm tắt cả một quãng đời riêng tư lâu dài của Đấng Cứu Thế: “Người đã vâng phục ông bà” (Lc 2,51). Sau đó trong đời sống công khai, nhất là trong cuộc khổ nạn, Người đã luôn nêu gương vâng phục quyền bính thiết định, tôn giáo cũng như dân sự, tuân phục những thẩm phán cũng như những đao phủ, theo lời thánh Phaolô: “Người đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá” (pl 2,8). Xuống thế vì vâng lời, Người đã ôm ấp cái chết, tại vườn Cây dầu Ngài đã thực hiện lý tưởng ấy (x. Lc 22,42).

c) Vâng phục tự nguyện.

Công cuộc nhập thể và cứu chuộc được thực hiện nơi Chúa Giêsu hoàn toàn do Người chấp nhận, không có một lý do nào khác ép buộc Ngài. Mọi công việc Người làm ở trần thế này không có một lý do nào khác ép buộc Người, chỉ có tình yêu Người đối với ta đã thúc đẩy.

Trong một bài thánh ca,thánh Phêrô đã mô tả như sau: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không phạm tội chi, chẳng ai thấy Người mở miệng nói lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ nà chẳng có ngăm đe, nhưng đã tự phó thác cho Đấng phân xử công bình. Tội lỗi chúng ta, Người mang vào thân mà đưa lên thập giá, hầu đối với tội lỗi, chúng ta như đã chết rồi để từ nay sống đời công chính. Nhờ mang thương tích, mà anh em được chữa lành” (1Pr 2,21-24).

Thánh Phaolô nói: “Người bỏ cái trước, để lập cái sau” (Dt 10,9), nghĩa là Người bỏ hy lễ Đạo Cũ để thiết lập hy lễ Đạo Mới. Vì sao Thiên Chúa không ưng việc tế lễ Đạo Cũ? – Vì nó chỉ là tượng trưng cho việc tế lễ hoàn hảo vô cùng của chính Ngôi Hai nhập Thể ở trong tương lai. Nó có giá trị trước mặt Chúa, cũng là nhờ giá tế phẩm chính thức sau này.

Nếu thế, thứ tế phẩm nào mới trông được làm cho Thiên Chúa hoàn toàn thỏa mãn?  Để Chúa hoàn toàn thỏa mãn, phải có vật nào hoàn hảo (Dt 7,26) tự ý hiến thân, không bị cưỡng bức như các loài vật ta bắt đem sát tế; cũng không phải hiến cho ngọn lửa trần thiêu hủy trong một khoảnh khắc, như giết súc vật thiêu tế trong Đạo Cũ, nhưng phải là vật tự hiến cho ngọn lửa Tình vô cùng Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời. Nghĩa là chính tế phẩm ấy còn phải có sức yêu mến, đền tạ đầy đủ vô cùng, không như lễ vật đạo cũ không biết kính mến, cũng chẳng đền tạ được xứng đáng hết các tội lỗi, như thánh Phoalô đã nói: “Các thầy chủ tế hằng ngày đứng ra hành lễ, hiến tế nhiều lần cũng bấy nhiêu thứ, mà tuyệt nhiên không thể hủy diệt tội lỗi; trái lại, Chúa Kitô dâng chỉ có một lễ duy nhất đền tội, đoạn Người vẫn ngự  bên hữu Thiên Chúa liên mãi” (Dt 10,11-12).

Còn một điểm hệ để cho Thiên Chúa được thỏa mãn trọn, là vị chủ tế cần phải xả thân tự hiến chính mình làm lễ vật cúng tế, không mượn vật khác xả tế thay như trong đạo cũ. Tất cả những đòi hỏi trên đều có đầy đủ nơi Chúa Giêsu và chỉ nơi mình Người thôi. Đó chính là Ngôi Hai nhập thể tự ý toàn hiến thân mình làm vật xả tế, để cho tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời. (Lm Phạm kim Xuyến, Lý tưởng toàn hiến, 1973, tr 101-102)

II. ABRAHAM VÀ GIÓP, HAI KHUÔN MẶT TÍN THÁC.

1. Việc hiến tế của Abraham.

Việc hiến tế của Abraham là việc làm của con người có một đức tin siêu việt, một lòng tín thác hoàn toàn và tuyệt đối. Xét theo lý trí của con người thì việc làm của Abraham mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa cho dòng dõi của ông được đông như sao trên trời, như cát dưới biển… Nhưng ông cứ làm về phía ông, còn về phía Thiên Chúa thì Ngài sẽ lo. Như thế mới làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm nên cái có thể trong cái không có thể đối với con mắt loài người.

Mờ sáng hôm ấy, người ta thấy một cụ già  lặng lẽ dẫn đứa con giã từ Mambrê yêu dấu để ra đi. Họ đi về đâu? Thưa, đi đến một ngọn đồi xa lạ, theo một mệnh lệnh huyền bí. Trên đường trường hai người rong ruổi: cụ già lầm lũi đi trước, đứa trẻ lóc cóc theo sau. Suốt ba ngày đường cha con vẫn im lặng, âm thầm rảo bước, chẳng ai hé miệng nói gì. Mỗi người hình như đang bận tâm theo đuổi một ý nghĩ nào đó.

Người cha dáng vẻ ưu tư, đang băn khoăn, thắc mắc về những chuyện mới xẩy ra đã làm xáo trộn nếp sống an bình của ông. Cả một cuốn phim của thời dĩ vãng quay nhanh trong óc ông, với những vui buồn đắp đổi, bao hy vọng lóe lên sáng ngời… rồi vụt tắt!

Lúc Thiên Chúa gọi, Abraham đã 75 tuổi đời mà vẫn hiếm hoi và cũng chẳng còn mong mỏi nông nỗi gì nữa. Sara, vợ ông, cũng thế. Nhưng rồi tự ý Thiên Chúa, Ngài đã hứa cho dòng dõi ông nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển (St 15,5t). Ít lâu sau – Isaác – tên người con – ra đời để lời Giavê Thiên Chúa ứng nghiệm, và Abraham có thể tin rằng đứa con đây sẽ kế nghiệp mình như thiên ý đã quyết định. Thế mà oái oăm thay! Chính Đấng đã đề nghị, đã cam kết, nay lại yêu cầu tổ phụ hủy bỏ cái phương tiện thiết yếu để nối dõi tông đường, lại đòi tổ phụ phải đem chính con một yêu dấu nhất đời để hiến tế Ngài. Như thế thì Chúa đùa hay nói thật?

Có lẽ vì quá bận bịu trong tâm khảm, Abraham không kể chi ngoại cảnh, và cũng chẳng để ý đến  đứa con đang lẽo đẽo theo sau. Trong khi đó, Isaac cũng loay hoay với những băn khoăn, thắc mắc riêng mà vẫn chưa tìm ra giải đáp, nên vội cất tiếng: “Cha ơi, củi có, lửa có, nhưng con chiên làm lễ vật ở đâu” (St 22,7)?

Abraham dừng bước, dáng vẻ thẫn thờ, trên khuôn mặt in hằn nét đau đớn. Thật vậy, câu hỏi của Isaac đã đưa tổ phụ về với hiện tại và đặt ông trước một thực tế bi đát, xót xa. Nhưng dù hoàn cảnh éo le, dù phải bước đi trong đêm tối nghi nan, tổ phụ vẫn cương quyết giữ vững niềm tin nơi Thiên Chúa, nên đã ôn tồn trấn tĩnh con: “Lo gì con, lễ vật Thiên Chúa sẽ liệu” (St 22,11t).

Thế rồi hai cha con lặng lẽ tiếp tục lên đường, cha già đi trước, đứa trẻ lững thững vác củi theo sau. Đến đỉnh núi Thiên Chúa đã định, Abraham dựng bàn thờ, chất củi lên, trói chặt con đặt trên đó, rồi một tay châm lửa, một tay cầm dao sẵn sàng giết chết chính con một yêu quí nhất đời, là niềm an ủi của tuổi già, là tương lai và hy vọng của cả một dân tộc… để hiến dâng cho Thiên Chúa (St 22,9tt).

2. Lòng kiên nhẫn tin tưởng của Gióp.

Kinh Thánh còn kể lại: xưa ở xứ Us, có một người tên là Gióp, một người liêm khiết và chính trực, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều gian ác. Ông sinh được 7 con trai và 3 gái. Ông có đàn súc vật gồm 7000 chiên, 3000 lạc đà, 500 đôi bò, 500 lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ôâng là người giầu có nhất trong các con cái Phương Đông (G 1,1-3).

Nhưng Thiên Chúa cho quỉ Satan thử lòng liêm khiết và lòng trung tín của ông: ông liên tiếp được tin báo người ta đã cướp hết gia sản, tôi tớ và cả mấy đứa con cũng chết luôn. Được tin ấy, Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, phục lậy và nói:

Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ,
Tôi cũng sẽ trần truồng về lại nơi đó.
Giavê đã cho, Giavê đã lấy lại
Đáng chúc tụng thay danh Giavê”. (G 2,21)

Cơn thử thách cũng chưa hết… Chúa còn cho Satan hành hạ chính thân xác ông: Satan lui khỏi nhan Giavê, và dùng ung sang hiểm độc  đánh Gióp từ gan bàn chân lên tới đỉnh đầu. Gióp dùng một mảnh sành để gãi và ngồi giữa đống tro. Vợ ông bảo ông: “Ôâng còn kiên quyết trong sự liêm khiết của ông nữa thôi. Hãy nguyền rủa Thiên Chúa rồi chết đi”. Nhưng ông bảo bà: “Bà nói như một mụ điên. Chúng ta nhận điều tốt lành từ Thiên Chúa, làm sao chúng ta lại không nhận  điều bất hạnh”? Trong tất cả các sự ấy, môi miệng Gióp không hề phạm lỗi” (G 2,7-10).

Sau những cơn thử thách cực kỳ gay go ấy, Thiên Chúa đã thưởng cho lòng trung thành của Gióp và ban tặng gấp đôi của cải: “Giavê đã chúc lành cho tình trạng mới của Gióp hơn cả tình trạng cũ. Ôâng có 14.000 chiên và 6000 lạc đà, 1000 cặp bò 1000 lừa cái. Ôâng được 7 trai và 3 gái… Sau đó, Gióp còn sống thêm 140 năm, và ông đã thấy con cái và cháu chắt mình đến bốn đời” (G 42,12-16).

3. Hai khuôn mặt, một lý tưởng.

Trước những thử thách cực kỳ gay go ấy, mỗi người một phương diện khác nhau, nhưng cả hai đều bị thử thách đến mức không thể tưởng tượng được, hầu như quá sức con người bình thường, nhưng cả hai ông đã gặp nhau được một điểm là  hai ông đã tuân phục thánh ý Chúa, tin tưởng phó thác hoàn toàn  vào sự khôn ngoan của Ngài, sống dưới sự hướng dẫn của Ngài, còn việc của Thiên Chúa thì để cho Ngài lo.

Cho nên, chúng ta thấy, thử thách cần cho con người để biết lòng trung thành và mức độ thánh thiện của họ như “lửa thử vàng, gian nan thử người công chính” (x. 1Pr 1,7). Trong Thánh Kinh còn ghi lại lòng tin của Abraham, Giuse, Maisen, Giosuê đã bị thử thách nhưng các ông đã thắng (x. Hđ 44,20; Dt 11,1-40; 1Mac 2,52). Nhưng những thử thách còn ghi lại những trang sử đầy đen tối khi chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh nói về thử thách mà Chúa muốn thử lòng nguyên tổ Adong Evà (x. St 3,1tt). Nhưng rồi chúng ta cũng lấy làm phấn khởi khi đọc đoạn Phúc âm thánh Luca nói về việc Chúa Giêsu bị đưa vào sa mạc và chịu ma quỉ cám dỗ… Chúa Giêsu đã thắng và đã đem lại cho chúng ta  một tấm gương sáng ngời (x. Lc 4,1tt).

III. KHUÔN MẶT TUÂN PHỤC CỦA CHÚNG TA

1. Ý nghĩa sự tuân phục.

Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự tuân phục hoàn toàn thánh ý Chúa và ta sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Người.

a) Trong kinh Lạy Cha.

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện, và kinh Lạy Cha là khuôn vàng thước ngọc cho sự cầu nguyện của ta. Trong các lời chúng ta cầu xin với Chúa, có một câu đáng để chúng ta lưu ý, nhất là trong bài suy niệm này: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta cầu nguyện để cho thánh ý của Chúa được thực hiện dưới đất là nơi lòng mọi người, nhất là nơi mỗi người chúng ta.

Mỗi người có một vật quí giá nhất đời và phải hy sinh của báu đó là cả một sự đau đớn cho ta. Abraham coi Isaac là của quí giá nhất đời nên khi phải giết con tế lễ Chúa, hẳn ông đã phải đau xót lắm. Đứa con quí nhất của chúng ta, có lẽ là ý riêng, và nếu phải bỏ ý riêng đi thì đó là cả một sự hy sinh lớn lao. Chúng ta hãy học gương bà thánh Giêtruđê, mỗi ngày đọc đi đọc lại câu than thở này tới 365 lần: “Xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi con”.

b) Từ bỏ sự tự do của mình.

Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên ao ước muốn sống hoàn thiện: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy đi bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo… rồi tới và theo Ta” (Mt 19,21), đó là lời khuyên khó nghèo của Phúc âm. Theo thánh Tôma Aquino, đó là lời khuyên vâng lời tự nguyện.

Theo Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ khước chính mình” (Mt 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể thực hiện được là hy sinh tự do của mình, thuận phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời.

Thực thế, “đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con người  trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể sử dụng và hưởng thụ những tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình. Cũng như con người từ bỏ của cải hay bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng; để làm cho họ ñöôïc tự chủ, họ cũng khước từ chính mình”. (Sống với Chúa, tập 3, tr 232-234)

c) Như lễ vật toàn thiêu.

Theo Thánh Kinh, lễ vật toàn thiêu  là một lễ vật hoàn hảo nhất đối với Do thái giáo. Trong nghi lễ này, người dâng hiến đích thân đem lễ vật tới bàn thờ. Lễ vật có thể là chiên, bê, bò… tùy gia cảnh, tùy trường hợp. Người dâng hiến đặt tay trên lễ vật, có ý ám chỉ lễ vật là tượng trưng tấm lòng chân thành của mình, sẽ hiến sự sống thay cho mình, đoạn cầm dao sát tế: máu đào lai láng chảy, rồi rảy chung quanh và trên mặt bàn thờ. Tiếp đó, tất cả lễ vật sẽ được thiêu tế thành hương khói xông lên trước tòa Thiên Chúa. Trong các lễ dâng khác, người ta còn được giữ lại một phần, nhưng ở đây phải thiêu tế hết, không được cắt xén, trừ lại, bớt lại một tí gì. Ngay cả tro của lễ vật cũng phải trộn với một thứ hương liệu làm thành hương thơm, đêm ngày nhả khói kỷ niệm trước tôn nhan Chúa.

Của lễ toàn thiêu mà chúng ta dâng tiến Chúa chính là ý riêng, ý chí tự do của ta. Đã dâng cho Chúa, ta không được quyền giữ lại một chút gì. Đó là dâng hiến hoàn toàn và vô điều kiện.

2. Tuân phục ý Chúa như thế nào?

a)   Như một dụng cụ.

Chúng ta là sản phẩm của Chúa dựng nên, cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa  dùng trong việc làm sáng danh Nước Người. Dụng cụ là gì? Là đồ dùng để làm một việc gì như chàng, đục, cưa để làm thợ mộc; máy may, kim chỉ dùng để may áo… Dụng cụ được coi như một phương tiện cần dùng để đi tới đích. Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới. Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra  hay chỉ nghĩ tới tác giả của nó.

Chúng ta là dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự sử dụng vô cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu tự chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói:

Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ (Ca dao)

Truyện: Tuân phục thánh ý Chúa.

Khi nói đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết:

Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau:

- Tại sao anh lại làm thế? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

Nhưng cây viết trả lời:

- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay  anh không còn là một tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người.

Cuộc đời chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người chúng ta  chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự. (Mạch nước trường sinh, tr 52)

Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường, những thành công tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta mà do Chúa, vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không  thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc thi sĩ rồi. Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những việc cao vì không có tài: đôi guốc không hề phàn nàn vì phải đi ở dưới chân, chiếc mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu người ta… ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền người sử dụng. Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng:

Khi hoàn tất việc phải làm
Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng:
Này con vô dụng muôn phần
Phần con, con đã thi hành mà thôi. (Lc 17,10)

b) Tin vào Chúa quan phòng.

Chúa đã dựng nên mọi sự trong trần gian này và Người hằng điều khiển mọi sự trong trí khôn ngoan vô cùng của Người. Chúng ta là con người thấp hèn làm sao có thể biết được những chương trình sâu nhiệm của Thiên Chúa ở trong vũ trụ được!  Hãy tin vào Chúa, và sống dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Người. Chúng ta hãy sống với Người như một đứa bé sống với gia đình, hoàn toàn phó thác tin tưởng.

Truyện: Lấy thứ kim cương nào?

Một vua kia muốn thử các con, xem ai khôn ngoan hơn, đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến, bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng một cặp mắt dịu hiền, rồi nói:

- Thưa cha, xin cha lựa chọn dùm con.

Vậy, vua cha chọn thứ kim cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn cách trọn vẹn hơn ữa. Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn, để vào trong hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần. Cuối cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng: Mai sau con út mình sẽ được nối ngôi làm vua. (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng 2, 1965, tr 37)

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có nhiều lúc phân vân không biết phải hành động ra sao cho khôn ngoan, làm thế nào lợi, thế nào hại. Chúng ta chỉ thấy cái việc lợi hại trước mắt, mà không biết cái lợi hại sau lưng, nhìn cái phúc là phúc tuyệt đối mà không biết cái họa đàng sau, và ngược  lại.

Người khôn ngoan thì  nhìn cái phúc và cái họa dưới một khía cạnh khác. Họ bảo: “Phúc hề họa chi sở phục, họa hề phúc chi sở ý”: phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc. Cũng như họ bảo: “Dương trung hữu âm căn, âm trung hữu dương căn”: Trong dương có gốc âm, trong âm có gốc dương. Họa phúc cũng như âm dương tương liên tương ứng không thể rời nhau mà đơn phương tồn tại.

Truyện: Ông lão mất ngựa.

Một ông lão có con ngựa hay, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:

- Mất ngựa, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?

Cách mấy tháng sau, con ngựa trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia mừng. Ông nói:

- Được nhiều ngựa hay, nhưng sao các ông biết  đó là phúc cho tôi?

Từ ngày có ngựa hay, con trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:

- Con tôi què, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?

Năm sau có giặc. Nhà vua bắt lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau. (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 257)

c) Sống lạc quan và phó thác.

Một khi đã biết sống tin vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv 131). Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.

Ta hãy nhận xét một bức thảm Ba tư. Nó mịn, đẹp, mầu sắc rực rỡ lắm? Nhưng hãy lật mặt trái nó ra mà xem: toàn là những sợi chỉ chi chít. Đời sống ta cũng thế. Ta chỉ trông thấy mặt trái thôi. Mặt phải tức là cái tư tưởng cao đều ở trong tay Chúa. Chính Chúa đã dệt tấm thảm đời sống ta, trí khôn chúng ta chỉ có hạn không hiểu được ý định của Người. Tư tưởng của Người không phải là của ta, đường lối Người  không phải là đường lối của ta (Tihamer Toth, Chí khi người thanh niên, tr 120).

Hằng ngày chúng ta được Chúa ban cho biết bao nhiêu sự may mắn, hạnh phúc…sao ta không biết nhìn nhận cái ấy để cảm ơn Chúa, mà chỉ chú ý nhìn  những cái bất hạnh để rồi buồn phiền than thân trách phận, và đôi lúc, còn dám có những ý tưởng phạm thượng! Đừng nhìn mặt trái của tấm thảm Ba tư, mà hãy nhìn mặt phải, ta sẽ thấy nó đẹp, đáng yêu.

Phần đông chúng ta thường quan niệm hạnh phúc là một cái gì khó tìm thấy. Khó đạt được và phải mua bằng một giá rất đắt, nhất là phải có rất nhiều tiền và thế lực. Có kẻ lại còn cho hạnh phúc không có trên cõi đời này. Có kẻ lại cho rằng hạnh phúc nếu muốn thực hiện trên cõi đời này, phải làm một cuộc đại cách mạng bằng xương máu… Sao mà quan trọng thế?

Kim Thánh Thán, trái lại, chứng minh cho ta thấy rằng không cần tìm đâu ra xa cả, nó quanh quẩn bên ta hằng giây hằng phút. Có cái sung sướng nào mà không nằm trên cái khổ. Sướng và khổ không bao giờ rời nhau. Muốn được sướng mà lánh khổ là việc làm vô lý. Vật chất là điều kiện của tinh thần, cho nên có cái sướng tinh thần nào mà không lệ thuộc vào vật chất? Có đói, ăn mới ngon! Ai mà không biết (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 129)!

3. Tuân phục Chúa trong sự gì?

Chúng ta không ngập ngừng mà thưa ngay rằng: phải tuân phục Chúa trong hết mọi sự vì chúng ta đã tận hiến cho Chúa trong đời tu trì rồi. Việc bước theo Chúa này – như thánh Tôma quan niệm – đòi hỏi hai điều kiện căn bản: từ khước và dâng hiến. Thế gian đã cung cấp cho khuynh hướng xấu của ta ba loại lương thực, theo thanh Gioan Tông đồ, đó là thèm muốn của xác thịt, thèm muốn của con mắt và kiêu ngạo của sự đỡi x. 1Ga 2). Và ở trong thế gian này, không có gì khác  cám dỗ con người phạm tội ngoài ba cái ma lực vừa kể. Thành thử, muốn trung thành với Thiên Chúa, tiên vàn phải dứt bỏ những đối tượng di dưỡng khuynh hướng tội lỗi vốn nằm vùng trong bản thân ta, bằng cách tuyệt tài, tuyệt sắc và tuyệt ý.

Như thế vẫn chưa đủ, người tu sĩ cần phải dâng hiến mọi giá trị chính đáng nhất ở đời: của cải trần gian, thân thể nguyên vẹn và ý chí toàn diện. Dâng như thế là dâng tất cả, có thể nói  đó là một lễ toàn thiêu, một hiến tế hoàn hảo. Ngoài ra, lời tuyên khấn còn thực hiện một sự bóc lột, một sự chuyển nhượng triệt đẻ quyền tư hữu. Một khi đã tuyên khấn thì thời giờ, tài sản, khả năng, sức khỏe, thân thể… của tu sĩ, không còn là của tu sĩ nữa, mà đã thuộc về Thiên Chúa. Từ nay tu sĩ phải chết cho thế gian, chết cho chính mình để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa, sống vì tha nhân. Tu sĩ là những người đã được tách biệt để chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ nhân loại.

Truyện: Gương của cha Pereyve

Cha Pereyve tưởng mình sẽ chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết: bệnh của tôi không biết  sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.

Lạy Chúa, Chúa biết con muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh ý Chúa muốn cho con làm việc khác: việc chết non, việc vui lòng đón nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả những gì tùy theo: ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự cũng chưa. (Trần công Hoán, Truyện hay 3, 1965, tr 54)

4. Trong hoàn cảnh thực tế của mỗi người.

Mỗi người có một thánh giá riêng hợp với sức mình, vì Chúa không bắt ai phải chịu thử thách quá sức chịu đựng. Chính Chúa đã trả lời cho thánh Phaolô khi ngài bị thử thách nặng nề: “Sufficit tibi gratia mea: ơn của ta đã đủ cho con (2Cr 12,9). Những thánh giá đó có thể là bệnh tật, làm ăn thất bại, hoàn cảnh gia đình, bởi những người chung quanh, những biến cố xẩy ra ngoài y muốn…

Nhưng dù sao, cũng cần phải có thánh giá, phải có hy sinh. Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Không có đổ máu, không có phần rỗi” (Dt 9,22). Lời sách Khôn ngoan cũng dạy ta như vậy:

“Con ơi, nếu con muốn được phụng sự Chúa, con hãy sẵn lòng chịu thử thách. Con hãy tạo lấy một tâm hồn ngay thẳng, võ trang bằng lòng can đảm, lúc gặp nghịch cảnh đừng nản chí. Con cứ bám chặt lấy Người, đừng rời xa, mới mong được cất nhắc lên trong ngày sau hết. Có xẩy đến sự gì, con cứ đón nhận đi và trong các cơn thăng trầm của thân phận con, con hãy tỏ ra kiên nhẫn, vì vàng cần phải thử trong lửa và người được chọn cần được thử trong lò lửa nhục nhã” (Kn 2,1-5).

Thử thách để tẩy luyện linh hồn và làm cho linh hồn được vững vàng trong đường nhân đức. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là người làm vườn khéo: cây hồng được “nương chiều” như thế cũng không thể nở hoa được… Người không muốn hy sinh, không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc được.

Chúng ta hãy xem gương thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ chẳng lớn lao gì, nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng  khai thác triệt để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta hãy nghe thánh nữ kể:

 “Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng  nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng sách”.

Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách  ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41)

Những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu đựng như Têrêsa Hài đồng!

Cha Sertillanges nói: “Hãy dùng những viên đá người ta ném mình để xây nhà cho mình”. Đúng thế, chung quanh ta có biết bao nhiêu người luôn tìm cách phê bình chỉ trích mà không ai giúp đỡ ta hành động tốt đẹp hơn, làm gì họ cũng chê, nói gì họ cũng bắt bẻ được. Nếu ta cứ ngồi thu nhặt những hòn đá người ta ném ta để ném lại họ, thì không bao giờ hết:

Chỉ đâu mà buộc ngang trời,

Tay đâu bụm miệng người đời thế gian.

Thê nên tốt hơn hết là biết dùng những hòn đá họ ném ta để xây dụng cho chính mình. Nếu là những vu khống cáo gian:  chúng sẽ làm tăng giá trị cho ta  trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới thấu hiểu suốt tâm trí, còn con người chỉ xét đoán theo cái họ trông thấy bên ngoài. Như thế, mọi sự đều có thể sinh ích lợi cho ta.

Truyện: Con hổ và lũ khỉ.

Người ta kể chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết  ngồi chờ thần chết đến…

Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành cây  ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.

Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: “Cái khó nó bó cái khôn”. Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta: cũng như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng nếu những hạt cát ấy  rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến thành một hạt ngọc trai quí giá. Đau khổ đi theo chúng ta như hình với bóng, không thể nào rời nó được. Nhưng có một cái lạ: nếu ta đuổi nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo. Chỉ còn có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ  thì đời ta mới sung sướng được.

KẾT LUẬN

Chúng ta đang mừng lễ Suy tôn Thánh giá Chúa. Chúng ta hãy suy ngắm sự thương khó Chúa để thông cảm với những sự thương khó của Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội cho chúng ta và toàn thể nhân loại. Đặc biệt chúng ta hãy suy ngắm đoạn Phúc âm  nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Cây Dầu để nhờ đó chúng ta thêm hăng hái theo Chúa trong bước đường tu trì, nhất là chúng ta biết quên mình đi để tuân phục thánh ý Chúa một cách trực tiếp hay qua trung gian. Chớ gì trong đời sống, ta luôn thưa được với Chúa trong mọi cảnh ngộ rằng: “Lạy Cha, xin theo ý Cha, đừng theo ý con” (Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).

Những đau khổ, những trái ý hằng ngày là những dịp tốt để chúng ta dâng cho Chúa nhiều hy sinh. Nếu chúng ta biết lợi dụng, những hy sinh nhỏ mọn ấy sẽ trở nên những viên ngọc đặt vào triều thiên cho chúng ta trên thiên đàng.

Truyện: Hạt trân châu.

Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã  cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật  vang lên mơ hồ:

- Hãy dừng bước lại.

Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ:

- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường.

Cả ba làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm:

- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.

Các kỵ mã lên đường rong duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba chàng kỵ mã thấy cái gì  lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít quá. (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)

Để kết thúc bài suy nieäm hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld để thề hứa với Chúa là sẽ luôn luôn tuân phục ý Ngài:

Lạy Cha, con phó trót con cho Cha,
Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.
Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.

Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài Cha tạo dựng:

Con chẳng muốn chi khác nữa, vì Cha là Chúa trời con.

Con phó trót linh hồn con trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của lòng con.

Vì con mến Cha, và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.

Lạy Cha, con phó trót mình con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của con.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9. Lễ Suy tôn Thánh giá


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá”. Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.

Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.

Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:

Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.

Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô”.

Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)

 -------------------------------

 

Suy Niệm 10. Bài học của Thánh Giá


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

A. LỊCH SỬ

Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và đem an táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến.

Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng bận bịu với việc Chúa sống lại. Mừng quá cho nên các ngài cũng chẳng ai còn để ý tới cây Thánh Giá của Chúa Giêsu.

Rồi sau đó với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Điều mà người ta quan tâm đến nhất trong thời kỳ này là xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu còn những di vật và kỷ niệm vật chất của Ngài, thì không ai để ý.

Mãi cho đến khi có nhiều người ở xa Đất Thánh đã tòng giáo và muốn hành hương đến những nơi Chúa đã sinh sống, thì lúc đó việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa mới trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh này mà người ta đã đi tìm cây Thập Giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên đó khi bị đóng đinh.

Và ngay lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật Thánh; thập giá trở thành Thánh Giá, và người ta suy tôn kính mến.

Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh Giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, để khám phá lại những giá trị quí giá cao cả của cây Thánh giá.

B. BÀI HỌC

1. Có thể nói bài học đẹp nhất mà cây Thánh Giá dạy cho chúng ta đó là bài học về lòng yêu thương.

Thường thì khi muốn biết được một ai đó là người như thế nào thì người ta có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của người đó ma đánh giá. Bởi vì trước khi chết, thường thì người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Rôma, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta thường cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe những tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài. Các tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài. Dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin. Chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nổi khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin Mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng yêu thương. Câu thứ nhất: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ (Lc 23,34); câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi” (Lc 23,43); và câu nói thứ ba: “Thưa Bà này là con Bà” (Ga 19,26).

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương, thì khôg có gì hết.

Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế.

2. Bài học thứ hai.

Sự chiến thắng của cây Thập Giá.

Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn xuống hải cảng được người Bồ Đào Nha xây cất đã bị trận bão làm đổ nát hoang tàn. Tuy nhiên, như một phép lạ, mặt tiền của ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn và cây Thánh Giá bằng đồng vẫn còn đứng vững. Khi ông John Browin toàn quyền Hồng Kông đến thăm viếng cảnh tượng, ông phải sửng sốt khi nhận ra điều đó. Tối hôm ấy, ông đã ghi lại những dòng sau đây: “Tôi được vinh dự trông thấy Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá vẫn đứng vững qua mọi đỗ vỡ của thời gian. Tất cả ánh sáng của lịch sử đều qui tụ nơi Thập Giá vinh quang”.

Đã gần hai ngàn năm qua, kể từ khi lính Rôma cưỡng bách Chúa Giêsu vác Thập giá đi xuyên qua những con đường chật hẹp ở Giêrusalem; cũng như khi Ngài bị vấp ngã, làm họ phải cưỡng bách một người qua đường vác đỡ Thánh Giá với Ngài, giúp Ngài tiến tới một nơi gọi là Núi sọ, thì từ lúc đó Thập Giá đã trở thành biểu tượng của một tôn giáo có hơn một tỷ rưỡi tín đồ: có mặt trên 220 xứ sở và lãnh thổ trên khắp mặt đất này.

Dựa theo những dữ kiện được ghi lại trong sách Tin Mừng, Bác sĩ Wiham Eswori tại bệnh viện Midio bên Hoa kỳ đã nghiên cứu về hình phạt Thập giá. Cuộc nghiên cứu đã cho ông thấy rằng người Rôma không phải là người đã phát minh ra hình phạt Thập giá đầu tiên. Thật ra tử hình Thập Giá đã được người Assiry đã dùng vào thế kỷ VII trước Công nguyên, nhưng người Rôma đã có công hoàn thiện nó để nó trở thành một hình thức tra tấn xử tử có sức tạo ra một cái chết chậm rãi đớn đau nhất. Thập giá chỉ dành để xử tử những người nô lệ ngoại quốc và những người dám chống lại đế quốc cũng như những người phạm trọng tội nơi các miền đất mà những người Roma cai trị. Luật Rôma thường bảo vệ những người công dân của họ khỏi bị hình phạt Thập giá.

Nạn nhân bị đóng đinh treo trên Thập giá thường chết vì nghẹt thở. Đây hẳn phải là cách xử tử dã man nhất trong nhân loại.

Thế nhưng, thật là kỳ diệu! Khi Chúa Giêsu nằm trên cây Thập Giá thì Ngài đã biến Thập giá thành biểu tượng tình yêu của Ngài đối với nhân loại.

Khi đón nhận Thập giá ấy, Chúa Giêsu đón nhận ý của Thiên Chúa Cha để thể hiện tình yêu của Người dành cho loài người. Chỉ có tình yêu mới có thể lý giải được ý nghĩa của sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng dành cho con người.

Như vậy suy tôn Thập giá không có nghĩa là đề cao một hình phạt hay vui thỏa một cách bệnh hoạn ở nơi những trong khổ đau Chúa phải chịu, mà chính là ca ngợi tình yêu của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thập giá không những tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn, mà nơi Thập giá chân lý về con người còn được tỏ bày một cách trong sáng nhất để rồi chính từ trên Thập giá mà Chúa đã đi đến chiến thắng oai hùng nhất. “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)

Thập giá là chân lý của chúng ta, Thập giá là lẽ khôn ngoan của chúng ta, Thập giá là lẽ sống của chúng ta, Thập giá là sức mạnh của chúng ta. Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta đi trên con đường Thập giá của Ngài. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11. Ba cuộc đời - ba cách chết


--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Thập giá trong đời


--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ở đời người ta vẫn thường nói: Tu là cõi phúc – tình là giây oan. Thực ra , cuộc đời nào cũng có thập giá. Thập giá như là lẽ sống của cuộc đời. Có thập giá thoáng qua và cũng có những thập giá liên lỉ dài lâu. Có thập giá nhẹ nhàng mà mình tự nguyện vác lấy nhưng cũng có thập giá nặng nề mà mình phải gánh giùm tha nhân. Có thập giá khiến ta mệt mỏi nhưng cũng có thập giá khiến ta vui mừng.

Xem ra thập giá là tất yếu trong cuộc sống. Con người không thể trốn chạy thập giá. Và dường như chúng ta vẫn khuyên bảo nhau hãy can đảm đón nhận vì là ý Chúa, vì là điều tốt cho mình và cho tha nhân.

Tôi đã nghe người ta an ủi một người mẹ có đứa con duy nhất đang bị ung thư, với lời lẽ hết sức phó thác: “Thiên Chúa yêu thương chị lắm cho nên Ngài mới gởi Thánh Gía để thử thách chị đấy!”

Hoặc gặp một người bạn đang bị thất nghiệp, nợ nần chồng chất, vợ bệnh, con đau. Chúng ta thường khích lệ họ: “Người càng giỏi thì Chúa lại càng gởi khó khăn để mình vượt qua. Thế nên đừng sợ!”

Khuyên người thì dễ nhưng bản thân khi phải đối diện với thập giá lại không dễ dàng. Vì thập giá là đau thương, là tủi hận, nên đâu dễ đón nhận. Đón nhận thập giá là chấp nhận từ khước sự an nhàn, hạnh phúc cho bản thân để sống cho Chúa và đồng loại. Đón nhận thập giá là đón nhận sự ô nhục, và khinh khi của đồng loại.

Có lẽ chúng ta vẫn nhớ hình ảnh Thầy Chúa Giêsu vác thập giá lên đỉnh đồi Calve và chấp nhận chết treo trên cây thập giá. Quả thật Thập giá là “một ô nhục đối với người Do thái và; là điều điên rồ đối với dân ngoại giáo” (1Cr 1,23).

Thế mà Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vác lấy cái ô nhục đó! Vì đối với Thiên Chúa đó là dấu chỉ của sự chiến thắng “vì qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Và thập giá đối với Chúa còn có giá trị cứu độ vì “khi nào Ta bị giương cao lên, Ta sẽ kéo mọi người lên”.

Có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: “Thiên Chúa gửi thập giá hay thử thách đến cho tôi để làm gì vậy?”. Điều này chúng ta cũng phải hỏi: “Tại sao người ta cứ phải trải qua những kỳ thi, những cuộc trắc nghiệm, khảo hạch,… rồi mới lãnh được bằng tốt nghiệp trung học, đại học, mới được công nhận là bác sĩ, giáo sư, luật sư?”

Như vậy, thập giá là nhịp cầu để cho ta tiến lên và chắc chắn sẽ trưởng thành hơn khi vượt qua thập giá. Hơn nữa, thập giá còn cho ta được thông phần vào sự thương khó của Chúa để cứu độ bản thân và anh em. Khi chúng ta đón nhận thập giá trong đời là dịp để chúng ta dâng đau khổ hầu xin Chúa tha thứ những hình phạt cho bản thân chúng ta. Và dâng hy sinh đau khổ để xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ giáng xuống địa cầu vì tội lỗi nhân loại. Như vậy, chúng ta đón nhận thập giá là vì Chúa và vì nhân loại. Và phải có cái nhìn như vậy chúng ta mới có thể vui vẻ lạc quan ngay cả khi khốn khó tư bề.

Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta yêu mến người bên cạnh, người đồng hành luôn gây gỗ với chúng ta, có khi còn luôn thù ghét chúng ta?

Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta hy sinh chu toàn bổn phận hằng ngày để đem lại hạnh phúc cho gia đình?

Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta có thể đón nhận biết bao nghịch cảnh trái ngang đến với chúng ta như: bệnh tật, hiểu lầm, già yếu, ganh ghét, chê bai. . .

Mỗi người đều có thánh giá phải mang. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ trao thánh giá vượt khả năng của chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy tin tưởng đón nhận mọi khó khăn vì Chúa, nhất là hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để vượt qua.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn tìm ra ý Chúa trong cuộc sống và đón nhận theo thánh ý cho dù có vì đó mà phải vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 13. Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.

Cử Hành Với Niềm Vui

Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).

Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.

Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.

Câu chuyện tình yêu

Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy." (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).

Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên".

Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: "Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội." Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn," hiện thân của tội lỗi", đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).

Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 14. Suy tôn Thánh Giá


--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

 – Radio Veritas Asia

Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.

Để giúp các tín hữu trong giáo xứ về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?

Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.

Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.

Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?

Lạy Chúa,

Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 15. Suy tôn Thánh Giá


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cô Ann Thomas có kể lại câu chuyện ý nghĩa.

Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:

– Có đồ gì đáng giá không?

Ann trả lời:

– Không, toàn là đồ năm vố thôi.

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ han rỉ và nói:

– Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:

– Con sao vậy?

Bobby nói:

– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

******

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

Thập giá là gì?

Thập giá (tức là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu) là khúc xương khó nuốt nhất đối với các môn đệ. Ba lần Chúa báo trước cuộc tử nạn. Cả ba lần họ đều không hiểu và không chấp nhận. Các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà. Thập giá gợi lên một cây khổ giá trần trụi. Thập giá gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn, nhục nhã nỗi ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, hấp hối giữa sống và chết, bị nhiếc mắng trước những cái nhìn thù ghét và khinh khi, bị chê bai trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Phêrô đã từng run rẩy can ngăn Chúa Giêsu đừng đi vào con đường thập giá. Các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.

Những lời dạy của Chúa Giêsu sau ba lần loan báo cuộc khổ nạn giải thích ý nghĩa của tình yêu Thánh Giá.

– Lần thứ nhất, Chúa phán: ” Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).

– Lần thứ hai, Chúa dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,34).

– Lần thứ ba, Chúa dạy: “Con Người đến không phải để cho người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mc 10,45).

Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.

Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.

Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại. Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:

– “Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)

– Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)

– Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)

– Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)

– Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).

– Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).

– Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).

– Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).

Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:

– Vì năm vết thương
– Chí thánh và vinh hiển.
– Xin Chúa Kitô
– Gìn giữ
– Và bảo vệ chúng ta.” (Sách Lễ Roma).

Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.

Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: “Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ”. Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới”. Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).

Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.

Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo: “Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông”. Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.

Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.

Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.

-------------------------------

 

Suy Niệm 16. Học yêu Thánh Giá


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.

Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.

Thánh Giá là chữ T.

Người nằm giang tay chữ Y.

Là tình yêu, yêu đến tận cùng.

Yêu nhân gian chiều ngang.

Yêu đời mình chiều sâu.

Yêu Chúa là chiều cao.

Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.

Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).

Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.

Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.

Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.

Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.

Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.

Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá, Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất: Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 17. Suy Tôn Thánh Giá


-- Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cái chết của Chúa Giêsu theo con mắt người đời, nhất là đối với người Do Thái lúc đó là một sự thất bại, một sự dại dột vì trước thách thức của người Do Thái:” Nếu hắn là Ðấng Kitô, là vua Israen, hắn cứ việc bước xuống khỏi thập giá ngay bây giờ cho ta thấy rồi ta tin ” (Mc 15, 32).

Chúa Giêsu vẫn một mực im lặng. Sự lặng thinh của Chúa thật khó hiểu vì Ngài chấp nhận ý Cha để cứu chuộc nhân loại qua cái chết thập giá . Chết là lời nói cuối cùng diễn tả tình yêu tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với thế giới, đối với mọi người. Chết mới nói lên lời:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).Thập giá là hình phạt vô cùng bỉ ổi và ác độc của người Do Thái và La Mã đối với con người, đối với tội nhân.Thập giá theo nhãn giới người thường là một thất bại ê chề,một thảm họa của con người mang nhãn hiệu”tội nhân”bị kết án tử hình. Nhưng thập giá là mầu nhiệm tình thương,muôn đời con người có lòng tin vẫn suy phục tôn kính thánh giá. Thánh giá là nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ, là cuốn sách giá trị nhất trong mọi cuốn sách vì nơi đó con người tìm được sự an bình và hạnh phúc, con người tìm được niềm vui và ơn giải thoát khỏi tội lỗi.

Nguồn gốc ngày lễ suy tôn thánh giá

Sách ghi lại rằng thánh Hélène, mẹ của vua Constantin,đã để lại một tượng thánh giá trong thành thánh Giêrusalem dưới thời hoàng đế Hérachius I.Người Ba Tư vào thời gian đó đã tiến chiếm Giêrusalem và lấy đi một phần chính của thánh giá thật mà thánh Hélène đã dâng cúng tại thành thánh Giêrusalem.Vua Hérachius I nhất quyết lấy lại thánh giá này. Vua ăn chay,cầu nguyện,kêu gọi dân chúng hối cải, ăn năn sám hối, ăn chay,cầu nguyện để xin chúa thương giúp đỡ, bảo vệ,hun đúc tinh thần quả cảm,can đảm để chiến thắng quân Ba Tư, hầu thánh giá thật được dựng lại trong thành thánh Giêrusalem. Lời cầu nguyện của vua Hérachius I và toàn dân đã được Chúa thương nhậm lời. Vua và quan quân đã đánh bại,chiến thắng quân Ba Tư và trở về Constantinople trong tiếng reo hò,hoan ca vang dội của toàn dân.Dân chúng cầm cành ô liu trong tay,và cầm những ngọn đuốc cháy sáng cung nghinh thánh giá thật đã được tái chiếm lại trong tay quân Ba Tư với niềm vui tràn trề. Hoàng đế Hérachius I sung sướng không kể xiết, muốn trở vể Giêrusalem ngay sau 14 năm thánh giá thật bị lưu lạc nơi quân Ba Tư. Nhà vua tiến vào thành thánh,nhưng trước khi bước lên núi Sọ, nhà vua không thể nào bước đi được khiến mọi người âu lo và sợ sệt . Trước sự lạ ấy,Giáo Trưởng Zacharie hô lớn:” Tâu Ðức Vua,chắc chắn phẩm phục sang trọng mà Ðức Vua đang mặc không xứng với sự khó nghèo và khiêm tốn mà Chúa Giêsu xưa đã thực hiện khi vác thập giá “.Nhà vua nghe lời vị Giáo Trưởng kêu mời và vội cởi bỏ phẩm phục sang trọng,lộng lẫy mà vua đang mặc để khoác vào người bằng bộ quần áo khó nghèo.Tức thì,vua bước đi được một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân và để chứng tỏ tình thương bao la vô biên của Chúa, Chúa đã làm vô vàn phép lạ trong ngày kỷ niệm đáng ghi nhớ đó. Giáo Hội đã lập thánh lễ suy tôn thánh giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố lớn lao,lạ lùng và đáng ghi nhớ này.

Thánh giá luôn là thách đố cho con người

Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỉ, đã từ chối mưu kế của satan,quỉ dữ .Ngài đã ngước mắt lên trời,thưa với Chúa cha rằng:” Lạy Cha con xin phó linh hồn trong tay Cha “( Lc 23,45 ).Chúa Giêsu đã tín thác tất cả sinh mạng của Ngài trong tay Chúa Cha để Cha lo toan và định liệu. Chính Chúa Cha đã làm cho Chúa Giêsu sống lại để cai trị,điều khiển mọi sự trên trời dưới đất ( Mt 28, 18 ).Chúa Giêsu đã phục sinh để làm cho con người có sự sống mới, sự sống vĩnh cửu. Thập giá luôn là thách đố cho con người, nhưng ơn cứu độ chỉ có được nơi thập giá vì chính nơi Chúa Giêsu, ơn cứu độ chứa chan nơi Người .

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mến yêu thánh giá vì cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho chúng con.

Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn làm chứng cho tình thương vô biên của Chúa.

Xin cho chúng con luôn biết giới thiệu thánh giá cho mọi người vì có kinh qua sự đau khổ thập giá như Chúa, chúng con mới được vinh quang.

-------------------------------

 

Suy Niệm 18. Thập giá vinh quang


--hoidongxitothanhgia

--Mai Thi

Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém... nhưng Cây Trường Sinh đó chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.

Đối diện với thập giá Đức Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta "im tiếng đi mà cung kính" mà chúng ta còn bị lôi cuốn bởi sự thinh lặng của chính thập giá chúng ta chiêm ngắm. Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém... nhưng "Cây Trường Sinh đó" chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.

Thập giá: mầu nhiệm của sự thinh lặng.

Suốt cuộc hành hình: bị tra tấn, vác thập giá, chịu đóng đinh và cho đến lúc chết trên thập giá, Đức Giêsu hầu như im lặng. Ngoài 7 lời ngắn gọn cuối cùng rút ra từ các sách Tin mừng, chúng ta không biết thêm câu nói nào khác của Đức Giêsu. Vậy sự im lặng của Ngài hẳn có lý do, có ý nghĩa....

- Thứ nhất, sự thinh lặng của Đức Giêsu là tiếng vâng tuyệt đối trong kế hoạch cứu độ của Chúa Cha.

Mặc dù bị xử oan, chịu đau đớn trong thân xác, mặc dù đau khổ tủi nhục vì bị mắng nhiếc phỉ nhổ, bị môn đệ bội phản và cô đơn nhưng... Đức Giêsu vẫn không một tiếng than trách, kêu la. Phải chăng Đức Giêsu chẳng còn nghe, hay vô cảm trước tiếng la ó, lời thách thức hay khiêu khích của nhóm người đã đóng đinh Ngài? "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Israel! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! (Mt 27, 42).

- Thứ hai, sự im lặng của thập giá Đức Giêsu cũng là một loại ngôn ngữ. Nơi Thập giá, Thiên Chúa nói tất cả, Ngài nói bằng sự im lặng. Sự thinh lặng của Thập giá diễn tả sự kết hợp khắng khít, sâu đậm giữa Đức Giêsu với Cha.

Với sự thinh lặng của thập giá, chúng ta cũng được mời gọi đọc ra sứ điệp của Đức Giêsu đối với chúng ta. Quả thật, trong thinh lặng, chúng ta mới dễ dàng sống con người thật của mình và cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Thiên Chúa nơi dung mạo của Đức Giêsu. Và chỉ trong cái nhìn ấy, chúng ta mới nghe được chính tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa. 

Thập giá Đức Giêsu: tình yêu đến cùng.

Trong thinh lặng của thập giá, sự hùng biện của tình yêu sống động của Thiên Chúa lên tiếng (x. Phụng vụ các giờ kinh, giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần Thánh): "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu".

Thánh Gioan tông đồ đã tóm tắt nội dung cốt lõi của đạo Kitô giáo trong một câu thật ngắn gọn nhưng vô cùng quan trọng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thiên Chúa yêu chúng ta và tình yêu đó không bao giờ ngưng hay suy giảm. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là tình yêu nhưng không, vô biên giới và cho đến cùng. Tình yêu đó thể hiện trọn vẹn nơi thập giá Đức Giêsu Kitô.

Thập giá Đức Giêsu không chỉ mạc khải về tội lỗi của con người, mà còn tỏa chiếu ánh sáng của Tình yêu. Cái chêt của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu lộ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Thập giá của Đức Kitô nói cho nhân loại biết rằng, Thập giá là lời đáp trả của Thiên Chúa đối với sự dữ của thế gian, đó cũng là dấu chỉ của tình yêu, của lòng từ bi và tha thứ. Xét dưới góc độ đó, thập giá Đức Giêsu không phải là thất bại, trái lại là một chiến thắng vinh quang.

Vinh quang của thập giá.

Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá xét theo người đời là một thảm bại, một sự ngu dại, một cớ vấp phạm... nhưng "thập giá đã nở hoa". Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta, chính qua cây thập giá, Thiên Chúa đã chiến thắng. Vinh quang đã thuộc về Thiên Chúa và ơn cứu độ đã hoàn thành đúng như lời Ngài đã hứa trước: "Khi nào Ta được treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta". Sự chiến thắng của thập giá cũng không theo cách hiểu của người ta mà là chiến thắng sự chết và chiến thắng tội lỗi.

Đối với những kẻ tin, thập giá mới có lý do hiện hữu. Thánh Phaolô đã chẳng xác định: “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Ngài” (1Cr 1,27-29).

Tóm lại: vinh quang của Thiên Chúa là thập giá, giây phút huy hoàng và thành công nhất là lúc Ngài giương cao lên và giơ đôi tay ôm trọn nhân loại. Khi treo lên cây thập tự, Đức Giêsu không chỉ còn là “vua dân Dothái” nhưng là vua của tất cả vũ trụ và nhân loại cho đến muôn đời. Ngài làm tất cả vì chúng ta, cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Lời yêu thương và hành vi trao ban tình yêu cho đến cùng của Ngài vẫn trào trào trong đời chúng ta nhưng đôi khi được thể hiện qua mầu nhiệm của sự thinh lặng. Vì thế chúng ta khiêm tốn xin Chúa giúp chúng ta "đọc" ra thánh ý Thiên Chúa mỗi khi chiêm ngắm Thập giá Đức Kitô.

-------------------------------

 

Suy Niệm 19. Làm thế nào để việc suy tôn Thánh Giá trở nên hữu hiệu?


--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là biểu hiệu (logo) của Thiên Chúa giáo, cũng như chữ Phạn của Phật giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Những biểu tượng này được những người theo tôn giáo hay học thuyết đó quí trọng và đề cao, điều đó cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng người Công Giáo suy tôn Thánh Giá, tôn thờ Thánh Giá, chắc hẳn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải tôn thờ đau khổ và chết chóc, cũng chẳng phải tôn thờ một báu vật gợi nhớ một kỷ niệm xa xưa. Thập giá, mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ, nói lên trọn vẹn niềm tin của họ và là niềm hy vọng duy nhất họ có. Tại sao vậy?

Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Đúng là toàn bộ cuộc sống của Đức Giê-su nơi dương thế là để nói lên có một điều mà nhân loại chưa từng bao giờ được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Tuy nhiên thập giá còn nói lên một điều khác còn sâu xa hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ đã chết cho chính nhân loại tội lỗi; “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13), “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Suy tôn Thánh Giá là suy tôn một tình yêu vĩ đại. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn đồng treo trên cây gậy, nói lên tình yêu trung thành của Đức Chúa Gia-vê đối với dân riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch (không may là điều này đã bị họ lãng quên không biết từ đời nào rồi), thì người Công Giáo sẽ không ngừng đề cao Thánh Giá là vì vậy.

Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn ơn cứu độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ hiểu ơn cứu độ được Thiên Chúa ban nhưng không cho con người, chứ không do bất kỳ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là thân mẫu Ma-ri-a đứng chết lặng dưới chân thập giá, người thứ hai (theo truyền thuyết lâu đời của Giáo Hội) chính là Ma-ri-a Mác-da-la ôm lấy chân thập giá… Sau đó là các môn đệ Gio-an và Phê-rô v.v…; mỗi người một kiểu, họ đều biểu dương thập giá như nguồn ơn cứu độ và niềm hy vọng duy nhất của mình. Họ suy tôn Thánh Giá trong cảm nhận con người thấp hèn và tội lỗi, và chính thập giá lúc đó làm cho niềm hy vọng của họ bừng sáng lên.

Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới: yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù (Lc 6:27-35) yêu thương như Thầy đã yêu thương (Ga 13:3-35). Họ biết rằng Thập giá là con đường hoàn thiện, không phải vì thập giá làm cho họ nên tốt hơn, giảm bớt phạm tội, cho bằng vì càng vào sâu trong thập giá – hay càng suy tôn thập giá với cả tâm hồn – cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân hậu giống Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Qua suy tôn Thánh Giá, họ đi sâu vào một Thiên Chúa tha thứ, để càng dễ tha thứ; đề cao một Thiên Chúa không lên án, để họ càng không lên án những người anh em lỗi phạm; tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng không dám xét đoán những người anh em sống quanh mình (Lc 6:36-37). Đúng là không suy tôn Thánh Giá tôi không thể đạt tới sự thánh thiện đó như đức Giê-su mong muốn.

Giáo Hội luôn coi việc suy tôn Thánh Giá và cử hành Thánh Thể là trung tâm điểm của đời Ki-tô hữu; và điều đó thật là chí lý. Nhưng luôn có nguy cơ là tôi có khuynh hướng hạ thấp việc suy tôn đó xuống tầm một việc đạo đức mà thôi. Suy tôn Thánh Giá là một tuyên xưng niềm tin – cậy – mến thâm sâu nhất, và cần được biểu lộ hữu hình dưới hinh thức bí tích của cử hành Thánh Thể, rồi sau đó bằng chính đời sống hiện sinh của tôi trong cuộc sống thường nhật.

Tôi có thực thâm tín điều đó không?

Lạy Chúa Ki-tô thập giá! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Ma-ri-a hay thánh Gio-an, nhưng cũng nhiều khi con lại dễ suy tôn như Mác-đa-la hay Phê-rô hơn. Dầu với biểu hiện nào đi nữa, xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận ơn cứu độ, và trong nếp sống hiền hòa với hết mọi người. A-men.

-------------------------------

 

Suy Niệm 20. Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ


--Lm. Anthony Trung Thành

Đời là thung lũng nước mắt. Đời là bể khổ. Khổ thể xác. Khổ tinh thần. Đứng trước đau khổ, người ta thường than van, tuyệt vọng và thậm chí tìm đến cái chết. Họ tự tử bằng nhiều hình thức khác nhau: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy lầu, nhảy cầu…Vì sao? Vì người ta không giải thích nổi về vấn đề đau khổ.

Lẽ nào con người phải bế tắc trước đau khổ hay sao? Không, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời thoả đáng. Ngài cho biết qua đau khổ mới tới vinh quang: “ Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại’‘ (Mc 8,31). « Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời’‘ (Ga 3, 13-14).

Như vậy, đau khổ như là điều kiện để Chúa Giêsu bước vào vinh quang phục sinh. Đau khổ như là thành phần không thể thiếu đối với Chúa và đối với những người theo Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề đau khổ, nhất là để biến đau khổ thành vinh quang, trong ngày lễ Suy tôn Thánh hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ.

Nguyên nhân đau khổ:

Có nhiều nguyên nhân gây nên đau khổ, xin được đơn cử một số nguyên nhân sau đây:

Đau khổ do tội: Sau khi phạm tội, Thiên Chúa đã cho Adong biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất» (St 3,17-19). Như vậy, phải làm việc cực nhọc và phải chết là do hậu quả của tội. Khi chọn tội con người chọn luôn sự đau khổ và cái chết.

Đau khổ do chính con người gây nên cho mình: Con người có quyền tự do chọn lựa. Có những chọn lựa đi liền với hạnh phúc, nhưng có những chọn lựa dẫn đến đau khổ. Một sự thiếu tiết độ, một tập quán xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hỏng một bộ phận, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, gây ra tai nạn, cắt đi một chi thể. Nghiện thuốc lá gây nên các bệnh như: rụng tóc, đục thủy tinh thể, da nhăn, giảm thính lực, sâu răng, ung thư da, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, loãng xương, bệnh tim mạch, vàng móng tay, ung thư phổi v.v. Uống rượu bia nhiều ảnh hưởng đến não bộ, cơ tim, tác hại với dạ dày, gan, ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp…Đó là những đau khổ do con người tự chuốc lấy cho mình.

Đau khổ do chính con người gây nên cho nhau: Con người sống là sống với. Không ai là một hòn đảo. Khi sống liên đới với nhau sẽ đem lại nhiều lợi ích, nhưng cũng có thể gây đau khổ cho nhau. Vì lòng tham và ích kỷ, không giữ đức công bằng, tình huynh đệ nên con người thường làm hại nhau: Ghen ghét, giết chóc, đàn áp, bóc lột, hận thù, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập…chúng ta thấy rất rõ điều này trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội.

Đau khổ có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán…gây ra biết bao đau khổ cho con người. Nên biết rằng: Thiên Chúa dựng nên con người với các vật khác, tất cả đều có quy luật của nó. Nếu không theo quy luật đó sẽ gây nên tai nạn, gây đau khổ cho con người. Ví dụ: Chiếc ôtô mất thăng bằng thì trúc, máy bay thì rơi, một vật không bám vứu được vào đâu thì rơi theo định luật vạn vật hấp dẫn và có thể làm bị thương người nào đi qua. Có những khuyết điểm hay những bất toàn của vũ trụ có thể gây đau khổ cho con người, nhưng chính chúng lại làm sáng tỏ sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Và nếu so sánh thì những bất toàn và khiếm khuyết là không đáng kể đối với sự vận hành điều hoà nhịp nhàng của bộ máy vĩ đại, phức tạp và tinh vi của vũ trụ.

Ý nghĩa của đau khổ:

Đau khổ do nhiều nguyên nhân, nhưng nếu biết lợi dụng thì nó sẽ đem cho con người nhiều ý nghĩa và lợi ích khác nhau:

Đau khổ chính là điều kiện cho sự sống: Đau khổ là tiếng chuông báo hiệu nhu cầu: dạ dày không đói thì làm sao biết để ăn, không ăn sẽ chết. Đau khổ báo động cho con người biết có nguy hiểm. Ta biết các cơ quan trong cơ thể đau để chữa trị. Biết đau ruột thừa để cắt bỏ. Biết bị ung nhọt để mổ. Biết một chi thể nhiệm trùng để chữa trị, thậm chí phải loại trừ khỏi cơ thể. Gần lửa chúng ta thấy nóng để tránh. Chân dậm phải vật nhọn thấy đau để biết cứu chữa…

Đau khổ là thầy dạy bác ái: Những người không gặp đau khổ, không biết nói về đau khổ, không hiểu và thông cảm cho người đau khổ. Còn những ai đã trải qua đau khổ thường hiểu người khác hơn, nên sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta nghe lời chia sẻ trước khi ra đi của một bác sĩ bị ung thư  sau đây: “Cảm giác khủng khiếp! Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi! Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất…”

Đau khổ là thước đo niềm tin của con người: Thiên Chúa thường cho phép có thử thách để làm ích cho ta. Theo bản tính tự nhiên, không ai muốn đau khổ, thậm chí còn tìm cách để tránh đau khổ. Chúng ta có thể phàn nàn, kêu trách, khóc lóc khi gặp đau khổ giống như trẻ con khóc khi bác sỹ tiêm phòng. Nhưng, sau này khi lớn lên, nó hiểu bác sỹ làm thế là có lợi cho nó. Cũng vậy, thỉnh thoảng Thiên Chúa để ta gặp đau khổ, thử thách để tôi luyện ta, giúp ta có đức tin mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa đã từng dùng đau khổ để thử thách con người. Kinh thánh cho chúng ta thấy: Thiên Chúa thử thách ông Tôbia. Thiên Chúa thử thách ông Gióp. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy: biết bao nhiêu vị thánh, nhất là các thánh Tử đạo đã chứng tỏ niềm tin của mình khi trải qua đau khổ.

Đau khổ là thầy dạy khiêm nhường: Khi con người đạt được những gì mình có. Trở nên kiêu ngạo. Tưởng rằng mình làm được mọi sự, mình vạn năng. Sự đau khổ nhắc cho con người nhận ra rằng mình chỉ là tạo vật, có giới hạn, phải chết. Nhờ đó, con người sống khiêm nhường hơn.

Đau khổ là thầy dạy sự siêu thoát: Con người thường bám vào của cải vật chất, những thứ mau qua. Sự đau khổ, bệnh tật, cái chết nhắc nhở con người sẵn sàng dứt bỏ mọi sự để đặt niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.

Đau khổ để làm vinh danh Chúa:

Khi nghe tin ông Lazarô bị đau nặng, Chúa Giêsu đã nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11,4) Và khi người Do thái hỏi Chúa Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3)

Như vậy, con người là học trò, đau khổ là thầy dạy. Đau khổ thực sự có ích cho con người biết lợi dụng nó. Đau khổ không những làm phương thế tinh luyện và thánh hoá con người mà còn để làm vinh danh Thiên Chúa.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được.

Câu chuyện nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: Chúng ta không thể diệt trừ đau khổ, nhưng có thể góp phần làm giảm bớt đau khổ bằng sức mạnh của yêu thương, công bình, bác ái, cảm thông…Ta không thể diệt trừ được đau khổ, nhưng có thể thắng được nó bằng cách chấp nhận mọi gian khổ thử thách để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15). Chúa còn mời gọi “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).  Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta không tránh né đau khổ, nhưng đối diện với nó để biến nó thành phương thế cứu rỗi chúng ta và toàn thế giới. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 21. Lễ suy tôn Thánh Giá


--Lm. Antôn

Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa.  Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”

Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn.  Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm.  Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất.  Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.”  Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”

Ông bà anh chị em thân mến.  Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô, và được mời gọi suy niệm mầu nhiệm Thánh Giá Chúa Kitô trong đời sống đức tin của chúng ta.  Trước hết, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu nhắc nhở và bảo ông Ni-cô-đê-mô và tất cả mọi người chúng ta phải có một niềm tin mạnh mẽ và sâu sa.  Chúng ta phải tin vào chính Chúa, là Con Thiên Chúa, và phải tin một cách vững mạnh vào Thiên Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Ngài.  Chúa Cha, vì tình thương yêu bao la và vô bờ bến, đã ban Con Một của Ngài xuống trần, để cứu chuộc nhân loại và ban cho chúng ta sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu.  Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã khiêm nhường và vâng lời hy sinh mạng sống chết một cách nhục nhã trên thập giá, biến cây thập giá trở thành Thánh giá ban ơn cứu độ và đời sống vĩnh cửu cho nhân loại. Chúa Giê-su đã giải thích với Ni-cô-đê-mô rằng Con Người phải được treo lên như Môi-sen đã treo rắn đồng lên trong sa mạc, để những ai tin vào chính Người thì được sự sống đời đời.

Thật vậy, bài đọc một hôm nay kể lại việc Thiên Chúa trừng phạt dân Do thái chóng quên phép lạ to lớn, Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai-cập, và họ đã phạm tội kêu trách Chúa và Mô-sê khi họ gặp những khó khăn trở ngại trong hoang mạc.  Vì thế, Thiên Chúa đã phạt cho rắn độc cắn chết nhiều người.  Nhưng sau đó, họ đã ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã phán cùng Môi-sen: “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo trên giá. Nếu ai đã bị cắn mà nhìn lên nó thì sẽ được sống.”  Vâng lời Thiên Chúa, Môi-sen làm một con rắn đồng và treo lên một cái giá. Bất kỳ ai đã bị cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống.

Ông bà anh chị em thân mến. Thật vậy, rắn đồng là biểu tượng của Chúa Giê-su Kitô bị đóng đinh và chết trên Thánh Giá, để tất cả những ai nhìn lên và tin vào Người thì sẽ được ơn cứu độ và có sự sống vĩnh cửu.  Vì vậy, Thánh Giá Chúa Ki-tô trở nên hồng ân và dấu chứng tình yêu cao cả nhất của Thiên Chúa dành cho con người nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta, “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Chúng ta nhận thấy, thập giá, từ một khí cụ ghê gớm, tàn ác nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành Thánh Giá, dấu chứng tình yêu vâng phục của Người và cũng là hồng ân tình yêu dâng hiến cho nhân loại.  Và cũng trong tình yêu này, Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta hãy vác Thánh giá của mình đi theo Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta phải ý thức và phải biết phân biệt giữa đau khổ và Thánh Giá.  Là con người, tất nhiên mọi người chúng ta đều có những đau khổ phần xác và tinh thần như bệnh tật, tai nạn hay những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.  Là những người có đức tin, chúng ta nhận thấy trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng có nhiều Thánh Giá và Thánh Giá hiện diện qua nhiều cách. Thánh giá trong đời sống Ki-tô hữu là những sự hy sinh và quên mình để phục vụ Chúa và tha nhân.  Thánh giá là những sự thiệt thòi và đau khổ vì đạo, vì Chúa và vì Tin mừng.  Thánh Giá là tuân theo, sống hay thực hành lời Chúa dạy.  Thánh Giá là có lòng bác ái và quảng đại vì yêu mến và lòng mong ước làm sáng danh Chúa.  Chỉ những Thánh Giá này mới đem lại cho chúng ta và cho tha nhân ơn sủng tình yêu của Chúa và đời sống vĩnh cửu mà thôi.  Khi đối diện hay gặp những Thánh Giá này, chúng ta hãy nhớ chính Chúa Giê-su cũng đã vác và chết trên Thánh giá, để đem tình yêu, ơn cứu rỗi và đời sống vĩnh cửu đến cho chúng ta và nhân loại. Tất cả chúng ta có tự do vác hay không vác Thánh Giá Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến.  Suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su là chúng ta suy tôn tình yêu cao vời của Chúa, cũng như cảm tạ ơn cứu độ và hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu của Chúa cho chúng ta.  Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin, để chúng ta can đảm và vui mừng vác Thánh Giá Chúa trong đời sống, để được kết hợp trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của đau khổ, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa cao cả hơn: đó là tình yêu cao vời củaThiên Chúa. Chúng ta cầu xin và luôn tin tưởng Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta vác Thánh Giá Chúa trong sự bình an với một niềm tin vững chắc Thánh giá sẽ đem tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu.

-------------------------------

 

Suy Niệm 22. Lễ suy tôn Thánh Giá


--Lm. Trần Bình Trọng

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Ðàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Ðấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Ðức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).

Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Ðức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).

Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Ðức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Ðó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.

Người Kitô giáo không thể tin vào Ðức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Ðức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Ðối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.

Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.

Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.

Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.

Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:

Lậy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 23. Chiêm ngắm tình yêu


--JB. Lê Đình Nam

Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm. Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.

Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người. Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.

Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người. Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.

Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.

Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.

Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.

Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu. Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu. Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.

Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu. Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.

Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt. Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.

Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị. Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng. Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết. Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại. Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đỗ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu. Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.

Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người. Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người. Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.

Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày. Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.

Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau. Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống. Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.

-------------------------------

 

Suy Niệm 24. Chân dung của lòng thương xót


--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Dân Chúa kinh nghiệm về tội của mình đối với Đức Chúa trong dòng lịch sử, và những suy tư về kinh nghiệm này đã làm cho Dân Chúa khám phá bản chất của tội. Suy tư này được trình bày bằng ngôn ngữ biểu tượng trong trình thuật St 2-3, mặc khải cho chúng ta bản chất hay yếu tính của tội, nghĩa là cái có mặt trong mọi thứ tội. Và mọi tội đều tự nó có “nọc độc” gây chết chóc cho mình và cho người khác.

Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Ki-tô (Ga 3, 14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12, 7-10). Các trình thuật này nêu ra cho chúng ta ba câu hỏi:

– Tại sao lại là rắn?

– Tại sao Con Người cũng sẽ phải được giương cao, như con rắn đồng trong sa mạc?

– Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?

1. Tại sao lại là con rắn?

a. Nghi ngờ Thiên Chúa

Đi trong sa mạc trong một thời gian dài, thiếu ăn thiếu uống. Đó là một thử thách rất thật và rất lớn, vì của ăn của uống là nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề là lòng họ hướng về đâu? Họ tìm gì khi bỏ Ai Cập ra đi theo tiếng gọi của Đức Chúa dưới sự hướng dẫn của Mô-sê? Nếu con tim của họ chỉ hướng về việc thỏa mãn những nhu cầu của mình thôi, thì tất yếu đến một lúc nào đó, họ sẽ mất kiên nhẫn. Bởi vì nhu cầu thì không có cùng tận.

Trước hết là nhu cầu của cái nhìn, họ đi theo Chúa dưới sự hướng dẫn của Môsê là nhằm để thỏa mãn cái nhìn. Vì thế, họ nhìn thấy bao dấu lạ, nhất là dấu lạ vượt qua Biển Đỏ khô chân, nhưng họ vẫn không chịu tín thác vào Đức Chúa (Tv 106). Chẳng lẽ Chúa lại phải làm cho họ dấu lạ mỗi ngày? Ngang qua một vài dấu lạ, họ được mời gọi trao ban lòng tin, lên đường và đi đến cùng. Giống như, những người cùng thời với Đức Giêsu, chứng kiến bao dấu lạ Ngài làm, và chính ngôi vị của Ngài là một dấu lạ, thế mà vẫn cứ đòi dấu lạ từ trời. Lúc Đức Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, họ vẫn đòi dấu lạ: “xuống khỏi Thập Giá đi để chúng ta thấy, chúng ta tin”. Họ cứ nghĩ là thấy thì tin, đó là ảo tưởng. Bởi vì thấy, thì thấy một lần trong một thời điểm và nơi chốn nhất định; trong khi tin là tin vào một ngôi vị, tin suốt đời ở mọi nơi mọi lúc. Tin lúc Chúa ban dấu lạ; và tin cả lúc Chúa không ban dấu lạ, như tác giả Thánh Vịnh nói: “tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề” (Tv 116, 10). Trong thực tế cuộc sống, như mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm, và chính Dân được Đức Chúa tuyển chọn cũng có cùng một kinh nghiệm, những ngày không có dấu lạ gì mới là nhiều; và có những ngày, những giai đoạn đầy đau khổ và thử thách:

Tôi tự bảo: điều làm tôi đau đớn,
là Đấng tối cao chẳng còn ra tay nữa. (Tv 77, 11)

Hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta cũng thế, chúng ta nhận ra dấu lạ nào đó Chúa ban cho mình và chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu trung tín của Chúa và chúng ta đáp lại suốt đời ngang qua đời sống hàng ngày, những ngày rất đỗi bình thường cũng như những ngày đầy thách đố, khó khăn. Nhưng chúng ta cũng có kinh nghiệm này: khi tin rồi, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều lạ.

Mà ham muốn nhìn cũng chính là ham muốn ăn: đói thì Chúa cho ăn; ăn manna một hồi thì thèm thịt, Chúa cho ăn thịt chim cút; ăn chim cút một hồi, rồi thì cũng chán: “chúng tôi chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Nhất là khi chứng kiến dân ngoại, họ ăn uống cao lương mĩ vị, dân sẽ càng thèm muốn hơn nữa. Những chuyện như vậy cứ lập đi lập lại nhiều lần: điều Ngài đã làm hôm qua, Ngài sẽ làm hôm nay không? Đức Chúa có ở giữa chúng ta hay không? (Xh 17, 7) Làm sao « biết » được đây? Ham muốn của cái nhìn, ham muốn của cái bụng, ham muốn của cái biết gặp gỡ nhau. Và cuối cùng, thái độ của con người được hình thành, khi kêu trách: “ Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? » À ra như thế, Thiên Chúa muốn chúng ta chết, Mô-sê muốn chúng ta chết. Đó chính là thái độ « thử thách ».

Trong Kinh Thánh, câu nói “thử thách Thiên Chúa” mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là không tin Thiên Chúa: trong sa mạc, Dân Chúa thử thách Thiên Chúa đến 10 lần, nghĩa là lúc nào cũng thử thách Thiên Chúa, cũng không tín thác nơi Thiên Chúa (Ds 14, 22: thử thách 10 lần; Tv 106, 14); và tội nguyên tổ cũng là một dạng của hành vi thử thách Thiên Chúa, nghĩa là không tin Thiên Chúa không tín thác nơi Chúa trong thực tế cuộc sống. Vì thế, yếu tính của tội nguyên tổ, nghĩa là của mọi tội, là không tin nơi Thiên Chúa, không tín thác nơi ngài trong thiếu thốn, trong gian nan khổ đau của thân phận con người. Hành vi vi phạm giới răn chỉ là hệ quả của một thái độ nội tâm, quên ơn huệ và vì thế nghi ngờ Thiên Chúa.

Như thế, tất cả mọi sự Thiên Chúa đã làm cho họ trở thành vô nghĩa, thậm chí trở thành kế hoạch giết chết. Chúng ta hãy dừng lại đây thật lâu để nghiệm được hết mức độ nghiêm trọng của những lời dân Israen thốt ra đây. Đó là chính là thái độ nghi ngờ Thiên Chúa, và tội nghi ngờ Thiên Chúa tất yếu dẫn đến những hành vi gây chết chóc, gây chết chóc cho chính mình và cho người khác. Nghi ngờ Thiên Chúa, nên họ quay ra thờ ngẫu tượng, vì ngẫu tượng có vẻ “linh” hơn; “linh” có nghĩa là có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu, phát xuất từ lòng ham muốn; ham muốn nhìn, ăn và biết của họ. Và vì nghĩ rằng mình được dẫn vào sa mạc là để bị bỏ mặc cho chết (trong khi mục đích của hành trình là Đất Hứa, nghĩa là Miền Đất Sự Sống trong Đức Chúa), nên họ nổi loạn ném đá toan giết chết Môsê (x. Xh 17).

b. Con rắn

Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “ chẳng chết chóc gì đâu! » Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc độc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “ Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết » (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.

Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “ Chúa dựng nên con cách lạ lùng ».

2. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?

Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh «con rắn», biểu tượng của Tội và Sự Dữ:

Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là « Con Rắn » bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3); và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:

– thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối;

– đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị;

– chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính;

– và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!

3. Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?

Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.

Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.

Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Giá mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế. Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá còn mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phận con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.

-------------------------------

 

Suy Niệm 25. Nghịch lý không trái ngược


--Trầm Thiên Thu

Chiến thắng khải hoàn của Đức Giêsu Kitô khởi đầu bằng sự thất bại trên Thập Giá. Đó là một nghịch lý mà những ai không là Kitô hữu không thể hiểu nổi. Chân phước Charles Eugène de Foucauld (1858-1916, tu sĩ người Pháp) đã cảm nhận: “Thiên Chúa chỉ ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta khi chúng ta chấp nhận sự yếu hèn của mình”. Kỳ diệu quá!

Nghịch lý là những gì trái với quy luật tự nhiên hoặc những điều hiển nhiên được người ta công nhận là đúng. Tuy nhiên, trong triết-lý-sống của cuộc đời lại có những điều tuy là nghịch lý mà vẫn thuận chiều, không hề ngược chút nào – được gọi là “nghịch lý thuận”, và cũng có những điều là thuận lý mà vẫn nghịch chiều – được gọi là “thuận lý nghịch”.

Cuộc sống không chỉ phức tạp mà còn nhiêu khê lắm. Có khi sống cả đời mà chưa hiểu hết lý lẽ của cuộc sống. Đôi khi chúng ta vẫn cảm thấy khó hiểu với những điều thuận lý, huống chi với những điều nghịch lý.

Có thể nói rằng nghịch lý khá đa dạng, nhưng có vài dạng phổ biến được người ta công nhận:

[1] Nghịch Lý Thời Gian (cũng gọi là Nghịch Lý Du Hành Thời Gian). Đó là là sự mâu thuẫn hợp lý hoặc đối nghịch trong các lý thuyết giả định cho rằng “du hành thời gian” trở về quá khứ là điều khả thi.

[2] Nghịch Lý Bản Thể. Đó là sự tồn tại của một vật thể hay sự xuất hiện của một sự kiện bởi vì có ảnh hưởng ngược lên nó bởi các sự kiện xảy ra trong tương lai của nó.

[3] Nghịch Lý Tiền Định (còn gọi là Vòng Lặp Nhân Quả). Đó là nghịch lý du hành thời gian thường được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng.

[4] Nghịch Lý Ông Nội. Đó là một sự kiện ngăn chặn một sự kiện xác định xảy ra trước đó bằng cách ảnh hưởng ngược lên sự kiện trước đó.

Triết lý là điều không dễ hiểu. Triết lý sống càng nhiêu khê và khó hiểu hơn nhiều. Có lẽ chẳng mấy ai như Thánh Phaolô, vì ngài có một ước muốn khiến chúng ta cảm thấy “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã ư? Đúng là quá ngược đời!

Một vị khác có ý tưởng cũng “không giống ai” là cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624 – 15/1/1679), vị thừa sai người Pháp. Ngài cũng yêu thích Thánh Giá nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó!

Là Kitô hữu, chúng ta không xa lạ với thập giá, vì bắt đầu đủ trí khôn là chúng ta đã nghe nói tới. Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.

Sống là đấu tranh, là “tránh đâu”, và sống là phải có trách nhiệm, không thể ung dung tự tại, vô tư và vô cảm. Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm!

Sự tự nguyện có giá trị hơn sự miễn cưỡng. Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.

Phần thưởng là gì, phần thưởng ở đâu? Thánh Phaolô minh định: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành NÔ LỆ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Đó là động thái hoàn toàn tự nguyện, không miễn cưỡng. Thánh nhân cho biết thêm: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Cuộc sống của chúng ta, các Kitô hữu, cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng.

Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều điều tất yếu mà thú vị: Những người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. Không khổ luyện không thể hy vọng có ngày thành công và hữu ích cho đời!

Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động trên thế gian này chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, luôn nhắm tới một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên Đàng – Nước Trời. Không đạt được “phần thưởng” này là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là từ chối Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác định: “Tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Tất nhiên mỗi chúng ta cũng phải quyết tâm như vậy!

Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.

Hằng ngày tự khổ luyện mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể thanh thản ngồi rung đùi theo nhịp khổ của người khác. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt, mệt mỏi lắm!

Hạnh phúc nào mà không có hy sinh, chiến đấu, cố gắng? Có gian nan mới thành nhân, có khốn mới nên khôn, có thất bại mới biết cố vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (tục ngữ Việt Nam). Ông Thích Ca Mâu Ni được người ta kính trọng, được tôn là Phật, vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân cũng đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh cũng đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!

Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “khó đến thân”. Kinh Phật có câu: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Cái khổ từ nội tại nhiều hơn từ ngoại tại. Khổ vây tư bề, không thể trốn thoát, vì “đời là bể khổ”. Muốn thoát khổ thì phải đi “xuyên qua” nó. Có nhiều lúc chính chúng ta tự làm khổ mình chứ không ai khác. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?

Thật phúc thay cho người ở trong Thánh Diện và luôn được hát mừng Thiên Chúa. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì – dù quý hiếm nhất – ở thế gian này. Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nhận định rằng: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm). Điều đó nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh Vịnh so sánh và quyết tâm: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa, vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” (Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Thánh sử Luca cho biết rằng, vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!

Và Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian không thiếu loại người này – dù mức độ khác nhau, thế nên Ngài rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng là bồ dao găm”.

Không sống giả nhân giả nghĩa, luôn sống trong sạch và cương trực, đó cũng là một cách “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà LÊN ĐÓ ĐỂ… “CHẾT”. Chết thật chứ không chết giả!

Thập Giá là án tử, nhưng Thập Giá lại trở nên “chìa khóa” mở cánh cửa của Sự Trường Sinh. Thập Giá là nghịch lý, nhưng không hề trái ngược. Và rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Ai dám NGƯỢC với thế gian thì được THUẬN với Thiên Chúa. Thật là trên cả tuyệt vời!

Việt ngữ thật chí lý: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để nên THÁNH. Chắc chắn ai cũng phải trả cái giá này mới khả dĩ vào Nước Trời vậy.

Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin ban thêm lòng can đảm cho con để con có thể dám sống “ngược đời” như Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đã tiên phong nêu gương, giúp con biết yêu Thánh Giá, sẵn sàng chết cho tội mình, chết vì chân lý và công lý. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 26. Suy tôn Thánh Giá


--J.M

Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.

Bài ca của Thánh Phaolô

Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giê-su đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.

Tôn vinh

Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Ki-tô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giê-su, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giê-su trên thập giá.

Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giê-su là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giê-su, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.

Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:

Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Ki-tô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.

-------------------------------

 

Suy Niệm 27. Từ thập giá đến Thánh Giá


--Lm Vũ Xuân Hạnh

lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.

Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.

“DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.

Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao - đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người - mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.

Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.

Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.

Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn, vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.

Tắt một lời: Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta...”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 28. Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa


--Antôn Hoàng Văn Phúc, OP

http://gpbuichu.org/news/Chuyen-de/y-nghia-cua-viec-suy-ton-thanh-gia-chua-7767.html

Nếu chữ Vạn được xem như là biểu tượng của Phật giáo, thì Thánh Giá chính là biểu tượng của Kitô giáo. Vì sao? Ắt hẳn đó không phải vì vẻ đẹp của biểu tượng này, cũng không phải vì sự đơn giản của nó, nhưng chính vì Đấng nằm trên cây gỗ đó đã dang rộng vòng tay để cứu chuộc nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Nói cách khác, vì giờ đây “Thánh Giá trở thành biểu tượng của chính Đức Kitô”.

Như vậy, chính nhờ Đức Kitô mà cây Thánh Giá đã trở nên một biểu tượng linh thánh và là một phương dược linh nghiệm cho người Kitô hữu, như Công Đồng Vatican II đã nói “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn bị.” Nói như thế để thấy được rằng Thánh Giá là một cái gì đó rất thiêng liêng và quan trọng đối với người Kitô hữu vì sự quy hướng về Đức Kitô. Để biểu thị sự thiêng liêng và tầm quan trọng của Thánh Giá, Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình trân trọng và yêu mến Thánh Giá, đặc biệt qua các nghi thức Phụng vụ. Cụ thể Giáo Hội dành ngày 14 tháng 9 hàng năm để cử hành Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá và cách riêng cử hành nghi thức suy tôn Thánh Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Vậy suy tôn Thánh Giá là gì và có ý nghĩa như thế nào?

Theo tác giả Dom Robert Le Gall, suy tôn Thánh Giá là “việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ và tôn vinh Đức Kitô”. Bên cạnh đó, Ban Từ vựng Công Giáo trực thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đưa ra một định nghĩa xem ra đầy đủ và chính xác hơn “Suy tôn Thánh Giá là nghi thức thờ lạy và hôn kính Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.” Như vậy, với định nghĩa này ít nhiều chúng ta cũng đã hiểu được ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá.

Thực thế, việc suy tôn Thánh Giá không đơn thuần chỉ là một nghi thức Phụng vụ được Giáo Hội cử hành hàng năm vào ngày 14/9 hay chiều thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng ẩn sâu trong đó là cả một ý nghĩa thánh. Quả thật, trong ngày lễ suy tôn Thánh Giá, ca nhập lễ được cất lên như sau “Chúng ta phải hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta.” Như vậy, việc suy tôn Thánh Giá là một sự hãnh diện và là một lời tuyên xưng của người Kitô hữu vào Thánh Giá. Hãnh diện và tuyên xưng vào Thánh Giá vì giờ đây Thánh Giá là “một sự khẳng định về cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô”. Cuộc chiến thắng mà Ngài đã dành được trước quyền lực sự dữ.

Nếu như hình phạt đóng đinh vào thập giá là dấu chấm hết cho một sự sống, cho một tình yêu thì giờ đây Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn giá trị ấy. Ngài biến cây thập giá khổ hình thành cây mang lại sự sống. Ngài biến cây thập giá hận thù thành cây mang lại tình yêu vĩnh cửu. Thế nên Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Thánh Giá trở thành biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Như vậy suy tôn Thánh Giá còn có ý nghĩa là suy tôn một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô.

Với cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá, loài người giờ đây được giao hoà với Thiên Chúa. Với cách hiểu này, một cách nào đó chúng ta có thể nói nếu không có cái chết của Đức Giêsu thì loài người vẫn đang mãi xa cách Thiên Chúa, chưa được giao hoà với Người. Như vậy việc suy tôn Thánh Giá là một hành động nói lên lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đã chịu chết và đã mở cho ta con đường dẫn tới sự sống đời đời. Không những thế hành động suy tôn Thánh Giá còn là một sự biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, và cũng là dịp để bày tỏ mối thân tình, sự khăng khít của ta với Ngài.

Đức Giêsu đã dùng cây Thánh Giá để kéo nhân loại lên với Thiên Chúa, như lời Ngài nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Như vậy, nếu năm xưa nhờ cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã kéo mọi người lên với Thiên Chúa thì nay suy tôn Thánh Giá như là hành động để quy tụ mọi người tản mác khắp nơi về dưới chân Thánh Giá trong cùng một niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.

Bên cạnh đó, lời tuyên bố của chủ sự và lời đáp của cộng đoàn trong nghi thức Suy Tôn Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” – “Chúng ta hãy đến thờ lạy” cũng cho ta một ý nghĩa thâm sâu về việc suy tôn Thánh Giá. Lời tuyên bố của chủ sự “Đây là cây” như muốn nói lên sự đau đớn tàn bạo và là một hình phạt ghê sợ nhất cho kẻ trọng tội. Qua đó, việc suy tôn Thánh Giá nhằm cho mọi người thấy một cách công khai, rõ ràng rằng Đức Giêsu đã chấp nhận chịu những đớn đau và hình phạt dù rằng Ngài không phạm tội gì. Thế nhưng, Giáo Hội không dừng lại ở đó. Giáo Hội muốn mọi người thấy rằng cây gỗ, “nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” giờ đây đã trở thành biểu tượng chiến thắng, biểu tượng cứu độ. Giáo Hội như muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩa chiến thắng khi mời gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.

Trên đây là ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá. Có thể với nhiều người, việc tôn thờ Thánh Giá là một việc làm ngu xuẩn và điên rồ, như thánh Phaolô đã từng nói về người Do thái và dân ngoại.

Trái lại, với người Kitô hữu, đó lại là một hành động thánh, một hành động diễn tả đức tin. Và với người Kitô hữu, thiết nghĩ cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi hành động thánh này không bị giới hạn chỉ trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hay trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng được cử hành liên tục trong suốt cuộc đời.

-------------------------------

 

Suy Niệm 29. Thánh Giá Chúa


--Lm. Hiền Lâm

http://trungtammucvudcct.com/suy-niem-tin-mung-thu-sau-tuan-xxiii-mua-thuong-nien-14-09-2018-le-suy-ton-thanh-gia/

Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.

“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian:

* Phải bị “giương cao lên”.

Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.

Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng thứ IV, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ IV đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.

Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).

Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.

Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.

Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.

* Luận phạt hay cứu độ?

Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.

Trong mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.

Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.

“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.

Trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu đã nhắc tới “Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Trần gian hay thế gian được nói tới ở đây có thể là toàn thể tạo thành, mà tạo thành thì tốt bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Nhưng trọng tâm của công trình này là con người – đã trót đặt mình dưới ảnh hưởng của Satan (x.Ga 8,34.44); nghĩa là một sự xuống cấp sa đoạ, con người chịu ảnh hưởng của cái xấu, cái tội, bị cái xấu lợi dụng và làm biến dạng đi. Do đó mà Thiên Chúa “sai Con của Người đến để thế gian được cứu độ”.

Con đường cứu độ của Con Thiên Chúa là thập giá, nên ai muốn được cứu độ thì cũng phải chấp nhận “được treo lên” trên thập giá với Chúa Giêsu. Thế nhưng, giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, kết quả là một người đạt được niềm vui nhẹ nhàng còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian, xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Xin cho chúng con biết chấp nhận được “giương cao lên”, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 30. Thánh Giá: con đường đời sống Kitô


--JM. Lam Thy ĐVD

Trong bài giảng lễ Suy tôn Thánh Giá (14/9/2014), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã huấn dụ: “Chúng ta thấy các bức họa đẹp đẽ về Chúa Giê-su trên thập giá, nhưng thực tế thì khác hẳn. Ngài bị giày xéo và đổ máu vì tội chúng ta. Đây là con đường mà Ngài đã đi để khuất phục con rắn. Chúng ta phải nhìn lên Thập giá Chúa Giê-su, không phải thập giá kiểu nghệ thuật, được vẽ đẹp đẽ, nhưng là thập giá thực tế. Và chúng ta phải nhìn vào con đường của Ngài, vào Thiên Chúa đã tự hủy mình, đã hạ mình để cứu chúng ta. Đó là một hành trình đòi hỏi, vào những lúc gian khó, và vào những lúc thử thách, nhưng như thế mới là cuộc sống! Đây là con đường của Ki-tô hữu. Nếu một Ki-tô hữu muốn tiến tới trên con đường đời sống Ki-tô, thì người đó phải ngã xuống, như Chúa Giê-su đã từng ngã xuống. Đây là con đường của khiêm nhường, đúng thế, nghĩa là người Ki-tô hữu phải nhận lấy sự sỉ nhục hạ mình như Chúa Giê-su đã từng. Nếu chúng ta muốn tiến tới “trên con đường đời sống Ki-tô”, chúng ta phải hạ mình xuống, như Chúa Giê-su đã làm trên Thánh Giá.” (nguồn: Vatican.net).

Nói “Thánh Giá là con đường đời sống Ki-tô”, Đức Giáo hoàng muốn nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô” (Mc 8, 34), mà muốn đi theo Người thì phải biết mộ mến và tôn sùng Thánh Giá, coi đó là kim chỉ nam cho hành trình vượt qua gian lao thử thách để tiến về quê Trời vĩnh cửu. Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Theo Giáo phụ Tertuliano – chuyên gia về Giáo sử – thì ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các Ki-tô hữu “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Ki-tô hữu còn có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá. Thánh giá được suy tôn do một sự kiện trong lịch sử: Vào năm 326, sau khi tìm được di sản Thánh Giá thật, thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã cho xây cất 2 đền thờ: một tại Núi Sọ Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem. Riêng tai Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem, Thánh nữ đặt cây Thánh Giá vừa tim được tại đó để mọi người kính viếng. Các đền thờ này được cung hiến ngày 13/9/335. Lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giê-su được lập ra để kỷ niệm ngày cung hiến đó, và ấn định lễ kính vào ngày 14/9 (nguồn: www.giaoducconggiaohdgm.org)

Cũng theo www.giaoducconggiaohdgm.org , còn một nguồn sử liệu giá trị khác về lễ Suy tôn Thánh Giá, đó là: Năm 614, dưới thời Hoàng Đế Héraclius I, những người Ba-tư xâm chiếm Giê-ru-sa-lem đã lấy mất cây Thánh giá do thánh Hélène tìm được. Héraclius đã nung nấu ý chí kiên quyết đấu tranh để lấy lại Thánh giá. Nhà vua đã cầu nguyện và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa thương chấp nhận. Năm 629, vua Héraclius đã đánh bại quân Ba-tư và trở về Constantinople trong tiếng hò reo, vui mừng của toàn thể dân chúng. Đón mừng chiến thắng, mọi người đều cầm trên tay cành lá ô-liu, với những bó đuốc chói sáng, cung nghinh Thánh giá thật của Chúa đã lấy lại được. Trong bầu khí khải hoàn, mọi người hân hoan triều bái, chúc tụng, tung hô, tôn vinh Thánh Giá.

Nhà vua vui mừng phấn khởi, quyết định rước Thánh Giá vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi tiến vào thành, trước khi lên núi Sọ, nhà Vua đã như tê dại đôi chân, không thể nào bước được. Giáo trưởng Zacharie hô to: ”Tâu Đức Vua, xin Đức Vua cởi bỏ bộ y phục sang trọng ra vì nó không xứng đáng với cảnh Chúa Giê-su khó nghèo, khiêm nhượng khi vác thập giá”. Vua Héraclius I liền cởi bỏ bộ xiêm y sang trọng và khoác vào người bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì, một phép lạ vượt ngoài sức tưởng tượng của con người đã xảy ra: Nhà vua bước đi một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân. Chưa hết, Thiên Chúa còn làm thêm nhiều phép lạ trong ngày vinh quang thập giá được tỏ hiện này, để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho dân Người.

Kể từ đó, Giáo hội thiết lập thánh lễ Suy tôn Thánh Giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố trọng đại này. Đó cũng chính là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio (590–604) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ Sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương, tôn kính “Gỗ Thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian (“Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit”). Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy (“Venite adoremus”). Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, người Ki-tô hữu hãy nhớ đến ý chỉ chính của Phụng vụ là tôn vinh “Gỗ Thập giá”, chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giê-su.

Thánh giá nguyên là một hình cụ giết người, một biểu tượng của tội ác do con người tạo ra, trông giống như chữ thập “ ” (số 10), nên được gọi là “cây thập tự” hoặc “thập tự giá ” (cái giá treo hình chữ thập). Dân Do-thái (đứng đầu là “các kỳ mục, kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng” – Mc 15, 1) đã dùng hình cụ đó để giết Đức Giê-su, vì họ đã liệt Người vào hạng người có trọng tội cần phải trừ khử: “Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa… Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” (Lc 23, 2-5). Nhưng khi Tổng trấn Phi-la-tô – vị quan có thẩm quyền xét xử vụ án – nhận thấy Đức Giê-su không có lỗi lầm gì, ông muốn thả Người, thì đám đông không chịu và đồng thanh gào lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Cuối cùng, “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” Đám đông lại càng say máu la lớn: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 23-25).

Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giê-su bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay (thanh gỗ ngang) kéo mọi người lên. Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giê-su Na-da-ret – vua Do-thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giê-su nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do-thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do-thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Ngoài ra, hình ảnh chữ thập cũng được con người dùng làm biểu tượng cho sự thu gom, cộng hưởng (dấu cộng: +), đầy đủ hoàn toàn (thập phần hoàn hảo); như vậy thì cũng có nghĩa là tập hợp các phần tử lại thành một mối, và nếu các phần tử đó là con người thì chẳng phải đây là dấu chỉ sự đoàn kết yêu thương nhau đó sao? Cây thập tự trở nên một dấu chỉ gom lại những kẻ tin, để quy về một mối trong yêu thương; như Lời Đức Giê-su phán: “khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.” (Ga 12, 32)

Rõ ràng từ một biểu tượng của tội ác, cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu. Gọi thập tự giá là Thánh Giá chính là vì thế. Quả nhiên cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất mà Con Người bị treo trên thập giá đã truyền dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39). Một cách cụ thể, cây thập tự treo Chúa không những biểu hiện cụ thể hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, mà còn bộc lộ Lời Thiên Chúa mời gọi những kẻ tin hãy trở nên như một Thập Giá Chúa Ki-tô: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói cách khác, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.

Từ một cây gỗ bình thường đóng thành hình chữ thập (thập tự) làm hình cụ giết người nên được gọi là “thập ác”  (   chữ thập độc ác chứa 10 tội nặng) sau khi thấm đẫm Máu của Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, đã biến ra “thập thành” ( mười phần hoàn hảo); trở thành “hồng thập tự” (   chữ thập màu đỏ) và trở nên một biểu tượng cứu nhân độ thế mà cả thế giới – không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo – đều lấy làm biểu tượng cho tình yêu thương, lòng bác ái. Đó chính là tổ chức từ thiện quốc tế Hồng Thập Tự (Hồng Thập Tự hội:  ; “Société de la Croix-Rouge”; “Red Cross society”; “Roseus Crux societas”).

Hai điều răn của Ki-tô Giáo đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa vêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” (yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực), thì tiên vàn phải biết “yêu người” (yêu người như chính mình), vì chỉ có “yêu người” mới thực sự là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Giáo hội thiết lập lễ Suy tôn Thánh giá nhằm 2 mục đích chủ yếu: 1- Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa; 2- Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất. Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu phải ý thức khi suy niệm mầu nhiệm Cứu Chuộc thì hãy trực diện chiêm ngắm Thánh giá để được trực diện với chính hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vâng, “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11). Và từ đó, hiệp ý cùng toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá, ngõ hầu đi vào Mầu nhiệm Tình Yêu bằng tất cả tâm tình con dân thảo kính Thiên Chúa là Cha.

Ngày hôm nay, nhìn lên Thánh Giá, người Ki-tô hữu đừng quên “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Tội ác loài người đã sản sinh ra hình cụ giết người khủng khiếp không những chỉ để giết hại lẫn nhau mà còn đóng đinh treo Con Thiên Chúa cho đến chết. Thú tính đó vẫn chưa dừng lại, càng văn minh, con người càng sản sinh khí cụ tàn độc giết hại lẫn nhau (khủng bố, chiến tranh bằng súng đạn, bom mìn hạt nhân, vũ khí hóa học… càng ngày càng ghê gớm quá sức tưởng tượng!).

Tóm lại, hình cụ thập tự giá nhờ nhuộm đỏ Máu Thánh Chúa Ki-tô đã thực sự trở nên một Khí Cụ Tình Yêu, một Khí Cụ Bình An (Kinh Hòa Bình) giúp người tín hữu chống lại ba thù, để sống chan hòa yêu thương với nhau. Xin hãy suy tôn Thánh Giá bằng tất cả tâm tình tri ân, sám hối và canh tân, nguyện cầu Thiên Chúa ban thêm lòng Tin để đáp trả được tình yêu vô lượng đó, đồng thời biết Cậy nhờ vào Thần Khí Chúa giúp củng cố thêm lòng Mến vốn dĩ rất mong manh yếu kém của mình. Hãy cầu xin Thiên Chúa đoái nhìn những thảm cảnh liên tiếp xảy ra trên thế giới này, từ những thiên tai (bão lụt, động đất, sóng thần…), đến những nhân tai (chiến tranh, khủng bố, thực phẩm giết người, nạo phá thai, hủy diệt trứng, tinh trùng…), nhất là thảm kịch “huynh đệ tương tàn bằng vũ khí hóa học” diễn ra khốc liệt. Hãy tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho thế giới một nền hòa bình chân chính vĩnh cửu. Ước được như vậy.

Và xin cùng hợp hoan: “Thập giá vinh quang ngất cao trời xanh. Thập giá chứng nhân cứu độ người trần. Ơn giải thoát sức sống cao vời trên Thánh Giá chính Ngài đã dâng hiến cho trần gian. TK 1: Vinh quang của ta chính là Thập Giá Đức Kitô, cho con tôn thờ Thánh Giá suối mạch chan hòa. Để được phục sinh vinh quang cùng Thập Giá, nhận lãnh phúc ân cứu độ trong tình Cha. TK 2: Cho con thành tâm tôn thờ Thập Giá Chúa uy linh yêu thương nhân loại dang tay chết trên thập hình. Dạt dào tình thương hôm nao Người tận hiến, để cứu thoát con đưa về trong bình an.” (TCCĐ “Thập Giá Vinh Quang”).

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Suy tôn Thánh Giá).

-------------------------------

 

Suy Niệm 31. Vinh Quang Thánh Giá


--Nữ tu Maria Madalena Phạm thị Huy, OP

Hôm nay Hội thánh cử hành lễ Suy tôn Thánh Giá. Thánh Anrê, giám mục Cơrêta, nói với chúng ta về lý do mừng lễ này: “Chúng ta mừng lễ Thánh Giá và cùng với Đấng chịu đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao”. (Bài đọc 2, Kinh Sách).

Vì sao chúng ta mừng lễ Thánh giá và bởi đâu, chúng ta được đưa lên cao?

Nơi Thánh giá, Hội thánh gẫm suy và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua việc Chúa Con nhập thể. Trên thập giá, Người Con đã đi đến tận cùng thân phận con người trong sự vâng phục Thánh Ý Cha một cách toàn vẹn. Để bởi cái chết cứu độ và sự phục sinh vinh hiển của ngài, Người Con ấy, Đức Giêsu Kitô, đền tạ sự công bình của Thiên Chúa Cha và bày tỏ tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa Cha cho con người.  Trên Thánh giá, Đức Giêsu Kitô giang rộng đôi tay ôm lấy cả trần gian tội lụy này và đưa kiếp người hèn mọn của chúng ta vào trong cung lòng của Thiên Chúa Cha trong một đời sống mới.

Quả vậy, Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay:

Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:13-17).

Thánh Giá vừa là sự đau khổ nhưng cũng là chiến tích của Thiên Chúa. Vì chính từ Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ được ban cho chúng ta. Thập giá đã chiến thắng thần chết, chiến thắng địa ngục. Nhưng nhìn ở một góc độ, thì thập giá quả là một nỗi kinh hoàng khiến chúng ta sợ hãi. Nỗi kinh hoàng mà chúng ta vẫn gặp đó đây trên hành trình cuộc đời: đau khổ, tội lỗi, sự ác, bất công, tàn bạo và tận cùng là cái chết. Tấm thân trần trụi của Đấng treo trên thập giá mãi mãi hằn sâu những dấu tích ấy. Nếu không nhìn bằng đôi mắt đức tin, đâu dễ gì để thấy nơi thập giá ấy, dấu tích một Thiên Chúa yêu thương, yêu đến cùng đồng thời cũng là lời tố cáo tội lỗi một cách mạnh mẽ nhất. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta:

Hãy nhìn sâu hơn nữa vào dấu chỉ này (Thánh giá), đẩy mạnh ta hướng cái nhìn đến sự nguy hiểm cũng như  mọi việc làm cực kỳ tàn ác mà con người có thể gây ra. Đồng thời, thánh giá khiến ta nhìn lên Thiên Chúa, Đấng mạnh mẽ hơn, mạnh mẽ trong chính  sự yếu hèn của Người, và ta thấy mình được Thiên Chúa yêu thương. (Từng ngày với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô, ngày 1-4 tháng 9)

Lạy Chúa, từng ngày, rất nhiều lần chúng con làm dấu Thánh Giá như lời tuyên xưng vào mầu nhiệm Thánh Giá. Xin cho chúng con, nhất là những khi gặp đau khổ, càng thấu hiểu sâu xa mầu nhiệm cứu độ của Chúa trên cuộc đời chúng con. Và khi mang dấu Thánh Giá trên mình, chúng con biết để cho Thiên Chúa hiển thị qua đời sống trong sạch tránh xa tội lỗi, một lối sống can trường nhưng khiêm tốn, một cách sống liên đới, quảng đại, trung thành dấn bước trong yêu thương.

-------------------------------

 

Suy Niệm 32. Suy niệm về Thánh Giá


--Jorathe Nắng Tím

Chẳng nói thì mọi người cũng biết: Thánh Giá là biểu tượng của niềm tin nơi người Kitô hữu, những người đi theo Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá và sống lại sau ba ngày từ cõi chết. Bên cạnh những người môn đệ này, có nhiều người không tin Đức Giêsu, nhưng không ngại đeo Thánh Giá trên mình, vì họ gặp được ở Thánh Giá nét đẹp thanh cao của tình yêu quên mình, và dấu ấn hy sinh của một tình yêu dâng hiến. Nhiều ngưòi khác chỉ mang Thánh Giá như một đồ trang sức làm đẹp.

Mặc dù Thánh Giá được nhìn dưới những lăng kính khác nhau tùy theo sự đón nhận của trái tim mỗi người, nhưng tất cả đều gặp ở Thánh Giá một biểu tượng chung của thất bại, khổ đau, chết chóc, không khác những người Do Thái đã coi Thánh Giá là “ô nhục, không thể chấp nhận”, người Hy Lạp cho là ngu xuẩn, và dân ngoại cho là điên rồ ( x. 1Cr 1,22-23)

Thực vậy, Thập giá không có gì hấp dẫn, lôi cuốn, vì đó là dụng cụ để thi hành án tử hình: tử tội chịu hình phạt đóng đinh trên thập giá cho đến khi tắt thở. Thập giá cũng chẳng có gì đáng tìm, đáng nhớ, vì trên đó chỉ có nước mắt đớn đau, và hình phạt đẫm máu, nên thập giá rất buồn, rất tủi, rất nhục, vì treo thân phận người thất bại, khổ đau, chết chóc. Và thập giá chỉ trở nênThánh Giá từ khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, “như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14 -15).

Quả thực, Thánh Giá là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu nổi. Hiểu sao nổi một Thiên Chúa lại chọn Thánh Giá để cứu độ nhân loại, trong khi Ngài toàn năng có thể chọn một cách cứu độ hoàn toàn khác, không bạo lực cực hình, không kinh hoàng đẫm máu. Hiểu thế nào được hình phạt ô nhục dành cho tử tội bị nguyền rủa, khử trừ, vì nguy hại cho xã hội loài người lại trở nên phương cách Thiên Chúa dùng để đem cho loài người ơn cứu sống. Hiểu làm sao được khi Thiên Chúa chọn cái điên rồ, ngu xuẩn đối với con người để biểu lộ sư khôn ngoan của mình (x. 1 Cr 1,17-25). Chính vì không hiểu nổi, không hiểu thấu mà Thánh Giá trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Người ta vấp phạm vì không chấp nhận Thiên Chúa yếu đuối như thế; vấp phạm vì phẫn nộ trước một Thiên Chúa hoàn toàn bất lực trước bạo lực của con người; vấp phạm vì tức giận Thiên Chúa đã không dùng quyền năng Thiên Chúa của mình mà xuống khỏi Thánh Giá; vấp phạm vì trách móc Thiên Chúa đã để con người đóng đinh mình; vấp phạm vì không thể chịu nổi một Thiên Chúa câm lặng dưới mũi giầy tàn ác của con người đang chà đạp, nghiền nát sức mạnh Thiên Chúa của mình. Vì vấp phạm, người ta từ chối nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của họ.

Ở đây, chúng ta chỉ chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu trước Thánh Giá, thái độ của một Thiên Chúa trước mầu nhiệm khổ đau của con người.

1. Trước đau khổ, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương:

Trước những người đau khổ vì bệnh tật đủ loại, Đức Giêsu đã không lý giải nguồn gốc của đau khổ, nhưng yên lặng cảm thương, chạnh lòng trắc ẩn. Ngài yên lặng trước mầu nhiệm đau khổ hơn là trình bầy một cách giáo khoa về đau khổ, hay phân tích một cách lý thuyết nguồn gốc của bất hạnh, bởi với Ngài, đau khổ là một sự dữ đang làm khổ con người mà Ngài thương mến và sự dữ ấy là do tội lỗi, nhưng tội lỗi đã vào thế gian và con người bắt buộc phải chịu hậu qủa của tội lỗi ấy. Trước tình huống chẳng đặng đừng, một tình trạng sẵn có, không thể thay đổi, thái độ yên lặng cảm thương, xót xa chạnh lòng là thái độ xứng hợp và đem lại ủi an nhất cho người đau khổ trong cuộc.

Yên lặng của Đức Giêsu không là yên lặng đồng loã, ủng hộ, nhưng là yên lặng tích cực, vì trong yên lặng, Ngài cảm thương thân phận, chạnh lòng xót xa và chân tình chia sẻ tất cả thử thách của người đau khổ. Đức Giêsu đã yên lặng tỏ lòng kính trọng niềm đau, nỗi khổ của người mình yêu, bởi đau khổ với Ngài là một mầu nhiệm.

Là mầu nhiệm, nên người ta không thể lý giải dễ dàng, cũng không thể cắt nghiã rành mạch, nên mọi ngôn từ đều bất lực trước mầu nhiệm khổ đau, mọi lý thuyết đều bó tay trước bất hạnh, chỉ có yên lặng cảm thương của “Thiên Chúa làm người” trước con người đau khổ, bất hạnh mới nói hết được giá trị và ý nghiã mầu nhiệm Thánh Giá của con người. Đức Giêsu đã luôn chạnh lòng cảm thương trong yên lặng kính trọng mầu nhiệm đau khổ ấy, mầu nhiệm mà chính Ngài đã sẵn sàng chia sẻ, dự phần, vì đó chính là Thánh Giá sinh ơn cứu độ.

2 . Trước Đau Khổ, Đức Giêsu đã yên lặng chấp nhận:

Nếu trước đau khổ của người khác, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương, chạnh lòng, thì với đau khổ của mình, Ngài đã yên lặng chấp nhận. Trong suốt cuộc tử nạn, có ai đã nghe được tiếng Ngài than thân trách phận, ngoài lời cầu xin thống thiết với Chúa Cha ở vườn Cây Dầu và trên Thánh Giá: “Lậy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này cho con” (Mt 26,39), “Lậy Cha, sao cha nỡ bỏ con?” (Mt 27, 46 ). Đức Giêsu đã yên lặng trước toà án, yên lặng vác Thánh Giá trên đường đến nơi hành quyết, yên lặng để bị lột trần truồng, yên lặng nằm cho lý hình đóng đinh, yên lặng chịu treo trên Thánh Giá, và yên lặng trút hơi thở trong niềm tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa Cha.

Qủa thực, Đức Giêsu đã không mồm loa mép giải tố cáo người này, lật tẩy người kia khi bị ức hiếp, hàm oan, cũng không lên án, nguyền rủa những người nguyền rủa, lên án mình, càng không trách móc Thiên Chúa đã để đau khổ hoành hành trong thế giới. Thái độ yên lặng ấy phát xuất từ ý thức đau khổ là mầu nhiệm sinh ơn cứu rỗi, và thái độ chấp nhận đau khổ là kết qủa của tinh thần vâng phục Thánh Ý mầu nhiệm của Chúa Cha. Vì biết mình đến để hiến mạng sống cho nhân loại được sống, Đức Giêsu đã hiểu Thánh Giá mang một giá trị cứu độ, và đau khổ là cái giá Ngài phải trả để mọi người được tha tội.

Như Đức Giêsu trước khổ đau của người khác đã yên lặng cảm thương, chúng ta cũng không thể làm khác những gì Chúa đã làm, bởi trước đau khổ của anh em, tất cả những lời hoa mỹ, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ đắc nhân tâm đều vô hiệu, và chỉ còn ngôn ngữ của trái tim, ngôn từ của đồng cảm, chữ nghiã của sẻ chia được biểu hiện bằng yên lặng mới có thể làm nhẹ nỗi đau, làm tan tủi nhục, và cất bỏ gánh ưu phiền nặng trĩu trong tâm can người anh em bất hạnh. Chính yên lặng cảm thương mới giúp cả ta cả người đi sâu vào mầu nhiệm đau khổ như nguồn ơn đổi mới, trở về, cứu sống. Và cũng như Đức Giêsu đã yên lặng đón nhận khổ đau của chính mình, chúng ta cũng phải với Ngài cam chịu đau khổ trong yên lặng để nhận ra mầu nhiệm cứu độ trong chính đau khổ mình chịu.

Yên lặng cảm thương người đau khổ, yên lặng đón nhận đau khổ không phải thái độ hèn nhát đầu hàng đau khổ, nhưng là thái độ của người vượt qua đau khổ vì nhìn thấy ở đau khổ Thánh Giá của Đức Giêsu với giá trị của mầu nhiệm cứu độ. Họ yên lặng vì được hiệp thông với đau khổ của Con Thiên Chúa và xác tín Thánh Giá của đời họ được tháp nhập vào Thánh Giá Cứu Độ của Thiên Chúa làm người, để rồi đau khổ được tháp nhập vào cây Thánh Giá nguồn Sống, Tình yêu và Hy Vọng ấy sẽ sinh hoa trái là Hạnh Phúc đời đời trong Nước Chúa.

Tóm lại, đau khổ của người khác hay đau khổ của chính ta đều mang giá trị cứu độ, khi hiệp thông với đau khổ của Đức Giêsu, cũng như Thánh Giá của anh em cũng như của ta đều mang lại ơn cứu độ cho ta và mọi người, nếu các Thánh Giá to nhỏ đó được đặt trong Thánh Giá nguồn ơn Cứu Độ của Đức Giêsu.

Xin Chúa cho chúng con xác tín mầu nhiệm của đau khổ, và giá trị cứu độ của Thánh Giá, để chúng con hiểu rằng có những hiểu lầm, vô ơn, kể cả hình phạt chúng con phải chịu cách bất công, sẽ trở nên ơn phúc cho chúng con và anh em chúng con, trong mầu nhiệm Thánh Giá của Chúa; có những oan sai, vu khống chúng con bị người đời áp đặt lại là ơn bình an cho người khác và cho chúng con; có những vô ơn, phản bội hằng ngày chúng con phải gánh chịu do chính những người chúng con yêu thương, đùm bọc lại cần thiết cho hạnh phúc của nhiều người, trong đó luôn có chúng con.

Và trong mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu, xin cho Thánh Giá chúng con mang vác, kéo lê mỗi ngày được trở nên ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, đặc biệt những người chúng con thương mến, thân quen, nhất là những người chúng con có bổn phận thảo hiếu, đền ơn, đáp nghiã.

-------------------------------

 

Suy Niệm 33. Yêu cho đến cùng


--Bông hồng nhỏ

Gần đến ngày lễ Suy tôn Thánh Giá, lòng tôi được Chúa mời gọi cách tha thiết và mãnh liệt hơn chiêm ngắm tình yêu của Chúa trên Thánh Giá. Khi nhìn ngắm Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá, tôi gẫm suy về tình yêu dâng hiến đến tận cùng của Ngài. Và rồi tôi được mời gọi bước theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh như lời mời gọi trong Hiến luật của Hội Dòng: “yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh giá và yêu Thánh Giá của Người cùng sẵn lòng đón nhận thập giá của bản thân” (x.HC 5).

Thánh Giá là dấu chỉ của người Kitô hữu, là biểu tượng của Kitô giáo. Khi làm dấu Thánh Giá, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Đi ngang qua một vùng đất lạ, nhìn thấy Thánh Giá trên các ngôi mộ, hay trên tháp nhà thờ, tôi vui mừng vì những con người ở đây đã được nhận biết Chúa. Tôi bước vào đời đã được làm con của Chúa. Thánh Giá vị Linh mục thánh thiện đã ghi trên trán tôi ngày tôi được rửa tội, là dấu ấn tình yêu Thiên Chúa ghi dấu trên cuộc đời tôi. Kể từ đó, cuộc đời của tôi luôn gắn liền với Thánh Giá Chúa Giêsu-Kitô.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa Cha đã biểu lộ tình thương vô biên của Người như thế đó. Chúa Con khi xuống thế làm người, Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x.Pl 2,8). Vì lẽ đó, Thánh Giá trở nên dấu chứng tình yêu lớn nhất mà Chúa Giêsu-Kitô đã dành cho Chúa Cha và nhân loại. Còn tôi, kẻ được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, tôi sẽ làm gì để đáp lại tình yêu cao vời của Thiên Chúa?

Điều đầu tiên là tôi phải “tin vào Con của Người”, nghĩa là tôi sẵn lòng đón nhận tất cả mọi điều đến từ Thiên Chúa và Giáo hội của Người. Mỗi ngày tôi vẫn đến với Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để gặp gỡ và ở lại trong Người, để qua Người tôi được biết Chúa Cha là Đấng luôn thương xót tôi. Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng, tôi tin và sống niềm tin của mình. Thánh Giacôbê Tông đồ đã quả quyết: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi yêu ai, người ta sẽ tin vào người ấy và đón nhận tất cả những gì đến từ người mình yêu. Tôi yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá là khi tôi dám đón nhận thập giá mình mỗi ngày. Hai điều này không tách rời nhau. Chẳng phải Chúa Giê-su cũng dạy rằng: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34b). Đứng trước một khó khăn, thách đố, theo lý trí tự nhiên, tôi sẽ chạy trốn. Khi phải từ bỏ ý riêng, phải đối diện với giới hạn của bản thân, tôi dễ bị rơi vào tình trạng cố chấp, xem mình luôn đúng, phủ nhận những giới hạn của mình, tự ru ngủ mình bằng sự bình an giả tạo. Chính lúc ấy, Chúa mời gọi tôi nhìn thẳng vào sự thật, hạ mình khiêm nhường để biết lắng nghe và đón nhận người khác với thái độ tôn trọng, và có trách nhiệm với chính mình. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã sống con đường nhỏ của mình, để cho Chúa Giê-su dẫn dắt như trẻ thơ. Tôi cũng được Chúa mời gọi đi trên con đường đó để biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa.

Điều thứ hai, đối với tôi, muốn theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh, tôi phải “yêu cho đến cùng”. Tình yêu đích thực có khả năng làm cho người ta vượt ra khỏi chính mình, vượt qua khỏi mọi nghịch cảnh để yêu cho đến cùng tận. Nếu tình yêu của tôi không đủ chân thành, không nồng nàn mãnh liệt, tôi sẽ sớm bỏ cuộc. Trong tình yêu, tôi học được sự kiên nhẫn. Nhìn ngắm Chúa Giê-su trên Thánh Giá, tôi tự hỏi: Vì đâu Con Thiên Chúa lại có thể tự nguyện buông mình cho loài người, chấp nhận một bản án bất công, để rồi chết trên cây thập giá? Trên Thánh Giá, Con Thiên Chúa đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (x.Pl 2,7). Tất cả chỉ vì một chữ “yêu”. Yêu cho đến cùng là sẵn lòng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, là chấp nhận từ bỏ chính mình, là hoàn toàn phó thác đời mình cho Chúa, là “để Chúa làm tất cả những gì Chúa muốn nơi tôi”.

Tôi có thể không thích Thánh Giá, vì Thánh Giá không mang lại cho tôi sự hưng phấn, sự hài lòng tức thời, nhưng vượt xa hơn thế, tôi sẵn lòng yêu Thánh Giá. Bởi chỉ khi yêu Thánh Giá, tôi mới có khả năng cảm thông, tha thứ, đón nhận người khác, dù họ là kẻ thù nghịch với tôi. Trong thing lặng của nội tâm và trong cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn tôi, giúp tôi yêu cho đến cùng như Chúa Giê-su.

-------------------------------

 

Suy Niệm 34. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng


--Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở Nghĩa Trang, trên nấm mộ…; Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá…; người ta cũng đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay…

Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.
Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc…

Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.

Tại sao vậy? Thưa, Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ.

Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.

1. Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa

Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.

Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “…vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).

Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31, 3); và: “Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung” (Tv 89, 34).

Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên “mới mẻ và sống động“.

Vì thế, đây là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.

2. Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ

Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.

Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Aicập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21, 8).

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14 – 15).

Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu độ, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.

Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.

Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.

Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá […]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1,18-25).

3. Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha

Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 13,3-35). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù (x. Lc 6, 27-35). Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13).
Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá. Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 35. Sùng kính hay là vác thập giá


Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.

Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?

Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:

- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.

Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:

- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:

- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.

Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?

Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.

Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.

Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.

Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.

-------------------------------

 

Suy Niệm 36. Thập Giá, con đường về trời


Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?

Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.

Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.

Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.

Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.

-------------------------------

 

Suy Niệm 37. Thập Giá và cuộc sống


Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?

Chúng ta thường thấy: nơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.

Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?

Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.

Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.

Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:

Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:

- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.

Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.

Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:

- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.

Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:

- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.

Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.

Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.

Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.

Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.

Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:

- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.

Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.

Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.

-------------------------------

 

Suy Niệm 38. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất


Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.

Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".

Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta.

Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".

Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu".

Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...

Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.

-------------------------------

 

Suy Niệm 39. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một


Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.

Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:

Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.

Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 40. Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.


Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực.

Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.

Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.

Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.

Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.

Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.

Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.

Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

-------------------------------

 

Suy Niệm 41. Con Người cũng phải bị treo lên


http://dongthanhthe.net/suy-niem-truoc-thanh-the-tin-mung-le-suy-ton-thanh-gia.html

Thập giá đã từng là hình phạt, là thứ khổ hình dành cho các nô lệ hay tử tội nguy hiểm. Hình phạt Thập giá không những đem đến một cái chết thảm khốc cho tử tội, mà còn là một sự hổ thẹn và nhục nhã nhất cho người bị kết án. Thế nhưng, Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Trời hằng sống đã chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá. Thập Giá giờ đây không còn là một sự nhục nhã nữa, nhưng trở thành một phương thế cứu chuộc con người cách hữu hiệu, trở thành một đòi buộc cho những ai muốn bước vào cõi sống vinh quang theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Thập giá giờ đây trở thành vinh quang và niềm tự hào cho những người Kitô hữu đích thật.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cho chúng ta thấy Thập giá không phải là một đau khổ hay nhục nhã mà là vinh quang của Thiên Chúa đã đến. Khi nói đến Thập Giá, Thánh Gioan luôn gợi lên sự vinh quang của Đức Giêsu chiến thắng. “Khi nào các ông giương cao Con Người lên” (Ga 8, 28) đã ám chỉ việc tôn vinh Đức Giêsu trên trời. Gỗ

Thánh giá và cây Thánh giá trở thành cây sự sống (x. Kh 22, 2.14). Mỗi khi chiêm ngắm thập giá Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra rằng: Thập giá là phương thế cứu độ tuyệt vời cho con người. Thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện vì yêu thương cho con người. Thập giá phải trở thành niềm tự hào của những người tín hữu đích thực của Đức Kitô. Thập giá là chìa khóa mở cửa Thiên đàng cho những ai trung thành bước theo Đức Kitô trên con đường tiến về Quê trời.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương. Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 42. Nhìn lên Thánh Giá, bạn thấy gì?


--Anna Điểm Mười

Một buổi chiều nọ, sau khi tôi và một người bạn cùng ngồi cầu nguyện dưới tượng Đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng- Đinh, bạn tôi hỏi tôi rằng: “Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?”. Vào ngày lễ Suy tôn Thánh Giá hôm nay, câu hỏi ý nghĩ ấy lại một lần nữa vang vọng trong tôi.

Với mắt phàm, nhìn lên thập giá tôi thấy một Giêsu thân trần trụi chịu chết tức tưởi. Trước kia còn nhỏ, tôi chẳng hiểu được vì sao người ta lại đóng đinh một con người trên cây thập tự ấy. Sau này tôi mới hiểu, thập tự giá là dụng cụ thời đế quốc Rôma dùng để thi hành án tử hình đối với những tử tội. Đối với họ hay đối với nhiều người thì cây thập giá ấy là biểu tượng của đau khổ, ô nhục, sợ hãi và chết chóc. Nhưng tôi biết rằng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa đó, từ khi Đức Giêsu Kitô hiến thân mình trên đó, thập tự giá đã trở thành “Thánh giá”. Như vậy, Thánh giá trở nên biểu tượng tuyệt vời của hy vọng và tình yêu, của vâng phục và tự hiến, của sự sống và vinh quang.

Khi chiêm ngắm Dức Giêsu Chịu-Đóng-Đinh với cái nhìn đức tin như vậy, tôi hiểu Thánh giá chính là hiến tế của Đức Giêsu với tình yêu lớn nhất dành cho Chúa Cha và nhân loại. Đó cũng là biểu tượng ơn cứu độ mà Chúa đã hoàn thành trên thập tự giá vì nhân loại. Ngắm nhìn Thánh giá, tôi thấy một Đức Giêsu Kitô khiêm nhường thẳm sâu, đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa, chấp nhận sống kiếp phàm nhân và vâng phục Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chiêm ngắm Chúa chịu chết đang khi dang rộng cánh tay như thể Ngài muốn ôm trọn tôi và hết mọi người vào trái tim đầy yêu thương của Ngài. Ngài đã chịu chết như thế để nêu gương cho tôi, Ngài mời gọi tôi yêu thương đến quên mình cho tha nhân. Thánh giá cũng mời gọi tôi can đảm chịu những hy sinh, yêu mến thập giá trong đời với tình yêu dành cho đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng-Đinh, đối tượng tôi đang bước theo trong ơn gọi Mến Thánh Giá. Đó cũng là lời mời gọi tôi sống tâm tình biết ơn bằng đời sống khiêm nhường, dấn thân vì Nước Trời giữa cuộc sống hôm nay. Sau cùng, Thánh giá nói cho tôi biết một chân lý qua lời của Thánh Phaolô rằng: “Vì chúng ta đã được nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta sẽ nên một với Người nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6, 3-5). Điều này nhắc nhở tôi, Chúa Kitô Phục Sinh đang sống trong tôi, Ngài đã chết, đã sống lại thì đến lượt tôi cũng phải chết đi cho tội lỗi để được sống lại như Ngài.

“Nhìn lên thập giá bạn thấy gì?” Đó cũng là câu hỏi tôi muốn nhắn gửi đến bạn trong ngày lễ Suy tôn Thánh giá hôm nay. Ước mong sao với câu hỏi này tôi và bạn lại có được một cơ hội để suy tư về mầu nhiệm Thánh giá Chúa, mầu nhiệm tình yêu cao vời Chúa đã dành cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện chịu chết trên cây thập giá xưa để đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, chúng con xin hết lòng tri ân, cảm tạ Chúa. Chúng con xin Chúa giúp chúng con biết sống theo gương Chúa, biết sống yêu thương, quên mình cho tha nhân để tình yêu Chúa được lan rộng cho mọi người chúng con gặp gỡ, phục vụ và trên toàn thế giới. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 43. Thập Giá trở thành Thánh Giá


--Anna Cỏ may

Đứng giữa vườn hoa đua nở, ánh mắt tôi sáng lên, gương mặt rạng ngời. Lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng và tràn đầy sức sống. Khi đứng trước một thân cây không còn cành lá và được đóng thành hình thập giá, nơi đó, có một người đang bị đóng đinh trông thật kinh hoàng, lòng tôi run sợ và muốn bỏ chạy thật nhanh. Nhưng càng chiếm ngắm cây thánh giá trong thinh lặng, lòng tôi bừng lên một sự bình an, một sức sống dồi dào và một tình yêu bao la dành cho Con Người đang chịu đóng đinh. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu.

Đối với người Do thái xưa, cây thập giá là cây dành cho những tù nhân vác đi đến nơi họ phải đến. Chúa Giêsu là người đã bị các Thượng tế và các Kinh sư kết án và nhận lấy một cây thập giá. Ngài vác thập giá trên vai, bước đi lên đồi Canvê đang khi thân xác đã bị nhừ đòn. Thập giá đã nặng lại còn nặng hơn bởi những lời nguyền rủa, xỉ vả của những kẻ ghét Ngài. Ngài đã vác thập giá đi đến cùng mà không một lời oán trách. Ngài dâng thập giá ấy lên Chúa Cha và nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm” (Lc 23,34). Nhờ sự thánh hiến ấy mà cây thập giá trở thành cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Để những ai đang phải vác thập giá của mình mà nhìn lên Ngài, cùng tin yêu và phó thác vào Ngài, họ sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,15).

Nhìn lại những thập giá trong đời mình, tôi nhận thấy thập giá của mình rất nhiều, nó luôn ở xung quanh tôi và ở ngay trong tôi. Thập giá đến từ những nhu cầu của cuộc sống, đó là thập giá của sự ham muốn thái quá, những đam mê khiến tôi phải giằng co và nhiều thứ khác nữa. Thập giá mà tôi nhận thấy nơi mình rất nguy hiểm là loại thập giá do tôi tạo ra và loại thập giá ẩn sâu trong vỏ bọc thành công, tài năng và những tiện nghi. Loại thập giá do tôi tạo ra xuất phát từ việc bắt chước người khác. Mọi người mua cái gì tôi cũng mua cái đó trong khi nó không phải là nhu cầu cần thiết của tôi. Còn thập giá ẩn sâu lôi kéo tôi đến sự kiêu ngạo mà tôi không hay biết. Nhưng khi tôi biết dùng những thập giá đó vào việc chia sẻ, phục vụ cho mọi người và sống một tinh thần khổ chế, tôi sẽ không còn vác thập giá một mình mà cùng Chúa Giêsu vác thánh giá đi đến cùng trên con đường Chúa muốn tôi đi. Theo kinh nghiệm của Đức Cha Lambert de la Motte- Đấng Sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá: đời sống khổ chế là một đời sống biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với thánh giá Con Thiên Chúa (x. ltt II,1). Vì vậy, tôi càng xác tín rằng, thập giá là nấc thang đưa tôi lên Nước Trời. Nếu tôi biết dâng những thập giá đó lên Chúa  Giêsu, để Ngài thánh hóa, thập giá của tôi sẽ thành thánh giá vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, con chẳng say mê thánh giá và thường trốn chạy đau khổ. Nhưng từ khi đáp lại tiếng Ngài mời gọi, con đã bước vào Hội dòng Mến Thánh Giá Thủ Đức và sống theo linh đạo: chọn Đức Giêsu- Kitô Chịu- Đóng- Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con, con mới khám phá ra sự tuyệt hảo khi vác thập giá đi theo Chúa là thế nào. Xin Chúa giúp con luôn trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày và biết vác đỡ thập giá cho mọi người xung quanh. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 44. Con Người phải bị treo lên


--Lm. Micae Võ Thành Nhân

Điều quý giá nhất của Chúa Cha mà không có gì thay thế và sánh ví được, đó chính là Chúa Giêsu, Con Một của Chúa Cha, Con chí ái, đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17) , vậy mà Chúa Cha đã ban cho xuống cho con người chúng ta. Điều này chứng tỏ Chúa Cha yêu thương con người chúng ta quá bội. Ngôn ngữ trần gian này không thể nào diễn tả hết tình yêu ấy được: “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người” (Ga 3, 16a).

Chúa Giêsu đến trần gian, điều quý nhất của Chúa là mạng sống của Chúa. Mỗi người trong chúng ta sống ở trần gian này, chỉ có một lần để sinh ra và cũng chỉ có một lần chết đi chứ không có lần thứ hai: “Mọi vật hiện hữu ở trần gian này có một thời sinh ra, nhưng cũng có một thời để chết đi” (Gv 3, 11), mà Chúa cũng ban cho chúng ta bằng cách Chúa chết trên thập giá để cứu chúng ta: “Cũng như Môsê đã treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14).

Quả thật, Chúa vâng lời Chúa Cha đến trần gian để cứu chúng ta chứ không phải để luận phạt chúng ta: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 33, 11). Như vậy, để được cứu độ, không gì khác hơn là chúng ta phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa là Đấng từ trời xuống ở với chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi, để rồi qua đó, dẫn chúng ta về với Chúa Cha một cách chắc chắn nhất, bảo đảm nhất. Tin vào Chúa thì chúng ta không phải hư mất nhưng được sống đời đời.

Thế nhưng, tin vào Chúa thì phải hành động, phải sống đức tin hàng ngày như là tham dự các lễ nghi phụng tự của Giáo Hội, xa lánh các tội lỗi, sống bác ái yêu thương giúp đỡ mọi người, hy sinh vác thập giá theo Chúa mỗi ngày, tức là chấp nhận những gian nan, thử thách, cơ cực, khổ đau, bệnh tật, thất bại… trong cuộc sống, và tích cực loan báo Tin Mừng Nước Chúa cho các người anh chị em của chúng ta: “Anh em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin như thế có thể cứu được nó không? Nếu có anh em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em bảo họ rằng: Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người sẽ nói: Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm. Anh hãy tỏ cho chúng tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi” (Gc 2, 14 – 18).

Lạy Chúa, ngày hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa. Thánh Giá Chúa là tiếng nói hùng hồn nhất, mạnh mẽ nhất, tha thiết nhất rằng là Chúa yêu chúng con, Chúa yêu đến chết để cứu chúng con. Xin cho chúng con mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng con thấy tội lỗi chúng con quá độc ác, nặng nề và nhất là thấy tình yêu Chúa thật lớn lao đối với chúng con để chúng con biết sửa mình mà sống theo ý Chúa mỗi ngày tốt hơn. Xin cho chúng con biết vác thập giá theo Chúa hàng ngày để chúng con khỏi bị hư mất mà được sống đời đời với Chúa sau này. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây